Đoán quý tướng và phúc tướng qua tướng ăn, nói, cười –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
1. Quan gặp thương, tức dụng thần là chính quan, kị thần là thương quan.
Tứ trụ có kị thần thương quan khắc dụng thần, nếu có chính ấn thì có thể chế áp được thương quan và hỗ trợ chính quan. Vì vậy ta gọi chính ấn là cứu ứng của chính quan.
2. Quan gặp sát, tức dụng thần chính quan và thiên quan hỗn tạp không rõ ràng.
Dụng thần là quan phải rõ rang, thanh khiết. Có năm can âm là thương quan có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày ất gặp bính là thương quan, bính có thể hợp mất tân sát, còn lại canh quan ; ất có thể hợp mất canh sát, còn lại tân quan. Có năm can dương là kiếp tài và năm can âm là thương quan hợp mất sát, giữ lại chính quan.
3. Quan gặp hình xung, tức dụng thần chính quan trong địa chi bị hình xung mà thương tổn.
Khi dụng thần bị hình xung thương tổn thì phải xem trong Tứ trụ có hay không có hợp cục để hoá hình. Ví dụ can ngày bính gặp chi tí thuỷ, trong tí tàng can quý là chính quan. Dụng thần chính quan bị ấn hình hại, có hợi, mùi và mão hợp thành cục, hoặc có dần,thìn, mão hợp thành cục, hoặc có dần, thìn, mão họp thành hội cục, hoặc có tuất, mão lục hợp, tức có thể hợp chặt kỵ thần, cứu được dụng thần chính quan. Khi dụng thần bị xung phá cũng phải xem trong Tứ trụ có hợp cục để hóa xung không. Ví dụ can ngày bính gặp chi tý thuỷ, trong tí tàng quý là chính quan. Dụng thần chính quan vì bị ngọ phản xung mà gốc rễ không chắc chắn. Nhờ có mùi và ngọ thành lục hợp, hợp chặt kị thần nên dụng thần chính quan được cứu . Cho nên quan hình xung thì hợp cục có thể giải cứu.
1. Tài gặp kiếp, tức dụng thần là tài, kị thần là kiếp tài.
Tứ trụ có kỵ thần kiếp tài khắc dụng thần, nếu trong mệnh cục có thực thần thì có thể xì hơi kiếp tài để sinh cho tài tinh. Cho nên thực thần là cứu ứng thứ nhất của tài tinh. Tứ trụ có kị thần kiếp tài khắc dụng thần, nếu trong mệnh có quan tinh thì quan tinh có thể chế áp kiếp tài, bảo vệ tài tinh. Cho nên quan tinh cũng là cứu ứng của tài tinh.
5. Tài gặp sát, tức dụng thần là tài tinh, kị thần là thất sát.
Tứ trụ có thất sát xì hơi tài tinh là kị thần, nếu trong mệnh cục có thực thần để áp chế thất sát, sinh tài tinh thì dụng thần là tài tinh cũng được cứu . Trong Tứ trụ có thất sát xì hơi tài tinh làm kị thần, năm can âm thương quan có thể hợp chặt thất sát để bảo hộ tài tinh. Ví dụ can ngày ất gặp năm là thất sát, thương quan bính có thể hợp chặt thất sát để cứu tinh. Năm can dương kiếp tài cũng có thể hợp chặt thất sát để bảo hộ tài tinh. Ví dụ can ngày gặp canh là thất sát, kiếp tai ất có thể hợp chặt thất sát chống lại sự hình khắc để bảo vệ tài tinh. Cho nên khi thất sát là kỵ tài thì thương quan của năm can âm và kiếp tài của năm can dương sẽ bảo về tài tinh, ứng cứu cho dụng thần.
1. An gặp tài, tức dụng thần là ấn tinh, kị thần là tài tinh.
Khi trong Tứ trụ đều có ấn tinh và tài tình mà cần hợp mất tài tinh, giữ lại ấn tinh, nếu có kiếp tài sẽ có thể chế áp tài tinh để giữ lại ấn tinh. Cho nên kiếp tài cũng là cứu tinh của dụng thần ấn tinh. Khi trong Tứ trụ cả ấn tinh và tài tinh cùng xuất hiện mà đòi hỏi làm mất tài tinh và giữ lại ấn tinh, nếu có hợp cục hợp mất tài tinh, còn ấn tinh không bị khắc chế là được cứu. Can ngày dương có thể hợp mất tài tinh, giữ lại ấn tinh, ví dụ can ngày giáp gặp quý là ấn, gặp kỉ tài là hợp. Năm can âm kiêu thần cũng có thể hợp chặt chính tài, đều là cứu ứng dụng thần chính ấn.
2. Thực thần gặp kiêu, tức dụng thần là thực thần, kị thần là kiêu thần.
“Dụng thần là thực thần, không thể bị cướp mất”, đó là nguyên tắc. Trong Tứ trụ kiêu thần và thực thần rất kị nhau, khi gặp nhau thì kị thần cần bị chế hoá. Thất sát sẽ có thể chế hoá kị thần để biến nguy thành an. Cho nên gọi thất sát là cái cứu ứng dụng thần thực thần. Tứ trụ có kiêu thần cướp đoạt thực thần, nếu có tài tinh cũng có thể chế áp được kiêu thần để hộ vệ thực thần. Nên thiên tài cũng là cứu ứng thực thần.
3. Thực thần gặp sát ấn , tức thực thần là dụng thần, kị thần là ấn tinh.
Tứ trụ thực thần bị chế sát, có ấn tinh đến giúp để chế áp thực thần bảo hộ kiếp sát, nếu có tài tinh thì có thể làm mất ấn tinh, giữ lại thực thần. Tài tinh trở thành cứu ứng của dụng thần thực thương trong điều kiện có ấn tinh.
4. Tài gặp thương sát , tức dụng thần là tài, kị thần là thất sát.
Tứ trụ có thương quan sinh tài, sát đến để hóa tài làm kị thần, nếu có hợp cục hợp mất thất sát để bảo hộ tài thì tốt. Năm can dương kiếp tài có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày giáp gặp canh là sát, kiếp sát ất hợp mất canh sát. Năm can âm thương quan cũng có thể hợp mất thát sát, ví dụ can ngày ất, gặp tân là sát, nếu có bính thương thì sẽ hợp mất tân sát. Nên ta nói năm can dương kiếp tài và năm can âm thương quan đều là cứu ứng của dụng thần tài tinh.
10. Quan gặp thương (cách kình dương), sát gặp thực (cách kình dương), tức quan sát dụng thần, thương thực là kị thần .
Tứ trụ có quan mà không có kình dương thì không vinh hiển, có sát mà không có kình dương thì không có uy, kị gặp chế phục quá mức . Tứ trụ có nhiều ấn tinh thì có thể bảo hộ cho quan tinh hoặc thất sát, lại có thể ràng buộc được thực thương, khiến cho quan sát vừa được chế lại vừa được giúp đỡ, vừa được hổ trợ, quyền uy không ai cản nổi. Cho nên ấn tinh có lực là cứu ứng của quan sát.
11. Quan gặp thương (lộc cách ) , tức dụng thần là quan, kị thần là thương.
Tứ trụ quan tinh có lộc thì chức cao vinh hiển, rất kị gặp thương quan, nếu trong Tứ trụ có hợp cục để hợp mất thương quan thì có thì có thể bảo vệ được quan tinh . Năm can dương có thể hợp mất thương quan, ví dụ can ngày giáp gặp nhâm là kiêu, nhâm có thể hợp mất đinh thương quan ; năm can âm là thất sát, cũng có thể hợp mất thương quan, ví dụ can ngày ất gặp tân là sát, tân có thể hợp mất bính thương. Cho nên ta nói năm can dương và năm can âm là thất sát có thể hợp mất thương quan, chúng trở thành thần bảo hộ của dụng thần chính quan.
12. Tài gặp sát (lộc cách ) , tức dụng thần là tài , kị thần là thất sát.
Khi Tứ trụ có dụng thần là tài không nên gặp thất sát đến để hóa, cái hợp mất thất sát có thể bảo hộ được tài tinh. Năm can dương kiếp tài có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày giáp gặp canh là sát, ất kiếp sát có thể hợp mất canh sát ; năm can âm thương quan cũng có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày ất gặp tân là sát, bính thương có thể hợp mất tân sát. Cho nên nói năm can dương kiếp tài và năm can âm thương quan có thể kết hợp mất sát để bảo hộ tài, nó là cứu ứng của dụng thần tai tinh. Kết quả của sự cứu ứng đạt được nhiều hay ít rất khó nắm được chính xác, độc giả có thể thông qua những bàn luận ở phía trên, đồng thời có thể từ các ví dụ nói về sự cứu ứng khi dụng thần bị hình xung khắc hại để hiểu rõ.
Sách Thái Bình quảng ký có chép:
Có một người tên gọi là Chu Thiếu Khanh, đến Thành Đô trọ. Đêm Chu Thiếu Khanh nằm mơ thấy có người gọi lanh lảnh thì giật mình tỉnh dậy, thấy xung quanh không có động tĩnh gì lại nằm xuống ngủ. Giấc mơ lại đến. Lần này Chu Thiếu Khanh mơ thấy có một người cầm một quyển sách nói:

– Chu Thiếu Khanh quả nhiên ở đây!
Chu Thiếu Khanh nói:
– Họ như nhau, nhưng Thiếu Khanh không phải là tôi.
Người nọ cuộn quyển sách chỉ để lộ một dòng có ba chữ Chu Thiếu Khanh.
Lúc đó có một người cưỡi ngựa từ ngoài vào và gọi:
– Chu Thiếu Khanh, ra mà lấy này.
Chu Thiếu Khanh nhìn ra thì thấy con ngựa không có chân trước, đi khập khiễng trông rất khổ sở.
Chu Thiếu Khanh giật mình tỉnh dậy, sau đó vẫn bị giấc mơ ám ảnh. Quả nhiên không lâu hai chân của anh bị thương, phải cưa đứt.
Một nhà khoa học Mỹ đã thể nghiệm sâu sắc điều này. Ông cùng với một người bạn đốn cây trong rừng, cả hai người đều nằm mơ thấy chân của họ bị cụt một nửa. Hôm sau hai người kể chuyện này cho nhau nghe, họ chẳng biết có điều gì xảy ra, quyết định không đi làm nữa. về sau mọi việc xảy ra đúng như những điều đã mơ thấy.
Một số nhà y học và tâm lí học hiện đại sau khi nghiên cứu số mệnh con người đã đi đến kết luận:
Những bệnh sinh ra ở bộ phận chân con người đều liên quan đến hình ảnh chó hoặc ngựa trong giấc mơ. Trong giấc mơ nếu chó và ngựa gãy chân thì con người cũng thế.
Các số liên quan đến giấc mơ:
Chó đẻ: 51 – 91
Bắt rận cho chó: 93 – 83
Chó cắn chảy máu: 98 – 99
Chó cắn đuổi: 58 – 38
Chó cắn: 29 – 92 – 93
Chó đẻ: 51 – 91
Chó đến nhà: 93 – 98
Chó đen: 94 – 68
Con chó con: 48 – 49
Con chó nhật: 76
Con chó: 29 – 59 – 95
Đàn chó: 36 – 63
Hai con chó: 96 – 94
Con ngựa: 12 – 52 – 72
Ngựa: 01 – 62
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Cùng đọc châm ngôn cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
Ăn chay - đường Phật dẫn dưỡng sinh, dưỡng tâm| ► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
Khi đánh giá vấn đề người ta thường sử dụng từ khoa học. Hiện nay người ta thường gắn văn hóa vật chất phương tây với khoa học và kỹ thuật (hình thái được vật chất phương tây với khoa học kỹ thuật, hình thái được vật chất hóa của khoa học) vào làm một. Do đó khoa học bèn trở thành bình phẩm có giá trị cao nhất. Khi người ta muốn đưa một sự việc hay sự vật lên giá trị cao, đáng được tôn trọng nhất thì người ta gắn cho nó cái “ mũ” khoa học, hoặc là đã được “khoa học chứng minh”.
Một số học giả gần đây, tuy ít thì muốn nêu cao tư tưởng tinh hoa của nho gia, nhưng ngược lại cho học thuyết âm dương, ngũ hành là cặn bã. Họ gọi âm dương, ngũ hành – một học thuyết đã từng thống trị trong các lĩnh vực thuật số như thiên văn, ngũ hành, hình pháp (phong thuỷ, tướng thuật), đoán mệnh, y thuật, vọng khí, v.v.. là “mê tín”. Đó rõ ràng là đứng trên quan điểm thể nghiệm thế giới theo văn hóa phương Tây để bình phẩm những hiện tượng của văn hoá Trung Quốc cổ.
Xem qua lịch sử Trung Quốc cận đại, đó là một bộ lịch sử hoặc là với thái độ dùng phương thức truyền thống của Trung Quốc để chống lại, bài xích văn hóa phương Tây, hoặc với thái độ lợi dụng văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc, hoặc với thái độ cam tâm tình nguyện tiếp thu toàn bộ văn hóa phương Tây làm cho lịch sử triệt tiêu lẫn nhau. Từ sau khi văn hóa phương Tây dùng nước thánh, thuốc phiện, pháo hạm mở rộng cánh cửa vào Trung Quốc, người ta bắt đầu so sánh hai nền văn hóa dưới những góc độ khác nhau và cuối cùng rút ra kết luận phổ biến là: phương Tây “tiên tiến” còn Trung Quốc “lạc hậu”. Văn hóa của Trung Quốc chỉ có thể so sánh với một giai đoạn nào đó trong quá khứ của phương Tây. Sự biến đổi các hình thái và thứ lớp của văn hóa phương Tây bèn trở thành mô hình duy nhất, con đường duy nhất để phát triển văn hóa của nhân loại. Họ có những cái mà ta không có như chế đọ “dân chủ”, thể chế chính trị – kinh tế, phương pháp quản lý khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp hiện đại, giáo dục, v..v.. đều là những cái mà chúng ta đang lạc hậu và là những điều kiện đủ để trở thành tiên tiến. Còn cái mà ta có, họ không có thì lại trở thành nguyên nhân lạc hậu của ta, thành nhân tố hạn chế, làm trở ngại có sự tiến lên, thành gánh nặng lịch sử. Từ đó mà vứt bỏ hết “ truyền thống”, dấy lên phong trào tìm kiếm “chân lý” trong văn hóa phương Tây. Người ta hy vọng từ trong “ công nghiệp cứu quốc”, “ khoa học kỹ thuật cứu quốc”, “giáo dục cứu quốc” để tìm được “thuận với trào lưu thế giới”, cho đó là “cứu quốc bảo trọng”. Trong quá trình phá bỏ trật tự cũ, âm dương, ngũ hành bèn trở thành đối tượng bị đả phá đầu tiên, cho dù trên một ý nghĩa nào đó, đấy chỉ là sự phá bỏ hình thái bề ngoài.
Một ví dụ đầy kịch tính nhất là sự thay đổi trong đánh giá về Trung y – một trong những thuật y học cổ đại của Trung Quốc. Trong phong trào văn hoá mới, trung y cũng giống như các phương thuật khác đã từng bị xem là mê tín. Âm dương, ngũ hành là đại bản doanh của mê tính. Kết luận là : “cái chết có liên quan đến sự sống chết của ông cha ta đều là sản phẩm của quan niệm âm dương ngũ hành này”. Với chi phối của cách đánh giá đó, trung y đã từng bị coi là một tai ách. Nhưng về sau, đặc biệt là mấy chục năm gần đây, tình hình này đã có sự thay đổi căn bản. “Mê tín” nhảy vọt thành “khoa học”. Trung y với tư cách là một sự thật, bản thân nó không hề thay đổi, mà thay đổi là sự đánh giá. Ở đây rõ ràng mê tính hay khoa học chẳng qua chỉ là sự đánh giá. Thuật số làm một trong những hình thái quan trọng của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Sau nhà Đường và Ngũ đại, thuập số đoán mệnh được lưu hành hơn 1000 năm, cao nhất là vua cho chí thường dân đều thành tâm tin tưởng. Mấy chục năm lại đây ngược lại bị xem là mê tín. Sở dĩ nói đó chỉ là một sự bình phẩm vì Trung y và thuật đoán mệnh đều cùng một hệ thống, cùng có sắc thái như nhau, thế mà y học thì lại được xem là khoa học. Cho nên “mê tín” là một sự bình phẩm mang thiên kiến.
“Mê tín” và “khoa học” đều chỉ là một tín ngưỡng. Đối với mê tín thường được định nghĩa là: “sự tín ngưỡng thiếu bản chất lý tính, chỉ thuần tín ngưỡng hoặc tập tục”. Vì trước hết nó là một tính ngưỡng, sau nữa là “thiếu bản chất lý tính”. Song trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lập với mê tín là khoa học thì lại chính là được xây dựng trên cơ sở của sự tín ngưỡng. Đó là sự tín ngưỡng đối với “công lý” ( theo Bách khoa toàn thư).
Sistot cho rằng, công lý là nguyên lý thứ nhất không thể chứng minh được. Tất cả mọi khoa học có tính chứng minh đều bắt đầu từ nguyên lý thứ nhất này. Mỗi môn khoa học đều có nguyên lý thứ nhất của nó. Như hình học giải tích – môn biểu hiện rõ nhất “tinh thần lý tính” của Hy lạp là được xây dựng trên một số tiên đề – cái phải tự thừa nhận chứ không chứng minh được.
Cái phải tự thừa nhận mà không thể chứng minh được chính là dựa trên tín ngưỡng. Chỉ có thừa nhận những nguyên lý thứ nhất đó thì loài người mới có thể thu được tri thức. Do đó “ Kinh thánh” tuyên bố “ mầm mống và tinh hoa của tín ngưỡng đều là mở đầu của tri thức”. Bất luận là công lý hay mầm mống tinh hoa của tín ngưỡng đều là sự thể nghiệm, đều là chân lý tự hiểu, không chứng minh. Loại sự thực mà không thể dùng lý tính hoặc logic suy đoán để chứng minh thì đó là sự biểu hiện của tín ngưỡng. Loại tín ngưỡng này không có “bản chất lý tính”.
Khoa học ngày nay được xem là vạn năng, do đó nó cũng là một loại tín ngưỡng. Mọi người , boa gồm cả hàng vạn nhà khoa học đều sùng bái khoa học, thực chất đó là một hành vi tín ngưỡng. Khoa học hiện đại là biểu tượng của vũ trụ cơ học. Trong thế giới thể nghiệm về sự vận động cơ học thì giữa tôi và vật tách rời nhau. Ta là người đứng riêng ra để nghiên cứu, chỉ quan sát, mô phỏng ( ví dụ như thí nghiệm, lập mô hình toán học, v.v.) . Sự vận động của vật chất là một tồn tại khách quan. Dưới sự so sánh, tham chiếu các hiện tượng của vũ trụ cơ học thì thế giới “vạn vật có trong tôi”, khi đó “vạn vật với tôi làm một” tự nhiên bị xem là chủ nghĩa thần bí. Đó chính là hai sự tín ngưỡng khác biệt nhau, do một bên “ khoa học” xem vật tách khỏi tôi và một bên “ mê tín” cho tôi và vạn vật hòa làm một, do cái biểu tượng của hai thế giới thể nghiệm khác nhau tạo nên.
Khoa học hiện đại ngày nay chỉ là sự mô phỏng vũ trụ cơ học. Các môn khoa học hiện đại được các nhà khoa học tín ngưỡng thực chất là sự mô phỏng theo vật lý học, là sự mô phỏng theo các hiện tượng của vũ trụ cơ học. Theo lời sử gia khoa học người Anh - Tapi mà nói: “ Khoa học có thể gọi là những tri thức có đầu có đuôi về các hiện tượng tự nhiên, cũng có thể gọi là sự nghiên cứu lý tính giữa các loại quan niệm diễn đạt các hiện tượng tự nhiên”. Những nghiên cứu này , những kiến thức này đều tiến hành và thu được theo sự chi phối của quan niệm vũ trụ cơ học. Đặc trưng cơ bản nhất của vũ trụ cơ học là sự vận động cơ học về số lượng và khối lượng. Vật lý học bèn trở thành mô hình kinh điển của biểu tượng vũ trụ này, sử gia khoa học người Anh nói: “Những người tự xưng là “nhà khoa học” trong những lĩnh vực này luôn luôn thừa nhận rằng mình đã tuân theo phương pháp kinh nghiệm của vật lý, giam mình trong phòng thí nghiệm vật lý hiện đại, phân tích thế giới qua các con số . Họ không biết rằng phương pháp mà họ cố tuân theo không những không có hiệu quả mà cũng là phương pháp không làm cho vật lý học thành công.” (A.F. Charmosse: “Khoa học thực chất là gì”).
Vật chất và máy móc là các hình thái văn hóa bề mặt, là hình tượng của ý thức, là vật dụng. Bản thân khoa học kỹ thuật và đối tượng của nó đều là vật chất. Khi con người gọi chung chính trị, hệ thống quản lý là khoa học và dùng kỹ thuật để xử lý nó thì nền văn hóa phương Tây với danh nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo, đề cao cái tôi lên hàng đầu, cũng đã đồng thời đem con người đặt ngang với vật chất. Đáng tiếc là loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái , trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái, trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này chứng tỏ xu hướng tìm đến kỹ thuật của nên văn hóa phương Tây. Khoa học ngày nay chẳng qua là một hệ thống trừu tượng của thế giới vật lý. Cho nên nếu cứ khăng khăng tìm kiếm kỹ thuật tức là chỉ lo tìm hình tượng mà không chú ý đến bản chất, như thế tất nhiên sẽ dẫn đến hậu quả bi kịch là chỉ nắm kỹ thuật, bỏ qua đạo lý. Những nhà sáng tạo thuộc thế hệ mới ở phương Tây đã nhạy cảm hơn chúng ta nhiều khi cảm thấy nền văn hóa của họ đang đứng trước những nguy cơ bao gồm cả những hiện tượng bề mặt như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ khủng hỏang năng lượng, vấn đề dân số, v..v. kể cả nguy cơ tín ngưỡng.
Trong khi chúng ta, những người ở khu vực phi văn hóa phương Tây đang cố tìm kiếm kỹ thuật phương Tây thì một số nhà triết học phương Tây đã sớm bắt đầu tìm phương cứu thế từ bên ngoài văn hoá phương Tây. Điều đó chứng tỏ văn hóa phương Tây đang mất dần vị thế thống trị hơn 100 năm nay. Hình thái văn hóa phương Tây là lấy kỹ thuật làm biểu tượng dẫn đầu. Còn các nhân sĩ văn hóa phương Đông của chúng ta khi sử dụng kỹ thuật của phương Tây lại không hiểu được đạo lý của biểu tượng đó, tức là dùng kỹ thuật mà bỏ quên đạo lý. Như thì làm sao mà thoát khỏi được những bế tắc của đám bụi trần do lịch sử tích tụ lại.
Ý rõ, đạo sáng để thể hiện thế giới. Sự khác nhau giữa khoa học hiện đại với “ mê tín dạng Trung Quốc” chỉ là ở chỗ: cái trước thể nghiệm thế giới theo các: con người tách khỏi xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh hòa làm một. Am dương ngũ hành, cái bị gọi là đại bản doanh của mê tín chính là thế giới quan tự nhiên hay triết học tự nhiên của người Trung Quốc cổ đại chứ không phải người ngày nay khiên cưỡng , phụ họa ra. Vì trong sự thể nghiệm của người Trung Quốc cổ đại không có thiên nhiên đối lập với con người, trời đất đối lập với bản thân ta. Am dương, ngũ hành thống triệt trong tất cả mọi thứ nghiệm. Nó là biểu tượng toàn bộ thông tin giữa vũ trụ với cuộc sống con người. Thuật toán mà ngày nay bị xem là “mê tín” , ngày xưa vốn chiếm một vị trí rất cao. Giá trị vị trí của nó còn cao hơn cả khoa học ngày nay, vì không những nó là biểu tượng mà con là mô phongr thế giới thể nghiệm; là mô hình bầu trời ( hay đạo). Ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. Am dương ngũ hành là biểu tượng, trong biểu tượng nó bao gồm cả ý nghĩa; thuật số là kỹ thuật , nhưng trong kỹ thuật đó đã có đạo. Rõ được điều đó tức là ý rõ , đạo sáng. Nền văn hóa chân chính là sự hòa quyện không chỉ giữa biểu tượng với vật thể mà còn là ở ý và đạo. Sự dung hợp nền văn hóa mới không chỉ lấy kỹ thuật làm trọng mà phải là một quá trình “đồng hóa” rộng rãi hơn, to lớn hơn, tinh hoa hơn, sâu sắc hơn trong đó lấy sự thể nghiệm thế giới làm cốt lõi. Hiểu rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa tận cùng của văn hóa Trung Quốc chính là ở chỗ này.
ày hôm nay là một phần của cha mẹ, nhưng người mẹ là chính, chín tháng người mẹ cưu mang, chúng ta lớn lên trong thai mẹ. Chúng ta có cùng một nhịp thở, cùng một nhịp tim, cùng một nguồn dinh dưỡng với người mẹ. Nói rộng hơn, thân của chúng ta được nuôi từ người mẹ thì gồm có hai phần là vật chất và tinh thần. Phần vật chất không ai phủ nhận được là trong bào thai, từ hơi thở cho đến thức ăn của mẹ nuôi dưỡng chúng ta.
Một số mẫu hình xăm về mẹ ý nghĩa và đẹp nhất:





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chúng ta luôn tò mò trong 12 con giáp con giáp nào có vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết? Không ai khác, đó chính là những cô nàng tuổi Dậu, Sửu, Tý và Ngọ. Những con giáp khác thì như thế nào? để hiểu rõ hơn chúng ta cùng khám phá trong bài viết về các con giáp có vẻ đẹp tâm hồn hay nói cách khác là những cô nàng có vẻ đẹp tâm hồn ngay dưới đây nhé!
Nội dung
Những cô nàng tuổi Dậu không quá nổi bật về vẻ bên ngoài, nhưng họ lại có sức hút nhờ vẻ đẹp tâm hồn bên trong: hiền thục, nữ tính và thuần khiết. Đó cũng chính là ấn tượng đầu tiên để lại trong mắt người khác giới khi tiếp xúc với người tuổi Dậu. Thậm chí, boy nào cũng muốn bảo vệ và che chở cho các cô nàng dịu dàng tuổi Dậu.

Khi mặt đối mặt với cô nàng tuổi này, bạn sẽ phát hiện thấy ánh mắt dịu dàng, long lanh, ngây thơ và có chút gì đó yếu ớt và cần được bảo vệ.
Con gái tuổi Sửu có tính cách dịu dàng, hòa đồng và tâm hồn trong sáng. Bất luận làm việc gì họ đều mang lại cảm giác thoải mái cho mọi người xung quanh.

Những cô nàng khôn ngoan tuổi Sửu luôn biết cách cư xử đúng chừng mực, nói năng khiêm tốn và hài hước. Do vậy, họ dễ chiếm được cảm tình của người khác, đặc biệt là hội đầu keo.
Tính cách nổi bật của cô nàng tuổi Tý là sự điềm tĩnh, bí ẩn và duyên dáng. Thường họ không nói quá to, luôn mỉm cười và ân cần với tất cả mọi người.

Trước mặt mọi người, họ đều tỏ vẻ xấu hổ, nói năng nhẹ nhàng, trong sáng. Điều đó tạo nên sức hút cực mạnh đối với người khác giới.

Vốn tính lạc quan, vui vẻ, nhiệt tình và thích cười nên những nàng tuổi Ngọ rất dễ thu hút sự chú ý của mọi người. Khi tiếp xúc với họ, bạn sẽ thấy niềm vui nhanh chóng được lan tỏa. Bởi chỉ cần họ mỉm cười là có thể khuấy động bầu không khí tẻ nhạt và xua tan mọi muộn phiền lo âu.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| 1. Tuổi Sửu | 2. Tuổi Dần | 3. Tuổi Thìn | 4. Tuổi Tỵ | 5. Tuổi Ngọ |
Tuệ Anh (theo Diyixz)
I - Tứ trụ
Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó .
Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng, nên ở đây thống nhất mọi thông tin về lịch phải dùng dương lịch để tính toán cho tiện lợi và tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm trước đó.
1 – Cách xác định Trụ năm - Tức năm sinh
Theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý thì năm nay 2008 là năm Mậu Tý, năm 2009 là năm Kỷ Sửu,........ . Các năm trước đây hay sau này cứ theo bảng này tra là ra hết. Nhưng năm của lịch Can Chi thường bắt đầu vào ngày 4/2 hoặc ngày 5/2 dương lịch, khác với dương lịch bắt đầu vào ngày 1/1, và càng khác so với Âm lịch tính năm mới theo lịch mặt Trăng. Muốn xác định chính xác năm mới hay các tháng theo lịch Can Chi bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng phía dưới. Bảng này xác định tháng, ngày, giờ và chính xác tới phút bắt đầu năm mới cũng như tháng mới (lệnh tháng) của lịch Can Chi từ năm 1898 đến năm 2018 (phần này được trích ra từ cuốn sách Lịch Vạn Niên)
Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi .
(Từ năm 1898 đến năm 2018 theo giờ Bắc Kinh)

……………………………………………………

(Chú ý: Bảng xác định lệnh tháng này của Trung Quốc nên nó được tính theo giờ Bắc Kinh, còn “Ngày giờ Sóc (New Moons) và Tiết khí (Minor Solar Terms) từ 1000 đến 2999“ trên Google là của Việt Nam theo giờ Hà Nội nên giờ giao lệnh ít hơn của Trung Quốc 60’. Hiện giờ tôi chưa biết xác định lệnh tháng theo giờ Bắc Kinh hay Hà Nội là đúng. Phải chăng căn cứ theo múi giờ quốc tế thì cứ ít hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì lệnh tháng phải giảm đi từng ấy tiếng, cũng như cứ nhiều hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì phải cộng thêm từng ấy tiếng theo bảng xác định lệnh tháng ở trên ?) .
Ví dụ : Ngày 4/2 /1968 theo lịch can chi thuộc năm nào? Nó vẫn thuộc năm Đinh Mùi (1967) nhưng tới 2,08’ (1,08’ theo giờ Hà Nội) ngày 05/2/1968 nó mới thuộc năm Mậu Thân (1968).
Ví dụ : Lúc 7,59’ngày 04/2/1969 dương lịch thuộc năm nào của lịch can chi ? Đã thuộc năm Kỷ Dậu (1969), còn trước 7,59’ vẫn thuộc năm Mậu Thân (1968).
Qua đây chúng ta thấy theo lịch Can Chi thì năm mới được tính chính xác tới phút khi trái đất quay hết một vòng xung quanh mặt trời (không như chúng ta thường tính lúc 0,00’ của đêm giao thừa).
Nghĩa là chúng ta đã có một trụ đầu tiên, đó là trụ năm (tức năm sinh).
2 – Cách xác định Trụ tháng - Tức tháng sinh (lệnh tháng)
Theo lịch Can Chi thì tháng đầu tiên của một năm luôn luôn là tháng Dần sau đó là tháng Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Tháng trong lịch can chi được xác định khác với dương lịch. Muốn xác định chính xác tháng sinh (lệnh tháng) theo lịch can chi bắt buộc bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng ở trên.
Ví dụ : Ngày 07/10/1968 thuộc tháng nào của lịch can chi? Tra bảng ta thấy nó thuộc tháng Dậu, còn từ ngày 08/10/1968 nó mới sang tháng Tuất.
Khi đã biết địa chi của một tháng thì cách xác định can của tháng đó hoàn toàn phụ thuộc vào can của năm đó như sau:
Các năm có can là Giáp và Kỷ thì các tháng của năm đó lần lượt là : Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, ...... Đinh Hợi (tức là các can chi phải tuân theo đúng quy luật của vòng tròn đã nói ở trên).
Các năm Ất và Canh các tháng là : Mậu Dần, Kỷ Mão, .........., Kỷ Hợi.
Các năm Bính và Tân ------------- : Canh Dần,........................., Tân Hợi.
Các năm Đinh và Nhâm ----------- : Nhâm Dần, ......................, Quý Hợi.
Các năm Mậu và Quý ------------- : Giáp Dần, ........................, Ất Hợi.
Bảng tra can tháng theo can năm

Ví dụ : Can của tháng Thìn của năm 1968 là gì? Tra theo bảng xác định lệnh tháng thì năm 1968 là năm Mậu Thân, vì vậy nó thuộc năm tra theo các can Mậu và Quý. Các tháng của nó lần lượt là : Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, ........ Do vậy tháng Thìn là Bính Thìn.
Đến đây ta có trụ thứ hai, đó là trụ tháng.
3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh
Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày).
Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) .
Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày .
Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008
1889 – Bính Tý.............1929 - Ất Tị................1969 - Ất Hợi
1890 – Tân Tị...............1930 – Canh Tuất........1970 – Canh Thìn
1891 – Bính Tuất..........1931 - Ất Mão................1971 - Ất Dậu
1892 – Nhâm Thìn *......1932 – Tân Dậu *.............1972 – Tân Mão *
1893 – Đinh Dậu............1933 – Bính Dần.........1973 – Bính Thân
1894 – Nhâm Dần.........1934 – Tân Mùi............1974 – Tân Sửu
1895 – Đinh Mùi...........1935 – Bính Tý...........1975 - Bính Ngọ
1896 – Quý Sửu *........1936 – Nhâm Ngọ *..........1976 – Nhâm Tý *
1897 - Mậu Ngọ............1937 – Đinh Hợi......1977 – Đinh Tị
1898 – Quý Hợi............1938 – Nhâm Thìn.....1978 – Nhâm Tuất
1899 – Mậu Thìn...........1939 – Đinh Dậu......1979 – Đinh Mão
1900 – Quý Dậu............1940 – Quý Mão *.......1980 – Quý Dậu *
1901 - Mậu Dần............1941 - Mậu Thân......1981 – Mậu Dần
1902 – Quý Mùi............1942 – Quý Sửu.......1982 – Quý Mùi
1903 - Mậu Tý.............1943 - Mậu Ngọ.......1983 - Mậu Tý
1904 – Giáp Ngọ *.........1944 – Giáp Tý *.....1984 – Giáp Ngọ *
1905 - Kỷ Hợi.............1945 - Kỷ Tị..............1985 - Kỷ Hợi
1906 – Giáp Thìn..........1946 – Giáp Tuất.....1986 – Giáp Thìn
1907 - Kỷ Dậu.............1947 - Kỷ Mão...........1987 - Kỷ Dậu
1908 - Ất Ngọ *...........1948 - Ất Dậu *.........1988 - Ất Mão *
1909 – Canh Thân..........1949 – Canh Dần......1989 – Canh Thân
1910 - Ất Sửu.............1950 - Ất Mùi...........1990 - Ất Sửu
1911 – Canh Ngọ...........1951 – Canh Tý..........1991 – Canh Ngọ
1912 – Bính Tý *..........1952 – Bính Ngọ *....1992 – Bính Tý *
1913 – Tân Tị................1953 – Tân Hợi.......1993 – Tân Tị
1914 – Bính Tuất..........1954 – Bính Thìn.....1994 – Bính Tuất
1915 – Tân Mão..............1955 – Tân Dậu.........1995 – Tân Mão
1916 – Đinh Dậu *.........1956 – Đinh Mão *....1996 – Đinh Dậu *
1917 – Nhâm Dần...........1957 – Nhâm Thân.....1997 – Nhâm Dần
1918 – Đinh Mùi...........1958 – Đinh Sửu......1998 – Đinh Mùi
1919 – Nhâm Tý............1959 – Nhâm Ngọ......1999 – Nhâm Tý
1920 - Mậu Ngọ *..........1960 - Mậu Tý *..........2000 - Mậu Ngọ *
1921 – Quý Hợi............1961 – Quý Tị.............2001 – Quý Hợi
1922 - Mậu Thìn...........1962 - Mậu Tuất.......2002 - Mậu Thìn
1923 – Quý Dậu..............1963 – Quý Mão..........2003 – Quý Dậu
1924 - Kỷ Mão *.............1964 – Kỷ Dậu *.......2..004 - Kỷ Mão *
1925 – Giáp Thân..........1965 - Giáp Dần.......2005 – Giáp Thân
1926 - Kỷ Sửu...............1966 - Kỷ Mùi...........2006 – Kỷ Sửu
1927 – Giáp Ngọ............1967 – Giáp Tý..........2007 – Giáp Ngọ
1928 – Canh Tý *............1968 – Canh Ngọ *.....2008 – Canh Tý *
Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày.
4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh
Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau :
Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ Tý . Từ 11 giờ đến 13 giờ là giờ Ngọ:
Từ 1 --------3 ------------ Sửu Từ 13 --------15 ---------- Mùi
Từ 3 ---------5 ----------- Dần Từ 15 ------- 17 ---------- Thân
Từ 5 ---------7 ----------- Mão Từ 17 --------19 -----------Dậu
Từ 7 ---------9 ----------- Thìn Từ 19 --------21 -----------Tuất
Từ 9 --------11 ----------- Tị Từ 21 --------23 ----------Hợi
Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi.
Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5.
Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau :
Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) .
Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi.
Các................... Bính và Tân............................. : Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi.
Các ...................Đinh –Nhâm ........................... : Canh Tý,.............., Tân Hợi.
Các ...................Mậu – Quý ............................. : Nhâm Tý,............., Quý Hợi.
Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ.
Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ
Chúng ta đã có đủ bốn trụ của một người.
Ví dụ 1 : Một người sinh ngày 12/11/1965, lúc 8,00 am, có tứ trụ :
Năm Ất Tị - tháng Đinh Hợi - ngày Canh Ngọ - giờ Canh Thìn.
Ví dụ 2 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,07’ có tứ trụ:
Đinh Mùi - Quý Sửu - ngày Ất Tị - Đinh Hợi.
Ví dụ 3 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,08’ có tứ trụ :
Mậu Thân - Giáp Dần - ngày Ất Tị - Đinh Hợi.
Qua ví dụ 2 và 3 chúng ta thấy hơn nhau 1 phút là sang năm khác, tháng khác và tứ trụ sẽ khác nhau. Cho nên giờ và phút để xác định lệnh tháng là vô cùng quan trọng trong việc xác định tứ trụ.
Nếu theo cách xác định mặt trời ở đúng đỉnh đầu tại địa điểm nơi người đó được sinh là 12,00’ thì cách xác định giờ sinh ở bảng trên chỉ đúng với những người được sinh ở vị trí đúng giữa múi giờ đó, còn những người được sinh trong cùng một múi giờ mà ở càng xa điềm giữa của múi giờ đó về hai bên thì sai số về phút càng lớn (có thể từ -60’ tới +60’).
Cho nên trong các trường hợp này tốt nhất là lấy cả hai tứ trụ để dự đoán. Đến khi trong thực tế xẩy ra các sự kiện phù hợp với tứ trụ nào thì tứ trụ đó mới được xem là chính xác cho người đó.
Bảng tra can giờ theo can ngày

Theo tôi chỉ khi nào con người xác định được trụ thứ 5, tức trụ phút này thì môn dự đoán theo Tứ Trụ mới thật sự là hoàn hảo. Bởi vì như chúng ta thấy bốn trụ không có tính đối xứng mà trụ ngày phải ở giữa và mỗi bên phải có hai trụ mới hợp lý. Hơn nữa chúng ta thấy cách xác định trụ tháng và trụ giờ giống nhau bởi đơn vị 12 (12 tháng, 12 giờ), còn cách xác định trụ năm và trụ ngày giống nhau bởi đơn vị 60 (tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý) thì không có lý do gì để không sử dụng trụ phút cũng được xác định theo đơn vị 60 (cứ hai phút bình thường được tính thành một phút theo lịch Can Chi và nó cũng tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý).
Theo sự suy luận của tôi thì cách xác định phút nó cũng giống như cách xác định năm và ngày của lịch can chi, nhưng chúng ta không biết Họ đã dựa vào nền tảng nào để xác định chúng. Bởi vậy muốn xác định phút theo lịch can chi, chúng ta phải có một vài ví dụ của những cặp sinh đôi chỉ cách nhau vài phút. Dùng phương pháp suy luận ngược, chúng ta dựa vào những sự kiện lớn đã phát sinh ra của các cặp sinh đôi này như tai nạn, ốm đau, ... , nhất là cái chết của họ và nếu chúng ta sử dụng phương pháp tính điểm hạn này để tính các điểm hạn thì may ra có thể xác định được chính xác can chi của phút sinh của mỗi người này. Sau đó các phút khác sẽ được xác định theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, hoàn toàn tương tự như xác định năm và ngày.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tham khảo thêm: Đặt tên con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp |
Đặc biệt, tên các loài vật biết bay có thể dùng để đặt tên người, gồm có các chữ như Diên Lân (chỉ con lân, con vật trong tứ linh); Quy (chỉ con rùa); Phượng (chỉ con phượng hoàng); Phúc (chỉ con dơi); Lộc (chỉ con nai); Oanh (chỉ chim oanh); Uyên (chỉ tên loài chim uyên ương); Loan (chỉ chim loan và nó thường đi với chim phượng, ý chỉ vợ chồng hòa thuận); Hồng (chỉ chim hồng, hay còn gọi là hồng nhạn); Ly (chỉ chim hoàng ly, hoàng anh); Quyên (chỉ chim đỗ quyên); Bằng (chỉ chim ó, chim ưng)... Mỗi 1 loài đều có những đặc điểm riêng mang đầy ý nghĩa để có thể được dùng để đặt tên cho con người.
Diên
Diên chính là chỉ tên của chim ưng, chim ó. Tên của loài chim này khá hay gặp trong danh từ riêng chỉ người. Bởi vì chim ó là loài chim bay rất cao, rất dũng mãnh và được nhiều người yêu thích. Khi dùng tên loài chim này để đặt tên, bạn có thể dùng chữ Diên để làm tên, cũng có thể dùng làm tên đệm, ví dụ Diên Hải, Mạnh Diên, Diên Vỹ, Diên Vũ, Diên Minh, Lâm Diên...
Hải Âu
Hải âu hay còn gọi là chim Âu, là loài chim có lông màu trắng sinh sống chủ yếu ở bờ biển. Đây là loài chim thông minh, thực hiện những hình thức giao tiếp phức tạp và có tổ chức bầy đàn cao. Đặc biệt, loài chim xinh đẹp này rất giỏi đương đầu với mưa gió biển khơi và rất thân thiện với con người. Vì thế, sử dụng chữ Âu làm tên người nghe rất hay.Loan
Loan chính là chim phượng hoàng, là vua của trăm loài chim trong truyền thuyết cổ đại. Bộ lông của phượng hoàng rất diễm lệ, là biểu tượng cho sự cát tường, mạnh khỏe. Nếu sử dụng chữ "Loan" làm tên gọi sẽ mang nội hàm là cát tường. Một số tên gọi hay như: Hồng Loan, Kim Loan, Thanh Loan, Bích Loan...
Lưu ý: Đối với những người thường giao tiếp hoặc có quan hệ với người nước ngoài thì không nên đặt tên Loan, vì theo tiếng Anh, Loan nghĩa là Nợ.
Ly
Ly chỉ loài chim hoàng ly có thân hình màu vàng, màu đỏ, tiếng kêu nghe rất hay. Nó cũng có tên gọi là hoàng oanh. Tên gọi Hoàng Ly hàm ý chủ nhân có dung mạo đẹp đẽ và giọng nói trong trẻo dễ nghe. Một số tên khác cũng rất ý nghĩa như Kiều Ly, Ngọc Ly...
Quyên
Tức là chỉ chim Đỗ Quyên, là loài chim có lông màu tro, đuôi lại điểm 1 vài dấu chấm trắng. Đỗ quyên là cách gọi giống nhau của chim đỗ quyên và hoa đỗ quyên. Một số tên Quyên mang ý nghĩa tốt đẹp: Kim Quyên, Lệ Quyên, Tố Quyên, Ngọc Quyên, Vũ Quyên...
Oanh
![]() |
| Tên Oanh thường được dùng để đặt tên cho con gái |
Hình dáng chim oanh rất nhỏ bé, có lông màu nâu hoặc màu xanh tối. Người ta thường múa điệu “oanh ca yến vũ” để chào đón mùa xuân về. Tên Oanh thường được dùng để đặt tên cho con gái và có thể được dùng làm tên đệm. Một số tên gọi hay như: Hoàng Oanh, Kim Oanh, Lâm Oanh, Yến Oanh, Oanh Vũ, Oanh Ca...
Uyên
Chim uyên ương có thân hình nhỏ bé, không những là loài chim bay giỏi mà còn biết bơi. Nó có bộ lông sặc sỡ rất đẹp. Con cái lại có lông màu nâu. Chim đực và chim cái thường cùng chung sống với nhau ở ven hồ, do đó mọi người thường ví uyên ương như đôi vợ chồng. Nếu muốn chỉ tính cách dịu dàng, hòa thuận thì chữ “Uyên” rất thích hợp để đặt tên cho con gái. Một số tên gọi hay có thể đặt như: Tố Uyên, Mỹ Uyên, Hồng Uyên...Bằng
Chim Bằng là loài chim lớn nhất so với các loài chim khác trong truyền thuyết. Người ta thường ví “bằng trình vạn lý” với những gì xa xôi ở hành trình phía trước. Ở Việt Nam có 1 số người đặt tên cho con là Bằng với hàm ý công bằng: Vũ Bằng là 1 cái tên khá ý nghĩa. Ngoài ra, còn 1 số tên khác như Bằng Sơn, Thiên Bằng, Lâm Bằng...
Mi
Mi là loài chim có bộ lông màu nâu, giọng hót mượt mà, dễ nghe. Với người con gái yêu thích ca hát thì dùng chữ Mi với ý nghĩa là nốt nhạc là hay nhất. Mang ý nghĩa này, ta có thể đặt tên là Giáng Mi, Diễm Mi, Trà Mi, Hoàng Mi...
Long
Thời xưa, rồng là hóa thân của Hoàng đế, đại diện của quyền lực. Rồng được liệt vào vị trí số 1 trong “tứ linh”, bao gồm: Long, Lân, Quy, Phượng. Trong ngũ hành, rồng đại diện phương Đông, được mệnh danh là Thanh Long, đối xứng với Bạch Hổ ở phương Tây. Vì thế, lấy tên Long đặt cho con trai với kỳ vọng lớn vào công danh của con mình sau này quả là lý tưởng. Những cái tên gắn liền với hình tượng rồng mang đầy ý nghĩa như: Vân Long, Long Sơn, Thiên Long, Long Du, Thủy Long, Ngọc Long, Thanh Long, Thăng Long, Xuân Long...
Theo Tìm hiểu khoa học về tên gọi
|
Yếu tố gây động trong phong thủy âm trạch
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
1. Lấy tay nghịch tóc
Bạn vui buồn thất thường, dễ đa sầu đa cảm, hay trầm trọng hóa vấn đề. Khi người khác ở bên bạn, họ luôn phải thận trọng trong từng lời nói, vì sợ bạn phật lòng, không vừa ý.
2. Để tay lên miệng
Bạn rất để tâm tới việc người khác nghĩ gì về mình, luôn cho rằng có ai đó đang nhìn mình, sống nhạy cảm với thế giới xung quanh.
3. Nghịch đồ phụ kiện
Bạn hay suy tư, làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điểm yếu của bạn là dễ chán, không kiên trì nên nhiều khi bỏ dở giữa chừng.
![]() |
4. Khoanh tay
Bạn có xu hướng sống nội tâm, không thích thể hiện tình cảm và có chút thiếu tự tin, luôn trong tư thế phòng thủ. Bên cạnh đó, bạn còn được biết đến là người có suy nghĩ độc đáo, logic và lập trường vững chắc.
5. Vừa nói vừa cười
Bạn đi đến đâu, mang tới tiếng cười và sự vẻ đến đó. Bất cứ ai ở bên bạn đều cảm thấy yên bình, dễ chịu. Có thể nói, bạn thuộc tuýp người thích mang niềm vui tới cho mọi người, nhưng lại ngại chia sẻ chuyện riêng tư của mình cho người khác.
6. Luôn phải dựa vào vật gì đó
Bạn bề ngoài mạnh mẽ, cứng rắn, luôn tỏ ra vô tư, vui vẻ. Thực chất, nội tâm bạn rất sâu sắc, nhạy cảm và hay dỗi.
7. Rung chân
Maruko
Sau đây là một số cách hóa giải hình sát thường gặp:
|
| (Ảnh minh họa) |
Đó là những ngôi nhà gần sông, hồ, biển, ao lớn. Vào buổi sáng hay chiều tà, ánh nắng mặt trời chiếu xuống nước khúc xạ rồi lại hắt ánh nắng vào nhà gọi là "phản quang sát". Thứ ánh sáng này có thể làm tinh thần tán loạn, có khi gây bệnh nặng nguy hiểm đến tính mạng. Mặt nước như vậy được phong thủy gọi là "gương soi chậu máu".
1 dạng "phản quang sát" khác thường thấy ở đô thị, nơi nhiều nhà cao tầng có gắn nhiều gương, kính ở bên ngoài. Khi ánh nắng mặt trời chiều nghiêng, sẽ phản quang chiếu xạ vào nhà đối diện. "Phản quang sát" như vậy khiến người ở đó dễ mắc bệnh về máu hoặc gặp tai nạn do va đập.
Hóa giải phản quang sát có thể dùng giấy nhám có keo dính thấu suốt dán lên kính nơi ánh nắng hay chiếu vào. Ngoài ra, còn có thể dùng hồ lô treo ở 2 bên góc cửa sổ. Nếu "phản quang sát" mạnh thì đặt thêm 2 xâu tiền cổ ngũ đế (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh).
Đó là đất có hình đường cong mà lưng quay về phía nhà. Địa thế này có sức sát thương lớn gây đổ máu. Cách hóa giải: ở cát phương đặt 1 đôi ngựa đồng và ngũ đế bạch ngọc.
|
Sinh sống tại đất này, nhiều khả năng gia chủ mắc bệnh tật, gặp tai nạn. Để hóa giải, bạn có thể treo rèm hạt châu hoặc làm bình phong. Ngoài ra, tại cửa sổ treo chuông gió hoặc đôi kim nguyên bảo.
"Bạch Hổ sát" là bên phải nhà đang ở, hàng xóm phá thổ; hoặc bên phải nhà có tòa nhà xây lên hoặc phá đi. Nếu nhà ở đây thì chủ nhân sẽ mắc bệnh tật. Để hóa giải, cạnh tường bị xung sát đặt 2 xâu ngũ đế bạch ngọc hoặc 2 con kỳ lân cùng hồ lô.
|
|
Một thanh niên học hành xuất sắc nộp đơn vào chức vụ quản trị viên của một công ty lớn. Anh ta vừa xong đợt phỏng vấn đầu tiên, ông giám đốc công ty muốn gặp trực tiếp để có quyết định nhận hay không nhận anh ta. Và ông thấy từ học bạ của chàng thanh niên, tất cả đều tốt và năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học cũng đều xuất sắc, không năm nào mà anh chàng thanh niên này không hoàn thành vượt bậc.
Viên giám đốc hỏi:
- Anh đã được học bổng của những trường nào?
- Thưa không
- Thế cha anh trả học phí cho anh đi học sao?
- Cha tôi mất khi tôi vừa mới một tuổi đầu. Mẹ tôi mới là người lo trả học phí.
- Mẹ của anh làm việc ở đâu?
- Mẹ tôi làm công việc giặt áo quần.
Viên giám đốc bảo chàng thanh niên đưa đôi bàn tay của anh cho ông ta xem. Chàng thanh niên có hai bàn tay mịn màng và hoàn hảo.
- Vậy trước nay anh có bao giờ giúp mẹ giặt giũ áo quần không?
- Chưa bao giờ. Mẹ luôn bảo tôi lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi - Chàng thanh niên đáp.
- Tôi yêu cầu anh một việc. Hôm nay khi trở lại nhà, lau sạch đôi bàn tay của mẹ anh, và rồi ngày mai đến gặp tôi.
Ðến lúc ấy thì chàng thanh niên có cảm tưởng là công việc tốt này đang sẵn sàng là của mình. Về đến nhà, chàng ta sung sướng khoe với me, và chỉ xin được cầm lấy đôi bàn tay của bà. Mẹ chàng trai cảm thấy có điều gì đó khác lạ. Với một cảm giác vừa vui mà cũng vừa buồn, bà đưa đôi bàn tay cho con trai xem.
Bàn tay của mẹ, bài học của con
Chàng thanh niên từ từ lau sạch đôi bàn tay của mẹ. Vừa lau, nước mắt chàng tuôn tràn. Ðây là lần đầu tiên chàng thanh niên mới có dịp khám phá đôi tay mẹ mình: đôi bàn tay nhăn nheo và đầy những vết bầm đen. Những vết bầm làm đau nhức đến nỗi bà đã rùng mình khi được lau bằng nước. Lần đầu tiên trong đời, chàng thanh niên nhận thức ra rằng, chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này đã giúp trả học phí cho chàng từ bao nhiêu lâu nay.
Những vết bầm trong đôi tay của mẹ là giá mẹ chàng phải trả dài đăng đẳng cho đến ngày chàng tốt nghiệp, cho những xuất sắc trong học vấn và cho tương lai sẽ tới của chàng.
Sau khi lau sạch đôi tay của mẹ,chàng thanh niên lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại cho mẹ.

Tối đó, hai mẹ con tâm sự với nhau thật là lâu.
Sáng hôm sau, chàng thanh niên tới trụ sở công ty. Viên giám đốc còn thấy những giọt nước mắt chưa ráo hết trong đôi mắt của chàng thanh niên, ông hỏi: “Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã học được hôm qua ở nhà không?”
Chàng thanh niên đáp: “Tôi lau sạch đôi tay của mẹ, và cũng giặt hết phần áo quần còn lại.”
Viên giám đốc: “Cảm tưởng của anh ra sao?”
Chàng thanh niên nói: “Thứ nhất, bây giờ tôi mới thấu hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn: Không có mẹ, tôi không thể thành tựu được như hôm nay. Thứ hai, qua việc hợp tác với nhau, và qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức được rằng thật khó khăn và gian khổ để hoàn tất công việc. Thứ ba, tôi hiểu sâu xa được tầm mức quan trọng và giá trị của liên hệ gia đình.”
Viên giám đốc nói: “Ðây là những gì tôi cần tìm thấy ở nơi con người sẽ là quản trị viên trong công ty chúng tôi. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của những người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của những người khác để hoàn thành nhiệm vụ, và một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất của cuộc đời. Em được nhận.”
Sau đó, chàng thanh niên làm việc hăng say, và nhận được sự kính trọng của các nhân viên dưới quyền. Tất cả nhân viên làm việc kiên trì và hợp tác như một đội. Thành tựu của công ty mỗi ngày mỗi được cải thiện.
Câu chuyện nói về sự hi sinh của người mẹ. Nhưng em tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu không có người Giám đốc nọ, chắc hẳn người mẹ vẫn phải hi sinh thầm lặng mà người con không hay biết. Em mong rằng mỗi người mẹ trên thế gian này ngoài sự yêu thương không giới hạn, bàn tay làm việc không mệt mỏi thì hãy sớm để cho đứa con sớm nhìn ra bàn tay đó, để họ biết đươc giá trị từng giây phút hạnh phúc.
Theo Bài Học Cuộc Sống
1. Nốt ruồi ở cằm
![]() |
Bạn biết tự cân bằng, điều hòa cuộc sống. Đặc biệt, bạn khiến người khác khó cưỡng lại được sức hút của bản thân.
2. Nốt ruồi bên phải trán
![]() |
Một cuộc sống giàu sang đang chờ bạn trong tương lai với đầy danh vọng, thành công và tiền bạc.
3. Nốt ruồi bên má phải
![]() |
Sự lạc quan, vui vẻ với tâm hồn lãng mạn là những từ rất phù hợp để nói về bạn.
4. Nốt ruồi bên má trái
![]() |
Bạn sống nội tâm, khép kín và luôn bí ẩn trong mắt người khác.
5. Nốt ruồi ở ngực
![]() |
Bạn thích những thứ đồ xa xỉ và sự nhàn hạ trong cuộc sống.
6. Nốt ruồi ở mũi
![]() |
Bạn nóng tính nên xử lý nhiều vấn đề rất vội vàng . Dù vậy, bạn lại là một tay chơi chính hiệu trên tình trường đấy nhé.
7. Nốt ruồi trong lòng bàn tay
![]() |
Nốt ruồi ở lòng bàn tay phải cho thấy bạn có số giàu sang trong tương lai, không cần lo đến cái ăn mặc. Còn nếu ở lòng bàn tay trái, bạn có tính cách bốc đồng, nóng nảy.
8. Nốt ruồi ở bàn chân![]() |
Bạn thích đi phượt đây đó khắp nơi và thích sự mạo hiểm.
9. Nốt ruồi ở vai
![]() |
Bạn rất nhạy cảm, có tinh thần trách nhiệm cao. Là con người vui vẻ, chỗ dựa vững chắc cho người khác.
10. Nốt ruồi ở trong mắt
![]() |
Nếu ở mắt phải, bạn là người dễ kiếm ra tiền bằng năng lực của bản thân. Nếu ở mắt trái, bạn ngạo mạn, kiêu căng.
11. Nốt ruồi dưới lông mày
![]() |
Bạn sở hữu một trí óc sáng tạo tuyệt vời khiến người khác đôi khi phát ghen lên được đấy.
12. Nốt ruồi ở tai
![]() |
Bạn đáng tin cậy và giàu tình cảm. Vì thế, với bạn, gia đình luôn là số một.
13. Nốt ruồi ở cánh tay
![]() |
Nó thể hiện tính quyết đoán, sự mạnh mẽ bên trong con người bạn.
14. Nốt ruồi ở ngón tay
![]() |
Cuộc sống của bạn sẽ gặp phải những khó khăn, thử thách buộc bạn phải mạnh mẽ vượt qua để đến đích chiến thắng.
1./ Từ câu chuyện đình đám của người Thái Lan
Mấy ngày hôm nay, những bức ảnh đám cưới đẹp như thiên thần của cặp song sinh mới 3 tuổi đến từ Thái Lan đang gây “bão” trên mạng xã hội.

Đám cưới này diễn ra tại tỉnh Nakhonsawan, Thái Lan hôm 21/11/2015, tại nhà riêng. Chú rể của đám cưới, bé Petai Angdechawat, đã cưới chị gái song sinh của mình, Paillin. Cả hai mới tròn 3 tuổi. Đám cưới còn gây sốc với công chúng địa phương khi gia đình sẵn sàng chi món tiền “khủng” cho sự kiện này.

Trong đám cưới, “chú rể” Petai đã mang theo sính lễ gồm tiền mặt và vàng có giá trị lên đến 3 triệu bath (khoảng 2 tỷ đồng) để cầu hôn “cô dâu” Paillin.
Lý giải cho đám cưới “kỳ quặc” này, cha mẹ của hai em bé nói rằng họ phải tổ chức đám cưới xa hoa, lộng lẫy như vậy vì muốn cắt “tiền duyên” của hai em bé.
Được biết, trong văn hóa của Thái Lan, song sinh khác giới không phải điều tốt lành. Người ta tin rằng, cặp song sinh khác giới kiếp trước từng là người yêu nhưng bị ngăn cấm nên không đến được với nhau. Cặp đôi đó sẽ được đầu thai thành anh em song sinh trong kiếp sau nếu lời cầu nguyện đến được với Chúa.
Do đó, việc gia đình tổ chức đám cưới cho anh em sinh đôi là làm lễ cắt duyên cho hai bé. Họ lo sợ rằng nếu không làm vậy, nếu em bé sẽ rất khó nuôi, lớn lên có thể bị hạn chết trẻ.
2./ Đến câu chuyện lo âu của người Việt:
Không chỉ riêng Thái Lan mà trong văn hóa của một số quốc gia Châu Á khác như Trung Quốc, Việt Nam cũng như vậy. Theo quan niệm dân gian, một bé trai và một bé gái sinh đôi là do kiếp trước duyên nợ không thành nên kiếp này cùng đầu thai để được “sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm” và được ở bên nhau. Do vậy, mọi người phải làm lễ cắt tiền duyên cho 2 đứa trẻ. Nếu không, chúng sẽ rất khó nuôi, dễ chết trẻ. Và lớn lên “không lấy được vợ, được chồng”. (?!)
Trường hợp của chị Lâm Phương Lan (22 tuổi – Long Biên, Hà Nội), tháng 8 vừa rồi chị mới sinh một cặp sinh đôi được gần 2 tháng. “Nhiều người bạn của tôi đã nói rằng tôi may mắn khi chỉ chịu đau một lần mà sinh được 2 thiên thần, đã vậy còn một trai một gái. Nhìn 2 con, tôi cũng thấy mình quả thật là một người mẹ may mắn”. Chị nói.
Hai con chị, khi mới sinh thì hai bé rất ngoan, cứ ăn rồi lại ngủ. Thế nhưng một tuần trở lại đây, hai cháu liên tục ốm, hết húng hắng ho lại hâm hấp sốt. Trong người khó chịu nên các cháu quấy khóc suất. Vợ chồng chị phải huy động cả bà nội bà ngoại lên giúp đỡ vì luôn luôn phải bế 2 bé. Cứ đặt bé xuống giường, thậm chí chỉ cần ngồi xuống, bé đã khóc.

Bà nội, bà ngoại lên thấy hai cháu bị ốm thì bảo chị phải làm lễ “cắt duyên” cho 2 cháu. Theo quan niệm dân gian, một bé trai và một bé gái sinh đôi là do kiếp trước duyên nợ vợ chồng không thành nên kiếp này cùng đầu thai để được ở bên nhau. Các trường hợp như vậy phải làm lễ “cắt duyên” cho hai bé, nếu không các cháu sẽ rất khó nuôi. Đã có nhiều câu chuyện rất buồn về tình trạng khó nuôi của nhiều cặp sinh đôi, thậm chí có trường hợp một trong hai đứa bé sinh đôi còn mất sớm.
“Lo lắng, chăm sóc cho 2 đứa con ốm đã khiến tôi khá mệt mỏi, giờ lại lo thêm lễ cắt duyên càng làm tôi căng thẳng hơn. Thôi thì, có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta nói như vây. Hiện tại, gia đình chúng tôi đang cố gắng chuẩn bị làm lễ cắt duyên. Bao gồm một lễ cắt duyên tượng trưng trên chùa và một đám cưới nho nhỏ cho 2 đứa. Mình làm vài mâm thôi, chứ không làm to như 2 bé bên Thái Lan mà báo chí đang đưa tin đâu. Còn hơi sức đâu nữa.” Chị than thở.
2./ Vậy các nhà nghiên cứu, nhà khoa học nói gì? Tổ chức đám cưới có thật cắt tiền duyên?
Cha ông ta có câu không phải ngẫu nhiên các con chọn nhà mình để về, chọn mình làm cha mẹ.

Trong kinh pháp cũng chỉ rằng con người đến chung một nhà là do nhân duyên và điều gì xảy ra đều có thông điệp của nó, nhiệm vụ của người làm cha làm mẹ là làm sao để trong lòng mình phát triển được rung động hiểu và rung động thương. Qua đó có những suy nghĩ, hiểu biết và ứng xử đúng nhất có thể để có được cuộc sống hài hòa.
Bình thường ai cũng biết việc sinh đôi rất là vất vả và hao tổn sức lực, rủi do cũng cao. Ngày nay y học hiện đại phát triển, các kiến thức hiểu biết về cơ thể vật chất cũng sáng rõ hơn nhiều nên việc dưỡng thai, sinh nở và nuôi con sinh đôi thuận lợi rất nhiều.
Liên quan đến trường hợp sinh đôi, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã cho thấy, ngoài cơ thể vật chất, con người còn có cơ thể năng lượng và trong cơ thể năng lượng ấy có rất nhiều cấu trúc năng lượng cấu thành như kén năng lượng hay bản ngã... tồn tại dưới dạng năng lượng ý thức đặc biệt.
Trẻ sinh đôi vốn có mối liện hệ chặt chẽ với nhau về năng lượng, đôi khi còn “dùng chung” các cấu trúc năng lượng của nhau, sử dụng lực của nhau. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng thực tế hay xảy ra là một trẻ ốm thì trẻ kia cũng ốm, trẻ này vui thì trẻ kia cũng vui. Người ta vẫn gọi là “thần giao cách cảm” giữa các cặp sinh đôi.
Ngoài ra, ở các vùng nông thôn xưa, có thể do khoa học chưa phát triển nên người ta có đúc rút kinh nghiệm quan sát cho rằng nếu song sinh cùng giới thì mức độ rủi ro thấp hơn nhiều so với song sinh một trai một gái. Thực tế ghi lại nhiều câu chuyện rất buồn về tình trạng khó nuôi của nhiều cặp sinh đôi, thậm chí có trường hợp một trong hai đứa bé sinh đôi còn mất sớm.
Để giải thích hiện tượng này cũng như bao hiện tượng khác trong đời sống mà khoa học lúc đó chưa có câu trả lời thỏa đáng, người xưa đã tìm đến những lý do “siêu hình” và đưa ra các biện pháp tâm linh làm yên lòng, giải tỏa tâm lý. Trải qua thời gian, ngày nay một số còn được lưu truyền đã trở thành phong tục, tập quán hay tục lệ.
Theo đó, việc làm lễ cưới để cắt tiền duyên cho hai trẻ cũng chỉ là một cách giải tỏa tâm lý mà thôi.
Để khắc phục vấn đề của các cặp song sinh, người ta còn có thể làm nhiều cách khác ví dụ như: "hướng tới thiền ngộ" hay "hực hành các biện pháp tu tâm", "sống tốt nghĩ thật" chẳng hạn.
Do biết cháu gái trong cặp song sinh nam nữ thường nội lực yếu và nguy cơ cao nên các cụ sử dụng nhiều “mẹo” luật tự nhiên trợ lực cho bé gái.
Ví dụ có gia đình thật tâm bế bé ra đường và xin “thần đường” cho lên nhà Trời (Thiên đình) học chữ (kiến thức), sau đó bế bé đi đi lại lại ba vòng rồi về (?!)
Và biện pháp duy nhất và tốt nhất là: lòng từ bi mang tính trị liệu.
Khi các cháu ốm khóc thì ý thức đầu tiên của người mẹ là cần trợ lực cho cháu, muốn thế thì tinh thần mẹ cần khỏe khoắn. Để tinh thần khỏe khoắn thì mỗi ngày bà mẹ dành khoảng 30 phút đến 1 giờ ngồi hoặc nằm thiền. Thiền giúp hệ thần kinh nghỉ và căng thẳng lo âu sẽ giảm, tất yếu nội lực bạn tăng.

Nội lực vốn chính là Phật tính, các rung chấn ấy mang hơi ấm của tình yêu chân thực làm cho các con hưởng lợi. Chúng hấp thụ và khỏe mạnh dần lên. Chính nhờ điều đó, con cái bạn tăng khả năng chuyển hóa thức ăn theo hướng lành mạnh. Các biện pháp y tế cũng phát huy tác dụng.
Nếu thực sự các bà mẹ vẫn áy náy về việc cần làm lễ cắt tiền duyên thì cứ làm, nhưng hành động ấy nên xuất phát từ năng lượng tình yêu, từ sự cân bằng bên trong chứ không phải là vì sự lo hãi, u mê quá mức./
Phương Vị: Nam Đẩu TinhTính: DươngHành: ThổLoại: Tài Tinh, Quyền TinhĐặc Tính: Tài lộc, uy quyềnTên gọi tắt thường gặp: Phủ
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ nhất trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
| Ảnh minh họa |
| Ảnh minh họa |
| Ảnh minh họa |
| ► ## gửi đến bạn đọc công cụ lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác |
Ngoài các khu quy hoạch mới có thiết kế không gian nghiêm chỉnh, lề thông hè thoáng, hạ tầng ngầm hoá, vẫn có rất nhiều các khu dân cư cũ, khu ngoại ô có hiện trạng phức tạp, trước nhà khấp khểnh đủ thứ cột đèn ống cống gốc cây vừa thiếu thẩm mỹ và không an toàn. Điều này hình thành trong giới kinh doanh nhà đất các đánh giá thấp về nhà bị “dị vật” xuất hiện, cản trở ở phía trước, cộng thêm các truyền tụng trong dân gian mang màu sắc mê tín khiến nhiều gia chủ hoang mang, lo ngại. Cần nhìn nhận vấn đề này dưới khía cạnh phong thuỷ và thẩm mỹ như thế nào?
Có thể bố trí tiểu cảnh trên nắp cống.
Xét về quan điểm hình và thế của một cuộc đất – ngôi nhà, phần phía trước của chủ thể luôn cần quang đãng (mà phong thuỷ truyền thống gọi là khu vực Minh đường), tránh các vật che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Nếu có cây to trước nhà thì phong thuỷ xưa lập luận rằng đó là thế mộc khắc thổ, cây to ắt sẽ có rễ lớn ăn vào làm hỏng nền sân, đi lại dễ bị va vấp, lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu độ sáng sủa, âm tính nhiều, nhất là những cây có hình dáng um tùm rũ rượi.
Vì đa phần nhà ở truyền thống xưa kia đều quay về hướng nam để đón gió mát, cây to trước nhà sẽ chắn mất gió, nên ta thấy quan niệm “trước cau sau chuối” của kiến trúc truyền thống chính là để giữ cho phần minh đường được quang đãng.
Một miệng cống, trụ điện… nếu nằm ngay trước cửa nhà thì cũng gây nhiều khó chịu về thẩm mỹ và sử dụng hàng ngày. Vì thế, các khu dân cư mới hiện nay luôn bố trí hố ga, gốc cây, cột điện… tại điểm giữa của hai nhà. Còn nếu như hiện trạng sẵn có cây to án ngữ giữa cửa mà cây đó thực sự ảnh hưởng đến đi lại thì có thể xử lý bằng cách chuyển bộ cửa chính về một bên sao cho lối đi ra vào và tầm nhìn không bị cản trở là được.
Dị vật trước nhà là cái cột điện với dây nhợ chằng chịt.
Tuy nhiên, đừng “quan trọng hóa” vấn đề khi cho rằng nhà bị như thế thì giảm giá trị, vì thực chất khoảng lùi, hướng nhà, mức độ ồn ào bụi bặm của con đường bên ngoài… vẫn quan trọng và ưu tiên xem xét hơn là chỉ một trụ điện, gốc cây hay miệng cống.
Thực tế có không ít nhà biến nhược thành ưu, tận dụng những cây cối, trụ điện phía trước để làm điểm “mốc” nhằm xác định, phân biệt nhà mình với nhà khác, hoặc làm thành một dạng bình phong để che chắn bớt tác động xấu từ ngoài vào nhà mình bằng cách đặt thêm cây cối, tạo lối vào không trực diện với cửa hay cổng, thậm chí có thể bố trí tiểu cảnh dạng linh động trên nắp cống.
Tóm lại, phần “dị vật” trước nhà xấu hay tốt không quan trọng bằng cơ cấu sử dụng, quan hệ với đường sá và công trình lân cận. Tốt nhất là mỗi nhà (nhất là dạng nhà phố) nên xác lập cho mình một khoảng lùi và cấu trúc phần tiếp cận sau cửa cổng đủ kín đáo, tiện dụng (chỗ để xe, sân nhỏ, bậc thềm lùi sâu, khoảng đón tiếp khách…) để cho dù có gì trước nhà thì cũng không ảnh hưởng đến sinh hoạt và tính chất phong thuỷ của nhà. Đôi lúc gặp trường hợp bất khả kháng thì việc dùng vật phẩm phong thuỷ như hồ nước nhỏ, cây cảnh, tượng đá… cũng có thể giải quyết phần nào tâm lý bất an.
Ảnh: Khánh Phương
Bài: KTS Vọng Bình
Thông thường mỗi người có độ dài các ngón tay khác nhau, bạn muốn biết ngón tay dài nói lên điều gì? Độ dài các ngón tay khác nhau tượng trưng cho thân thế, con người bạn hay tính cách của bạn như thế nào? Bài viết dưới đây của ## sẽ giới thiệu tới bạn về Ngón tay dài nói lên điều gì?

Nếu ngón đeo nhẫn càng dài chứng tỏ bạn là người nam tính. Bởi theo một nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ trường Đại học Concordia của Canada thì với những người đàn ông có ngón tay đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ thường là người quyết đoán, có tham vọng lớn, bởi nồng độ testosterone cao ảnh hưởng đến sự phát triển của ngón tay đeo nhẫn. Họ cũng thích mạo hiểm và có ham muốn chiến thắng cao. Đặc biệt, những người đàn ông có ngón đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ thường có khả năng trở thành người giàu có.
Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà khoa học cũng chứng minh được rằng những người đàn ông có này thường có tính trăng hoa và lăng nhăng, bở họ là mẫu đàn ông được nhiều người phụ nữ ưa thích và theo đuổi.
Ngược lại, đối với nữ thì những người có ngón đeo nhẫn không nói lên bất cứ tính cách hay khả năng đặc biệt của họ.
Bạn muốn biết ngón út ngắn nói lên điều gì? Hay ngón tay út ngắn hơn ngón áp út thì biểu hiện điều gì?
Thông thường ngón tay út luôn ngắn hợp ngón áp út. Những độ dài ngắn khác nhau cũng ảnh hướng đến tính cách của người chủ nhân đó. Nếu ngón út ngắn bằng 2 đốt ngón áp út ( ngón đeo nhẫn), thì người này sống khá nội tâm, thích ở một mình, thích sự cô đơn và trật tự.
Ngón út dài hơn 2 đốt của ngón đeo nhẫn thì bạn là người giỏi giao tiếp và hướng ngoại. Bạn thích giúp đỡ người khác nhưng nhiều khi cũng bị người khác hiểu nhầm.
Ngón út ngắn hơn 2 đốt so với ngón đeo nhẫn: Họ là những người sống tốt bụng, hòa thuận với mọi người. Bạn thường kỳ vọng nhiều vào những người mà bạn tin tưởng, thế nên bạn cũng dễ thất vọng khi họ không đạt được như mong muốn của bạn.
Đây cũng là những đặc điểm mà độ dài ngón út có ảnh hưởng đến tính cách của như vận mệnh của bạn.
Trên đây là những đặc điểm, tính cách con người qua độ dài ngón tay. Bạn có thể tham khảo thêm những bài viết hữu ích khác tại:
+ Số lượng hoa tay nói lên điều gì về bạn?+ Không có hoa tay nào thì có ý nghĩa gì?
+ Xem chỉ tay đường con cái để biết bạn sinh con trai hay con gái
+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn
![]() |
Người tuổi Mùi
Cụm từ có thể đại diện cho tuổi Mùi chính là “sự ôn hòa”. Thật vậy, con giáp này sở hữu những phẩm chất đáng quý là nhã nhặn, ôn hòa, trọng lễ nghĩa và có trái tim hiếu thuận. Họ luôn dành tặng nụ cười nhẹ nhàng cho bất cứ ai họ tiếp xúc.
Tuy biểu hiện bên ngoài khá nhẹ nhàng, thực chất bên trong họ là sự kiên trì bền bỉ đáng ngưỡng mộ. Khi yêu, họ rất nhẫn nại, không dễ dàng bỏ cuộc. Họ có thể là một người yêu hơi lặng lẽ nhưng không ngại cho đi. Đôi lúc rơi vào khó khăn hay mệt mỏi, họ vẫn sẵn sàng ở bên cạnh đối phương, vì vậy mà họ tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho nửa kia.
![]() |
Người tuổi Dần
Cầm tinh bậc vua chúa trong rừng, con giáp này bẩm sinh đã có tài lãnh đạo. Với tính cách kiên cường, thích mạo hiểm, ý chí mạnh mẽ, trong tình yêu, họ luôn tràn đầy tự tin, có khí phách của bậc nam nhân. Thái độ nhiệt tình lại thông minh giúp họ dám bày tỏ tình cảm mà không do dự, ngần ngại.
Sự thẳng thắn, cởi mở giúp họ tạo cảm giác cực kỳ đáng tin cậy với người khác phái. Trong mối quan hệ tình cảm, một khi đã hứa, họ sẽ cố hết sức để thực hiện lời hứa với đối phương. Khi tập trung một chuyện gì đó, họ sẽ toàn tâm toàn ý dốc hết sức mình. Dù xảy ra mâu thuẫn, họ vẫn biết bình tĩnh tự suy xét lại bản thân và tìm mọi cách thắp lại ngọn lửa yêu.
Người tuổi Hợi
Đây là con người rất chín chắn và chân thật, vẻ ngoài có chút thận trọng, bên trong rất cương nghị. Vì vậy, họ cũng là người bền bỉ và trung thành trong tình yêu.
Họ là kiểu người yêu đơn giản, không thích xa hoa và có một trái tim ấm áp, lương thiện, không thích che đậy nên luôn đem lại cảm giác an toàn cho đối phương. Trong tình yêu, con người này cực kỳ tinh tế, nhẫn nại và chân thành, không có mưu mô hay toan tính, luôn hết lòng cho đi và vun đắp tình yêu của mình, dù đứng trước sóng gió cũng không dễ dàng nói bỏ cuộc.
Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)