Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Luận về Thiên Khốc-Thiên Hư

Thiên Khốc Thiên Hư là hai cặp đối tinh (đi cặp), đứng đồng cung ở Tí Ngọ, còn ở các cung khác thì theo giáp, hiệp. Khốc chủ về thương tâm nhỏ nước mắt nếu ở cung lục thân: anh em, bố mẹ, con cái. vợ chồng. Khốc chủ về tổn thất khi nó đóng ở các cung Điền, Tài. Khốc chủ về tâm trạng bi quan khi nó đóng cung Phúc Đức.
Luận về Thiên Khốc-Thiên Hư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Tử Vi bên Trung Quốc luận Khốc Hư rất đơn giản hầu như không có gì. Trong khi các sách Tử Vi ở Nhật ở Việt Nam thì Khốc Hư lại gây nhiều ảnh hưởng khác biệt.


Khốc Hư cũng có miếu hãm. Khốc Hư miếu ở Tí Ngọ. Hư chủ về hư hao. Hư vào Mệnh không giữ được nghiệp nhà. Hư vào Tật Ách vì bệnh tật mà nghèo. Hư vào Phụ Mẫu thất lạc hoặc khuyết cha mẹ. Nói tóm lại là Hư với Khốc theo các lý thuyết gia Trung Quốc không đem lợi lộc gì hết. Không phải vậy. Khốc Hư có những tác dụng tốt của nó nên mới phân chia miếu hãm như các sao khác


Có câu phú: Tí Ngọ Khốc Hư tịnh thủ nhất thế xưng hùng nghĩa là Mệnh ở Tí hay Ngọ có Khốc Hư anh hùng xuất thế. Khốc Hư Tí Ngọ cần gặp Hóa Quyền mới khả dĩ xuất thế xưng hùng. Khốc Hư Tí Ngọ lời nói đanh thép có uy, chí phấn đấu cao, nhưng lúc trẻ thăng trầm bôn ba. Cho nên mới thêm câu: Khốc Hư Tí Ngọ tiền bần hậu phú.


Khốc Hư ưa đứng với các hung tinh như Phá Quân, Thất Sát. Khốc Hư gặp Thiên Hình vào võ cách hợp, thêm Thiên Mã càng hay như vậy là Khốc Hư Dần Tuất hoặc Thân Thìn.


Khốc Hư gặp Lộc Tồn Hóa Lộc làm giàu mau (khác với chữ hư theo cái nghĩa hư hao). Khốc Hư Dần Thân được sao Đà La làm chính trị gan góc và có tài.


Khốc Hư rất kị gặp sao Thiên Cơ đưa con người tới căn bệnh khó chữa, ở Mệnh còn nặng hơn ở Tật Ách. Khốc Hư gặp Khoa Quyền thường nổi danh trong lĩnh vực mình theo đuổi. Khốc Hư vào cung Tử Tức khó về đường con cái.


Khốc Hư lại gặp Dưỡng thần

Sinh nhiều nuôi ít gian truân xiết nào

Dưới đây là những câu phú về hai sao Khốc Hư:


- Nữ Mệnh Thiên Khốc Thiên Hư táo bạo

- Khốc Khách Kiếp Phù mạc ngộ Cự Kình chung thân đa lệ
(Mệnh có Kiếp Sát, Bệnh Phù, Thiên Khốc, Điếu Khách lại gặp Cự Môn, Kình Dương hội tụ suốt đời phiền muộn vì những tang thương)

- Khốc Hư phùng Tang Hỏa phối cung, phu cung lưỡng mục bất minh
(Trong cung phu thê có Khốc Hư gặp Tang Môn Hỏa Tinh, vợ chồng có tật nguyền nơi mắt)

- Khốc Hư cư Tí Ngọ vì
Quan cung ra dấy thiếng thì gần xa

- Khốc Kình Hình Hổ tử cung
Tới già chưa thấy tay bồng con thơ

- Khốc Hư Tang Mã chẳng lành
Hại người hại của dễ sinh lo lường

- Khốc Hư gặp Cơ chẳng màng
Bệnh kia hãy phải lo toan lấy mình

- Đẹp thay Tả Hữu một phường
Khốc Hư quanh mắt thường thường tròn thâm
(Người có Khốc Hư ở Mệnh thường thấy túi mắt rất rõ)

- Đẩu gặp Tồn khá tiền tài
Khốc Hư lạc hãm miệt mài gian truân

- Khốc Hư Tí Ngọ đồng bài
Tiền bần hậu phú chớ sai lẽ bàn
- Phá Quân duyên nợ ít toàn
Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang

- Đồng Nguyệt Tí gái hoa dung
Gặp Tang Riêu Khốc khóc chồng có phen
(Nữ Mệnh Đồng Âm tại Tí nhan sắc, nhưng bị Tang Riêu Khốc thì duyên tình dở dang)

- Kình Dương mà gặp Thiên Hư
Hữu sinh vô dưỡng âu lo một đời
(Khốc Hư với Kình Dương ở cung Tử tức)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Thiên Khốc-Thiên Hư

Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

Một bài sưu tầm các chia sẻ của cụ Hà Uyên trên các diễn đàn. Mời các bạn quan tâm cùng đọc.
Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số

Mạn đàm về TV ĐS Phi Tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm

Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."

Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"

Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:

- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?

- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?

Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"

Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần

===================

Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)

Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:

- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục

- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục

Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:

- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,

- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục

Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)

....

Sách Phi tinh viết:

Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.

Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?

Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?

==============

Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)

NAM ĐẨU

- Thiên phủ là sao thứ nhất

- Thiên lương là sao thứ hai

- Thiên cơ là sao thứ ba

- Thiên đồng là sao thứ tư

- Thiên tướng là sao thứ năm

- Thất sát là sao thứ sáu

BẮC ĐẨU

- Tham lang là sao thứ nhất

- Cự môn là sao thứ hai

- Lộc tồn là sao thứ ba

- Vũ khúc là sao thứ tư

- Liêm trinh là sao thứ năm

- Vũ khúc là sao thứ sáu

- Phá quân là sao thứ bảy

Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?

....

Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:

Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?

Nên xét tới đối cungxung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,

Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)

....

Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:

Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số

Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!

Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.

Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)

Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)

Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)

....

Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:

Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?

Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?

Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"

Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần

Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.

Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)

Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...

Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...

Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời

Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi

....

Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:

Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.

Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).

Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.

Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim

- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc

- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc

- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.

Lại thêm dụ ý:

Thiên địa khai minh

Thủy Thân Mộc Hợi

Sơn Trạch thông khí

Mộc Dần Kim Dậu

....

Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:

Kính thưa cụ.

Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?

Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?

Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc

- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh

- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách

- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di

Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?

Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,

Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi

....

Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...

Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!

Lại nói:

Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...

Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?

Nay,

Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!

==========

Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích

....

Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:

Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?

Mong cụ chỉ dạy.

Cảm ơn cụ

- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.

- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc

Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.

Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.

Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.

....

@ Gloria:

Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?

- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi

- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu

- Thái tuế là Tân Dậu

....

Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)

- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài

- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài

- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài

===============

- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn

...,...,...,

- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ

- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.

....

Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"

Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)

Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00

....

saobienden:

Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé

- Giáp Kỷ tác Hỏa

- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất

- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh

- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ

- Ất Canh tác Kim

- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân

- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý

- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh

- Bính Tân tác Thổ

- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh

- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ

- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính

- Đinh Nhâm tác Thủy

- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý

- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất

- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm

- Mậu Quý tác Mộc

- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ

- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân

- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu

....

Khi phán đoán mệnh người,

Trước hết xem phát truyền.

Khí vượng khi phát dụng,

Sẽ lợi việc cầu Quan

Khí tướng khi phát dụng,

Sẽ lợi việc cầu tài

Khí hưu khi phát dụng,

Thường bệnh tật liên miên.

Khí tù khi phát dụng

Bệnh tật chẳng bỏ qua.

Vương tướng khi phát dụng,

Sự việc thường ứng nghiệm

Một truyền hưu tử tới

Việc mờ mịt chẳng thông

Cục ý nghĩa tiến lùi

Khí đặc thù vượng tuyệt

Suy mộ coi như thoái

Thai sinh tiến chẳng lo

Thoái khí việc càng hung

Tiến khí an càng an

Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật

(Nguồn: sưu tầm)

NHẤT DIỆP TRI THU PHÁI - ĐĂNG HẠ THUẬT- PHAN TỬ NGƯ

lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:

SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:

- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao

- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê

- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung

- Phu thê hóa kị nhập quan cung

- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng

- điền kị nhập bệnh

Ví dụ câu:

+ Phu thê hóa kị nhập quan cung

- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,

- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan

- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng

Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm

...

@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:

- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.

- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu

Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.

Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!

...

lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:

em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ :13

@ LeThanhNhi:

Về quẻ này, thì Trung Châu pháiTri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái

- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can KỷThiên phủ với can Mậu

- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng

Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!

...

Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>

".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!

Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:

1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..

2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.

3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)

4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:

- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.

- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...

Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:

1. Bát tự giờ sinh không đúng.

2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.

3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.

4. Việc tiên cơ khó đoán.

Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.

Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.

Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.

CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU

PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!

Ưu Nhược điểm chính tinh

Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học

Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:

- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.

- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình

- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác

- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh

An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui

...

Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.

...

AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:

Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:

Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?

Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?

Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm

- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?

- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?

- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...

...

Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?

Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!

Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"

...

QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:

Thưa cụ Hà Uyên,

Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.

Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.

Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.

Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:

... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,

Cảm ơn anh QuachNgocBoi

Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác

Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.

...

AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:

Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,

Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!

Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến

...

banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:

@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy

Kính Cụ!

Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau

Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:

- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)

- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)

- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)

- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)

- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)

- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)

- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)

- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)

Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui

...

AlexPhong:

Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.

Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.

Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.

Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.

Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?

Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.

Nhất Diệp Tri Thu Phái

Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.

Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.

Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu

...

Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó

- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20

- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25

- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)

...

@An Khoa:

- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh

Ví dụ:

- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân

- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.

Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.

...

NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:

Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?

Nội cục là chính cục của Mệnh

Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.

...

NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:

Kính thưa cụ Hà Uyên

Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.

Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?

Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.

Kính cụ.

NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2

Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục

...

Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”

Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”

Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.

Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.

Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.

Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”

Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.

...

AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:

Gửi cụ HaUyen,

"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?

Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.

Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!

...

NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:

Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.

Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?

Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.

Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.

Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.

    ...

    NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:

    Kính thưa cụ Hà Uyên

    Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.

    1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?

    2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.

    3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?

    4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.

    Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai

    Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.

    Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.

    Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cụcsố hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.

    Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy

    ...

    NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:

    Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???

    Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn

    Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.

    Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.

    ...

    Durobi chia sẻ bài dịch:

    Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?

    Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.

    Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)

    Nữ mệnh :

    1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.

    2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.

    3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.

    4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.

    5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.

    6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.

    7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.

    8. Cung Phu thê Thiên Tướng.

    9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.

    10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).

    11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.

    12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.

    13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.

    14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.

    15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.

    16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.

    17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.

    18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.

    19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.

    20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.

    21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.

    22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.

    Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn

    Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.

    - Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:

    (1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.

    (2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.

    (3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.

    - Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.

    - Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:

    (1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.

    (2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.

    (3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.

    - Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.

    - Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.

    - Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.

    - Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.

    - Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.

    - Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.

    - Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.

    - Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.

    - Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.

    - Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.

    - Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.

    - Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.

    - Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.

    - Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.

    - Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.

    - Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.

    - Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.

    - Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.

    - Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.

    - Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.

    - Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.

    - Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.

    - Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.

    (Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)

    Mối quan hệ Tử Vi và Tử Bình

    Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.

    ...

    Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.

    Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.

    Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?

    Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.

    ...

    thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:

    cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?

    Chào thieukim

    Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.

    Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.

    Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ

    Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.

    Cơ Sở Nào để Lập Cục Môn Tử Vi?

    Xin chào anh chị em.

    Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:

    - Hoả Lục cục

    - Thổ ngũ cục.

    - Kim tứ cục

    - Mộc tam cục.

    - Thủy nhị cục.

    Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?

    Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

    ...

    Gửi Minh An.

    Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.

    Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.

    - Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270

    - Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.

    - Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.

    ...

    "Thân giảm" có câu:

    Dương cực tắc kháng,

    Âm cực tắc ngưng,

    Kháng tắc hữu hối,

    Ngưng tắc hữu hung.

    Dương cực thì kháng,

    Âm cực thì ngưng,

    Kháng thì hối hận,

    Ngưng thì hung hiểm.

    Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.

    Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.

    Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.

    Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.

    ...

    Vâng, anh Thiên Sứ.

    Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.

    Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:

    Từ Nguyên lý:

    - Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.

    - Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.

    - Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.

    Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)

    Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục

    Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.

    Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.

    Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.

    Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.

    Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.

    ...

    Chào Minh An.

    Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?

    Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:

    - Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục

    - Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục

    - Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục

    - Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.

    - Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục

    Anh chị em cùng Minh An bình giải.

    ...

    Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?

    Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?

    - Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.

    - Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.

    - Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.

    - Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.

    Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?

    (Nguồn: Sưu tầm)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Sưu tập các bài viết của tác giả Hà Uyên

    Đặc tính Kim trong phong thủy –

    Kim là 'Tòng cách”. Tòng giả là tòng thuận, phục tùng; cách giả là biến cách, cải cách. Cải cách, biến cách thi hành cần uy lực, chính vì vậy Kim có 2 đặc tính cương và nhu, kéo dài, biến cách, hư sát, Kim chú là Nghĩa. Người sinh ra trong Tứ trụ có

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Kim là ‘Tòng cách”. Tòng giả là tòng thuận, phục tùng; cách giả là biến cách, cải cách. Cải cách, biến cách thi hành cần uy lực, chính vì vậy Kim có 2 đặc tính cương và nhu, kéo dài, biến cách, hư sát, Kim chú là Nghĩa.

    h4

    Người sinh ra trong Tứ trụ có hành Kim quá vượng là người mặt trắng, xương nhỏ vừa tầm, thân thể khỏe mạnh, nghĩa khí, cương nghị quyết đoán, không vì cường bạo, trọng nghĩa khinh tài ghét kẻ ác như kẻ thù, tự biết trắng đen, trọng nhân cách, rất có liêm sỉ.

    Nếu Tứ trụ có hành Kim quá nhiều, làm việc lỗ mãng, hữu dũng vô mưu, hiếu chiến tham lam, bất nhân bất nghĩa; hành Kim quá ít là người yếu đuối, thiếu quả quyết, tham dâm háo sát, hà khắc cay độc.

    Kim chủ là Nghĩa, tinh cương, nhiệt tình, vị cay, màu trắng. Người Kim vượng, xương thịt tương xứng, mặt mũi trắng trẻo, mày cao mắt sâu, thân thể khỏe mạnh, cương nghị quả quyết, trọng nghĩa khinh tài… Kim quá nhiều lại là người hữu dũng vô mưu, tham lam bất nhân. Kim mà thiếu thì cơ thể gầy nhỏ, coi thường người khác, kiệt xỉ, tham dâm háo sát, gian tham bỉ lậu.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Đặc tính Kim trong phong thủy –

    Vì sao mẹ dặn "không yêu" người tuổi Dần?

    Người tuổi Dần quá mạnh mẽ, yêu đương quá nồng nhiệt nên mẹ dặn
    Vì sao mẹ dặn "không yêu" người tuổi Dần?

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    "đừng bao giờ" yêu người tuổi Dần con nhé. 


    ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

    Bởi vì: Người tuổi Dần quá mạnh mẽ! Yêu thương quá nồng nàn! Người tuổi Dần quá khó đoán! Nên mẹ dặn con "đừng" bao giờ yêu người tuổi Dần (tuổi hổ) con nhé! Những lý do sau đây về người tuổi Dần, con phải biết trước khi yêu:
     
    Vi sao me dan khong yeu nguoi tuoi Dan hinh anh 2
    Ảnh minh họa
      1. Bởi Người tuổi Dần uy quyền và mạnh mẽ, có sức mạnh và sự quyết đoán giống như con giáp mà họ mang tên, điều đó khiến họ rất được tôn trọng, ngay cả bởi những kẻ chống đối. Con của mẹ dù cứng rắn đến đâu gặp một người như thế thì cũng rất dễ bị sinh lòng cảm phục.   2. Bởi người tuổi Dần chẳng bao giờ lùi bước trước thử thách. Nơi đâu có hiểm nguy khó vượt, Hổ sẽ lao vào. Khi người khác chùn chân, Hổ cũng vượt lên trên đương đầu. Khi không ai dám bảo vệ kẻ yếu, Hổ sẽ quả cảm, không hề e dè sợ sệt, lao vào kẻ địch. 
     
    Mang đầy tính nhân ái, Hổ, dù mạnh mẽ nhưng trái tim luôn nồng cháy, cởi mở, và chân thành. Vì thế ông bà ta xưa tin rằng có một người tuổi Dần trong nhà, gia đình bạn sẽ rất an toàn vì sẽ không xảy ra hỏa hoạn, trộm cắp vào ban đêm.
     
    3. Bởi  Người tuổi Dần thông minh, có tầm nhìn xa trông rộng, những chú Hổ học hỏi rất nhanh, có thể nắm bắt mọi thứ trong chớp mắt. Gặp người tuổi Dần con  đừng ngạc nhiên về điều đó nhé, họ sinh ra đã vậy rồi.
     
    4. Bởi Người tuổi Dần đều luôn đấu tranh cho quyền lợi của mình và những người mà họ yêu thương. Họ thích nghi nhanh và luôn là người dẫn đầu trong mọi cuộc chơi. Đó là những người thẳng thắng, trung thực, công bằng, luôn thể hiện những mặt tốt đẹp của mình với những ai quen biết họ. 
     
    5. Bởi Người tuổi Dần đầy sức thu hút, sẽ trở thành trung tâm chú ý của mọi người. Do họ sinh ra đã có tố chất không hề biết mệt mỏi nên thường hành động rất nhanh. Họ đa nghi, khó tin tưởng người khác đồng thời là một người thành thật, giàu tình cảm và khảng khái, hơn nữa còn có khiếu hài hước tuyệt vời.
     
    6. Bởi người tuổi Dần rất nhân từ, họ yêu trẻ, động vật hay những thứ có thể khơi gợi trí tưởng tượng và sự chú ý. Người này có tính tập trung cao, khi họ đã làm việc gì thì quên hết mọi thứ xung quanh, và luôn đem hết tất cả sức lực và tinh thần mà hành sự. Con  của mẹ nếu yêu phải người này đừng cảm thấy bơ vơ do sự mải mê đó nhé!
     
    7.  Khi người tuổi Dần đau buồn, Họ cần sự cảm thông thực sự. An ủi họ cần phải nhỏ nhẹ, nếu sự việc chuyển biến tốt, Họ sẽ báo đáp con gấp bội. Họ sẽ lắng nghe những lời nói đầy lí trí của con và sẽ nhớ như in từng câu từng chữ khuyên nhủ thiện ý.
     
    8. Khi gặp phải sự đả kích hay thất bại lớn đến đâu,  Người tuổi Dần cũng không bao giờ sờn lòng bỏ cuộc. Dù chỉ còn sót lại một đóm lửa nhỏ xíu, Họ cũng dùng nó để nhóm lên ngọn lửa của số phận, cái tinh thần bất diệt ấy khiến họ sống lại, trở nên đáng yêu hơn. Và có thể con cũng sẽ cảm nhận như vậy.
     
    9. Nhu cầu làm điều gì đó khác thường là động lực lớn nhất của tuổi Dần và đó là một trong những lý do vì sao lại có nhiều nhà tư tưởng, người chủ trương cải cách và nhà thám hiểm sinh vào năm Dần đến vậy. 
     
    Ở Việt Nam, nhắc đến tuổi Dần ngoài cha ra, chắc chắn con sẽ nhớ ngay tới người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác của chúng ta trở nên vĩ đại như thế và Bác là người sinh năm Dần đó con ạ.
     
    10. Tính cách của người tuổi Dần rất khó dự đoán, vì vậy con đừng bao giờ đánh giá thấp phản ứng của họ. Bề ngoài có thể tỏ ra điềm tĩnh, con giáp này sẽ trổ tài vồ mồi bất cứ lúc nào. 
     
    Sinh ra làm người lãnh đạo, họ nhận thức sâu sắc về phẩm giá của mình. Là những diễn giả tuyệt vời, họ có khả năng chỉ huy và thuyết phục đám đông qua các bài phát biểu. Người sinh năm Dần thường trở thành những anh hùng, cứu vớt nạn nhân khỏi tai nạn hoặc thảm họa trong khi những kẻ khác run rẩy đứng ngoài. 
     
    11.  Người tuổi Dần thích những công việc cho phép phát huy tính độc lập và không chịu để người khác lãnh đạo. Thông thường, họ sẽ tiến lên vị trí cao nhất. Đồng nghiệp và đối thủ e dè, thậm chí khiếp sợ họ. Bạn bè, người thân cảm thấy bình an vì được ở bên một người bảo trợ mạnh mẽ.
     
    12.  Người tuổi Dần có số đào hoa. Khi theo đuổi đối tượng một cách tích cực nhưng chính đối tượng đó lại là người thầm yêu trộm nhớ người tuổi Dần kia. Lời khuyên dành cho người tuổi Dần là nếu có người bày tỏ tình cảm với mình trong lúc chưa yêu ai thì tốt nhất là hãy tiếp nhận tình yêu một cách chân thành, xác định chính xác tình cảm của mình rồi hãy đồng ý hay từ chối nhé.
     
    13. Trong tình yêu,  Người tuổi Dần có sức hút rất mãnh liệt nhưng điềm tĩnh; rất nhiệt tâm nhưng lạnh lùng, rất dũng cảm khi đối đầu với nguy hiểm nhưng lại có thể mềm mỏng. Họ bí hiểm và thường tạo ra những bất ngờ đối với người mình yêu thương.Họ là những người không gò bó với ngọn lửa sáng tạo không ngừng con ạ.


    Vi sao me dan khong yeu nguoi tuoi Dan hinh anh 2
    Ảnh minh họa
    14. Tình yêu là men say đối với  Người tuổi Dần, những quyến rũ, niềm vui và sự hồi hộp trong "săn đuổi" khiến họ sung sướng. Vậy nên, những cô gái táo bạo, bí ẩn, hấp dẫn nhưng hơi kỳ lạ, thậm chí là nguy hiểm có sức cuốn hút đặc biệt với người tuổi Hổ. 
     
    15. Khi đã chọn quan hệ yêu thương,  Người tuổi HỔ có thể buông mình theo cảm xúc và yêu thương nồng nàn. Họ chỉ có thể chấp nhận nguyên tắc "tất cả hoặc là không". Người tuổi Hổ sẽ trao hiến một cách trọn vẹn, cả tâm hồn lẫn thể xác. Vì vậy, những con gái muốn có một tình yêu bay bổng, lãng mạn sẽ không bao giờ phải thất vọng về tuổi Dần.
     
    16. Bởi Nếu yêu một ai đó, người tuổi Dần thường thể hiện ngay tình yêu của mình một cách công khai và không ngần ngại dâng hiến tình yêu cho người đó. Tình yêu chân thành của họ sẽ khiến người khác không có cảm giác là họ đang cố ý thể hiện ra như vậy mà hoàn toàn tự nhiên, chất phác, xuất phát từ tình cảm thật trong nội tâm của họ.   17. Bởi Người tuổi Dần thích du lịch tới những miền xa xôi, trải nghiệm những cảm xúc mạnh và chinh phục nỗi sợ hãi trên đường đi. Không bao giờ chịu ngồi yên ở nhà, họ thích những ngày nghỉ sôi nổi ở đâu đó và sẽ trở về nhà khi đã sẵn sàng lên kế hoạch cho kỳ nghỉ tiếp theo. Bởi vậy, yêu người tuổi Dần, đời con sẽ là những chuyến hành trình đầy hấp dẫn và thú vị, con sẽ không phải tự kỷ ở nhà một mình nữa bởi Tuổi Dần là tuổi phiêu lưu, con gái hướng nội nên yêu tuổi này.   18. Người tuổi Dần nhóm máu A thường được nhiều người khác giới ngưỡng mộ, vây quanh. Vì thế, trong tình yêu họ còn có biệt danh là "kẻ phong lưu", nhiều người có ấn tượng không tốt về họ. Tuy nhiên, việc này không hoàn toàn đúng vì họ chỉ coi những người bạn khác giới như bạn bè bình thường của mình. Có thể trước mặt mọi người họ là người nhiệt tình vui vẻ nhưng với nhiều người khác giới lần đầu gặp gỡ thì họ lại rất lạnh lùng nghiêm túc. Họ luôn biết giữ khoảng cách nhất định với tất cả mọi người. Không bao giờ họ có những hành động hay cử chỉ thân mật quá mức với những người mới quen biết. Họ chỉ toàn tâm toàn ý chung tình với "một nửa" của mình cho dù có nhiều vệ tinh vây quanh.
     
    19. Người tuổi Dần nhóm máu B thường không coi trọng hình thức kết hôn. Họ cho rằng, việc hai người thực lòng yêu thương nhau và muốn gắn bó với nhau mới là điều quan trọng. Chính vì điều này nên khi tìm được "một nửa" của mình, họ rất bình tĩnh, cẩn trọng suy xét kỹ càng trước khi quyết định tiến xa hơn nữa. Vì tình yêu, họ sẵn sàng bỏ qua mọi lời khuyên của người thân hay những dư luận xã hội.    20. Những tuổi Dần nhóm máu AB thường có cách thể hiện tình cảm rất mãnh liệt. Khi đã "để mắt" một ai đó, họ sẽ tìm mọi cách thể hiện để đối phương sớm nhận ra. Họ luôn muốn được ở bên người yêu và muốn được người đó quan tâm, chú ý đến mình. Khi đứng trước đối phương, họ sẵn sàng bộc lộ cảm xúc với người đó. 
     
    21. Người tuổi Dần thuộc nhóm máu O thường bày tỏ tình cảm với người yêu của mình một cách thẳng thắn nhưng không kém phần nồng nàn, đắm say. Khi yêu, với họ thế giới như thể chỉ dành cho hai người. Khi hai người đã chính thức công khai mối quan hệ, những người này dành toàn tâm toàn ý chăm sóc thậm chí còn muốn kiểm soát "một nửa" của mình. Con đừng khó chịu khi có cảm giác bị kiểm soát nhé, bởi đó là vì họ quá yêu con mà thôi!
     
    22. Bởi  Người tuổi Dần có khả năng nâng đỡ tinh thần của những người đang chán nản hoặc cô đơn nhất mà họ gặp, vì vậy họ kết bạn mới một cách dễ dàng. Không có bạn bè là một điều vô cùng khủng khiếp đối với người tuổi Dần. Họ cảm thấy thoải mái nhất khi ở bên bạn bè và gia đình.  
     
    23. Bởi Người tuổi Dần tỏ ra đặc biệt nồng hậu với bạn bè; họ hào phóng cả về thời gian, sự quan tâm và tài chính. Bạn bè luôn được chào đón tới ngôi nhà của con giáp này,với tách trà nóng, đôi tai biết lắng nghe, chiếc khăn giấy lau khô những giọt nước mắt, tấm lòng cởi mở và chiếc ví hào phóng.
     
    24.  Người tuổi Dần, khi được làm cha, rất yêu thương con cái. Họ có thể nhảy qua lửa để bảo vệ con mình.Tuy rất nồng hậu, họ sẽ trở nên hết sức dữ tợn nếu con cái bị đe dọa. Cha tuổi hổ tiêu xài hoang phí cho con và hết sức rộng rãi với chúng. Họ có thể chơi đùa vui vẻ với con và tìm thấy ở đó niềm vui lớn. Tuy nhiên, các bậc phụ huynh này sẽ nổi giận nếu con cái đi quá xa, hoặc tỏ ra thiếu tôn trọng họ. Cha hổ cũng không thể chịu đựng việc con cái cư xử thiếu lịch thiệp hoặc thiếu tôn trọng đối với những người lớn khác.
     
    25. Cha Hổ hết sức nghiêm túc trong vai trò làm cha và rất tin tưởng ở giá trị của giáo dục. Khi con cái còn nhỏ, cha hổ thích kể truyện cổ tích và đọc truyện cho con nghe. Họ thích nhắc lại những trải nghiệm thời thơ ấu của mình, và qua đó dạy cho con những bài học đạo đức. Họ tin tưởng tuyệt đối rằng mình là tấm gương tốt nhất cho con cái. Nếu yêu và lấy một  Người tuổi Dần, gia đình con sẽ có một "Hổ" như thế con  ạ!
     
    Tóm lại, người tuổi Dần:
     
    - Uy quyền, dũng cảm và mạnh mẽ là bậc nhất - Thông minh, nhìn xa trông rộng đứng vị trí hàng đầu - Nhạy cảm, lãng mạn, nồng nàn trong tình yêu cũng đứng số 1 luôn! Vì vậy, Mẹ dặn con "đừng dại" gì yêu người tuổi Dần nếu con không muốn gắn bó cả đời với một người quá tuyệt vời như vậy con nhé!

    ST.
    Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúc Vì sao mẹ dặn con đừng bao giờ yêu người tuổi Sửu


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Vì sao mẹ dặn "không yêu" người tuổi Dần?

    Lợi ích của thạch anh trong phong thủy –

    Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé! Lợi ích của

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé!

    Nội dung

    • 1 Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy
      • 1.1 Gia đình bình an – tài vận thông thuận
      • 1.2 Cải thiện phong thủy và tích tài khí
      • 1.3 Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát
      • 1.4 Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần
      • 1.5 Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng
      • 1.6 Nhà không được hướng
      • 1.7 Khử mùi
      • 1.8 Hiện tượng bóng đè
      • 1.9 Nơi buôn bán
      • 1.10 Cách cầu tài
      • 1.11 Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên

    Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy

    751px-Amethyst_Druse

    Gia đình bình an – tài vận thông thuận

    Đá cầu Thạch Anh – động Thạch Anh – Thạch Anh hình trụ khối lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà .
    Tác dụng : truyền khí từ trường , không những bảo hộ gia trung bình an , tránh tà mà còn giúp lưu thông không khí trong nhà đem lại nhiều may mắn.

    Cải thiện phong thủy và tích tài khí

    Đặt động thủy tinh trong nhà có tác dụng hoá xung giải sát, ngoài ra còn có thể tích phú, tích lộc .

    Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát

    Góc tài lộc ở trong phòng làm việc , công ty hoặc trong nhà nếu đặt động Thạch anh hoặc Thạch anh hình trụ có tác dụng trấn trạch – tránh tà – chặn sát khí , giúp bạn làm ăn thịnh vượng , phát đạt.

    Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần

    Đặt thạch anh tím trên bàn học hoặc đầu giường giúp bạn phát huy trí tuệ và cải thiện thị lực .

    Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng

    Bên cạnh Tivi, máy tính, lò vi sóng đặt một sản phẩm thuộc gia tộc họ thạch anh mầu trắng có tác dụng giảm bớt bức xạ phát ra , tránh gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người .

    Nhà không được hướng

    Ðối diện chính cửa ra vào là đường cái , hoặc vị trí nhà ở góc đường hình chữ L , cửa nhà có cây to , hoặc cột điện nên treo trước cửa ra vào một quả chuông gió bằng đá thuộc họ thạch anh hoặc góc nhà hướng cửa ra vào đặt động Thạch anh tím có thể tránh tà .

    Khử mùi

    Cửa nhà vệ sinh treo thạch anh hoặc đặt Thạch anh có thể giải uế khí.

    Hiện tượng bóng đè

    Ðầu giường hoặc dưới chân giường nên để một tảng Thạch anh hình trụ hoặc một sản phẩm bất kỳ thuộc họ Thach Anh có thể hoá giải hiện tượng bị bóng đè .

    Nơi buôn bán

    Tại quầy bán hàng đặt Thạch anh tím hoặc mầu phấn hồng tăng cường nhân duyên và duyên bán hàng.

    Cách cầu tài

    Dùng Trận thất tinh hoặc Thạch anh vàng cầu tài; Luc Du Linh gây dựng sự nghiệp – tài phúc.

    Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên

    Đầu giường đặt thuỷ tinh phấn hồng có tác dụng dung hoà tình cảm giữa bạn bè , ngưòi thân , cải thiện mối quan hệ chăn gối hai vợ chồng


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Lợi ích của thạch anh trong phong thủy –

    Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

    Có nhiều người không hiểu đối với tro hương cùng các kinh sách, tượng và các pháp vật bị hư hỏng thì sẽ xử lý như thế nào? Thậm chí có người mang đến giao cho nhà chùa.
    Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tục lệ tín ngưỡng của dân gian thường có rất nhiều điều kiêng kị, nhưng đó không phải là tín ngưỡng Phật giáo chân chính mà chỉ là những điều kiêng kị bị ngộ nhận là của Phật giáo. Dưới đây là những tục kiêng kỵ không chính đáng: 

    - Những cây hương thừa trong bát hương nếu hàng ngày không thu gọn thì trở nên dơ bẩn và dễ gây cháy rất nguy hiểm. Cho nên các bát hương đặt trước các tượng Phật trong chùa, hàng ngày vào lúc sáng sớm đều cần phải thu gọn, giữ cho bát hương luôn luôn sạch sẽ như mới thắp hương lần đầu.

    - Các nữ tín đồ thờ Phật tại nhà đến kỳ kinh nguyệt thì không dám tới chùa lễ Phật, thậm chí không dám đến trước bàn thờ Phật để thắp hương tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật.

    Kỳ thực đó là điều kiêng kị của hàng quỷ thần cấp thấp. Vì quỷ thần sợ máu bẩn nên hễ thấy máu bẩn thì dễ nổi giận. Quỷ thần nghiện ăn máu, thấy máu là dấy lòng tham, nhưng máu kinh nguyệt không phải là máu tươi nên quỷ thần có phản ứng như bị người ta đùa bỡn làm nhục.

    Do vậy, phụ nữ khi hành kinh vào các đền, miếu, điện thờ quỷ thần thì có thể bị hậu quả không tốt.

    Còn như các Sa-di ni, Tỳ kheo ni, cùng các Ưu bà di (nữ cư sỹ) ở gần đều sinh hoạt tại chùa, cùng các phụ nữ tu hành hàng ngày làm bạn với kinh sách, tượng Phật và các pháp vật khác của nhà chùa, từ xưa đến nay chưa từng thấy ai bị tai họa bởi vấn đề xung khắc do kinh nguyệt gây ra cả.

    Những người thờ Phật tại gia khi lập bàn thờ Phật trước hết phải nhờ người làm lễ khai quang các tượng Phật, Bồ Tát, lại phải chọn ngày tốt, hướng tốt. Đó cũng là do tín ngưỡng dân gian hoặc phong tục dân gian.

    Theo quan điểm "nhập gia tùy tục" mà nói thì tục lệ đó cũng không có gì sai trái lắm. Làm lễ khai quang là để tỏ ý thận trọng, chọn ngày chọn hướng là để tỏ ý cầu mong tốt lành.

    Nhưng theo quan điểm Phật giáo thì chư Phật, Bồ Tát có ở khắp mọi nơi, không một chỗ nào không ứng hiện. Tất cả mọi hướng đều có chư Phật, Tam bảo, Long thiên hộ pháp.

    Như vậy, đương nhiên là không hề có những vấn đề do tín ngưỡng dân gian tưởng tượng ra. Chỉ cần chọn một chỗ nào mình cho là tôn quí nhất, rồi với tình cảm thành kính nhất và chọn một thời điểm thích đáng nhất để đặt tượng thờ Phật là được.

    Có người cho rằng có những bài chú, bài kinh nào đó thì người tu tại gia không được niệm, hoặc có những bài chú, bài kinh nào thì không được niệm vào một giờ nào đó.

    Kỳ thực, với tấm lòng cung kính, tất cả mọi bài kinh, chú đều có thể tụng niệm ở bất cứ nơi nào thanh tịnh. Tốt nhất là trước khi tụng niệm nên rửa tay, súc miệng rồi đứng trước bàn thờ thắp hương lễ Phật mà tụng niệm nhưng không nên nói người tu tại gia không được tụng kinh nào đó hoặc không được niệm chú nào đó, trừ những pháp môn quy định đặc biệt của Mật Tông thì không kể.

    Trong một nhà cũng có thể có người tin Phật, có người tin Thần, phải chăng có thể thờ chung cả Thần và cả Phật trong cùng một bàn thờ ? Điều đó nên coi là không có vấn đề gì.

    Thờ phật tại nhà cần chú ý điều gì

    Nên thờ Phật ở chính giữa, cúng Bồ Tát ở hai bên, cúng các Thần ngoài cùng, coi là kẻ bảo vệ bên ngoài cho Tam bảo, cũng nên để cho các Thần gần gũi với Tam bảo để tu học Phật pháp, gây thần nhân duyên với đạo Phật.

    Nếu đạt được sự thỏa thuận của cả nhà, sau khi đã đổi ý mà tin theo Phật thì sẽ làm lễ cúng Thần, khấn cáo với Thần rồi đem tượng (và đồ thờ) Thần cất đi, để tránh cúng thờ ngẫu tượng quá nhiều sinh ra tạp loạn.

    Có nhiều người không hiểu đối với tro hương cùng các kinh sách, tượng và các pháp vật bị hư hỏng thì sẽ xử lý như thế nào? Thậm chí có người mang đến giao cho nhà chùa.

    Kỳ thực thì chỉ cần chọn chỗ đất trống và đồ đựng sạch sẽ, bỏ các thứ đó vào rồi châm lửa đốt đi, đốt xong đào lỗ chôn xuống đất là được. Những thứ làm bằng kim loại không đốt được thì tìm chỗ cất kín, một thời gian sau sẽ xử lý thải bỏ như đối với đồ đạc cũ kỷ rách nát khác.

    Các vật cúng bày trên bàn thờ Phật như hoa, quả, nước trà v.v… thuộc các loại phẩm vật tiêu hao thì phải thay đổi hằng ngày. Những thứ gì còn có thể dùng được, ăn được thì nên đem dùng vào việc khác hoặc đem cho người nhà ăn dùng, không nên vứt đi. Những thứ bị ôi thiu, hư nát thì phải đổ bỏ đi như đổ rác. Còn như phẩm vật bày cúng nên bày cúng đơn chiếc hay bày một đôi thì không có hạn chế gì cả.

    Xét về mỹ quan đối xứng mà nói thì nên dùng một cặp đôi. Nhưng nếu vì tiền nong vật phẩm có hạn, hoặc do vị trí chỗ bày biện không tiện, chỉ bày cúng đơn chiếc thì cũng không có gì là không được. Còn về đồ cúng là những món gì, về nguyên tắc là tùy theo chỗ tiền nong chi tiêu mà mình có thể lo liệu được, không bày biện rườm rà mà cũng không cần phải phô trương.

    Thời gian tu hành tại nhà thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm và buổi tối, lúc đó nhờ thân tâm thanh tịnh, thoải mái. Như vậy mới có thể chuyên chú, thành tâm mà tu tập.

    Nếu vì tính chất công việc làm ăn thì đương nhiên có thể chọn những thời gian khác nhau. Tốt nhất là không lập bàn thờ trong phòng ngủ, không nên ngồi tọa thiền, lễ Phật, tụng kinh ở trên giường.

    Nhưng nếu nhà ở chỉ có một phòng thì tốt nhất là lúc bình thường lấy vải khăn che phủ tượng Phật. Khi nào lễ Phật thì xếp dọn giường chiếu chỉnh tề, sạch sẽ rồi mới mở khăn tượng Phật ra. Nếu giường làm lễ cúng được, coi đó cũng là một nơi để tu hành.

    Nói tóm lại, lấy cái tâm thanh tịnh, cung kính để biểu thị mức độ trang trọng, nghiêm túc làm nguyên tắc.

    Sau khi đã quy y Tam Bảo thì không được quy y một tôn giáo nào khác, không được thờ phụng một đền miếu, đạo tràng nào của tín ngưỡng dân gian. Tuy vậy vẫn phải giữ thái độ tôn kính đối với các tín ngưỡng đó.

    Khi đi vào các nhà thờ, đền miếu, đền thần phải cúi người chắp tay chào hỏi. Không được coi việc thờ phụng đó là đối tượng tín ngưỡng của mình, mà coi đó là cử chỉ để giữ quan hệ hữu nghị.

    Trước khi chưa có nhận thức xác thực đối với Phật pháp thì không được đọc sách báo ngoại đạo, nếu không sẽ dẫn đến sự chỉ dắt sai lầm về phương hướng.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

    Tết cổ truyền Việt Nam: Phong tục và ý nghĩa

    Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu… Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm).
    Tết cổ truyền Việt Nam: Phong tục và ý nghĩa

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ… Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.

    Tống cựu nghênh tân: cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.

    Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen.

    Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.

    Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi: ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc phước dồi dào". Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính.

    Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.



    Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm.

    Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".

    Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần… tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.

    Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.

    Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm… ai thích trò nào chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.

    Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Giá như phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính giá yêu trẻ… thì đất nước quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh, bộ máy pháp luật bớt đi bao nhiêu khó khăn.

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tết cổ truyền Việt Nam: Phong tục và ý nghĩa

    Cục mệnh Tùng Bách kết thúc 22 năm chờ Oscar của Leo

    Leonardo Dicaprio cuối cùng cũng chấm dứt cơn khát Oscar kéo dài 22 năm. Năm 2016, cục mệnh tử vi của Leo đã hứa hẹn trước chiến thắng giòn giã này.
    Cục mệnh Tùng Bách kết thúc 22 năm chờ Oscar của Leo

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Đúng 17h30’ ngày 28/2 (theo giờ địa phương), Leonardo Dicaprio cuối cùng cũng chấm dứt cơn khát Oscar kéo dài 22 năm khi đoạt giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất với bộ phim “The Revenant”. Năm 2016, cục mệnh tử vi của Leo đã hứa hẹn trước chiến thắng giòn giã này.


    Cuc menh Tung Bach ket thuc 22 nam cho Oscar cua thanh nho Leo hinh anh
     
    Cục mệnh tử vi của Leo là cách cục Tùng Bách, tức phải trải qua sự giày vò của cuộc sống thì mới có ngày thành công. Cung mệnh của “Thánh Nhọ” mang tính chất của loài cây tùng bách, lớn lên trong rừng sâu đơn độc, mang cá tính đặc biệt. Càng lớn càng cao, mỗi tán cây lại mang hình dạng khác nhau có thể cho bóng mát giống như khả năng biến hóa qua mỗi vai diễn của Leo vậy. Càng tài năng càng phải vượt qua nhiều thử thách.
     
    Cuc menh Tung Bach ket thuc 22 nam cho Oscar cua thanh nho Leo hinh anh 2
     
    Sau 5 lần vô duyên với giải Oscar, Leo dường như là một trong những diễn viên hiếm hoi được người hâm mộ vừa tôn sùng vừa chế nhạo. Với cá tính độc lập tự chủ, lại mang chút cố chấp; ham hư vinh nhưng không ỷ lại, nên dù con đường sự nghiệp khá chông gai, anh vẫn đạt được những thành tựu đáng ngưỡng mộ.

    Năm 1994, Leonardo DiCaprio trượt Oscar lần đầu khi mới 20 tuổi với bộ phim What's Eating Gilbert Grape, 2005 tỷ phú dân chơi Howard Hughes - Leo lại lỡ làng. Ở Oscar 2006, Leonardo cũng phải ôm hận với Blood Diamond…Bỏ qua nỗi buồn, Leonardo tiếp tục phấn đấu và đến năm 2013 anh lại có The Wolf of Wall Street và lại thua. 
      Qua phân tích sức mạnh tổng hợp từ ngũ hành cục mệnh và ngũ hành tiết khí, Leo mang một cách cục đặc biệt: Giáp Mộc. Mộc 21.2, Thủy 14.2, Hỏa 19, Thổ 5.5, Kim 3636.48 mệnh này ngũ hành Kim vượng. Nhật trụ là Mộc, sinh vào mùa xuân gặp được tiết Vũ Thủy nên vận trình thuận lợi hanh thông.   
    Cuc menh Tung Bach ket thuc 22 nam cho Oscar cua thanh nho Leo hinh anh
     
    Người này tuổi Dậu, chi tháng là Sửu, Nhật chi (ngày) là Ngọ hoàn toàn không hề xung khắc với Thái tuế Bính Thân vì thế con đường thành công của Leo vô cùng xứng đáng.

    Cuộc đời của Leonardo Dicaprio có thể ví như cây Tùng Bách, trải qua xuân hạ thu đông, dù đối diện nhiều sóng gió trong mùa đông khắc nghiệt nhưng cũng đặt được chân lên bậc thang cuối của thành công

    => Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

    Phương Xuyên

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Cục mệnh Tùng Bách kết thúc 22 năm chờ Oscar của Leo

    Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Thân

    Dường như ít có tuổi nào lại có được đầu óc linh hoạt như người tuổi Thân. Họ rất giỏi trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp. Chính vì vậy thương nhân, nhà
    Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Thân

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    báo là những nghề rất phù hợp để họ thể hiện được hết tài năng của mình.

    (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

    Bên cạnh đó, họ còn có khả năng ăn nói hoạt bát. Giao lưu, kết nối mọi người là sở trường của họ. Nếu hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao chắc chắn họ sẽ thu được những thành công lớn.

    Ngoài ra, những người này có sức vóc dẻo dai và phản xạ nhanh, khéo léo trong các công việc có liên quan đến hoạt động hình thể. Vì vậy, diễn viên múa, xiếc, vũ công cũng đều rất phù hợp để họ lựa chọn.

    Một ưu điểm dễ nhận thấy ở người tuổi Thân nữa là sự nhạy cảm, tinh tế và có óc tưởng tượng, quan sát tốt. Bất kỳ sự việc nào trong cuộc sống cũng đều gợi sự tò mò đối với họ. Nếu trở thành nhà văn họ sẽ có nhiều cơ hội trở nên nổi tiếng.

    Tuy nhiên, nhược điểm của họ là luôn thích dẫn đầu và thích người khác phải phục tùng mình. Nếu không sửa được tính xấu này thì họ dễ bị người khác ghét bỏ, xa lánh và khó có được những cộng sự tốt.

    (Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Thân

    Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

    nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy những chiếc đinh nhọn, giấc mơ này ám chỉ đến những phiền toái trong cuộc sống hiện tại của bạn. Bạn dễ dàng đối đầu và
    Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy những chiếc đinh nhọn, giấc mơ này ám chỉ đến những phiền toái trong cuộc sống hiện tại của bạn. Bạn dễ dàng đối đầu và gây gổ với những người xung quanh mình.


    ► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

    Nhung diem bao ve chiec dinh trong giac mo hinh anh
    Ảnh minh họa
     
    Cảnh đóng đinh xuất hiện trong giấc mơ dự báo về tiền đồ của bạn trong tương lai. Nếu bạn cố gắng hết mình, bạn sẽ có được những thành tích bất ngờ trong sự nghiệp.
      Bạn mơ thấy đinh mới còn sáng bóng, dự báo bạn có tin tốt lành. Bạn sẽ gặp người bạn cũ sau nhiều năm xa cách.    Ngoài ra, đây còn là điềm báo công việc của bạn còn "thuận buồm xuôi gió".   Nếu mơ thấy chiếc đinh bị gỉ sét, nó dự báo bạn mắc phải một số sai lầm. Bạn nên khắc phục ngay để tránh làm ảnh hưởng đến tiến độ công việc của mình.   Mơ thấy cây đinh đóng tường ở ngay phía trên đầu bạn, nó dự báo rằng cấp trên sẽ khảo nghiệm bạn bằng những phương thức khá phức tạp. Bạn nên chuẩn bị trước tinh thần để đối phó. Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy đinh đóng giày là bước đầu bạn thu được thành công từ những cuộc khảo nghiệm mà sếp mình đặt ra.
     
    Nếu bạn nằm mơ thấy mình lái xe và bị trúng đinh, điều này ngụ ý đến một số vấn đề ở hiện tại khiến cho bạn rất bức xúc. Giấc mơ cũng cảnh báo những kế hoạch của bạn có thể sẽ bị gặp trắc trở, bạn cần phải cẩn trọng hơn với những vấn đề ở hiện tại.

    Tổng hợp

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

    12 chòm sao nữ mù quáng trong tình yêu đến mức nào?

    Con người lý trí đến đâu cũng không thể dám chắc luôn sáng suốt. Mù quáng trong tình yêu không phải là điều gì lạ lùng, bởi khi yêu ta bị trái tim sai khiến...
    12 chòm sao nữ mù quáng trong tình yêu đến mức nào?

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Con người dù tỉnh táo, lý trí đến đâu cũng không thể dám chắc lúc nào cũng sáng suốt. Mù quáng trong tình yêu không phải là điều gì lạ lùng, bởi khi yêu ta bị trái tim sai khiến.   Có người nói, không mù quáng, không si mê thì không phải là yêu. Trong chuyện tình cảm, dường như người có lý trí đến đâu cũng có lúc mất đi phương hướng. So với nam giới, nữ giới lại càng yếu đuối hơn, dễ trở nên mù quáng trong tình yêu. 
     
    Dù biết rõ rằng người mà mình yêu sâu đậm vốn chẳng có tình cảm gì đặc biệt với mình nhưng các cô gái vẫn khó lòng từ bỏ. Thà rằng giữ mãi trong lòng mối tình đơn phương với hy vọng 1 ngày nào đó, người kia sẽ đáp lại tình cảm của mình, còn hơn là đau đớn cách xa người mình yêu.
     
    Cũng có khi, 2 người ở bên nhau mà tình cảm đã hết, song vẫn cố sống cố chết không để người kia ra đi. Họ hiểu rằng làm vậy là sai, khổ mình khổ cả người nhưng không sao buông bỏ được. 
     
    Vậy bạn có muốn biết về tình yêu của 12 cung hoàng đạo, xem trong tình yêu các chòm sao nữ mù quáng đến thế nào, si ngốc ra sao? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn nhé.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Bạch Dương


    Sự mù quáng của chòm sao này thường thể hiện trong việc theo đuổi người mình yêu. Càng không có được thứ gì, cô nàng lại càng khao khát giành lấy. 
     
    Bạch Dương luôn là người chủ động trong tình yêu. Họ sẵn sàng bước đi bước đầu tiên trong câu chuyện 2 người, cũng luôn cố gắng hết sức mình để tình cảm ngày càng sâu đậm. Tình yêu của chòm sao rất thuần khiết, sẵn lòng hy sinh tất cả vì người mình yêu.
     
    Khi chưa có được tình cảm của người kia, Bạch Dương sẽ đối xử với người đó như một vị thần, coi người đó là một hình mẫu lý tưởng. Tất cả mọi ưu điểm của người đó đều được phóng đại hết sức có thể. Chỉ một hành động tốt đẹp, một câu nói dịu dàng người đó dành cho cô nàng cũng khiến nàng vui vẻ rộn ràng, cả ngày hứng khởi. 
     
    Cho dù người đó kì thực không quá quan tâm chăm sóc cho Bạch Dương, song cô nàng luôn cảm thấy, đó chính là Mr. Right, là chàng trai hoàn hảo mà số mệnh sắp đặt cho mình. Cũng chính vì không có được mà chòm sao này sẽ càng khát khao, trân trọng. Tới khi 2 người thành đôi, tình cảm mãnh liệt của Bạch Dương cũng dần phai nhạt.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Kim Ngưu
     

    Cô nàng này là người khá lý trí trong tình yêu, cũng không bao giờ làm những chuyện điên rồ vì một người con trai trong phút bốc đồng. Kim Ngưu có thể nhẫn nại và kiểm soát cảm xúc rất tốt, nguyện dùng thời gian để kiểm chứng tình cảm 2 người liệu có đủ vững chắc, lâu dài.
     
    Trong số 12 cung hoàng đạo, cô gái sinh ra dưới chòm sao này khi đã xác định được mục tiêu sẽ lên kế hoạch cụ thể, bài binh bố trận, bày kế nghi binh, coi tình yêu như một trận đánh. Với người theo đuổi, cô nàng cũng nghĩ ra đủ trò để thử thách tình cảm đối phương. 
     
    Chỉ cần đối phương lỡ chân dẫm phải 1 trái mìn, cô nàng cũng sẽ lập tức trừ điểm không thương tiếc. Theo thời gian, chỉ cần đối phương thể hiện thật tốt, không mắc phải bẫy, không trúng tên thương thì tự nhiên trong mắt nàng, tình cảm sẽ dần tốt lên. 
     
    Tuy nhiên, cô nàng Kim Ngưu không bao giờ nhanh chóng đi đến quyết định ở bên một người nào đó. Phải cần thời gian xem xét, thử thách và kiểm chứng cho độ bền vững của mối quan hệ và sự phù hợp giữa 2 người rồi mới trao gửi trái tim mình.
     
    Nếu con trai chỉ thấy khó khăn khi theo đuổi chòm sao này mà dễ dàng lùi bước thì chắc chắn sẽ phải hối hận. Bởi cô nàng chỉ khi dễ lúc mới bắt đầu, còn khi đã nhận lời, chòm sao này sẽ hóa bị động thành chủ động, luôn giữ cho tình cảm 2 người nồng nàn, thắm thiết.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Song Tử
     

    Chòm sao nữ này không phải là người mù quáng trong tình yêu bởi bên cạnh cô nàng luôn có một đám chị em bạn dì, mỗi lúc quan trọng sẽ tập trung suy nghĩ và đưa ra ý kiến. Nếu lỡ Song Tử có phạm sai lầm thì bạn bè của cô nàng chắc chắn sẽ là người cứu nguy. Có lẽ chòm sao này không phải là cao thủ trên tình trường, song họ thực sự biết chọn bạn mà chơi.
     
    Trong chuyện tình cảm, cô gái sinh dưới chòm sao Song Tử thường tỏ ra mù mờ, không biết quyết định ra sao, vì thế mà luôn tin tưởng vào những điều bạn bè khuyên bảo. Nếu người kia và cô nàng thực sự không hợp thì Song Tử sẽ không do dự mà làm theo lời bạn bè.
     
    Tuy nhiên, chòm sao nữ này cũng nên cẩn trọng hơn, bởi đám bạn bè bên cạnh bạn EQ quá cao, đừng để rơi vào cảnh “tình yêu không có lỗi, lỗi ở bạn thân” nhé.

    Mời các bạn tham khảo thêm thông tin, tất tần tật về mọi mặt của cung Song Tử.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Cự Giải
     

    Mù quáng đánh mất bản thân chính là lỗi mà cô gái cung hoàng đạo này rất dễ mắc phải trong tình yêu. Rõ ràng cả 2 người đã không còn tình cảm với nhau, có bước tiếp cũng không có kết quả gì nhưng vẫn nuối tiếc những ngày tháng bên nhau, không nỡ chia tay.
     
    Chòm sao nữ này luôn cho rằng tình cảm sẽ không bao giờ phai nhạt, dù có trắc trở nhưng chỉ cần cố gắng duy trì thì sẽ tu thành chính quả. Thậm chí ngay cả khi không còn một tia hy vọng nào, Cự Giải vẫn nuôi mộng người kia sẽ quay trở lại.   Tình cảm không thể cưỡng cầu. Ai chẳng có lúc bị thất tình. Thà như vậy còn hơn ôm mãi mối tình vô vọng, cả đời chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Sư Tử


    Cô gái sinh ra dưới chòm sao này luôn cảm thấy đau khổ vì không có được người mình yêu. Trước mặt người ấy, họ tỏ ra kiêu kì, mạnh mẽ trong mọi việc, song khi chỉ có một mình, nhất là giữa đêm khuya thanh vắng trong căn nhà nhỏ, tâm trí họ luôn hướng về người kia, nhớ nhung da diết, lại tự trách mình sao quá lạnh lùng với người ta.
     
    Trong tình yêu, cô nàng không hề si ngốc. Nhưng đôi khi lý trí không điều khiển  được tình cảm, họ có thể cực kì tức giận mỗi khi quan hệ 2 người xảy ra vấn đề. 
     
    Dù là người từng yêu tha thiết nhưng nếu làm chuyện có lỗi, khiến cho cô nàng khó chịu thì tuyệt đối không tha thứ. Thêm nữa, cô nàng lại là người cứng đầu, tuy đôi lúc lỗi ở cả 2 nhưng không dễ dàng nói lời xin lỗi, khiến cho quan hệ càng trở nên căng thẳng. 
     
    Sự mạnh mẽ vô tình khiến cho đường tình duyên của nàng Sư Tử gặp nhiều trắc trở, hãy học cách mềm dẻo và khéo léo hơn nhé.

    Mời bạn tham khảo thêm bài viết: Cung Sư Tử hợp với cung nào trong tình yêu?


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Xử Nữ


    Đây chính xác là một cô gái mù quáng trong tình yêu. Cô nàng luôn lo được lo mất, vốn dĩ mong muốn tình yêu của mình tốt đẹp nhưng lại hay bận tâm vì những chuyện nhỏ nhặt, sợ rằng tình cảm của người kia với mình không thật lòng, sợ rằng 2 người không hợp.
     
    Tính lo lắng, đa nghi khiến cho chuyện tình của Xử Nữ không lúc nào suôn sẻ. Yêu mà không tin tưởng thì thực sự là thảm họa. Mọi người chỉ muốn hạnh phúc với người mình yêu, chẳng ai mong luôn phải sống trong lo lắng. 
     
    Tuy nhiên, chỉ cần bạn thật lòng đối xử với người ấy, chắc chắn họ sẽ hiểu và thông cảm cho bạn. Nên trân trọng hiện tại, học cách bảo vệ tình yêu, đừng để sự nghi ngờ và lo sợ của mình đẩy người kia đi xa mất.

    Cung Xử Nữ hợp với cung nào để tình yêu luôn trọn vẹn? Hãy làm quen với các chàng trai Kim Ngưu, Cự Giải và Ma Kết nhé.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Thiên Bình



    Cô gái Thiên Bình mỗi khi do dự ngần ngừ chưa quyết định được chuyện tình cảm thì lại có bạn bè giúp đỡ. Nhờ đó mà cô nàng không hay làm ra những hành động ngốc nghếch.
     
    Tuy nhiên bạn bè dù sao cũng nhìn nhận vấn đề từ góc độ của họ nên không thể hoàn toàn chính xác, quyền quyết định luôn nằm trong tay bạn, hãy tự tin và có chính kiến hơn nhé.
     
    Cô nàng Thiên Bình thường không đủ nhạy cảm để nhận ra ai mới là người đối xử tốt nhất với mình, ai mới là người phù hợp. Không phải mù quáng trong tình yêu, chính xác là bạn không có đủ dũng khí theo đuổi thì đúng hơn.
     
    Chỉ cần bạn dám nghĩ, dám yêu, can đảm hành động theo trái tim mình, bạn sẽ biết được tình yêu mà mình muốn ra sao. Nếu cứ mãi do dự, chôn chân 1 chỗ, đừng hối hận vì tình yêu vụt qua tay.
     
    Cô gái sinh ra dưới chòm sao này có mệnh công chúa cao sang, bạn mong muốn người ấy là Bạch mã hoàng tử. Thiên Bình rất coi trọng ngoại hình, phải là chàng trai phong độ mới lọt vào mắt xanh của nàng. Có điều ngoại hình không phải là tất cả, nếu tính cách 2 người không hợp thì dù người kia có đẹp trai đến mấy cũng đâu hạnh phúc?


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Hổ Cáp
     

    Bạn là người rất rõ ràng, yêu là yêu, bạn không quan tâm đến việc ai là người yêu nhiều hơn. Hổ Cáp sẽ bất chấp tất cả để hy sinh cho người mình yêu. Tuy nhiên, đôi lúc sự nồng nhiệt này chính là nguyên nhân khiến cho bạn chịu rất nhiều tổn thương.
     
    Trong tình yêu, cô nàng Hổ Cáp là người hơi quá tự tin. Có khi tình cảm của 2 người vẫn chưa đến mức sâu sắc như bạn lầm tưởng, nhưng bạn lại quá tự tin về sức ảnh hưởng của mình đối với người kia nên khiến cho chính bản thân mình không ít lần thất vọng.
     
    Bạn cũng rất lo sợ người kia 1 ngày nào đó sẽ thay lòng đổi dạ mà phản bội lại tình cảm của mình. Vì thế mà khi yêu, bạn hiếm khi tin tưởng hoàn toàn vào anh ấy, thường hay nghi ngờ dù chuyện chẳng có gì, đây cũng là lý do tình cảm của 2 bạn gặp vấn đề. Hãy yêu hết mình và tin tưởng, thấu hiểu cho người ấy, như vậy tình cảm của các bạn sẽ được bền lâu.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Nhân Mã
     

    Cô nàng này là người rất ham vui. Nhân Mã tin rằng người có thể chơi hợp với mình chính là người yêu mình. Có điều bạn nên cẩn thận suy xét, bởi không phải lúc nào 2 người chơi hợp với nhau thì tính cách và mục tiêu sống của họ sẽ giống nhau, nếu sự sai lệch quá lớn thì đó không phải là người đi với bạn đến tận cuối con đường.
     
    Chòm sao nữ này thường đem lòng yêu người khác rất nhanh, dễ dàng rơi vào lưới tình, chính vì thế mà 2 bạn chưa có đủ thời gian để tìm hiểu nhau, cũng thường trục trặc vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt. Nhưng vào lúc đó, bạn lại thường hay làm theo cảm xúc, hành động theo cảm tính, vì thế mà nàng Nhân Mã hay phải chịu tổn thương trong tình yêu.
     
    Hãy tỉnh táo và lý trí hơn, sự mù quáng trong tình yêu có thể giết chết bạn. Hãy chầm chậm đi từng bước một, chưa biết chừng chuyện tình cảm của bạn sẽ không quá trắc trở như hiện giờ.
     
    Bạn không phải là kẻ ngốc nghếch, chỉ có điều không làm chủ được mình khi yêu nên dễ có những phán đoán sai lầm. Một tình yêu chậm rãi, phát triển theo thời gian sẽ đem lại cho bạn hạnh phúc nhiều hơn.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Ma Kết
     

    Bạn khá lạnh nhạt trong chuyện tình cảm, tin tưởng rằng thời gian và vật chất có thể đánh giá được phẩm chất của một con người. Tuy nhiên, bạn hơi quá khắt khe khi đặt ra yêu cầu với người mình yêu, vì thế mà khiến cho người kia cảm thấy căng thẳng và muốn từ bỏ.
     
    Quá lý trí, quá hiện thực cũng là 1 sai lầm trong tình cảm. Bạn thật lòng yêu người ấy, nhưng lại giấu kín tình cảm trong lòng, hiếm khi thể hiện ra ngoài. Nếu các bạn mới quen và người ấy chưa thực sự hiểu về bạn, rất có thể anh ấy sẽ nghĩ rằng bạn chỉ là 1 cô gái thực dụng, ưa vật chất. 
     
    Hãy học cách chủ động nói chuyện và chia sẻ những suy nghĩ của mình, có như vậy tình cảm của các bạn mới xuôi chèo mát mái. Ma Kết là cô gái bí ẩn và đôi chút khó hiểu, bởi bạn có quá nhiều suy nghĩ giấu trong lòng. Đâu phải cứ yêu nhau là sẽ đoán hết được suy nghĩ của nhau. Chủ động bày tỏ, mở rộng lòng mình, tình cảm 2 bạn sẽ ngày càng khăng khít.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Bảo Bình
     

    Tình yêu của cô nàng này thường bắt đầu từ tình bạn, từ quan hệ bạn bè có thể hiểu rõ hơn quan niệm về tình yêu của người kia. Nhưng khi thực sự trở thành 1 đôi, sự ràng buộc giữa 2 người ngày càng nhiều. Có thể Bảo Bình sẽ cảm thấy mất đi bản chất thực sự của tình yêu bởi bạn vốn là người theo đuổi tự do. 
     
    Sau khi chính thức bước vào quan hệ yêu đương, bạn phát hiện mình mất đi đôi cánh tự do, bạn vùng vẫy khi bị người kia quan tâm, kiểm soát. Chính vì thế mà tình yêu của bạn thường không duy trì được lâu dài.
     
    Để đánh giá, bạn không phải là người mù quáng trong tình yêu mà ngược lại, bạn là người quá lý trí. Nếu bạn thực sự yêu người ấy và hy vọng tình cảm bền lâu thì hãy sống nhiều hơn với cảm xúc của mình. Chưa biết chừng, điều đó sẽ khiến người ấy càng thêm yêu thương và trân trọng bạn.
     
    Đàn ông luôn muốn và có khát khao chở che cho người khác. Bạn vốn thông minh, hãy học cách  trở thành một cô gái thanh lịch và tinh tế, biết rõ lúc nào nên mạnh mẽ, lúc nào nên yếu mềm. Hãy để người ấy được là bờ vai vững chắc chở che cho bạn.

    Cung Bảo Bình hợp với cung nào trong tình yêu? Các chàng trai cung Song Tử, Thiên Bình và Bảo Bình là hình mẫu lý tưởng dành cho bạn.


    12 chom sao nu mu quang trong tinh yeu den muc nao hinh anh
     

    Song Ngư
     

    Một khi yêu, trong đầu bạn chỉ có hình bóng của người ấy. Bạn luôn hy vọng tình yêu của mình đẹp như cổ tích, 2 bạn sẽ đến với nhau và hạnh phúc dài lâu như công chúa và hoàng tử trong truyện kể. Khác với Bảo Bình, bạn là người sống bằng cảm xúc, đôi khi cảm xúc lấn át lý trí trong con người bạn, khiến bạn đưa ra những quyết định sai lầm.
     
    Hãy tỉnh táo hơn trong chuyện tình cảm. Suy nghĩ thực tế 1 chút, mơ mộng viển vông chẳng làm cho mọi chuyện tốt đẹp lên, cũng đừng khiến quan hệ của 2 người chìm trong những áng mây hồng. Khi kết cục không như những gì bạn mong muốn, trái tim của Song Ngư sẽ vỡ tan ra mất.
     
    Hãy làm những chuyện mình nên làm, tình yêu sẽ đi đúng hướng bạn muốn. Hãy sống bằng cái đầu, yêu bởi con tim, tình yêu thực sự sớm muộn gì cũng sẽ đến với bạn.  
    Hy Vũ

    Tháng 4 này, chòm sao nào sẽ gặp được chân mệnh thiên tử của đời mình? Nhận diện cách tán tỉnh của 12 cung hoàng đạo
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: 12 chòm sao nữ mù quáng trong tình yêu đến mức nào?

    Cận cảnh vẻ đẹp "thật sự" của người phụ nữ dưới thời Võ Tắc Thiên

    Cùng hiểu hơn về trang phục và cách làm đẹp của những phụ nữ thời nhà Đường. Thời Đường (618-907) là một trong những triều đại tốn nhiều giấy mực nhất của các nhà sử học. Trong đó phải kể đến sự lên ngôi của nữ vương duy nhất trong lịch sử Trung Quốc - hoàng đế Võ Tắc Thiên.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Hình tượng tuyệt sắc thiên hương của bà được xây dựng thông qua nhiều bộ phim cổ trang và gần đây nhất là “Võ Tắc Thiên truyền kỳ”. Hẳn khi xem phim, nhiều người không khỏi thắc mắc về hình ảnh thực sự của người phụ nữ dưới thời nhà Đường. 
    cận cảnh vẻ đẹp
    Không ít người cho rằng, phụ nữ thời nhà Đường mang dáng vẻ thanh mảnh, nét mặt thanh tú nhưng sự thật lại hoàn toàn trái ngược. Vào thời Đường, phụ nữ được cho là đẹp, hấp dẫn thì phải tròn trịa, mập mạp. 
    Ta nhận thấy điều này phần nào thông qua những bức tranh miêu tả lại hình ảnh của Dương Quý Phi - với khuôn mặt tròn trịa và nước da trắng.



    cận cảnh vẻ đẹp

    cận cảnh vẻ đẹp
    Hình tượng Võ Tắc Thiên qua tranh vẽ.

    Hay như cả Võ Tắc Thiên, theo sử sách ghi lại thì Võ Chiếu (tên thật của Võ Mị Nương) từ nhỏ “mặt vuông trán rộng, béo phục phịch, đôi mắt phụng dài, có tướng đế vương”. 
    Miêu tả này khác hẳn với hình tượng thiếu nữ mặt trái xoan với đôi mắt bồ câu thường thấy trên phim ảnh.

    cận cảnh vẻ đẹp Cách trang điểm thời nhà Đường.
    Bên cạnh đó, triều đại nhà Đường được sử sách ghi lại là thời kì hoàng kim với nền văn hóa và kinh tế phát triển mạnh. Đặc biệt, phần trang phục và phong cách trang điểm của nữ giới đã có một sự thay đổi lớn. 
    Phong cách trang điểm thời Đường nổi bật với sự bùng nổ của màu sắc. Có thể nói, đây là thời đại duy nhất mà người phụ nữ lại trang điểm với màu sắc sống động như vậy. 
    Phụ nữ thời Đường thịnh kiểu trang điểm “trán vàng” và “lông mày xanh”. Cụ thể, họ phủ một loại phấn vàng lên vùng trán và đặc biệt chú ý đến việc vẽ lông mày


    cận cảnh vẻ đẹp

    Bên cạnh đó, các cô nương còn vẽ một biểu tượng hình hoa giữa trán. Biểu tượng này thường được vẽ bằng hạt cây hoa trà dầu hoặc lá vàng cùng một số nguyên liệu khác. 
    Hình vẽ cũng có nhiều loại: loại đơn giản nhất chỉ là một chấm tròn. Phức tạp hơn có hình đôi cánh hoặc hoa đơn giản. Hình bông hoa phức tạp thì sẽ được làm sẵn và sau đó dính vào giữa lông mày để tôn lên vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ quý tộc.

    cận cảnh vẻ đẹp

    Quá trình trang điểm của phụ nữ lúc bấy giờ cũng khá phức tạp. Bên cạnh những bước cơ bản như phấn nền, son và bột vàng, lông mày được tô xanh theo các kiểu đa dạng và họ đặc biệt vẽ cả “má lúm đồng tiền”. 
    Má lúm này thường được vẽ hai bên khóe miệng và về phần dưới của má thì sẽ được đánh má hồng.

    cận cảnh vẻ đẹp

    Tóc của nữ nhân thời Đường được bới lên cao dạng mũ đội đầu. Búi tóc thường là búi lớn với nhiều kiểu như búi mây, búi đôi, búi hình hoa... 
    Để phần búi tóc thêm quý phái, phụ nữ thời Đường sử dụng thêm những chiếc trâm cài được chế khắc tinh xảo hoặc các cụm hoa. Tóc hai bên có thể có phần rủ xuống che tai, còn phần trên búi gọn gàng. 


    cận cảnh vẻ đẹp
    Trang phục truyền thống các thời đại trước thường kín đáo.

    Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta quên nhắc đến phần trang phục của những phụ nữ thời Đường. Mặc dù vẫn tiếp nối lối ăn mặc của các triều đại trước như đời nhà Hán (206TCN - 220) và đời nhà Tùy (581-618) có phần kín đáo nhưng thời trang đời nhà Đường có sự thay đổi rõ nét hơn. 

    cận cảnh vẻ đẹp
    Hình ảnh trang phục thời nhà Đường.

    Nếu như trước thời Đường, phụ nữ Trung Quốc bị hạn chế bởi các quy tắc trong đạo Nho - họ không có thứ hạng cao trong xã hội và quần áo mặc trên người phải kín đáo, giữ nét đoan trang thì đến thời nhà Đường, những bộ trang phục dần trở nên rộng rãi và thướt tha hơn. 


    cận cảnh vẻ đẹp

    Trang phục cổ truyền của Trung Quốc - Hanfu được phát triển từ thời nhà Thương với phần áo liền, tay áo hẹp và đai lưng qua các thời đại dù thay đổi nhưng vẫn luôn giữ nét kín đáo của nhiều lớp áo, váy chùm dài, bó chặt. 


    cận cảnh vẻ đẹp
    Trong khi phụ nữ thời nhà Đường đã chọn cho mình chiếc áo có cổ áo rộng hơn, váy dài nhưng được làm nhẹ nhàng và thướt tha hơn, mang lại vẻ đẹp thoáng hơn so với các triều đại trước. 
    Đai lưng cũng được biến đổi nâng lên phía trên ngực, biến thành váy không có đai, nhằm nhấn mạnh hình thể tròn trịa của người con gái - xu hướng được ưa thích thời bấy giờ.

    cận cảnh vẻ đẹp

    Chất liệu của trang phục cũng đặc biệt tốt và tinh tế. Dựa trên những tiến bộ của công nghệ dệt lụa và kĩ thuật nhuộm, vật liệu dệt may của thời kì này đạt đến sự đa dạng chưa từng có với số lượng và chất lượng tuyệt vời. 
    Những người thuộc tầng lớp cao trong xã hội bấy giờ thường sử dụng lụa hoặc thậm chí lông chim để may trang phục. Trang phục thời Đường cũng có nhiều kiểu dáng khác nhau, thay đổi liên tục và được ví như đỉnh cao của phục trang Trung Hoa.

    cận cảnh vẻ đẹp

    Trang phục thời kì này của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến trang phục của các nước láng giềng. Nhật Bản đã áp dụng những tinh hoa về màu sắc của bộ váy thời Đường vào bộ Kimono của mình. 
    Tương tự, trang phục truyền thống của Hàn Quốc - bộ Hanbok cũng “vay mượn” những nét đẹp của các bộ váy nhà Đường về cho mình như áo khoác ngắn phía ngoài hay đai lưng tiêu giản. 

    cận cảnh vẻ đẹp

    Có thể nói, phong cách ăn mặc và trang điểm của phụ nữ thời Đường đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử Trung Quốc với sự đa dạng về màu sắc và phong phú về kiểu dáng. 
    Điều này phần nào thể hiện sự phát triển của thời đại này trên các mặt khác như kinh tế, văn hóa, xã hội. Có thể nói, hình tượng Võ Tắc Thiên được xây dựng trong phim ảnh không hề là hư cấu hay được “tâng bốc” quá tay bởi các đạo diễn mà đã phản ánh được một cách khá chính xác vẻ đẹp của phụ nữ thời kì vàng son này.
    Nguồn: TrationalCutural, Chia.org
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Cận cảnh vẻ đẹp "thật sự" của người phụ nữ dưới thời Võ Tắc Thiên

    Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền

    Từ đó, Quan Vũ, Trương Phi mới không trách móc nữa. Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm !
    Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Đây là điển cố thứ Ba hai trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Lưu Bị Cầu Hiền  (còn gọi là Lưu Bị Tìm Người Tài). Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền có bắt nguồn như sau:

    Cuối thời Hán, quân khởi nghĩa Hoàng Cân nổi dậy, thiên hạ đại loạn, Tào Tháo “uy hiếp thiên tử để hiệu lệnh chư hầu”, Tôn Quyền thống lĩnh quân đội Đông Ngô. Quan Mục ở Dự Châu là Lưu Bị, vốn là tông thất của nhà Hán, phải lang thang phiêu bạt, không có căn cứ địa cố định. Lúc này, Lưu Bị dựa vào Lưu Biểu, đóng quân ở Tân Dã. Trong một lần đến thăm Tư Mã Huy, nghe Tư Mã Huy nói: “Rất nhiều Nho sinh đều là những người kiến thức nông cạn, sao có thể hiểu được thế cục hiện thời? Biết thời thế mới là trang tuấn kiệt, chỉ có Ngọa Long (Gia Cát Lượng), Phượng sồ (Bàng Thống) mà thôi”. Sau này Từ Thứ cũng tiến cử Ngọa Long với Lưu Bị, Lưu Bị muốn Từ Thứ đưa Ngọa Long đến gặp, nhưng Từ Thứ nói: “Người này có thể đi gặp, nhưng không thể lệnh cho anh ta chịu khuất phục để đến đây. Tướng quân nên hạ mình đến thăm!”

    Vì thế, Lưu Bị liền cùng với Quan Vũ, Trương Phi mang theo lễ vật, đến núi Ngọa Long ở Long Trung (nay là phía nam thành Nam Dương, tỉnh Hà Nam, cũng có thuyết cho là phía tây nam của thành Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc) mời Gia Cát Lượng xuống núi phò tá cho mình. Nhưng đúng hôm đó Gia Cát Lượng lại đi ra ngoài, Lưu Bị đành thất vọng quay về.
    Không lâu sau, Lưu Bị lại cùng Quan Vũ, Trương Phi đội gió dầm tuyết mà đi, không ngờ Gia Cát Lượng lại đi ra ngoài du ngoạn. Trương Phi vốn không muốn đi tiếp, thấy Gia Cát Lượng không ở nhà, liền giục trở về. Lưu Bị đành để lại một bức thư, thể hiện sự cung kính của mình đối với Gia Cát Lượng, mời Gia Cát Lượng ra trợ giúp cho mình.
    Vài ngày trôi qua, Lưu Bị ăn chay ba ngày, chuẩn bị tiếp tục đi mời Gia Cát Lượng. Quan Vũ nói rằng, Gia Cát Lượng có lẽ chỉ là kẻ hư danh, chưa hẳn đã có tài năng thực sự, không cần phải đi nữa. Còn Trương Phi nói rằng, hãy để một mình mình đi gọi, nếu Gia Cát Lượng không đến, thì sẽ dùng dây thừng trói lại giải đến. Lưu Bị bèn trách móc Trương Phi, kiên quyết cùng hai người đi mời Gia Cát Lượng lần thứ ba. Khi đến căn nhà cỏ mà Gia Cát Lượng ở, Gia Cát Lượng đang ngủ, Lưu Bị không dám làm kinh động, cứ đứng chờ trong tuyết, đợi sau khi Gia Cát Lượng tỉnh dậy mới cùng ngồi xuống nói chuyện.

    Lưu Bị hỏi Gia Cát Lượng rằng: “Hiện nay nhà Hán suy bại, gian thần giả mượn lệnh vua để mưu sự, hoàng đế không có quyền lực. Ta không biết tự lượng đức hạnh và sức lực của mình, chỉ muốn lấy đại nghĩa để chấn hưng lại thiên hạ, nhưng vì trí tuệ và mưu lược không đủ, cho nên luôn bị thất bại, cho đến tận hôm nay. Nhưng chí hướng của ta vẫn chưa nguôi, ngài có mưu kế gì có thể giúp ta được không?” Gia Cát Lượng liền trình bày với Lưu Bị về kế sách chia ba thiên hạ, phân tích tình hình thế Tào Tháo không thế tin, Tôn Quyền có thể tiếp viện, lại nói về sự nhu nhược của bậc quân chủ ở hai châu Kinh và ích, chỉ khi có được hai châu này mới có thể giành được thắng lợi, tức là giảng giải về sự tất yếu và khả năng chiếm được hai châu này. Cuối cùng, ông trình bày với Lưu Bị chiến lược tấn công Trung Nguyên. Lưu Bị nghe xong rất tán thưởng.

    Sau đó Lưu Bị thường cùng Gia Cát Lượng bàn bạc, mối quan hệ ngày càng thân mật. Bọn Quan Vũ, Trương Phi đều cảm thấy không vui, Lưu Bị giải thích với họ rằng: Ta có được Khống Minh, là giống như cá gặp được nước, hy vọng mọi người đừng nói thêm gì!” Từ đó, Quan Vũ, Trương Phi mới không trách móc nữa.

    Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm !


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Lưu Bị Cầu Hiền

    Đặc tính của sao Thái Dương

    Thái Dương vốn là mặt trời, đóng ở các cung ban ngày (từ Dần đến Ngọ) thì rất hợp vị, có môi trường để phát huy ánh sáng.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Đặc tính của sao Thái Dương

    Đặc tính của sao Thái Dương

    Tìm hiểu về đặc tính của sao Thái Dương trong tử vi đẩu số

    Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Tứ hóa
    Thái dương Trung thiên đẩu Dương hỏa Qúy Quan lộc Giáp: kị, Canh: Lộc, Tân: Quyền

    Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái Dương thuộc âm hỏa, là chính tinh và cát tinh của trung thiên Đẩu, hóa khí là quyền quý, chủ chính của cung quan lộc.

    Sao Thái Dương chủ về mắt, cá tính, về xử sự, chủ về hoạt động giao tế, có tính công bằng, bác ái, ngay thẳng.

    Sao thái Dương thuộc dương hỏa, là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, trong số chủ về cao quý, sau đó là giàu có, văn võ song toàn (nếu gặp sao Thiên Hình sẽ hiển quý về nghiệp võ), ưa gặp sao Tả Phù và Hữu Bật để được trợ giúp, gặp Lộc Tồn là có tước lộc cao, gặp Thái Âm sẽ tương sinh, gặp các cát tinh sẽ được may mắn cát tường, gặp sát tinh sẽ vất vả phí sức. Nếu đóng tại cung Thân, cung Mệnh, lại miếu vượng, là sao tốt trong mệnh số, là then chốt của quan lộc, đứng sau Hóa Lộc, Hóa Quyền, tốt nhất là cung quan lộc.

    Vầng Thái Dương mỗi ngày mọc ở Đông và lặn ở Tây, nên trong mệnh bàn, sao Thái Dương cũng sẽ biến đổi trong từng cung vị thứ tự như sau: tại cung Dần và cung Mão là mới mọc (sơ thăng); tại cung Thìn và cung Tỵ là lên điện (thăng điện); tại cung Ngọ là mặt trời giữa trời (Nhật lệ trung thiên), chủ về đại phú, đại quý; tại cung Mùi và cung Thân là nghiêng bóng (thiên viên), làm việc siêng năng, sau lười biếng; tại cung Dậu là lặn về Tây (tây một), quý mà không hiển, đẹp mà rỗng tuếch; tại cung Tuất, Hợi, Tí, Sửu là mất sáng (thất uy), nếu gặp Cự Môn, Phá Quân, chủ về một đời bần hàn và vất vả, tính cách khó gần gũi, dễ gặp chuyện thị phi.

    Sao Thái Dương chủ về quan lộc, vì vậy nên ở cung quan lộc, đặc biệt là khi xuất hiện một mình tại cung Ngọ, là thế "Nhật lệ trung thiên" (mặt trời giữa trời), khí thế mạnh mẽ, sự nghiệp lẫy lừng, ắt là bậc lãnh đạo, thành tựu nhất định phi phàm.

    Sao Thái Dương ưa đồng cung, hoặc hội chiếu với lục cát tinh, đặc biệt ưa gặp các sao Tam Thai và Bát Tọa giúp tăng thêm hào quang của Thái Dương. Cũng rất ưa đồng cung với các sao Ân Quang, Thiên Qúy, phần nhiều chủ nhận được ân huệ đặc biệt, vinh hiển. Nếu sao Thái Dương ở cùng một cung với đế tinh, Tả Phù và Hữu Bật, tuy hảm nhưng vẫn được cho là quý.

    Sao Thái Dương nếu miếu địa, vượng địa mà gặp sát tinh xâm phạm, chỉ gây ảnh hưởng tới người thân là nam giới, còn về biểu hiện của bản thân thì chỉ tăng thêm vất vả chứ không bị giảm quý. Ánh sáng của sao Thái Dương cũng không sợ Thiên La và Địa Võng hạn chế độ sáng, nhưng cũng khó tránh vất vả. Sao Thái Dương tuy không sợ lục cát tinh, nhưng trừ trường hợp ở cung Mão ra, đều không thích sao Hóa Kị, đặc biệt khi ở cung vị lạc hãm sẽ rất bất lợi về mắt.

    Sao Thái Dương không ngừng vận chuyển, gặp Tả Phù và Hữu Bật sẽ phò trợ cho quân chủ, gặp Lộc Tồn sẽ trợ phúc, ở các cung nhập miếu thì cát; lạc hãm mà gặp hung tinh thì vất vả. Nếu đóng tại cung Thân và cung Mệnh, chủ về tính tình trung hậu, rộng lượng không chấp nhặt. Nếu miếu, vượng địa gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền thì tăng thêm hiển quý. Nếu nhận được các sao tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt tam hợp chiếu hai cung tài bạch và quan lộc thì chủ về phú quý tột đỉnh, thêm tứ sát cũng chủ về no ăn, ấm mặc, Phụ nữ thì chủ về vượng phu ích tử, càng đucợ nhiều phong tặng.

    Sao Thái Dương có tính động nếu đóng tại cung mệnh thì không đời không mấy được thanh nhàn, hơn nữa vì sao Thái Dương chủ sự sang quý chứ không chủ về giàu có, nên hiển quý mà thanh cao, dù gặp được sao Lộc Tồn nhưng cũng phải vất vả mới kiếm được tiền bạc.

    Nếu sao Thái Dương, Thái Âm giáp (kèm hai bên) Thiên Phủ hoặc Vũ Khúc, Tham Lang ở cung mệnh tại Sửu, Mùi, là cách cục "Nhật Nguyệt giáp mệnh", chủ về một đời giàu có (nếu giáp Vũ Khúc, Tham Lang thì phát muộn). Sao Thái Dương nằm ở cung mệnh tại cung Ngọ, là cách cục "Kim sán quang huy" (hào quang vàng chói lọi; hay còn gọi là cách cục "Nhật lệ trung thiên" mặt trời giữa trời), tài năng xuất chúng, thành tựu phi thường. Nếu sao Thái Dương và Sao Thiên Lương ở cung mệnh tại Mão, tam hợp hội chiếu với sao Thái Âm tại cung hợi, nếu sinh vào ban ngày sẽ là cách cục "Nhật chiếu lôi môn"(mặt trời rọi cửa sấm, hay còn gọi là cách cục "Nhật xuất phù tang" mặt trời mọc ở phương đông), có tài lãnh đọa lỗi lạc. Nếu cung mệnh đóng tại cung Mùi, sao Thái Dương tại Mão, sao Thái Âm tại Hợi, sao Thiên Đồng và sao Cự Môn ở cung Sửu hội chiếu, là cách cục "Minh châu xuất hải" (Ngọc châu ra khỏi biển), vững bước đường mây. Nếu cung mệnh đóng tại cung Sửu hoặc cung Mùi, sao Thái Dương, Thái Âm miếu địa, vượng địa ở cung tam hợp chiếu; hoặc Thái Dương ở cung Thìn, Tị, Thái Âm ở cung Tuất, Dậu, là cách cục "Nhật Nguyệt tịnh minh" (mặt trăng và mặt trời cùng sáng, hay còn gọi là cách cục "Đan trì quế trì" bậc son thềm quế), đường công danh sớm rộng mở. Nếu cung mệnh đóng tại Sửu, Mùi, mà Thái Dương và Thái Âm cùng đến hoặc đối cung chiếu về, cách cục "Nhật Nguyệt đồng lâm" sẽ làm quan lớn. Nếu Thái Dương, Thái Âm đều ở cung điền trạch, hoặc ở cung tam hợp hội chiếu cung điền trạch, là cách cục "Nhật Nguyệt chiếu bích" (mặt trăng và mặt trời chiếu vách), sẽ có rất nhiều đất đai. Nếu Thái Dương đồng cung với Cự Môn tại cung Dần, Thân là cách cục "Cự Nhật đồng cung", chủ về khổ trước sau thành tựu. Nếu các sao Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn hội tụ tại các cung mệnh, quan, tài, thiên tam vương tứ chính, là cách cục "Dương, Lương, Xương, Lộc", chức tước tiền tài đều đẹp. Nếu sao Thái Dương miếu địa cùng với Văn Xương ở cung quan lộc, là cách cục "Hoàn điện thủ ban" (quan đứng đầu ở điện rồng), phú quý toàn mỹ. Nếu sao Thái Âm tại cung Thìn, Mão mà sao Thái Dương tại cung Tuất, Hợi, lạc hãm thủ mệnh, là cách cục "Nhật Nguyệt phản bối" (mặt trời và mặt trăng trở mặt), là mệnh vất vả lao nhọc, ít duyên với cha mẹ. Nếu sao Thái Dương, Thái Âm lạc hãm tại cung tật ách, là cách cục "Nhật Nguyệt tật ách", chủ về thân thể có khuyết tật.

    Ca Quyết:

    Thái Dương nguyên thuộc hỏa; Chính phủ Quan Lộc tinh 

    Nhược cư thân mệnh vị; Bẩm tính tối thông minh

    Từ ái lượng khoan đại; Phúc thọ hưởng hà linh 

    Nhược dữ Thái âm hội; Sâu phát qui vô luận 

    Hữu huy chiếu Thân mệnh; Bình bộ nhập kim môn 

    Cự Môn bất tương phạm; Thăng điện thừa quân ân

    Thiên viên phùng ám độ; Bần tiện bất khả ngôn

    Nam nhân tắc khắc phụ; Nữ mệnh phu bất toàn

    Hỏa Linh phùng nhược định; Dương Đà nhãn mục hôn 

    Nhị hạn nhược trí thử; Tất định mại điền viên.

    Nghĩa là:

    Sao Thái Dương thuộc hành hỏa, là Quan Lộc tinh, ở cung Thân Mệnh bẩm tính thông minh, từ ái và khoan hậu đại phúc, đại thọ. Nếu có thêm Thái Âm hội tụ phát quí vô cùng. Ánh sáng Thái Dương chiếu vào Thân mệnh dễ đi đến cửa vàng cung điện. Gặp Cự Môn nơi hãm địa lại bần tiện vô tả, nữ mệnh chồng không vẹn toàn. Tứ Sát, Dương Đà, Hỏa Linh vây hãm thì bị đau mắt, hạn Thái Dương có Tứ Sát xung phá bán hết gia nghiệp. 

    Những câu phú về sao Thái Dương ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có: 

    Thái dương miếu địa Ngọ, Mão vượng địa Dần, Thìn, Tị hãm Tuất, Hợi, Tý. 

    Nhật chiếu lôi môn, Tý Thìn, Mão địa trú nhân sinh, phú quí thanh dương. (Thái dương đứng trong cung Tý, Thìn, Mão, Dậu là mặt trời chiếu cửa sấm, người sinh ban ngày phú quí nổi danh). 

    Thái Dương cư Ngọ, Canh Tân Đinh Kỷ nhân phú quí song toàn. (Thái Dương ở Ngọ cung, người tuổi Canh Tân Đinh Kỷ, phú quí song toàn). 

    Thái Dương, Văn Xương tại Quan Lộc, hoàng điện triều ban. (Sao Thái Dương gặp Văn Xương tại cung Quan Lộc làm quan trong triều đình. Văn Khúc cũng vậy). 

    Thái Dương, Hoá Kỵ thị phi nhật hữu mục hoàn thương. (Gặp Hoá Kỵ, mắt hư đau bất ngờ). 

    Nhật lạc Mùi, Thân tại mệnh vị vi nhãn tiền cần hậu lãn. (Mệnh đóng cung Thân, Mùi có sao Thái Dương con người chóng chán, trước chăm chỉ sau lười biếng). 

    Nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo phối hiền phu tín khả bằng. (Số đàn bà, Thái Dương thủ mệnh đắc định là người đoan chính, sớm lấy chồng hiền).

     


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Đặc tính của sao Thái Dương

    Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

    Mơ thấy hoa đào thì tình yêu tốt đẹp, mơ thấy hoa hồng thì cẩn thận tình địch xuất hiện.
    Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Mỗi giấc mơ mang một ý nghĩa khác nhau. Ẩn ý trong giấc mơ về các loài hoa cũng khác nhau. Mơ thấy hoa đào thì tình yêu tốt đẹp, mơ thấy hoa hồng thì cẩn thận tình địch xuất hiện.


    Giai ma giac mo mo thay hoa no hinh anh
    Mơ thấy hoa hồng là tình địch sắp xuất hiện

     
      Mơ thấy hoa nở là ngụ ý quan hệ bạn bè có khả năng xa rời, người bạn thân của mình có tình yêu bận bịu hẹn hò mà không có thời gian dành cho bạn.

     
    Gặp hoa đào nở rộ là ngụ ý toàn thể vận trình một bước tiến một bước lui. Gặp chuyện tốt lành thì có tiềm ẩn sự việc khiến bạn thất vọng. Lúc này bạn tốt nhất nên giữ bình tĩnh không nên quá lơ là mà gặp khó khăn bất ngờ.

     
    Mơ thấy một vùng đầy hoa là ngụ ý tình cảm anh em hòa thuận, tốt đẹp, thời gian nửa năm sẽ không cãi cọ, mâu thuẫn.

     
    Mơ thấy hoa cúc nở là ngụ ý tiền tài sắp nở rộ.


    Giai ma giac mo mo thay hoa no hinh anh 2
    Mơ thấy hoa đào là dự báo tình yêu tốt đẹp
    Mơ thấy hoa đào bị gió thổi bay là ngụ ý tình yêu tốt đẹp, có thể kỳ vọng vào các buổi hẹn hò hạnh phúc. Bạn có thể đi xem phim, đi hát hay tham gia liveshow.

     
    Mơ thấy hoa hướng dương nở rộ và đung đưa rất đẹp là bạn sắp được nửa kia chú ý.

     
    Mơ thấy hoa trà nở là chuyện tình yêu phát triển, tâm lý hai người rất gần gũi phải ngày nào cũng gặp nhau khiến người khác lo lắng.

     
    Mơ thấy hoa hồng nở thì cảnh giác, tình địch sắp xuất hiện.

    Lichngaytot.com

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

    Lưu ý phong thủy cho kiểu giường –

    Ván đầu giường chắc chắn giúp chống đỡ và bảo vệ người ngủ trên giường, nhất là trong trường hợp giường không nằm ở vị trí tốt. Ván chân giường có thế bảo vệ chân giường, nhưng nếu ván chân giường cao quá hoặc bạn khá cao thì có thể tạo cảm giác bị g

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    iam hãm; hãy tự suy xét tác động của ván chân giường. Kiểu giường có các thanh gỗ dọc hay thanh kim loại cũng tạo cảm giác bị giam cầm; hãy chọn kiểu giường có ván đầu giường chắc chắn, hoặc đảm bảo là quanh giường có nhiều chỗ để đi lại thoái mái.

    giuong-13

    Mọi dạng thiếu ổn định về vật chất quanh giường ngủ đều có thể dẫn tới tình trạng không ổn định trong các lĩnh vực khác của cuộc sống. Ván đầu giường không gắn chắc vào giường có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, các mối quan hệ và tài chính của bạn, vì thế phải sửa ngay. Nếu khung giường dễ dàng xoay tròn trên bánh xe ở chân giường, hoặc bị lung lay, việc cố định giường chắc chắn hơn sẽ giúp ngày làm việc của bạn thêm ổn định.

    Khí phải lưu thông xung quanh và phía dưới giường. Giường đệm có các phía kín – nhất là loại có ô kéo gắn liền – đặc biệt có vấn đề. Không những khí không thể lưu thông thoải mái phía dưới giường, mà các đồ vật trong ô kéo và chuyên động của ô kéo còn có thể quấy rầy giấc ngủ của bạn.

    Đệm của giường cỡ lớn được đặt trên hai tấm lò xo có khung hình hộp. Sự chia tách kín đáo bên dưới phần giữa của chiếc giường ngụ ý sự tan vở trong quan hệ; có thể góp phần tạo ra mâu thuẫn và ly thân, thậm chí dẫn đến lỵ hôn. Để hóa giải tình thế này, hãy lấy đệm ra và trải một mảnh vải dài màu đỏ lên trên ranh giới của hai tấm lò xo. Phải dùng vải một màu đò, rộng ít nhất khoảng 90 cm và đủ dài để trùm kín các đầu của tấm lò xo và gặp được xuống dưới. Sau đó, đặt lại đệm lên giường và giờ đây, về mặt năng lượng, bạn và người bạn đời đã có thể gần nhau.

    Ghế đi-văng và sô-fa rất tốt đối với các vị khách ngủ lại trong thời gian ngắn nhưng không thích hợp để sử dụng lâu dài. Chúng thường được kê ở phòng khách, phòng làm việc ờ nhà hay chỗ khác, không có lợi cho giấc ngủ. Việc gấp, trải giường hàng ngày và sử dụng với nhiều mục đích (ban ngày làm ghế, ban đêm làm giường) – khiến giấc ngủ đêm kém về phong thủy.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Lưu ý phong thủy cho kiểu giường –

    Những giấc mơ lành –

    - Mơ thấy nước xanh trong: đại cát đại lợi. - Mơ thấy nước trong: điềm lành. - Mơ thấy gội đầu: đại cát, có tiền. - Mơ thây thân mình nhẵn bóng: rất tốt. - Mơ thấy dời chỗ ở, tắm gội: khỏi bệnh, thăng quan. - Mơ thây giặ
    Những giấc mơ lành –

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Những giấc mơ lành –

    Những bí quyết vượng nhân duyên, chọn đối tác cực chuẩn

    Quan hệ xã giao là một phần quan trọng của cuộc sống, cùng áp dụng ngay những bí quyết vượng nhân duyên nhé.
    Những bí quyết vượng nhân duyên, chọn đối tác cực chuẩn

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Quan hệ xã giao là một phần quan trọng của cuộc sống, có thể ảnh hưởng tới thành bại được mất về công việc, tình cảm và nhiều phương diện khác. Biết cách tận dụng các mối quan hệ có thể giúp chủ nhân nhận được thành công bất ngờ mà tiết kiệm công sức, thời gian, tiền bạc đáng kể. Cùng áp dụng ngay những bí quyết vượng nhân duyên nhé.   Những bí quyết vượng nhân duyên chủ yếu dựa vào quẻ mệnh ngũ hành và quẻ mệnh ngày sinh.  

    1. Chọn đồng nghiệp có ngũ hành bản mệnh tương sinh với mình


    Nhung bi quyet vuong nhan duyen, chon doi tac cuc chuan
     
    Nhân duyên có tác động rộng rãi tới công việc, hoi vọng thông qua các mối quan hệ quen biết để đạt thành công trong sự nghiệp không phải điều viển vông, vì thế chọn bạn mà chơi, chọn người mà hợp tác là điều không thể không lưu ý.    Bí quyết lựa chọn đối tác là lấy sở trường bù sở đoản, người này bổ sung khiếm khuyết của người kia. Nếu có thể hợp tác với đồng nghiệp có ngũ hành bản mệnh tương sinh với ngũ hành bản mệnh của mình thì sẽ hỗ trợ được rất nhiều.
    Xem thêm bài viết Luận đoán tính cách theo ngũ hành bản mệnh
     

    2. Chọn bạn bè có quẻ bản mệnh tương sinh với mình

      Bát quái chia quẻ bản mệnh của con thành thành 8 quẻ chính là Càn, Chấn, Khôn, Tốn, Cấn, Ly, Khảm. Người có quẻ bản mệnh tương sinh với quẻ bản mệnh của mình sẽ có trợ giúp lớn đồng thời có sự hòa hợp, tốt lành, mang tới may mắn trong cuộc sống.   Ngũ hành Mộc là quẻ Chấn và quẻ Tốn, tương sinh với quẻ này là ngũ hành Thủy, quẻ Khảm. Ngũ hành Hỏa quẻ Ly có quẻ bản mệnh tương sinh là ngũ hành Mộc quẻ Chấn, quẻ Tốn. Ngũ hành Thổ quẻ Khôn, quẻ Cấn có quẻ bản mệnh tương sinh là ngũ hành Hỏa quẻ Ly. Ngũ hành Kim quẻ Càn có quẻ bản mệnh tương sinh là ngũ hành Thổ, quẻ Khôn, quẻ Cấn. Ngũ hành Thủy quẻ Khảm có quẻ bản mệnh tương sinh là ngũ hành Kim quẻ Càn, quẻ Đoài.    Có điều đáng chú ý là người quẻ bản mệnh tương sinh với mình có thể khích lệ, trợ giúp mình tiến lên trong cuộc sống. Còn quẻ bản mệnh của mình tương sinh với của người khác thì bản thân sẽ chiếu cố người đó.  

    3. Đeo lắc tay thủy tinh hồng giúp hòa hoãn quan hệ với nữ giới

      Khi giao du với nữ giới có thể sẽ xảy ra những tranh chấp phức tạp, đặc biệt là khi quan hệ có trục trặc thì không dễ dàng nối lại tình xưa. Lúc này, hãy sử dụng bí quyết phong thủy vượng nhân duyên là đeo lắc tay bằng thủy tinh hồng. Trên phương diện phong thủy, thủy tinh trong suốt dịu dàng, đại biểu cho tâm ý hòa bình.   Mang trên người có thể phát huy sự nhẹ nhàng, khích lệ sự trang nhã bình tĩnh trong mỗi con người, giúp hóa giải mối quan hệ bế tắc. Nữ giới là đối tượng nên đeo loại trang sức này nhất để kiềm chế tính nóng, hình thành nhu hòa, tránh khỏi xích mích đua chen với những người phụ nữ khác.
    cach vuong nhan duyen
     
    Ngoài ra lắc tay thủy tinh hồng còn tốt cho nhân duyên, vượng đào hoa, thúc đẩy tình yêu và có lợi cho thân thể. 
    Xem thêm bài viết So sánh tác dụng chiêu tài của 4 loại thủy tinh phổ biến
     

    4. Sử dụng Kỳ Lân giải quyết rắc rối xã giao

      Kỳ Lân trong phong thủy là thần thú có linh lực mạnh mẽ, thông minh lại nhân nghĩa, còn được gọi là nhân thú – thú mang tính người. Kỳ Lân có thể hóa sát, giải quyết tất cả các phân tranh mâu thuẫn, điều chỉnh quan hệ xã giao hữu hiệu.    Chỉ cần đặt Kỳ Lân đã khai quang ở phương vị cát tường trong nhà hoặc trong phòng thì vật phẩm phong thủy hóa sát này có thể làm sạch mọi năng lượng xấu, những phiền toái trong quan hệ xã giao cũng nhanh chóng được giải quyết ổn thỏa.   

    5. Quan hệ tay ba vượng nhân duyên trong công việc

      Về tình cảm thì quan hệ tay ba là kiêng kị nhất nhưng trong sự nghiệp thì chính mối quan hệ này lại mang tới điềm lành. Ví dụ như bản thân không hợp với cấp trên, đồng nghiệp thì chính mối quan hệ tay ba sẽ giúp mình không bị cô lập, không bị kẹt giữa rắc rối.    Quan hệ tay ba này là nhắc tới sự đan xen của các quẻ bản mệnh, Ví dụ mình quẻ Càn, cấp trên quẻ Ly thì thường nảy sinh những ý kiến bất đồng vì ngũ hành Kim bất hòa với ngũ hành Hỏa, lúc nào cũng có tranh chấp. Lúc này nếu có đồng nghiệp hoặc người liên quan mệnh ngũ hành Thổ quẻ Khôn, quẻ Cấn đứng giữa điều đình, hòa giải.    Họ không những hiểu rõ ý đồ của người cấp trên mệnh Hỏa mà còn nói rõ, phân tích cho người mệnh Kim. Họ chính là người đứng giữa trong mối quan hệ tay ba để cứu viện, trợ giúp cả hai bên.   Những cách vượng nhân duyên ở trên mang tính chất tham khảo, giúp lựa chọn được những người tốt nhất cho cuộc đời của mình, để các mối duyên đều phát triển theo chiều hướng tích cực. 
    Những lá số tử vi phú quý, định sẵn giàu có phát tài Luận đoán số mệnh của người bát tự có Kiếp Tài Hướng dẫn xem lá số tử vi đơn giản dựa vào thần sát
    Trần Hồng
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Những bí quyết vượng nhân duyên, chọn đối tác cực chuẩn

    Tu tâm theo lời Phật dạy để tạo nghiệp lành

    Phật dạy phải tu tâm hàng ngày hàng giờ để sửa mình, cố gắng trở thành người thiện, tu được nghiệp lành.
    Tu tâm theo lời Phật dạy để tạo nghiệp lành

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Con người sinh ra như tờ giấy trắng, sống thiện thì thành người thiện, sống ác thì thành người ác. Bởi vậy,


    ► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

    Tu tam theo loi Phat day de tao nghiep lanh hinh anh
     
    Tấm lòng của mỗi người tuy khác nhau nhưng đều chung một đích là hướng thiện. Muốn có tấm lòng trong sáng, tốt đẹp, được người yêu thần quý thì nên săn sóc, nuôi dưỡng tấm lòng của mình (hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, hàng giây. 
     
    Tu tâm là việc có thể tự làm ở ngay tại nhà, ngay trong từng việc nhỏ hàng ngày, ở bất kì nơi đâu. Ở nhà biết kính trên nhường dưới, hòa nhã, yêu thương, ra đường biết bênh yếu chống mạnh, bảo vệ lẽ phải, chấp hành pháp luật cũng là tu tâm.
     
    3 điều sau rất có ích cho việc dưỡng tâm lại đơn giản, nên học theo:
     
    1. Thở chậm và điều hòa. Nếu có thể mỉm cười, dù bằng mắt hay chỉ nghĩ đến niềm vui trong lòng tức là để tâm hài hòa với mọi sự và mọi vật xung quanh.
     
    2. Buông nhẹ hai vai, thả lỏng thân thể cho mọi phiền muộn, những điều không may mắn chạy xuống chân, ra khỏi thân thể và tan biến vào lòng đất.
     
    3. Ðể một cái lọ thủy tinh ở chỗ dễ nhìn thấy nhất. Mỗi lần đi ra hay đi vào nhìn thấy lọ thủy tinh thì nhớ nhắc mình bỏ những đồng tiền xu, tiền cắc vào đó và tâm niệm “tôi đóng góp số tiền này để có thể giúp đỡ những trẻ mồ côi, người già yếu hay những ai kém may mắn, vất vả, thiếu thốn trên đường đời...”.
     
    Những điều ấy tuy nhỏ thôi, nhưng như nước dưỡng cây, nuôi lớn tâm hồn, giúp ta trở thành người tốt, biết hướng thiện, sẻ chia và trở nên đẹp đẽ giữa cuộc đời.
     
    Tu tâm theo lời Phật dạy, mỗi một người tốt sẽ góp phần làm nên một xã hội tốt, tu tâm và dưỡng tính, theo lời Phật dạy là tạo phúc cho bản thân.
    Theo Truyen8
     
     
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tu tâm theo lời Phật dạy để tạo nghiệp lành

    Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

    Tội lỗi thì ai cũng có, dù ít dù nhiều, khi chưa trở thành bậc thánh nhân thì ai cũng giống nhau ở chỗ đều có tội lỗi gây ra, tự tạo nghiệp mà có nhân quả
    Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Tội lỗi ai cũng có, dù ít, dù nhiều. Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.

    Câu chuyện về tội lỗi

    Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:

    Này các Tỷ kheo, có bốn hạng người này hiện hữu, có mặt ở đời. Thế nào là bốn ? Có tội, nhiều tội, ít tội và không có tội.

    Thế nào là hạng người có tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tội. Như vậy là hạng người có tội.

    Và thế nào là hạng người nhiều tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có nhiều tội. Như vậy là hạng người có nhiều tội.

    Thế nào là hạng người có ít tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội nhiều, chỉ có ít tội. Như vậy là hạng người có ít tội.

    Và thế nào là hạng người không có tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội. Như vậy là hạng người không có tội.
    Có bốn hạng người này, này các Tỷ kheo, hiện hữu, có mặt ở đời.

    (ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 4, phẩm Loài người, phần Có tội [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.72)

    LỜI BÀN

    Tội lỗi là một trong những thuộc tính cơ bản của chúng sanh. Con người có mặt ở trên đời thì tội lỗi có mặt. Thậm chí từ trong quá khứ, trước khi được sinh ra, tội lỗi hay nghiệp đã đóng vai trò chi phối, là tác nhân chính để hình thành nên hình dáng, tính cách, hoàn cảnh của mỗi cá nhân trong hiện tại. Vì thế, con người là sự kế thừa tội lỗi, nghiệp lực của chính mình và do vậy, người sống trên đời có tội cũng là chuyện bình thường.

    Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.

    Tuy chúng ta chấp nhận có tội vì hiện ba nghiệp chưa thanh tịnh nhưng tội phải ít và nhỏ thôi và điều cần thiết nhất là tự thân phải rõ biết điều đó. Khi còn trong thân phận chúng sanh, biết rõ những hạn chế, thói hư tật xấu của chính mình để phấn đấu, vươn lên, loại trừ điều ác, đạt đến sự hoàn thiện là tối cần. Con người sở dĩ ngày càng tạo nhiều tội lỗi, một phần do không nhận chân được điều xấu ác hoặc xem những điều xấu ác hiện tồn tại với số đông là bình thường, thậm chí không ít người còn tự mãn với những thành tựu dựa trên nền tảng tham sân si.

    Hơn ai hết, người con Phật cần phải trở về với chính mình, biết rõ mọi hành vi của tự thân nhằm kiểm soát, từng bước làm chủ, chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác. Đạt đến sự hoàn thiện, không tội lỗi là một lộ trình dài. Nền tảng cơ bản của lộ trình đó là tuệ tri, biết rõ tự thân có tội nên trước hết phải cố gắng để không tạo thêm nhiều tội lỗi đồng thời phát huy thiền quán để thấy mọi tội lỗi đều xuất phát từ tâm, tâm thanh tịnh tức ba nghiệp thanh tịnh.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

    Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

    Một bài viết rất hay của tác giả Phong Nguyên tìm hiểm về tính tình phái nam qua tử vi. Đây là một vấn đề rất hay!
    Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Bài viết của tác giả PHONG NGUYÊN

    Tôi đã có dịp bàn về tính tình phụ nữ qua tử vi trên giai phẩm này. Để cho được công bằng như đã hứa, nay tôi xin thảo luận về tính tình phái nam vì e rằng sự chậm trễ thêm nữa sẽ có thể bị các bà, các cô hiểu lầm là tôi gián tiếp che đậy các “nhược điểm” của những người đồng phái, bằng cách tránh sẽ viết bài này.

    1) Những yếu tố Tử vi tiêu biểu cá tính tốt

    Trước hết tôi cần nói rằng vì khuôn khổ bài báo giới hạn nên tôi chỉ có thể nêu ra những yếu tố tiêu biểu mà thôi, và như vậy đương nhiên có rất nhiều trường hợp không được đề cập đến sẽ có thể làm cho những độc giả liên hệ hơi bực mình, nhưng tôi cũng chẳng biết làm sao đáp ứng hết mọi ý muốn của độc giả.

    a) Sao Tử Vi thủ Mệnh

    Đối với phái nam, nếu tôi là phụ nữ tôi ưa nhất những người nào có Tử vi đơn thủ tại mệnh ở Ngọ (nhất là người tuổi Hành Thổ và Kim) vì nguyên một sao này đã hội đủ hết đặc tính hay của đàn ông.

    Thực tế, tôi đã nghiệm thấy nhiều người chỉ có sao này mà biết bao nhiêu cô chết mê chết mệt, vì ngoài tư thái trượng phu, quân tử, bao dung, quý phái, các đương số còn rất lịch thiệp, có thể nói là rất Galant, đó là chưa kể đến vóc dáng hiên ngang, oai vệ và diện mạo khôi ngô (không phải thuộc phạm vi bài này). Tuy nhiên, nếu cô nào hay ghen tuông thì lại không nên kén chọn ý trung nhân có Tử Vi thủ Mạng, vì làm sao ông chồng có thể giữ trọn vẹn trung thành với mình, mặc dầu không mấy khi đương sự phản bội mình một cách trắng trợn hoặc tàn nhẫn, vì sao Tử Vi luôn giữ vững tư cách của nó. Nhưng nếu nói khách quan thì cô nào có đức lang quân như vậy tưởng cũng là một điều hãnh diện cho mình khi thấy xung quanh biết bao nhiêu phụ nữ mong muốn có người chồng như mình.Nếu ngoài sao Tử vi ra lại còn có Khôi Việt, Đào Hồng nữa thì phải nói là sự tốt đẹp đã gia tăng lên bội phần. Khi đó ta có thể cho rằng đương số thành công tuyệt vời đối với phụ nữ, nếu không muốn nói đến công danh cũng hiển hách. Còn trường hợp bị Tuần Triệt án ngữ hoặc Không Kiếp xâm phạm quý bạn đừng vội khen vì lúc đó đương số mất hết cả những điểm hay, có khi cón tỏ ra gàn dở, ngang bướng hoặc lẩm cẩm nữa...

    Sau cách Tử vi cư Ngọ, tôi thích cách Tử Phủ (Dần hoặc Thân, nhưng Tử Phủ cư Thân hay hơn về phương diện khác) nhưng cũng với điều kiện không bị Tuần Triệt hoặc Không Kiếp xâm phạm thời mới hay. Sở dĩ tôi không coi cách này hay hơn Tử Vi cư Ngọ,vì khi đã có Thiên phủ đồng cung thì tính tình trở nên đạo mạo, đứng đắn quá khiến cho phụ nữ cảm thấy cuộc sống hơi khô khan, buồn tẻ; nhất là khi có thêm Lộc tồn, Cô Quả tăng cường, thì có lẽ cả ngày đương số chẳng buồn mở miệng nói chuyện với vợ. Nhưng đối với chị nào chỉ thích chồng ru rú tại nhà và đạo đức, đứng đắn thì chắc cách Tử Phủ là hay nhất. Về cách Tử Vi, Thất sát (cư Tỵ hoặc Hợi) cũng có những đặc tính tương tự như Tử Phủ, nghĩa là con người đứng đắn, chỉ biết lo làm ăn mà thôi.

    Còn những cách Tử Phá, Tử Tham, Tử Tướng tôi không liệt kê vào phần tốt được vì tuy đối với phái nam những cách đó không xấu bằng đối với phụ nữ, nhưng ít ra cũng có nhiều điểm không thể khen được.

    b) Thiên Lương thủ Mệnh

    Có thể nói bất cứ Thiên Lương ở đâu (trừ ở Hợi) cũng đều được cả về phương diện tính tình vì dù sao Thiên lương cũng chủ về đứng đắn, tư cách mà ta thường thấy ở các nhà mô phạm, giáo chức, nhưng tốt nhất là Thiên Lương cư Ngọ và sau nữa là Đồng Lương (cư Dần hoặc Thân), Cơ Lương (cư Thìn hoặc Tuất).

    Thiên lương cư Ngọ dù có gặp Đào Hồng tính tình của đương số vẫn không đến nỗi tệ vì Thiên Lương vẫn chế ngự được thói hoa nguyệt của Đào Hồng, nhất là khi có Hóa Quyền hoặc Thiên Hình đồng cung. Còn trường hợp Đồng Lương cần có thêm Hóa Quyền để gia tăng nghị lực và uy lực vì Lương dính với Đồng sẽ trở nên “nhu nhược” phần nào, là một điểm đàn ông nên tránh. Riêng về Cơ Lương thì khỏi cần có Hóa Quyền cũng được, vì Lương đi với Cơ là con người rất mưu trí, khôn ngoan khó lòng ai qua mặt được nếu bề ngoài đương số tỏ ra hiền lành, mềm mỏng nhưng trong tâm hồn đã có sẵn cả một kế hoạch để đối phó khi cần. Nếu chị em nào cần người quán xuyến, tháo vát, lanh lợi ngầm, có lẽ nên chọn người có Cơ Lương hơn là Đồng Lương, vì Đồng Lương còn có tính ham vui chơi, hay nhảy nơi này nơi khác.

    c) Nhật Nguyệt thủ Mệnh

    Đa số những người có Nhật Nguyệt chiếu Mệnh thường hay có hoài bảo lớn lao, muốn chọc trời khuấy nước, trừ trường hợp Nhật Nguyệt hãm địa. Nhất là người có Thái Dương độc thủ tại Ngọ lúc nào cũng rất muốn thực hiện những kế hoạch độc đáo, phi thường, ngoạn mục mặc dầu có tính cách giai đoạn cho nên tính tình bị ảnh hưởng rất nhiều về sự “bốc đồng” đó. Tính tình này có hợp với phụ nữ hay không còn tùy thuộc tâm hồn từng hạng người. Ngoài ra, người có Nhật Nguyệt còn hay mơ mộng thái quá, ít thực tế nên dễ bị thiếu thốn về vật chất, nếu có nhiều cách khác làm giảm sự tốt đẹp của Nhật Nguyệt đi. Vì vậy tuy Nhật Nguyệt là cách của những người thông minh tuyệt vời, nhưng tôi không dám nghĩ là cách tốt nhất đối với nhãn quan của phụ nữ bởi vì không có gì bực mình bằng sống bên người chồng tối ngày miệt mài với kế hoạch này kế hoạch nọ, chẳng còn biết nhìn vào cuộc sống thực tế hoặc lãnh vực tình cảm gia đình. Có những trường hợp được Nhật Nguyệt mà không thông minh thì lại có tài về kinh doanh, buôn bán cho nên cũng quá lo bon chen trên đường danh lợi mà quên lãng nhiều gia đình, vợ con. Nếu chỉ nghĩ đến tiền tài là đủ thì nên lập gia đình với người có Nhật Nguyệt, nhất là khi có Tả Hữu, Song Lộc.

    d) Thiên Phủ Thủ Mệnh

    Bất cứ trừơng hợp nào quý bạn thấy có Thiên Phủ tại Mệnh, quý bạn có thể tin tưởng được là đương số đứng đắn, trung hậu, khoan dung, dù có bị Tuần, Triệt án ngữ cũng vậy chỉ có giảm đi phần nào chứ không có bị kết quả ngược lại. Nhưng đa số phụ nữ bây giờ không ưa ông chồng đứng đắn quá mức, ít ra cũng có chút “lả lướt” đối với mình mới cho là có hạnh phúc. Nhất là khi có thêm Cô, Quả, Lộc Tồn, Quan Phúc thì chắc chắn đương số sống như một nhà tu hành.

    e) Thiên Đồng Thủ Mệnh

    Sau hết là sao Thiên đồng thủ Mệnh mà tôi cho là không được “thuận lợi” lắm đối với phụ nữ, vì sao này trước hết chủ về tính tình mềm yếu, đôi khi đâm ra nhu nhược. Đó là những tính người phụ nữ không phục và cũng không ưa. Sau nữa Thiên đồng chủ về sự hay thay đổi, mau chán, ít khi giữ vững được lập trường cho nên khó lòng trung thành được với người yêu hoặc vợ. Nhưng dù sao vẫn phải liệt kê Thiên đồng vào phần cá tính tốt vì sao đó vẫn chủ về tâm hồn đạo đức, hiền lành, tử tế là những tính cần thiết cho người đàng hoàng. Chỉ có điều cần là nên có thêm Hóa Quyền đồng cung và Thiên Hình nữa càng hay, để giảm bớt sự nhu nhược và tăng thêm nghị lực để giữ vững lập trường là trở thành hay ngay.

    2) Những yếu tố tử vi tiêu biểu cá tính xấu

    a) Tham Lang –Địa Kiếp

    Cũng như đối với phụ nữ, hai sao này không nên có tại Mệnh của phái Nam. Tuy nhiên, đối với phái nam đặc tính xấu có phần giảm bớt về cách cư xử với vợ con, gia đình vì họ chỉ có thủ đoạn với xã hội hoặc bạn bè mà thôi. Đó là điểm khác giữa phái nữ và phái nam khi có hai sao này thủ mạng. Thực thế, tôi đã được xem nhiều lá số của phái nam về trường hợp này thì thấy rằng có người rất lưu manh trong xã hội nhưng lại biết lo toan tận tình cho cha mẹ, vợ con. Như vậy chị em nào thấy chồng mình có Tham lang hội Địa Kiếp đừng vội chán ghét đức lang quân mà tội nghiệp. Nhưng trường hợp ngược lại thì không phải đâu nghe!

    b) Liêm Tham (đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi)

    Hai sao này thủ Mệnh thường thường tiêu biểu cho người đàn ông cục cằn, vũ phu tuy vẫn có tình cảm. Nếu chẳng may có thêm Hóa Quyền và Hỏa Linh thì phụ nữ không nên chung sống với đương số vì sẽ bị nô lệ hoàn toàn và còn bị mắng chửi tối ngày. Trong trường hợp này rất cần những sao “hiền” chế hóa bớt đi, như có Hóa Khoa, Đào Hồng, Khôi Việt, Tràng sinh, Đế vượng…thì có thể chịu đựng nổi. Nhưng đối với xã hội, bạn bè thì đương số lại là người rất sốt sắng, trung thực, thẳng thắn, vị tha, cởi mở và rộng rãi.Tôi đặt trường hợp Liêm Tham vào mục “xấu” là vì tôi muốn đứng vào lập trường phụ nữ tìm hiểu phái nam.

    c) Liêm-Sát (đồng cung tại Sửu hoặc Mùi)

    Cũng như Liêm Tham, hai sao này chủ về sự nóng nảy, thẳng thắn thái quá, ít khi chịu tỏ ra mềm mỏng, tế nhị, nhất là khi có Hóa Quyền, Thiên Hình đồng cung, thành ra không phải là cách phụ nữ mong muốn, nhưng đối với xã hội loại người này lại rất đáng khen vì không những họ thẳng thắn, trung thực mà họ còn trong sạch, liêm khiết, khó lòng bị mua chuộc. Nếu họ được giao phó nhiệm vụ bài trừ tham nhũng, hoặc thanh tra guồng máy chính phủ, quân đội thì chắc chắn họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn. Do đó, chỉ vì đứng vào lập trường phụ nữ mà tôi phải đưa người Liêm Sát vào mục “xấu”, rất mong những độc giả nào có hai sao này hãy thông cảm cho lý do “chuyên môn” đó.

    d) Vũ Phá đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi

    Những người có 2 sao này thủ Mạng bề ngoài tỏ ra con người hiền hòa, cởi mở và dễ tính nhưng thực ra quý bạn phải coi chừng tâm hồn họ hay có phản ứng mạnh mẽ nhưng thầm lặng và thực ra họ rất khó tính: hơi một chút trái ý, họ còn có tính thích chọc phá người khác khi thấy có gì ngang tai trái mắt, họ ưa phù suy chứ không phù thịnh, cho nên đối với loại người này chỉ dùng sự phục tòng, chiều lụy thì thành công chứ không thể nào gây ảnh hưởng bằng uy lực, tiền tài…được. Vì vậy, người vợ cũng khó chiều những ông chồng nào có Vũ Phá tại Mệnh và có khi suốt cả đời cũng chẳng hiểu nổi người bạn đời của mình, như thế không thể có hạnh phúc gia đình được.

    e) Thiên Cơ-Thái Âm (đồng cung tại Dần hoặc Thân)

    Đàn ông chẳng may có Thiên Cơ đồng cung với Thái âm tại Mệnh thì chỉ làm nô lệ cho đàn bà và chẳng có gì đáng khen cả. Nếu chỉ coi người này như là bạn hoặc người tình thì có thể nói là không sao mà còn cảm thấy thoải mái được người yêu chiều lụy mình nhưng khi đã có chồng Thiên Cơ Thái Âm như vậy thì đó là điều bất hạnh, vì không sớm thì chồng mình sẽ chạy theo người đàn bà khác và sẽ tuyệt đối phục tùng người đó ngoài vợ mình ra. Như thế còn gì nhục nhã cho bằng. Trong trường hợp này rất cần có Hóa Quyền cứu vớt thể diện phần nào, chứ nếu có thêm Hồng Loan hoặc các sao ủy mị nữa thì vô phương cứu chữa được sự nhục nhã ê chề đó.

    Tôi xin tạm ngừng phần “xấu” ở đây và nói với quý nữ độc giả là về phương diện tính tình, tương đối phái nam chịu ảnh hưởng các sao xấu ít hơn phụ nữ, vì môi trường hoạt động của họ khác hẳn môi trường của phái nữ, chứ không phải tôi có ý che đậy những khía cạnh xấu của họ. Tỷ dụ như phụ nữ có Tham Lang bao giờ cũng tệ hại hơn phái nam, hoặc có Tang Hổ thì bất lợi hơn hẳn phái nam trong khi hai sao này có nhiều khía cạnh “xài được” cho đàn ông.

    Mục đích của bài này chỉ là để giúp quý bạn phụ nữ có một khái niệm về cách tìm hiểu phái nam qua Tử vi chứ không thể đưa ra một bản liệt kê tất cả những trường hợp tốt và xấu của phái nam để lựa chọn hoặc nhận định vì như thế sẽ quá dài và quá khó khăn đối với khuôn khổ bài báo và khả năng của tôi. Mong được quý bạn thông cảm, nhất là những nữ độc giả đã viết thư thúc giục tôi viết bài này.

    KHHB số 74J2


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

    Cách cục Phủ Tướng triều viên (Thiên phủ, Thiên tướng chầu Mệnh)

    Thiên phủ (hoặc Thiên Tướng) tại cung mệnh, Thiên Tướng (hoặc Thiên Phủ) tại cung Tài Bạch hoặc Quan Lộc hội chiếu, không bị sát tinh xung phá (Sao Thiên Tướng cần miếu vượng và không bị Tuần Triệt trấn đóng mới phù hợp).
    Cách cục Phủ Tướng triều viên (Thiên phủ, Thiên tướng chầu Mệnh)

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Ưu điểm: Phú quý song toàn, hưởng lộc dồi dào, được người khác kính trọng, quan hệ xã hội tốt, được quý nhân phù trợ.

    Khuyết điểm: Cẩn thận trong chuyện tình cảm và hôn nhân (Phá Quân hoặc Tham Lang đóng tại cung Phu Thê).
    Hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng, một sao nằm tại cung Tài Bạch, một sao nằm tại cung Quan Lộc, cùng hợp chiếu cung mệnh, tại cung vị tam phương tứ chính của cung mệnh có Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội mới phù hợp cách cục này. Nếu có tứ sát hoặc Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ gia hội là phá cách. Cách cục này chủ về có tình cảm sâu sắc với người thân và bạn bè, trọng tình cảm.

    Cách cục này có 3 trường hợp sau:

    1. Cung mệnh an tại cung Sửu không có chủ tinh, tại cung Tỵ có sao Thiên Phủ tại cung Dậu có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mùi không có chủ tinh, tại cung hợi có sao Thiên Phủ, cung Mão có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mão không có chủ tinh, cung Hợi có sao Thiên Tướng, cung mùi có sao Thiên Phủ chầu về, Cung mệnh an tại cung Dậu không có chủ tinh, cung Tỵ có sao Thiên Tướng, cung Sửu có sao Thiên Phủ chầu về.

    2. Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Sửu (Mùi), sao Thiên tướng tại cung Tỵ (hoặc Hợi) chầu về, Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Mão (Dậu), sao Thiên Tướng tại cung Mùi (Sửu) chầu về, sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Tỵ (Hợi), sao Thiên Tướng tại cung Dậu (Mão) chầu về.

    3. Sao Liêm Trinh trấn mệnh tại cung Dần (Thân), sao Thiên Phủ, Thiên Tướng tại cung Ngọ và Tuất (Tý và Thìn) chầu về, trường hợp này xem thêm cách cục Tử Phủ triều viên tại phần trước.

    Ca Quyết:
    Mệnh cung Phủ Tướng đắc cụ phùng
    Vô sát thân đương đãi thánh quân
    Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng
    Nguy nguy đức nghiệp mãn càn khôn

    Nghĩa là:
    Cung mệnh gặp được Phủ cùng Tướng
    Chẳng gặp sát tinh đợi vua hiền
    Phú quý song toàn người ngưỡng vọng
    Công đức lấy lừng khắp nhân gian

    Trong kinh văn có câu: "Thiên Phủ, Thiên Tướng là thần tước lộc, xuất sĩ làm quan, ắt là điềm hanh thông". Phủ Tướng gặp gỡ tại cung mệnh, cả nhà ăn lộc", Phủ Tướng triều viên là cực tốt, xuất sĩ làm quan rất tốt lành" (Cũng cần không bị tứ sát và các sao ác sát xung phá), Cung Dần gặp Phủ Tướng được làm quan nhất phẩm, mệnh nữ gặp sao Phủ, Tướng, con cái hiển đạt chồng vinh hoa".

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Cách cục Phủ Tướng triều viên (Thiên phủ, Thiên tướng chầu Mệnh)

    Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

    Hội Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 âm lịch tạixã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

    Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

    Hội Nguyễn Đình Chiểu

    Thời gian: tổ chức vào ngày 1 tháng 7 âm lịch.

    Địa điểm: xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

    Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

    Nội dung: Phần lễ được tổ chức long trọng với lễ dâng hương và lễ mít tinh tại khu di tích Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” được xướng lên trong không khí trang nghiêm là các hoạt cảnh diễn lại tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” nổi tiếng của nhà thơ.

    Phần hội cũng không kém phần sôi nổi với nhiều hoạt động như: bốc thuốc miễn phí, thi nấu ăn, kéo co, đập niêu, biểu diễn trống hội, Liên hoan đờn ca tài tử, thi hóa trang các nhân vật trong truyện “Lục Vân Tiên”, ngâm thơ, múa lân, thi đấu võ thuật,…

    Đến với Lễ hội truyền thống văn hoá tỉnh Bến Tre, du khách còn có dịp tham quan triển lãm ảnh về thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre và các tác phẩm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng như tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp văn chương của nhà thơ.

    Lễ hội Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức hàng năm gắn với ngày sinh của ông là một ngày hội lớn, niềm tự hào của người dân xứ dừa. Qua lễ hội nhằm tuyên truyền, học tập, kế thừa những giá trị tư tưởng, nhân cách, đạo đức của nhà giáo, thầy thuốc, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, góp phần tích cực vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa địa phương.


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

    Phân tích 51 cách cục thường gặp

    Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
    Phân tích 51 cách cục thường gặp

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

    Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

    CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

    Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

    Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

    Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

    Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

    Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

    Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

    Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

    Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

    Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

    Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

    Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

    Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

    CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

    "Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

    Cổ ca nói:

    Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

    Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

    Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

    Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

    Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

    Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

    "Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

    Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

    Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

    Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

    Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

    HÓA DIỆU LUẬN

    Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

    Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

    Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

    Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

    Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

    Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

    Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

    Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

    Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

    Đơn cử một ví dụ:

    Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

    Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

    Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

    Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

    Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

    Hóa Lộc luận

    Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

    Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

    Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

    Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

    Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

    Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

    Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

    Hóa Quyền luận

    Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

    Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

    Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

    Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

    Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

    Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

    Hóa Khoa luận

    Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

    Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

    Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

    Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

    Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

    Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

    Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

    Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

    Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

    Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

    Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

    Hóa Kị luận

    Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

    Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

    Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

    Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

    Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

    Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

    Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

    Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

    Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

    Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

    Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

    Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

    Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

    Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

    Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

    Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

    Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

    Cổ ca nói:

    Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

    Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

    Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

    Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

    Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

    Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

    Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

    Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

    Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

    + Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

    - Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

    - Năm Ất Canh gặp Mộc cục

    - Năm Bính Tân gặp Kim cục

    - Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

    - Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

    Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

    Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

    Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

    Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

    --------------------------------------------------------------

    Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

    Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

    Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

    Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

    Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

    -----------------------------------------------------------

    Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

    Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

    Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

    Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

    ---------------------------

    Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

    Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

    Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

    Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

    Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

    Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

    Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

    Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

    Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

    Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

    Văn xương - can Tân hóa Kị

    Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

    Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

    Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

    Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

    "Mệnh lý phùng không cách"

    "Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

    Cổ ca nói:

    Không diệu lai lâm cát diệu vô,

    Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

    Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

    Phú quý vinh hoa quá khích câu.

    Dịch nghĩa:

    Sao không đến mà cát diệu không

    Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

    Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

    Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

    Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

    Cổ nhân cho rằng:

    "Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

    "Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

    Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

    Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

    Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

    ------------------------------------------------------------

    Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

    Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

    Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

    Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

    Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

    Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

    Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

    Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

    Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

    Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

    Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

    Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

    Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

    Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

    Cự phùng tứ sát cách

    "Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

    Cổ ca nói:

    Cự môn lạc hãm tại thân cung,

    Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

    Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

    Tất tao lưu phối viễn phương trung.

    Dịch nghĩa:

    Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

    Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

    Nếu không cát tinh thời giải cứu,

    Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

    Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

    Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

    Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

    Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

    Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

    -------------------------------------------------------------

    Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

    Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

    Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

    Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

    Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

    Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

    Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

    Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

    Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

    Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

    Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

    Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

    Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

    Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

    -------------------------------------------------

    Cự Môn tổng luận

    Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

    "Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

    Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

    Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

    Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

    Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

    Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

    Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

    Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

    Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

    Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

    Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

    Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

    Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

    Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

    Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

    Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

    "Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

    Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

    Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

    Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

    - Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

    - Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

    - Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

    - Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

    - Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

    - Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

    Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

    Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

    Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

    Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

    Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

    Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

    Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

    Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

    Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

    Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

    Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

    Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

    Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

    Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

    Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

    Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

    Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

    Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

    Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

    Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

    Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

    Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

    Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

    Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

    Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

    Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

    Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

    Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

    Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

    Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

    Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

    Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

    Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

    Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

    Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

    Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

    "Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

    Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

    Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

    Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

    Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

    Đan trì quế trì cách

    "Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

    Cổ ca nói:

    Nhị diệu thường minh chính đắc trung

    Tài hoa thanh thế định anh hùng

    Thiếu niên tế đắc phong vân hội

    Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

    Dịch nghĩa:

    Hai sao thường sáng chính đắc trung

    Tài hoa thanh thế định anh hùng

    Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

    Một bước lên mây hóa thành rồng.

    Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

    Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

    - "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

    - "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

    - "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

    "Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

    Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

    Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

    Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

    Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

    ------------------------------------------

    Thái Dương tổng luận

    Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

    Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

    Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

    Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

    Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

    Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

    (1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

    (2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

    (3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

    (4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

    Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

    Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

    Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

    (1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

    Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

    (2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

    Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

    Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

    Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

    Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

    Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

    Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

    Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

    Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

    -------------------------------------------------

    Thái Dương biệt luận

    Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

    Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

    Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

    - "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

    - "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

    - "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

    - "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

    Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

    Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

    (1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

    (2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

    (3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

    Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

    Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

    Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

    Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

    Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

    Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

    Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

    So sánh Thái Dương với Tử Vi

    Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

    Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

    Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

    Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

    Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

    - Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

    - Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

    - Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

    Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

    Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

    Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

    Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

    Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

    Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

    Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

    Thái Âm tổng luận

    Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

    Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

    Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

    Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

    Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

    Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

    Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

    Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

    Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

    Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

    Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

    "Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

    Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

    - "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

    - "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

    Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

    Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

    Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

    Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

    Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

    Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

    Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

    (1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

    (2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

    Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

    Thái âm biệt luận

    Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

    Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

    Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

    Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

    Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

    Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

    Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

    Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

    Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

    Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

    Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

    Tả hữu đồng cung cách

    "Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

    Cổ ca nói:

    Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

    Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

    Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

    Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

    Dịch nghĩa:

    Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

    Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

    Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

    Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

    Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

    Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

    Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

    Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

    Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

    Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

    Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

    Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

    Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

    Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

    Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

    Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

    Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

    Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

    Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

    Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

    Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

    Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

    Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

    Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

    Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

    Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

    Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

    Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

    Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

    1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

    Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

    2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

    3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

    4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

    Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

    Tử Phủ đồng cung cách

    "Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

    Cổ ca nói:

    Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

    Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

    Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

    Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

    Dịch nghĩa:

    Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

    Trời đất tươi sáng vạn vật tân

    Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

    Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

    Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

    Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

    Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

    Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

     Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

    ------------------------------------------------

    LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

    "Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

    "Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

    Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

    Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

    Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

    Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

    Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

    Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

    Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

    "Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

    Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

    Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

    Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

    Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

    Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

    Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

    Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

    Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

    Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

    Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

    Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

    Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

    Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

    Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

    Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

    Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

    Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

    Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

    Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

     Phủ Tướng triều viên cách

    "Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

    Cổ ca nói:

    Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

    Vô sát thân đương thị thánh quân

    Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

    Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

    Dịch nghĩa:

    Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

    Không có sát tinh Thân hầu vua

    Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

    Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

    Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

    Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

    Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

    Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

    Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

    Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

    (Nguồn: sưu tầm)


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

    Đặc tính của sao Thiên Phủ

    sao Thiên Phủ ở cung Mệnh thì tánh tình khoan hòa, nhân hậu, ưa việc thiện, biết suy tính và có nhiều mưu cơ để lo việc khó khăn.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Đặc tính của sao Thiên Phủ

    Đặc tính của sao Thiên Phủ

    Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Phủ trong tử vi

    Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Khả năng Tứ hóa
    Thiên Phủ Nam đẩu (thứ 1) Dương thổ Lệnh Tài bạch, điền trạch, quan lộc Giải ách, kéo dài tuổi thọ không

    Tên saoThuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Phủ là dương thổ, là sao thư nhất trong chòm sao nam Đẩu, hóa khí là lệnh, còn gọi là Lộc Khố (kho lộc), tức cái nền của phú quý, tại đẩu trưởng quản phúc, quyền, tại số nắm giữ tài, lộc, có công năng giải trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ. Kho lộc của Thiên Phủ chủ về tiền tài có được do quan tước bổng lộc, chứ không phải tiền tài có được do tích lũy, vì vậy không thích hợp kinh doanh, mà thích hợp làm công chức.

    Sao Thiên Phủ là kho của cải trên trời, là đứng đầu các sao trong chòm Nam Đẩu, có trí tuệ và tài năng, thích điều khiển, chỉ huy người khác, chứ không thích bị người khác quản thúc, có năng lực lãnh đạo, nhưng khá bảo thủ, thiếu sáng tạo, một đời thuận theo, có khả năng thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh, nhưng hơi thiếu tính độc lập, chỉ phát triển từng bước trong điều kiện ổn định, thiếu xung lực, an phận, cho nên sao này là hợp với nữ mệnh hơn.

    Luận đoán tính chất cát hung của sao Thiên Phủ, cần phải xem mức độ miếu hãm của sao Thiên Tướng (nắm giữ ấn) mà định. Đây gọi là "Phùng Phủ Khán Tướng", "phùng tài khán ấn" (gặp Thiên Phủ phải xem Thiên Tướng, gặp tài phải xem ấn). Nếu sao Thiên Tướng nhập miếu, thì tùy sao Thiên Phủ chỉ có mức độ sáng bình hòa chủ về cát lợi. Ngược lại, nếu sao Thiên Tướng ở cung bình hòa, thì dù sao Thiên Phủ nhập miếu cũng hơi thiếu lực, qua đó có thể gây sao Thiên Phủ thiếu tính độc lập.

    Sao Thiên Phủ có công năng giải trừ tai ách, có thể biến Kình Dương, Đà La thành thuận tùng, biến Hỏa, Linh thành phúc. Nếu gặp sao Tử vi có thể tăng cường khả năng quản lý lãnh đạo, nếu gặp sao Thái Dương, Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, sẽ có địa vị cao. Nếu gặp sao Tử Vi, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chủ về quyền quý song toàn. Nếu gặp sao Lộc Tồn, Vũ Khúc, ắt thành cự phú. Nếu gặp cung không vong, hoặc cung không vong hội chiếu, dễ có hiện tượng cô lập. Nếu sao Thiên Phủ độc tọa, chủ về mưu toan, cao vọng. Sao Thiên Phủ không thích bị tứ sát tinh Kình, Đà, Hỏa, Linh xung phá, chủ về bạc phúc, giảm quý. Nếu gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp thì không nên theo nghề kinh doanh để tránh cảnh tiền đến rồi đi. Sao Thiên Phủ ưa ở cung Tài Bạch và Điền Trạch, chủ về tiền dư nhà lớn, có vận thiên tài (tiền của bất ngờ), rất giỏi quản lí tiền của. Ở cung Nô Bộc và Phụ Mẫu thì yếu đuối vô dụng. Ở cung huynh đễ thì bình thường.

    Sao Tử Vi và sao Thiên Phủ đồng cung và thủ mệnh tại Dần, Thân hoặc Tỵ, Hợi đối chiếu, là cách cục "Tử Phủ đồng cung", chủ về một đời giàu có. Sao Tử Vi hoặc sao Thiên Phủ miếu, vượng thủ mệnh, cung vị tam phương tứ chính có thêm cát tinh hội chiếu, là cách cục "Tử Phủ triều viên", chủ về bổng lộc cực hậu. Sao Thiên Phủ nhập miếu thủ mệnh tại Tuất, Thìn không bị sát tinh xung phá, là cách cục "Phủ Tướng triều viên", chủ về phú quý song toàn. Sao Thiên Phủ nhập miếu thủ cung mệnh tại Sửu lại có Thái Dương, Thái Âm kèm hai cung mệnh, là cách cục "Nhật Nguyệt giáp mệnh", chủ về một đời giàu có.

    Ca Quyết:

    Thiên Phủ vi lộc khố; nhập mệnh chung thị phú

    Vạn quản trí điền trang; gia tư vô luận số

    Nữ mệnh tọa hương khuê; nam nhân thực thiên lộc

    Thử thị phú cát tinh; tứ xứ vô bất túc

    Nghĩa là:

    Thiên Phủ là kho của; vào cung mệnh chủ về giàu sang

    Ruộng vườn rộng muôn mẫu; gia sản không kể hết

    Nữ mệnh là khuê các; nam mệnh ăn lộc trời

    Là cát tinh giàu có; dư dật khắp muôn phương


    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Phủ

    Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

    Chùa Cầu Hội An không chỉ là biểu tượng của phố cổ đất Quảng Nam nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.
    Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Chùa Cầu không chỉ là biểu tượng của phố cổ Hội An nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.


    Là một trong những địa danh nổi tiếng, Chùa Cầu Hội An gây ấn tượng không chỉ bởi lối kiến trúc độc đáo mà còn những bí ẩn mà công trình này mang trong mình. Chùa Cầu (hay còn gọi là Cầu Nhật Bản) được xem là linh hồn, là biểu tượng của người dân Hội An. Đây cũng là công trình kiến trúc độc đáo, gồm hai cá thể là cầu và chùa được xây dựng bắt ngang qua một lạch nước rộng gần 10m chảy ra sông Thu Bồn.

    Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
    Chùa Cầu - Biểu tượng nổi tiếng của phố cổ Hội An

     
    Cầu có chiều dài gần 18m. Kết cấu các phần của cây cầu được thiết kế khá công phu, tỉ mỉ theo kiểu ‘thượng gia hạ kiều’ (trên là nhà, dưới là cầu, tức cầu có mái che) gồm 7 gian, trong đó 5 gian giữa nằm trên mặt nước, 2 gian hai đầu nằm trên bờ phía Tây và phía Đông được thiết kế như cổng dẫn vào. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là ‘Lai Viễn Kiều’, do năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là ‘Cầu đón khách phương xa’. Tương truyền, chiếc cầu do người Nhật cất lên vào đầu thế kỷ 17, còn ngôi Chùa do người Minh Hương (cộng đồng người Hoa vốn sinh sống vào đời nhà Minh đã chạy sang Việt Nam khi nhà Thanh lên nắm quyền) xây dựng vào năm 1653 để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức (1847 – 1883) chép rằng: “Cầu ở xã Cẩm Phô về phía tây phố Hội An, huyện Diên Phước, nước khe chảy về phía Nam đổ vào sông Cái, cầu bắc ở trên. Tương truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói”.  

    Theo đó các thương nhân người Nhật Bản tại Hội An đã góp tiền xây dựng cầu vào khoảng thế kỷ 17. Theo truyền thuyết, những người Nhật đầu tiên sinh sống gần chùa Cầu thường xuyên nhìn thấy trên mặt sông xuất hiện sống lưng con quái vật Namazu (một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là con Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long). Trong văn hóa thần thoại Nhật Bản, Namazu là một con cá trê có cơ thể khổng lồ. Do vậy, mỗi khi di chuyển, đuôi của nó quẫy mạnh khiến Trái đất rung chuyển. Thần Kashima trị thủy quái Namazu. Namazu được miêu tả là bị các thần linh giam giữ trong lớp bùn dưới các hòn đảo của Nhật Bản, khi các vị thần không cảnh giác, Namazu sẽ quẫy cơ thể và gây nên những trận động đất kinh hoàng. Chỉ có thần Kashima, vị thần của sấm sét và kiếm đạo, mới có đủ khả năng chế ngự con cá trê khổng lồ này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi thần Kashima mệt mỏi hay phân tâm thì Namazu lại có cơ hội quẫy mình, gây ra các trận động đất, thậm chí có cả núi lửa phun trào, gây ra đại họa. Người dân tin rằng, quái vật khổng lồ Namazu trừng phạt sự tham lam của con người. Bằng cách gây ra những trận động đất, Namazu muốn con người phân chia của cải ngang bằng nhau. Vì vậy, Namazu còn được coi là thần của cải.

    Thủy quái Namazu được cho là có kích thước rất to lớn, có đầu ở Nhật Bản, lưng vắt qua khe ở Hội An và đuôi kéo dài tới Ấn Độ. Mỗi khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán. Do vậy những người Nhật định cư ở Hội An đã tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế đất và xây dựng cầu ở nơi đây, tượng trưng cho thanh kiếm đâm ngay xuống sống lưng thủy quái, khiến nó không thể gây ra động đất thiên tai nữa. Phía tây cầu còn được đặt 2 tượng khỉ đá, phía đông đặt 2 tượng chó đá. Đây cũng là một nét đặc trưng trong văn hóa xứ Phù Tang (Nhật Bản) như: mái ngói mềm mại, uyển chuyển với độ dốc thấp, những cột vuông, nền cầu lát vát hình vòng cung, nhưng “Thần Khỉ” và “Thần Chó” (những con vật người Nhật luôn quý trọng) thờ ở hai đầu cầu. Khỉ và chó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Vì vậy người Nhật dựng tượng thần Khỉ và thần Chó để trấn yểm con quái vật Namazu, người dân gọi đây là Thần Hầu và Linh Cẩu.

    Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
    Quái vật Namazu trong truyền thuyết

     
    Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được động thổ vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Ngoài ra ở nơi Thần Hầu và Linh Cẩu trấn giữ còn được khắc những dòng chữ Hán. Đôi câu đối chữ Hán ở phía cửa Đông của cầu như sau: ‘Thiên cẩu song tinh an cấn thổ, Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân’. Tạm dịch là: ‘Hai sao thiên cẩu trấn an đất cấn, Hai tướng tử vi định giữ cung khôn’ Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía Tây của cầu có nội dung: ‘Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện, Khán hoa nhân đáo mã đề lôi’. Tạm dịch là: ‘Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp, Người xem hoa vó ngựa sấm vang’. Cho đến năm 1633, tình hình Nhật Bản có biến động, Nhật Hoàng ban bố lệnh đóng cửa không quan hệ giao thương với nước ngoài, đồng thời yêu cầu những người Nhật kiều đang sống và buôn bán ở nước ngoài phải hồi hương. Phố Nhật Bản tại Hội An dần rơi vào thời kỳ suy tàn và chùa Cầu được giao lại cho người Việt cai quản.

    Năm 1644, Trung Quốc xảy ra biến động, nhiều người nhà Minh vì sợ nhà Thanh truy sát nên mới vượt một chặng đường dài đến đất Hội An để xin Chúa Nguyễn Phúc Lan gia nhập quốc tịch Việt Nam và thành lập nên làng Minh Hương tại cảng thị Hội An. Sau đó, chúa Nguyễn đã giao cầu Nhật Bản cho người Minh Hương quản lý và có nhiệm vụ chăm lo sửa chữa cầu. Những người Minh Hương cũng tin rằng dưới chân cầu này là hang ổ loài thủy quái dữ tợn, khi gặp điều kiện sóng to, gió lớn, nước dâng cao mới tỉnh giấc trở mình quẫy đuôi làm nước sông dâng ngập cả phố cổ gây nhiều thiệt hại cho dân làng. Để yểm trừ, người dân cho xây dựng thêm ngôi chùa nhỏ nằm sát cầu để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. 

    Tại chùa Cầu, tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ ở vị trí trung tâm của chánh điện. Bắc Đế Trấn Vũ (hay Huyền Vũ Thánh Quân, Đãng Ma Thiên Tôn, Huyền Thiên Bắc Đế) là một trong những vị thần lớn được tôn sùng trong Đạo giáo của Trung Quốc. Bắc Đế Trấn Vũ tượng trưng cho sao Bắc cực, thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ tại Chùa Cầu. Tượng của Bắc Đế thường không mang giày dép, chân đạp lên một con rùa và một con rắn, được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Một số người cho rằng, con rùa và con rắn chính là những thiên tướng trên trời, dưới quyền cai quản của ngài. Một số người lại cho rằng con rùa và con rắn đó chính là những con quái vật đã bị ngài thu phục và đạp dưới chân, gọi là là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ.

    Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch thường xảy ra lũ lụt kèm theo giông bão. Mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thường ngập chìm trong biển nước, phải đến 3 – 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nước mới rút. Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặt phong thổ, giúp cho cư dân làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Do đó, người Minh Hương thờ Bắc Đế Trấn Vũ làm chỗ dựa về mặt tinh thần của mình trong quá trình định cư tại vùng đất mới, giúp họ yên lòng vượt qua những khó khăn và có thêm niềm tin trong công cuộc mưu sinh. Không chỉ là một công trình chứa đựng những giá trị kiến trúc đặc sắc, Chùa Cầu còn là nơi giao thoa của 3 nền văn hóa Nhật – Việt – Hoa. Dù những câu chuyện huyền bí xung quanh Chùa Cầu chưa có được những lời giải thích rõ ràng, nhưng  người dân Hội An vẫn luôn tin rằng nơi đây được xây dựng để trấn yểm một con thủy quái, thờ tự vị thủy thần với ước vọng ngăn chặn, đẩy lùi được những cơn địa chấn, lũ lụt, giúp cho cư dân tại đây làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió.
    ST.

    Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào? 10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên được Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

    Phong thủy phòng ngủ và vận mệnh đàn ông

    Đặc điểm của phòng ngủ hướng Tây Bắc là tính độc tài và bảo thủ, tuy nhiên đây lại là hướng nằm ngủ rất tốt đối với nam giới.

    Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


    Phòng ngủ hướng Tây Bắc - người bảo thủ nhưng lại có tài

    Phòng ngủ quay hướng Tây Bắc có thể khiến cho cái tôi của người đàn ông thể hiện càng rõ. Người này thường có tính độc tài, lại tương đối bảo thủ. Nhìn bề ngoài thì người này có vẻ không quan tâm đến những chuyện nhỏ nhặt, nhưng thực ra trong số họ lại có rất nhiều người bận tâm đến điều đó.


    Đàn ông sống trong nhiệt lượng tại phía Tây Bắc này rất dễ gặt hái thành quả, lại có thể đảm nhận chức vụ cao. Đồng thời vì rất có khí phách của một người đàn ông nên được cấp dưới tín nhiệm. Cuối đời họ có thể để lại tiếng thơm.

    Khi quay hướng Tây Bắc, phòng ngủ có một đặc điểm về nghề nghiệp là thành tích đều tương đối ổn định. Hướng Tây Bắc tương đối thích hợp với phòng ngủ, vì nó có thể hấp thu đầu đủ nhiệt lượng, đồng thời cũng hài hòa với ánh mặt trời chiều.

    Đặc điểm của phòng ngủ hướng Tây Bắc là tính độc tài và bảo thủ. Hướng Tây Bắc rất thích hợp với nam giới, nhưng phải chú ý, không nên để người ta có ấn tượng về "tính bảo thủ" của bạn.

    Phòng ngủ hướng Bắc - người luôn nỗ lực gặt hái thành quả

    Đàn ông nghỉ ở phòng ngủ hướng Bắc dễ chịu sự chi phối của quan hệ xã giao, lại không khéo bày tỏ ý của mình. Người ngủ ở phương vị này tuy không mấy thông minh, nhưng họ không vì thế mà nhụt chí. Họ là người biết tự kiểm điểm bản thân, xem mình có phạm lỗi lầm gì hay không.

    Nói chung, phòng ngủ hướng Bắc mang khí chất của học giả. Hay nói cách khác, người ở trong phòng ngủ hướng này thường vùi đầu vào công việc nghiên cứu. Họ không hay trách móc mọi người không hiểu mình, chỉ cần nỗ lực làm việc thì nhất định sẽ gặt hái được thành quả lớn lao.

    Người nghỉ ở phòng ngủ hướng Bắc về nghề nghiệp tương đối thích hợp với các nghề như học giả, nhà văn, nhân viên kỹ thuật. Ngoài ra, họ cũng có thể làm rất tốt công việc kinh doanh quán bar hoặc câu lạc bộ.

    Người nghỉ ở phòng ngủ hướng Bắc đa phần thuộc kiểu người có tài nhưng thành đạt muộn, do vậy không nên vì thấy tình hình hiện tại không được như ý muốn mà lo lắng. Về quan hệ xã giao, chỉ cần để ý một chút là có thể ứng phó dễ dàng.

    Phòng ngủ hướng Đông Bắc - thích quan tâm đến người khác



     

    Người ở trong phòng ngủ quay hướng này đa số đều có tính hẹp hòi ích kỷ, nhưng lại gặp rất nhiều sóng gió trong cuộc đời. Đối với người làm công chức thì có thể hay bị thuyên chuyển công tác. Đối với người tự kinh doanh thì có thể gặp nhiều thất bại.

    Hướng Đông Bắc là hướng tối nhất trước lúc mặt trời mọc, đôi khi khó tránh khỏi cảm giác lạnh lẽo. Người ở trong phòng ngủ hướng này thường thích quan tâm đến người khác. Do vậy, có một số người ở trong phòng ngủ hướng này thường hay bị mắc lừa.

    Hướng Đông Bắc thường lạnh, có thể khơi dậy nhiệt huyết của người đàn ông. Trong con mắt của người khác thì người đàn ông ở trong phòng ngủ hướng Đông Bắc thường là người tốt nhất, mà bản thân họ cũng cảm thấy tự hào về điều này. Tóm lại, rộng rãi, độ lượng chính là phẩm chất tốt đẹp của họ. Mặt khác, vì họ rất nhiệt tình nên thường hay giúp đỡ mọi người.

    Nói chung, người ở trong phòng ngủ hướng này đa phần là người rất có tâm huyết, khá thích hợp với nghề kỹ sư xây dựng. Nhưng điều cần lưu ý là, không nên cáu gắt vô cớ, để tránh bị thiệt hoặc làm tổn thương chính mình.

    Phòng ngủ hướng Đông - thành công sớm, năng động

    Phòng thường mang đến sự tươi mới và phát triển, do vậy dễ mang lại thành công cho nam giới khi tuổi còn trẻ. Những người ngủ ở phòng hướng này thích hợp với những nghề nóng của thời đại như vi tính, truyền hình, sáng tác âm nhạc, nhà văn, thời trang,...


    Tuy có người do quan hệ nghề nghiệp liên quan đến cuộc sống vào ban đêm, nhưng họ vẫn thường dậy sớm tập thể dục. Đó cũng là do chịu ảnh hưởng từ "cảm giác năng động" của hướng Đông. Do luôn tràn đầy sức sống nên chỉ cần là người khéo tùy cơ ứng biến là có thể phát huy được thực lực của mình.

    So với công việc lãnh đạo một nhóm người thì chi bằng đảm nhiệm chức lãnh đạo của một đơn vị gồm mấy chục người, như vậy có thể phát huy được năng lực của mình, nếu được làm việc trong văn phòng hướng về phía mặt trời thì cơ hội tăng lương thăng chức sẽ nắm chắc trong tầm tay. Nhưng sau khi bước vào tuổi trung niên, tốt nhất nên chuyển phòng ngủ sang hướng Tây để tạo cảm giác ổn định.

    Cho dù đối với bất cứ việc gì cũng không được có tâm trạng hoang mang, tuyệt đối không được tùy tiện quyết định bất cứ việc gì khi chưa có sự suy xét kỹ lưỡng.

    (Theo Xzone)
    Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

    Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ và vận mệnh đàn ông

    Tiktok channel

    Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd