Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bàn thờ cho nhà chung cư: Đặt thế nào mới không phạm kỵ

Việc bố trí bàn thờ cho nhà chung cư thế nào để không bị phạm kỵ mà lại đón tài rước lộc cho gia chủ là điều mà mọi người ai cũng quan tâm.
Bàn thờ cho nhà chung cư: Đặt thế nào mới không phạm kỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Diện tích các căn hộ chung cư thường khá khiêm tốn, bao gồm hỗn hợp nhiều không gian sử dụng. Vì thế, việc bố trí bàn thờ cho nhà chung cư thế nào để không bị phạm kỵ mà vẫn có thể đón tài rước lộc vào nhà là điều mà hầu hết mọi người đều quan tâm.   Ngày nay, rất nhiều gia đình sống tại căn hộ chung cư có diện tích khiêm tốn, lại được thiết kế ở một mặt bằng duy nhất. Vì thế, mọi người khá lúng túng trong việc chọn vị trí để đặt bàn thờ gia tiên cũng như bàn thờ thần Phật (nếu có tín ngưỡng). Dưới đây là một vài gợi ý để gia chủ có thể đặt bàn thờ cho nhà chung cư đúng chuẩn, tránh phạm kỵ.  

1. Lưu ý cần thiết khi chọn vị trí đặt bàn thờ cho nhà chung cư

 

- Bàn thờ chung cư cần tọa cát hướng cát

  Về mặt tâm linh, điều này có nghĩa, vị trí đặt bàn thờ trong căn hộ chung cư cần phải tốt, thoáng, nhìn ra hướng tốt so với tuổi của gia chủ. Phía sau bàn thờ cần phải là tường vững chãi, không được dựa vào tường kính, xốp, cửa sổ…   Các chuyên gia phong thủy khuyên không nên đặt bàn thờ đối diện với cửa ra vào. Tuy nhiên, trong trường hợp gia chủ vẫn muốn tiến hành, cần phải thỏa mãn về phương vị hợp mệnh với chủ nhà hoặc chọn vị trí đối nhưng hơi lệch về hai bên, càng khuất so với cửa chính càng tốt.  
Ban tho chung cu Vi tri dat ban tho dung chuan
 
Không nên đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ (hướng xấu, chủ về nóng nãy, tai họa bất ngờ, tranh chấp kiện tụng, con cái khó dạy).    - Bàn thờ nên đặt trong khoảng giữa các mặt bằng căn hộ và không thuộc vào hẳn một phòng nào. Vì căn hộ không thể nào làm phòng thờ riêng biệt như trong nhà phố hay biệt thự, căn hộ nào cũng có khoảng đi lại ở khoảng giữa nhà, nên nếu khéo tính toán thì sẽ tránh tình trạng bố trí bàn thờ tùy tiện.   Mặt khác, khoảng giữa các căn hộ sẽ không bị bí như trong các phòng đóng kín. Hơn nữa hiện nay nhiều căn hộ đã thiết kế theo kiểu trống hoàn toàn cho gia chủ tự ngăn chia, vì thế góc thờ nên làm bằng những vật liệu có thể tháo ráp đơn giản như gỗ, kính hoặc dạng tủ đa năng.   - Vị trí đặt bàn thờ cần thoáng, nhưng không được nhìn thẳng bếp và giường ngủ. Xung quanh bàn thờ cần làm rèm bằng hoa văn cổ, khi đốt hương để thờ cúng bạn kéo rèm lên, sau khi hết hương thì buông rèm, để giữ cho không gian thờ cúng được thanh tịnh.   - Không gian đặt bàn thờ phải đủ thông thoáng. Không nên đặt bàn thờ cao quá gây khó khăn cho việc thờ cúng, cũng không nên đặt thấp quá thiếu trang nghiêm.   - Khi thiết kế hay bài trí, sắp đặt cho không gian thờ cúng bạn phải lưu ý tránh đặt bàn thờ gần luồng hút gió mạnh, gây “động” và có thể thổi tàn lửa nhang ra chỗ khác gây cháy.  

- Không đặt bàn thờ sát cạnh nhà tắm

  Theo phong thủy, nhà tắm là nơi ô uế, không sạch sẽ, điều này sẽ khiến bàn thờ mất đi sự thanh tịnh và tôn nghiêm. Ngoài ra bàn thờ cũng không để ở lối đi lại ồn ào vì sẽ làm mất đi sự thanh tịnh.

 

- Tránh đặt bàn thờ ngay dưới xà nhà

  Đặt bàn thờ như thế này sẽ ảnh hưởng đến tài vận của gia đình, toàn gia khó đón được quý nhân phù trợ. Nghiêm trọng hơn khi sao Thái Tuế chiếu vào, người trong nhà sẽ gặp tai nạn khôn lường. Thế mới nói, Bài trí bàn thờ dưới xà nhà, gia chủ đen đủi đủ đường.   Để hóa giải bạn có thể lắp trần giả phía trên bàn thờ. Nếu trần giả quá thấp, gia chủ có thể làm tủ thờ để cải thiện tình trạng, không nên mua bàn thờ đóng sẵn vì không có hiệu quả cho việc hóa giải này.  

2. Một số lưu ý khi sắp xếp, bài trí bàn thờ

 

Ban tho cho chung cu Bo tri the nao de tranh pham ky ma van ruoc tai don loc
 

- Kiêng kỵ đặt bàn thờ tổ tiên cao hơn tượng Thần, Phật

  Nếu bài vị tổ tiên đặt cao hơn tượng Thần, Phật sẽ khiến trong nhà “hạ phạm thượng”, “nô phụ chủ”, “thiên địa điên đảo”, “nữ cường nam suy", mang tội bất kính với Thần, Phật khiến các thành viên trong gia đình lục đục, khắc khẩu nhau. Ngoài ra, gia chủ cũng không nên đặt bàn thờ tổ Tiên đối diện với bàn thờ Phật.   Nếu bàn thờ có thờ chung Thần, Phật và bài vị tổ tiên thì Thần, Phật nên đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi, kiện tụng, bệnh tật không dứt. Riêng về bàn thờ Thần, Phật, cần chú ý Nằm lòng quy tắc lập bàn thờ Phật tại gia để cả nhà luôn bình an.  

- Không nên thờ cùng một lúc 3 họ trở lên

  Nhiều người có thói quen thờ cùng một lúc nhiều họ. Tốt nhất chỉ nên thờ họ của gia chủ (họ nội, họ ngoại). Nếu phạm phải điều này gia đình thường loạn, vận may giảm sút.  

- Chỉ nên đặt 2 hoặc 3 bát hương trên một bàn thờ

  Một bát hương thờ ngũ vị thần tài để ở vị trí cao nhất. Một bát hương thờ gia tiên, tổ phụ, các bậc bề trên. Một bát thờ huynh đệ, tỷ muội, con cháu.

 

- Bàn thờ phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp nhang

  Điều này đặc biệt quan trọng nếu bàn thờ hướng trực tiếp ra cửa chính. Tượng thần thánh hoặc vật thể thiêng liêng phải đặt trên bàn kệ cao. Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.   T.H
Lưu ý phong thủy khi chọn nhà chung cư Nghi lễ cúng giao thừa ngoài trời: Nhà chung cư có nhất thiết phải tiến hành? Kiến thức phong thuỷ quan trọng cho nhà chung cư

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn thờ cho nhà chung cư: Đặt thế nào mới không phạm kỵ

Cách lựa chọn số hiệu địa chỉ của cửa hàng –

Trong mắt các nhà phong thủy, số hiệu địa chỉ cửa hàng rất có ý nghĩa. Các số 2; 5: 6; 8; 9; 10 đều là những chữ số cát lợi: số 2 có nghĩa là dễ dàng, số 5 chì sự hài hoà với 5 nguyên tố, số 6 đại biểu cho tài phú; số 8 ý chỉ phú; số 9 có nghĩa là t
Cách lựa chọn số hiệu địa chỉ của cửa hàng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rường thọ, số 10 chì xác định. Chính vì vậy, giống như địa chỉ số 289 như thế này, chính là có ý nghĩa: “Dễ dàng chi phú lâu dài” hoặc “làm ăn phồn vinh lâu dài”. Ngược lại, số 744 có ý chỉ “khẳng định phải chết” hoặc “làm ăn nhất định không thành rông”. Số 1 cũng không bình thường, tuy nó không hẳn là không cát lợi.

a

Các nhà phong thủy luôn yêu thích các chữ số là số chẵn, chính vì vậy điều này biểu thị thành song thành đối, để tránh cảm giác cô độc lẻ loi. Tuy rằng chữ số 3 không nằm trong những số xấu, nhưng nó cũng không phải là số cát lợi. Chính vì vậy, có người lại rất thích dùng lực như số cân: số 3 trong 7373 thì số 7373 có ý chì “khẳng định sinh tồn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn số hiệu địa chỉ của cửa hàng –

Những dấu hiệu nguy hiểm từ việc bị nháy mắt liên tục

Bị nháy mắt liên tục là dấu hiệu của bệnh gì? Nó có nguy hiểm hay không? Bị giật mắt liên tục trong vòng nhiều giờ, hay nhiều phút trong ngày thì có nguy hiểm hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có nhiều căn bệnh liên quan tới mắt, trong đó hiện tượng nháy mắt, giật mắt là hiện tượng phổ biến mà ai cũng từng gặp phải. Nhưng nó có nguy hiểm hay không nếu như bị giật mắt liên tục thì nên chữa trị như thế nào?

Nháy mắt là gì?

Nháy mắt hay còn gọi là giật mắt là những cử động không có chủ ý, phạn xạ tự nhiên của con người, thường xảy ra ở hai bên mắt, do hiện tượng co thắt cơ ở dưới da mí mắt. Thông thường, hiện tượng giật mắt sẽ kéo theo vùng da dưới mắt, các cơ vòng mi phần trước sun và cung mày. Khi nháy mắt mạnh thì các cơ ở khu vực mặt cũng bị co giật theo, các cơn cơ giật cơ có thể khéo dài tới vài phút.

Những dấu hiệu nguy hiểm từ việc bị nháy mắt liên tục

Giới khoa học và tâm linh giải thích hiện tượng nháy mắt này như thế nào?

Nhiều nghiên cứu cho thấy chúng ta thường bị nháy mắt liên tục khi cơ thể có những dấu hiệu như mệt mỏi, mất ngủ, căng thẳng thần kinh hay stress, do thiếu máu hay mắc các bệnh về mắt như cận thị, loạn thì, viêm giác mạc, đau mắt,…

Hiện tượng nháy mắt nặng lên khi chúng ta tập trung nhìn, khi chăm chú lắng nghe, và chỉ thuyên giảm khi chúng ta nghỉ ngơi, hoặc có thể biến mất khi chúng ta nói, hát,…

Những nguy hiểm khi bị nháy mắt liên tục trong nhiều ngày:

Hiện tượng giật mắt liên tục trong nhiều ngày có thể do bạn mắc một số bệnh lý về tổn thương dây thần linh số 5, 7 hoặc do các dây thần kinh số 5, 7 bị kích thích quá mức bởi các bệnh như viêm loét giác mạc, viêm màng bổ đào, khô mắt, zona mắt. Nguy hiểm hơn là các bệnh gây thoái hóa nơ ron thần kinh như Parkinsom, hội chứng Wilson, cơn Hysteria, tác dụng phụ của việc dùng một số loại thuốc thần kinh,…

Tuy nhiên, nếu bạn chỉ bị nháy mắt hay giật mắt 1 lần hoặc 2 lần trong ngày thì không có vấn đề gì. Theo các nhà nghiên cứu tâm linh thì đó có thể là một dấu hiệu mang tới cho bạn điềm báo về một sự việc nào đó, có thể tốt, có thể xấu sắp xảy ra.

Bạn có thể xem bói về các điềm báo giật mắt theo giờ để biết đó là điềm báo tốt hay xấu.

Để phòng bệnh bị giật mắt, nháy mắt mọi người nên cần sắp xếp thời gian nghỉ ngơi khoa học, ngủ đu 8h 1 ngày, tránh cho mắt bị mệt mỏi do thiếu ngủ. Hạn chế tình trạng căng thẳng thần kinh, stress. Thường xuyên đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các bệnh về mắt tránh mù lòa hay giảm thị lực mắt.

Mỗi lần chớp mắt chỉ chiếm khoảng 1/10s nhưng giúp bạn không bị khô mắt, làm giảm căng thẳng cho mắt, cũng như đẩy các hạt bụi ra khỏi mắt. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những dấu hiệu nguy hiểm từ việc bị nháy mắt liên tục

Vị trí tướng 4 nốt ruồi không tốt cho chuyện tình duyên |

Những vị trí nốt ruồi nào không tốt cho chuyện tình duyên của bạn? Hãy đọc bài viết sau để xem tướng nốt ruồi không tốt về tình duyên. Xem tướng nốt ruồi, bạn có nốt ruồi trong lòng trắng của mắt báo hiệu chuyện tình yêu trắc trở, dễ có người thứ ba
Vị trí tướng 4 nốt ruồi không tốt cho chuyện tình duyên |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí tướng 4 nốt ruồi không tốt cho chuyện tình duyên |

Mùng 1 Tết

Là ngày đầu trong năm, thường dành riêng cho gia đình nhỏ của mình và gia đình bố mẹ chồng. Mừng tuổi và chúc tết, chúc sức khỏe ông bà, cha mẹ.
Mùng 1 Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sau đó, ông bà cha mẹ và người lớn lì xì mừng tuổi cho trẻ con.
Lì xì đây là tặng một chút tiền, thường là tiền giấy mới tinh, gọi là chút quà đem lại may mắn cho trẻ con kèm lời chúc khuyến khích trẻ con cố gắng học và sống hòa thuận với những người chung quanh.

Thức ăn, bánh trái, kẹo mứt, rượu bia thuốc lá, hoa quả đã bày đầy trên bàn thờ, giờ đây mọi người tới lễ lạy tổ tiên, rồi khi nhang tàn hạ thức ăn xuống cả nhà cùng ăn, nói cười rộn rã.

Người khách đầu tiên bước vào nhà gọi là xông đất, được ví như là người mang đến vận hên xui cho gia chủ năm đó. Thế nên có nhiều gia đình rất cẩn thận, họ xếp đặt để chọn người khỏe mạnh tươi tắn, hợp tuổi với chủ nhà để mang nhiều may mắn đến nhà mình.

Và những ngày Tết lại tiếp tục với tràn ngập niềm vui và hạnh phúc bên người thân và bạn bè… Sẽ đem đến cho tất cả chúng ta những năng lượng mới đến ngày chúng ta khai trương công việc của một năm mới với ước mong một năm mới nhiều thuận lợi, may mắn và thành đạt.

Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mùng 1 Tết

Top 3 con giáp coi nhan sắc là tất cả

Sinh ra với thân phận rồng phượng cao quý, cô nàng tuổi Thìn vô cùng tự tin với nhan sắc trời phú của mình.
Top 3 con giáp coi nhan sắc là tất cả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Cô nàng tuổi Thìn

Bất kể là với bản thân hay đối tượng để chọn làm người yêu, họ đều có yêu cầu cao về ngoại hình.

images851511-tuoiRong2-2272-1405816326.j

Cô gái tuổi Thìn có thể đứng trước gương hàng giờ để chải chuốt, ngắm nghía và mỉm cười tự hào về sắc đẹp kiêu sa của bản thân. Thậm chí, nếu nhan sắc chỉ ở mức trung bình, họ vẫn đưa ra những yêu cầu cao về ngoại hình trong việc lựa chọn nửa kia cho "đôi lứa xứng đôi".

No2: Cô nàng tuổi Mùi

Bản thân người tuổi Mùi đã có sức hút thiên bẩm đối với người khác giới. Đây là ưu điểm mà những quý cô tuổi Mùi luôn tự hào và muốn khai thác triệt để. Do vậy, họ thường kén chọn ai có tướng mạo bảnh bao để cân xứng với "độ hot" của bản thân.

van-han-nguoi-tuoi-mui-nam-201-5740-5450

Nếu một ngày nào đó thức dậy với khuôn mặt nhăn nhúm, những cô nàng tuổi Mùi sẽ mất ăn mất ngủ, thậm chí lo lắng, trầm cảm. Bởi với họ, nhan sắc thời thanh xuân không gì có thể mua nổi. Và chỉ có nó mới tạo ra ma lực khó cưỡng đối với hội đầu keo.

No3: Cô nàng tuổi Thân

Nổi bật với tính cách linh hoạt, năng động và có phần xông xáo nên những nàng tuổi Thân thường tự tin với năng lực và vốn kiến thức sâu rộng mình. Theo họ, nhan sắc bên ngoài dù không có tính chất lâu dài, nhưng lại là tiền đề quan trọng trong các mối quan hệ xã giao. Bởi cái đập vào mắt mọi người đầu tiên chính là vẻ ngoài chứ không phải nội tâm bên trong. 

khi-7489-1405816326.jpg

Người tuổi Thân sẽ không bao giờ ăn mặc tùy tiện khi ra đường. Với họ, bản thân trau chuốt, xinh đẹp cũng là cách để tôn trọng mọi người. Đồng thời nó cũng phát huy hiệu quả trong việc tạo ấn tượng và tình cảm tốt đối với những người xung quanh.

Mr.Bull

con-giap-a-1524-1405998071.jpg

Xếp hạng IQ của 12 con giáp

Chỉ số IQ cao nhất giúp người tuổi Tỵ được vinh danh vị trí đầu bảng, đứng cuối cùng là người tuổi... Tuất ^^.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp coi nhan sắc là tất cả

Những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng chuẩn nhất

Để có dịp Nguyên Tiêu thuận buồm xuôi gió, hãy nắm vững những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng dưới đây. Ngày Rằm tháng Giêng nên và không nên làm gì
Những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng chuẩn nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Nguyên Tiêu hay Rằm tháng Giêng là ngày lễ có ý nghĩa quan trọng đối với người phương Đông. Nắm vững những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng dưới đây để có Tết nguyên Tiêu thật may mắn và hanh thông.


Nhung luu y phong thuy trong Ram thang Gieng chuan nhat hinh anh 2
 
Rằm tháng Giêng là ngày Rằm đầu tiên trong năm, cũng là dịp người nhà đoàn tụ, gia đình sum họp. Phòng ăn trở thành khu vực được quan tâm nhất bởi người nhà thường quây quần dùng bữa tại đây. Phong thủy phòng ăn tốt không những giúp gia đình thuận hòa, gắn kết và còn mang tới phúc lộc cho mỗi thành viên. Muốn như vậy, hãy kiểm tra lại phòng ăn của nhà mình, cố gắng tuân thủ những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng.  

1. Kị bàn ăn có góc nhọn

 

Tết Nguyên Tiêu là ngày lễ đoàn viên, nên lựa chọn bàn ăn hình tròn hoặc hình bầu dục với ý nghĩa viên mãn, trọn vẹn, tượng trưng cho người một nhà bao quanh hoàn mỹ, vận may tự nhiên sẽ tới. Ngược lại, bàn ăn có góc nhọn, hình dáng bất đối xứng sẽ tạo thành sát khí, vô cùng bất lợi, nếu có thì cần thay đổi ngay.  

2. Kị trang trí nến

Phong thủy phòng ăn không thể thiếu những ánh đèn rạng rỡ, tươi tắn, mang tới sinh khí và sự ấm áp. Nhưng phong thủy nhấn mạnh, nên dùng đèn chiếu sáng thay vì thắp nến trong phòng ăn. Ánh nến lung linh, mờ ảo có thể rất lãng mạn nhưng lại không hề tốt lành vì nó tượng trưng cho tang sự, điềm xui xẻo, cái chết. 
 

3. Nên sử dụng màu cam

  Lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng đối với khu vực phòng ăn là nên tăng cường màu cam. Nếu không thể thay đổi màu sơn tường, những đồ vật nội thất cố định thành màu cam thì có thể mua thêm một số vật trang trí màu cam, bổ sung hoa tươi màu cam để màu sắc này hiện diện nhiều hơn trong phòng.
Nhung luu y phong thuy trong Ram thang Gieng chuan nhat hinh anh 2
 
Màu cam có tác dục kích thích hưng phấn, cải thiện tâm tình, thúc đẩy cảm giác ngon miệng. Hơn nữa màu này cũng rất hài hòa, ấm áp, mang tới không khí yên tĩnh nhưng gần gũi và nồng nhiệt, thích hợp với ngày lễ đoàn viên như Tết Nguyên Tiêu.  

4. Nên bày hoa tươi, thực vật xanh

  Cây cỏ hoa lá mang không khí của thiên nhiên vào không gian, tô điểm cảnh vật và cải thiện phong thủy. Phòng ăn nên bày hoa tươi có màu sắc rạng rỡ như thủy tiên, violet, hoa hồng, hoa ly,… Không những giúp cảnh quan thêm tráng lệ mà còn kích thích may mắn, mang tới tài vận và nhân duyên vận.    Những cây xanh tươi có ý nghĩa phát tài phát lộc, bình an tốt lành như hoàng kim cát, trúc phúc quý, kim tiền, phát tài,… cũng là lựa chọn đáng cân nhắc. Lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng là dù bày cây hay hoa đều phải tươi tốt, phát triển khỏe mạnh. Nếu cây hoa có dấu hiệu héo úa thì phải loại bỏ ngay, tránh để khí xấu ảnh hưởng tới không gian.
► Mời các bạn: Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Infographic: Bí quyết gia tăng vận đào hoa tuyệt diệu nhất ngày Rằm Tháng Giêng Infographic: Văn khấn ngày Rằm tháng Giêng (15/01 Âm Lịch)
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý phong thủy trong Rằm tháng Giêng chuẩn nhất

Quẻ Khôn và các mối quan hệ gia đình

Trong số 8 quẻ Bát quái, quẻ Khôn gồm 3 hào âm (3 đường đứt đoạn), tượng trưng cho tinh hoa của năng lượng âm.
Quẻ Khôn và các mối quan hệ gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Biểu tượng của 8 quẻ Bát quái

Quẻ Khôn cũng tượng trưng cho năng lượng của người phụ nữ làm chủ gia đình, cho sự phát triển của các mối quan hệ. Quẻ Khôn làm cho khu vực Tây Nam của ngôi nhà trở nên đặc biệt quan trọng đối với những ai muốn vận dụng phong thủy để sớm đạt được ước nguyện về chuyện tình cảm.

Có nhiều cách để kích hoạt quẻ Khôn. Phương pháp cổ xưa nhất là đưa biểu tượng quẻ Khôn vào việc thiết kết trần nhà, đồ nội thất và những vật dụng trang trí ở khu vực Tây Nam. Một phương pháp khác là trưng bày hình ảnh biểu hiện uy quyền của người mẹ. Bạn có thể trưng bày ở hướng Tây Nam ngôi nhà hình ảnh của một vị nữ hoàng hoặc người phụ nữ lớn tuổi nào đó trong trang phục thật lộng lẫy. Nếu thích tranh Trung Quốc, bạn có thể treo những bức diễn tả quyền lực của cha và uy quyền của mẹ. Đây là một sự kết hợp tuyệt vời để tăng cường năng lượng cho góc Tây Nam.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Khôn và các mối quan hệ gia đình

Cây xương rồng giúp hóa giải sát khí ?

Xương rồng không hề thích hợp khi đặt trong nhà hay văn phòng, tuy nhiên nếu được đặt đúng chỗ sẽ phát huy tác dụng hóa giải sát khí khá hiệu quả.
Cây xương rồng giúp hóa giải sát khí ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặc dù xương rồng là loài cây nở hoa đẹp nhưng những cái gai của nó không hề hợp với vị trí phong thủy bên trong nhà hay văn phòng. Mặt khác, cây xương rồng nếu được đặt đúng chỗ sẽ phát huy tác dụng hóa giải sát khí tốt hơn.


Chậu cây xương rồng nên đặt ở ngoài cửa nhà


Với loài cây xương rồng, bạn không nên đặt nó trong văn phòng hoặc trong nhà. Mặc dù cây xương rồng nở hoa rất đẹp, nhưng chúng vẫn không đủ năng lượng tốt để xua tan những năng lượng xấu do gai của nó tỏa ra. Theo phong thủy, khi đặt xương rồng trong nhà hoặc trong văn phòng (thường trên bệ cửa sổ và gờ tường), cây xương rồng có nhiều gai nhọn, sắc bén luôn tạo ra những mảng năng lượng xấu, gây bệnh tật, bất hạnh và mất mát cho gia chủ.


Nếu bạn là người yêu thích loài cây có sức sống mãnh liệt này, thì tốt nhất nên đặt chậu cây ở ngoài cửa nhà hoặc cửa văn phòng. Tại đây, cây xương rồng đóng vai trò như một người bảo vệ. Những gai nhọn của nó có thể xua tan năng lượng xấu, đầy sát khí từ bên ngoài xâm nhập vào.
 

(Theo Phong thủy để thành công trong công việc và kinh doanh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cây xương rồng giúp hóa giải sát khí ?

Kiêng kỵ theo phong thủy: Bàn trà quá lớn, khách sẽ lấn át chủ

Trong phòng khách , bàn trà thường được đặt phía trước hoặc 2 bên đối xứng nhau của ghế sofa. Bàn trà dùng để bày ấm chén uống trà, khi khách đến chơi chủ nhà rót trà, rót rượu mời, rất thuận tiện. Trên bàn trà cũng có thể bày đồ trang trí hay chậu hoa để cho đẹp, hay bày điện thoại, đèn bàn, rất tiện dụng. Vì thế, bàn trà đã trở thành 1 vật dụng không thể thiếu trong phòng khách .
Kiêng kỵ theo phong thủy: Bàn trà quá lớn, khách sẽ lấn át chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mọi người thường cho rằng, ghế sofa là chủ, bộ bàn trà là khách, sofa cao hơn là núi, bàn trà thấp hơn là nước. 2 thứ kết hợp với nhau, núi và nước hòa vào nhau mới hợp với lẽ phong thủy.

Ghế sofa được coi là chủ nên phải to cao, bàn trà được coi là khách nên phải thấp nhỏ. Nếu diện tích bàn trà quá lớn, sẽ bị chê là mang ý nghĩa khách lấn át chủ.

Cách bày biện như trên là không hay. Để khắc phục điều này, tốt nhất là thay bàn trà khác, vừa tạo ra sự hài hòa giữa chủ và khách, vừa không gây chướng mắt.
Về cách chọn bàn trà, tốt nhất là theo nguyên tắc thấp và bằng phẳng. Khi người ngồi trên ghế sofa, bàn trà không nên cao quá đầu gối là thích hợp nhất. Bàn trà bày phía trước ghế sofa nên có đủ không gian, vì nếu kê gần quá sẽ gây chật chội bất tiện.

Về hình dáng, bàn trà tốt nhất là có hình chữ nhật, hay bình bầu dục, hình tròn cũng được, nhưng tuyệt đối không dùng những bàn trà có góc nhọn. Nếu không gian phía trước ghế sofa không rộng rãi, có thể chuyển bàn trà sang bên cạnh, bàn trà ở 2 bên ghế tạo thế rồng xanh, hổ trắng ở 2 bên bảo vệ, người ngồi trên ghế cảm thấy bên trái phải đều rất vững chắc. Như thế vừa tận dụng tối đa không gian, vừa hợp với luật phong thủy.

Nguồn: Phong Thuy – Phong Thuy Nha O – Phong Thuy Tu Vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ theo phong thủy: Bàn trà quá lớn, khách sẽ lấn át chủ

Tục xưa ít biết về ngày Tết Đoan Ngọ trong văn hóa Việt

Tục lệ trong ngày Tết Đoan Ngọ là những hoạt động truyền thống đã có từ lâu đời trong văn hóa tín ngưỡng người Việt, tuy nhiên, những tập tục này cho tới ngày
Tục xưa ít biết về ngày Tết Đoan Ngọ trong văn hóa Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nay đã ít nhiều bị mai một.


► Mời các bạn tra cứu Lịch 2016 theo Lịch vạn sự chuẩn xác

Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Tuc xua it biet ve ngay Tet Doan Ngo trong van hoa Viet hinh anh goc 2
 
Hà Xuyên
6 điều tích vận phúc trong Tết Đoan Ngọ Vì sao tháng 5 âm lịch lại kị chuyện sinh hoạt chăn gối? Vì sao có ngày giết sâu bọ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục xưa ít biết về ngày Tết Đoan Ngọ trong văn hóa Việt

Kiến thức phong thủy: Phong thủy sai cách khiến bạn chưa có người yêu –

Cùng ## khám phá kiến thức tử vi và xem nguyên nhân khiến cư dân FA vẫn chưa có hoặc không có người yêu là gì nhé! 1. Phòng ở quá lớn, người quá ít Ở trong một căn phòng quá lớn sẽ khiến bạn dễ sa vào trạng thái tiêu cực như buồn bã, cô
Kiến thức phong thủy: Phong thủy sai cách khiến bạn chưa có người yêu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng ## khám phá kiến thức tử vi và xem nguyên nhân khiến cư dân FA vẫn chưa có hoặc không có người yêu là gì nhé!

v

1. Phòng ở quá lớn, người quá ít

Ở trong một căn phòng quá lớn sẽ khiến bạn dễ sa vào trạng thái tiêu cực như buồn bã, cô đơn, trầm cảm. Bạn bè ngày cũng càng vơi dần, nó cứ thế lặp lại khiến bạn không thể bắt đầu một mối quan hệ.

2. Giường tầng nhưng chỉ có một người nằm

## thấy Bất luận bạn nằm giường tầng trên hay tầng dưới đều không có lợi cho mối quan hệ yêu đương. Nếu nằm tầng dưới, bạn sẽ cảm thấy bị sức ép; nằm tầng trên, bạn sẽ thấy không thoải mái về mặt không gian. Điều này giống như bạn tự kìm hãm bản thân với mọi người xung quanh vậy.

3. Phòng ngủ theo kiểu “pháo đài”

Nếu phòng ngủ của bạn được thiết kế bao bọc bởi những cột trụ hoặc tường có nhiều góc cạnh gồ ghề như một pháo đài thì không tốt chút nào. Căn phòng kiểu này giống như đang phong tỏa, cố ngăn tách bạn với cuộc sống bên ngoài, cho dù bạn có người tiếp cận thì mối quan hệ hai người cũng khó có thể tiến xa hơn.

4. Trần nhà được trang trí theo kiểu “mạng lưới”

Theo ## thì Cách trang trí theo kiểu mạng lưới với hoa văn tuy có phần lãng mạn nhưng lại không tốt đối với chủ nhân của căn phòng. Nó khiến bạn có cảm giác đang bị trấn giữ, không cách nào vẫy vùng, càng không thể nào duy trì các mối quan hệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy: Phong thủy sai cách khiến bạn chưa có người yêu –

Cơ sở phái Tử Vân

Một bài viết hay về Cơ Sở Phái Tử Vân. Mời các bạn cùng đọc.
Cơ sở phái Tử Vân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên tác (bạch thoại): “Cơ sở phái Tử Vân”

Tác giả: Không rõ tên

Dịch và chú thích: VDTT

Những điểm học tập quan trọng

Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận này).

Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.

Một: Tính chất tinh đẩu

Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại biểu ý ấy.

Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…

Về tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.

HAI: Biến hóa của tứ Hóa

Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.

Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v... hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?

Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.

Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.

Bảng tứ hóa như: Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý (dgc: không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như: Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187.

BA: Biến hóa của cung vị

Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.

Vì cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ (dgc: dịch tạm thôi vì không rõ “đảm tâm đích hiện tượng” ở đoạn này ám chỉ gì; hay muốn nói trong khi yêu mà lòng bất ổn?)

Ba yếu tố trên là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm. Nhưng ngày nay ngàn vạn cần hiểu rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.

Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao vãng về sau (dgc: Thực ra chỉ có thể nói là nếu không du nhập dữ liệu thì lời đoán của trạng huống giao vãng về sau sẽ có xác xuất thấp hẳn đi). Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phép đoán Tử Vi

Dùng Tử Vi luận mệnh vận có hai trạng huống. Một là vĩ quan (dgc: Cái nhìn rộng lớn), khởi từ vận mạng trọn đời, rồi đến vận 10 năm (đại hạn), cuối cùng đến lưu niên (vận một năm). Một loại khác gọi là vi quan (dgc: Cái nhìn nhỏ hẹp), mục tiêu là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai trạng huống này phương pháp giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.

Vì vĩ quan tương đối thật dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong tâm người ta, nên nói chung luận mệnh chủ là vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi thì tự nhiên có thể xử dụng vi quan luận mệnh.

Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.  

Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy

Cầm lá số, đầu tiên cần xác nhận năm tháng ngày giờ sinh chính xác hay không (dgc: Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đâu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh), rồi nắm vững kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không, xem sự dẫn động của tứ Hóa vì có liên hệ đến việc cách cục được phát động hay không.

Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.

Tiếp đó xem cung thân, vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: thân cư cung nào thì điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân trùng hợp phu thê (dgc: tức thân cư phu thê) thì mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; lại tỉ dụ thân trùng hợp với thiên di (dgc: tức thân cư thiên di) tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng quan tâm lắm. Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi với tuổi tác chuyển biến sang đặc tính các tinh đẩu của cung thân. Tỉ như mệnh vô chính diệu (không có chính tinh, giải thích sau) nhưng thân có chính tinh thì có thể, sớm thì lúc trên hai mươi tuổi, chính tinh ở cung thân dần dà phát sinh tác dụng.

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chinh vào tham khảo mới đúng. Lý của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc của mệnh ra, sao trong tài bạch thiên di và sự nghiệp đều ảnh hưởng tính cách con người. Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: Mười bốn chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp sao. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao, theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng. Lý kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (dgc: cung huynh đệ) và cung phụ mẫu. Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung huynh đệ và phụ mẫu thì sinh tác dụng; tỉ như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung phụ mẫu, một ở cung huynh đệ thì có thể sinh tác dụng; tỉ dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.

Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của tài bạch, thiên di, sự nghiệp, có khi thêm tác dụng của phụ mẫu và huynh đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội của Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là gì.

Tỉ như: Theo Tử Vi cung phu thê xấu tốt do: phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức, có khi huynh đệ và tử tức cũng có tác dụng, sự kiện này làm sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung phu thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung thiên di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình (cung sự nghiệp tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và hôn nhân; tối hậu vấn đề tình dục hoặc sinh dục đời sau cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v… đều là “dị khúc đồng công” (dgc: Thành ngữ,  ý nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về nhữ ng chuyện này mới được.

Tử Vi có một số cung do tự kỷ (tự mình) quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung huynh đệ, tử tức, tật ách, nô bộc, phụ mẫu; tự kỷ quyết định có các cung phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức. Còn khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng sau thì có thể tự quyết định thì có cung điền trạch. Ngàn vạn phải hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị của quý vị sinh năm 57 (dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) thì năm là Mậu Thân (dgc: Nguyên bản đánh sai thành Mậu Canh, chữ Canh ở đây vô nghĩa) thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quý vị không, có thì chị của quý vị chỉ cho quý vị mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị quý vị đối xử tốt với quý vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quý vị khiến mệnh của quý vị được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng theo ý người dịch thì Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh). Mặt khác, nếu hóa Kị của chị quý vị nhập cung mệnh của quý vị thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quý vị thiên sinh đã phòng ngờ quý vị. Còn về cá tính của chị quý vị thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.  

Tình huống giữa quý vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) thì luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá số thì cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau – Đây bởi vì xuất hiện ở tam phương thì các tinh đẩu phần lớn tương tự - chú ý tính chất tinh đẩu đã đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu thì có nghĩa hai bên tình cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) thì có nghĩa hai bên cảm tình không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.

Đó là khái niệm cơ bản của phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ vào để quyết định (dgc: Không đề rõ quyết định gì, ý hẳn là quyết định liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định cá tính của họ. Cảm tình nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đã bàn một chút, sau này sẽ phân tích kỹ hơn.

Lưu niên:

Khi thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách: Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quý Dậu tất cung mệnh của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quý vào lá số mà luận xét. Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay Bính Ngọ là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay (dgc: Ý nói là cung tiểu hạn ở đâu thì dùng can của cung đó? Nếu thế là một cách xem hơi lạ và có vấn đề, vì can của các cung đã cố định, thành thử can chi đều lập lại mỗi 12 năm. Thiết nghĩ hợp lý hơn là vẫn xử dụng can của lưu niên mặc dù xem cung tiểu hạn là cung mệnh tạm thời). Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ý tác giả bài này thì chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).

Một cách suy nghĩ: Võ Đang, Thiếu Lâm đều tinh thâm cả, học cả đời chưa chắc có thành tựu lớn. Nếu học Võ Đang vài ba thức, Thiếu Lâm cũng ba bốn thức mà muốn tung hoành thiên hạ thì hoàn toàn chỉ là hù ngưòi thôi. Quý học giả bất tất phải học những thứ hợp tham làm gì, nếu thành cao thủ Võ Đang thì đương nhiên là cao thủ của thiên hạ, chẳng có gì nghi ngờ nữa. Phương pháp trình bày với quý vị hôm nay chẳng có gì kỳ lạ, chẳng cần mặc khải gì cả, bất cứ ai đi theo những bước chân này đều có một ngày phát hiện con đường cho riêng mình. Con đường Tử Vi thực ra càng đi lại càng rộng rãi.

Về triết học và quy tắc của Tử Vi chúng ta chỉ cần biết, xin nhắc lại, một số kiến thức về tinh đẩu, tứ Hóa, cung vị, đều rất dễ nhớ; từ đó về sau căn bản chẳng cần bí quyết của ai khác, cứ tùy việc mà ứng đối với lá số, hoàn toàn chẳng có gì để bị kích bác. Về khái niệm triết học của Tử Vi phần sau có thời giờ sẽ viết thêm. Kỳ thật các sinh hoạt chính trị, kinh tế, giao vãng quần thể xã hội, liên hệ hỗ động giữa người với người v.v… mà nhân loại ngày hôm nay đối diện so với thời cổ đã xuất hiện những khác biệt hết sức to lớn, lại thêm quá trình phức tạp. Thử nghĩ Tử Vi nếu là khoa thống kê thì làm thế nào tiến hành việc nghiên cứu khoa này? Xin mọi người suy nghĩ kỹ: Có phải tất cả chúng ta đã quá coi trọng khoa thống kê chăng?

Nói rõ hơn một chút: Tử Vi là một hệ thống hoàn chỉnh, không chỉ là một thuyết tự cuộn thành tròn, hoặc một cái gì đó cho phép quý vị tự chế ra bí kíp chưa từng có. Nói cách khác: Tử Vi bản thân có năng lực hiện đại hóa.

Ở đây tôi muốn cử một thí dụ cùng quý vị: Lưu niên điền trạch của một cá nhân có Cự Môn tọa thủ, hội chiếu có Thiên Cơ, Văn Khúc v.v… lại có Lộc Tồn và lưu niên Lộc dẫn động thì chúng ta có thể đoán: Người ấy năm nay trong nhà có thể có thêm một máy thuộc loại thâu âm. Làm sao xem ra chuyện ấy? Rất giản dị: Cự Môn chỉ phát thanh, cơ giới là sao Thiên Cơ, Văn Khúc là tài nghệ cầm kỳ thi họa, bói toán thiên văn dịch lý (dgc: nguyên văn là “Bốc toán tinh dịch”) vân vân, nhưng cũng đại biểu, âm nhạc, mỹ thuật, việc lao động v.v…, lưu niên Lộc Tồn xung động là vật phẩm, thống hợp lại mà suy, là một vật thuộc loại âm nhạc, nếu thêm Cự hóa Quyền thì công suất của dụng cụ âm nhạc đó chẳng nhỏ, ngoài ra có thể là dàn Karaoke. Nếu vậy thử hỏi: Điện thoại có trở ngại làm sao xem? Cự Cư trong cung điền ứng điện thoại, Cự hoặc Cơ hóa Kị có thể điện thoại gặp trở ngại hoặc đường giây bất ổn. Vậy máy đánh chữ là gì? Máy TiVi là gì? Máy vi ba (microwave) là sao gì mới đúng? Xin cả nhà suy nghĩ cho kỹ. Bộ phận đặc tính các sao này do bản thân tôi khai triển ra, nguyên tắc chẳng khó, chịu bỏ công là được. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế), rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quý Dậu thì an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Thí dụ: Số một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ, vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn phu thê, mà đại hạn phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Cho nên, như tôi đã nói trước đây: Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu, tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy (dgc: Câu này nguyên tác cách viết phức tạp nên chỉ dịch ý); tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn; tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quý Dậu thì lấy tứ Hóa theo can Quý). Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ biến hóa”, chỉ dịch ý thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

Chẳng hạn: Một người nào đó bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy) hóa Kị, đại hạn sự nghiệp cũng hóa Kị, lưu niên sự nghiệp cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống đất đen hoặc bị đuổi việc? Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

Những phương pháp kể trên là cho các tình hình tổng quát, còn đoán sự kiện đặc thù thì cần xác nhận “cung trọng điểm”, đây là một điểm quan trọng mà ông Tử Vân đề xuất. Những đóng góp của ông Tử Vân cho Tử Vi thật mười phần to lớn. Những kỹ thuật nâng cao khả năng đoán số của ông thì nói thẳng thắn cũng như “trời không sinh Trọng Ni, vạn cổ như đêm tài” (dgc: Câu này nghĩa đen là “Nếu trời không sinh ông Khổng Tử thì vạn cổ cũng như đêm dài vậy”. Ý rõ ràng ca ngợi ông Tử Vân; thiết nghĩ có phần hơi quá đáng). Sự phát triển của Tử Vi mười năm qua, về mặt phát triển kỹ thuật luận số có chín thành đến từ các tác phẩm lớn của ông Tử Vân (dgc: Ý nói chín phần mười các phát triển về kỹ thuật đoán số trong mười năm được nhắc tới trong bài này, tức là mười năm kể đến năm Quý Dậu 1993, đều có thể quy về ông Tử Vân cả). Những sách này của ông là chìa khóa vào cửa cho người sơ học (dgc: Dịch thoát nghĩa), mong quý học giả thêm phần chú ý. Những phương pháp người viết nói tới đa phần khởi từ những khái niệm của ông Tử Vân. Chỉ đáng tiếc đến nay đại sư Tử Vân (dgc: “Đại sư” đây ý nói thầy cao cấp, không phải nhà tu) chưa viết ra những hiểu biết của ông hoặc triết học quan của ông về toàn thể khoa Tử Vi, mà cực khổ viết cho người sau – làm sao xem quan hệ nhân tế, làm sao luận cấp trên, làm sao xem điền trạch, phong thủy v.v… Ở đây chỉ hi vọng mong ông sớm hoàn thành thì khoa Tử Vi càng tiến triển không thể đo lường.

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc đến ba cung phúc ở đây là vì ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài bạch). Quy tắc như thế này: Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm. (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung trọng điểm).

Câu ở trên ý chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị thì chỉ bản mệnh và đại hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám thành là cung trọng điểm, cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến khi song Kị dẫn động cung phúc thì phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ này ra chỗ nọ thì chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa thì chẳng hay lắm” ấy bởi vì vỗ trúng mông ngựa thì ngựa chạy theo ý mình, vỗ nhằm chân ngựa thì bị ngựa đá.)

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc: Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi luận cầu tài” v.v... Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp lá số thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường cố đoán thêm nhiều lá số của những người mình đã quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Tử Vi luận cầu tài”, “Tử Vi luận hôn nhân”, “Tử Vi luận quan lộc”, cùng “Tử Vi luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.

Công lực của ngưòi viết thua xa ông Tử Vân, nhưng mong mỏi được thay ông dẫn một số người vào con đường lớn của Tử Vi, cho họ thoát khỏi cái cảnh tự mình sai rồi làm người khác sai; đó là tâm nguyện nhỏ bé của người viết, mong quý học giả hiểu cho.

TẠM HẾT

****

Ghi chép thêm

Đây là phần cuối một bài đã đăng báo gần 5 năm trước.

Cách luận Tuần Triệt

HỎI: Ông bảo ông đã nghiên cứu Tử Vi nhiều năm, vậy ông đã tìm ra một phương pháp khoa học để luận Tuần Triệt hay chưa? Chia sẻ được chăng?

ĐÁP: Như tôi đã trình bày ngay khi vào đề từ mấy bài trước là về Tuần Triệt hiện tôi có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Thế nhưng, việc xem số không thể chờ đợi đến khi mọi câu hỏi đều được trả lời thỏa đáng, nên tôi phải buộc lòng dựa vào kinh nghiệm và tư duy cá nhân suy diễn thêm để trám vào những lỗ hổng của cái lý khoa học. Hiển nhiên những điều mà tôi gọi là suy diễn chưa thỏa đòi hỏi của lô gích theo ý tôi mong muốn. Chúng có thể đúng mà cũng có thể sai, hy vọng rồi thời gian sẽ sớm trả lời.

Biết rằng khoa học là một diễn trình tiệm tiến, tôi mong mỏi những vị khác sẽ sửa sai hoặc đắp bồi thêm vào những suy luận của tôi để một ngày nào đó ở tương lai Tuần Triệt trở thành kiến thức thông dụng thay vì vẫn là một bí mật của Tử Vi như hiện tại.

Về việc chia sẻ, tôi chẳng có gì để mà dấu nghề. Hy vọng của tôi là sau khi đọc sách này độc giả sẽ biết tất cả những gì tôi biết, tức là cộng với những kiến thức có sẵn thì các độc giả chăm đọc sẽ hiểu biết khoa Tử Vi hơn tôi (và trong số đó biết đâu có người có phát kiến mới, lại viết sách cho tôi có dịp học hỏi!) Phải như thế mới mong Tử Vi mãi mãi tiến bộ như các ngành khoa học khác.

HỎI: Khi xem Tuần Triệt ông xét yếu tố nào đầu tiên?

Đầu tiên tôi xem Tuần Triệt đóng ở cung nào. Tuần Triệt có tính “bất thường” nên tôi dựa một phần vào sách cổ mà suy diễn ra rằng chúng án cung nào khiến cá tính của cung đó có tính “bất thường”; ta có thể tùy cá tính của cung mà suy ra phần nào ảnh hưởng bất thường đó.

“Cá tính” đây ám chỉ, mệnh, phụ mẫu, phúc đức v.v… Như Tuần Triệt cư mệnh thì chính bản thân ta có sự bất thường. Cư các cung người còn lại, gồm “huynh đệ, phụ mẫu, phúc đức, nô bộc, phu thê, tử tức” luận tương tự, tức là đều “bất thường” cả. Chẳng hạn như Tuần Triệt cư huynh đệ thì hoặc anh em của ta có người bất thường, hoặc liên hệ giữa ta với anh em của ta có sự bất thường; Tuần Triệt cư phụ mẫu thì cha mẹ ta có sự bất thường, hoặc liên hệ giữa ta và cha mẹ ta có sự bất thường v.v… Còn lại các cung điền quan di tật tài cũng cứ dùng lý “bất thường” mà luận.

Bất thường đây không nhất thiết là có nghĩa xấu, mà chỉ có nghĩa là có một hoặc nhiều sự phát triển (hoặc thiếu phát triển) lạ lùng nào đó khác với thường tình. Như thường tình của đời hiện đại là một vợ một chồng, có ly dị cũng một hai lần mà thôi; nên người không bao giờ lập gia đình hoặc người thay vợ đổi chồng như cơm bữa đều có thể ứng với Tuần Triệt án ở phu thê. Lại như người rất ít bệnh hoặc bệnh tật triền miên đều có thể ứng với Tuần hoặc Triệt án ở cung tật ách. (Chú ý: Cách xem này là kết quả suy diễn của tôi, có khác với sách vở. Nếu độc giả cho rằng có thể đúng cũng đừng vội vàng áp dụng mà hãy chứng nghiệm trước đã.) 

Còn chi tiết của sự bất thường là gì thì thực hành thường dễ hơn giải thích. Luật chung là phải dựa vào mệnh thân phúc v.v… để có một hình ảnh khái quát về lá số trước đã, khi xem vào chi tiết thì sự bất thường sẽ tự lộ ra.

Đại hạn cũng thế. Tôi cho rằng đại hạn hễ có Tuần Triệt là có sự bất thường cái đã, mọi chuyện khác tính sau.

HỎI: Nghĩa là mặc dù theo ông tuổi già ảnh hưởng của Triệt không đáng kể nữa, nếu vào đại hạn Triệt vẫn có sự “bất thường”?

ĐÁP: Chính thế! Ấy bởi vì tôi suy diễn thế này: Tuần Triệt là hai loại ảnh hưởng trong cung (như hai loại động đất có tác dụng tương tự dù sự hiển thị và cường độ khác nhau). Tuần thì tương đối dễ hiểu rồi, vì ta đều có thể công nhận là nó có tác dụng trọn đời. Về Triệt, hãy thử tưởng tượng một trận động đất có cường độ trên 7, khi hết động đất rồi ta có dám nói là hoàn cảnh trở lại bình thường hay không? Tôi nghĩ là không. Vào đại hạn có Triệt ở tuổi già cũng như đến một nơi đã từng trải qua một trận động đất kinh khủng, cảnh tàn phá chết chóc tất nhiên khiến người ta phải chấn động. Đó là chưa kể trong cảnh hỗn mang như vậy mọi trật tự và giá trị đều bị đảo lộn, ai dám chắc là người mới tới không bị nó ảnh hưởng?

Với người quyền biến cảnh hỗn mang có thể là tai họa rủi ro mà cũng có thể là cơ hội ngàn vàng, họa phúc khó lường. Nhưng với người tuổi già sức yếu tôi e trong tám chín mươi phần trăm trường hợp gặp cảnh hỗn mang chỉ chuốc lấy họa mà thôi. Bởi vậy theo cách xem của tôi người già đến hạn Tuần Triệt phải hết sức cẩn mật đề phòng. Nhất là mệnh hạn gặp cảnh “Triệt Tuần tháo gỡ”, bởi “tháo gỡ” đây cũng có thể là tháo gỡ khỏi nợ đời, cho hồn phách tự do chu du về nơi tiên cảnh.

 Còn người chưa cao tuổi mà công danh lận đận, cơm áo ngược xuôi, theo tôi đừng vội thấy đại hạn đến Tuần Triệt mà sợ hãi như các sách cổ đã ghi. Nhiều khi đây là thời điểm đổi thay, là khúc quanh dẫn đến sự huy hoàng ở tương lai đó.

Dĩ nhiên đây chỉ là yếu tố thêm vào mà thôi. Vận không thể quá mệnh, nên phải xem cách cục nguyên thủy ra sao, lại phải phối hợp với cách cục của cung đại hạn rồi hãy luận hạn Tuần Triệt là tốt hay xấu.

HỎI: Rốt ráo thì vấn đề vẫn là xác định cung có Tuần Triệt tốt hay xấu. Đây là điểm rất lờ mờ của Tử Vi, các sách không nói rõ. Ông có phương pháp suy luận nào rõ nét chăng?

ĐÁP: Cách xem Tuần Triệt của tôi dựa nhiều vào suy diễn cá nhân nên hai chữ “phương pháp” không dám nhận.

Như đã trình bày nhiều lần, luật chung mà tôi áp dụng cho cung bị chính Tuần án ngữ là uy lực của các sao bị giảm 50%, chính Triệt 80-90%. Phụ Tuần phụ Triệt tôi sẽ bàn sau; tạm thời khi tôi nói Tuần tôi ám chỉ “chính Tuần”, Triệt ám chỉ “chính Triệt”.

Tuần làm giảm 50%, nghĩa là tính chất tốt cũng như xấu của sao bị giảm nhưng vẫn còn phát huy được một phần nào. Tác dụng của Tuần lâu dài nên lý tính này không đổi (trừ trường hợp vào hạn Triệt như đã trình bày ở trên). Triệt làm giảm 80-90%, nghĩa là tính chất của sao bị đè nén không phát huy được, nhưng tác dụng của Triệt ngắn hạn nên sự đè nén này không có tính vĩnh viễn. Những điều này đã trình bày nhiều lần trong các bài trước, ở đây tôi chỉ nhắc lại để khỏi mất công lục tài liệu cũ.

Vì ảnh hưởng các sao bị giảm thiểu, Tuần và Triệt khiến cho tính chất của mọi cách cục đều bị thay đổi; nhưng không nhất thiết đảo lộn tốt thành xấu, xấu thành tốt… Vậy làm sao phân biệt xấu tốt? Xin thưa tôi chưa có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này trong mọi trường hợp. Tôi chỉ xin đề nghị vài điều, và ghi rõ độ khả tín của các điều này:

1.-Coi nhẹ ngũ hành: Tôi cho rằng ta không nên dựa vào lý ngũ hành sinh khắc để luận tác dụng của Tuần Triệt trên các sao, bởi sẽ có khi đúng khi sai.

Lời đề nghị này khả tín, vì như trình bày trong bài trước, lý ngũ hành của các sao không phải là kết quả của một bài toán nhất quán mà mỗi nhóm sao được suy bằng một hệ thống lý luận khác nhau, nên không thể nhất luật áp dụng lý sinh khắc với Tuần Triệt mà suy ra tốt xấu cho mọi sao được.

Mà thiết nghĩ luật sinh khắc của ngũ hành không cần thiết, vì ta đã biết tác dụng tổng quát của Tuần Triệt trên các sao như tôi đã trình bày nhiều lần. (Trừ một vài ngoại lệ tôi sẽ bàn sau).

2.-Phân định hoàn cảnh của chính tinh ngộ Triệt:

Xem Tuần Triệt như hai loại động đất xảy ra ở trong cung, tôi phân biệt theo ảnh hưởng ra hai loại chính tinh: Năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng một nhóm, nhóm kia gồm 9 chính tinh còn lại.

Luận Âm Dương và Tử Phủ Tướng trước. Trong TVHTKH1 tôi gọi Tử Phủ Âm Dương là 4 đế tinh. Cách gọi này đã gây nhiều phản kháng; thực ra điểm chính tôi muốn nói là Tử Phủ Âm Dương có vai trò lãnh đạo nên khác với 10 sao còn lại. Điểm này hết sức quan trọng, hiểu nó rồi thì sẽ giải thích được tại sao Tử Phủ Âm Dương có những cách cục khác hẳn các sao khác.

Riêng sao Thiên Tướng có một vai trò rất lạ lùng trong Tử Vi. Như đã trình bày trong TVHTKH1, theo lý hình thành thì Thiên Tướng là sao yếu đuối nhất trong nhóm động (tức nhóm 8 sao Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham), nhưng vì lý vận hành mà Tướng được vĩnh viễn tam hợp với Phủ, tạo thành cặp quý tinh Phủ Tướng. Có thể nói Tướng là một loại “nửa ông nửa thằng” (theo ý nghĩa tốt), chẳng thể kể là thuộc giai tầng lãnh đạo, nhưng lại được hưởng nhiều quy chế đặc biệt dành riêng cho cấp lãnh đạo.

Tuần Triệt như hai loại động đất. Tác dụng của chúng là giảm thiểu tín hiệu của các sao, nên các nhân vật lãnh đạo đang ở ngôi cao (tốt) tất bị sụt xuống thấp (bớt tốt), các nhân vật đang ở chức quá thấp so với khả năng (xấu) có thể được trung ương cứu xét để thăng lên chức gần với khả năng hơn (bớt xấu). Thế nhưng từ quan điểm chủ quan thông thường của giới lãnh đạo thì từ ngôi cao sụt xuống không phải là bớt tốt mà là xấu, tương tự đang ở chức quá thấp mà được cứu xét là có hy vọng lên chức gần hơn với khả năng của mình, nên không phải bớt xấu mà là tốt. Dùng lý tương ứng ta suy ra:

Tử Phủ Tướng không có hãm địa nên gặp Tuần Triệt ví như ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, gặp Tuần Triệt là hung hiểm (riêng Mão Dậu là hai cung yếu nhất của ba sao này thì lại có thể hưởng phúc của kẻ tu hành, như đã luận trong bài trước).

Âm Dương miếu vượng gặp Tuần Triệt ví như lãnh chúa ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, hiểu lẽ tiến thủ thì vẫn hơn người; thế nhưng hiểu lẽ tiến thủ là ngoại lệ, nên đa số trường hợp là xấu.

Âm Dương hãm địa gặp Tuần Triệt ví như nhân tài đang ở vị trí quá thấp so với tài nghệ của mình bỗng được nâng lên một vị trí cao hơn (mặc dù vẫn là thấp so với tài nghệ). Rõ ràng là một tiến bộ, nhưng công tâm mà xét thì vẫn là chưa đạt hết tiềm năng. Bởi vậy Âm Dương hãm địa gặp Tuần Triệt là có cơ hội tốt để thành công, nhưng khó thành công lớn được.

Trường hợp Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi gọi là “đắc địa” vì lý do đặc biệt xin xem phần hỏi đáp.

Chín chính tinh còn lại tôi phân ra các sao vũ dũng, thư sinh, và làng nhàng. Vũ dũng có Liêm Vũ Sát Phá Tham, thư sinh có Cơ Lương, làng nhàng có Đồng Cự.

Vũ dũng gặp Tuần Triệt lý tính giảm đi, nhưng vẫn còn tàn tích, không hết hẳn được. Như Phá Quân chủ phá hoại, gặp Tuần Triệt khuynh hướng phá hoại giảm đi, có thể thành ra thích sửa đổi. Như Vũ Phá cư Hợi là hãm địa, ngộ chính Triệt ở đây không có nghĩa trở thành tốt, mà chỉ là đỡ xấu đi thôi. Lại như Tham Lang cư Tý gặp Kình là cách “phiếm thủy đào hoa”, thường lông bông lãng đãng thích trăng hoa; nếu sinh trong tuần từ Giáp Dần đến Quý Hợi tất ngộ Tuần, có thể nhờ vậy mà không tỏ ra lông bông lãng đãng hoặc trăng hoa, nhưng khuynh hướng này vẫn tồn tại ở mức thấp và phải được thể hiện ra ở đâu đó (chẳng hạn là văn sĩ hoặc diễn viên, sở trường diễn tả các vai lãng tử).

Thư sinh gặp Tuần Triệt thì thay đổi hoàn cảnh. Tốt thành xấu, xấu đỡ hơn, chưa tốt hẳn dễ thành ra tốt. Hai sao Cơ Lương thỏa tính “thư sinh” nên miếu vượng ngộ Tuần Triệt ví như học trò giỏi giang nhưng chẳng may thi rớt nên giảm hẳn nhuệ khí, biến thành ra xấu. Cơ Lương hãm gặp Tuần Triệt như học trò nghèo được nhờ hoàn cảnh đổi thay mà tìm được việc dạy kèm trẻ kiếm tiền dằn túi, hoặc như học trò dở nhưng may nhờ thang điểm đổi mà đậu vớt kỳ thi cuối khóa; tốt đấy, nhưng chẳng thể nói là huy hoàng. Riêng Cơ Tý Ngọ và Lương cư Sửu (cách “nhật nguyệt tịnh minh”) là các trường hợp thiên về tốt nhưng không rõ nét lắm thì ví như người học trò tự xem mình quá thấp, cứ làm những việc lận cận đâu đâu; gặp Tuần Triệt ví như may nhờ gặp biến cố mà vỡ lẽ ra. Vỡ lẽ ra rồi thì chuyên tâm học tập thành tài, nên dễ tốt vậy.

Sao làng nhàng thì gặp Tuần Triệt chẳng hại gì, lại thường có lợi. Bởi thế chẳng sách nào nói Đồng sợ Triệt Tuần, các sách lại hay nói đến cách to là “thạch trung ẩn ngọc”, tức Cự Môn Tý Ngọ đắc Triệt Tuần.                       

3.- Định hoàn cảnh chung của các sao ngộ Tuần Triệt:

Tuần Triệt không làm các sao biến mất, chúng vẫn tồn tại trong cung, nhưng thể hiện ra ở một mặt khác.

Chẳng hạn trường hợp mệnh vô chính diệu, lại gặp hung tinh khắc mệnh rất nguy hiểm. Sách viết là cần có Triệt án ngay cung để hóa giải. Ảnh hưởng hóa giải của Triệt trong trường hợp này dĩ nhiên có, nhưng đồng thời cần ghi nhận rằng hung tinh ấy vẫn hiện hữu trong cung. Đây hung tinh ngộ Triệt ví như gã ăn cướp bị giam lỏng; có thể là mối họa của ta sau này (nhưng cũng có thể là thiện duyên, nếu ta ra công cải hóa được gã ăn cướp ấy về đường chính đạo). Bởi vậy cung có hung tinh khắc mệnh ngộ Triệt khác với cung trống ngộ Triệt. Ngược lại, cũng mệnh vô chính diệu, nhưng có quý tinh Khôi hoặc Việt thủ ngộ Triệt (can Canh hoặc Nhâm) thì ví như quý nhân bị hãm hại ngay trong nhà của ta, xấu hơn hẳn trường hợp cung trống ngộ Triệt. Xin nhớ đây chỉ là đề nghị của tôi, không dám nói là hoàn toàn khả tín, nhưng thiết nghĩ có phần nào cơ sở.

Phối hợp ba luật này với những gì đã biết về cách cục, thêm sự hiểu biết rằng khi cung gặp Tuần Triệt thì ảnh hưởng của tam phương tứ chính mạnh hẳn lên, tôi nghĩ rằng hai người khác nhau có thể luận ra cùng kết quả về ảnh hưởng tốt xấu của các cung trong đa số trường hợp. Thiểu số trường hợp còn lại thì mỗi người một ý, nhưng đó là hiện trạng của Tuần Triệt; khi có thêm đột phá thì tỷ lệ các trường hợp đồng thuận sẽ tăng lên theo.

Đó là mới nói chính Tuần, chính Triệt. Phụ Tuần và phụ Triệt tôi chỉ coi là yếu tố “giọt nước tràn ly”. Cách xem của tôi là trước hết bỏ Tuần Triệt ra không tính, sau khi định cách cục tốt xấu rồi thì cân lượng xem độ tốt xấu bao nhiêu. Nếu rất tốt thì giảm tốt đi (nhưng vẫn tốt), hơi tốt hoặc thành trung tính hoặc hơi xấu; trường hợp rất xấu và hơi xấu ngược lại; trung tính thì không có ảnh hưởng.

Theo cách xem này, khác biệt quan trọng giữa chính Triệt Tuần và phụ Triệt Tuần là chuyện xấu thành tốt tốt thành xấu xảy ra rất thường khi năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng gặp chính Tuần chính Triệt, nhưng rất hiếm khi chúng gặp phụ Tuần phụ Triệt. 

Vài cộng hưởng đặc biệt của Tuần Triệt

HỎI: Có sao nào là ngoại lệ của Tuần Triệt hay chăng? Rõ ràng hơn, có sao nào bị Tuần Triệt ảnh hưởng nặng nề hơn bình thường hoặc nhẹ hơn bình thường hay chăng?

ĐÁP: Trước khi trả lời câu này, cần nói rõ là –theo tôi- những trường hợp gọi là “ngoại lệ” của Tuần Triệt là vấn đề của ngôn từ hơn là hiện tượng.

Ta có thói quen gọi mọi thứ được an trên lá số Tử Vi là “sao”; nhưng theo suy luận của tôi Tuần Triệt không phải là sao, mà là hai ảnh hưởng trong các cung chúng đóng.

Ngoài Tuần Triệt ra, theo tôi vòng Thái Tuế và tứ Hóa cũng không phải là sao.

Vòng Thái Tuế chỉ giản dị là 12 phương vị phản ảnh tính thiên văn được áp đặt lên địa bàn nhờ có tính phù hợp tình cờ. Vai trò của vòng Thái Tuế ví như 12 bảng chỉ phương hướng, cho ta biết cung nào được hưởng địa lợi, cung nào phải đấu tranh, cung nào chậm trễ, cung nào dễ lỗ lã v.v… Tóm lại, vòng Thái Tuế đánh dấu đặc tính của các cung.

Vòng Thái Tuế dĩ nhiên ứng với đơn vị năm nên tôi cho rằng vòng này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tuần vì Tuần ứng với đơn vị năm. Nhưng không phải là Tuần làm giảm ảnh hưởng của vòng Thái Tuế mà là Tuần và vòng Thái Tuế cộng hưởng với nhau. Từ cộng hưởng này không thôi ta đã có thể làm vài dự trắc. Chẳng hạn gặp trường hợp Bạch Hổ ngộ chính Tuần, ta phối hợp tính đấu tranh quyết liệt của Bạch Hổ với ảnh hưởng giảm thiểu của Tuần, đoán được là xác xuất thành công thấp hơn bình thường, bởi kẻ quyết liệt muốn thành công thì phải mong đợi vào biến chuyển cực đoan, nhưng gặp Tuần thì các yếu tố cực đoan trong cung đã bị giảm thiểu.

Có người sẽ bảo cách xem này chẳng có gì lạ, vì cho rằng Tuần giảm tác dụng của Thái Tuế cũng ra kết quả tương tự. Điểm khác ở đây là ảnh hưởng của Triệt. Như đã trình bày ở trên, Triệt giảm 80-90% tác dụng của các sao; nhưng vì nó ứng với tháng nên không có ảnh hưởng đáng kể gì với lý tính của các sao trong vòng Thái Tuế.

Tôi biết có người sẽ nói rằng cách Bạch Hổ ngộ Triệt rõ ràng là bị phá cách. Thế nhưng tôi cho rằng đây chỉ là một sự lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng mà thôi. Rõ ràng hơn, nếu tôi gặp số cung mệnh có Bạch Hổ ngộ Triệt tôi vẫn đoán người ấy cá tính thích đấu tranh quyết liệt (tức là bản tính không đổi của Bạch Hổ), còn chuyện “phá cách” thì lý vẫn như trường hợp Tuần, chẳng phải là Bạch Hổ bị giảm tác dụng mà là các yếu tố cực đoan mà Bạch Hổ cần để chiến thắng đã bị Triệt phá hủy, nên Bạch Hổ khó đạt mục tiêu.

Có người sẽ hỏi nếu vòng Thái Tuế ứng với chi năm không bị Triệt ảnh hưởng thì tại sao Đào Mã Cái Sát là bốn sao tam hợp hành của chi năm lại chịu ảnh hưởng của cả Tuần lẫn Triệt. Tôi xin trả lời rằng Đào Mã Cái sát là kết quả phối hợp của chi năm với ngũ hành, vòng Thái Tuế thì không; đó là một khác biệt hết sức quan trọng.

 Kế tiếp xin vắn tắt về tứ Hóa. Độc giả hẳn đã nghe những câu như “Kình Dương hóa Hình, Đà La hóa Kỵ”; tức là trong cảnh cực đoan Kình Dương sẽ biểu lộ tính “hình” (sát khí), còn Đà La biểu lộ tính “kỵ” (đố kỵ, ngăn trở v.v…) Theo tôi tứ Hóa ý nghĩa cũng tương tự như thế. Nói cách khác, tứ Hóa không phải là 4 sao mà là bốn trạng thái biến đổi của mà chính tinh và Xương Khúc Tả Hữu có thể trải qua. Như năm Giáp, ta biết hóa Lộc được cư trong cung có Liêm Trinh, hóa Lộc cung có Phá Quân, hóa Khoa cung có Vũ Khúc, hóa Kỵ cung có Thái Dương. Ấy bởi vì “năm Giáp Liêm Trinh hóa ra Lộc”. Tương tự, “Phá Quân hóa ra Quyền”, “Vũ Khúc hóa ra Khoa”, “Thái Dương hóa ra Kỵ”. Quan điểm này có thể lạ với làng Tử Vi Việt Nam, nhưng là cách nhìn tiêu chuẩn ở Đài Loan cũng như Hồng Kông trong hiện tại.

Chấp nhận như vậy thì sẽ thấy tứ Hóa không phải là bốn sao theo nghĩa bình thường, nên chẳng có lý do gì để chúng bị Tuần Triệt làm giảm ảnh hưởng.

Có người sẽ hỏi “Vậy tại sao cho rằng tứ Hóa bị Tuần Triệt ảnh hưởng có vẻ cho kết quả đúng trong nhiều trường hợp”. Tôi sẽ trả lời rằng đây lại là một trường hợp lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng. Hóa Lộc tượng mùa xuân, ta có câu tục ngữ “một con én không làm nổi mùa xuân”, nay giả như hoàn cảnh của cung bị Tuần Triệt án ngữ chẳng lấy gì làm đẹp (nhưng không đủ xấu để thỏa lý “tuyệt xứ phùng sinh”), thì một tính “Lộc” được chính tinh biến hóa ra làm sao đổi được tình trạng ấy? Cái lý cho Quyền, Khoa, Kỵ đại khái cũng thế.

Có người sẽ hỏi “Cho rằng tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng có công dụng gì trong việc xem số?” Tôi sẽ trả lời rằng cách này có công dụng trong nhiều trường hợp, trong đó có các trường hợp gọi là “tuyệt xứ phùng sinh” mà tôi sẽ trình bày trong tập 3 của sách này nếu tôi có duyên viết đến tập ấy. Nhưng hãy đưa một thí dụ dễ hiểu để thấy sự khác biệt giữa cách xem này với cách xem truyền thống. Giả như ta xem một lá số thấy rằng nếu tính hóa Lộc từ cung xung chiếu về thì tốt, nhưng cung xung ngộ Triệt. Nếu cho rằng hóa Lộc bị Triệt phá hủy (như truyền thống) thì phải luận là xấu, theo cách mà thôi đề nghị thì vẫn luận là tốt như thường.

Ngoài ra, còn có một điểm tưởng là không liên hệ đến tác dụng giữa Tuần Triệt và tứ Hóa nhưng theo tôi cần ghi nhận làm dữ kiện tham khảo. Như tôi đã trình bày nhiều lần trong loạt bài này, đa số các sách Tử Vi ở Đài Loan bây giờ không xem Tuần Triệt là quan trọng. Dĩ nhiên họ làm thế là từ kinh nghiệm. Làng Tử Vi Việt Nam càng lúc càng trọng Tuần Triệt, dĩ nhiên cũng vì kinh nghiệm. Hai bên cùng theo kinh nghiệm cả, tại sao một bên trọng một bên khinh Tuần Triệt?

Tôi cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là vì Tử Vi Đài Loan trọng tứ Hóa hơn thần sát, Tử Vi Việt Nam (tối thiểu trong giai đoạn hiện tại) dĩ nhiên ngược lại. Từ đó suy ra có một lời giải giả định nhưng giải thích được tại sao cả hai bên đều đúng mặc dù cách xem khác nhau, đó là tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng! 

HỎI: Âm Dương Sửu Mùi ngộ Tuần (hoặc Triệt) hóa Kỵ được nhiều sách gọi là “kỳ cách”; có lý hay chăng?

ĐÁP: Tôi cho rằng khi truyền lại cách này, người xưa đã dấu một phần bí quyết. Ta thử tái khám phá bí quyết này xem sao.

Trước hết muốn có Kỵ đóng cùng Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì chỉ có 4 trường hợp sau đây:

Sinh năm Giáp: Liêm hóa Lộc, Phá hóa Quyền, Vũ hóa Khoa, Nhật hóa Kỵ. Tức là song Lộc ở tật, Quyền ở tử, Khoa ở bào. Tín hiệu rõ nhất là quan gặp cặp song Hao hãm địa, ngoài ra không có cách cục gì đặc biệt.

Sinh năm Ất: Cơ hóa Lộc, Lương hóa Quyền, Tử hóa Khoa, Nguyệt hóa Kỵ. Tức là Lộc cư Phúc được Lộc Tồn ở tài xung chiếu, Quyền cư quan, Khoa cư Điền.

Sinh năm Tân: Cự hóa Lộc, Nhật hóa Quyền, Khúc hóa Khoa, Xương hóa Kỵ. Tức là song Lộc cư Phúc, mệnh đắc Khoa Quyền. Ngoài ra, muốn Xương Khúc cư cùng Nhật Nguyệt thì phải sinh giờ Mão hoặc Dậu, đều là thân cư thiên di vô chính diệu được song Lộc Khoa Quyền hội họp.

Sinh năm Kỷ: Vũ hóa Lộc, Tham hóa Quyền, Lương hóa Khoa, Khúc hóa Kỵ. Tức là Khoa cư quan, mệnh ngộ hoặc xung Kình đắc địa và giáp Quyền Lộc. Ngoài ra, cũng như trường hợp năm Tân, thân cư thiên di vô chính diệu, nhưng kém trường hợp năm Tân vì không được tam Hóa hội họp.

Có thể thấy rằng sinh năm Ất, Tân, Kỷ đều có điểm đặc biệt khác người, nhưng năm Giáp thì phải đặt câu hỏi, bởi cách cục không có gì đặc biệt, nếu không muốn nói là dưới trung bình.

Vậy ta tạm kết luận muốn thành cách phải sinh các năm Ất, Kỷ, Tân. Nhưng tại sao lại cần phải có thêm điều kiện là Tuần hoặc Triệt án ngữ? Thưa, vì Âm Dương như hai lãnh chúa, ở cùng nơi tất sinh xung đột. Tác dụng của Tuần Triệt là chiết giảm hoặc triệt tiêu sự xung đột đó. Xung đột giảm thiểu hoặc biến đi rồi các cách kể trên tự nhiên sẽ thành hình.

Có thể thấy rằng các cách trên tốt không phải vì Kỵ, mà vì những cộng hưởng đi đôi với Kỵ. Đó là lý do tại sao tôi cho rằng người xưa đã giữ lại “bí quyết” khi truyền cách này cho chúng ta.

HỎI: Còn Không Kiếp, Thiên Không cũng thường được coi là có tính không vong, gặp Tuần Triệt phải luận làm sao?

ĐÁP: Thiên Không luôn luôn chiếm một vị trí cố định trong vòng Thái Tuế (trước Thái Tuế một cung), nên lời giải của tôi y hệt như trường hợp vòng Thái Tuế ở trên (không bị Triệt ảnh hưởng, cộng hưởng với Tuần thay vì bị Tuần ảnh hưởng). Nhưng chú ý rằng Thiên Không luôn luôn ở vị trí phụ Triệt nên ảnh hưởng của Tuần ở đó không mạnh.

Còn cặp Không Kiếp vốn thỏa mọi điều kiện của sao nên muốn nhất quán tất nhiên phải cho rằng chúng bị Tuần giảm 50% dài hạn, Triệt giảm 80-90% ngắn hạn.

HỎI: Cuối cùng, có người nói xem hạn phải thêm lưu Tuần lưu Triệt mới chính xác, đáng tin cậy chăng?

ĐÁP: Ly kỳ làm sao, mới vài ngày cách đây vấn đề này đã được đặt ra ở trên một mạng mệnh lý có uy tín. Phải chăng đây là một trong những diễn biến tưởng là tình cờ của cuộc đời mà thực ra đã được ông trời sắp xếp trước, vì khi bắt đầu viết loạt bài về Tuần Triệt hơn tháng trước tôi chẳng thể ngờ khá nhiều vấn đề tương tự lại được người khác đặt ra sau đó.

Trở lại câu hỏi. Khi xem hạn năm chúng ta lưu rất nhiều sao, như Tuế Tang Hổ Khốc Hư Lộc Kình Đà Thiên Mã. Tử Vi Đài Loan, Hồng Kông lưu thêm tứ Hóa (và nhiều người coi chúng quan trọng hơn hết). Đó đều là các sao thuộc đơn vị năm. Tuần mười năm chuyển động một lần, Triệt chuyển động một lần mỗi năm. Hiển nhiên có thể coi Triệt là sao năm, và nếu nghĩ rằng nó có tín hiệu mạnh thì lưu nó là hợp lý (chữ nếu ở đây rất quan trọng, xin xem thêm ý kiến riêng của tôi ở cuối). Nhưng đã lưu Triệt mà không lưu Tuần e không ổn. Thành thử đã lưu thì phải lưu cả hai sao.

Tử Vi Đài Loan có một điều tôi học được là họ phân ra “tầng ảnh hưởng” dựa theo khác biệt của đơn vị thời gian. Như cách cục nguyên thủy tất nhiên ảnh hưởng đại hạn, đại hạn tất nhiên ảnh hưởng niên hạn (tiểu hạn hoặc lưu niên, tùy phái), niên hạn tất nhiên ảnh hưởng nguyệt hạn, nguyệt hạn tất nhiên ảnh hưởng nhật hạn, nhật hạn tất nhiên ảnh hưởng thời hạn. Thế nhưng cách cục nguyên thủy chưa chắc có ảnh hưởng trên niên hạn, đại hạn chưa chắc có ảnh hưởng trên nguyệt hạn v.v… Theo quy luật đó, thêm lý giản dị của “dao cạo Occam” thì khi luận niên hạn, nguyệt hạn, thời hạn; nếu xét Tuần Triệt thì chỉ xét lưu Tuần, lưu Triệt mà thôi.

Chữ “nếu” ở đây rất quan trọng; thật tình là tôi chưa kiểm chứng đủ để định tầm quan trọng của lưu Tuần Triệt, do đó vì lý giản dị tôi đã luôn luôn lờ hẳn chúng đi cho khỏi rối trí.

HẾT


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở phái Tử Vân

10 liên đới cơ cấu của tử vi

Bài viết "10 liên đới cơ cấu của tử vi" thuộc nhóm bài 10 kinh nghiệm được GS Lê Trung Hưng chia sẻ trên Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí rất hay và hữu ích.
10 liên đới cơ cấu của tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

GS. LÊ TRUNG HƯNG

Trong công trình làm sang tỏ khoa lý học tử vi, những lúc gần đây người ta không thể quên tên của những loạt bài “Thần Kê định số”, của nguồn gốc khoa tử vi, của hình tượng của Nhật Nguyệt và những tác giả thâm lý vô cầu Võ Văn Châu, Vi Nhật, Phong Nguyên trên KHHB của năm cũ Giáp Dần 1974. Trước thềm xuân niên tuế Ất Mão, kẻ viết xin khai bút gọi là chút đóng góp (trong muôn một và đa diện của khoa Tử vi) với tâm ý: 1 ngày nào đó tử vi trở thành 1 học khoa của sinh hoạt đại học (trên các lĩnh vực nhân văn và quản trị). Chiều hướng trên có thể là 1 tham vọng, một khi những ai dấn than vào tử vi để hủ hóa thêm cho ngành này (bằng thái độ tự tôn, thành kiến, cố chấp, bảo thủ), mà cũng có thể là cao vọng khả chấp, một khi mọi giới thức giả trong vị thế và lãnh vực của mình, áp dụng tử vi trong sự cảnh giác: vừa nghiệm lý, vừa khai phóng. Có nghiệm lý mới thấy rõ hậu quả của bản số và thế tương quan cơ cấu giữa các tinh đẩu. Có khai phóng mới cập nhật hóa được những dữ hiện xưa trong hình thái hiện hữu, bới cung cách cổ điển vẫn tồn tại ẩn kín trong văn hóa kim thời.
Bài viết kỳ này xin triển khai “Mười Liên Đới Cơ Cấu của Tử Vi” – gọi là mở ngõ và gợi ý cho lĩnh vực xã hội học…

  • CHÍNH BẤT NHƯ CHIẾU: THẠCH TRUNG ẨN NGỌC

Tử vi có tất cả 14 chính diệu, được coi là các giới tinh “đỡ đầu cho cung trấn đóng và ai cũng phải nhìn nhận cặp Thái Dương – Thái Âm chủ về sự soi sang. Trực chiếu (hay còn gọi là xung chiếu thì mạnh mẽ hơn là tam hợp chiếu. Đại vận vào ngay cung của Nhật Nguyệt (vị thế sáng sủa) bị lòa sáng làm đẹp và không tốt bằng Đại vận ở cung được Nhật Nguyệt chiếu. thế nên khi Cự môn (là cửa thành, cửa nhà quan: nếu đóng ở Ngọ thì nên gọi là ngọ môn, cho chính danh nơi vua ở, và bên trong hẳn phải chất chứa bao điều bí mật về tài sản, về phong cách), đóng ở cung Tý luôn có Thái Dương ở cung Thìn rọi sang (tam hợp chiếu). Đèn chiếu tới cửa, nhưng cửa cài, then đóng, làm sao thấy được gì ở trong? Vậy cần phải có những yếu tố mở ngỏ (nội công thì ngoại kích mới hữu hiệu) nằm vùng ngay tại cung của Cự Môn, như Tuần Triệt, Song Hao, Kình Dương – nỗ lực làm sao cho cửa thành được mở ra, lúc ấy, đèn trời (Thái Dương) mới tỏa rạng ở cung của Cự môn, phơi bày cả 1 kho tang mà Cao chu Thần tướng cao hứng ngâm vịnh: "Kho trời chung mà vô tận của mình riêng".

Biện chứng tương tự cho trường hợp Cự Môn ở cung Ngọ (ngọ môn – khó khăn lắm mới mở được cửa nhà vua), luôn luôn có Thái Dương ở cung Tuất (lâm vào vị thế kém sang), nhưng nếu Thái Dương (ở Tuất) gặp Hóa Kị hay Thiên tài, hoặc giả được đám sao Đào hồng Linh Hỏa hội nhập (nhị hợp, tam hợp….) tiếp sức cho sao anh rọi sáng cung Ngọ, đồng thời Cự môn tại Ngọ bị Tuần Triệt, Song Hao, Kình đục phá thì rồi núi cũng phải lở huống chi chỉ là cửa thành? Mà khi cửa nhà vua bật mở tung, chắc chắn đèn trời Thái Dương còn được chói rạng hơn (vì trân châu, hột xoàn của kho vua lấp lánh). Thành ra “thạch trung ẩn ngọc” chỉ là 1 cách nói tượng trưng của người xưa (ý tại ngôn ngoại). Trong chiều hướng biện giải này, lá số của vị nguyên thủ quốc gia (đăng trong Tử vi Tổng hợp của ông Nguyễn Phát Lộc) có cách “Thạch trung ẩn ngọc” đặc biệt (tạm gọi là đệ tam cách) là Thái Dương ở Tị rọi sang (ngon lành) cho Cự Môn ở hợi (có Tuần, Đại Hao, Không Kiếp), hiệu lực của đệ tam cách chưa biết nghiệm lý ra sao? Có điều chắc chắn: Những bản số nào thuộc cách Cự môn tại Ngọ thiếu thời tân khổ lắm (đục cửa nhà vua tất nhiên phải vất vả)., qua trung niên và hậu vận lại phong túc, vẻ vang tột cùng

  • VÒNG THÁI TUẾ: CHÌA KHÓA CỦA QUẢN TRỊ HỌC

Căn bản của tử vi thuyết Thiên Lương là vòng Thái Tuế. Cho đến nay, tuy có nhiều gười hâm mộ sự phát kiến của cụ nhưng rất ít người hiểu rõ những hiệu lực nền tảng của vòng sao chất chứa mệnh tính này, thành ra ngộ nhận 1 cách bất thuận lợi cho khoa tử vi (chứ không phải cho người phát kiến) như tác giả 1 cuốn sách tử vi mới phát hành vào đầu năm 1975

Vòng Thái Tuế là tam giác liên kết 3 cung mạng năm sinh của tuổi (Ví dụ sinh năm Mão thì vòng Thái tuế là tam giác nối 3 cung Hợi Mão Mùi). Vòng này thiết lập ra để đối chiếu tính cách sinh khắc với tam giác của 3 cung Mệnh Quan Tài (được coi là vòng tha nhân, đã trình bày ở bài “10 điều tâm niệm khi đoán số tử vi”. Cụ Thiên Lương gọi vòng Thái tếu là vòng Thiên thời, để tìm xem đại vận nào tốt nhất trong đời (ông Trần VIệt Sơn đã khai triển nhiều lần). Nhưng có 1 khía cạnh tối quan trọng của vòng Thái tuế mà ít người lưu tâm là tính chất phẩm hạnh và tác phong của bản số tử vi. Một cách dễ hiểu hơn, người viết xin đặt tên cho vòng Thái Tuế là “Vòng Quản Trị” (Cycle of managerial functions), để góp phần hệ thống hóa mô thức điều hành xã hội trên thuật hướng vương đạo của tiền nhân. Mô thức phân quyền của Montesquieu tiên sinh nếu lồng vào Vòng Quản trị của khoa tử vi, sẽ diễn tiến như sau:

3 đỉnh của tam giác vòng quản trị là Thái Tuế - Quan Phù – Bạch hổ, mỗi đỉnh là 1 cục bộ của chủ quyền quốc gia: Lập pháp – Hành Pháp và Tư Pháp. Ý nghĩa dân chủ của thể chế chính trị tiến bộ là hình thái phân quyền để chủ quyền quốc gia được lành mạnh và quốc dân phú cường. hình thái học của khảo hướng phân quyền là như thế, nhưng động lực thực hiện được phân quyền tốt đẹp thuộc khoa quản trị học. Dùng người đúng chỗ là ưu điểm của nhà lãnh đạo, áp dụng vào mô thức vòng quản trị của tử vi, ta có ngay sự sắp xếp thích nghi:

  • Người có cung Mệnh, Thân nằm trên đỉnh Bạch Hổ chủ về cái mạnh bạo, mẫn cán và anh hung của kẻ dám làm những điều chính đáng tốt lành. Quyền Hành pháp trao cho người Bạch Hổ là hành pháp mạnh nhưng không chuyên quyền quá đà
  • Người có cung Mệnh, Thân nằm trên đỉnh Quan Phù chủ về sự tính toán minh bạch, tham khảo rạch ròi kẻ tóc chân tơ của người ngay chính cẩn thận. Quyền Tư pháp nằm trong tay những người Quan Phù thì luật pháp được phê sử công minh và thích hợp với sở cầu của xã hội
  • Người có cung Mệnh, Thân nằm trên đỉnh Thái Tuế chủ sự trầm mặc, đoan chính, có tác phong nghiêm nghị và lý luận, luôn luôn đường hoàng và tự tín. Quyền Lập pháp trao cho người Thái Tuế là an ninh tinh thần của dân chúng, luật pháp được thượng tôn, cán cân công lý được duy trì nghiêm cẩn
  • ĐỊA KIẾP CHỈ ĐỐI VỚI THIÊN LƯƠNG

Phép đối ngẫu của cổ văn chương Việt Hoa đối âm, đối tiếng và đối nghĩa. Trọng bộ Lục bại tinh của tử vi có đôi sao Địa Kiếp – Địa Không được an theo giờ sinh, xuất phát từ cung Hợi theo chiều Âm Dương (là căn bản của thuật số huyền học Đông phương). Sự hiệu nghiệm của 2 sao này đã quá rõ rang: Chúng đóng ở cung nào là y như có chuyện lình xình ở cung đó; chiến lược của phản trắc tính Không Kiếp không thể phủ nhận, tất yếu sự hiện hữu là 1 mặc nhiên. Nhưng có vị trí giả đề nghị hủy giải sao Địa Không vì cho rằng tính lý không hạp đôi với Địa Kiếp và thay vào đó bằng sao Thiên Không. Kẻ viết vốn rất ngưỡng mộ sự canh cải, để phục hồi giá trị cho khoa nhân văn tử vi, nhưng không thể vì định kiến chỉ nam ấy mà quên giá trị nghiệm lý của cơ cấu các sao trên lá số. Xin trình làng 2 lý do:

  • Phép đối ngẫu Địa Kiếp (2 âm trắc) đối âm với Thiên Lương (2 âm bằng). Địa Kiếp là thực tự hợp với Thiên Lương (cũng là thực tự của cổ văn). Quan trọng hơn là xét đối nghĩa: Địa Kiếp chỉ quân ăn cướp ở dưới trần thế, thì Thiên Lương chỉ bậc hảo thiện ở trên trời. Trong khi Thiên Không chỉ có thể coi là hư tự của cổ văn và càng vô nghĩa khi phải đối với Địa Kiếp? Vậy thì càng không nên xét việc hủy thể Địa Không bằng đối luận
  • Vai trò của Thiên Không: trong phép an sao Thái Tuế có sự định chuẩn rõ rang: trước Thái Tuế là Thiên Không và sau Thái Tuế là Quán sách:

”Tuế tiền nhất vị thị thiên thiếu
Hậu nhất vị quán sách, Trực phù

(Thiên Không và Thiếu Dương ở cung đằng trước Thái Tuế và Quán Sách, Trực Phù ở cung đàng sau Thái Tuế). Người rành luật “bi sắc tư phong” (lý thừa trừ) của Vòng Thái Tuế, càng không thể phủ nhận sự đóng góp của sao Thiên Không khi nó luôn xuất hiện với “tam giác thiên tả” là Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (1 hệ phái thoát ly của vòng Thái Tuế), để thử thách người đời. Bởi vì vào đại vận của tam giác thiên tả, đương số lọt ngay vào sự bảo bọc của bộ sao tứ đức (Phúc Đức, Nguyệt Đức, Thiên Đức, Long Đức) hợp chiếu, chưa kể các phúc tinh khác như Quan Phúc, Quang Quý, Khóa Khoa, luôn luôn là như vậy mà tại sao cứ vào Đại vận hay Tiểu vận này, thiên hạ long đong lận đận khôn cùng? Sự kiện này chỉ có thể hiểu được khi có bộ mặt Thiên Không phá đám, khuấy đảo và dụ dỗ đám hư tinh Đào hồng vào chỗ tuyệt lộ.

Vậy thì xin trả cái gì của César cho César để tử vi khỏi mất mát cái chính lý của nó

  • LUẬN VỀ NGŨ HÀNH TƯƠNG NGỘ

Khoa lý học Đông Á coi lẽ Âm Dương như định lý biến dịch, và lấy ngũ hành làm hệ luận sinh khắc. Chu trình Ngũ hành sinh và Ngũ hành khắc đều là 1 chu trình khép kín.
Ai nấy đều thông lý rõ rang và không có gì thắc mắc. Nhưng trường hợp đồng hành của Ngũ hành thì thật là phức tạp, nhiều ý kiến trái ngược: tốt có và xấu cũng có. Theo sách hồng Vũ cẩm Thư của Dương Quân Tùng (Trung Hoa) thì trường hợp Ngũ hành tương ngộ tạo ra 3 hình thái: Thắng – hòa và bại như sau:

  • Đồng hành Mộc: thắng, tươi tốt
  • Đồng hành Kim: thắng, phong phú
  • Đồng hành Thổ: hòa, vừa phải
  • Đồng hành Hỏa: bại, khẩu thiệt
  • Đồng hành Thủy: thái quá

Việc này đem áp dụng vào công dụng lý đoán các sao và các cung trên tính cách bản hành nhất là Đại vận của Thái Tuế sẽ thấy rõ hiệu lực của mức độ thành- bại mỗi người.

Ví dụ: người mạng Thổ nhập hạn Thái Tuế ở cung Mùi (Thổ) không thể thoải mái, vẻ vang bằng người mạng Kim mà lại nhập hạn Thái tuế ở cung Thân hay Dậu (Kim).

………………………..

(Còn 6 điểm quan trọng – kỳ sau)
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 liên đới cơ cấu của tử vi

Cách hoá giải góc khuất và cột nhà trong phòng khách –

Do đặc điểm kiến trúc, hoặc thiết kế sẵn của nhà chung cư, phòng khách của nhiều hộ gia đình có tồn tại góc khuất hoặc cột trụ làm giảm mỹ quan, gây khó chịu cho người trong nhà, ảnh hưởng đến phong thuỷ và làm mất đi sự thông nhất của phòng khách. B

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

iện pháp hoá giải chúng như sau:

1385611250-2

  Hoá giải góc khuất:

+ Dùng tủ gỗ hình khôi chữ nhật, tam giác có mặt phẳng hay mặt lồi với kích cỡ phù hợp để che phần góc khuất.

+ Để tăng cường không gian thiên nhiên trong chính phòng khách của mình, bạn có thể đặt một chậu cảnh hoặc xây bệ trồng cây cảnh vào phần góc khuất đó.

+ Đặt một bể cá vàng vừa với góc khuất, sẽ mang lại sự may mắn và phú quý tới cho chủ nhà.

+ Xây kín góc khuất rồi treo tranh chữ hay tranh sơn thủy để làm đẹp gian phòng.

+ Tận dụng không gian góc khuất, bạn có thể xây một giá kệ nhiều tầng với đèn trang trí xung quanh rồi bày những chai rượu quý, đồ gốm hoặc những đồ vật độc đáo do mình SƯU tập được, không những che được góc khuất mà còn gây được sự thích thú cho khách khi đến thăm nhà bạn.

–  Hoá giải cột trụ:

+ Với những cột liền tường, bạn có thể dùng các loại tủ quần áo, tủ sách, tủ rượu, tủ bày biện trang trí để che lấp đi hoàn toàn, hòa lẫn tự nhiên với các phần khác trong không gian phòng khách.

+ Với phòng khách có hai cột thì bạn có thể tận dụng khoảng không gian theo chiều ngang giữa hai cột để đặt các loại tủ rượu và tủ sách…

+ Với phòng khách có một cột độc lập, bạn có thể đặt thêm một bức bình phong sát cạnh để biến cột làm giải phân cách trong phòng khách, tạo ra 2 không gian nhỏ trong phòng khách, một bên làm nơi tiếp khách, một bên là dùng làm phòng ăn, nghe nhạc…

Ngoài ra có thể thiết kế một bên cột độc lập tạo thành bậc, tức một bên nền cao, một bên nền thấp khiến người ta có cảm giác ngay thiết kế ban đầu đã là như vậy, về cảm quan sẽ thấy tự nhiên hơn.

+ Nếu không muốn dùng cột độc lập để ngăn phòng khách ra làm hai phòng nhỏ, bạn có thể đặt chậu hoa cảnh quanh chân cột hoặc căn cứ theo thế cột mà đặt giá trên thân cột để các chai rượu quý, đồ gốm, đồ lưu niệm của bạn bè làm vật trang trí cho phòng khách thêm sinh động.

+ Với những chiếc cột quá to, che khuât cả ánh sáng tự nhiên, bạn nên lắp đèn chiếu sáng trên thân cột để tăng ánh sáng cho gian phòng.

Ngoài ra, bạn có thể treo ở dưới xà nhà và cột các loại đèn trang trí, đạo cụ âm nhạc (sáo, tiêu, đàn tranh), hoặc một tấm gương thái cực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hoá giải góc khuất và cột nhà trong phòng khách –

Tìm may mắn cho người tuổi Canh Tuất

Tuổi Canh Tuất (mệnh Kim, sinh năm 1970) mệnh số thuận hòa, cuộc sống tốt đẹp, gặp hung hóa cát. Tuổi này thuở nhỏ ít may mắn, trung niên ổn định, về già sung
Tìm may mắn cho người tuổi Canh Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: túc, hưng vượng, số có con cháu thành đạt.

 
Những tuổi đại kỵ với tuổi Canh Tuất là: Giáp Tý, Ất Sửu, Canh Ngọ, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Ngọ.

Tính cách: Là người tốt bụng, giàu tình thương, cư xử đúng mực, biết chia sẻ, giúp đỡ với người khác. Tuổi Canh Tuất thông minh, đa tài, ham học hỏi, có chí tiến thủ nên có thể tạo dựng được sự nghiệp vững chắc.

Tình duyên: Tuổi này đường tình duyên may mắn, tốt đẹp, vợ chồng hạnh phúc, gia đình hòa thuận, vui vẻ, gắn bó.

Nam sinh vào tháng: 4, 9; nữ sinh tháng: 1, 2, 10, 11 tình duyên bất ổn, phải trải qua nhiều thay đổi mới có được hạnh phúc.

Để có hôn nhân như ý, cuộc sống sung túc, người tuổi Canh Tuất nên kết hôn với các tuổi: Tân Hợi, Nhâm Tý, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ.

Công danh sự nghiệp: Là người biết nắm bắt thời cơ nên tiền vận đã có công danh lẫy lừng, năm 36 tuổi sự nghiệp vững chắc.

Tuổi này nếu kết hợp làm ăn với  các tuổi Quý Mão, Ất Tỵ, Đinh Mùi sẽ thành công tốt đẹp.

Tiền bạc: Tuổi Canh Tuất trung vận tiền nhiều nhưng khó giữ, hậu vận tiền bạc dồi dào, giàu sang.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Canh Tuất

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Cha mẹ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ. Bổn phận của con cái là không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn.

Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh Nguyên thủy và Đại thừa, “Đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sinh và thế hệ được sinh ra.

  • Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp..vv. thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách.
  • Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chính (chính mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, xin trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Thiện Sinh – Trung A Hàm. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Bắc phương.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình.

 cha mẹ
Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sinh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau

Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Kinh Thiện Sinh đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Thương yêu con cái:

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sinh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và lòng yêu thương chân chính. Đó chính là thể hiện tinh thần từ bi của Phật tử. Các bậc cha mẹ phải luôn luôn quan tâm, yêu thương con cái hết mực.

Bởi vì con cái mình mà không thể yêu thương được, thì làm sao có thể yêu thương những người khác. Lòng yêu thương con cái của các bậc làm cha mẹ được thể hiện rất rõ ở văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mẹ già trăm tuổi thương con tám mươi”, chính là thể hiện sự yêu thương con cái hết mực vậy.

Ngoài ra, yêu thương con cái là phải luôn dạy con cái không làm các điều ác, phải tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chiều con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi.

Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội. Đồng thời thể hiện sự yêu thương mù quáng, không đúng tinh thần của đạo Phật.

Cung cấp cho con cái không thiếu thốn:

Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn. Không thiếu thốn ở đây phải thể hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng, điều kinh tế của mình để lo cho con cái đầy đủ từ miếng cơm, manh áo..vv, các phương tiện để học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải luôn quan tâm chăm sóc, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn để động viên con cái có động lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tâm lý. Do đó con cái cảm thấy xa lạ với chính cha mẹ của mình..vv. dẫn đến khủng hoảng tâm lý mà sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy các bậc cha mẹ không chỉ lo cho con cái về mặt vật chất, mà phải luôn quan tâm về mặt tâm lý tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái:

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó.

Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lổng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ.

Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái:

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương.

Đạo Phật không khuyến khích một tập tục “bắt đâu ngồi đó” như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống “phụ vi tử cương” của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chính và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm “xứng đáng” không có nghĩa là “môn đăng hộ đối” như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình.

Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tính tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh “đồng sàng dị mộng” vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v…

Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần “môn đăng hộ đối” về vật chất nhưng lại không thích hợp về tính tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái:

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

  • Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình.
  • Gia tài đó hẳn không phải là “một nước Việt buồn” mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã.
  • Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao.
  • Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Tuệ Năng. Đức Phật Thích Ca đã không trao chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho ngài A Nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca Diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ “con ông cháu cha” sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Bổn phận của con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục.

cha mẹ
Người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với cha mẹ, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội.

Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ:

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sinh thành ra mình theo Đức Phật là phải biết làm tăng thêm của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt những năm vị thành niên.

Cần lưu ý ở đây rằng: Tăng thêm của cải là để biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa suông. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con ” Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ” mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được. Bởi nếu không có của cải thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch “báo đời” cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác cáng đáng việc nhà để trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau.

Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, cáng đáng việc nhà để cho cha mẹ có thời gian thư nhàn lúc tuổi xế chiều, không để cha mẹ phải vất vả vì công việc gia đình. Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó bằng hành động cụ thể, đúng chính pháp và phù hợp với đạo lý và luật pháp của xã hội hiện hành.

Dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn:

Các bậc làm cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả của con cái. Khi còn trẻ cha mẹ đã hết mình lo cho con cái, nhưng khi về già, không còn sức lao động, không làm ra của cải vật chất nhưng cũng không ai muốn ngửa tay xin con cái.

Cho nên phận làm con cái luôn phải biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi. Đây cũng là thể hiện tính tự giác, luôn biết quan tâm đến tâm tư tình cảm của cha mẹ. Tiếc rằng xã hội ngày nay, nhiều người làm con cái sống trong cảnh dư thừa vật chất, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, đói rét. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: “Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn của xã hội, lời dạy trên của Đức Phật thật vô cùng ý nghĩa đối với những người làm con cái mà chưa tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ:

Đây chính là bổn phận của người làm con khi tiến hành bất cứ một công việc gì cũng phải hỏi cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn danh dự và không đi ngược với truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập “cha truyền con nối” một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi.

  1. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập.
  2. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu “con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa” cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.
  3. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó.

Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

Tất cả những vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ:

Phận làm con phải luôn tự giác dâng nhưng tài sản, vật chất của mình cho cha mẹ, mà không giấu diếm giữ làm của riêng. Đây chính là thể hiện tinh thần tập thể của một gia đình, nhằm bảo vệ và làm tăng tiến tài sản thừa tự.

Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam Bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật Pháp Tăng. Trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Tóm lại, qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sinh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Đồng thời bổn phận của con cái không chỉ là chăm lo cho cha mẹ về mặt vật chất, mà phải luôn săn sóc cha mẹ về mặt tinh thần, không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

TƯỚNG MẠO - BIỂU HIỆN CỦA SỨC KHỎE

Một vài biểu hiện của sức khỏe thông qua tường mạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng mạo con người là biểu hiện không những số mệnh, cuộc đời mà còn biểu hiện sức khỏe của chính họ. Dưới đây là một số dấu hiệu nhận biết những vấn đề về sức khỏe qua tướng mạo mỗi người.

Làm thế nào để biết người bệnh sắp chết?

Hai tai, miệng mũi đều tối tăm. Hai mắt khi nhìn trực diện thì không chuyển động, tương ứng là biết người đó sắp chết.

Nếu như để phán đoán người bệnh sắp chết thì nên quan sát màu sắc của hai tai, miệng, môi và mũi, nếu như những chỗ này đều có khí sắc đen tối thì sinh mệnh của người này sẽ không lâu dài. Ngoài những hiện tượng trên, nếu mắt nhìn thẳng mà không thể đưa mắt được dễ dàng thì cũng dự báo người đó không sống thọ được.

Làm thế nào để biết người chết có thể hồi sinh

Toàn thân bệnh nặng nhưng tinh thần minh mẫn. Người bệnh có khả năng quan sát nhanh nhẹn, có khả năng nhìn thấy rõ mọi vật, tam dương nhìn xa, màu sắc của tai tốt. Người mắc bệnh nặng mà có những biểu hiện như trên thì có hy vọng sẽ hồi sinh lại được. Ta nên quan sát thêm ở mắt, nếu bệnh nhân tuy bệnh nặng nhưng mắt vẫn còn tinh tường, hơn nữa thần quang có lực, có thể nhìn thấy trong mắt rất sáng, ngoài sự tinh anh, thần thái của đôi mắt thì sắc tai hồng hào, sáng trong tinh khiết thì người bệnh tất sẽ phục hồi lại được. 

Xem lá số tử vi để biết tương lai, vận mệnh cuộc đời mỗi người, giúp bạn hóa giải những tai ương nghiệp chướng trong đời.

Làm thể nào để biết người sắp bị bệnh

Khi quan sát người đó thấy có những biểu hiện, sơn căn tối tăm, thân thể u ám. Khí u tối tập trung ở thiên đình, mũi và vầng trán tăm tối thì bệnh tật nặng và số mệnh sắp kết thúc.

Một người có biểu hiện thể chất của bệnh tật sắp phát sinh được thể hiện đầu tiên trên mũi. Nếu như sơn căn trên mũi tối tăm thì tức là biểu thị săp bệnh. Nếu như khí đen tập trung trên trán đặc biệt là vị trí thiên đình cũng là dự báo thể chất nhiễm bệnh, nếu như đầu mũi có màu đen thì có thể mắc bệnh, có khả năng nguy hiểm tới tính mạng.

  Tướng mạo - biểu hiện của sức khỏe

Làm thế nào để biết phụ nữ kinh nguyệt không đều

Lông mày mọc lung tung không có thứ tự. Bị nhiệt trên trán đỏ, chắc chắn bị hư hàn môi trắng mặt xanh.

Phụ nữ có kinh nguyệt không đều thì xem ở trên lông mày cũng có thể biết được hễ lông mày mọc không thuận tức là lông mày có cái trên cái dưới và đâm vào nhau thì thường khổ về bệnh phụ khoa.

Ngoài những biểu hiện trên ra, nếu bệnh phụ khoa do khí nóng phát ra, tức là trong cơ thể quá nóng thì sẽ có chứng bệnh mãn tính nhẹ do cơ thể nóng sinh ra, thường thì những người bệnh có hiện tượng tóc đỏ, tóc hồng.

Nếu là chứng bệnh do khí lạnh gây ra thì màu sắc biểu thị sẽ là màu trắng, nhất định có biểu hiện môi trắng, mặt xanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TƯỚNG MẠO - BIỂU HIỆN CỦA SỨC KHỎE

Vật phẩm phong thủy giúp tăng cường mối quan hệ, uy tín –

Hổ Hổ là con vật linh thiêng và đầy uy quyền thường được thờ phụng, chính vì thế nó là biểu tượng cho quyền lực, cho công danh học hành và sự tăng tiến trong kinh doanh. Cũng có thể bổ trợ cho bản mệnh người tuổi Dần. Hổ mạ vàng mang tính chất Kim, m

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hổ

Hổ là con vật linh thiêng và đầy uy quyền thường được thờ phụng, chính vì thế nó là biểu tượng cho quyền lực, cho công danh học hành và sự tăng tiến trong kinh doanh. Cũng có thể bổ trợ cho bản mệnh người tuổi Dần.

ho-phong-thuy

Hổ mạ vàng mang tính chất Kim, mang cát khí rất lớn. Là vật khí của công danh, tài lộc và quyền lực. Mang nguyên khí Kim là cát khí đem lại sự may mắn về công danh, tài lộc, học hành thi cử. Cũng có thể dùng để trấn yểm khi nhà bị phạm vào kiêng kị hoặc bị sát tinh chiếu hướng.

Dùng hướng chính Bắc, Tây Bắc, Tây để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này hoặc dùng trấn yểm khi bị sát hướng.

Rồng

Rồng là biểu tượng của Hoàng đế, của người quân tử. Rồng có khả năng dùng hơi thở thổi ra nguyên khí trời đất, nguyên khí này chính là nền tảng của học thuật phong thủy. Hình dạng của núi sông, thung lũng, các khối nhà, đường sá đều có liên quan đến các bộ phận của rồng như đầu, mình, thân, đuôi, móng vuốt và viên ngọc rồng từ đó ảnh hưởng đến vị trí phong thủy. Rồng có sức mạnh tạo ra tiết khí, mưa giông, ánh sáng từ mặt trời, gió biển và đất đai. Rồng biểu trưng cho năng lượng của đất trời, là vật siêu phàm của phong thủy.

rong-phong-thuy

Rồng bằng pha lê, đá quý mang viên ngọc rồng là biểu tượng của công danh, tài lộc và quyền lực. Mang nguyên khí Thổ, trong vận 8 là cát khí đem lại sự may mắn về công danh, tài lộc.

Bày ở các hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc trong phòng khách hoặc phòng làm việc.

Long Mã

Đây cũng là một loại thú ghép giữa Long và Mã (rồng và ngựa). Long có tính biến hóa, uyển chuyển; Mã có tính dũng mãnh, khôn ngoan; nên Long Mã là sự kết hợp tuyệt vời. Nó thích họp vói những người làm cơ quan nhà nước, ở vai trò lãnh đạo. Trong phong thủy, Long Mã ngoài việc dùng tạo uy quyền cho lãnh đạo, còn chuyên hóa giải tam sát như Long Quy. Long Quy thì mang tính chịu đựng, còn Long Mã mang tính đấu tranh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy giúp tăng cường mối quan hệ, uy tín –

Trả lời mẫu 2

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
Trả lời mẫu 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
(CHO PHẦN ĐẶT CÂU HỎI "Chu Dịch hỏi đáp")

Vì lí do riêng tư, nên Tên họ trong các bài viết dưới đây đã được Ban Quản Trị thay đổi.

Câu Hỏi 11: Xin cho biết công việc làm năm 2006 có thuận tiện hay không ? Nghề nghiệp kỷ sư. Xin cám ơn.

LUẬN GIẢI:
Vận Khí Tổng Kết Năm Bính Tuất:
Công Việc:                  Có biến động xấu. Qua khỏi.
Tháng xảy ra:              Tháng 3, 7 & 9. Lưu ý hai tháng: Tháng 3 & 9.
Ba Ngày Lưu ý Trong Ba Tháng 3, 7,& 9:
Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn.
Ngày Nguy Hiểm Trong Năm:
Có: Ngày Nhâm Tuất (Không tiến hành các nhu cầu về tình cảm, việc lớn, việc quan trọng)
Tình Cảm:                   Tốt với bạn bè, người thân.
Sức Khỏe:                   Tốt.
Tai Nạn:                      Không có.
Giải theo quẻ dịch:
Hô hào các bạn đề phòng.
Lo lắng răn sợ vì kẻ kia muốn nhận chìm thuyền của ta..

Giải thích:
Xảy ra sự việc tranh chấp, cáo giác, đố kỵ.
Sự tranh chấp khởi sự ngấm ngầm mang tính mưu mô, gài bẫy.
Bản thân ta có điểm yếu, họ nắm được và đánh vào điểm yếu ấy.
Họ đánh. Ta chống đỡ được. Có hao tổn cho ta.
Lo lắng, răn sợ cho ta và báo động đến bạn bè, thân quen biết mà phòng bị.

Kết luận:
Trong năm 2006, công việc có những diễn tiến xấu xảy ra trong ba tháng: tháng 3, tháng 7 và tháng 9. Ở các ngày Ất Mùi, Mậu Tuất, Nhâm Thìn trong ba tháng ấy. Riêng ngày Nhâm Thìn cần phải lưu ý cho cả năm Bính Tuất.

Diễn tiến xấu xảy ra do sự ganh ghét, đố kỵ nơi ta làm việc mà ngấm ngầm cáo giác lên trên.

Các diễn biến như: Cất nhắc lên cao, đặc biệt được ưu ái không xảy ra trong năm nay.

Câu hỏi 12: tôi sinh ngày 10/10/1985 7h 45p sáng. tôi quen 1 ng sinh 24/01/1984 7h15p sáng tôi muốn biết ng đó có thương tôi thật lòng hay ko và chúng tôi có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc hay ko? cám ơn

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:

Tiểu quá 1 + Thuần Chấn 3: bay xa có họa lớn.
Bản mệnh vận khí: Lữ + Tấn 3: Được nhiều người tin.
Bản mệnh ngày sinh: Quải + Quải (5): Hai lần quyết liệt.
Vận khí năm Bính Tuất 2006: Li 1 + Tấn 3: Nhiều người theo.

Giải thích:
“Yêu nhau lắm, cắn nhau đau” Câu này đúng với trường hợp cô Lan Anh.
Không có tình yêu đơn phương trong cuộc tình này, tuy nhiên, ở hai người là quá giống nhau.
Nên khi tính đến chuyện xa hơn sẽ là bất hạnh cho cả hai người.
Năm nay, năm Bính Tuất 2006, cô Lan Anh được yêu, được yêu nhiều, và có nhiều người mang lòng yêu thương cô Lan Anh.

Cô Lan Anh từ nơi bản thân mang sự quyến rũ, hấp dẫn không cưỡng được với những chàng trai biết đến cô. Điều này khiến cho đời sống tình cảm nơi cô Lan Anh thật sôi động.
Có một điểm “Đen” nơi bản mệnh có liên quan đến sự sôi động nói trên:
Nhẹ thì tan nát một mối tình sâu đậm. Nặng là trải qua hai đời chồng.

Kết luận:
Người bạn trai đó yêu cô Lan Anh thật lòng.
Nhưng khi đến với nhau thì sau đó sẽ là nổi bất hạnh lớn của hai người.
Cô Lan Anh cần phải định trước cho các bước đi sắp đến, cùng với một tâm ý sẵn sàng cho những điều đáng tiếc sẽ xảy ra ở mối tình này…
Sự tan vỡ của một mối tình sâu đậm trong cuộc đời tình ái là tốt hơn,
hay chấp nhận sự hiện diện của hai người đàn ông trong cuộc đời đàn bà sau này ?
Khi chọn chấp nhận sự tan vỡ, người cô Lan Anh lấy làm chồng sau này, chỉ có một.


Câu hỏi 13: Tôi tên Hùng Minh, sẽ nhận công việc làm tại công ty mới. Xin cho biết công việc làm mới có khả quan, lâu bền hay không? (ghi chú:hiện tại là Quality Engineer, việc mới là Quality Engineering Manager)

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Con heo tuy gầy yếu nhưng có ngày nó nhảy nhót lung tung.
Hòa thuận mà gây chấn động. Có nguy cơ. Cứ tránh lên gò cao, rồi sẽ được.
Nhún nhường vì mắc nhiều lỗi.
Vì hớ hênh mà ta bị hại. Tin kẻ tiểu nhân sẽ tiêu mòn.

Giải thích:
Anh Hùng Minh với công việc mới sẽ mắc khá nhiều lỗi trong thời gian đầu.
Để giảm thiểu khả năng bị tổn hại do chỉ trích, khi bước qua công ty mới, anh cần:
Khiêm tốn, nhã nhặn với đồng nghiệp lẫn nhân viên dưới quyền, và
né tránh các cô gái trẻ.

Kết luận:
Việc làm nơi công ty mới là khả quan và khá ổn định.
Anh Hùng Minh cần chú ý hai điều ở giai đoạn mới về:
Khiêm tốn & né tránh các cô gái trẻ.

Câu hỏi 14: Tôi đang làm chủ một cửa tiệm giặt ủi (dry cleaners), và tiệm do người em bên vợ trông coi. Xin cho biết tiệm có thể phát triển hơn trong thời gian tới hay không? Nếu không, tôi dự dịnh sẽ bán. Vậy có bán dược dễ dàng không?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Mắc lối và phải sửa lỗi nhiều lần mà được phần khiêm tốn.
Giải tán đi thì vui vẻ nhưng có phần hao mòn.

Giải thích:
Thu nhập cửa tiệm dry cleaners trong thời gian tới
mang tính khiêm tốn và có nhiều lúc cần phải bù đắp vào.
Khi cô Mỹ Linh bán đi vào thời điểm hiện nay,
thì sẽ bán được, nhưng giá sang nhượng sẽ rất thấp.
Cô hãy đợi đến đầu tháng 6, tháng 9, hoặc tháng 12 thì rao giá.
Giá bán sẽ tốt hơn.

Kết luận:
Thu nhập từ dry cleaners khống mấy khả quan, thậm chí rất khiêm tốn.
Khi cô bán, hãy chọn đầu tháng 6, tháng 9, tháng 12 âm lịch thì rao bán.

Câu hỏi 15: Làm nghề Địa ốc có được không ?

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Khôn 4: biết giữ của cải.
Phệ hạp 4: biết quan sát, nhận xét, phân tích tốt.
Tiết 4: biết tiết kiệm.
Tụng 2: hiểu biết luật lệ tốt.
Cổ 5 + Tiểu súc: tích trữ nhà cũ, được khen.

Giải thích:
Cô Lan Khanh có đầy đủ những đức tính để có thể
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc.
Nên mua bán nhà đã qua sử dụng.

Kết luận:
Hoạt động trong lãnh vực địa ốc sẽ đem lại lợi nhuận tốt.
Cô Lan Khanh hãy gói gọn hoạt động mua bán của mình
trong phạm vi nhà đất đã qua sử dụng.

Câu hỏi 16: Hãng tôi sẻ có 1 cải tổ (restructuring), tức là sẻ có người bị đuổi. Tôi là trong nhửng người mới được nhận vô. Tôi muốn biết mình sẻ mất việt hay không. Tôi muốn biết hướng trước để lo, vì không có ai để nương tựa về vấn đề tài trợ. Xin giúp dùm gấp.

Giải theo quẻ dịch:
Khuê 4: Ở thời cô độc, nếu tìm được người chí thành thì nên theo.
Giải thích:
Cô Lê Hồng Loan sẽ bị mất việc.

Kết luận:
Trong cuộc cải tổ của Hãng sắp tới,
Cô Lê Hồng Loan có trong danh sách cải tổ.
Cô Lê Hồng Loan sẽ không còn làm nơi hãng này nữa.

Câu hỏi 17: Tôi tên là Nguyễn Minh Hoàng sinh ngày 30/01/1985 vào lúc 11h45. Tôi xin được hỏi về con đường học vấn của cả đời tôi. Khi nào tôi sẽ tốt nghiệp.

LUẬN GIẢI:
Giải theo quẻ dịch:
Khuê (4): Chống đối mà cô lập.
Sư (6): Thắng trận vẻ vang.

Mậu Tí (2008): Sơn Lôi Di (2) + Hỏa Trạch Khuê (4).

Giải thích:
Mong muốn điều chi, theo đuổi sẽ đạt được.
Con đường học vấn kéo dài.
Tính cách thẳng và mạnh mẽ như con nhà lính, nên đi theo đường binh nghiệp, công pháp, tư pháp là thích hợp hơn cả.
Sự nghiệp rất tốt.
Định luật bù trừ được thể hiện rất rõ trong trường hợp này, tình cảm thể hiện hơi thô, khô lạnh.

Kết luận:
Tốt nghiệp là điều chắc chắn.
Không dừng ở tốt nghiệp đại học, Nguyễn Minh Hoàng muốn rằng sẽ đi xa hơn nữa.
Việc đi xa hơn nữa trên con đường học vấn, Nguyễn Minh Hoàng thực hiện được.
Năm Mậu Tí (2008) sẽ tốt nghiệp.

Câu hỏi 18: Tu thang 7 den thang 12, 2006 nay toi co len chuc hay thay doi viec lam khong? Neu co, thi thang nao?

Trả lời:
Năm Bính Tuất, cô Tiểu Lan lên chức.
Tháng 7 âm lịch (Bính Thân) , cô Tiểu Lan sẽ nhận quyết định.

Lưu ý: Năm nay nhuần hai tháng 7 âm lịch.


Câu hỏi 19: tôi đang bán nhà và sẽ mua căn nhà khác vậy tôi muốn biết khi nào tôi có thể bán và mua được nhà và công việc làm của tôi có gì thay đổi tốt xấu thế nào

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Trạch hỏa cách + Gia nhân: Muốn thay đổi nhà cửa.
Gia nhân + Cách: Đổi được nhà.
Gia nhân 1: Phòng ngừa ngay từ khi có nhà.
Phong Hỏa Gia Nhân (4): làm giàu thịnh cho nhà.

Giải thích:
Anh Phạm Quốc Kha sẽ bán được nhà trong năm nay.
Tuy nhiên, việc mua bán nhà hiện nay anh Quốc Kha nên tính toán kỹ.
Do là nếu bán được thì phải đến tháng 9 dương lịch, anh mới mua được nhà mới.
Công việc làm sau này chỉ có tốt lên.

Kết luận:
Công việc làm anh Phạm Quốc Kha không có điều chi phải lo lắng.
Việc nhà cửa, nên tính toán sao cho việc di chuyển không bị: Bán đã xong mà nhà mua chưa đến.

Câu hỏi 20: khỏang giữa tháng 7 này tui muốn về Vn, liệu viêc thi cử có suông sẻ, đậu để về được k, cái khả năng tui về Vn thang 7 tới có thể được k?

LUẬN GIẢI:

Giải theo quẻ dịch:
Thuần Ly: sáng + Minh Di: tối mù mù.
Vị tế: chưa xong.

Giải thích:
Sẽ vượt qua được kỳ thi cử.
Tuy nhiên, chưa thể về Việt Nam vào tháng 7ss.

Kết luận:
Kỳ thi không quá khó khăn.
Cô Lan Anh rồi sẽ qua.
Tuy nhiên, ý định về Việt Nam trong tháng 7 của cô Lan Anh là chưa thể.

Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI ("Chu Dịch hỏi đáp")


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời mẫu 2

Lành dữ trong vận mệnh khi Bát tự có Không vong

Không vong trong tử vi hình thành do 10 Can phối hợp 12 Chi, dư 2 Chi là Không vong. Co may có rủi, đừng thấy Bát tự có Không vong mà nản.
Lành dữ trong vận mệnh khi Bát tự có Không vong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không vong trong tử vi hình thành là do 10 Can phối hợp 12 Chi, dư 2 Chi là Không vong. Tuy là điều không tốt nhưng vẫn có cái lợi, đừng thấy Bát tự có Không vong mà chán nản.


Lanh du trong van menh khi Bat tu co Khong vong hinh anh
 
Không vong là trống không, là không có, là tiêu biến, là mất đi, là chưa tới. Tuy nhiên Bát tự có Không vong không hẳn là xấu hết nếu: 
 
+ Không vong có Hợp, Hội là mất Không vong.
 
+ Không vong bị xung xa biến họa thành phúc.
 
+ Không vong gặp Quý nhân: Thiên Ất, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Tinh, Kim Thần, Tướng Tinh, Thiên Xích, Khôi Cương thì có thể giải trừ một phần, dù quý nhân cũng bị tổn thất. Tác động của Không vong vẫn còn nhưng yếu.
 
+ Sao xấu mà gặp Không vong sẽ giảm hẳn cái xấu.
 
Trụ năm có Không vong: thời thơ ấu vất vả do gia đình không khá giả.
 
Trụ tháng có Không vong: khoảng từ 17 – 32 tuổi gặp nhiều trở ngại, học hành gặp nhiều khó khăn. Anh chị em thường không mấy hòa hợp hoặc chẳng giúp được gì cho nhau.
 
Trụ ngày có Không vong: phu thê khó sống đến bạc đầu hoặc phải sống xa nhau. Gia đình có nhiều trục trặc. 
 
Trụ giờ gặp Không vong: con cái không đông, con cái không giúp gì được mình, nếu đại vận cuối đời không đẹp thì gặp khó khăn. Không chỉ vậy, công danh sự nghiệp cũng khó khăn vì trụ giờ ngoài biểu thị con cái còn là cung sự nghiệp và vận vào cuối đời.  
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lành dữ trong vận mệnh khi Bát tự có Không vong

Đặc tính của sao Thiên Hình trong Tử Vi

Sao Thiên Hình ở Mệnh là người trực tính, nóng nảy, ngay thẳng, đoan chính, có năng khiếu phán xét tinh vi, phân xử tỉ mỉ, công bình, quả cảm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Thiên Hình trong Tử Vi

Đặc tính của sao Thiên Hình trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Hình trong Tử Vi

Tên sao Âm dương - ngũ hành Hóa Chủ Bị khảo
Thiên hình Dương hỏa Cô độc và hình khắc Tổn thương, kiện tụng, cô độc Nhập miếu chủ về có tài cán, quyền uy, nắm giữ binh quyền

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Hình là dương hỏa, hóa khí là cô khắc, chủ về hình thương, kiện tụng, cô độc. Sao Thiên Hình nhập miếu sẽ trở thành thần Thiên Hỷ, có tài cán quyền uy, chưởng quản binh quyền; nếu gặp sao Thái Dương chủ về nghiệp võ quý hiển. Gặp cát tinh Văn Xương, Văn Khúc, chủ về nắm quyền giữ biên cương.

Sao Thiên Hình chủ cung thân, cung mệnh, chủ về bề ngoài hùng dũng, uy vũ bất khuất, độc lập tự chủ, có tài cán, nhưng cá tính kiêu ngạo, cô độc khó gần gũi, có quan niệm và cách phán đoán giá trị thi phi khác người, không có duyên với người thân, thích đoán mệnh hoặc tự nghiên cứu bệnh lý, có duyên với tôn giáo. Chỉ khi nào nhập miếu tại bốn cung Dần, Mão, Dậu, Tuất mà gặp cát tinh mới chủ về cát lợi, nắm quyền lực lớn. Ở sáu cung Thân, Tí, Thìn, Tị, Ngọ, Hợi là bình hòa; ở hai cung Sửu, Mùi là lạc hãm, nếu trong hai hạn mà gặp phải thì chủ về xuất gia, kiện tụng, mất mát tiền của, cần đặc biệt đề phòng hỏa hoạn, tai họa bất ngờ.

Sao Thiên Hình nhập cung mệnh, phần nhiều có thể nỗ lực, tích cực, biết nắm bắt trọng điểm, thiện ác phân minh, tuân thủ pháp luật, bộc lộ sắc xảo. Cần chú ý tới ngôn ngữ, hành vi của bản thân để tránh bị người khác hiểu lầm.

Sao Thiên Hình còn là sao nợ nần, nếu nhập các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan thường có hiện tượng tiền của quay vòng, đến rồi lại đi.

Sao Thiên Hình nhập miếu ưa được gặp sao Thái Dương, ngoài ra còn thích các sao Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Lương, Tham Lang, Cự Môn, nếu theo các ngành nghề pháp luật, y khoa, quân đội, cảnh sát, tôn giáo thì có thể thành tựu. Sao Thiên Hình thích nhất là gặp sao Văn Xương, Văn Khúc tại cung vượng, có thể phát cả nghiệp văn lẫn võ, hoặc trở thành quan tòa, thầy thuốc nổi tiếng. Nếu đồng cung với sao Kình Dương, lại gặp sát tinh, Hóa Kị, khó tránh khỏi tai họa tổn thương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Hình trong Tử Vi

Các tháng có ngày “Thiên lôi” chú ý sét khi mưa gió, dông bão –

Tháng Ba chú ý ngày Tuất Tháng Tư chú ý ngày Mão Tháng Sáu chú ý ngày Hợi Tháng Bảy chú ý ngày Hợi Tháng Chín chú ý ngày Mão Tháng Mười chú ý ngày Tý Tháng Mười một chú ý ngày Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1359143502-Gap-nhau-cuoi-nam--50-

  1. Tháng Ba chú ý ngày Tuất
  2. Tháng Tư chú ý ngày Mão
  3. Tháng Sáu chú ý ngày Hợi
  4. Tháng Bảy chú ý ngày Hợi
  5. Tháng Chín chú ý ngày Mão
  6. Tháng Mười chú ý ngày Tý
  7. Tháng Mười một chú ý ngày Tuất


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các tháng có ngày “Thiên lôi” chú ý sét khi mưa gió, dông bão –

Top 3 con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4

Dưới đây là top 3 con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4. Hãy cùng ## tìm hiểu nhé!
Top 3 con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nếu tháng 3 trôi qua trong lặng lẽ, ảm đạm thì tháng 4 lại hứa hẹn nhiều niềm vui, sự may mắn bất ngờ ở mọi phương diện cho những con giáp dưới đây vì vận khí thăng cấp bất ngờ.


=> Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác


1. Tuổi Sửu

Trong tháng 3, vận khí của người tuổi Sửu cũng không hẳn là kém sắc. Chỉ có điều, vẫn còn bạn chưa thể thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, chưa thể bứt phá để giành được những thắng lợi to lớn cả trong sự nghiệp lẫn tình cảm.

Bước sang tháng 4, người cầm tinh con Trâu sẽ nhanh chóng thổi bay mọi ưu phiền, xóa tan bầu không khí ảm đạm, chất chứa quá nhiều suy tư hay lo lắng. Để từ đó nỗ lực phấn đấu vươn lên, tự mình thúc đẩy vận khí tốt đẹp, kéo theo nhiều may mắn và thành công.

Có thể nói, đây là một trong những con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4. Làm việc gì, dù lớn hay nhỏ đều hanh thông, thuận lợi. Tình cảm dạt dào, tiền bạc rủng rỉnh, trăm sự đều cát lành.
3 con giap dan dau danh sach van khi thang cap bat ngo trong thang 4 hinh anh
 
2. Tuổi Dậu

Nếu trong tháng 3, người tuổi Dậu cảm thấy buồn chán vì sức khỏe có phần giảm sút nghiêm trọng, bước vào tháng 4, thời điểm mà “xuân ấm áp, hoa nở rộ”, mọi việc đều chuyển biến theo chiều hướng tích cực.

Nhân những ngày nghỉ lễ, con giáp này có thể lên lịch trình cho một chuyến du lịch xa, vừa giải tỏa stress, lại giúp tinh thần thêm phấn chấn, sức khỏe cũng được cải thiện rõ ràng.

Bên cạnh đó, người tuổi Dậu cũng đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác về tài chính. Nhìn chung, cả chính tài và thứ tài đều bình ổn. Bạn hoàn toàn yên tâm tận hưởng cuộc sống với nhiều sắc màu thú vị.
3 con giap dan dau danh sach van khi thang cap bat ngo trong thang 4 hinh anh 2
 
3. Tuổi Mão

Vận khí của người tuổi Mão có sự chuyển biến rất rõ ràng, chỉ cần nhìn biểu hiện nét mặt tươi như hoa của bạn cũng đủ biết điều đó.

Người tuổi Mão có tâm lý “chào xuân” khá nhẹ nhàng, thậm chí có chút lười nhác, không tập trung để hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Nhưng bước sang tháng 4, mọi sự biến đổi, nhịp sống khá nhanh và gấp gáp của con giáp này lại quay trở về như trước.

Guồng quay công việc, cộng thêm những cung bậc cảm xúc trong tình cảm khiến bạn không còn thời giờ để mà lười nhác nữa.

Chính vì thế, bầu không khí ảm đạm, có vẻ như thiếu sức sống trong tháng vừa qua sẽ kết thúc. Thay vào đó, những chú Mèo lại tinh ranh, xông xáo và hài hước như xưa.

Hoàng Lam

Điểm mặt 3 con giáp luôn có “2T” song hành trong tháng 4
– Dù là về phương diện Tiền bạc hay Tình yêu, những con giáp dưới đây đều cảm thấy mãn nguyện vì mọi thứ đều như ý nguyện.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4

Đền Cao An Phụ - Hải Dương

Đền Cao An Phụ nằm tại xã An sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đền Cao An Phụ có tên gọi khác là đền An Sinh Vương Trần Liễu tên chữ là An Phụ Sơn Từ
Đền Cao An Phụ - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Cao An Phụ nằm tại xã An sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đền Cao An Phụ còn có tên gọi khác là đền An Sinh Vương Trần Liễu tên chữ là An Phụ Sơn Từ. Đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Ngôi đền nằm trên đỉnh cao của dãy An Phụ được ví như dải lụa điểm xuyến cho bức tranh đồng bằng Bắc Bộ.

Lịch Sử: Trần Liễu sinh năm Kiến Gia thứ nhất (1211), là anh ruột vị vua đầu tiên của Triều Trần, Trần Thái Tông tức Trần Cảnh (1225-1258), quê hương ở Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay là xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm (1237), triều đình cắt đất các xã An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng, An Bang, ban cho Hoài Văn Hầu Trần Liễu làm thái ấp và phong làm An Sinh Vương. Tháng 4, năm Nguyên Phong thứ nhất (5/1251) An Sinh Vương Liễu mất, thọ 41 tuổi. Sau khi mất ông được lập đền thờ trên đỉnh núi An Phụ, nơi đây sơn thủy hữu tình, được sử sách ca ngợi là một trong những cảnh đẹp đáng du ngoạn. Phía Đông Băc nhìn về dãy Yên Tử, Phía Tây Bắc là Động Kính Chủ; Phía Tây Nam là miền châu thổ mênh mông.

Kiến Trúc: Đền Cao An Phụ được xây dựng từ thời Trần, các công trình kiến trúc hiện nay được trùng tu, tôn tạo, khôi phục nhiều hạng mục, mở rộng phạm vi khu di tích xứng với tầm vóc của danh nhân: như đền chính, nghi môn ngoại, nghi môn nội và công trình văn hóa như chùa Tường Vân, tượng đài Trần Hưng Đạo.

Đền Cao tọa lạc trên đỉnh núi An Phụ. Nơi đây phong cảnh hữu tình được ca ngời là một nơi đáng để du ngoạn. Phía Đông Bắc nhìn về là dãy Yên Tử sừng sững, phía Tây Bắc là Động Kính Chủ được mệnh danh là Nam Thiên Đệ Lục Động, có dòng Kinh Thầy uốn lượn sát chân núi, phía Tây Nam là miền châu thổ mênh mông.

Lễ hội được tổ chức ngày mùng 1 tháng 4 (âm lịch), kỷ niệm ngày mất của ông, nhân dân thập phương rước lễ vật về đền tế lễ… Ngoài lễ hội chính, đền Cao có quan hệ mật thiết với khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, do vậy trong hai kỳ lễ hội tại Côn Sơn – Kiếp Bạc (xuân, thu nhị kỳ) đông đảo khách thập phương hành hương về thắp hương tưởng niệm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Cao An Phụ - Hải Dương

Tục chọn ngày giờ –

Khi xã hội có giai cấp xuất hiện, con người cổ sơ cũng chưa thể nào hiểu nổi: tại sao thân phận từng người khác nhau? Kẻ đàn áp, bóc lột, độc ác, tàn bạo được hưởng phú quý, người nô lệ chịu cảnh khốn khổ bần cùng, các tập đoàn người gây còn gây chiế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n tranh tàn phá lẫn nhau, bao nhiêu cảnh đau thương chết chóc bất ngờ ập tới…?

Không giải thích nổi, họ đành quy mọi mối vào tạo hoá. Tạo hoá theo quan niệm thời nay là mọi thiên thể trong vũ trụ, là môi trường thiên nhiên và xã hội, nhưng theo quan niệm xưa là các lực lượng siêu nhiên, là ông trời là cả một loạt thiên thần ác quỷ hoặc một vùng phân dã dưới bầu trời. Trời ban phúc cho ai, người ấy được cai trị kẻ dưới, trời gieo tai vạ cho ai người ấy phải chịu. Bao nhiêu bất công trong đời chỉ biết van trời.

Do bản năng sinh tồn, con người phải tìm lẽ sống, tìm cách duy trì và phát triển nòi giống, vươn lên làm chủ muôn vật trên trái đất. Nhu cầu được thu hái sản phẩm, ăn no, mặc ấm, được ở yên, được đi lại bình yên, chống đỡ được bệnh tật tai hoạ là những nhu cầu cơ bản thuộc bản năng sinh vật. Tâm lý chung của xã hội loài người: tìm điều lành tránh điều dữ, xuất phát chung của các loại hình tôn giáo, các loại hình bói toán và các thuật chọn ngày giờ lành dữ.

phong-thuy-tuoi-nam-giap-dan-1974

Có ngày tốt ngày xấu hay không?

Thực tế có ngày làm mọi việc đều thắng lợi, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới, ngược lại có ngày vất vả sớm chiều chẳng được việc gì, lại còn gặp tai nạn bất ngờ. Người ta muốn hỏi vì sao vậy? Phép duy vật biện chứng giải thích: Đó là quy luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, ngược lại trong ngẫu nhiên cũng có yếu tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy, nhưng người ta muốn biết cụ thể: làm sao đón trước được những yếu tố ngẫu nhiên tốt và tránh những yếu tố ngẫu nhiên xấu? Cụ thể: Tháng này cưới vợ nên chọn ngày nào thì tương lai duyên ưa phận đẹp, làm nhà nên chọn ngày nào thì con cháu sum vầy, gia đình làm ăn nên nổi, an táng nên chọn giờ nào, tránh giờ nào, để cầu được phúc đức tránh được tai vạ về sau. Vì vậy người ta phải tìm thầy, tìm sách xem ngày chọn giờ.

Nhưng trong Hiệp kỷ lịch không có ngày nào hoàn toàn tốt hay xấu cho mọi người, mọi việc, mọi địa phương.

Thực tế, trên chiến trường, thời điểm ta thắng thì địch thua, trên thương trường anh mất của thì người khác được của. Trời mưa lợi cho việc đồng áng ruộng vườn thì bất lợi cho việc xây nhà hay đi đường.v.v. Như vậy ngày tốt ngày xấu còn tuỳ thuộc từng người, từng việc, từng hướng, từng vùng.

Ngày tốt, ngày xấu còn tuỳ thuộc vào quan niệm của từng người.

Ví dụ mất của là điều không may, nhưng để an ủi người mất của, người ta bảo đó là điều may vì “của đi thay người”.

Ngày Nguyệt kỵ tức mồng năm, mười bốn, hai ba, ta cho là ngày xấu, kỵ kiêng xuất hành. Nhưng tránh được ngày nguyệt kỵ lại đến ngày tam nương (13 tam nương, 14 nguyệt kỵ, 22 tam nương, 23 nguyệt kỵ), nếu có việc cần kíp thì sao?

Có nhiều cho rằng: ngày xấu thiên hạ kiêng không xuất hành, thì đối với mình càng tốt, vì ngoài đường đỡ chen chúc nhau, xe tàu rộng chỗ, đỡ tai nạn giao thông.

Ngày Nguyệt kỵ: trong phong tục, mọi miền ở nước ta đều cho là ngày xấu, nhưng có thuyết cho rằng đó là ba ngày tốt nhất trong cả tháng. Bởi vậy, ngày xưa vua chúa chọn ba ngày đó đi du ngoạn. Vua chúa đi đâu cũng có binh lính dẹp đường, tiền hô hậu ủng. Dân chúng không được nhìn mặt vua chúa, phải cúi rạp hai bên vệ đường, chờ cho xa giá đi qua mới được đứng dậy. Muốn được việc, đành phải tìm đường khác đi cho nhanh, đỡ mất thì giờ, nhiều khi phải bỏ việc quay trở về. Dần dần, trở thành phong tục Nhân dân tránh 3 ngày mồng 5, mười bốn hăm ba của từng tháng, gọi ba ngày đó là ngày Nguyệt kỵ (ngày kiêng kỵ xuất hành của từng tháng). Ngày tốt đối với kẻ cao sang, nhưng trở thành ngày xấu của dân thường.

Khi đã chọn được ngày tốt đối với từng việc, theo thuật chiêm tinh, còn phải đối chiếu ngày đó có hợp với bản mệnh của người chủ sự hay không? Cụ thể, phải xem ngày đó thuộc hàng can, hàng chi nào? Có tương xung, tương khắc,tương hình, tương hại với bản mệnh can, chi của người chủ sự hay không?

Bác sĩ Vũ Định, trong bài “có ngày tốt, ngày xấu hay không?” (báo Hà Nội mới chủ nhật số 73) có nêu lên lập luận về nhịp sinh học của từng cá thể.

“Nếu biết ngày tháng năm sinh của mỗi người, có thể xác định được các chu kỳ đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Số ngày trùng hợp với chuyển tiếp các chu kỳ là ngày xấu, có thể coi là ngày vận hạn của người đó”.

Lập luận trên phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các hoạt động chức năng của cơ thể…Ta thử vận dụng lập luận về nhịp sinh học từng cá thể như đã nêu trên để phân tích ngày giờ hợp hay xung khắc với bản mệnh từng người trong thuật chiêm tinh có cùng luận cứ khoa học hay không?

Chọn ngày chọn giờ và bói toán khác nhau:

Các thuật sĩ làm nghề bói toán và chọn ngày chọn giờ đều có tên gọi chung là các nhà chiêm tinh hay âm dương học.

Nhưng bói toán và chọn ngày thuộc hai giai đoạn, hai lĩnh vực tư duy khác nhau của con người.

Con người muốn biết tương lai thân phận mình ra sao, sắp tới vận hạn rủi may thế nào, họ không nắm được quy luật thiên nhiên và xã hội, họ chỉ biết dựa vào thuật bói toán. Bói toán khi chưa có chủ định, chưa có phương hướng, chưa biết vận hội ra sao, việc làm thành bại thế nào.

Khác với thuật bói toán, khi người chủ sự muốn chọn ngày chọn giờ, tức là họ đã có chủ định, đã chuẩn bị sẵn cơ sở vật chất, hay ít ra cũng đã có dự án phác thảo, duy còn phân vân “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” (Con người chủ động mưu tính công việc, việc làm đó thành hay bại còn do trời), có nghĩa là con người đặt khẳng định nội lực của mình, họ chỉ muốn tiến hành trong thời cơ nào thuận lẽ trời, dễ đi đến thành công , tránh được tai hoạ.

Vì sao tục chọn ngày chọn giờ tồn tại lâu đời?

Xuất phát từ bản năng trở thành tâm lý phổ biến trong quần chúng, mọi việc làm có thành bại. Không phải mọi người đều tin rằng yếu tố quyết định sự thành bại là do chọn ngày chọn giờ. Có người không tin vào thuật chiêm tinh, cho đó là điều nhảm nhí, nhưng chiều theo tâm lý chung của nhiều người trong gia đình họ hàng, xét thấy chẳng có hại gì, nên cũng chọn ngày chọn giờ. Đối với một người trong một năm, năm năm, làm sao tránh khỏi rủi ro bất ngờ, huống gì đối với cả nhà, cả họ. Hễ khi ai đó xảy ra tai nạn, họ đổ lỗi cho người chủ sự báng bổ, không chịu chọn ngày, chọn hướng.

Chỉ có lợi, không có hại:

Chọn ngày, giờ là một tục lệ biểu hiện sự thành kính, thận trọng, nghiêm trang, không tuỳ tiện, không cẩu thả trước, trong và sau khi tiến hành một công trình, do đó dễ được sự đồng tình của những người có liên quan, đối tác.

Có một luận thuyết để tin cậy.

Thuật chiêm tinh đúng hay sai, luận thuyết mình tuân theo đáng tin cậy hay không, chỉ có những người đi sâu nghiên cứu mới xác định được, tuy rằng “vô sư, vô sách, quỷ thần bất trách”, nhưng có vẫn còn hơn không, nếu sai sót gì đổ lỗi cho thầy, đã có thầy mang tội, người chủ sự đỡ lo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục chọn ngày giờ –

Long huyệt là gì?

Huyệt trong phong thủy còn gọi là long huyệt, chỉ nơi chôn cất người chết. Đất huyệt long mạch tụ khí, giống như huyệt trên người rất tốt.
Long huyệt là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt vốn chỉ thượng không (trên không) nơi người xưa cư trú, còn chỉ nơi chôn cất người chết, cũng chỉ nơi khí huyệt kim mạch trong người ngưng tụ.

Long huyet la gi hinh anh
Long huyệt

Sách “Địa lý nhân tử nên biết” viết: “Huyệt giống như huyệt trên cơ thể con người, nơi tinh túy nhất của trời đất”. Huyệt có loại cao, loại thấp, loại to, loại nhỏ, loại béo, loại gầy. “Ngũ long (ngũ sơn) làm huyệt chia thành 5 loại: hoành, trực, phi, tiềm, hồi, huyệt. Chúng biến hóa đa dạng từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyệt hướng Bắc - Nam, huyệt hướng Đông - Tây. Có loại hình đi nhanh, có loại bay chéo, có loại bối thủy, có loại cận giang. Huyệt có chính thể, biến thể”.

Căn cứ vào hình dáng, huyệt được phân loại thành: huyệt oa, huyệt kiềm, huyệt nhũ, huyệt đột. Theo phương thức nhận khí gồm: huyệt thụ, huyệt phân thụ, huyệt bàng thụ. Ngoài ra còn có chân huyệt, giả huyệt, phúc huyệt, quý huyệt, bần huyệt, tiện huyệt, quái huyệt…

Huyệt phải có thế lớn, hình chính, tụ khí, uy phong. Điều này còn có nghĩa là huyệt mộ cao mà không nguy, thấp mà không vùi, hiển mà không lộ, tĩnh mà không âm u, kỳ (lạ) mà không quái, xảo mà không liệt, chính mà không xung, dựa mà không nghịch, nằm ngang mà không nổi, bao bọc mà không lõm, chuyên nhất mà không lồi, tiết lậu.

Theo Bí ẩn thời vận

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long huyệt là gì?
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd