Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Thiết kế đặt gara hợp phong thủy và hài hòa với toàn bộ căn nhà như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp tháo gỡ khúc mắc ấy.
Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay nhiều hộ gia đình đi lại bằng ôtô riêng nên việc xây gara trong nhà không còn xa lạ. Thiết kế đặt gara hợp phong thủy và hài hòa với toàn bộ căn nhà như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp tháo gỡ khúc mắc ấy.

Mach ban huong tot nen dat dat gara hinh anh
 
Làm gara nên cân nhắc đến diện tích sao cho tương xứng với quy mô nhà ở. Nếu nhà có nhiều tầng và cần khu vực để xe rộng, thì làm gara sẽ đắc lợi. Trường hợp không quá cần thiết hoặc không thể đào xuống sâu, thì nên làm hầm theo dạng như một tầng trệt có chiều cao thấp, từ ngoài vào gặp cầu thang dẫn thẳng lên tầng lửng để vừa giảm chi phí làm móng bè cho gara, vừa dễ giải quyết các yếu tố thông thoáng chiếu sáng.
 
Nếu nhà làm theo kiểu lệch tầng, có thể đặt bếp ở phía sau cao hơn gara mà thấp hơn phòng khách, phía trước dùng để đỗ xe và làm lối vào, phía sau làm hồ nước ngầm hoặc máy phát điện. Cách làm này tạo thế trước thấp sau cao, phù hợp với nguyên tắc phong thủy truyền thống là nhà có điểm tựa vững vàng phía sau.
 
Nhà xây tại vùng đất yếu, gara đồng thời là một mảng móng bè, giúp chống thấm ngược, tránh được tình trạng lún không đều nếu làm móng theo kiểu độc lập.
 
Xe hơi trong hình tượng Bát Quái thuộc về quẻ Càn. Bát Sát Cung Vị thì Càn sợ nhất gặp Ngọ (chính Nam) bởi thế không nên đặt nhà xe ở chính Nam, cửa cũng không nên hướng về chính Nam. Nên dùng Tây Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc thì tốt.
 
Vị trí đặt gara hợp phong thủy nhất là Đông Bắc vì Đông Bắc từ năm 2004 là bắt đầu vào Vận 8 Bạch Cát Tinh, 8 Bạch lại nguyên gốc ở quẻ Cấn Đông Bắc nên tốt. Hơn nữa Càn (xe hơi) phối với Cấn là Thiên Y Cát Tinh rất tốt.
 
Theo Phi Tinh Huyền Không Cát Hung thì nên chọn phương vị đặt gara có Sơn Tinh là Nhị Hắc, Nhất Bạch, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch là được, còn tránh nhất là Ngũ Hoàng, Cửu Tử. Nếu xét theo Tổ Hợp Sơn Hướng Phi Tinh thì các Tổ Hợp 15, 25, 23, 35, 99, 79, 57, 45 là dễ xảy ra họa Huyết Quang, nên tránh xa.
 
Không nên đặt nhà cũng như nhà xe nằm trên tuyến Đại Không Vong (Hợi Nhâm, Quý Sửu, Dần Giáp, Ất Thìn, Đinh Mùi, Thân Canh, Tân Tuất) dễ bị sự cố giao thông.
 
Không nên đặt nhà xe ngay cạnh hoặc phía trước chỗ ở của chủ nhà hoặc giám đốc (đối với văn phòng công ty) sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe chủ nhân.
 
Tránh đặt chỗ phương vị xung với tuổi chủ xe (như chủ tuổi Tý không đặt nhà xe ở Ngọ (Nam), tuổi Sửu không đặt tại Mùi (Tây Nam)…..Tránh xung mệnh Cách (như hỷ dụng Thần là Ất Mộc thì tránh dùng Tân Sơn).
 
Xe máy phân khối lớn thuộc quẻ Chấn, kỵ mở cửa hướng Thân (Tây Nam ghé Nam).
► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mách bạn hướng tốt nên đặt đặt gara hợp phong thủy

Tuổi Sửu hợp với tuổi gì –

Tuổi Sửu (con Trâu) - Là con bò mộng trong tiệm đồ sứ chớ không phải là con bò thường đâu! - Mặc dầu chậm chạp cứng chắc như thế, tuổi Trâu không phải là con bò sửa ngoài đồng. Con vật khỏe mạnh này sinh ra đã là bậc lãnh đạo, đáng tin cẩn, và có khả
Tuổi Sửu hợp với tuổi gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu hợp với tuổi gì –

Làm thế nào để phòng khách trở thành nơi nhân khí –

Phòng khách là bộ mặt của cả nhà và cũng là nơi mọi người trong nhà tụ tập trò chuyện, nghỉ ngơi, làm thế nào để tạo được không gian phòng khách ấm cúng để nó thực sự là nơi nhân khí của cả nhà? Dưới đây là một số ý kiến tham khảo: (1) Bước vào cửa l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách là bộ mặt của cả nhà và cũng là nơi mọi người trong nhà tụ tập trò chuyện, nghỉ ngơi, làm thế nào để tạo được không gian phòng khách ấm cúng để nó thực sự là nơi nhân khí của cả nhà? Dưới đây là một số ý kiến tham khảo:

bai-tri-phong-khach

(1) Bước vào cửa là gặp ngay phòng khách

Phòng khách là nơi tiếp đãi khách đến nhà, thiết kế đúng là khi bước vào nhà đã nhìn thấy ngay phòng khách, nếu như phải đi qua phòng ngủ hoặc phòng bếp rồi mới đến phòng khách sẽ khiến sự phân tách trong ngoài nhà không rõ ràng, sinh hoạt sẽ mất tính riêng tư, dễ gây sai sót nhầm lẫn trong công việc và nghề nghiệp.

(2) Phòng khách phải gọn gàng, sạch sẽ.

Phòng khách là nơi giao lưu với bên ngoài nên phải luôn giữ sạch sẽ, gọn gàng, tránh để rác bẩn tích tụ, bóng đèn hoặc đèn nếu bị cháy hay hỏng phải thay và sửa chữa ngay, có vậy mới tụ hội được tâm sức và tăng tài vận cho mọi người trong nhà.

(3) Đủ ánh sáng

Người xưa nói: “sảnh minh thất ám”. Nghĩa là, ánh sáng trong phòng khách phải đủ, không khí phải lưu thông. Vì thế, nếu năng lượng dương luôn xung mãn, chỉ số vận tốt sẽ tự nhiên tăng lên.

(4) Sắp xếp đồ dùng trong nhà hợp lý

Tủ rượu hoặc tủ đựng khác phải kê tựa sát vào tường; ghế đệm phải đặt đối diện với cửa ra vào hoặc ti vi, không được quay hứng ra cửa. Vì nếu để lưng ghế quay ra cửa sẽ làm cho mối quan hệ với mọi người không tốt, dễ bị kẻ xấu hoặc miệng lưỡi người khác làm hại. Ngoài ra, nếu có kẻ trộm vào nhà, khó có thể phản ứng nhanh được.

(5) Nền nhà phải vững chắc

Nền nhà phòng khách phải luôn chắc chắn. Bởi vì nền nhà tượng trưng cho nền móng của mình, một khi phát hiện bị hư hỏng phái sửa chữa ngay. Ngoài ra, nếu nền nhà làm bằng vật liệu gây cảm giác lạnh thì có thể dùng thảm phủ lên.

(6) Nên sử dụng ít bể cá

Chậu cây, bể cá về phong thủy có thế tạo ra vận tốt, tuy nhiên đừng bao giờ dùng quá nhiều, nếu không sẽ dễ làm cho không khí phòng khách ẩm thấp, ảnh hưởng đến vận thế.

(7) Độ cao tủ giầy dép phù hợp

Tủ giầy dép để cạnh cửa tốt nhất không nên cao bằng đoạn thắt lưng người lớn, bởi vì hàng ngày giầy dép bám dính nhiều đất cát bẩn, nó tượng trưng cho uế khí, uế khí này sẽ ảnh hưởng đến vận thế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào để phòng khách trở thành nơi nhân khí –

Phong thủy tên con –

Phong Thủy Ngũ Hành là cơ sở hàng đầu để các bậc cha mẹ tham khảo đặt tên cho con cái của mình giúp các bé có được con đường đời thuận lợi trong tương lai. Đặt tên cho con theo ngũ hành chính là tuân theo quy luật tương sinh, tương khắc. Con người là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thuộc mệnh trời, do đó cái tên cũng phải hợp với mệnh trời. Âm dương ngũ hành chính là các hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Đặt tên cho con theo ngũ hành năm 2014: tên theo Hành Kim

Hành Kim chỉ về mùa Thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim còn là vật dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh. Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn. Kim có thể là một món hàng xinh xắn và quý giá mà cũng có thể là đao kiếm.

Tích cực: Mạnh mẽ, có trực giác và lôi cuốn.
Tiêu cực: Cứng nhắc, sầu muộn và nghiêm nghị.

Danh sách tên cho con Thuộc Hành Kim bao gồm:

Đoan Ân Dạ Mỹ Ái
Nguyên Thắng Nhi Ngân Kính
Khanh Chung Điếu Nghĩa Câu
Xuyến Tiền Thiết Đĩnh Luyện
Hân Tâm Phong Vi Vân
Doãn Lục Phượng Thế Thăng
Nhâm Tâm Văn Kiến Hiện

dat-ten-con-theo-phong-thuy-2014

Đặt tên cho con theo ngũ hành: tên thuộc Hành Mộc

Mỗi bé có những ngày giờ và năm sinh khác nhau, do vậy khi đặt tên các bậc phụ huynh cũng phải cần lưu ý một số điều. Đối với những bé thuộc Hành Mộc. Bây giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.

Mộc chỉ mùa xuân, sự tăng trưởng và đời sống cây cỏ.
Tích cực: Có bản tính nghệ sỹ, làm việc nhiệt thành.
Tiêu cực: Thiếu kiên nhẫn, dễ nổi giận, thường bỏ ngang công việc.
Ngũ hành Đặt tên thuộc Hành Mộc

Tổng hợp tên cho con thuộc Hành Mộc

Khôi Tùng Hương Kiện Trà Bản Đà Thư
Lê Cúc Lan Bách Lam Lý Trượng Sửu
Nguyễn Quỳnh Huệ Xuân Lâm Hạnh Kỷ Phương
Đỗ Tòng Nhị Quý Giá Thôn Thúc Phần
Mai Thảo Bách Quan Lâu Chu Can Nam
Đào Liễu Lâm Quảng Sài Vu Đông Tích
Trúc Nhân Sâm Cung Vị Tiêu Chử Nha
Đệ Ba Nhạ Kỳ Thị Bính Giao Phúc
Phước Sa Hộ Chi Bình

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy hành Hỏa cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.

Đặt tên cho bé sinh năm 2014: tên thuộc hành Hỏa

Chúng ta sẽ tiếp tục đi tìm hiểu và lựa chọn những cái tên phù hợp cho các bé thuộc Hành Hỏa.

Khái niệm Hành Hỏa chỉ mùa hè, lửa và sức nóng. Hỏa có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự công bằng. Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính gây hấn và chiến tranh.

Tích cực: Người có óc canh tân, khôi hài và đam mê.
Tiêu cực: Nóng vội, lợi dụng người khác và không mấy quan tâm đến cảm xúc

Sau đây là các tên thuộc Hành Hỏa

Đan Thước Huy Đoạn Kim
Đài Lô Quang Dung Ly
Cẩm Huân Đăng Lưu Yên
Bội Hoán Hạ Cao Thiêu
Ánh Luyện Hồng Điểm Trần
Thanh Noãn Bính Tiết Hùng
Đức Ngọ Kháng Nhiên Hiệp
Thái Nhật Linh Nhiệt Huân
Dương Minh Huyền Chiếu Lãm
Thu Sáng Cẩn Nam Vĩ

Đặt tên cho con thuộc Hành Thủy

Con bạn sinh ra thuộc mệnh Hành Thủy? Bạn đang phân vân không biết lựa chọn cái tên nào sao cho phù hợp? Trước tiên để đặt tìm được một cái tên phù hợp cho con thì bạn cần biết Hành Thủy là gì?

Hành Thủy chỉ về mùa đông và nước nói chung, cơn mưa lất phất hay mưa bão. Chỉ bản ngã, nghệ thuật và vẻ đẹp. Thủy có liên quan đến mọi thứ. Khi tích cực, Thủy thể hiện tính nuôi dưỡng, hỗ trợ một cách hiểu biết. Khi tiêu cực, Thủy biểu hiện ở sự hao mòn và kiệt quệ. Kết hợp với cảm xúc, Thủy gợi cho thấy nỗi sợ hãi, sự lo lắng và stress.

Tên cho bé thuộc Hành Thủy

Tích cực: Có khuynh hướng nghệ thuật, thích kết bạn và biết cảm thông.
Tiêu cực: Nhạy cảm, mau thay đổi và gây phiền nhiễu.

Các tên hay cho bé thuộc Hành Thủy

Lệ Hồ Kiều Thương Quang Cương Đồng
Thủy Biển Tuyên Trọng Toàn Sáng Danh
Giang Trí Hoàn Luân Loan Khoáng Hậu
Hà Võ Giao Kiện Cung Vạn Lại
Sương Vũ Hợi Giới Hưng Hoa Lữ
Hải Bùi Dư Nhậm Quân Xá Lã
Khê Mãn Kháng Nhâm Băng Huyên Nga
Trạch Hàn Phục Triệu Quyết Tuyên Tín
Nhuận Thấp Phu Tiến Liệt Hợp Nhân
Băng Mặc Hội Tiên Lưu Hiệp Đoàn
Vu Di Vọng Uyên Nhung Khương Kỷ
Khuê Giáp Tự Đạo Hoàn Khanh Cấn
Tráng Như Tôn Khải Tịch Bách Quyết
Khoa Phi An Khánh Ngạn Bá Trinh

Cách đặt tên cho bé theo hành Thổ trong ngũ hành

Đặt tên con theo hành Thổ: Hành Thổ chỉ về môi trường ươm trồng, nuôi dưỡng và phát triển, nơi sinh ký tử quy của mọi sinh vật. Thổ nuôi dưỡng, hỗ trợ và tương tác với từng Hành khác. Khi tích cực, Thổ biểu thị lòng công bằng, trí khôn ngoan và bản năng; Khi tiêu cực, Thổ tạo ra sự ngột ngạt hoặc biểu thị tính hay lo về những khó khăn không tồn tại.

Tích cực: Trung thành, nhẫn nại và có thể tin cậy.
Tiêu cực: Có khuynh hướng thành kiến.

Sau đây là các tên thuộc hành thổ

Cát Kiệt Quân Kỳ Diệp Lập
Sơn Thạc Trung Cơ Đinh Thảo
Ngọc Trân Diệu Viên Vĩnh Huấn
Bảo Anh San Liệt Giáp Nghị
Châu Lạc Tự Kiên Thân Đặng
Châm Lý Địa Đại Bát Trưởng
Nghiễn Chân Nghiêm Bằng Bạch Long
Nham Côn Hoàng Công Thạch Độ
Bích Điền Thành Thông Hòa Khuê

Đặt tên theo ngũ hành cho con cũng không hẳn là một điều quá khó khăn đối với bạn. Tuy nhiên, các bạn cũng phải lưu ý sự linh hoạt khi đặt tên cho bé nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tên con –

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Các vị Phật độ mệnh được phân định theo tuổi, tức là căn cứ vào năm sinh của bạn để phân định, không thay đổi theo năm. Bất kỳ vị Phật nào độ mệnh, theo quan niệm dân gian, đều mang lại điều tốt lành cho bạn, ngầm bảo hộ bạn trong cuộc sống.
Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong sách "Pháp uyển châu lâm" có viết: "Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển, có mười hai loài thú, được Bồ tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ tát dặn những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích, nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra...".

Các vị Phật độ mệnh được phân định theo tuổi, tức là căn cứ vào ngày, tháng, năm sinh của bạn để phân định, không thay đổi theo năm. Bất kỳ vị Phật nào độ mệnh, theo quan niệm dân gian, đều mang lại điều tốt lành cho bạn, ngầm bảo hộ bạn trong cuộc sống. Mỗi Phật bản mệnh đều có rất nhiều công đức đặc thù khác nhau, tu hành theo Phật bản mệnh có thể đạt được những công đức tương ứng.

Vậy vị Phật nào độ mệnh cho bạn? Hày cùng lichvannien365 tìm hiểu nhé!

1. Tuổi Tý: Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn độ mệnh - vị thần tượng trưng cho sự nhân ái, từ bi.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn còn được gọi là Phật Nghìn Tay, nổi tiếng với hình tượng nghìn tay nghìn mắt, tượng trưng cho tấm lòng đại từ đại bi của ngài. Hình tượng mặt đeo thường thấy là phật ngồi trên đài sen, có nhiều tay,  6, 8, 14, 16 hoặc 18 tay… chia đều ra hai bên tay, trên mỗi tay có cầm một pháp khí uy lực vô song. Những tôn tượng lớn ta hay thấy trong chùa thường được thể hiện với nhiều cánh tay và nhiều mắt hơn.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Khi được Ngài độ mệnh,  Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận hạn, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải mọi khó khăn, vượt qua các trở ngại, vận hạn một cách thuận lợi để có cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn. Bạn nên ít đi đường vòng, luôn tâm niệm và làm theo những lời Phật dạy để tránh gặp phải những trở ngại lớn, khiến bạn phải ân hận đến suốt đời.

2.  Tuổi Sửu, tuổi Dần: Phật Hư Không Tạng (còn gọi là Phật Khố tàng Kim Cương) hộ mệnh - vị thần tượng trưng cho sự thành thực và giàu có.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Hình tượng mặt phật bản mệnh Hư Không Tạng thường thấy là ngài ngồi trên đài sen, gương mặt hiền từ, tay phải cầm thanh kiếm Âm Dương cứu độ chúng sinh trong hai cõi cõi dương và cõi âm, tay trái ngài cầm cành sen giúp chúng sanh thoát khỏi sự vẫn đục, đem lại thanh khiết, có sức khoẻ mạnh mẽ để làm ra nhiều của cải. Phật Hư Không Tạng có trí tuệ siêu việt, mang sức mạnh nhân từ, cứu giúp chúng sinh trong nước và lửa.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Ngài sẽ giúp bạn vượt qua mọi khó khăn, hóa giải mọi nguy cơ mà bạn gặp phải trong cuộc sống, nhất là những nguy cơ liên quan đến chuyện phá sản hoặc hao tài tốn của. Ngoài ra, Ngài cũng giúp cho đường tài vận của bạn thêm hanh thông, thuận lợi, có thể làm ra và tích lũy được nhiều của cải; đi đến đâu cũng được quý nhân phù trợ, tránh xa những kẻ tiểu nhân hãm hại, cuộc đời luôn được bình an, hạnh phúc.

3. Tuổi Mão: Phật Văn Thù hộ mệnh - tượng trưng cho trí tuệ lớn.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Hình tượng mặt phật bản mệnh Văn Thù thường thấy là ngài ngồi trên Sư tử, tay phải cầm thanh gươm ánh sáng hoặc viên minh châu giúp khai thông trí huệ, tay trái có khi cầm gậy như ý hoặc không. Chú ý hình tượng Văn Thù bồ tát trên tay có thể cầm các pháp khí khác nhau nhưng luôn ngồi trên lưng Sư Tử, và khi đi lễ chùa bạn sẽ nhận thấy tôn tượng của ngài cùng với tôn tượng Phổ Hiền bồ tát và tôn tượng A Di Đà. Văn Thù bồ tát có trí tuệ và tài hùng biện siêu việt có thể nói là đứng đầu trong các chư vị Bồ tát.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Ngài sẽ giúp trí tuệ của bạn sẽ không ngừng được khai phá, sự giác ngộ được nâng cao. Đặc biệt, với sự giúp sức của Ngài, trẻ sinh năm Mão sẽ luôn đạt được thành tích tốt trong học tập; những người đang là công chức sẽ nhận được rất nhiều lộc; thương gia tuổi Mão sẽ luôn gặp may mắn, có nhiều tiền của, phúc lộc. Bên cạnh đó, Ngài còn giúp người sinh năm Mão phát huy được năng lực sáng tạo và sức mạnh tiềm tàng trong con người họ để vượt lên mọi đối thủ trong tất cả các cuộc cạnh tranh, xây dựng được một sự nghiệp huy hoàng, bền vững.

4. Tuổi Thìn, tuổi Tỵ : Phật Phổ Hiền hộ mệnh - vị thần tượng trưng cho lễ nghi, sự đức độ và tự nguyện.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Hình tượng mặt phật bản mệnh Phổ Hiền thường thấy là ngài ngồi trên con Voi, tay trái cầm cành Sen hoặc hay tay bắt ấn trước ngực, quanh người toả hào quang sáng rực. Khi đi chùa bạn sẽ thấy tôn tượng Phổ Hiền rất lớn cưỡi Voi sáu ngà. Phổ Hiền bồ tát, phật A Di Đà và Văn Thù bồ tát, ba vị này nếu đặt gần nhau thường được gọi là Tam Thế Phật.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Phổ Hiền Bồ tát là đại diện cho tất cả các Bồ tát, ngài giúp hộ mạng và bảo vệ cho những người tuổi Thìn và Tỵ, nâng cao sức khoẻ kéo dài tuổi thọ, giúp cho cả đời luôn yên ổn, xoá tan các loại bệnh tật và tai hoạ. Ngài sẽ giúp bạn thực hiện được những nguyện vọng lớn lao nhất của mình, thoát khỏi cạm bẫy của những kẻ tiểu nhân, gia tăng thêm uy quyền lãnh đạo, vượt lên mọi trở ngại để có cuộc sống và tình yêu hạnh phúc, mỹ mãn.

5. Tuổi Ngọ: Phật Đại Thế Chí hộ mệnh - vị thần mang lại ánh sáng của trí tuệ.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Đại Thế Chí là vị Bồ tát có hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi, dùng hạnh nguyện này để trụ trong Ta bà giới, điều phục và tiếp độ chúng sanh. Đại Thế Chí Bồ tát còn gọi là Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ tát, Vô Biên Quang Bồ tát.

Ngài được gọi là Đắc Đại Thế Bồ tát:  vì Bồ tát có hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi, dùng hạnh nguyện này để trụ trong Ta bà thế giới, điều phục và tiếp độ chúng sanh cang cường.

Ngài được gọi là Đại Tinh Tấn Bồ tát: là vì Bồ tát có sức tinh tấn vĩ đại, điều phục các phiền não và giáo hóa chúng sanh không bao giờ mệt mỏi.

Ngài được gọi là Vô Biên Quang Bồ tát: là vì nơi thân Bồ tát có màu vàng tía chiếu khắp pháp giới, chúng sanh nào có duyên liền thấy được ánh quang minh tịnh diệu của vô lượng chư Phật ở khắp mười phương.

Trong Tây phương Tam thánh, Đại Thế Chí thường đứng bên phải của Phật A Di Đà, bên trái là Quán Thế Âm, nhằm nói lên Ngài là một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ tát. Quán Thế Âm biểu thị cho tinh thần đại bi, Đại Thế Chí biểu thị cho tinh thần đại trí, qua đó nói lên ý nghĩa người tu hành cần phải có bi trí viên mãn mới có thể thành tựu được Phật đạo.

Trong Mạn Đà La của Mật giáo, Ngài là vị thứ hai ở phương trên trong viện Quan Âm, ngài còn có Mật hiệu khác là Trì luân kim cương.

Hình tượng Phật bản mệnh Đại Thế Chí  hay thấy là Ngài ngồi trên Hoa sen, tay cầm Tam Muội Đa tức là cành Sen mới nở để giáo hóa chúng sanh.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Đại Thế Chí tượng trưng cho ánh sáng và trí tuệ, Ngài là phật bản mệnh phù hộ cho những người sinh năm Ngọ tích luỹ được tiền bạc, thuận lợi bình an. Ngài sẽ giúp bạn luôn thuận buồm xuôi gió, thành công trong sự nghiệp. Phật quang phổ chiếu - ánh sáng của nhà phật chiếu đến khắp nơi sẽ giúp bạn được "gặp hung hóa cát", luôn cát tường, may mắn như ý nguyện, đi trên những con đường sáng, phát huy được hết trí tuệ của mình để đạt đến một thế giới lý tưởng.

6. Tuổi Mùi, tuổi Thân Phật: Phật Như Lai Đại Nhật hộ mệnh - vị thần tượng trưng cho ánh sáng và trí tuệ.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Hình tượng phật bản mệnh Đại Nhật Như Lai là Ngài kiết già trên Hoa sen, mặc áo lụa đào, xung quanh Ngài toả hào quang, hai tay thủ ấn Như Lai trước ngực để giáo hóa chúng sanh, giúp khai mở trí tuệ để gặt hái nhiều thành công.

Mật Tông cho rằng, Như Lai Đại Nhật không chỉ là bản tôn mà còn là mấu chốt giáo lý của Mật Tông. Bởi trí tuệ quang minh của đức Phật Như Lai chiếu đến khắp nơi, có thể khiến các pháp giới vô biên phổ chiếu quang minh và mở ra phật tính và thiện căn trong chúng sinh, thành công trong sự nghiệp thế gian, vì thế Ngài có tên gọi là Đại Nhật. Tên gọi Đại Nhật có ba hàm ý trong Đại Nhật kinh sơ có ghi chép đó là:  diệt trừ u tối và phổ khắp ánh sáng; Thành tựu các công việc; Ánh sáng không bao giờ mất đi.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Như Lai Đại Nhật đại diện cho trí tuệ Phật giáo tối cao, ngài giống như mặt trời, bố thí các loại công đức cho chúng sinh một cách vô tư. Lá số tử vi của những người sinh năm Mùi, Thân chỉ ra rằng được Ngài độ mệnh thì sẽ nhận được sự phù hộ của ngài, cũng như được quý nhân phù trợ, khiến cho sự nghiệp thành tựu, làm nên nghiệp lớn. Ngài sẽ mang lại cho bạn sức mạnh của ánh sáng và tri thức, giúp bạn vượt qua mọi khổ đau, bi ai trong cuộc sống, nắm bắt được những nét tinh hoa của vạn vật, dũng cảm tiến lên phía trước để đến với chân trời của ánh sáng và niềm vui.

7. Tuổi Dậu: Phật Bất Động Minh Vương hộ mệnh - tượng trưng cho lý tính.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Bất Động Minh Vương (Tên Phạn là: Acalanàtha), là một trong năm Đại Minh Vương hoặc là trong Bát Đại Minh Vương của Mật Giáo, ngài còn có tên gọi khác là Bất Động Kim Cang Minh Vương, Bất Động Tôn, Vô Động Tôn, Vô Động Tôn Bồ Tát, mật hiệu là Thường Trụ Kim Cang.

Tín ngưỡng Bất Động Tôn thuộc phật giáo Mật Tông ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc đều có. Đặc biệt là ở nước Nhật, Bất Động Minh Vương nhận được sự sùng bái thờ phụng của dân gian, đến nơi này có thể thấy tôn tượng Bất Động Minh Vương, Mạn Trà La với pháp cúng dường. Bất Động Minh Vương cùng với Quan Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Bồ tát là ba vị phật lớn thường gặp nhất ở Tây Tạng.

Trong truyền thừa kinh điển, Bất Động Minh Vương có nhiều các pháp tướng khác nhau, tùy duyên mà thị hiện. Căn cứ trong nhiều bộ kinh thì hình tượng Phật bản mệnh Bất Động Minh Vương hay thấy là Ngài kiết già trên Hoa sen, phải cầm Kiếm để  trừ phiền não, tay trái cầm sợi dây hoặc Viên minh châu, trên đỉnh đầu tóc búi gọn, miệng có hai răng nanh nhỏ hơi ló ra hai bên, mặt giận dữ, xung quanh Ngài rực lửa.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Những người sinh năm Dậu coi Bất Động Minh Vương là phật bản mệnh sẽ có được sự bảo vệ của ngài, một đời được thuận lợi, bình an như ý. Ngài sẽ giúp bạn luôn phân biệt được mọi sự đúng sai trên đường đời, có thể nắm bắt được mọi cơ hội, tận dụng tốt trí tuệ của mình, thích ứng tốt với mọi hoàn cảnh để xây dựng được một sự nghiệp thành công. Bên cạnh đó, gia đình bạn cũng luôn có hạnh phúc, may mắn, cát tường, như ý.

8. Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A Di Đà hộ mệnh - tượng trưng của sáng suốt vô lượng, thọ mệnh vô lượng, trí tuệ thông thiên địa.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Đức phật A Di Đà hay hoá độ chúng sanh từ cõi Ta bà đem về Tịnh độ rồi giáo hóa cho thành phật đạo. A Di Đà còn gọi là Vô Lượng Thọ có nghĩa là sống lâu vô cùng.

Đức A Di Đà có oai đức khôn cùng, có thệ nguyện rất lớn là độ cho kẻ chúng sanh, danh hiệu của Ngài rộng lớn, bao hàm hết con đường đi của phật đạo.

Phật A Di Đà cư trú tại thế giới Tây phương Cực Lạc, dựa vào nguyện lực vô lượng của ngài để phổ độ chúng sinh.

Hình tượng Phật bản mệnh A Di Đà thường thấy là Ngài ngồi kiết già trên Hoa sen, tóc búi cao,mặc áo hở ngực, trên ngực có chữ Vạn phật giáo Mật Tông, tay phải bắt ấn, tay trái ngang bụng cầm  Viên minh châu hay Búp sen, xung quanh Ngài luôn toả hào quang.

Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Những người sinh năm Tuất, Hợi sẽ nhận được sự phù hộ của ngài, một đời bình an, gặp hung hoá cát, khi mất được vãng sinh vào thế giới Cực Lạc. Ngài sẽ giúp bạn giải trừ mọi phiền não, nhọc nhằn vất vả, có khả năng sáng tạo, đem lại lợi ích cho cả gia đình và xã hội, góp công xây dựng sự nghiệp nhà Phật, từ bi hỉ xả cho chúng sinh./

Theo Tử vi 12 con giáp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có biết vị Phật nào độ mệnh cho bạn?

Kinh nghiệm quan trọng về Tuần, Triệt để giải đoán Đạn Hạn tốt-xấu

Người mà Mệnh, Thân có Tuần (hay Triệt) đến đại hạn gặp Triệt (hay Tuần) thì được mở ra, trở nên khấm khá. Nhiều trường hợp đáng kể trong chi tiết. Trần Việt Sơn
Kinh nghiệm quan trọng về Tuần, Triệt để giải đoán Đạn Hạn tốt-xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước đây, chúng tôi có ghi một kinh nghiệm về Tuần Triệt. Không phân biệt nam nữ, cứ người tuổi Dương thì chuyển theo chiều ngược, hễ thấy Tuần hay Triệt chận đầu cung nào thì cung đó bị giảm, bị chận nhiều; còn như Tuần hay Triệt ở cung nào, mà ở sau, tức là ở thế vuốt đuôi, thì chỉ giảm ít thôi. Ảnh hưởng của Tuần thì nhẹ nhưng lai rai lâu dài, còn ảnh hưởng của Triệt thì mạnh và chỉ trong một giai đoạn ngắn.

Chắc rằng ảnh hưởng của Tuần và Triệt không phải chỉ có thế. Chúng tôi đã đem vấn đề đến hỏi cụ Thiên Lương, và ụ đã chỉ về các kinh nghiệm của cụ về một trường hợp rất quan trọng: trường hợp Tuần (hay Triệt) đóng tại Mệnh (hay Thân) và đại hạn đi đến một cung có gặp Triệt (hay Tuần). Tức là Mệnh Thân có Tuần, đi đến một cung đại hạn có Triệt; hay là Mệnh hay Thân có Triệt đi đến một cung đại hạn có Tuần.

Nguyên tắc quan trọng để xác định đại hạn tốt xấu.

-Một đại hạn tốt hay xấu, là tùy theo Hành của cung đại hạn có sinh cho Hành của Mệnh hay không. Đó là kinh nghiệm thông thường , sách nào cũng có nói tới.
-Cụ Thiên Lương đã nêu lên kinh nghiệm khác mà chúng tôi đã trình bầy trong một số giai phẩm trước, đó là khi nào đại hạn đến một cung thuộc vào một trong 3 cung tam hợp tuổi của mình, thì đó là đại hạn tốt; vận mình khá trong đại hạn này.
1)Người tuổi Thân Tý Thìn, đại hạn đến cung Thân Tý Thìn là tốt
2)Người tuổi Tị Dậu Sửu, đại hạn đến cung Tị Dậu Sửu là tốt
3)Người tuổi Dần Ngọ Tuất, đại hạn đến cung Dần Ngọ Tuất là tốt
2)Người tuổi Hợi Mão Mùi, đại hạn đến cung Hợi Mão Mùi là tốt.
Chúng tôi gọi tắt là đại hạn đến cung tam hợp tuổi là tốt.

-Bây giờ lại đến kinh nghiệm khác của cụ Thiên Lương: là Mệnh (hay Thân) mà có Tuần thì đến đại hạn gặp Triệt, cuộc đời sẽ mở ra, đó là đại hạn tốt. Hoặc là Mệnh (hay Thân) mà có Triệt thì đến đại hạn có Tuần là được mở ra. Kinh nghiệm chỉ mới trong nguyên tắc đại cương như vậy, đem áp dụng vào một số người tháy đúng. Qua mấy lá số đó không phải là đại hạn tốt theo những cách giải đoán thông thường, thế nhưng cuộc đời thật của đương sự có thăng tiến trong giai đoạn ấy. Chúng tôi đã tìm hỏi cụ Thiên Lương, được cụ chỉ đúng đại hạn đó là tốt; hỏi lý do tại sao, cụ cho biết đó là Triệt gỡ Tuần, hay Tuần gỡ Triệt.

Lý do
Nhiều nhà Tử vi biết cái nguyên tắc Triệt phá Tuần, và Tuần phá Triệt, nhưng ít áp dụng vào việc giải đoán hạn.
Ta có thể hiểu lý do như sau: Mệnh có Tuần cản trở, nên cuộc đời lận đận; nhưng đến đại hạn có Triệt, thì Triệt đụng độ với Tuần, hai sao đụng độ với nhau, thành thử Tuần nhãng quân việc cản trở Mệnh, cuộc đời trở nên khá.
Có người giải thích: Tuần cản Mệnh, đến khi gặp đại hạn có Triệt, thì Triệt cản lại Tuần, cho nên cuộc đời được ra khỏi thế kẹt.

Vài lá số dẫn chứng
Lá số ông Giáp Tý, sanh mùng 5 tháng 7, giờ Tí, Kim mệnh, Kim cục. Lá số với mấy điểm chính liên quan đến việc dẫn giải Tuần Triệt như sau:

Khá, thành đạt. Theo kinh nghiệm về đại hạn tam hợp tuổi, thì tuổi Tý, đại hạn đến cung Thân Tý hay Thìn là ăn. Số này khá đặc biệt ở đại hạn cung Tý, ở cung Quan lộc có Tử vi, Thái tuế, đó là đại hạn 44-53. Sang đại hạn 54, sẽ giảm kém. Nhưng đương số Mệnh có Triệt, khi đại vận đến cung Phúc, tại Tuất, gặp Tuần lần đầu tiên, tức là đại vận 24-33, là cũng được tốt. Đó là đại hạn tốt đẹp, thi đậu, đi làm, thành đạt.

Kinh nghiệm để ghi thêm
Mệnh có Tuần, đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt là ăn, đại hạn sau cũng có Triệt nhưng không ăn nữa. Vậy chỉ kể đại hạn đầu mà thôi. Mệnh có Triệt, cũng đến đại hạn đầu gặp Tuần là ăn.

Lá số cụ Nguyễn Công Trứ
Tuổi Mậu – Tuất, sanh ngày 1 tháng 11, giờ Thìn.LINK LÁ SỐ
Những đại hạn tại cung tam hợp tuổi tại Tuất và Dần, đều là đại hạn tốt.
Thân có Tuần, cho nên hôn ám cả nửa sau cuộc đời, không cho Thân được hài lòng. Nhưng Thân có Tuần, thì đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt tất phải ăn. Đó là đại hạn 43, tại Tí. Đại hạn này tốt dù không phải là tam hợp tuổi, nhưng được Triệt chế ngự Tuần. Đó là đại hạn trong đó cụ Trứ được thăng chức nhiều lần, lên 7, 8 bậc.

Kinh nghiệm ghi thêm: Thân gặp Tuần hay Triệt
Thân bị Tuần hay Triệt, là Thân bị ám. Vậy cứ giả sử đến một đại hạn có Triệt để gỡ Tuần, hay Tuần để gỡ Triệt thì cuộc đời được mở ra hay chăng? Thưa không hẳn còn phải tùy thời gian. Vì là Thân bị ám cho nên cuộc đời sẽ chỉ mở ra khi đại hạn ấy là sau 30 tuổi (ứng vào Thân). Chứ nếu đại hạn ấy, dù có Tuần hay Triệt để mở ra, nhưng lại là đại hạn trước 30 tuổi, thì cũng không có ảnh hưởng gì (vì chưa đến giai đoạn của Thân).

Nếu đại hạn vừa được Tuần Triệt gỡ ra, vừa là tam hợp tuổi
Mệnh có Tuần, đến đại hạn Triệt là gỡ ra. Hay Mệnh có Triệt, đến đại hạn Tuần là gỡ ra. Nếu đại hạn này lại đúng là đại hạn trong thế tam hợp tuổi, thì ảnh hưởng tốt lại tăng thêm gấp đôi (vì có hai cái tốt cộng lại).

Một lá số dẫn giải: tuổi Canh ngọ, ngày 16 tháng 7, giờ Sửu.LINK LÁ SỐ Mệnh tại Mùi, có Triệt. Đến đại hạn 33 tại Tuất, có đồng thời hai yếu tố tốt: thứ nhất, đó là cung tam hợp tuổi; thứ hai, đó là cung gặp Tuần để gỡ ảnh hưởng của Triệt. Trong đại hạn này, nhân vật bốc lên thật mạnh, lên cao chót vót, nhất hô bách nạp. Nhưng hết đại hạn đó là hết ăn luôn. Lại phải chờ đến đại hạn 73, tại Dần, là đại hạn tam hợp tuổi, mới lại khá.

Mệnh bị cả Tuần và Triệt
Mệnh bị cả Tuần và Triệt, thì không còn đại hạn nào gặp một trong hai sao đó nữa, và không có gì để gỡ thế kẹt nữa, nhất là cả hai Tuần và Triệt cùng áp đảo Mệnh.

Nhưng đại hạn đến cung tam hợp tuổi, thì có khá không? Thưa rằng cũng khá hơn, nhưng cái khá phải giảm đi 50%, là vì cả Tuần và Triệt đè nén Mệnh. Sau đây là lá số Quý Hợi:
Mệnh có Phủ, Vũ, Lộc tồn, Thiên không. Lộc trái khoáy nên không bền. 3 lần phá sản. Đến đại hạn tam hợp tuổi (cung Hợi, Mão, Mùi) làm ăn phấn chấn hơn, nhưng cũng phải chăng, bị giảm chế, hoặc phát nhiều lại tán hết. Tuần Triệt cùng ở tại Thân, cũng có ảnh hưởng như Tuần Triệt cùng tại Mệnh

Tùy theo tuổi Âm Dương đóng cung nào
Biết rằng có trường hợp đến đại hạn bộc phát, nhưng sẽ khá vào khoảng nào trong đại hạn? Có những trường hợp như sau:
-Người tuổi Âm, mệnh đóng cung Dương, hoặc người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Âm: Mệnh có Triệt hay Tuần, gặp cung đầu tiên có Tuần hay Triệt, thì đại hạn đó ăn, nhưng ăn về 5 năm chót của đại hạn (xin so sánh với kinh nghiệm chính tinh là Bắc đẩu tinh hay Nam đẩu tinh).
-Người tuổi Âm, Mệnh đóng cung Âm; hay người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Dương: Mệnh (hay Thân) có Tuần (hay Triệt), đến khi gặp đại hạn đầu tiên có Triệt (hay Tuần), thì đó là đại hạn tốt, và tốt ngay khi mở vào đại hạn, tức là tốt trong khoảng 5 năm đầu của đại hạn.

Lá số Ất Sửu vào đại hạn ăn ngay
Lá số tuổi Ất Sửu, ngày 28 tháng 6, giờ Thân:
Vị này gặp những cách khó làm chức lớn, cứ lên đến Chánh sự vụ là lại xuống. Xin lưu ý đại hạn tấn phát thuộc tam hợp tuổi tại Dậu (25-34). Mệnh gặp Tuần, đến đại hạn 45 ở Mùi, gặp Triệt là đại hạn bộc phát (dù không được tam hợp tuổi, mà được Triệt cởi gỡ những cái đè nặng của Tuần là được tốt) và vừa bước vào đại hạn là bộc phát ngay, vị này được cử ngay làm Tổng thư ký Bộ.

Một vài lá số khác
Tuổi Tân Dậu, 27 tháng 9 giờ Tị.
Vị này dù thành đạt, luôn luôn ở chức phụ tá (là vì Triệt đóng tại mạng) lên nữa không được. Cứ thế mà kéo dài cuộc đời, cho đến đại hạn 42 ở Tài bạch tại Sửu. Tại đây cái tốt tăng lên gấp đôi, là vì cung Sửu vừa là cung tam hợp tuổi, vừa gặp Tuần cởi gỡ khỏi Triệt, thế là bốc mạnh một bước nhảy vọt lên làm Tổng giám đốc…nhưng vừa hết đại hạn này, sang đại hạn 52 xuống ngay.

Kính mời quý vị xét nghiệm lại kinh nghiệm trên qua các lá số của quý vị.

KHHB số 74C2

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh nghiệm quan trọng về Tuần, Triệt để giải đoán Đạn Hạn tốt-xấu

Chọn màu gì cho khung cửa sổ? –

Nếu coi thiên nhiên bên ngoài là bức tranh tô điểm cho ngôi nhà thì khung cửa sổ được coi là khung của bức tranh ấy. Việc kết hợp hoàn hảo giữa màu sắc của khung tranh với bức tranh sẽ mang lại sức sông từ thiên nhiên, khiến ngôi nhà của bạn luôn trà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n ngập niềm vui và hạnh phúc.

cua-so-2-canh

Đặc biệt, chọn màu sắc phù hợp với phương của hướng cửa sẽ mang lại nhiều lợi ích và cát lành cho ngôi nhà thân thương của bạn. Sau đây là những màu sắc phù hợp với hướng cửa:

–  Cửa sổ hướng chính Đông, Đông Nam: Màu vàng.

–   Cửa sổ hướng chính Nam: Màu trắng, bạc.

–    Cửa sổ hướng Tây Nam, Đông Bắc: Màu đen, xanh lam.

–  Cửa sổ hướng chính Tây, Tây Bắc: Màu xanh lục, xanh da trời

–   Cửa sổ hướng chính Bắc: Màu đỏ, hồng.

Màu sắc của cổng nhà tốt nhất phải phù hợp với màu sắc ngũ hành của chủ nhà, như vậy cổng nhà sẽ hoàn mỹ hơn.

–   Chủ nhà mệnh Kim, cổng sơn màu: trắng, vàng, bạc, nâu.

–   Chủ nhà mệnh Mộc, cổng sơn màu: xanh, xanh lục, đen, xanh lam.

–    Chủ nhà mệnh Thuỷ, cổng sơn màu: đen, xanh lam, trắng, vàng kim, bạc.

–  Chủ nhà mệnh Hoả, cổng sơn màu: đỏ, vàng cam, tím, xanh, xanh lục.

–  Chủ nhà mệnh Thổ, cổng sơn màu: vàng, nâu, đỏ, vàng cam, tím.

Ngoài ra, cần phải kết hợp với phương hướng của bát quái để tìm ra điểm tương sinh. Dưới đây là màu sắc may mắn của 8 hướng cổng

–     Cổng hướng Đông (cung Chấn)ế Hướng Đông thuộc mệnh Mộc. Thuỷ có tác dụng tương sinh còn Mộc có tác dụng hỗ trợ.

Màu của cổng:

Chủ nhà mênh Môc nên chon màu xanh, xanh lục

Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, xanh lam

–   Cổng hướng Đông Nam (cung Tốn) Hướng Đông Nam cũng thuộc mệnh Mộc. Thuỷ có tác dụng tương sinh còn Mộc có tác dụng hỗ trợ.

Màu sắc của cổng:

Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh, xanh lục

Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, xanh lam

–    Cổng hướng Nam (cung Ly). Hướng Nam thuộc mệnh Hoả. Mộc có tác dụng tương sinh còn Hoả có tác dụng tương trợ.

Màu của cổng:

– Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh, xanh lục

– Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn màu đỏ, tím, vàng, cam.

–  Cổng hướng Tây Nam (cung Khôn). Hướng Tây Nam thuộc mệnh Thổ. Hoả có tác dụng tương sinh còn Thổ có tác dụng tương trợ.

Màu sắc của cổng:

Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn màu đỏ, tím, vàng cam

Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, màu cà phê

– Cổng hướng Tây (cung Đoài). Hướng Tây thuộc mệnh Kim. Thố có tác dụng tương sinh còn Kim có tác dụng tương trợ.

Màu sắc của cổng:

Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, màu cà phê.

Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, màu trắng

–  Cổng hướng Tây Bắc (cung Càn). Hướng Tây Bắc thuộc mệnh Kim. Thổ có tác dụng tương sinh còn Kim có tác dụng tương trợ.

Màu sắc của cổng:

Chủ nhà mệnh Thố nên chọn màu vàng, cà phê

Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, trắng

–  Cổng phía Bắc (cung Khảm). Phía Bắc thuộc mệnh Thuỷ. Kim có tác dụng tương sinh còn Thuỷ có tác dụng tương trợ.

Màu của cổng:

Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, màu trắng.

Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, màu xanh lam

–   Cổng hướng Đông Bắc (cung Cấn). Hướng Đông Bắc thuộc mệnh Thổ. Hoả có tác dụng tương sinh còn Thổ có tác dụng tương trợ

Màu của cổng:

Chủ nhà mệnh Hoả thì nên chọn màu đỏ, tím, vàng cam.

Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, cà phê

Bên cạnh đó, không nên dùng các màu sắc sau cho 8 hướng của cổng (cửa):

–   Cổng hướng Đông không nên có màu: vàng kim, trắng, đỏ tím, vàng cam.

–   Cổng hướng Đông Nam không nên có màu vàng kim, trắng, đỏ, tím, vàng cam.

–   Cổng hướng Nam không nên có màu đen, xanh lam, vàng, màu đất, màu cà phê.

–   Cổng hướng Tây Nam không nên có màu xanh, xanh lục, vàng kim hay màu trắng.

–  Cổng hướng Tây không nên có màu đỏ, tím, vàng cam, đen hay xanh lam.

–   Cổng hướng Tây Bắc không nên có màu đỏ, tím, vàng cam, đen, xanh lam.

–  Cổng phía Bắc không nên có màu xanh, xanh lục, vàng, màu đất, màu cà phê.

–   Cổng hướng Đông Bắc không nên có màu xanh, xanh lục, vàng kim, trắng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu gì cho khung cửa sổ? –

Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng)

Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng) để cầu mong cho sự bình yên, khoẻ mạnh quanh năm. Thường sắm hai lễ: cúng Phật, thần linh và cúng gia tiên.
Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng) được dùng trong lễ cúng vào ngày Rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, theo tục xưa gọi là: Tết Nguyên Tiêu. Vào ngày này người Việt Nam thường đi lễ Chùa, lễ Phật để cầu mong cho sự bình yên, khoẻ mạnh quanh năm. Đây là lễ tiết quan trọng trong năm nên ông bà ta có câu: ”Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng”.

Sắm lễ cúng tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng)

Ngày Tết Nguyên Tiêu các gia đình thường sắm hai lễ cúng: lễ cúng Phật và lễ cúng Gia tiên. Gia chủ có thể lập đàn tràng tại gia để làm lễ giải hạn. Đàn tràng lập ngoài sân.

Cúng Phật là mâm lễ chay tinh khiết, cùng hương hoa đèn nến.

Cúng gia tiên là mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.

Các vật phẩm khác như: Hương hoa vàng mã; Đèn nến; Trầu cau; Rượu

Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng)

Ngày Tết Nguyên tiêu các gia đình thường sắm hai lễ: 1/ cúng Phật, cúng thần linh và 2/ cúng gia tiên vào giờ Ngọ.

1. Cúng Phật, thần linh: làm mâm lễ chay tinh khiết cùng hương hoa đèn nến.

Nếu không tụng kinh được thì có thể dâng hương và tụng đọc bài lễ bái Tam Bảo dưới đây:

Dốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. ( 3 lần, mỗi lần lạy 1 lạy )

(Cầm 3 nén hương quỳ đọc tiếp)

Nguyện mây hương lành này,

Biến khắp mười phương giới,

Trong có vô biên Phật,

Vô lượng hương trang nghiêm,

Viên mãn đạo Bồ Tát,

Thành tựu hương Như Lai. (1 lạy, và cắm hương vào bát hương)

Dâng hương cúng dàng rồi, dốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. ( 1 lạy)

(Thành kính chấp tay thành búp sen đọc bài ca tụng công đức của Đức Phật)

Phật thân rực rỡ tựa kim san

Thanh tịnh không gì thể sánh ngang

Vô Thượng Chí Tôn công đức mãn

Cúi đầu con lạy Phật Sơn Vương.

Phật đức bao la như đại dương

Bảo châu tàng chứa đủ bên trong

Trí tuệ vô biên vô lượng đức

Đại định uy linh giác vẹn toàn.

Phật tại Chân Như pháp giới tàng

Không sắc không hình chẳng bụi mang

Chúng sinh bái vọng muôn hình Phật

Bỗng thấy tai nàn tận hóa tan.

Án phạ nhật ra hồng. (3 lần)

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. ( 1 lạy )

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 1 lạy )

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lạy )

Con nay đều vì bốn ân, ba cõi pháp giới chúng sinh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ, dốc lòng sám hối. (1 lạy)

(Quỳ đọc) Chí tâm sám hối:

Xưa kia gây nên bao ác nghiệp

Đều vì ba độc: tham, sân, si

Bởi thân, miệng, ý phát sinh ra

Hết thảy con nay xin sám hối.

Như vậy tất thảy bao nghiệp chướng

Ắt hẳn tiêu diệt không tàn dư

Niệm niệm âm vang tận pháp giới

Độ khắp chúng sinh nhập Bất Thoái. (1 lạy)

Sám hối phát nguyện rồi, chúng con kính lễ Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà và chư Phật ở khắp mười phương. (1 lạy )

2. Văn khấn Tết nguyên tiêu tại nhà

Nam mô A-di-đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là: ……………..
Ngụ tại:………………………………………
Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm…. gặp tiết Nguyên tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ………………. nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời Ông bà Tiền chủ, Hậu chủ tại về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tôn lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình.

Nam mô A-di-đà Phật! (3 lần, 3 lạy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng)

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Mách teen treo đồng hồ hợp phong thủy

Treo đồng hồ đúng phong thủy sẽ giúp mang lại vận khí tốt, hưng thịnh về sức khỏe, tài lộc cho gia chủ.
Mách teen treo đồng hồ hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trong nhà, chỉ nên treo một chiếc đồng hồ duy nhất ở phòng lớn. Nếu muốn treo đồng hồ ở những phòng nhỏ, kích thước cũng như âm thanh đồng hồ phải nhỏ hơn.

Theo quan điểm dân gian, nếu trong một phòng treo quá nhiều đồng hồ sẽ làm mất hòa khí trong gia đình, mọi thành viên trong ngôi nhà đều sẽ gặp chuyện rắc rối, buồn phiền.

2. Nên treo đồng hồ hình vuông thay vì hình tròn, hình tam giác, hình lục giác… Bởi đồng hồ hình tròn sẽ khiến mọi người trong ngôi nhà cảm thấy bất an, lo lắng.

Nếu là các hình dạng khác, sẽ mang tới nhiều xui xẻo. Duy nhất chỉ có đồng hồ hình vuông mang lại điều an lành, may mắn.

cach-treo-dong-ho-dung-phong-t-2776-7289

3. Nếu phòng ngủ có treo đồng hồ, bạn chỉ nên treo loại có kích thước vừa phải, không quá to để tránh mang nhiều bất an, lo lắng cho chủ nhân phòng ngủ đó.

Ngoài ra, bạn không nên treo đồng hồ ở đầu và cuối giường, tránh phúc khí bị phân tán, mang lại nhiều xui xẻo.

4. Kích thước đồng hồ nên căn cứ vào diện tích của căn phòng. Nếu diện tích lớn, có thể treo đồng hồ lớn và ngược lại.

5. Nên treo đồng hồ có chuông điểm giờ. Theo quan điểm cổ xưa, tiếng chuông đồng hồ sẽ mang lại khí thế mạnh mẽ cho ngôi nhà, rất hợp để chấn phong thủy.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mách teen treo đồng hồ hợp phong thủy

Sao xấu: Phi Ma Sát, Ngũ Quỷ, Băng Tiêu Ngọa Hãm, Hà Khôi, Cẩu Giảo

Sao Ngũ Quỷ:kỵ xuất hành. Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch): tháng 1: ngày Ngọ; tháng 2: ngày Dần; tháng 3: ngày Thìn.
Sao xấu: Phi Ma Sát, Ngũ Quỷ, Băng Tiêu Ngọa Hãm, Hà Khôi, Cẩu Giảo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Sao Phi Ma Sát (Tai Sát): kỵ nhập trạch, giá thú

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Tý; tháng 2: ngày Dậu; tháng 3: ngày Ngọ; tháng 4: ngày Mão; tháng 5: ngày Tý; tháng 6: ngày Dậu; tháng 7: ngày Ngọ; tháng 8: ngày Mão; tháng 9: ngày Tý; tháng 10: ngày Dậu; tháng 11: ngày Ngọ; tháng 12: ngày Mão.

Sao xau Phi Ma Sat, Ngu Quy, Bang Tieu Ngoa Ham, Ha Khoi, Cau Giao hinh anh
Tranh cát tường

2. Sao Ngũ Quỷ: kỵ xuất hành

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Ngọ; tháng 2: ngày Dần; tháng 3: ngày Thìn; tháng 4: ngày Dậu; tháng 5: ngày Mão; tháng 6: ngày Thân; tháng 7: ngày Sửu; tháng 8: ngày Tỵ; tháng 9: ngày Tý; tháng 10: ngày Hợi; tháng 11: ngày Mùi; tháng 12: ngày Tuất.

3. Sao Băng Tiêu Ngọa Hãm: xấu mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Tỵ; tháng 2: ngày Tý; tháng 3: ngày Sửu; tháng 4: ngày Dần; tháng 5: ngày Mão; tháng 6: ngày Tuất; tháng 7: ngày Hợi; tháng 8: ngày Ngọ; tháng 9: ngày Mùi; tháng 10: ngày Thân; tháng 11: ngày Dậu; tháng 12: ngày Thìn.

4. Sao Hà Khôi, Cẩu Giảo: kỵ khởi công xây nhà cửa, xấu đối với mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Hợi; tháng 2: ngày Ngọ; tháng 3: ngày Sửu; tháng 4: ngày Thân; tháng 5: ngày Mão; tháng 6: ngày Tuất; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Tý; tháng 9: ngày Mùi; tháng 10: ngày Dần; tháng 11: ngày Dậu; tháng 12: ngày Thìn.

Theo Bàn về lịch vạn niên

 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao xấu: Phi Ma Sát, Ngũ Quỷ, Băng Tiêu Ngọa Hãm, Hà Khôi, Cẩu Giảo

Xem tướng trán đoán vận mệnh trong tương lai –

Vầng trán biểu thị cho trí tuệ và có thể nói lên tính cách, tương lai của bạn. Củ thể ra sao chúng ta cùng xem tướng trán đoán vận mệnh của mình trong tương lai ra sao nhé! Xem tướng trán đoán vận mệnh Trán cao (trán Đế vương) Vầng trán cao, rộng, nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vầng trán biểu thị cho trí tuệ và có thể nói lên tính cách, tương lai của bạn. Củ thể ra sao chúng ta cùng xem tướng trán đoán vận mệnh của mình trong tương lai ra sao nhé!

Nội dung

  • 1 Xem tướng trán đoán vận mệnh
    • 1.1 Trán cao (trán Đế vương)
    • 1.2 Trán rộng (trán trường thọ)
    • 1.3 Trán vuông (trán doanh nhân)
    • 1.4 Trán gồ
    • 1.5 Trán hẹp
    • 1.6 Trán tròn
    • 1.7 Trán lẹm
    • 1.8 Trán phẳng lỳ

Xem tướng trán đoán vận mệnh

Trán cao (trán Đế vương)

Vầng trán cao, rộng, nhô hẳn tới đỉnh đầu là người có trí tuệ hoàn hảo. Còn trán cao trung bình hoặc trán có bề ngang hẹp là người có trí tưởng tượng phong phú và sáng tạo.

Người trán cao thường thông minh và có cuộc sống giàu sang, phú quý.

Trán rộng (trán trường thọ)

Người trán rộng và nhẵn có tuổi thọ cao, cuộc sống bình yên, không phải trải qua nhiều sóng gió. Ngoài ra, người trán rộng nhưng thấp thường có trí nhớ không tốt.

Trán vuông (trán doanh nhân)

Người có trán vuông vức rất trọng thực tế. Hơn thế, nếu trán vuông, cao và rộng báo hiệu tương lai chủ nhân sẽ là một doanh nhân thành đạt và có số đào hoa thiên bẩm.

Ngược lại, trán vuông mà thấp và hẹp là người thiển cận, bảo thủ, không có đầu óc nhìn xa trông rộng.

Trán gồ

Trán gồ ở giữa nhưng toàn bộ phần trán thấp là người thiếu thực tế, hay hoang tưởng. Ngoài ra, người có trán gồ phía bên phải hoặc trái cần phải hiếu thuận hơn với cha mẹ, tránh làm chuyện xấu khiến cha mẹ buồn lòng.

la7cck3-2036-1410132153

Trán hẹp

Người có trán hẹp làm việc gì cũng cẩn trọng từng ly từng tý, thiếu quyết đoán và dễ bỏ qua cơ hội tốt. Nếu sở hữu tướng trán này, bạn cần rèn cho mình tính cương quyết và tác phong làm việc nhanh nhạy hơn.

Trán tròn

Chủ nhân của tướng trán tròn, cao và đầy đặn thường trí tuệ thông minh. Nhưng nếu là nữ giới, thường gặp trắc trở trong tình yêu hoặc có yêu cầu cao trong việc lựa chọn nửa kia.

Trán lẹm

Trán lẹm là kiểu trán nếu nhìn thẳng thì cân xứng nhưng nhìn ngang lại hơi lõm. Người có tướng trán này cộng với đặc điểm cao và rộng thường thông minh, khả năng tập trung, suy luận và tổng hợp vấn đề tốt.

Trán phẳng lỳ

Tướng trán phẳng lỳ, không lồi không lõm khi nhìn từ mọi góc độ là dấu hiệu của sự hời hợt, thiếu sâu sắc. Người có kiểu trán này khó tập trung vào những vấn đề quan trọng, đặc biệt là trong tình huống cấp bách.

Xem thêm:

  • Xem Tướng Eo Và Tướng Mông Của Phụ Nữ
  • Xem Tướng Trẻ Em Có Số Phận Tốt Và Xấu 
  • Xem Tướng Khuôn Mặt Đoán Phúc Phận
  • Xem tướng khuôn mặt
  • Xem tướng cổ
  • Xem vận mệnh của mình qua hình dáng móng tay


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng trán đoán vận mệnh trong tương lai –

Luận về sao Thiên Đồng

Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc Nam Đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ. Thiên Đồng g...
Luận về sao Thiên Đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc Nam Đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ. Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé, cườm mắt. Thiên Đồng hành thủy nên cũng ưa động, bị động chứ không chủ động, tâm thần không kiên nhẫn mà dao động, luôn luôn đổi ý. Thiên Cơ già dặn kinh lịch, Thiên Đồng động một cách non nớt, ấu trĩ.
Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.
Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kỵ, dễ có thể dựa vào Sát Kỵ làm khích phát lực. Sát Kỵ đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kỵ thủ Mệnh hóa ra tốt)
"Đồng đóng cung Tuất yên vìHãm cung nhưng lại được bề hiển vinhNhờ sao Hóa Kỵ thêm xinhẤy là ưng hợp dễ thành giàu sang"
Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kỵ cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kỵ không là đủ. Hóa Kỵ còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.
Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiễn là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.
Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.
Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.
Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.
Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.
Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kỵ hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.
Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kỵ xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kỵ nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kỵ nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kỵ. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kỵ.
Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kỵ đứng bên Thái Âm.
"Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủTân Cự Dương Khúc Xương chí."
Riêng tôi thấy Đồng Âm đúng. Bên Trung Quốc, Tử vi thấu phái chủ trương Âm Đồng.
Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kỵ, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kỵ theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kỵ theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền
Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.
Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kỵ để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.
Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.
Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.
Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.
"Đồng Âm ở Ngọ ở TíĐồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở DầnĐồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại MãoĐồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ HợiĐồng Lương cùng đóng Dần ThânĐồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ"
Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:
"Đồng Nguyệt Tí gái hoa dungGặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen"
Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.
Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.
"Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bênÝ chí tình tự vừa đúng, cân bằng"
Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kỵ, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.
Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.
Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kỵ, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.
Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.
Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên Đồng:
- Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát(Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)
- Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm Long Trì tu phòng mục tật(Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)
- Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên(Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)
- Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú(Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang trọng uy nghi)
- Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng(Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ con hoặc gãy đổ duyên tình)
- Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kỵ, giao lại Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kỵ và Song Lộc chiếu làm thương mại dễ nên giàu)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thiên Đồng

Ý nghĩa của cây Lựu và Quýt –

Lựu (Thạch Lựu) Lựu hay còn có tên là An Thạch Lựu. Trong tích có ghi lại rằng, Thạch Lựu khi dâng cho Hán Vũ Đế, Trương Tại đã sai quân xuất xứ Tây Vực từ An Thạch trở về, cho nên có tên là An Thạch Lựu. Nhưng trong ghi chép y điển được phát hiện kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lựu (Thạch Lựu)

Lựu hay còn có tên là An Thạch Lựu. Trong tích có ghi lại rằng, Thạch Lựu khi dâng cho Hán Vũ Đế, Trương Tại đã sai quân xuất xứ Tây Vực từ An Thạch trở về, cho nên có tên là An Thạch Lựu. Nhưng trong ghi chép y điển được phát hiện khi đào mộ của Mã vương Đời Hán lại ghi chép rằng Thạch lựu đã có từ thời trước rồi.

Cổ văn nói về Lựu cũng rất nhiều như: Lương Nguyên Đế có bài thơ “Vịnh Thạch lưu”: Từ lâm ứng vị phát, xuân thú chuyển tương thôi. Nhiên đăng nghi dạ hỏa, cát châu thắng tảo mai” (Rừng Từ còn đang ngủ, Chiều xuân giục gọi vê. Trái chín như ánh lửa đêm. Hái quả về thay Mai sớm.). Trong văn hóa dân gian cho rằng Thạch Lựu bách tử” là tượng trưng của “đa tử đa phúc” (lắm con nhiều phúc).

Trên thực tế, hoa quả Thạch lựu đỏ như lửa, quả lại có thể giải khát, có giá trị mỹ quan về thực dụng, được trồng rộng rãi ở các đình viện.

quythong

Quýt

Khuất Nguyên (Trung Quốc) đã từng có bài ca “Quýt tụng” để nói lên phẩm cách hình chất của quýt. Quýt tính vì địa khí mà ứng biến. Trong “Chu lễ khảo công ký” có viết: “Quýt du hoài nhi hoá vi tích … thử địa khí nhiên dã” (Quýt khó khăn lắm mới ra được quả (trong tiết trời khô lạnh)…đó là nhờ tinh khí của đất mà thành vậy. Quýt có linh tính, được biết có thể ứng nghiệm sự vật. “Quảng ngũ hành ký’’ có viết: ‘Trần hậu chủ mộng Hoàng y nhân vây thành, vây thành quýt thụ tận khảm chi. Nãi tuỳ binh chế, thượng hạ thông báo Hoàng Y, vị kỷ vi tuỳ công thành chê ứng”. Giá trị thực tế chủ yếu của quýt là quả tươi có thể ăn, và có thể làm thuốc, trồng cây có tính hiệu quả cao. Trong dân gian của Trung Quốc, quýt và cát đồng âm, nên thường viết chữ Hán có ghép chữ cát vào, lấy quýt là dẫn cát cầu phúc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của cây Lựu và Quýt –

Giấc mơ người mang bệnh “ỷ lại tinh thần” –

Jung là một học giả, đồng thời cũng là một thầy thuốc. Khi quan điểm phiếm tính luận của Freud bị phê phán gay gắt, Jung đưa ra phương pháp phóng đại - một loại phương pháp giải thích các giấc mơ mới. Phương pháp phóng đại nguyên hình giấc mơ của Jun

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Jung là một học giả, đồng thời cũng là một thầy thuốc. Khi quan điểm phiếm tính luận của Freud bị phê phán gay gắt, Jung đưa ra phương pháp phóng đại – một loại phương pháp giải thích các giấc mơ mới. Phương pháp phóng đại nguyên hình giấc mơ của Jung là một loại phương pháp tổng hợp có trình độ cao.

Giấc mơ người mang bệnh

Jung có một người bệnh, ông ta ghi lại tất cả hơn 400 giấc mơ có liên hệ với nhau.

Người nằm mơ là một người theo đạo Ki-tô, không phải là giáo sĩ. Do những giấc mơ, ông không hứng thú mấy với tôn giáo. Người này kể: “Tôi mơ thấy có nhiều phòng, bên ngoài như sân khấu kịch, lại giống như bối cảnh của vũ đài. Có người nói lần sau sẽ biểu diễn hí kịch. Có một gian phòng, trên tường treo một tấm biểu ngữ khiến người ta phải chú ý. Tấm biểu ngữ viết:

Đây là giáo đường Ki-tô thế giới,

Là giáo điíờng của Thượng đế

Tất cả những ai tự giác bản thân,

Những người là công cụ của Thiủỵng đế đều có thể tiến đến.

Bên dưới có khắc dòng chữ nhỏ:

Giáo đường này do Ki-tô và Phao-lô xây dựng.

Tôi nói với bạn tôi:

–      Chúng ta hãy đến xem.

Bạn tôi trả lời:

–     Tôi xem không ra, tại sao lại có nhiều người tụ tập ở đây? Để có cảm tình với tôn giáo chăng?

Nhưng tôi nói:

–     Đây là một giáo đồ mới. Anh không có cách nào để hiểu được điều này.

Một người đàn bà đứng bên cạnh gật đầu tán thành.

Lúc này tôi mới phát hiện trên tường có khắc một đoạn văn, nội dung như sau:

Các binh sĩ!

Khi các anh cảm thấy mình ở dưới quyền uy của Tlnỉợng Đế, không cần trực tiếp nói chuyện với Thượng Đế, bởi vì Thượng Đế không nghe thấy gì cả.

Chúng tôi nghiêm chỉnh yêu cầu anh không cần mê muội

bằn luận về ân huệ giữa Thượng Đế với anh.

Như thế chỉ mất công vô ích.

Bất cứ sự việc gì có giá trị, khó có thể nói suông.

Điều trị bệnh tinh thần bắt nguồn từ quan điểm tự nhiên, tôn giáo và võ thuật cổ đại. Tôn giáo và võ thuật cho rằng bệnh tật là tà linh, là biểu hiện sự đau khổ.

Lý luận chủ yếu của quan điểm tự nhiên là để bác sĩ, thầy thuốc, hộ lý quan tâm đến người bệnh, giúp đỡ người bệnh khôi phục lý trí, tăng cường lòng tin chông lại bệnh tật.

Người ốm thường có tâm lý muốn trốn tránh bệnh tật của mình hoặc không muôn thừa nhận tình hình nghiêm trọng của bệnh tật. Cuối thế kỷ XVIII, một bác sĩ y khoa nổi tiếng cho rằng con người nếu ở trạng thái ngủ say sẽ làm cho nhiều căn bệnh tiêu tan và đã sáng tạo ra cách điều trị bằng thuật thôi miên.

Vào thế kỷ XIX, Freud đã sáng lập học thuyết phân tích tinh thần, được ứng dụng rộng rãi. Từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay đã vận dụng phương pháp điều trị theo dõi hành vi phản xạ có điều kiện và phương pháp điều trị theo yêu cầu giúp đỡ về mặt tâm lý đối với người bệnh.

Theo con sô” thống kê chưa đầy đủ, có đến hơn 300 phương pháp điều trị tâm lý, trong đó có 10 loại được dùng nhiều nhất. Ai cũng có thể nắm vững phương pháp và quy luật để chữa bệnh khiến tâm lý ổn định và lành mạnh. Chúng tôi xin trình bày một số phương pháp chữa bệnh tâm lý sau:


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ người mang bệnh “ỷ lại tinh thần” –

Họ Tên và khả năng quan hệ xã giao –

Năng lực xã giao, quan hệ xã hội của một người có quan hệ mật thiết với sự hưng suy của sự nghiệp. Sự mạnh yếu của khả năng ngoại giao có quan hệ trực tiếp đến tính cách của đương sự. Tính cách giàu sức sống, cởi mở hướng thượng thì dễ thành công, dễ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năng lực xã giao, quan hệ xã hội của một người có quan hệ mật thiết với sự hưng suy của sự nghiệp. Sự mạnh yếu của khả năng ngoại giao có quan hệ trực tiếp đến tính cách của đương sự.

Tính cách giàu sức sống, cởi mở hướng thượng thì dễ thành công, dễ thành danh, dễ hòa hợp, dễ được quần chúng ủng hộ, được bạn bè tương trợ, vận Thành công tốt. Năng lực xã giao mạnh, khả năng hoạt động tốt có tác dụng dẫn dụ tích cực đối với sự nghiệp và công việc.

635395422204460000

Quan hệ tương sinh như là: Ngoại cách Thổ tương sinh với Nhân cách Kim; Nhân cách Thổ tương sinh với Ngoại cách Kim; Ngoại cách Hỏa tương sinh với Nhân cách Mộc; Nhân cách Hỏa tương sinh với Ngoại cách Mộc; Ngoại cách Hỏa tương sinh với Nhân cách Thổ; Nhân cách Hỏa tương sinh với Ngoại cách Thổ; Ngoại cách Thủy tương sinh với Nhân cách Mộc…

Do số lý họ tên và quan hệ sinh khắc của ngũ hành dẫn dụ nên tính cách nội hướng kiểu không thích nói chuyện thường dễ bị bên ngoài công kích, phỉ báng, bị động, chịu thiệt, bỏ ra nhiều, thu lại ít, việc tốt thường không đến lượt.

Quan hệ tương khắc như là: Ngoại cách Kim khắc Nhân cách Mộc; Ngoại cách Thủy khắc Nhân cách Hỏa; Ngoại cách Thổ khắc Nhân cách Thủy…

Mối quan hệ giữa Nhân cách và Ngoại cách như sau:

Nhân cách sinh Ngoại cách: Nhân duyên tốt nhưng bỏ ra nhiều, bỏ ra 10 phần chỉ lấy được 7 phần.

Ngoại cách sinh Nhân cách: Tôi bỏ ra 5 phần thì thu lại 10 phần. Quan hệ xã giao rất tốt, dễ được số đông ủng hộ, dễ làm quan, sự nghiệp thành công.

Nhân cách khắc Ngoại cách: Tôi chiếm thế chủ động, tôi có chút ngạo khí hơn anh, tính hiếu thắng mạnh, có chút coi thường người khác, dễ ỷ thế hiếp người.

Ngoại cách khắc Nhân cách: Tôi bị động, dễ chịu thiệt thòi, gặp nhiều bọn tiểu nhân, thường bị bên ngoài công kích, phỉ báng. Bỏ ra nhiều, nhận được ít.

Nhân cách hòa Ngoại cách: Sinh sống hòa bình với xã hội bên ngoài, quan hệ xã giao cũng rất tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Họ Tên và khả năng quan hệ xã giao –

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Hội Đền Lảnh Giang được tổ chức vào ngày 18 tháng 6 âm lịch tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Hội Đền Lảnh Giang

Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tới ngày 25 tháng 6 âm lịch.

Địa điểm: thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tam vị đại vương thời Hùng Duệ Vương có công đánh Thục thờ Tiên Dung.

Nội dung: Hàng năm, cứ vào dịp đầu tháng 6 (âm lịch), người dân thôn Yên Lạc lại nô nức chuẩn bị cho lễ hội đền Lảnh Giang, một lễ hội đã có truyền thống từ rất lâu đời. Nét độc đáo trong lễ hội đền Lảnh Giang là sự phục dựng lại các diễn xướng dân gian hầu thánh, tái hiện huyền tích các vị thánh đền Lảnh Giang

Phần lễ có hoạt động rước kiệu trên triền đê sông Lảnh với sự tham gia của đông đảo người dân địa phương và du khách đến tham quan. Mở đầu là lễ rước kiệu từ đền Lảnh Giang vào đền thờ Mẫu Tiên Dung. Sau đó làm lễ tại đền thờ Mẫu Tiên Dung và rước kệu về lại đền Lảnh Giang. Đoàn nghi lễ rước kiệu kéo dài hơn 2 cây số trên triền đê sông Lảnh cùng với tiếng trống trầm hùng và tiếng kèn đồng rộn rã khiến cho không khí buổi rước kiệu càng trở nên uy nghiêm và náo nhiệt.

Phần hội được tổ chức phong phú đa dạng với các trò chơi dân gian truyền thống như múa rồng, múa lân, múa sư tử, biểu diễn võ thuật, đánh gậy, chọi gà, đánh tổ tôm, bắt vịt dưới nước… cùng các hoạt động văn nghệ như chiếu chèo sân đền… 

Bên cạnh các trò chơi truyền thống, còn có các hoạt động văn hoá thể thao khác như thi đấu cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá và các tối giao lưu văn nghệ giữa các thôn trong xã và giữa các xã trong huyện làm tăng thêm không khí tưng bừng của ngày hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Đặt tên hay cho người tuổi Dậu

Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài gà và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại mà có cách đặt tên hay cho người tuổi Dậu.
Đặt tên hay cho người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài gà và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại, người xưa đúc rút cách đặt tên hay cho người tuổi Dậu.


Dat ten hay cho nguoi tuoi Dau hinh anh
Đặt tên hay cho người tuổi Dậu
  1. Dựa vào đặc tính sinh sống   Gà thuộc loài động vật ăn ngũ cốc, do đó có thể dùng những tên có chứa bộ Hòa, Đậu, Mễ, Lương, Túc, Mạch để đặt tên.    Những tên hay cho người tuổi Dậu: Tú, Khoa, Trình, Đạo, Tô, Tích, Chủng, Túc, Lương, Mễ, Khải, Phong, Diễm, Thụ…   Loài gà sống ở trong hang động, chuồng trại để tránh mưa tránh nắng, thích ngủ trên cây hoặc đi lại ở trên núi, do đó có thể đặt tên cho người tuổi Dậu bằng các chữ có chứa bộ Miên, Mịch, Mộc và Sơn.   Những chữ phù hợp: Gia, Đình, Tống, Nghi, Vũ, Định, Tuyên, Lâm, Bách, Đông, Lương, Tài, Lê, Đường, Nghiệp, Vinh, Thụ, Phong, Sơn, Cương, Đại, Nhạc, Dân, Ngạn, Đồng…   Người tuổi Dậu thích hợp với những tên có chữ Sam, Quý, Thái, Mịch, tượng trưng cho lông gà nhiều màu sắc, tăng thêm sự duyên dáng cho nó.   Những tên có chứa các chữ trên: Hình, Thái, Bành, Chương, Ảnh, Tông, Hồng, Hệ…   2. Dựa vào mối quan hệ tương sinh với những con giáp khác   Tỵ - Dậu - Sửu thuộc mối quan hệ tam hợp nên có sự tương trợ lẫn nhau. Do đó, có thể dùng các chữ như Tỵ, Dậu và Sửu để đặt tên cho người tuổi Dậu.   Những tên phù hợp: Kiến, Liên, Tuyển, Tiến, Tấn, Tuần, Tạo, Phùng, Đạo, Đạt, Hiên, Sinh, Quân, Phượng, Linh…
3. Những tên cần tránh   Mão Dậu đối xung, Tuất Dậu lục hại, nên tránh những tên chứa chữ Mão và Tuất để đặt cho người tuổi Dậu như: Liễu, Miễn, Khanh, Đông, Trần, Bằng, Thanh, Tình, Hữu, Lang, Kỳ, Bản, Trạng, Địch, Mãnh, Hiến, Mậu, Thành, Thịnh, Uy…   Người tuổi Dậu cũng không thích hợp với những cái tên mang chữ Kim vì Dậu đã thuộc hành Kim, nếu 2 yếu tố Kim hợp lại thì quá nặng, dễ bị phạm xung, sát phạt lẫn nhau. Những tên nên tránh bao gồm: Ngân, Quân, Linh, Phong, Chung, Trấn, Thân, Thu…   Gà ăn ngũ cốc chứ không ăn thịt, do đó, không nên dùng các tên có chứa bộ Tâm, Nhục vì những chữ này tượng trưng cho thịt. Những tên nên tránh: Tất, Nhẫn, Chí, Trung, Niệm, Tư, Hằng, Ân, Cung, Du, Tình, Huệ, Từ, Tuệ, Ý, Hồ, Năng, Hào…   Ngoài ra, người tuổi Dậu cũng không thích hợp với những tên có chữ Đại, Quân, Đế, Vương vì gà lớn lên thường bị người ta giết thịt làm đồ cúng lễ hoặc để ăn thịt.   Những tên có chứa các chữ trên: Thái, Phu, Giáp, Dịch, Kỳ, Hoán, Trang, Ngọc, Mai, Châu, Trân, Cầu, Lý, Hoàn, Thụy, Quần…
Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Dậu

Trong năm Bát vận, căn nhà tọa Cấn hướng Khôn và tọa Dần hướng Thân nên bố cục như thế nào? –

Bố cục căn nhà tọa Cấn hướng Khôn và toạ Dần hướng Thân: toạ hướng là Tài tinh đến sơn, thuộc bố cục thoái tài. Hơn nữa tài vị bị nhà tắm áp khiến cho trạch vận không thuận, sự nghiệp đình trệ. Tài vận: Hướng Nam của căn nhà và phòng khách là vị tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục căn nhà tọa Cấn hướng Khôn và toạ Dần hướng Thân: toạ hướng là Tài tinh đến sơn, thuộc bố cục thoái tài. Hơn nữa tài vị bị nhà tắm áp khiến cho trạch vận không thuận, sự nghiệp đình trệ.

p36

Tài vận: Hướng Nam của căn nhà và phòng khách là vị trí cung Lu hướng Nam đại tiểu thái cực. Do sinh khí tài thần thủ cung nên đặt một bể cá hoặc những đồ phong thuỷ tại vị trí này có thể tăng cường tài vận, và sự nghiệp vận.

Sức khoẻ nhân đinh: Hướng Tây Nam là vị trí của Đinh Thần vượng khí, có thể đặt nồi cơm điện ở đó nấu nướng, sẽ tăng cường gia nhân, sức khoẻ vận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong năm Bát vận, căn nhà tọa Cấn hướng Khôn và tọa Dần hướng Thân nên bố cục như...

7 điều quý giá nên học suốt đời

7 điều quý giá nên học suốt đời, học nhận lỗi, học thấu hiểu, học nhu hòa, học nhẫn nại...
7 điều quý giá nên học suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Học nhận lỗi

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

2. Học nhu hòa

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Giữ tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn

3. Học hạnh nhẫn nhục của đất

Dù ban cho con người thức ăn, chốn ở nhưng cũng chịu đựng biết bao nhiêu thứ nhơ nhớp người ta đổ vào lòng đất. Vậy mà đất vẫn nhẫn nhục chịu đựng trong im lặng.

Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.
4. Học thấu hiểu

Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5. Học buông bỏ

Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống… lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!


7 dieu quy gia nen hoc suot doi

7 điều quý giá nên học suốt đời


6. Học cảm động

Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ mừng vui cùng cho họ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

7. Học sinh tồn

Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bè bạn yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều quý giá nên học suốt đời

Những vị trí nhà mặt tiền phạm phong thủy

Những ngôi nhà mặt tiền thường có giá cả đắt đỏ do thuận tiện đi lại và kinh doanh buôn bán. Tuy nhiên, nếu nhà nằm ở những vị trí ngã ba, ngã tư thì dù có "đắt xắt ra miếng" gia chủ cũng nên hết sức cẩn trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự ảnh hưởng phong thủy của những con đường tiếp cận với ngôi nhà rất lớn so với tưởng tượng của bạn. Trong phong thủy, những con đường có sức mạnh tương tự như dòng chảy của các con sông. Nếu con đường có tốc độ lưu thông nhanh thì cũng giống như một dòng sông nước chảy xiết. Con đường lúc này sẽ mang năng lượng có hại. Những tuyến đường cao tốc vì thế thường mang những năng lượng phong thủy không mấy tốt lành. Còn những con đường vắng thì lại giống như một dòng sông êm đềm, bình yên. Dưới đây là những vị trí tiếp cận xấu mà các ngôi nhà mặt tiền dễ gặp phải:

Đường chiếu tới từ cả hai phía

Phong thủy cho rằng con đường quanh co mang năng lượng tốt hơn so với những con đường thẳng tắp. Nếu những con đường thẳng lại thêm lưu thông trên đường như mắc cửi thì những người sống trong các ngôi nhà ở hai bên đường cũng khó có được một cuộc sống bình lặng. Tuy nhiên, những con đường có hình thế uốn cong như 'ôm' lấy ngôi nhà thì lại có phong thủy tốt. Nó được hiểu với nghĩa là tiền được đổ vào dễ dàng nhưng ít khi bị thất thoái.

Ngược lại, thế đất mà cả hai phía đều có con đường chiếu thẳng tới mặt tiền ngôi nhà sẽ khiến gia chủ rất dễ gặp phải biến cố, lắm tai họa, dù áp dụng các cách hóa giải thì cũng không mấy hiệu quả.

Phong thủy nhà ở
Nhà A được hưởng lợi thế phong thủy tốt, ngược lại, ngôi
nhà ở vị trí B chủ nhà dễ gặp tai họa

Con đường đâm thẳng vào cửa chính

Trong phong thủy, con đường được ví như dòng nước chảy - mà "thủy” lại quản về tài lộc, những nơi có thủy tụ được cho là sẽ hưởng tài lộc. Tuy nhiên, chỉ những dòng nước đến và tụ lại mới tốt còn nước xung thẳng lại rất xấu.

Những ngôi nhà nằm ở vị trí cuối con đường cụt có đường đâm thẳng vào cửa chính thì nằm ở thế đất xấu. Những người sống trong ngôi nhà này có thể bị tai nạn xe cộ, thương tật hoặc mắc các bệnh phải mổ xẻ.

Với những ngôi nhà phạm phải thế đất này, có thể dùng gương bát quái treo ở trước cửa nhà để phản chiếu lại những luồng sát khí, hóa giải thế nhà xấu. Một cách nữa là trồng một số loại cây bụi phía trước nhà cũng giúp hấp thu các năng lượng xấu.

Phong thủy nhà xấu
Ngôi nhà ở vị trí giữa bị đường đâm thẳng vào cửa là thế phong thủy xấu

Ngôi nhà bị kẹp giữa hai con đường giao nhau

Những ngôi nhà nằm tại ngã tư có giao thông thuận tiện thông thường cũng rất thuận lợi cho việc buôn bán, kinh doanh. Thế nhưng những ngôi nhà này lại không thích hợp để ở. Phong thủy cho rằng, không phải ai cũng có thể ở nhà nơi ngã tư đường. Chỉ những ai thuộc nhóm bát tự thích hợp mới có thể làm ăn phát đạt ở nhà ngã tư, với đa số còn lại, ở ngã tư đều lợi bất cập hại. Những ngã tư đường thường tạo thành thế đất có hình như hai lưỡi kéo, thế đất này có nhiều sát khí có thể làm cho người trong nhà dễ gặp tai nạn, bệnh tật.

Đường chạy cả đằng trước và sau ngôi nhà

Nhiều người lầm tưởng nhà có hai mặt đường là thuận lợi nhưng thực chất lại bị coi là xấu. Sách Hoàng đế trạch kinh có ghi rằng “hai bên nhà mà đều có đường dễ gặp họa diệt vong, vạn sự cũng khó thành, lại hay mắc tai ương, tài sản dễ bị trộm cắp, có thể tán gia bại sản hoặc luôn bị những kẻ quyền chức quấy nhiễu”.

Vị trí nhà phạm phong thủy
Những ngôi nhà nằm tại địa thế giữa hai con đường thường
có tài vận kém không nên mua

(Theo Khám phá/Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vị trí nhà mặt tiền phạm phong thủy

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002, thuộc cung Ly, mạng là Dương Liễu Mộc, xương con ngựa, tướng tinh con Cáo, bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002

Xem tử vi trọn đời cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002 thuộc cung Ly, mạng là Dương Liễu Mộc, xương con ngựa, tướng tinh con Cáo, bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.

Nhâm Ngọ, mạng Mộc cung Lý,

Là cây Dương Liễu số này làm nên.

Nếu là sinh thuận Đông Xuân,

Gái thì hữu phước gia môn yên hòa.

Mùa Thu bị khắc bơ vơ,

Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.

Anh em xung khắc chẳng gần,

Đi xa thương nhớ lại gần chẳng an.

Tuổi sinh thuở nhỏ gian nan,

Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.

Tuổi nàng lanh lợi khôn ngoan,

Ít kẻ ngu dốt cơ hàn linh đinh.

Tuổi nhỏ làm có đủ xài,

Nhiều lần đặng khá khiến rày rà tan.

Tuổi muộn có của mới an,

Lập nên sự nghiệp an nhàn ấm no.

Nhìn chung về cuộc sống của nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Tuổi Nhâm Ngọ về cuộc đời được trọn vẹn có cơ hội phát triển về công danh, nghề nghiệp cũng như tài lộc về cuộc đời. Vào tuổi nhỏ mang nhiều tâm trạng có phần bi quan. Nhưng cuộc sống nhiều hy vọng tốt đẹp vào thời trung vận trở đi, bao giờ cũng có nhiều dịp tốt và may mắn. Tiền bạc và tình cảm được đầy đủ và dồi dào vào trung vận trở đi.

Tóm lại: Tuổi Nhâm Ngọ có nhiều phúc đức, hưởng được một cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp vào khoảng trung vận và hậu vận.

Tuổi Nhâm Ngọ sự nghiệp được vững bền vào khoảng 25 tuổi trở đi, có thể thành công to vào khoảng 34 tuổi trở lên, về tài lộc cũng như về nghề nghiệp. 

Xem tử vi trọn đời về đường tình duyên của nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

V ề vấn đề tình duyên nhiều buồn phiền, cuộc đời xảy ra nhiều vấn đề nan giải và cuộc sống không được đầy đủ hoàn toàn về chuyện tình yêu và hạnh phúc, cho đến từ 30 trở đi thì cuộc tình duyên và hạnh phúc phải có một lần sụp đổ nữa rồi mới hưởng được những êm đềm của hạnh phúc, hôn nhân. Tuy nhiên về vấn đề tình duyên và hạnh phúc tuổi Nhâm Ngọ chia ra làm ba trường hợp như sau:

Nếu bạn vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn sẽ có ba lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sinh vào những tháng: 3, 7 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng sau đây, cuộc đời bạn sẽ có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sinh vào những tháng: 4, 5, 8 và 11 Âm lịch. Và nếu bạn sinh vào những tháng nầy, thì cuộc đời của bạn hưởng hoàn toàn hạnh phúc, cuộc đời không thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là nếu bạn sinh vào những tháng: 1, 2, 6, 9 và 10 Âm lịch.

Trên đây là những diễn tiến của tuổi bạn về vấn đề tình duyên và hạnh phúc. Tùy theo từng giai đoạn theo từng tháng sinh về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, bạn có thể căn cứ vào những việc ở trên mà suy định cuộc đời.

Xem tử vi trọn đời đường công danh và gia đạo của nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Phần gia đạo, tuổi nhỏ cũng có nhiều bê bối và không làm được sự vinh hạnh của cuộc đời. Tuy nhiên vào trung vận và vào tuổi 28 trở đi mới có phần tốt đẹp hơn. Công danh nếu có cũng không có gì quan trọng đáng nói, chỉ ở vào mức độ trung bình mà thôi.

Phần sự nghiệp sẽ được hoàn thành và êm đẹp vào số tuổi 30 trở đi. Tiền bạc được hoàn toàn đầy đủ và dễ tạo lấy thời kỳ trung vận. Nói một cách khác, sự nghiệp và tiền tài có thể có sự may mắn vào trung vận và đến hậu vận thì sống được đầy đủ và sung túc.

Những tuổi làm ăn hợp với nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Trong vấn đề làm ăn hùn hợp hay cộng tác, giao dịch về vấn đề tiền bạc, bạn nên lựa những lứa tuổi có số hợp vời tuổi mình để xây dựng cuộc sống cho đầy đủ, cuộc sống có phần sung túc và kết quả khả quan cho cuộc sống, đó là bạn nên cộng tác, hay hợp tác, giao dịch tiền bạc với các tuổi: Giáp Thân, Bính Tuất và Canh Dần. Các tuổi trên đây có thể hùn hợp làm ăn hay hợp tác, giao dịch thì thâu được nhiều kết quả tốt đẹp về tiền bạc cũng như về cuộc sống của bạn.

Lựa chọn bạn đời của nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Trong việc hôn nhân và hạnh phúc, bạn cần nên lựa chọn những tuổi sau đây, để đẩy mạnh cuộc sống của bạn lên đến mức cao độ của cuộc đời cả công danh lẫn sự nghiệp của bạn. Nếu bạn kết duyên với những tuổi nầy cuộc đời bạn tạo được một cuộc sống đầy đủ và hoàn toàn êm đẹp, đó là kết hôn với các tuổi: Giáp Thân, Bính Tuất, Canh Dần, Canh Thìn.

Bạn kết hôn với tuổi Bính Thân và Bính Tuất: Cuộc sống của bạn gặp nhiều may mắn trong cuộc đời tiền bạc dễ kiếm và được hoàn toàn đầy đủ nhiều tốt đẹp cho cuộc đời. Với tuổi Canh Dần và Canh Thìn, có nhiều cơ hội tạo nên sự nghiệp và cuộc đời theo ý muốn của bạn, cuộc sống nhiều tốt đẹp cho tương lai và hạnh phúc. Bạn nên kết hôn với các tuổi kể trên, sẽ gặp nhiều thành công trong cuộc sống của bạn vậy.

Nhưng nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, bạn chỉ tạo được một sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Quý Mùi, Đinh Hợi, Kỷ Sửu, Tân Tỵ.

Những tuổi trên đây chỉ hợp vào đường tình duyên mà không hợp về đường tài lộc, nên cuộc sống bạn chỉ tạo được mức sống trung bình mà thôi, không giàu sang phú quý và cũng không đến đổi nghèo khổ.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, bạn sẽ có thể không tạo được một cuộc sống đầy đủ hoàn toàn mà trái lại, bạn phải mang lấy cảnh nghèo khổ triền miên, không tạo được một cuộc đời hay đẹp cho mình, đó là nếu bạn kết hôn vời các tuổi: Tân Mão, Kỷ Mão.

Hai tuổi trên chẳng những không hợp với tuổi bạn về đường tình duyên, mà lại không hợp cả về đường tài lộc, nên sống trong sự nghèo khổ lo âu, không tạo được một cuộc sống đầy đủ có tiền của để hưởng sung sướng trong cuộc đời.

Những năm mà bạn ở vào tuổi nầy không nên kết hôn, vì kết hôn bạn sẽ gặp cảnh xa vắng triền miên vào giữa cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 20, 21, 27, 32, 33 và 39 tuổi. Những năm nầy bạn kết hôn thì sẽ bị nhiều tai tiếng cho cuộc đời hay gặp cảnh vợ chồng thường có sự rối răm trong gia đình.

Nếu bạn sinh vào những tháng nầy, cuộc đời sẽ có nhiều chồng, hay ít ra cũng gặp nhiều buồn khổ về vấn đề đàn ông, đó là nếu bạn sinh vào những tháng: 3, 4, 7 và 8 Âm lịch. sinh vào những tháng đó cuộc đời sẽ phải có nhiều chồng.

Những tuổi đại kỵ với nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Trong việc làm ăn hay kết duyên, nếu bạn gặp những tuổi sau đây, cuộc đời bạn có thể bị tuyệt mạng hay mang lấy cảnh biệt ly vào giữa cuộc đời, đó là bạn kết duyên hay làm ăn với các tuổi: Nhâm Ngọ, Mậu Tý, Giáp Ngọ, Đinh Dậu, Canh Tý và Bính Tý.

Những tuổi trên đây là những tuổi xung khắc, nếu bạn làm ăn chung hay kết hôn sẽ bị tuyệt mạng hay biệt ly gieo sự buồn khổ cho cuộc đời.

Gặp tuổi kỵ trong vấn đề hôn nhân và hạnh phúc, thì không nên làm lễ thành hôn hay ra mắt họ hàng linh đình. Gặp trong vấn đề làm ăn thì không nên giao dịch lớn về vấn đề tiền bạc. Trong gia đình thân tộc, nên cúng sao hạn cho cả hai người và phải tùy theo sao hạn từng năm của mỗi người mà cúng thì sẽ được giải hạn.

Những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời:

Tuổi Nhâm Ngọ có những năm khó khăn nhất, làm ăn gặp nhiều trở ngại. Việc làm ăn khó tạo được tiền bạc cũng như gặp cảnh trái ngang trong suốt cuộc đời. Đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi, 25, 28, 34 và 40 tuổi. Những năm nầy bạn nên đề phòng có hao tài tốn của hay bệnh hoạn.

Ngày giờ tốt để xuất hành:

Tuổi Nhâm Ngọ xuất hành vào những ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn thì hợp nhất, làm ăn được nhiều thắng lợi, tiền bạc dễ dàng, có nhiều tốt đẹp trong sự giao dịch, giao thương về tiền bạc, không sự bị thất bại về vấn đề tiền bạc, hay bất cứ việc gì có liên quan đến cuộc đời.

Xem tử vi trọn đời về diễn biến cuộc đời qua từng năm của nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ:

Từ 17 đến 20 tuổi: Năm 17 tuổi, có thay đổi việc làm ăn hay về nghề nghiệp, việc làm công việc làm ăn bình thường, không có xảy ra việc gì quan trọng. Năm nầy về vấn đề tình cảm có rất nhiều may mắn. Năm 18 tuổi, năm nầy bạn hưởng được tài lộc đôi chút, vào những tháng 4 và 5, cuộc sống có phần dễ chịu và có thể tạo được đầy đủ về công danh cũng như về nghề nghiệp. Năm 19 tuổi, năm nầy kỵ tháng 7 không nên đi xa hay làm ăn lớn sẽ bị thất bại, tháng 4 và 6 thì có sự kết quả hơn về tài chánh. Năm 20 tuổi, năm nầy sự làm ăn có nhiều phát đạt sung túc, bạn nên cẩn thận vào những tháng 5 và 7, hai tháng nầy có hao tài, những tháng khác được tốt. Ngoài ra sẽ có kết quả về tài chánh, tốt đẹp về việc làm ăn, có thành công trên vấn đề sự nghiệp và sẽ có nhiều việc tốt và may mắn trong việc tạo lập cuộc đời bạn, số có nhiều may mắn về vấn đề tình cảm, tạo được của cải trong năm nầy.

Từ 21 đến 25 tuổi: Năm 21 tuổi, năm nầy nhiều triển vọng tốt đẹp về vấn đề công danh và sự nghiệp. Năm 22 tuổi, có triển vọng lên cao về vấn đề nghề nghiệp, năm nầy nếu có chồng rồi sẽ sinh quý tử được rất tốt và phát tài. Năm 23 tuổi, năm có xung kỵ vào tháng 4 và tháng 6, hai tháng nầy không nên đi xa hay làm ăn không gặp sự tốt đẹp, mà có sự thất bại, hao tài tốn của, hay gặp tai nạn bất ngờ. Năm 24 tuổi, năm nầy không được tốt đẹp và toàn vẹn cho lắm, toàn năm chỉ ở vào mức độ bình thường. Năm 25 tuổi, được tốt đẹp, tài lộc có cơ hội phát triển và mọi việc làm ăn đều tốt, số có hoạnh tài vào tháng 9 trở đi.

Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, gặp việc tốt vào những tháng 4 và 6, ngoài ra những tháng khác trong năm tài lộc chỉ ở vào mức độ trung bình mà thôi. Năm 27 tuổi, có thể gặp nhiều may mắn trong vấn đề nghề nghiệp và thuận lợi trong việc làm ăn. Năm 28 tuổi, năm nầy nên cẩn thận, không sẽ có hao tài tốn của và khó vướt qua được bệnh tật vào những tháng 4 và 6. Năm 29 tuổi, năm nầy có nhiều việc tốt đẹp, sự làm ăn được dễ dàng và có nhiều cơ hội thuận tiện trong vấn đề nghề nghiệp công danh. Năm 30 tuổi, năm nầy vào những tháng đầu năm thì không tốt, giữa năm và cuối năm thì gặp sự may mắn.

Từ 31 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi, năm nầy không có vấn đề gì quan trọng xảy ra cho cuộc sống, phần tài lộc cũng như về phần tình cảm vẫn có nhiều cơ hội thuận tiện trong nghề nghiệp và cuộc đời. Năm 32 tuổi, năm nầy nên thận trọng, sẽ có việc buồn trong gia đạo, tháng 9 và 11 được dịp tốt và việc làm có cơ hội phát triển về nghề nghiệp vào những tháng cuối năm. Năm 33 tuổi, năm nầy nên thận trọng sẽ có bệnh hoạn, hao tài vào những tháng 6 và 8, nên giữ gìn gia đạo và phần cá nhân, bổn mạng suy yếu. Năm 34 tuổi, năm nầy bạn nên phát triển mạnh mẽ về công danh, sự nghiệp, vì năm nầy có nhiều thắng lợi, đó là những tháng: 4, 6, 8 và 12 Âm lịch. Năm 35 tuổi, năm nầy phần sự nghiệp thì lên cao, tình cảm tốt đẹp, việc phát triển làm ăn được nhiều kết quả tốt.

Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi, có gặp nhiều sự may mắn, làm ăn có nhiều phát đạt, những tháng cuối năm thì vượng phát về tài lộc. Năm 37 tuổi, năm nầy toàn năm bình thường, không có việc gì quan trọng xảy ra. Năm 38 tuổi, năm nầy không được tốt lắm, nên thận trọng trong mọi công việc làm ăn như giao dịch về vấn đề tiền bạc. Năm 39 tuổi, trung bình, tiền bạc được dễ chịu, thận trọng tháng 5. Năm 40 tuổi, bổn mạng không được tốt lắm, có hao tài vào tháng 3; tháng 4 lại có tài lộc, từ tháng 5 trở đi thì công việc bình thường, không có xảy ra việc gì quan trọng cho cuộc đời.

Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi khá tốt, bổn mạng vững có vượng phát về tài lộc và vấn đề làm ăn được nhiều may mắn tốt đẹp, nhất là phần con cái có phát triển về công danh và sự nghiệp. Năm 42 tuổi, năm nầy cuộc sống có bị đảo lộn đôi chút nhưng trở lại bình thường vào khoảng cuối năm. Năm 43 tuổi, năm nầy đại xung khắc vào mùa đông, coi chừng có bệnh trầm trọng. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm, cuộc sống chỉ ở mức độ bình thường mà thôi.

Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, năm khá tốt đẹp, triển vọng nghề nghiệp và cuộc sống có vui tươi và trọn vẹn. Năm 47 và 48 tuổi, hai năm xảy ra nhiều vấn đề khó khăn cho cuộc sống, nhưng mọi việc có thể qua được. Năm 49 và 50 tuổi, hai năm nầy cuộc sống và bổn mạng có phần phức tạp, làm ăn không được có nhiều tốt đẹp cho lắm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Nhâm Ngọ sinh năm 2002

Lễ hội diễn ra trong ngày 30 tháng 3 âm lịch - Hội Đền Suối Mỡ

Vào ngày 30 tháng 3 âm lịch có diễn ra lễ hội đền Suối Mỡ, hội được tổ chức tại xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội diễn ra trong ngày 30 tháng 3 âm lịch - Hội Đền Suối Mỡ

Lễ hội diễn ra trong ngày 30 tháng 3 âm lịch - Hội Đền Suối Mỡ

Hội Đền Suối Mỡ

Thời gian: được tổ chức vào ngày 30 tháng 3 và mùng 1 tháng 4 âm lịch.

Địa điểm: xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Đối tượng suy tôn: thờ công chúa con của Vua Hùng thứ 16 (Hùng Định Vương), người có công giúp dna6 làng làm ruộng, xây dựng cuộc sống, là vị nữ thần nông nghiệp của cư dân nông nghiệp cổ xưa.

Nội dung: Lễ hội gồm phần tế lễ và phần hội. Lễ rước từ các làng đến các đền trong quần thể di tích Suối Mỡ. Từ sáng sớm, dân làng tổ chức tế lễ ở đình làng Dùm. Tế xong xin rước sắc và bài vị ra đền suối. Đám rước qua đền cây Xanh rồi tới đền Hạ. Cùng thời điểm, dân làng Quỷnh cũng rước từ đình Quỷnh ở phía Tây Suối Mỡ rước lên, qua nghè Hàn Lâm để vào đền Trung làm lễ. Khi đám rước tới đền Hạ thì tế an vị.

Tại hội đền, còn tổ chức các trò chơi dân gian: Đi cầu kiều, bịt mắt đập niêu, chọi gà,... cùng các môn thi thể thao: Cờ tướng; bóng chuyền; đẩy gậy…

Lễ hội đền Suối Mỡ cũng là dịp để người dân địa phương cầu một năm mưa thuận gió hoà, yên bình, no đủ, hạnh phúc...

Đến với hội đền Suối Mỡ du khách còn được nghe hát quan họ, hát chầu văn… tìm hiểu phong tục tập quán của địa phương hoặc tranh thủ đi bộ leo suối, leo núi, tham quan, vãn cảnh non nước hữu tình nơi đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội diễn ra trong ngày 30 tháng 3 âm lịch - Hội Đền Suối Mỡ

Long mạch vua chúa Việt "phát" thế nào?

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.

Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.

La Quý nối chỗ đứt long mạch

Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa".

"Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam... Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.

Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.

Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.

Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.

Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long mạch vua chúa Việt "phát" thế nào?

Những nguyên tắc “vàng” cho phòng thủy nhà bếp

Phòng bếp là biểu tượng cho tiền tài và chất lượng của các mối quan hệ cá nhân, gia chủ càng phải chú ý cách hóa giải hung tính, tăng cường may mắn. Sau đây là một vài bí quyết để cải tạo một gian bếp trong không gian căn hộ vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ vừa mang lại thịnh vượng cho gia chủ.
Những nguyên tắc “vàng” cho phòng thủy nhà bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguyên tắc đầu tiên cần đảm bảo cho gian bếp là cần có màu sắc hài hòa, thoáng khí, có ánh nắng tự nhiên. Trong trường hợp thiếu sáng, gian bếp cần trang bị đầy đủ đèn trần, đèn thả bàn, đèn chùm với ánh sáng vàng để mang đến sự ấm cúng và độ sáng cần thiết cho gian bếp. Nếu không có cửa sổ bếp cũng cần có quạt thông gió và tốt nhất là trang bị máy hút mùi, hút khói ngay phía trên bếp nấu.

Nên sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường và không quá trơn nhẵn trong gian bếp như thạch cao, đá tự nhiên, sỏi rải… Những vật liệu cách nhiệt, khó bắt lửa này vừa khiến không gian nhà bếp thoáng mát và đảm bảo độ an toàn cho người đứng nấu.

Hướng lý tưởng để đặt bếp nấu là Đông Bắc. Ngoài ra bếp nấu có thể đặt hướng chính Tây hay Nam. Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng là cần tránh tuyệt đối đặt bếp ngoảnh lưng với hướng nhà, người nấu bếp đứng quay lưng lại thẳng với cửa chính. Bếp đối diện với cửa nhà cũng là hướng xấu. Kết cấu xuyên tâm thông từ cửa chính đến bếp dễ khiến gia chủ hao tán tài sản, lục đục trong nhà. Trong trường hợp bếp đã thiết kế sẵn như vậy có thể dùng bình phong hoặc chậu cây chắn giữa hoặc chuyển bệ bếp đặt ngang lại.

Các hướng đặt bếp ngoài Đông Bắc, chính Tây hay chính Nam đều không tốt. Với các nhà chung cư, việc này khó kiêng kỵ tuyệt đối. Nếu bếp nấu ở hướng xấu có thể dùng cây xanh để hóa giải. Bếp hướng Đông nên trồng hoa cho hoa màu đỏ, tím như mào gà, đỗ quyên; bếp hướng Bắc chọn hoa có màu trắng hay cây đậm màu xanh như nhài, vạn niên thanh… Các cây rau gia vị cũng rất thích hợp trồng gần gian bếp vì hóa giải được sát khí tỏa ra. Không nên cắm hoa trong gian bếp.

Tránh kê bếp dưới xà ngang, đối diện nhà vệ sinh hay trước phòng ngủ vì điều này ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ. Nếu diện tích hẹp không tránh được bố trí như vậy thì cũng đảm bảo cửa đóng khi bếp nấu.

Trong gian bếp, ưu tiên những đồ có tính hỏa. Bệ bếp cần đặt cao hơn bồn rửa và tránh kẹp giữa tủ lạnh, tủ đá, bể nước…, là những đồ vật có tính thủy. Các dụng cụ nấu bếp ưu tiên tính kim loại, tránh bắt lửa và giữ sạch gian bếp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nguyên tắc “vàng” cho phòng thủy nhà bếp

Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Người tuổi Hợi mệnh Mộc là những người sinh năm Kỷ Hợi 1959, 2019...
Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người này thường rất khiêm tốn, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, biết cảm thông, bao dung với người khác.

Họ luôn lạc quan và rộng mở tấm lòng trong cuộc sống của mình. Vì vậy, tuy cuộc sống còn nhiều ưu phiền, trắc trở nhưng họ vẫn luôn an tâm, lạc quan tiến tới. Họ cũng thường khoan dung với chính bản thân mình.
Người tuổi Hợi mệnh Mộc rất chuyên tâm vào công việc nhưng đôi khi cũng bỏ cuộc giữa chừng, nhất là khi công việc gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở thì sự không kiên định của họ lại càng được thể hiện rõ nét hơn.

Họ thích hành hiệp trượng nghĩa và cũng thích được nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến. Họ luôn tỏ ra nghị lực, đối xử thân thiện và hết lòng vì bạn bè. Người này cũng không tiếc công sức khi tham gia các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng.
Đây là người biết cách lập kế hoạch cũng như xác định bước đi tiếp theo của mình là gì, luôn suy tính kỹ càng trước khi quyết định hành động. Họ có những kiến giải rất độc đáo cũng như tính toán kỹ về mặt lợi nhuận khi quyết định đầu tư vào công việc nào đó.
Tình cảm của họ rất trong sáng. Tuy nhiên, họ không thể nhận biết rõ ràng nếu trót làm tổn thương đến bạn bè nên thường bị liên lụy một cách vô thức.
Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì người này có thể gặp được rất nhiều cơ hội tốt và có địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ trở thành những người dễ thay đổi, không giữ được tiết khí ban đầu của mình. Họ chỉ có thể tạo dựng được sự nghiệp nhỏ nhưng phải trải qua nhiều gian khổ. (Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Luận giải vận số người tuổi Thìn theo ngày sinh

Người tuổi Thìn sinh ngày Tý: Do được sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số có tài lộc, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió.
Luận giải vận số người tuổi Thìn theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Do được sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số có tài lộc, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió.

cang lon cang xinh
 

Sinh ngày Sửu: Người tuổi Thìn sinh vào ngày này có sao Phúc Tinh chiếu mệnh nên được hưởng phúc đức. Tuy nhiên, họ cũng gặp không ít chuyện cãi cọ rắc rối.

Sinh ngày Dần: Người sinh ngày này có sao Dịch Mã chiếu mệnh nên số hay phải đi xa.

Sinh ngày Mão: Tuổi Thìn sinh ngày này được nhờ phúc tổ tiên, danh lộc dồi dào.

Sinh ngày Thìn: Nhờ có sao Hoa Cái chiếu mệnh nên người sinh ngày sinh ngày này thông minh, khéo léo, tinh thông sử sách. Tuy vậy, người này thường hay giữ phiền muộn trong lòng.

Sinh ngày Tỵ: Là người may mắn được sao Thái Dương chiếu mệnh nên mọi sự đều thành, có quý nhân phù trợ nhưng đôi lúc cũng gặp điều không lành.

Sinh ngày Ngọ: Có số bất ổn, thường gặp nhiều trở ngại trong công việc và cuộc sống.

Sinh ngày Mùi: Do bị sao Thái Dương chiếu mệnh nên cần đề phòng tai nạn và những chuyện buồn phiền trong đời.

Sinh ngày Thân: Gặp vận tam hợp Thân - Tý - Thìn, tạo thành Thủy cục nên mưu sự tất thành. Tuy nhiên, vẫn cần phải đề phòng bị tiểu nhân hãm hại.

Sinh ngày Dậu: Số mắc bệnh nhẹ nhưng may nhờ sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên mọi sự cát tường.

Sinh ngày Tuất: Thìn - Tuất xung khắc nên có số hao tài tốn của.

Sinh ngày Hợi: Vợ chồng hòa hợp, mọi sự đều thuận. Tuy có tai ương nhưng gặp hung hóa cát. 

(Theo nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số người tuổi Thìn theo ngày sinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd