Giấc mơ về chúa tể rừng xanh thường là cát mộng, báo trước bạn sắp thành công lớn. Mặc dù vậy, không phải là không có ngoại lệ, bạn vẫn nên cảnh giác với những
Làm lễ yết cáo tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ họ như thế nào ?
Vấn đề này đã có lệ từ xưa, chẳng có gì mới mẻ. "Họ nào đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hành". Đối với những họ mới phục hồi lại việc họ, chưa vào nền nếp, chúng tôi xin mách một vài kinh nghiệm:
Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm thủ tục khai sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường xuyên trong nhà. Lễ yếu cáo tổ tiên rất đơn giản, nén hương, cơi trầu, chén rượu cũng xong, thường kết hợp lễ tế tổ hàng năm mà yết cáo chung tất cả con cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào số họ cũng đơn giản, cốt sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức.
Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước, sinh sau ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ, thì phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối với những trẻ sơ sinh. Mẫu số: Họ Tên (Tên Huý. Tên thường gọi) con ông bà, thuộc đời thứ mấy, chi thứ mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngày tháng, năm, sinh, ngày vào sổ họ.
Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ họ đối với con gái, cho rằng "Nữ nhân ngoại tộc", con gái là con người ta, lớn lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái vào họ. Tuy vậy, ngay trước CM T8-1945 một số họ đã xoá bỏ điều bất công đó, con gái cũng có mọi quyền lợi nghĩa vụ như con trai.
Ngày nay, trong phong trào khôi phục việc họ, xin kiến nghị các họ đặc biệt quan tâm đến con gái và nàng dâu của họ, họ nào coi trọng vai trò phụ nữ, và coi trọng vai trò người mẹ, người vợ, người cô, người chị, thì họ đó mới vững mạnh. Cả nước đang ra sức vận động kế hoạch hoá gia đình, con gái cũng như con trai, vậy nên vận dụng phong tục cũng phải phù hợp với tư duy thời đại.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Mỹ Ngân (##)
Việc kiêng kỵ còn tùy vào quan niệm riêng của từng gia đình. Song, hiểu các tập tục ngày Tết sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử. Cùng ## khám phá kiến thức tử vi và tìm hiểu vì sao quét nhà, hót
Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân, gia đình sẽ bị xui xẻo.
## thấy tục này bắt nguồn từ một điển tích của Trung Quốc ghi trong “Sưu thần ký”. Có người lái buôn tên là Âu Minh, đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một người hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì Âu Minh ăn nên làm ra, nhà rất giàu.
Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, không biết vì lý do gì Âu Minh đánh Như Nguyệt, cô sợ quá chui vào đống rác ở góc nhà. Vợ Âu Minh không để ý nên vô tình quét nhà hót luôn cả đống rác có Như Nguyệt bên trong đổ đi. Từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Người ta bảo Như Nguyệt chính là thần tài và lập bàn thờ để thờ. (Có lẽ vì vậy mà bàn thờ thần tài thường để ở góc nhà). Từ đó có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm do người ta sợ hót mất thần tài ẩn trong đó đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt.
Ở Việt Nam lại có chuyện “Sự tích cái chổi” để giải thích tập tục này.
Theo ## thì ngày xưa ở trên trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay nên Ngọc Hoàng giao cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn ở thiên trù. Nhưng bà lại có tật hay ăn vụng và tham lam. Bà yêu một lão chăn ngựa cho thiên đình. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho lão và cũng nhiều phen bà dắt lão lẻn vào kho rượu, mặc sức cho lão bí tỉ. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy.
Một hôm, Ngọc Hoàng mở tiệc đãi quần thần. Giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết lão tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu lão vào phía góc chạn. Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ở gần đó có biết bao là mỹ vị mùi hương thơm phức. Đang đói sẵn, lão giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để…
Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ.
Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội và bị đày xuống trần, bắt phải làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào được nghỉ, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết Nguyên đán.Bởi vậy đời sau trong dịp Tết Nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà để cho chổi được nghỉ.
Tuy nhiên, theo GS Ngô Đức Thịnh – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, việc kiêng kỵ này còn tùy thuộc vào quan niệm và tín ngưỡng riêng của từng người, từng gia đình. Song, nếu hiểu biết các tập tục ngày Tết sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử trong các mối quan hệ.
Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy những bông hoa bồ công anh đang bay trong gió, điều này cho thấy bạn đang có một môi trường sống rất dễ chịu và vui vẻ. Bạn cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình.
Ngoài ra, giấc mơ này cũng cho thấy tiềm thức của bạn đang cố gắng đưa bạn trở về lại thời thơ ấu và những kỷ niệm trong quá khứ.Nằm mơ thấy mình đang thổi những cánh hoa bồ công anh, điều này ám chỉ đến những khoảnh khắc chỉ thoáng qua. Bạn đang cố gắng để lấy lại một khoảng thời gian đẹp đẽ nào đó đã trôi qua trong cuộc sống của mình.Nếu bạn nằm mơ thấy mình đang ăn hoa bồ công anh, đây là lời nhắc nhở bạn cần phải chăm sóc tốt hơn về sức khỏe của mình.
Thấy những cây bồ công anh trong mơ, báo trước tương lai bạn sẽ đầy những niềm vui. Mơ thấy bạn đang ăn cây này, nghĩa là bạn cần chăm sóc tốt hơn sức khỏe của bản thân hoặc sẽ bị bệnh nặng.
Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam - Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị t
Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam – Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị trí cuối giường tức là vị trí Thất Xích, đây cũng không phải là vị trí tốt. Xuống giường ở vị trí Tam Bích hướng Tây Bắc cũng không được, bởi vì Tam Bích là Phi Tinh. Vị trí tốt nhất là hướng Bát Bạch Tây Nam hoặc Cửu Tử ở chính Đông.
Khi chúng ta tương đối lo lắng thường quên vị trí xuống giường, cho nên tại vị trí cấm xuống giường chúng ta nên đặt một cái chăn để nhắc nhở mình không đụng đến vị trí đó. Tại vị trí xuống giường nên đặt một bức thảm màu đỏ (nếu cần Hoả), màu xanh lam (nêu cần Thuỷ) để khi bạn bước xuống giường là giẫm ngay lên thảm, tiếp nhận Bát vận nhanh chóng.
Bát vận thuộc Thổ, bên giường của Bát vận nên bày đồ vật hình rồng, chó, trâu, dê để thúc vượng Bát vận. Năm 2007 Nhị HắcPhi Tinh, năm 2008 Nhất Bạch Phi Tinh, đầu giường tại hướng chính Nam do Lục Bạch biến thành Ngũ Hoàng nên năm 2008 kỵ những vị trí xuống giường đã nêu ở trên, cần phải đổi vị trí xuống giường sang Cửu Tử hướng Đông Nam và Bát Bạch hướng chính Đông. Điều này có nghĩa là mỗi một năm, vị trí xuống giường của chúng ta là không giống nhau.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh được dùng vào Tiết Trung Nguyên. Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.
Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Sắm lễ cúng tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh
Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng:
– Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…
– Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…
Văn khấn tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh
Nam mô A di đà Phật! Nam mô A di đà Phật! Nam mô A di đà Phật!
Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.
Tiết tháng 7 sắp thu phân Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ Đại Thánh Khảo giáo A nan Đà Tôn giả Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương Gốc cây xó chợ đầu đường Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang Quanh năm đói rét cơ hàn Không manh áo mỏng, che làm heo may Cô hồn nam bắc đông tây Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn Dù rằng : Chết uổng ,chết oan Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu Chết tai nạn – chết ốm đau Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình Chết bom đạn, chết đao binh Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi Chết vì sét đánh giữa trời Nay nghe tín chủ thỉnh mời Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau Cơm canh cháo nẻ trầu cau Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh Gạo muối quả thực hoa đăng Mang theo một chút để giành ngày mai Phù hộ tín chủ lộc tài An khang thịnh vượng hài hòa gia trung Nhớ ngày xá tội vong nhân Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời Bây giờ nhận hưởng xong rồi Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần Tín chủ thiêu hóa kim ngân Cùng với áo quần đã được phân chia Kính cáo tôn thần Chứng minh công đức Cho tín chủ con tên là…………… Vợ/Chồng: ……………………….. Con trai: ………………………….. Con gái: ……………………
Hành: KimLoại: Hung TinhĐặc Tính: Tật bệnh, buồn thảm, nguy khốn, gây rắc rối ngăn trở công việc. Phụ tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Luôn có sao Nguyệt Đức đồng cung.
Sao Tử Phù chủ sự buồn thảm, nguy khốn. Đây là một hung tinh loại nhẹ, chỉ một ác lâm vừa phải có mức độ. Sao Tử Phù thuộc Hỏa, chủ tang thương, gây rắc rối, ngăn trở mọi sự việc. Ngoài ra, còn có ý nghĩa sự chết, báo hiệu tang thương.
Kinh thành Thăng Long xưa – Thủ đô Hà Nội nay là mảnh đất thiêng ngàn năm văn vật, nơi hội tụ, kết tinh những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời, nơi đây, còn lưu giữ những giá trị truyền thống, những di sản quý báu của dân tộc với hàng loạt các công trình kiến trúc cổ vô giá và độc đáo – Tiêu biểu phải kể đến “Thăng Long tứ Trấn”.
Thăng Long tứ trấn để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long đó là:
Trấn Đông: đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ – thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9
Trấn Tây: đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Lệ), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang – một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11
Trấn Nam: đền Kim Liên, trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17
Trấn Bắc: đền Quán Thánh (đúng ra là đền Trấn Vũ), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10.
Thăng Long tứ trấn còn một cách hiểu khác đó là bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ vòng ngoài khi kinh thành trực tiếp bị đe dọa. Ngoài ra, vì ở gần kinh thành nên bốn trấn còn là những lực lượng có nhiệm vụ “cứu giá” và dẹp yên nội loạn khi kinh thành có biến. Đó là các trấn:
Kinh Bắc: bao gồm 4 phủ (20 huyện) các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Phúc Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, Võ Giàng, Quế Dương (5 huyện – thuộc phủ Từ Sơn) Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài (5 huyện – thuộc phủ Thuận An) Kim Hoa, Hiệp Hoà, Yên Việt, Tân Phúc (4 huyện – thuộc phủ Bắc Hà), và cuối cùng là: Phượng Nhãn, Hữu Lũng, Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn (6 huyện – thuộc phủ Lạng Giang). Vì trấn lỵ ở Đáp Cầu, huyện Võ Giàng (phía Bắc kinh thành), nên Kinh Bắc cũng được gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm =>> Thành Bắc Ninh đặt tại Bắc Ninh.
Sơn Nam: Gồm 11 phủ (42 huyện) tương đương các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Hưng Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên (3 huyện – thuộc phủ Thường Tín) Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An (4 huyện – thuộc phủ Ứng Thiên) Nam Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục (5 huyện – thuộc phủ Lý Nhân) Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi, Phù Dung (5 huyện – thuộc phủ Khoái Châu) Nam Chân, Giao Thuỷ, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên (4 huyện – thuộc phủ Thiên Trường) Đại An, Vọng Doanh, Thiên Bản, Ý Yên (4 huyện – thuộc phủ Nghĩa Hưng) Thuỵ Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đông Quan (4 huyện – thuộc phủ Thái Bình) Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê, Thanh Lan (4 huyện – thuộc phủ Tân Hưng) Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định (3 huyện – thuộc phủ Kiến Xương) Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (3 huyện thuộc phủ Trường An) và cuối cùng là: Phụng Hoá, An Hoá, Lạc Thổ (3 huyện – thuộc phủ Thiên Quan). Vì trấn lị ở phía Nam kinh thành, nên Sơn Nam cũng được gọi là trấn Nam hay trấn Ly=>> Thành Nam đặt tại Nam Định.
Hải Dương: Gồm 4 phủ (18 huyện) bao gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đường Hào, Đường An, Cẩm Giàng (3 huyện – thuộc phủ Thượng Hồng) Gia Phúc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại (4 huyện – thuộc phủ Hạ Hồng) Thanh Hà, Thanh Lâm, Tiên Minh, Chí Linh (4 huyện – thuộc phủ Nam Sách) và cuối cùng là: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi Dương, Kim Thành, Thuỷ Đường, An Dương (7 huyện – thuộc phủ Kinh Môn). Vì trấn lị ở phía Đông kinh thành, nên Hải Dương cũng được gọi là trấn Đông hay trấn Chấn =>> Thành Đông -Thành Hải Dương đặt tại Hải Dương.
Sơn Tây: Gồm 6 phủ (24 huyện) tương đương các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên và Sơn Tây sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, Thạch Thất, Đan Phượng (5 huyện – thuộc phủ Quốc Oai) An Lãng, An Lạc, Bạch Hạc, Tiên Phong, Lập Thạch, Phù Khang (6 huyện – thuộc phủ Tam Đái) Sơn Vi, Thanh Ba, Hoa Khê, Hạ Hoà (4 huyện – thuộc phủ Lâm Thao) Đông Lan, Tây Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương (5 huyện – thuộc phủ Đoan Hùng) Tam Nông, Bất Bạt (2 huyện – thuộc phủ Đà Dương) và cuối cùng là: Mỹ Lương, Minh Nghĩa (2 huyện – thuộc phủ Quảng Oai). Vì trấn lị ở phía Tây kinh thành, nên Sơn Tây cũng được gọi là trấn Tây hay trấn Đoài, Thành Tây – Thành cổ Sơn Tây đặt tại Sơn Tây.
– Có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận ra sao, hãy cùng ## tìm hiểu.
Thành công trên quan trường là điều mà mỗi người làm chính trị đều mong muốn. Nhưng không dễ dàng để chạm tới thành công, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ngoài năng lực bản thân, sự hài hòa về thiên thời, địa lợi, việc hỗ trợ về mặt tinh thần của nửa kia cũng vô cùng quan trọng.
Thế nên mới có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận rao sao, hãy cùng ## tìm hiểu.
1. Ngũ quan đoan chính, không có nét phá tướng
Tướng do tâm sinh, ngũ quan (mắt, mũi, tai, miệng, lông mày) đoan chính, không bị khuyết hãm thì tâm hồn lương thiện, trong sáng. Một chính trị gia rất cần người phụ nữ như vậy để có thể cùng kề vai sát cách trên quan trường.
Phụ nữ có ngũ quan đoan chính dễ được người khác yêu mến, tin tưởng. Công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng khá thuận lợi. Người này thông minh, lanh lợi, có phúc phận tốt, sẽ là “trợ thủ đắc lực” cho con đường quan lộc của chồng.
Cần lưu ý, trên khuôn mặt không có nét phá tướng (nốt ruồi xui xẻo, sẹo, bớt...) thì vận khí của người phụ nữ này mới không bị cản trở.
Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều” – Nắm bắt được những tướng mặt sếp khó tính dưới đây, bạn sẽ có cách “né đòn” hữu hiệu, vừa hoàn thành công việc dễ dàng lại không bị cấp 2. Thiên đình đầy đặn
Thiên đình chính là phần trán trên khuôn mặt. Đây cũng là vị trí của cung Sự nghiệp. Thiên đình đầy đặn, sáng sủa chứng tỏ chủ nhân có tấm lòng khoan khoái, bao dung, phóng khoáng. Hơn thế, người phụ nữ này còn sở hữu trí tuệ minh mẫn, khả năng làm việc độc lập rất tốt.
Trong công việc, họ dễ dàng được lãnh đạo coi trọng, đánh giá cao và đề bạt thăng tiến. Bản thân họ cũng là trợ thủ đắc lực của cấp trên, công danh sự nghiệp gặt hái được nhiều thành công.
Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng mặt phụ nữ làm phu nhân của chính trị gia. Trong mọi trường hợp, họ sẽ là “hậu phương vững chắc” để chồng an tâm xông pha nơi “tiền tuyến”.
3. Mắt tròng đen tròng trắng rõ ràng
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Phụ nữ có mắt to, lòng đen và lòng trắng rõ ràng thường có tấm lòng lương thiện, tràn đầy sức sống, làm việc ngay thẳng, minh bạch nên dễ được lòng lãnh đạo.
Trong hôn nhân, họ luôn biết cách cư xử khéo léo, vun vén cho gia đình để chồng con yên tâm phấn đấu.
4. Sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy
Mũi thể hiện tài vận, phản ánh phần nào đời sống vật chất của mỗi người. Phụ nữ có tướng mũi mà sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy thì được hưởng nhiều phúc phận về tài lộc. Đường công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng hanh thông, rộng mở.
Trong tình yêu, quý cô này thủy chung một lòng, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để gia đình được trong ấm ngoài êm, ông xã tập trung phấn đấu cho sự nghiệp.
5. Địa các đầy đặn
Trên khuôn mặt, Địa các chính là cằm. Cằm phản ánh vận thế ở giai đoạn hậu vận của mỗi người. Muốn biết xem về già bạn có được hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý hay không, hãy nhìn tướng cằm.
Bên cạnh đó, nữ giới có cằm đầy đặn thường có số vượng phu và vượng cả tài lộc. Họ dễ dàng lọt vào “mắt xanh” của các chính trị gia, có phúc phận làm phu nhân, luôn sánh bước cùng chồng trên quan trường.
=> Xem thêm: Nốt ruồi và ý nghĩa của các vị trí trên cơ thể
Ngân Hà
Chỉ ra tướng mặt người nghèo khó và cách thoát nghèo Trong Nhân diện học, lông mày lộn xộn, đứt đoạn là biểu hiện của đời sống tình cảm phức tạp. Chủ nhân của tướng lông mày này thường yếu đuối, dễ bị yếu tố
Các lễ hội ngày 7 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn
1. Hội Đình Tri Yếu
Thời gian: Tổ chức từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn các vị thành hoàng làng là Cao Sơn, Qúy Minh và Chàng Rồng (một võ tướng trung quân của Vua Hùng Duệ Vương).
Nội dung: Mở đầu hội đình Tri Yếu là lễ tế cáo Thần, rồi tiến hành lễ rước "bát hương Thánh" với những nghi thức trang trọng với đầy đủ bộ lễ, bát âm, chiêng trống. Ngoài các nghi lễ còn có các tiết mục biểu diễn hát chèo, cờ tướng, thi nấu bánh trưng, bánh giầy, đấu vật giành giải thưởng.
2. Lễ Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 7 tới ngày mùng 9 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: hội quán Lệ Châu, 586 Trần Hưng Đạo, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ông tổ nghề kim hoàn gồm hai nghi thức: tế Tổ trong hai ngày đầu và tế các bậc Tiền hiền, hậu hiền trong ngày cuối.
Trong thời gian lễ giỗ, những người thợ kim hoàn ở thành phố Hồ Chí Minh và các nơi từ khắp các vùng thuộc nam bộ về dâng hương lễ tổ, trao đổi những kinh nghiệm cũng như hỗ trợ nhau phát huy nghề của tổ sư. Những người thợ không về dự được thì có thể tổ chức cúng tổ tại nhà nhưng phải chọn ngày cúng sau những ngày lễ ở hội quán ở Lệ Châu.
Đèn không chỉ được dùng để lấy ánh sáng hoặc trang trí mà Đèn không chỉ được dùng để lấy ánh sáng hoặc trang trí mà còn được vận dụng vào việc khắc chế nguồn năng lượng xấu, kích hoạt nguồn năng lượng tốt cho trạch nhà, góp phần giúp cho trạch chủ và gia đình khỏe mạnh, gia tăng tài lộc may mắn.òn được vận dụng vào việc khắc chế nguồn năng lượng xấu, kích hoạt nguồn năng lượng tốt cho trạch nhà, góp phần giúp cho trạch chủ và gia đình khỏe mạnh, gia tăng tài lộc may mắn.
Hãy đưa ánh sáng vào mục “chú ý” ngay từ khi bạn bắt đầu có ý tưởng thiết kế ngôi nhà của mình.Trước sảnh nhà Với nhà hợp hướng với trạch chủ thì việc treo đèn ở trước sảnh của tòa nhà sẽ kích hoạt khí tốt. Còn nếu hướng nhà không hợp với trạch chủ (như hướng nhà là hưỡng ngũ quỷ hay lục sát với trạch chủ…) thì không nên tăng cường nhiều ánh sáng ở phía sảnh đại môn vì khi đó sẽ kích hoạt luôn khí xấu vào nhà. Chỉ nên dùng đèn vừa đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của trạch chủ. Màu sắc của đèn nên tương sinh với mệnh của trạch chủ. Ví dụ chủ nhà Mậu Thân – Cung Khôn – Ngũ hành Đại dịch thổ thì nên dùng đèn ánh sáng màu đỏ hoặc vàng. Ngoài ra, căn cứ vào ngoại vi tứ diện để xem xét dùng đèn lồng để khắc chế những ảnh hưởng xấu, đồng thời kích hoạt tài lộc may mắn cho gia chủ. Về vấn đề này bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia phong thủy để dùng đúng và đủ.Trong phòng khách Nên dùng ánh sáng vàng, ấm cúng để tăng cường sinh khí của trạch nhà và tăng sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình. Giữa trung tâm của trạch nhà, nên treo đèn chum có cường độ ánh sáng phù hợp nhưng cần bố trí số lượng bóng, màu sắc bóng tương sinh với trạch chủ.Trong phòng ngủ Sử dụng cường độ ánh sáng vừa phải để thích nghi với sự điều tiết bình thường của mắt. Không nên đặt đèn ở đầu giường, sẽ gây căng thẳng và ức chế thần kinh. Nếu có điều kiện, bạn có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên, kết hợp với đèn đá muối để vừa trung hòa khí xấu trong phòng vừa tạo ion có lợi cho sức khỏe. Nên tắt đèn trước khi đi ngủ, để giấc ngủ chìm trong bóng tối thực sự. Nếu trong gia đình có người già, người huyết áp cao, không ổn định, thiếu máu… thì không nên bố trí đèn Halogen vì dễ gây choáng, kích động huyết áp. Kết hợp một đèn sinh khí nhỏ đặt trong bộ tài khí đáo gia sẽ giúp giảm bớt căng thẳng, có lợi cho sức khỏe.Trong phòng tắm-vệ sinh Đây là nơi phát tán các uế khí, khí xấu, việc dùng đèn hợp mệnh kết hợp với đá phong thủy hướng thiên có thể giải trì, ngăn chặn phần lớn sự phát tán này. Trong phòng tắm nên để đèn ánh sáng màu vàng, trắng hoặc đỏ, không để màu xanh, tránh cảm giác cô quạnh, yếu ớt. Sưu tầm Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Loại hoa, cây cảnh giúp hóa giải phong thủy ban công –
Khi thiết kế ban công, không phải ai cũng có thể tìm cho nhà mình nơi đặt vị trí ban công vừa hướng ra cảnh quan đẹp vừa hợp lý với cách bố trí trong nhà. Có thể ban công nhà bạn đã được thiết kế sẵn trước khi bạn đến ở. Và bạn có thể tự mình quan sá
t, nếu từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy, ví dụ như trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện… thì bạn có thể bài trí những cây cảnh có tác dụng hóa giải.
Nếu trong trường họp từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy (trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện…) thì gia đình có thể bài trí cây cảnh để hóa giải.
Theo phong thủy, một số loại cây cảnh có tác dụng hóa giải, bảo vệ ngôi nhà có thể kể đến đó là:
– Cây tiên nhân cầu: Tiên nhân cầu là loại cây dễ sống, không cần tưới nước liên tục. Thân cây nhân cầu to và dài, xung quanh đầy gai, bài trí những cây này có thể hóa giải hình sát của bên ngoài.
– Hoa hồng: Hoa hồng là hoa có hương sắc để trang trí cho ban công. Khi trồng ở ban công nên chọn loại hoa hồng thân gai có tác dựng hóa giải, thích họp với nhũng nhà có nhiều phụ nữ.
– Cây xương rồng: Ý nghĩa của cây xương rồng là mang đến sức mạnh, thân cây phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài.
– Cây ngọc kỳ lân: Ngọc kỳ lân phát triển theo hưóng ngang, vững vàng, khỏe mạnh, có tác dụng trấn giữ ngôi nhà.
– Cây đỗ quyên: Không chỉ hóa giải những hình khí xấu nơi ban công mà cây đỗ quyên còn có tác dụng mang lại nhiều vận may cho gia chủ. Loại cây này cũng dễ sống, hoa lá nhiều và có gai.
– Cây huyết long: Loại cây có lá bé, dài màu xanh thẫm, ở giữa lá có đốm vàng. Huyết long cũng là loại cây dễ chăm sóc và có sức sống mạnh mẽ. Đây cũng là loại cây có thể ngăn chặn những khí xấu xâm nhập vào nhà.
– Vạn niên thanh: có phiến lá to như những bàn tay xòe ra ngoài nạp khí tiếp phúc. Có tác dụng tăng cường vượng khí đối với phong thủy nhà ở. Cần chăm sóc cho cây luôn xanh tốt, duy trì màu xanh tươi trẻ tạo điều kiện hấp dẫn sinh khí tốt nhất.
– Cây kim tiền: phiến lá tròn dày, đầy đặn có sức sống vô cùng mãnh liệt, hấp dẫn kim khí từ thế giới bên ngoài rất có lợi cho tài vận gia đình.
– Cây cọ trúc, trúc quân tử: trồng ở ban công có thể bảo vệ giữ gìn sự bình yên cho gia đình.
– Cây phát tài: có đặc điểm to khỏe, phiến lá nhọn dài, xanh biếc dễ trồng, có sức sống mãnh liệt, có tác dụng bảo vệ và tăng cường tài vận cho gia đình.
Các kiến trúc sư cũng khuyên rằng, ban công nhỏ hay lớn đều nên thiết kế gần gũi với thiên nhiên bằng nhiều cây cảnh tuy nhiên cần được thiết kế gọn gàng và sạch sẽ, không mảnh vụn chồng chất.
Trên thế giới vẫn có nhiều “người phụ nữ huyền bí” được biết đến với tài tiên tri chính xác tới bất ngờ, vượt ra khỏi sự hiểu biết của khoa học.
1. Nữ tiên tri huyền thoại Vanga
Bà Vanga tên thật là Vangelia Pandeva Dimitrova, là một nhà tiên tri, đồng thời cũng là người chuyên nghiên cứu về thảo dược. Bà sinh ngày 31/1/1911, sống trọn cuộc đời tại thành phố Rupit, Bulgary và mất ngày 11/8/1996. Người ta kể lại rằng, một ngày nọ có 1 cơn bão lớn và cơn lốc xoáy đã nhấc bỗng Vanga đang chơi tại sân nhà và cuốn tới cánh đồng xa tít tắp. Sau nhiều nỗ lực kiếm tìm, dân làng thấy Vanga nằm bất tỉnh trong đám đất đá với hai hốc mắt đã bị lấp đầy vì cát bụi. Và Vanga bị mù từ đây, dù chữa trị bằng cách nào cũng không khỏi. Thế nhưng, may mắn thay, cô bé sớm phát triển và có một “giác quan thứ sáu” vô cùng nhạy bén. Đến năm 16 tuổi, Vanga bộc lộ khả năng tiên đoán tương lai của mình. Trong cuộc đời bà Vanga có rất nhiều tin đoán chính xác từ số phận của những người thân trong gia đình đến những vụ việc mang tầm cỡ quốc tế. Nổi bật là những dự đoán trong Chiến tranh thế giới thứ II để giúp mọi người biết được số phận người thân của mình ở chiến trường, còn sống hay đã hy sinh, thi thể đang nằm lại nơi nào. Năm 1942, bà được vua Bulgary khi này là Boris III mời tới xin lời tiên tri, lúc này bà chỉ nói: Hãy luôn ghi nhớ ngày 28 tháng 8. Quả thực, sau đó 1 năm, 28/8/1943, đức vua qua đời. Năm 1945, bà dự đoán lãnh tụ Salin qua đời và đúng như vậy 1 năm sau đó Salin từ trần. Ngoài ra bà còn có những dự đoán chính xác như tiên đoán chính xác thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra vào năm 1986 hay năm 1980, khi bà khẳng định: “Trên ngưỡng cửa thiên niên kỷ, vào tháng 8/1999 hoặc năm 2000, Krusk sẽ ngập chìm trong nước, cả thế giới sẽ đau buồn về điều này”. Rất ít người nhớ tới những câu nói định mệnh đó, phải đợi 20 năm sau, đúng vào tháng 8/2000, thế giới ngỡ ngàng trước việc tàu ngầm hạt nhân Krusk của Nga bị chìm tại biển Bắc, toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng dưới đáy đại dương. Kỳ lạ thay, con tàu xấu số được đặt theo chính tên thành phố Krusk. Ngoài những lời tiên tri đã được kiểm chứng, bà Vanga còn rất nhiều lời dự đoán khác về thảm họa trong tương lai mà ai nghe tới cũng phải rùng mình. 2. Nữ tiên tri Jeane Dixon
Không nổi tiếng như nhà tiên tri mù Vanga nhưng Jeane Dixon được biết đến như là một trong những nhà tiên tri hàng đầu thế giới với khả năng tiên tri về cái sống và cái chết. Jeane Dixon (1904 – 1997) là người gốc Đức nhưng định cư tại Mỹ. Khi còn trẻ, bà từng có cuộc “gặp gỡ định mệnh” với một thầy bói Ai Cập ở California, vị thầy bói nói rằng, Dixon có khả năng đặc biệt và tặng bà một quả cầu pha lê. Sau đấy, bà thường nhìn vào quả cầu pha lê để dự đoán và nghiên cứu chiêm tinh. Một trong những dự đoán chính xác của bà được nhắc tới như dự đoán về cái chết của nữ diễn viên điện ảnh Carole Lombard. Theo bà, Carole Lombard nên hủy chuyến đi diễn của mình bởi cô có khả năng sẽ gặp tai nạn bằng máy bay. Tuy nhiên, Carole Lombard chỉ có thể thoát khỏi định mệnh ở chuyến đi, khi trở về chiếc máy bay đã gặp tai nạn và lao vào núi. Ngoài ra bà cũng từng dự đoán chính xác về việc Harry Truman lên giữ chức tổng thống vào năm 1945. Lời tiên tri nổi tiếng nhất của bà phải kể tới là lời tiên tri cho cái chết của tổng thống Kenedy. Vào một ngày năm 1956, bà đưa ra lời dự đoán về cái chết của 1 tổng thống trẻ bị ám sát bằng súng sau đó 10 năm. Dixon đã cố gắng để cảnh báo sự việc này cho Kenedy nhưng dường như chẳng ai tin tưởng về điều này. Ngoài ra bà còn dự đoán cả tên của kẻ sát nhân 1 cách vô cùng chính xác. Và đúng như vậy, 11h30 ngày 22/11/1963, tổng thống Kennedy bị ám sát bởi tên sát nhân có tên Lee Harvey Oswald. Không những thế, Dixon còn có rất nhiều tiên đoán nổi tiếng dành cho những chính trị gia hay diễn viên tầm cỡ quốc tế. Những lời tiên tri chính xác này giúp bà được biến đến như là 1 nhà tiên tri hàng đầu thế giới. 3. Nữ tiên tri Maria Lenorman
Maria Adelaida Lenorman là một trong những nữ tiên tri kỳ lạ, có khả năng tiên đoán bẩm sinh. Năm 1772, Maria ra đời tại thị trấn Alanson – Paris – Pháp với một bộ tóc dài đen nhánh và miệng đầy răng. Điều đó gây hoảng sợ cho chính cha mẹ và những người thân của cô bé. Bắt đầu lên 6 tuổi, Maria Lenorman bộc lộ khả năng tiên đoán của mình khi được gửi vào tu viện Thiên chúa. Maria đã dự đoán rằng mẹ tu trưởng sẽ rời bỏ vị trí và lấy một người chồng giàu có và điều này diễn ra theo đúng tiên đoán. Maria tới Paris mưu sinh sau khi cha qua đời và hết viện trợ nuôi dưỡng. Và với khả năng của mình Maria Lenorman đã mở phòng bói toán. Năm 1793, căn phòng nhỏ của bà bói Maria bất ngờ đón tiếp sự hiện diện của Robespier, Marat và Sen-Jyust – 3 nhà lãnh đạo nổi tiếng của chính quyền Pháp thời hậu quân chủ. Maria nói rằng cả 3 ông sẽ có những cái chết vô cùng thảm khốc. Sau này, Marat bị Sharlotte Conde bắn trọng thương cho đến chết, còn hai người bạn đồng hành của ông một năm sau bị chặt đầu. Bà cũng chính là người từng dự đoán Josephina sẽ chính là hoàng hậu của nước Pháp và dự đoán được là đức vua Napoleon lừng lẫy và cuộc đời bi kịch sau 40 tuổi của ông. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Hướng kê giường Tuổi Kỷ Hợi 1959 Năm sinh dương lịch: 1959 - Năm sinh âm lịch: Kỷ Hợi - Quẻ mệnh: Khôn Thổ - Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Si
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Trong nhiều sách Tử Vi đã có nhiều lần bàn về “ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”; nhưng vì đề tài này rất bao la nên tôi tưởng không phải là vô ích khi đưa ra những chi tiết và kinh nghiệm dưới đây để qúy bạn tìm hiểu dễ dàng và chính xác hơn về Mệnh Vô Chính Diệu.
Thực vậy, từ trước đến nay, mỗi khi gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, chúng ta thường thường chỉ biết căn cứ vào những câu phú quen thuộc như:
- Mệnh Vô Chính Diệu phi yểu tắc bàn. - Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam không nhi phú qúy khả kỳ. -Tam không độc thủ phú qúy nan toàn. -Xét xem phú qúy mấy người, Mệnh Vô Chính Diệu trong ngoài tam không …
Chứ làm gì có một hệ thống hoặc tài liệu chi tiết nào về trường hợp trên, đành rằng có những nhà tử-vi rất thông suốt về Mệnh Vô Chính Diệu nhưng rất tiếc các vị đó lại không chịu đem ra cống hiến. Vì vậy tôi mạo muội gom góp những chi tiết đã thâu lượm được và tạm chia làm hai phần:
- Những ưu khuyết điểm về Mệnh Vô Chính Diệu. - Những điều phức tạp về Mệnh Vô Chính Diệu.
1-NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU A) Những khuyết điểm Hầu hết các nhà tử-vi đều không khen những lá số có cách Vô Chính Diệu tại Mệnh vì cho rằng những cách này có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Những khuyết điểm chính như sau:
1- Căn bản không vững Căn bản ở đây không có nghĩa là khả năng hoặc tài năng mà chỉ có nghĩa là môi trường của mình. Mệnh Vô Chính Diệu (tức là không có chính tinh thủ mạng) bao giờ cũng phải tuỳ thuộc vào chính tinh ở cung xung chiếu, và khi đã phải tuỳ thuộc tức là không có căn bản vững, hoặc nói nôm na là không có gốc. Nếu không được cung xung chiếu có sao tốt lại phải hướng sang hai cung hợp chiếu (Tài và Quan) mà ảnh hưởng sẽ yếu hơn nhiều và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nữa. Vì vậy, dù cho người Mệnh Vô Chính Diệu có tài năng, thông minh (do các yếu tố tử-vi khác cho hưởng) rất dễ bị thăng trầm về sự nghiệp khi gặp Đại tiểu hạn giao động mạnh, không khác gì căn nhà không có cửa bị cơn gió lốc thổi thốc vào làm tan tác cả căn nhà, trừ trường hợp có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hơn nhiều.
2- Khó đóng vai trò chính Như trên đã nói, Mệnh Vô Chính Diệu không khác gì căn nhà không có cửa dễ bị ảnh hưởng của thời tiết cũng như ngoại cảnh. Do đó người Mệnh Vô Chính Diệu (dù Đắc Tam Không) không thể và không nên giữ vai trò chính trong bất cứ lĩnh vực, cảnh ngộ nào, từ xã hội, gia đình cho đến hôn nhân. Chính cụ Hoàng Hạc cũng đã nêu trên KHHB trước kia là gặp trường hợp này nên cam phận làm “phó” thì yên thân, nếu làm chính dễ bị mất chức. Riêng tôi, tôi còn nói thêm rằng ngay trong gia đình cũng vậy, người Mệnh Vô Chính Diệu cần phải là con thứ hoặc nếu chẳng may là con trưởng thì cần phải là con bà vợ sau của cha mình (tức là bà vợ chính không có con trai). Như thế mới có thể sống lâu hoặc mới có công danh khá được. Thậm chí đến vấn đề hôn nhân, người Mệnh Vô Chính Diệu nên chịu làm “kẻ đến sau” thì cuộc sống dễ thịnh vượng hơn, còn trường hợp vợ mình là chính chuyên thì đương nhiên bị thiệt thòi về sự nghiệp. Đó là một điểm “hận” lớn lao cho người Mệnh Vô Chính Diệu. Kể ra cũng chẳng có gì khó hiểu, vì khi căn nhà trống (vô chính diệu) thì ta cần có một cái vật gì đó che bớt cho khuất gió, tuy hơi trở ngại nhưng đỡ bị tan tác khi có gió mưa lớn. Về người cũng vậy, nếu có người khác “đứng mũi chịu sào” thì khi gặp trách nhiệm lớn lao mình làm phó đâu có chịu lỗi nhiều hoặc gánh vác nhiều, dù cho mình có nhiều khả năng chăng nữa. Còn về hôn nhân tuy không đặt vấn đề trách nhiệm nhưng phải có cái gì đó “án ngữ“ gián tiếp, ví như Tuần, Triệt vậy.
3-Khó phát sớm Trừ một vài trường hợp đặc biệt, tôi nghiệm thấy các người mệnh vô chính diệu đều không phát khi còn trẻ, không khác gì một cái cây non khi mới nẩy mầm nơi đất xấu, phải trông cậy vào phân bón hoặc mưa nắng thuận hòa mới dần dần vươn cao, có hoa có lá. Vì vậy, nếu qúy bạn có Mệnh Vô Chính Diệu cũng đừng bao giờ qúa thất vọng khi thấy sự nghiệp, công danh của mình phát chậm, miễn là những đại vận từ trung vận trở đi không quá tệ. Nếu qúy bạn nào phát sớm trong trường hợp này tưởng cũng không nên qúa mừng và tự tin vì không khác gì “hoa sớm nở tối tàn” về công danh cũng như về tuổi thọ. Để cho dễ hiểu, tôi xin đơn cử một thí dụ: một đứa bé sơ sinh nếu ra đời non hoặc qúa yếu đuối ngay từ lúc lọt lòng mẹ, nếu cứ cho uống đủ các thứ thuốc bổ để mau mập mạp, khoẻ mạnh không thể đúng cách bằng nuôi nấng một cách điều độ cho khoẻ mạnh lần lần. So với Tử vi cũng vậy, nếu Mệnh Vô Chính Diệu mà gặp ngay Đại Hạn kế tiếp thật tốt rồi những đại hạn sau xấu thì không thể nào hay bằng đại hạn kế kém nhưng những đại hạn sau tốt đẹp, để cho mệnh đủ thời gian hấp thụ các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu, như thế mới đủ khả năng sử dụng các đại hạn tốt một cách vững bền.
4-Nghị lực kém: Khuyết điểm sau chót của người Vô Chính Diệu tại Mệnh là khó lòng họ có can trường hoặc tinh thần dũng mãnh cương nghị, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng vậy. Điều này cũng rất dể hiểu vì khi mình nhờ vả ai (tức là Mệnh nhờ các cung chiếu) thì mình phải chịu ảnh hưởng của người đó, nếu không muốn nói là lệ thuộc và khi đã ở cảnh ngộ như thế thì làm sao giữ vững được lập trường. Tuy nhiên, nếu Mệnh chịu ảnh hưởng của cung Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ hơn nhiều, vì Tài Quan là các cung của cá nhân mình, thì chỉ ngại cung Thiên Di, nếu có các chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều thì sự lệ thuộc vào ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn vì cung Thiên di tiêu biểu cho giới giao thiệp, bạn bè trong xã hội (Tôi sẽ bàn về cung Thiên Di trong một bài riêng biệt). Vậy quý bạn cần chú ý đến điểm này khi cân nhắc về nghị lực của người Mệnh Vô Chính Diệu.
Những ưu điểm: Chắc qúy bạn nào có Mệnh Vô Chính Diệu sau khi đọc những điểm trên đây đều thất vọng cho số phận của mình, nhưng thực ra con người Mệnh Vô Chình Diệu lại có những điểm độc đáo khác mà những người khác ít khi có.
1) Đa năng mẫn tiệp Khi Mệnh đã “bỏ ngõ” tuy dể bị ảnh hưởng của các sao xấu bên ngoài nhưng cũng tiếp nhận dễ dàng những tinh hoa của các cách tốt chiếu về, nếu có. Do đó, người Mệnh Vô Chính Diệu (khi lớn tuổi) thành công dễ dàng nhưng tuần tự trong mọi lãnh vực do khả năng tìm hiểu, tò mò, kiên nhẫn của mình, mức độ thành công tùy theo các cách tốt trong tử vi. Vì thế, trong nhiều sách như cuốn Tử-Vi Đầu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang đều nói rằng người Mệnh Vô Chính Diệu khôn ngoan sắc sảo là thế. Nếu qúy bạn là Chủ nhân hay Giám đốc thì nên dùng người Mệnh Vô Chính Diệu vì họ rất chịu khó học hỏi, có lương tâm nhà nghề, có óc cầu tiến, nhưng đừng bao giờ dùng họ trong vai trò chủ chốt như đã nói trên để cho họ khỏi bị mất chức. Đến như Khổng Minh kia (cung Mệnh Vô Chính Diệu) tuy tài ba phi-thường như thế mà cũng đành phải chịu làm cố vấn, quân sư cho kẻ khác, chứ đâu có xưng vương đồ bá gì nổi …
2) Ít bị tai nạn Tôi xin nói ngay là người Mệnh Vô Chính Diệu bớt được nhiều tai nạn chứ không phải là chẳng bao giờ bị tai nạn. Sở dĩ họ được điểm may như vậy là vì Mệnh Vô Chính Diệu khi gặp Đại tiểu hạn Sát Phá Liêm Tham và hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi Mệnh có chính tinh lại không hợp và có khi còn bị nguy hại. Như vậy là Mệnh VCD đã bớt đi một số yếu tố tai hại vì đã quen với hung tinh. Vì theo nguyên tắc chỉ có hung tinh mới gây ra tai ương nhiều hơn các sao khác, vì các bại tinh chỉ gây thất bại hoặc bịnh hoạn chứ ít khi đem đến tai nạn như hung tinh. Như vậy kể ra cũng công bằng vì người Mệnh Vô Chính Diệu thường hay khổ về tinh thần thì ít ra cũng phải bớt được tai ương nhiều.
3) Dễ thích ứng với hoàn cảnh Mệnh Vô Chính Diệu chẳng khác gì Mệnh trung lập, gặp đại vận nào cũng thích ứng được không bị cảnh “chéo cẳng ngỗng” như Mệnh có chính tinh, do đó đỡ bị gặp bước đường cùng (Đây tôi không nói về thọ yểu mà chỉ bàn đến công danh, sự nghiệp, vì lẽ tất nhiên gặp hạn xấu qúa thì phải chết). Thí dụ như hạn gặp Tuần, Triệt hoặc Thiên Không đối với Mệnh có chính tinh (nhất là sao Tử-Phủ) thì rất tai hại, bất lợi nhưng đối với Mệnh Vô Chính Diệu lại hay vì không khác gì nhà cửa đang trống trải bị gió thốc vào nay lại được lắp cửa ngõ đàng hoàng (tức là Tuần Triệt, Thiên Không) thì căn nhà yên ổn biết bao. Tôi đã được xem nhiều Lá số vô chính diệu, có người bị thăng trầm luôn luôn nhưng gặp hoàn cảnh nào cũng thích ứng được rồi dần dần ổn định. II- NHỮNG ĐIỂM PHỨC TẠP VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU Tôi có thâu thập được khá nhiều điểm phức tạp về cách giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu, nhưng chỉ xin nêu ra những điểm chính và quan trọng (tôi không nhắc lại những điểm đã bàn tới trên KHHB) để qúy bạn đỡ bị lúng túng khi quyết đoán:
1) Đắc Tam Không Thường thường các nhà tử vi đều chê rằng Mệnh Vô chính diệu chỉ tốt khi đắc tam Không (tức là có Tuần, Triệt, Địa không hoặc Thiên không tôi không bàn chứ “Không” ứng cho những sao nào kể trên vì có vị không công nhận Tuần là “Không”, có vị lại bảo rằng Thiên Không mới không phải là “Không” nhưng chưa có ai chứng minh được hợp lý), và cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử vi chỉ nam) có nêu ra thêm là mạng Hỏa và Kim mới hợp với cách này nhất. Điểm này chỉ đúng khi đương số là con một, mà tôi đã bàn trên KHHB rồi. Ngoài ra, quý bạn còn phải phân biệt như sau: -Nếu mạng có nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ mà có một Không án ngữ và hai Không chiếu về thì đừng nên ham cách “Đắc tam không” nữa vì các trung tinh bị mất hiệu lực. Trong trường hợp này chỉ nên có Tam không ở 3 phương chiếu về là hơn, nếu không thì chẳng cần đủ 3 Không mới khỏi tai hại cho Mệnh. -Khi nào Mệnh không chính tinh mà chỉ có toàn bại tinh hoặc bàng tinh không quan trọng mới cần có một “Không” án ngữ, nhưng lại có điểm thiệt thòi là các cách hay ở bên ngoài khó bổ túc cho Mệnh vì bị “Không” ngăn trở, thành ra chưa hẳn là hoàn toàn có lợi. Về trường hợp này nhiều vị cho rằng nên có Thiên không hoặc Địa không hơn là Tuần, Triệt vì hai sao Thiên Địa Không không ngăn trở sự xâm nhập hoặc ảnh hưởng của các sao bên ngoài.
2) Không đắc Tam Không -Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu không đắc Tam Không, tức là chỉ có Nhất, Nhị Không (ít khi không đắc Không nào) chưa hẳn là kém Tam Không và cũng không ngại “phi yểu tắc bần”, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.Chỉ có điểm cần nhất là cung Phúc Đức không được xấu vì Mệnh yếu sẵn rồi phải nhờ vào cung “gốc” là cung Phúc Đức để tránh vấn đề kém thọ trước đã rồi mới tính đến công danh, sự nghiệp qua các cung hợp chiếu và đại hạn. Tôi đã được xem nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu chỉ có đắc Nhất Không mà vẫn phú quý và chẳng hề chết non, nhưng những lá số này không có cái nào có cung Phúc Đức xấu.
3) Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa Cách này chắc nhiều bạn đã biết và nhiều nhà tử vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều : – Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (như: Địa Kiếp, Hỏa Linh, Phục Binh…) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình, như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã. – Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi. – Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Hư để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiều sâu cho mặt trời, mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được.
4) Đại tiểu hạn Đối với Mệnh Vô chính diệu, việc giải đoán Đại tiểu hạn khác hẳn đối với Mệnh có chính tinh thủ Mệnh. Vì Mệnh vô chính diệu có khả năng hấp thụ đủ mọi cách, từ cách Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng lương cho đến cách Sát Phá Liêm Tham cùng với hung tinh đắc địa, chẳng bao giờ không ”ăn khớp” với các cách này. Tuy nhiên, chỉ ngại đi đến Đại tiểu hạn cũng Vô chính diệu lại không có Không nào thì khác nào một cái nhà trống, không cửa ngõ lại ở trên một khu vực “đồng không mông quạnh”, làm sao chống lại được mưa gió hoặc bị ảnh hưởng của bên ngoài, như thế tức là làm ăn thất bại dễ dàng, sự nghiệp suy sụp mạnh mẽ. Qua những điểm tôi trình bày trên đây, chắc hẳn qúy bạn đều nhận thấy rằng dù sao người có Mệnh Vô chính diệu vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi, nhất là đối với ai ham công danh, quyền chức lớn, mặc dù họ có nhiều tài năng đôi khi xuất chúng, nhưng tài để phục vụ cho kẻ khác (nhiều khi kém mình) thì tưởng cũng là điều không hấp dẫn.Chỉ đối với ai có đầu óc triết lý, ưa sống về tinh thần, ưa nghiên cứu về lý số, biết an phận thời may ra mới hợp cách Mệnh Vô chính diệu, dù đắc Tam Không hay Không.
KHHB số 74C2 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Trẻ em vốn được xem là những thiên thần nhỏ được mọi người yêu mến. Em bé còn là biểu tượng cho sự trong sáng, dễ bị tổn thương, không có khả năng tự bảo vệ. Nếu một em bé xuất hiện trong giấc mơ của mình, thì hình ảnh này biểu tượng cho những khởi đ
Lưu ý: Tuy ở thế thượng phong nhưng làm việc gì người tuổi Dậu cũng nên thận trọng, không nên tỏ vẻ kiêu ngạo, tự mãn sẽ bị kẻ tiểu nhân ghen ghét, đố kị và tìm cách hãm hại.
Lưu ý: Người tuổi Ngọ nên dành thời gian cân bằng các mối quan hệ xã giao, hãy nối lại sợi dây liên lạc với bạn bè, đồng nghiệp cũ, họ chính là quý nhân phù trợ cho bạn.
Lưu ý: Trong tháng này, mọi phương diện của người tuổi Mùi đều không thuận lợi, vì thế làm việc gì cũng cần suy tính kĩ càng, hạn chế rủi ro xảy ra gây hao tốn tiền bạc.
Lưu ý: Mặt tình cảm và tài vận của người tuổi Hợi gặp khá nhiều trở ngại trong tháng 12 này. Bạn nên chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận những bất ngờ xảy tới. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ lạc quan, tích cực, bản thân bạn sẽ thay đổi phần nào cục diện đó. No3. Người tuổi Thìn
Lưu ý: Đối lập với người tuổi Hợi, trong tháng này phương diện tình cảm và tài vận của người tuổi Thìn có xu hướng tăng nhưng cần đề phòng kẻ tiểu nhân quấy phá, buông lời rèm pha.
Chọn Phật châu hợp ngũ hành không chỉ làm hưng vượng vận thế mà còn mang tới phúc khí, tự tích phúc cầu may cho bản thân.
Ngàn năm truyền lại, Phật châu (chuỗi tràng hạt để niệm Phật) có thể dùng làm đồ trang sức mang bên người với ý nghĩa bảo hộ bình an, tham thiền ngộ đạo mà tu dưỡng tinh thần cùng nhân phẩm.Không chỉ có ý nghĩa tôn giáo tâm linh mà vật này còn chứa đựng hàm nghĩa phong thủy. Loại Phật châu hợp ngũ hành, hợp màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ có thể tăng cường vận thế, thúc đẩy may mắn cho bản mệnh. 1. Người mệnh Thủy – Phật châu hắc diệu thạch
Thủy trong ngũ hành có màu tượng trưng là đen, phương vị Bắc. Người mệnh Thủy hoặc ngũ hành khuyết Thủy nên đeo Phật châu hoặc tượng Phật làm bằng hắc diệu thạch hoặc hắc mã não để hấp thu năng lượng, trừ tà, bảo hộ bình an, giải trừ bệnh tật, tăng cường vận khí.Ngũ hành khuyết Thủy thì thường dễ áp lực, nhiều thị phi, tâm phiền ý loạn nên đeo vật phẩm phong thủy tốt lành này để cân bằng cảm xúc. 2. Người mệnh Mộc – Phật châu ngọc bích
Mộc trong ngũ hành có màu tượng trưng là xanh lá. Người mệnh Mộc hoặc ngũ hành khuyết Mộc nên thỉnh Phật châu bằng ngọc bích để bổ sung trường khí, bảo hộ bình an.Người ngũ hành khuyết Mộc thì gan thận không tốt, xuất hiện vấn đề về tài vận, nhất là trong những lĩnh vực đầu tư phiêu lưu nên dụng vật phẩm trên để chiêu tài dưỡng thân.Con giáp nào có khả năng phát tài chỉ sau một đêm? – Những chú Trâu chăm chỉ, cần mẫn, luôn muốn dựa vào sức mình để bay cao bay xa trên con đường công danh, sự nghiệp. Với họ, mọi thành công, 3. Người mệnh Hỏa – Phật châu thạch lựu Màu đỏ đại biểu cho ngũ hành Hỏa, màu tím tượng trưng cho bầu trời nơi Hỏa thần tại vị nên cũng tượng trưng cho ngũ hành Hỏa, tốt nhất là dùng Phật châu làm từ đá thạch lựu để cầu may, cầu an, bồi dưỡng Hỏa khí.Người ngũ hành khuyết Hỏa thường gặp nhiều tâm sự như vợ chồng bất hòa, công tác trở ngại, tình yêu không thuận,… Thỉnh Phật châu mã não hoặc Phật châu thạch lựu về dùng để cân bằng ngũ hành, giải tỏa tinh thần, chiêu tài đổi vận.4. Người mệnh Kim – Phật châu xà cừ
Ngũ hành Kim lấy màu trắng làm đại diện, dùng Phật châu xà cừ vừa dưỡng sinh vừa dưỡng tâm, có công hiệu rất mạnh trong việc giải trừ hung hiểm, tiễu trừ tai nạn.Người ngũ hành thiếu Kim thì bị động, sự tình tiến triển không thuận lợi, chuyện tình cảm không rõ ràng, còn mắc nhiều bệnh. Đeo Phật châu xà cừ sẽ ổn định cảm xúc, giải trừ tạp niệm, đặc biệt tốt với người cao huyết áp.5. Người mệnh Thổ - sáp ong
Ngũ hành Thổ lấy màu vàng làm biểu tượng, đại diện cho sự khiêm tốn và tôn quý, thích hợp nhất với Phật châu sáp ong. Người ngũ hành khuyết Thổ thì tự tôn cao, quan hệ xã giao không thuận, khắc khẩu. Có Phật châu sáp ong trợ giúp bên mình sẽ ổn định tâm tính, giảm bớt áp lực, cải thiện giáo tiếp.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Chia tay là quyết định không dễ dàng, với tính cách của 12 chòm sao, cần bao lâu để họ đưa ra sự lựa chọn khó khăn đó?
Cùng xem 12 cung hoàng đạo đưa ra quyết định chia tay trong bao lâu nhé:
Bạch Dương: 1 tuầnLàm việc quyết đoán là tính cách bẩm sinh của Bạch Dương, nếu cảm thấy tình cảm không thể cứu vãn nổi, mâu thuẫn đôi bên không thể điều hòa, chòm sao này liền suy nghĩ rồi nhanh chóng ra quyết định chia tay trong 1 tuần. Bởi, càng kéo dài lâu càng lãng phí thời gian và thanh xuân của nhau.Kim Ngưu: 2 tuầnỔn trọng và kiên định, đối diện với chuyện tình cảm Kim Ngưu sẽ không đưa ra quyết định khinh suất. Trong 2 tuần, chòm sao này sẽ suy nghĩ kĩ càng, xem xét toàn diện vấn đề, không thể đừng được thì mới đi tới hồi kết.Song Tử: 10 ngàyCảm xúc biến hóa nhanh như gió, vui vẻ hay đau khổ chỉ trong nháy mắt nên trong tính cách của 12 chòm sao, Song Tử là khó lường nhất. Đối diện với tình yêu tan vỡ, họ bề ngoài lặng lẽ nhưng trong lòng giông bão, sau nhiều lần thay đi đổi lại, 10 ngày sẽ dứt khoát chấm dứt.Cự Giải: Vĩnh viễnChòm sao đa cảm này sẽ mãi mãi không thể ra quyết định cắt đứt với tình yêu mà họ một lòng một dạ, nên cứ dùng dằng mãi cho tới khi đối phương chủ động buông tay.Sư Tử: 1 tuầnTự tin và chủ động, Sư Tử đối với tình yêu là hết lòng hết dạ, nhiệt tình dạt dào, sẵn sàng trả giá cũng muốn đi tới cùng. Nhưng sự tình không như mong muốn thì họ cũng rất thẳng thắn, sau 1 tuần liền “đường ai nấy đi”.Xử Nữ: 3 thángKhông phải chòm sao quyết đoán nên Xử Nữ không thể nhanh chóng định hình tình cảm. Họ lại quá hoàn mĩ, sợ bỏ lỡ rồi mới hối hận nên đắn đo mãi 3 tháng sau mới dứt khoát được. Tính cách chuẩn cung Xử Nữ của chàng soái ca quân nhân Song Joong Ki Song Joong Ki đang là chàng “soái ca quân nhân” cực hot khi tham gia dự án phim truyền hình “Hậu duệ của Mặt Trời”. Cùng bật mí tính cách của Thiên Bình: 1 nămSự do dự là đặc điểm nổi bật nhất của những người cung Thiên Bình, vì thế cũng dễ hiểu khi họ mất tới 1 năm để nâng lên đặt xuống mối quan hệ trước khi quyết định chia tay. Thiên Yết: nửa nămThâm tình và cố chấp, Thiên Yết bề ngoài lạnh lùng nhưng nội tâm bùng cháy cần một khoảng thời gian đáng kể để tiễn biệt quá khứ. Nhân Mã: 10 ngàyCá tính của Nhân Mã nhìn qua thì tiêu sái, phóng khoáng nhưng thật sự lại nhạy cảm và chân tình. Tình yêu phai nhạt, 10 ngày đắn đo rồi nói lời chia tay nhưng phải rất lâu sau họ mới thực sự quên được.Ma Kết: 1 thángNgười lý tính như Ma Kết nhất kiến chung tình, không vì một phút xúc động nhất thời mà đưa ra lời chia tay. Nhất định là họ đã nghĩ ngợi và suy xét cẩn thận tới 1 tháng, không có gì luyến tiếc nữa mới hạ quyết tâm.
Thủy Bình: 1 tuầnYêu một người đối với Thủy Bình chính là cảm giác trái tim loạn nhịp, nguyện lòng nguyện ý theo người đó. Đến một ngày, không còn tìm được điều đó nữa thì sẽ dứt khoát tạm biệt nhau thôi. Song Ngư: 2 nămTâm tư nhạy cảm và yếu đuối, tình yêu với Song Ngư là một giấc mộng dài không muốn tỉnh nên dù có chuyện gì xảy ra, họ cũng phải mất một khoảng thời gian rất dài mới có thể tỉnh mộng, đối diện với hiện thực đau lòng.Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng. Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở.
Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền . Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp.
Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên. Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão.
Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng.
Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng. Bạn có thể tham khảo một số điều dưới đây trong khi lựa chọn tên cho con.
Tên đem lại nhiều may mắn cho bé trai sinh năm Bính Thân 2016:
Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp. Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy tương sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.
Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…
Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc rất thích hợp cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.
Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…
Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…
Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.
Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn.
Tên hợp phong thuỷ cho bé trai, bé gái sinh năm 2016:
Tên có các bộ thủ Tý, Thìn và Thủy: Tuổi Thân sẽ nằm trong tam hợp với Tý, Thìn. Do đó nếu tên bé cũng có các bộ thủ Tý, Thìn thì vận mệnh sẽ rất tốt đẹp. Cũng vậy, người sinh tuổi Thân thuộc hành Kim nên tương sinh với Thủy. Vì thế, những tên có bộ Thủy sẽ tốt cho bé.
Như vậy, bạn có thể tham khảo những cái tên hợp vận với bé như sau: Nguyên, Hải, Băng, Giang, Tuyền, Khánh, Chân, Học, Nông, Thìn, Giá, Lệ, Tân, Hồ, Cầu, Lân…
Tên có bộ Mộc: Do khỉ rất thích leo cây và thường sống trong những cánh rừng rậm rạp cây cối nên những cái tên có bộ Mộc cũng sẽ rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.
Những cái tên mang bộ Mộc có thể kể đến như: Lương, Dương, Đào, Liễu, Tùng, Đỗ, Đông, Tài, Bản,… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người tuổi Thân đồng thời cũng thuộc hành Kim, mà Kim lại khắc Mộc nên khi đặt những cái tên liên quan đến bộ Mộc cũng cần phải thận trọng.
Tên có bộ Miên, Mịch: Từ xa xưa, khỉ cũng thường sống bầy đàn trong những cái hang nên những bộ thủ Miên, Mịch với hình dáng tượng hình gợi nhớ đến những cái hang khỉ cũng rất hợp để dùng đặt tên cho người tuổi Thân với ước muốn cầu mong người này có cuộc sống an nhàn. Theo đó, có thể kể đến những cái tên như: Đài, Thiện, Dung, Bảo, Đường, Gia, Hòa, Tông, Quan, Nghi, Hoành, Hựu, Thực, An, Trình, Hướng, Quân, Tư, Sử, Trung, Quân…
Tên có bộ Nhân, Ngôn: Bởi khỉ là động vật có những hành động gần giống con người nhất nên bộ Nhân hoặc bộ Ngôn gợi nhớ đến khuôn miệng bắt chước của khỉ cũng được dùng để đặt tên cho người tuổi Thân. Có thể kể đến trong số đó những cái tên như: Nhân, Nhiệm, Mưu, Nghị, Nghi, Giới, Đại, Kim, Huấn, Trọng, Ngữ, Thành, Cảnh, Tín, Hà, Bảo…
Tên có bộ Vương: Do truyền thuyết gắn với loài khỉ luôn thấy khỉ xưng thành Hầu Vương nên những chữ thuộc bộ Vương cũng được cho là đem lại may mắn, sung túc cho người tuổi Thân. Những cái tên có thể kể đến như: Dao, Cầm, Ngọc, Cửu, Linh, Cầu, San, Anh, Lâm…
Tên có bộ Sam, Y, Mịch, Cân: Vẻ ngoài đẹp đẽ và linh lợi của khỉ rất thích hợp để mô tả bằng những bộ thủ như Y, Sam, Mịch, Cân. Do đó, những bộ này được đặt cho người tuổi Thân sẽ giúp họ cũng may mắn có được một vẻ ngoài đạo mạo, tuấn tú hay cao sang, quyền quý. Có thể kể đến những cái tên trong số này như: Hồng, Hình, Chương, Ảnh, Thị, Y, Sư, Dao, Ước, Thường, Bân, Lệ, Ngạn, Kinh, Duyên, Tố, Hi…
Những tên không nên đặt cho con sinh năm 2016:
Các chữ thuộc bộ Kim, Dậu, Đoài, Mãnh, Điểu, Nguyệt không phù hợp khi dùng để đặt tên cho người tuổi Thân, bởi những chữ đó đều chỉ phương Tây (thuộc hành Kim).
Theo ngũ hành, Thân thuộc hành Kim; nếu dùng những chữ thuộc các bộ trên để đặt tên cho người tuổi Thân sẽ khiến Kim tụ lại quá nhiều, dễ dẫn đến hình khắc và những điều không tốt. Theo đó, những chữ cần tránh gồm: Kim, Cẩm, Ngân, Xuyến, Nhuệ, Phong, Cương, Chung, Thoa, Trân, Trâm…
Khỉ thích phá hoại các loại ngũ cốc trên đồng ruộng. Vì vậy, những chữ thuộc bộ Hòa, Mạch, Tắc, Mễ, Điền, Cốc như: Do, Giới, Thân, Nam, Đương, Phan, Khoa, Thu, Đạo, Chủng, Tùng, Tú, Bỉnh, Đường, Tinh, Lương, Lượng… không nên dùng để đặt tên cho người tuổi Thân.
Dần và Thân xung nhau, Thân và Hợi (Trư) thuộc lục hại. Do vậy, khi chọn tên cho người tuổi Thân, bạn cần tránh những chữ có liên quan tới các con giáp trên. Vì dụ như: Dần, Xứ, Hổ, Báo, Lư, Hiệu, Hợi, Tượng, Gia, Duyên, Hào, Mạo…
Những chữ thuộc bộ Khẩu cũng nên tránh ví dụ như: Huynh, Cát, Hòa… vì mang ý nghĩa bị kìm hãm. Các chữ như Quân, Tướng, Đao, Lực cũng nên tránh khi đặt tên cho người tuổi Thân.
Để đặt tên cho con tuổi Thân, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về Bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.
Sau khi người Trung Quốc cổ đại phát hiện chất của thời gian, liền đó họ lại nảy sinh ra một nghi vấn mới. Vậy vấn đề chất của thời gian rốt cuộc có ảnh hưởng gì tới đời sống, tư chất tính cách của mỗi con người hay không? Họ liền ngược thời gian hà
ng trăm, hàng ngàn năm, tìm tới thời điểm của các cuộc chiến tranh, những năm được mùa, mất mùa, địa chấn, lụt lội để tìm hiểu, tính toán và cuối cùng đã phát hiện ra những sự kiện trên đều xảy ra theo một chu kỳ nhất định của nó.
Đồng thời, họ cũng dần phát hiện thấy tính cách chung của những người sinh ra trong cùng một năm.
Tuy mọi sinh vật trên địa cầu đều phải chịu ảnh hưởng bức xạ vũ trụ (bức xạ của các thiên thể), cộng thêm tác động của thời gian. Chỉ với hai điểm này, người ta có thể tính ra những người được sinh ra trong cùng một năm có những tính cách gì giống nhau. Cùng với sự phát triển của ngành thống kê học, các nhà khoa học chứng minh: Có quy luật về tính cách và vận mệnh con người do sự chi phối của quy luật tự nhiên.
Người Trung Quốc cổ đại đã sắp xếp Thiên can và Địa chi vào lịch, gọi những người sinh vào năm Tý là cầm tinh con chuột, năm Sửu là cầm tinh con trâu v.v… để hoàn thành hình tượng của mười hai con giáp như ngày nay. Mười hai con giáp xuất hiện sớm nhất trong Bát quái của Kinh dịch, đó là phương pháp phỏng sinh ghi năm còn gọi là cầm tinh con giáp. Dưới đây xin giới thiệu đôi nét cơ bản quan niệm của người phương Đông xưa về tính cách của con người theo các tuổi và sự sinh khắc giữa các tuổi theo Ngũ Hành Bát Quái.
1. Tuổi chuột
Vui vẻ, xởi lởi, dễ gần, dễ mến nhưng hay lo vặt vãnh nên cũng dễ cáu giận. Tự tin và tự trọng. Thích làm đẹp làm sang cho bản thân nhưng trong khuôn khổ cho phép. Tuổi Chuột hợp với các tuổi Khỉ, Rồng, Trâu, kỵ các tuổi Rắn, Chó và Lợn, đặc biệt tối kỵ tuổi Ngựa.
2. Tuổi trâu Là người nhẫn nại, ít lời, không hay khoe mẽ về mình dễ tranh thủ được sự giúp đỡ của người khác. Tính nóng và cục tính. Chăm làm, khéo tay và quyết đoán, không nhún nhường. Công việc đối với họ là chính, tình cảm là chuyện thứ yếu nên họ khó lấy vợ. Tuổi Trâu hợp với tuổi Chuột, tuổi Gà. Không nên lấy tuổi Chó và kỵ tuổi Lợn.
3. Tuổi Hổ Là người nhay cảm, đa tình có đời sống nội tâm cao. Tuổi hổ trọng người ít tuổi. Quả cảm, kiên trì nhưng có vẻ ích kỷ. Tuổi này dữ vía, ma quỷ cũng phải tránh đường, do đó người xưa thường cầu mong trong gia đình có người tuổi Hổ. Tuổi Hổ hợp duyên với tuổi Ngựa và Rồng, khắc tuổi Trâu, Rắn, Khỉ.
4. Tuổi Mèo: Là tuổi thành đạt, nhã nhặn, khiêm nhường, hiếu thảo và giao thiệp rộng. Đời nhiều may mắn nhưng hay ba hoa, ít cáu giận, dễ đi vào kinh doanh buôn bán. Chăm học, chăm đọc sách song ít tài năng đặc biệt. Rộng rãi trong giao tiếp song bảo thủ, so đo. Hợp với tuổi Chó, Dê, Lợn, khắc với tuổi Chuột, Gà và không hợp tuổi Rồng.
5. Tuổi Rồng: Khỏe mạnh, năng nổ, xốc vác, dễ bị kích động, nói năng không thận trọng. Vừa ngang tàn vừa độ lượng dễ giàu và dễ có tiếng, dễ bị lôi kéo vào việc xấu. Tuổi này về già thì nhàn. Nên lấy người tuổi Chuột, Rắn, Khỉ, Gà. Tránh tuổi Rồng, Trâu, Chó.
6. Tuổỉ Rắn: Khôn ngoan, có ý chí, gặp may nhiều và dễ thành đạt. Thích lòe loẹt, phô trương nhưng ích kỷ và keo kiệt, đa nghi. Họ rất thích khen nịnh lãng mạn. Phụ nữ tuổi Tỵ thường xinh đẹp “mỹ nhân tuổi Tỵ”. Họ hợp tuổi Trâu, Gà, xung khắc với tuổi Hổ, Lợn.
7. Tuổi Ngựa: Vui tính, nói nhiều, dễ nổi tiếng và dễ được cảm tình. Giỏi kinh doanh, giỏi đoán ý đồ của người khác để “lựa lời mà nói”. Tuổi Ngựa nhiều tài nhưng khó tính, cầu kỳ trong ăn mặc, cầu toàn trong công việc nên họ coi tình yêu là thứ yếu. Họ hợp với tuổi Hổ, tuổi Chó, tuổi Dê. Kỵ tuổi Chuột
8. Tuổi Dê:
Nhạy bén, tinh tế, nhiệt tình nhưng dễ thất vọng, bi quan. Cuộc đời ít gặp may. Đời sống vật chất tạm ổn.
Họ hợp với tuổi Mèo, Lợn, Ngựa, không hợp tuổi Chuột, Chó, Trâu.
9. Tuổi Khỉ:
Thông minh, hiểu nhiều, biết rộng nhưng không để tâm nhiều đến công việc. Nhớ thì làm, quên thì cho qua luôn mặc dù khi xử lý công việc thì khá nhanh. Dễ hòa nhập, quảng giao, trí nhớ tốt. Đường nhân duyên không lấy gì làm may mắn. Gặp tuổi Chuột hoặc tuổi Rồng thì tốt, gặp tuổi Lợn, Rắn thì kém may mắn, gặp tuổi Hổ thì không tốt.
10. Tuổi Gà:
Tuổi bận rộn, lo toan, tham công tiếc việc, việc gì cũng muốn làm, dễ bi quan, thất vọng. Thích hoạt động xã hội. Tự tin nhưng lại ít tin người. Luôn luôn tỏ ra viển vông, kỳ cục. Tiêu pha hoang toàng nhưng thực thà trọng nghĩa. Hợp người tuổi Trâu, Rắn, Rồng. Tránh Tuổi Gà, Chuột, Chó. Kỵ nhất tuổi Mèo.
11. Tuổi Chó:
Ngay thẳng, chân thành, biết mình, biết người, có đức tin và có độ tin cậy cao. Tuổi Chó ít giao du, sống kín đáo, bướng bỉnh, thẳng thắn, giỏi quản lý, giỏi hoạt động xã hội. Họ hợp tuổi Hổ, Mèo, Ngựa, không hợp tuổi Trâu, Gà, kỵ nhất tuổi Rồng, Dê.
12. Tuổi Lợn:
Kiên định, kiên trì, cuộc đời tuổi lợn mang tính mục đích rõ rệt. ít bạn nhưng có tình, sẵn sàng hy sinh vì bạn, ít nói nhưng kín đáo. Tuổi Lợn không thích cãi vã. Đường tình duyên không thuận. Họ hợp tuổi Mèo, Dê, tránh tuổi Khỉ, đại kỵ tuổi Rắn.
Mười hai con giáp là do người phương Đông xưa nghĩ ra, nhưng trải qua mấy nghìn năm lịch sử đã trở thành dấu ấn không phai trong tâm lý, tình cảm của con người. Hiện tượng văn hoá mười hai con giáp không chỉ ảnh hưởng tới một con người mà còn ảnh hưởng tới tâm lý, khí chất, nếp nghĩ, phong tục, tập quán của cả một cộng đồng, một dân tộc và trở thành nét văn hoá rất riêng của phương Đông.
Lai long là hướng long mạch đến. Muốn xác định được long mạch để chọn đất tốt, phải xác định được lai long chính xác. Dưới đây là 60 thấu địa long dùng xem lai
► Tham khảo thêm: Xem tuổi làm nhà hợp phong thủy và mệnh gia chủ
24 sơn chia làm 12 phân vị, cứ hai cung liền nhau làm một phân vị, bắt đầu từ Nhâm, mỗi phân vị 30 độ chia ra 5 phần, mỗi phần 6 độ, như vậy mỗi phân vị 2 cung quản 5 long, 12 phân vị quản 60 long mạch. 5 long tại phân vị Nhâm Tý: Giáp Tý, Bính tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý. 5 long tại phân vị Quý Sửu: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu, Quý Sửu. 5 long tại phân vị Cấn Dần: Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, Nhâm Dần, Giáp Dần. 5 long tại phân vị Giáp Mão: Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão, Ất Mão. Các phân vị còn lại của long mạch cũng bố trí như trên theo quy luật: số can sẽ thuận theo thứ tự Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, hết một vòng lại quay lại. Chi thì theo chi tại cung vị đó. Như vậy Giáp Tý khởi đầu ở Nhâm Tý, đến Ất Sửu khởi đầu ở Quý Sửu, đến Bính Dần khởi đầu ở Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Ất Hợi. Đây là vòng Giáp Tý. Đến Bính Tý khởi vòng 2 Nhâm Tý, đến Đinh Sửu khởi vòng 2 Quý Sửu, đến Mậu Dần khởi vòng 2 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Đinh Hợi. Đây là vòng Bính Tý. Đến Mậu Tý khởi vòng 3 Nhâm Tý, đến Kỷ Sửu khởi vòng 3 Quý Sửu, đến Canh Dần khởi vòng 3 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Kỷ Hợi.Đây là vòng Mậu Tý. Đến Canh Tý khởi vòng 4 Nhâm Tý, đến Tân Sửu khởi vòng 4 Quý Sửu, đến Nhâm Dần khởi vòng 4 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Tân Hợi. Đây là vòng Canh Tý. Đến Nhâm Tý khởi vòng cuối Nhâm Tý, đến Quý Sửu khởi vòng cuối Quý Sửu, đến Giáp Dần khởi vòng cuối Cấn Dần… đến Càn Hợi là Quý Hợi. Đây là vòng Nhâm Tý. Vòng Giáp Tý là Cô bại khí Vòng Nhâm Tý là Hư bại khí Vòng Mậu Tý là Sát diệu Không vong tuyệt khí Vòng Bính Tý là Vượng khí Vòng Canh Tý là Tướng khí Phân kim chỉ nên chọn Vượng và Tướng. Tránh Cô và Hư vì dù là huyệt tốt lâu ngày sẽ tuyệt tự. Tránh Sát diệu Không vong vì sát khí mạnh. Như vậy, cũng như 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa thực chất chỉ có 24 long của vòng Bính Tý và Canh Tý là tốt mà thôi, 36 long còn lại là bại tuyệt cả. Dựa vào lai long như trên có thể chọn cuộc đất tốt, phát long mạch thì vượng khí ngôi nhà hoặc huyệt mộ sẽ phát. Lai long khó xem như long mạch, nên tốt nhất là dựa vào các kiến thức cơ bản trên, rồi mời thầy đến xem cho chuẩn xác. ST
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ, những hậu quả mà nó mang lại cho chính ta và những người xung quanh ta.
Là một con người thì phải biết nghĩ, biết vận dụng trí óc và quyết định công việc đúng đắn. Chứ đừng làm xong rồi mới suy nghĩ, hối hận, lúc đó thì đã quá muộn.
Có những việc không cân nhắc kỹ mà đã làm rỗi thĩ khi đó hối hận cũng không còn có ích gì nữa. Có thể bạn hối hận cả đời người vẫn chưa thể bù đắp được. Và hãy rút kinh nghiệm và triết lý cho những việc làm sai trái trước đây của mình.
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng sẽ là những câu danh ngôn hay cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta suy ngẫm.
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
1. Người khăng khăng muốn thấy rõ mọi thứ trước khi quyết định sẽ chẳng bao giờ quyết định. Chấp nhận cuộc sống, và bạn phải chấp nhận sự hối hận.
2. Hối hận, quả trứng chết người mà lạc thú sản sinh.
3. Vinh quang xây trên nền ích kỷ là hối hận và xấu hổ.
4. Sự hối hận sau một cuộc chiến không cần thiết rất lớn.
5. Nhiệt tình là một tật bệnh thường mắc phải của tuổi trẻ. Bên trong nhỏ một ít thuốc hối hận, bên ngoài bôi một ít thuốc cao kinh nghiệm thì sẽ trị khỏi ngay.
6. Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều thêm hối hận, im lặng là nghệ thuật lớn lao của cuộc đàm thoại.
7. Ai cũng có sai lầm, nhưng người ít khinh suất nhất là người mau hối lỗi nhất.
8. Đừng làm gì mình sẽ thấy hối tiếc.
9. Sự hối hận ngủ ngon trong thịnh vượng nhưng gọi dậy ý thức cay đắng trong khó khăn.
10. Một người chỉ có lý do để hối tiếc khi anh ta gieo hạt và không ai gặt.
Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để rút ra những kinh nghiệm, triết lý sống cho mình nhé.
Kiến thức phong thủy. Cách đặt két sắt kinh doanh phát đạt –
Theo kiến thức phong thủy, cách đặt két sắt là vô cùng quan trọng trong đường tài lộc của bạn. Tỳ Hưu khi đặt lên két sắt, … Theo kiến thức phong thủy, vị trí đặt két sắt là vô cùng quan trọng trong đường tài lộc của bạn, vì vậy hãy đặt sao cho đúng
Theo kiến thức phong thủy, cách đặt két sắt là vô cùng quan trọng trong đường tài lộc của bạn. Tỳ Hưu khi đặt lên két sắt, …
Theo kiến thức phong thủy, vị trí đặt két sắt là vô cùng quan trọng trong đường tài lộc của bạn, vì vậy hãy đặt sao cho đúng chỗ.
Theo quan niệm phong thủy, tủ tiền (két sắt) có nguồn năng lượng lớn, là trung tâm tài lộc quyết định sự sống còn cho gia chủ nên vị trí đặt két sắt đúng phong thủy là điều rất quan trọng.
Xét theo phương vị, có nhiều ý kiến cho rằng két sắt đặt ở hướng Đông Nam, hướng Tây là rất tốt vì hai hướng này là hai phương hướng mạnh nhất cho tài vượng.
Tuy nhiên, nếu xét về chiều sâu thì nên để về hướng Sinh Khí của từng tuổi của gia chủ là tốt nhất. Vì theo trạch mệnh của mỗi người cũng đã quyết định một cách rõ ràng không thể sai lệch được, nó là yếu tố quyết định theo Bát trạch, trạch mệnh từng con người. Nếu hướng Sinh khí của gia chủ đồng thời thuộc về Đông tứ trạch hoặc Tây tứ trạch thì quá tuyệt vời.
Ví dụ: tuổi nam 1985 hướng Sinh khí là hướng Tây, không những hợp hướng nhà mà còn hợp hướng để két sắt. Hoặc nam tuổi 1972 trạch Khảm mà ở hướng Đông Nam thì không còn gì để mà bàn luận thêm. Để chắc chắn hơn, gia chủ có thể mời thầy phong thủy để xác định được vị trí tốt nhất trong ngôi nhà để đặt két sắt.
Thêm một gợi ý là gia chủ nên đặt thêm 1 con Tỳ Hưu hoặc Thiềm Thừ và 2 đồng tiền hoa mai trên và trong két tiền sẽ mang lại tiền tài bất ngờ.
Tỳ hưu
Theo kinh nghiệm hàng ngàn năm của các đại sư phong thủy Trung quốc, Tỳ Hưu là một loại mãnh thú hung mãnh, nhưng lại là một loại mãnh thú mang ý nghĩa tốt lành. Theo truyền thuyết thì Tỳ Hưu là 1 loài thú có sừng, có bờm uốn cong rất dài nên còn có tên gọi là “hươu trời”. Hai cái sừng của nó có tác dụng trừ tà, về sau nó có xu hướng phát triển thành con thú một sừng. Người ta nói rằng Tỳ hưu có tác dụng hút tài lộc bốn phương về cho gia chủ. Tỳ Hưu khi đặt lên két sắt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính,hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương.
Thiềm Thừ
Tương truyền rằng, Thiềm Thừ vốn là yêu tinh xấu, được Lưu Hải Tiên Ông thu phục, cải tà quy chính, tỏa đi muôn ngả giúp đỡ người nghèo khổ bằng cách nhả tiền cho họ. Thiềm Thừ xuất hiện vào đêm trăng tròn ở gần nhà ai, thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Vì vậy, Thiềm Thừ được người đời tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài. Khi để Thiềm Thừ trên nóc két sắt, bạn cần chú ý hướng phần đầu của Thiềm Thừ vào trong nhà, cũng không nên đặt đối diện với cửa mà nên đặt hướng theo đường chéo cửa ra vào.
Đồng tiền hoa mai
Đồng tiền có năm cánh, giống bông hoa mai. Có tác dụng rất lớn trong con đường công danh, sự nghiệp góp phần làm thăng quan tiến chức và hóa giải kẻ tiểu nhân.
Đường này hướng từ Gò Sao Thủy (Thủy tinh) chạy về đường sinh mệnh (đường sống). Đường này hiếm nhưng là một đường hỗ trợ cho cuộc sông của người có nó. Đường chỉ này nói lên điều bết hạnh đa phần. Nó trái ngược đường định mệnh - may mắn. Vì vậy ai k