Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy của công ty, nhà máy –

Phong thủy của công ty, nhà máy hoặc thương nghiệp phải chú ý xem xét đến những vấn để sau: Mảnh đất có tốt hay không: Công trình kiến trúc tốt, các công trình kiến trúc trái phải gần đó có phù hợp, hài hòa hay không? Hơn nửa mảnh đất đó phải tốt, g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy của công ty, nhà máy hoặc thương nghiệp phải chú ý xem xét đến những vấn để sau:

Mảnh đất có tốt hay không: Công trình kiến trúc tốt, các công trình kiến trúc trái phải gần đó có phù hợp, hài hòa hay không? Hơn nửa mảnh đất đó phải tốt, giao thông phải thuận tiện.

1287469246_129997820_1-Hinh-anh-ca--Tuyen-gap-5-nhan-vien-lam-viec-van-phong-1287469246

Không khí bên ngoài công trình kiến trúc: Ví dụ như phía trước cửa công ty, nhà máy tự nhiên, thoải mái, màu sắc gạch tráng men trên các bức tường bên ngoài thích hợp, kính sáng đẹp, công trình kiên trúc có được phong cách sang trọng, khoáng đạt.

Tinh thần bích: Lấy tên cho các tòa nhà lớn nên tao nhã phú quý, tiêu chí hoặc danh hiệu của các tòa nhà lớn phải duy trì được sự tươi mới, đẹp đẽ. Bước vào cửa của các đại sảnh và tòa nhà lớn phải làm sao vừa nhìn vào hình khối là có được tinh thần phấn chấn, muốn tiến thủ.

Bố cục bên trong: Các gian phòng ngăn cách nhau to nhỏ phải hợp lý, đường qua lại phải thông thoáng, ánh sáng nên đầy đủ, ngoài ánh đèn chiếu sáng hàng ngày ra, các góc nên dùng thêm bóng đèn điện để bổ trợ cho không khi lưu thông toàn phòng.

Tầng hầm: Thông thường tầng hầm thích hợp cho việc để xe, công xưởng, nhà ăn, không thích hợp để làm phòng chủ tịch hội đồng quản trị, phòng tổng giám đốc và công ty cổ phiếu…

Vật cát tường, vật chế sát: Vật cát tường có các vật như: nguyên bảo, thần tài, thạch cát, hình hoa, thần tài bình an. Vật chế sát như: Thái cực đồ, bát quái đồ, sư tử đá… Vật cát tường chính là những vật mà bản thân khi nhìn thấy những vật này đã cảm thấy phúc khí, vô cùng gần gũi, phòng hình vuông thì có thể bày nhiều vật cát tường, còn vật chế sát thì chỉ nên dùng một đến hai cái là được.

Cây cối trong phòng: Cây cối, thực vật tuy thuộc âm nhưng ở ngoài phòng chúng có thể khai hoa kết quả, như vậy là trong âm có dương. Mang thực vật vào trong phòng, sẽ rất tốt đối với sinh lý, tâm lý con người.

Cái khác: Như bố cục của tài vị…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy của công ty, nhà máy –

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tỵ

TÂN-TỴ 13 TUỔI: (Sinhtừ 24/1/2001 đến 11/2/2002) Mệnh: Bạch-Lạp-Kim (Vàng trong nếntrắng)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, có anh hùng tính, thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp. Đôi khi võ đoán chuyên quyền. Chữ “ tân” là cay đắng nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc phải trắng tay. Phải sớm ly hương hay xa gia đình cha mẹ anh chị em thì tốt hơn. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất dễ thành công. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này bê tha. Một người dù tài giỏi thông minh tới đâu mà không chịu học, sẽ phải hối hận suốt đời. Thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, có thể sẽ thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành

Ngày mai rạng rỡ bước công khanh

Dùi mài khó nhọc công đèn sách

Hiếu thảo làm vui đấng sinh thành”

Nếu đang chơi soccer hay football, phải cẩn thận, đề phòng thương tích tay chân. Xấu nhứt là tháng 5.

NỮ:  Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan, công danh thăng trầm, đường chồng con cũng nhiều trắc trở khó khăn. Tuy nhiên ly hương hay xa gia đình thì lại thành danh. Tuổi già thích làm công ích xã hội và tạo nhiều thiện nghiệp. Cho nên đời đạo thong dong, tiền tài súc tích. Chẳng những chỉ có bàn tay và khối óc mà dễ dàng thành tựu, còn phải nhờ ở phước đức do chính mình vun bồi. Hạp màu vàng, trắng. Kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là ngay hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh lỗi lạc tới đâu mà không chịu học, thì phải ân hận suốt đời. Thiên tài cũng nhờ ở cố gắng bền bỉ mà thành danh. Chỉ cần hoàn tất 4 năm đại học thôi, có khi được thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này:

Cơm cha áo mẹ công thầy

Ráng công học tập tháng ngày chăm lo

Tương lai giàu có ấm no

Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”

Nếu chơi game nhiều hay lạm dụng internet, computer sẽ bị cận hay viễn thị ngay năm nay!

 

KỶ-TỴ 25 TUỔI: ( Sinh từ 6/2/1989 đến 27/1/1990)

Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( cây trong rừng lớn).

NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Thông minh, có tài năng, sắc sảo, có lý tưởng, nhạy bén nhưng hơi chủ quan. Đôi khi nuôi nhiều tham vọng, tự phụ. Trước 30 tuổi thường gặp nghịch cảnh. Nếu có vì học vấn mà xa gia đình sẽ may mắn, nên tự lập sớm. Hướng nhà ở và thương mại là Tây và Tây-Bắc. Lấy vợ hợp với những tuổi Bính-Tý (1996), Đinh-Sửu ( 1997), At-Hợi (1995) và Tân-Mùi (1991).

“Đời trai học vấn làm đầu

Siêng năng chăm chỉ ngày sau đạt thành

Hôn nhân sự nghiệp công danh

Thảnh thơi mai hậu: học hành hôm nay !”

Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm vừa ý. Nếu muốn thay đổi chỗ làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp cơ hội thuận lợi. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thành công. Bạn nào đã làm hãng xưởng dễ được lên chức, lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại sẽ thành công trên thương trường. Tuy nhiên lái xe phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong tháng 3 và 9.

NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người sáng trí thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, tự tin. Nhưng  tiền vận thường phải phấn đấu với nghịch cảnh và sống nhiều về nội tâm. Bạn nào sinh ban đêm vào mùa Thu, Đông  tình duyên rất thuận lợi. 

Tuổi trẻ miệt mài học hôm nay

Ngày mai danh lợi sáng tương lai

Siêng năng tiến bước đường học vấn

Hạnh phúc công danh sẽ an bài”

Hôn nhân hợp với tuổi Qúi-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ trong tháng 3, và 9 âm lịch là tốt nhất. Kinh doanh thương mãi, chọn hướng Bắc, Nam và Đông Nam. Năm nay thi cử đỗ đạt. Bạn nào tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm như ý. Bạn nào muốn thay đổi trường học, chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được mãn nguyện. Bạn nào khởi đầu thương mãi cũng đầy may mắn. Muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

ĐINH-TỴ 37 TUỔI: (Sinh từ 18/2/1977 đến 6/2/1978).

Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).

NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Tính tình cương trực, nhưng hay sợ trách nhiệm, không dám đương đầu với khó khăn nên việc lớn khó thành. Vừa muốn yên thân lại không biết lo xa nên dễ thất bại trong buổi thiếu thời. Từ tình duyên đến công danh sự nghiệp đều có trở ngại ban đầu. Tuy nhiên, nhờ tích lũy kinh nghiệm, biết cần cù, nhẫn nại, sau 30 tuổi việc làm ăn lại thành công. Chọn vợ hạp nhất trong các tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983 ) và Đinh-Mão (1987). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây-Bắc.

“ Tiền vận đôi khi lắm chuyện buồn

Tình duyên sự nghiệp chẳng mấy suông

Qua nhiều thử thách nhờ kiên nhẫn

Công thành danh toại thẳng tiến luôn”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” nên tận dụng vận may để xây cất nhà cửa, cơ sở thương mãi. Nhờ đó, việc làm ăn sẽ phát đạt lên. Tuy nhiên trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Đồng thời phải cẩn thận đề phòng tai nạn rủi ro về xe cộ. Nếu say rượu lái xe thì thảm họa khó tránh. Không nên đầu tư chứng khoán.  Mọi việc đều xấu trong tháng 1, 7.

NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh : Mẫu người tài năng thông minh nên thích tự lập. Rất tự tin nên khó thuyết phục. Do đó lúc gặp nghịch cảnh phải chịu thành bại bất thường. Người sinh ban đêm vào mùa Hạ,Thu sẽ dễ thành công hơn. Lúc nhỏ hay đau ốm lặt vặt. Tiền vận thường gặp nhiều trắc trở về tình duyên. Tuổi chồng hợp nhất là Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Tân-Dậu(1981) và Mậu-Thân (1968). Tối kỵ tuổi Giáp-Dần (1974). Hạp màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.

“Tình duyên trắc trở buổi ban đầu

Nhu mì uyển chuyển mới bền lâu

Thông minh tài đức, năng thắng số

Duyên phận nhẫn hòa khỏi lo âu

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Tứ Tấn Tài” rất thích hợp cho việc xây cất nhà cửa chỉnh trang cơ sở thương mại. Hy vọng nhờ đó mà công việc làm ăn phát đạt, thành công hơn. Tuy nhiên gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Xấu nhất là tháng 3, 9. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng những rủi ro trong 2 tháng này. Nếu muốn đẻ con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

ẤT-TỴ 49 TUỔI: (Sinh từ 2/2/1965 đến 20/1/1966).

Mệnh: Phú Đăng Hỏa (Lửa ngọn đèn).

NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Tán-Tận: Mẫu người ngay thẳng, trọng lời hứa, có tinh thần trách nhiệm, thích giúp người nhưng ít khi được người đền đáp. Tiền vận gian nan, vất vả, thăng trầm. Tình duyên cách trở đổi thay. Nhiều khi có tài mà không gặp thời. Người sinh ban đêm mùa Xuân, Hạ dễ thành công hơn. Người ly hương tự lập thường tạo nên sự nghiệp. Vợ là cánh tay phải  rất đắc lực nếu nhằm vào các tuổi Nhâm-Tí (1972), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tí (1960), Tân-Sửu (1961) và Nhâm-Dần (1962). Rất kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen. Nhà cửa và kinh doanh tốt nhất trên hướng Tây Bắc và chánh Tây.

“ Có tài mà chẳng gặp thời

Tánh tình ngay thẳng giúp người quản chi

Gian nan vất vả lắm khi

Đức năng thắng số lo gì tương lai”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Tháng 5, kỵ mặc đồ trắng, gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con, tài lộc hao tán. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tất cả công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây nên tình trạng bế tắc về tài chánh.

NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người đoan chính, bền tâm kiên nhẫn, cần cù nhẫn nại, vượng phu ích tử, rất năng nỗ quán xuyến đảm đang. Tình đầu trắc trở. Xuất ngoại ly hương dựng nên sự nghiệp lớn lao. Người sinh ban đêm vào mùa Xuân, Hạ rất thành công. Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hạp màu đỏ. Tuổi chồng hạp nhất là Ất-Tị (1965), Tân-Sửu (1961), Đinh-Dậu (1957), Bính-Thân (1956), Tân-Mão (1951) hoặc Đinh-Mùi (1967), Bính-Ngọ (1966) và Quý-Tị (1953). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.

“Vượng phu ích tử số người

Đảm đang quán xuyến tuyệt vời vợ ngoan

Duyên lành gặp được chồng sang

Trọn đời hạnh phúc huy hoàng trăm năm”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tuy nhiên tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây ra tình trạng bế tắc về tài chánh. Nếu làm việc nhiều bằng computer, sẽ bị đau mắt. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại gây nhiều hao tán.

QUÝ-TỴ 61 TUỔI: (Sinh từ 14/2/1953 đến 2/2/1954).

Mệnh: Trường Lưu Thủy ( Nước chảy thành dòng lớn).

NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Người thông minh lanh lợi, thích bạn bè náo nhiệt. Tánh tình cẩn thận, biết tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và hay xa gia đình. Tình duyên lận đận trong hồi tiền vận. Người sinh tháng 6, 7, 11 dễ thành công hơn những tháng khác. Nhờ lo xa mà cuộc sống gia đình được sung túc an nhàn. Xuất ngoại sớm thành công danh sự nghiệp. Nếu hiền nội nhằm tuổi Giáp-Ngọ (1954) thì rồng mây tương hội, công danh hiển hách, phú quí giàu sang. Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“ Cuộc đời vốn được an nhàn

Rồng mây tương hội giàu sang mấy hồi

Gia đình dầu có xa xôi

Cửa nhà tốt đẹp hạ hồi thuận duyên”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu trúng vào “Nhứt Kiết”; nếu muốn xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tháng 3, tháng 9, gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên việc làm ăn rất thắng lợi và thành công. Qúy ông làm công chức được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng vững bền tài lộc. Đồng thời nhiều cơ hội đi xa xuất ngoại vui vẻ sẽ tới trong năm.

NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Người thông minh nhiều sáng kiến, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh và luôn gặp qúi nhân trong đời. Số hơi vất vả buổi đầu, nhưng trung và hậu vận lại phát đạt thành công. Hồng nhan đa truân, tình duyên thường có trắc trở chia ly rồi lại tái hợp vững bền. Sẽ nhờ chồng nếu gặp tuổi Ất-Mùi (1955), Tân-Mão (1951), At-Dậu (1945). Đời sống khỏi lo lắng nhiều, chỉ nhờ cần cù nhẫn nại mà vẫn sung túc an nhàn. Rất hạp màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.

“ Quý-Tỵ hậu vận thành công

Qua bao thử thách vợ chồng đẹp đôi

Làm ăn phát đạt thảnh thơi

Thăng quan tiến chức cứ ngồi hưởng thôi”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Mặc dù tháng 1, tháng 7 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên muốn thay đổi chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi vui vẻ.

TÂN-TỴ 73 TUỔI : (Sinh từ 27/1/1941 đến 14/2/1942).

Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng ở chân đèn).

NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, thích làm việc cộng đồng, nhưng đôi khi hơi võ đoán chuyên quyền. Chữ “Tân” là cay đắng khổ sở nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc lại trắng tay. Phải sớm ly hương xa cha mẹ anh em mới khỏi bị mồ côi. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất thành công. Kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“Tài trai ngang dọc uy nghi

Dang tay gánh vác sá chi thân mình

Hy sinh vì nghĩa chân tình

Nặng lòng chung thủy hiển vinh an nhàn.”

“ Thất thập cổ lai hi”. Vậy đã 73 tuổi, qúy ông  nên tính chuyện về hưu “ rửa tay gác kiếm”, qui ẩn giang hồ may ra có thể tránh được bệnh hoạn ốm đau. Xấu nhất là tháng 1, 7 trong gia đình có người phát bệnh hoặc tang chế bà con. Qúy ông còn lái xe, cũng phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong 2 tháng này. Không nên đầu tư chứng khoán, may ít rủi nhiều trong năm nay. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc.

NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan thăng trầm về công danh, đường chồng con cũng nhiều trở ngại khó khăn. Tuy nhiên khi ly hương thì lại đạt nhiều mơ ước. Tuổi già thích đạo lý và tu hành, giúp đỡ người, làm điều phước thiện. Vật chất tiền tài sung túc thì nên tiếp tục làm phước. Sự giàu sang phú quí hiện tại, một phần là do bàn tay và khối óc, một phần là nhờ ở phúc đức của chính mình. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc

“Công danh dầu dãi khó khăn

Tạo nhiều phước đức công bằng Trời ban

Qua hồi vất vả gian nan

Trăm năm hạnh phúc vẻ vang một đời”

Năm nay tháng 3, tháng 9 gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con. Cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”.  (Được sống tới 70 cũng ít). Vậy năm nay qúy bà đã 73 tuổi, nên  về hưu, “rửa tay gác kiếm, qui ẩn giang hồ” may ra có thể tránh được bệnh hoạn, ốm đau. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc khó lường!

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tỵ

Top 3 con giáp dễ trở thành người thứ 3

Khi rơi vào tình cảnh chuyện 3 người thì ta như rơi vào vực thẳm của sự đau khổ, và hoàn toàn không thể chấp nhận cho những hành động của người thứ 3.
Top 3 con giáp dễ trở thành người thứ 3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện tình tay ba chưa bao giờ là hạnh phúc cho những người trong cuộc.


Top 3 con giap de tro thanh nguoi thu 3 hinh anh
Ảnh minh họa
    Người tuổi Thân   Người tuổi Thân quá ham hư vinh và có một chút ảo tưởng, tình cảm xuất hiện bất chợt và hỗn loạn, khó kiềm chế được cảm xúc. Khi gặp người khiến họ cảm mến, cho dù không có ý định trở thành người thứ 3 nhưng con tim cũng không tránh khỏi sự rung động, không tránh được tình cảm mập mờ, thậm chí là chẳng quan tâm tới vợ/chồng của người ấy sẽ đau khổ ra sao khi biết chuyện. Người tuổi Thân có khả năng dùng lời lẽ ngon ngọt để quyến rũ người khác rơi vào bẫy tình của mình, và nếu người kia không tỉnh táo thì sẽ bị chìm đắm trong đê mê say tình với người tuổi Thìn và chuyện tình tay ba đau khổ là điều không thể tránh khỏi.

Những sao nữ mang danh “Sở Khanh”
Sở Khanh dường như trở thành “thương hiệu” của một số người con trai đào hoa, thay người yêu như thay áo. Thế nhưng, đôi khi, một vài sao nữ cũng tự mang cho
Người tuổi Mùi
 
Người tuổi Mùi nội tâm không kiên định, chuyện tình duyên thường gặp nhiều trắc trở. Khi đối diện với người mình thầm ngưỡng mộ, họ sẽ không suy tính tới việc người đó có hợp với mình hay không mà ngay lập tức cho rằng đây là tình yêu chân chính, mà tình yêu chân chính thì không có tội. Tuy nhiên, điều này không chỉ làm cho mình đau khổ, mà người ta cũng đau khổ vì chuyện gia đình. Nếu có thể quyết đoán một chút thì người tuổi Mùi sẽ thoát được tình cảnh này.

Top 3 con giap de tro thanh nguoi thu 3 hinh anh 2
Ảnh minh họa

Người tuổi Tị
 
Nữ tuổi Tị dễ bị chi phối trong chuyện tình cảm, không điều khiển được cảm xúc của mình nên dễ bị rơi vào bẫy tình của những người đàn ông trăng hoa. Mang một vẻ bề ngoài thu hút nhưng tinh thần lại không tỉnh táo khi yêu, dễ bị những lời lẽ ngon ngọt dụ dỗ, thường thì họ không nhận ra mình đã và đang làm kẻ thứ 3 phá vỡ hạnh phúc của người phụ nữ khác, mà chỉ đơn thuần cho rằng đây là một tình yêu trong sáng và mình sẽ làm mọi thứ vì tình yêu này.
 
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Phương Thùy  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp dễ trở thành người thứ 3

Hạn tình cảm và một số phương pháp xem hạn nói chung

Một bài viết của tác giả TVUD về hạn tình cảm và một số phương pháp xem hạn nói chung. Mời các bạn cùng đọc.
Hạn tình cảm và một số phương pháp xem hạn nói chung

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả TVUD trên diễn đàn tuvilyso.org

Phần 1: NGHIÊN CỨU VỀ HẠN

1.2.1.Lưu ý chung về Hạn

Khi xem xét Hạn ta luôn lấy các cung số của bản thân làm gốc (Mệnh Thân Tài Quan Tật). Cho dù ở bất cứ Đại Vận, Tiểu Vận,… nào Cung số nào thì các tính chất của Mệnh Thân Tài Quan Tật không thay đổi. Có chăng họ chỉ thay đổi cách nhìn nhận mà thôi.

Đại Vận là hoàn cảnh tác động lên ta, ta phải đối mặt trong giai đoạn 10 năm của Đại Vận. Trong 10 năm đó bản thân ta vẫn vậy, hoàn cảnh đó tác động tới ta ra sao mà thôi từ đó vẫn cái nghiệp đó, cái nghề đó, cái tính cách đó hay tai Ách đó ta thế nào với hoàn cảnh đó.

Tiểu Vận là hoàn cảnh ta phải đôi mặt trong một năm ta đi qua. Xấu tốt tùy thuộc vào cách cục của Phi tinh lưu động tại mỗi năm.

Tương tự với Nguyệt vận và thời vận,… cũng hiểu như vậy.

Khi xem xét về Hạn (Đại Hạn hay Tiểu Hạn hay Nguyệt hạn,…) thì cung nhập Hạn là cung số tại giai đoạn đó ta phải bận tâm nhiều, chịu sự chi phối nhiều nhưng không phải chỉ xem xét ở cung đó thôi. Ta phải xem xét được toàn bộ 12 cung số trên lá số Tử Vi để quyết đoán.

Có khi Tiểu Hạn xấu nhưng Mệnh Hạn tốt có khi ta vẫn toại ý thì ta đoán khác và ngược lại.

Một năm bất kỳ ta hoàn toàn tìm được các cung xấu tốt ra sao.

Để có thể xem xét được Hạn cần phân định được các nhóm sao cơ bản trong Tử Vi để xem xét. Nguyên tắc bao giờ cũng cần có 2 bộ sao cùng đặc tính gặp nhau mới xảy ra sự kiện đó.

1.2.2.Hạn và quy tắc định Hạn

Đại Hạn đầu tiên đóng tại Mệnh;

Không dùng lưu niên Đại Hạn. Chỉ dùng Đại Hạn và Tiểu Hạn;

Nguyệt hạn, Nhật hạn áp dụng như Tiểu Hạn. Tất cả đều được xem xét tại gốc Tiểu Hạn.

Không quan tâm đến hạn Nhi đồng, như 1 tuổi coi ở đâu, 3 tuổi coi ở đâu,… chỉ quan tâm đến Tiểu Hạn. Và hãy chờ nhập vào số cục rồi hãy xem. Dễ hiểu là Hỏa Lục Cục hãy chờ đến 6 tuổi ta hãy xem.

● Đại Hạn: là thời gian 10 năm (thập niên), được tính dựa theo Cục và tuổi Âm, Dương. Mỗi thập niên được ghi vào một cung, bắt đầu từ cung Mệnh trở đi trong đó:

Dương Nam, Âm Nữ thì ghi theo chiều Thuận, Âm Nam, Dương Nữ thì ghi theo chiều Nghịch.

Thủy Nhị Cục bắt đầu bằng 2, rồi 12, 22, 32… Mộc Tam Cục bắt đầu bằng số 3, rồi 13, 23, 33… Kim Tứ Cục bắt đầu bằng số 4, rồi 14, 24, 34… Thổ Ngũ Cục bắt đầu bằng số 5, rồi 15, 25, 35… Hỏa Lục Cục bắt đầu bằng số 6, rồi 16, 26, 36…

Phương pháp xác định Cục sẽ được trình bày ở Phần tiếp theo của Tài liệu.

Thí dụ: Dương nam, Mộc Tam Cục, bắt đầu ghi số 3 ở cung Mệnh, rồi ghi số 13 ở cung Phụ Mẫu, ghi 23 vào cung Phúc Đức,...

Tiểu Hạn: là thời gian 1 năm, được ghi theo vòng chu vi Địa bàn, mỗi cung ghi một tên. Nếu là Trai thì ghi theo chiều Thuận. Gái thì ghi theo chiều Nghịch. Cách xác định gốc Tiểu Vận được tổng hợp trong “Bảng 3-2” sau đây:

bảng định khởi Lưu niện Tiểu Vận

Bảng 3-2: bảng định khởi Lưu niện Tiểu Vận

Ví dụ: 3 tuổi Hợi, Mão hay Mùi thì ghi chữ Hợi, chữa mão hay chữ Mùi ở cung Sửu.

Nguyệt Hạn: là thời gian 1 tháng;

Nhật Hạn: là thời gian trong ngày;

Thời Hạn: là các giờ trong 1 ngày.

1.2.3.Những lý luận về Đại Hạn và phương pháp xem Đại Hạn

Như vậy ta cần hiểu Đại Vận là hoản cảnh sống mới tác động lên ta (Mệnh Thân Tật,..) là giai đoạn 10 năm mà ta phải đối mặt. Xấu tốt tùy thuộc vào Đại Hạn có các Sao, Bộ sao có phù hợp với các cách cục ở Mệnh Thân hay không.

Khi ta hiểu Đại Hạn là hoàn cảnh ta tới đó; vi như người sinh ra tại Hà Nội (Mệnh họ) nhưng lại có những giai đoạn vào Sài Gòn làm việc, có những giai đoạn lại vào Đà Nẵng làm việc,… thì coi như Sài Gòn hay Đà Nẵng là một hoàn cảnh mới, môi trường mới giống như Đại Hạn. Khi ta tới đó Mệnh Thân Tật ta có gì thì ta vẫn vậy. Không thể hiểu khi đến đó ta lại là người có tính cách khác, ta vẫn phải là ta, đi đâu cũng là ta, tới Đại Vận nào cũng là ta, ta đến Sài Gòn hay đến Đà Nẵng thì kiến thức, tri thức, nghiệp vụ, tình cảm, tính cách trước ta thế nào giờ ta vẫn vậy có chăng là trước ta đang thiếu gì thì đến đây có gì, trước ta đang sợ gì thì đến đây có gì mà thôi. Giống như ta đang ở Hà Nội, được đi đường tốt nhưng lại phải đi tới vùng sâu vũng xa mà đường xá khó đi, như vậy là hoàn cảnh khắc nghiệt,….

Điều cần thiết nhất vẫn là nhớ, hiểu được lý tính các sao, các bộ sao quan trong, các sao cần gặp và kỵ gặp với mỗi sao, bộ sao.

Cần phân định các nhóm sao trong Tử Vi để quyết đoán.

Vi dụ 1; một người có thiên hướng chuyển động nhưng cả một thời gian dài, có khi từ bé tới 30 tuổi họ cũng không đi đâu quá xa cả. Nhưng đến 1 Đại Vận X nào đó có ít nhất một bộ sao cùng tính chất chuyển động. Khi đó họ sẽ đi.

Vi dụ 2: Một người có Bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG hay SÁT PHÁ THAM đáo hạn HỎA LINH rất mệt mỏi nếu có BỆNH PHÙ hay DIÊU Y ở Mệnh Thân, Tật hay tại gốc Đại Hạn mà Mệnh SÁT PHÁ THAM rất dễ vào bệnh viện,….

Ví dụ 3: Người có TỬ VI tại Mệnh nếu không có TẢ HỮU thì làm vua cũng như không vì không có quần thần nhưng khi đáo hạn có TẢ HỮU tất có quần thần,…

……

1.2.4.Những lý luận về Tiểu Hạn, Nguyệt Hạn, Thời Hạn, … và phương pháp xem

Để xem xét Tiểu Hạn, Nguyệt Hạn, Thời Hạn người xem Hạn cần lưu được các sao lưu động.

Trong pham vi của phương pháp Tử Vi này chúng ta sử dụng khoảng 46 sao lưu động cho phần Tiểu Hạn. Khi xem xét đến Nguyệt Hạn ta lưu thêm các sao Tháng (5 sao), xem xét đến Nhật Hạn Lưu thêm các sao Ngày và các sao an theo Ngày và Tháng (2 sao) xem đến thời hạn lưu thêm các sao Giờ và các sao an theo Ngày và Giờ (10 sao).

Sử dụng Can Chi của Năm, Tháng, Ngày Giờ để tiến hành Lưu sao

Sau khi an toàn bộ các sao lưu động của Năm hoặc Tháng hoặc Ngày hoặc Giờ ta coi bản đồ các sao này như 1 lá số thứ 2. Mang lá số cố định ghép với lá số Phi tinh lưu động để xem xét. Quan tâm tới tính kết bộ giữa các sao để quyết đoán, cần phân định các nhóm sao trong Tử Vi để quyết đoán. Đặc biệt là các sao và nhóm sao Kỵ nhau. Quan tâm tới Tứ Hóa của năm, bộ Tam Minh và ngôi sao PHƯỢNG CÁC để quyết đoán ảnh hưởng tốt đẹp hay kết quả của 1 năm lên các cung số.

a. Tiểu Hạn

Được hiểu như ý nghĩa của Đại Hạn, tuy nhiên phương pháp luận đoán lại chủ yếu dựa vào Lưu Phi Tinh của năm nghiên cứu, xem xét.

Liên tưởng tới các phương trình phản ứng Hóa học hay sử dụng chất xúc tác để gây phản ứng. Để dễ hiểu ta cũng coi các sao Lưu động như các chất xúc tác để đánh thức các sao cố định. Ví dụ: Một cung có TRIỆT cố định, đến năm có Lưu TRIỆT ở cung đó được xem là xấu, khi đó ý nghĩa của TRIỆT được phát tác. Một người muốn thay đổi cũng cần có các sao, bộ sao lưu động hội về cung cần thay đổi để có sự thay đổi. Một cung Điền Trach có HÓA LỘC cố định đến năm có Lưu HÓA LỘC tại đó tất sẽ sinh ra LỘC,… Cung có Tai, Ách, Họa, Nạn cần các sao để kích động cho Tai, Ách, Họa, Nạn tác họa. Ví như năm nào có KHÔI VIỆT đặc biệt là VIỆT lưu vào cung Tật rất vất vả với Tật Ách,… muốn có sự khơi sự (lập công tý hay làm một việc gì đó) cần có sự kích hoạt để ngôi sao có ý nghĩa KHỞI SỰ được đánh thức,…. Và mọi vấn đề khác cũng vậy cả mà thôi.

Như vậy để xem Tiểu Hạn, cần có các công thức luận đoán Hạn như: Hạn tình cảm (yêu, phản, chia tay, lập gia đạo,….), Hạn Tang chế, Hạn Chuyển động, Hạn nhà đất, Hạn công việc, Hạn sinh con, Bệnh tật, Kiện cáo, Bắt bớ, Tai nạn,… để xem xét luận đoán.

Về cơ bản cung số nào có bộ Tam Minh ta tìm thấy vui mừng ở cung số đó, cung số nào có LỘC ta tìm thấy tiền bạc tại cung đó, cung số nào có QUYỀN hay KHOA tức ở đó có dấu hiệu của hai sao này, cung số nào có BỆNH PHÙ tất liên quan đến ốm đau, bệnh tật, lo lắng suy nhược… Cung số nào có PHƯỢNG CÁC thì cung số đó được xem là hay. Ngôi sao PHƯỢNG CÁC có ảnh hưởng rất mạnh tới tính chất tốt đẹp của bộ TANG HƯ KHÁCH. PHƯỢNG CÁC làm cho 1 năm tưởng xấu lại hóa hay khi đi vơi bộ TANG HƯ KHÁCH,…. Đặc biệt cần nhớ một số cách cục đặc biệt để luận đoán vd: bộ THÂT SÁT BÁCH HỔ, ĐÀO HOA TANG MÔN, HỒNG LOAN BẠCH HỔ,… để quyết đoán nhanh về tính chất phức tạp không thuận lợi tại cung số có bộ sao này lưu vào.

b. Nguyệt Hạn và Thời Hạn,…

Không xem xét như các phương pháp khác, TVUD không xem xét theo phép an Tháng, Ngày, Giờ sau đó chạy quanh 12 Cung số.

Tất cả các Tháng, ngày, giờ nằm chung trong 1 cung Tiểu Hạn quan trong ta xem thế nào, dùng cái gì để xem mà thôi.

Vẫn là Phi Tinh lưu động, ứng với các Tháng, Ngày, Giờ ta luôn có cả Can Chi. Cũng giống như xem Tiểu Hạn ứng với Can Chi của Tháng, Ngày, Giờ nào ta dùng Phi Tinh tương ứng.

Khi xem xét đến Tháng, Ngày, giờ ngoài tính chất kết bộ của các sao thì các ngôi sao đơn lẻ rất quan trọng. Dùng bộ KHÔI VIỆT để kích hoạt ý nghĩa các sao và kết hợp với tính chất kết bè, bộ để luận đoán.

VD: Ngày X tại lá số của A tại vị trí THIÊN ĐỒNG (nằm bất cứ ở đâu) thấy lưu VIỆT của ngày thì ngày hôm đó A dễ có việc đi làm phúc hay được ngươi khác làm phúc,… Cần hiểu các ý nghĩa của sao để xem xét

1.2.5.Mệnh Hạn

Bạn đọc thường thấy người viết hay nhắc đến từ Mệnh Hạn nhưng có lẽ đa phần các bạn không quan tâm đến. Và chúng ta thường quan tâm đến Tiểu Hạn hay Đại Hạn mà thôi.

Mệnh hạn nghe có vẻ mơ hồ và khó hiểu. Thật ra cũng dễ hiểu và đến lúc các bạn cần hiểu. Vì Mệnh Hạn cũng là cái Hạn tại Mệnh đừng hiểu lầm từ này ghép đôi của Mệnh và Hạn và Mệnh hạn là từ riêng dung đẻ chỉ sự tốt xấu tai cung Mệnh của năm ấy.

Ví dụ như thế này bạn dễ hiểu. một người có chính tinh tọa thủ tại Mệnh bất kể nó hợp Mệnh hay là không. Ví dụ THÁI DƯƠNG cho là sáng sủa tốt đẹp nhưng không phải bao giờ họ cũng đắc ý và thành công, cũng không phải là do họ gặp Tiểu Hạn xấu hay Đại Hạn xấu. Mà còn do cái năm ấy không hợp với họ.

Ví dụ, người THÁI DƯƠNG rất kỵ năm Giáp, tất nhiên tháng Giáp ngày Giáp đều kỵ vì chữ Giáp, hóa khí THÁI DƯƠNG là HÓA KỴ. Từ đó người THÁI DƯƠNG dễ bị người ta ghét, nghi kỵ (nghi ngờ) rồi cấm đoán. Tự nhiên người THÁI DƯƠNG năm ấy vụng về hơn, hoặc cũng chẳng vụng về nhưng tự nhiên dưới con mắt nhiều người dễ bị ghét bỏ hơn, bình thường họ vẫn thế. Nhưng hôm nay họ dễ bị người ta chỉ trích, dễ ghét chưa kìa hay tự đắc, hoặc thấy kênh kiệu, hoặc là khoe khoang… và họ tìm ra được cái để chỉ trích nhưng năm trước đây, ngày trước đây họ lại không chỉ trích.

Lại ví dụ tiếp, Mệnh DƯƠNG LƯƠNG tại Mão vào năm Giáp ngoài lưu KỴ còn thêm lưu KÌNH, cái đố kỵ đó càng thêm mạnh mẽ. Hoặc bộ KỴ ĐÀ nếu như Mệnh ÂM DƯƠNG tại Sửu. Hoặc Mệnh có bộ CỰ NHẬT tại Tuất như trường hợp THÁI DƯƠNG tại Tuất lưu Hóa Kỵ tại đó còn làm cho cả CỰ MÔN bị mất tác dụng.

Ta hãy hình dung một người tự nhiên năm ấy bị xấu đi do Mệnh hạn, di chuyển trong Đại Hạn tương đối xấu và Tiểu Hạn cũng tương đối xấu. Tất mọi việc càng dễ thêm xấu. Với người THÁI DƯƠNG họ kỵ năm Giáp nhưng lại hợp năm Canh (do Canh và Giáp xung nhau, chữ Canh THÁI DƯƠNG hóa khí là HÓA LỘC) và năm TÂN hóa khí thành quyền. Nếu Đại Hạn hay Tiểu Hạn tương đối xấu nhưng gặp năm Mệnh hạn tốt đẹp cũng trở thành dễ chịu.

Cũng lý luận như thế người ÂM DƯƠNG chịu liền 2 năm Giáp Ất bị lưu KỴ. Trừ các trường hợp kỳ tài không nói làm gì nhưng các trường hợp cung Mệnh vốn đã không tốt đẹp bị lưu Kỵ thêm Kình hay Đà rất xấu cho các trường hợp NHẬT NGUYỆT. Tât nhiên người NHẬT NGUYỆT hợp các năm Mậu Đinh Canh Tân.

Theo những lý luận đã có, người có LIÊM TRINH rất kỵ các năm Bính, THAM LANG kỵ năm Quý. Nếu chỉ có KỴ thôi đã phiền lại có thêm ĐÀ, KÌNH TRIỆT càng phiền nhiều hơn. Những chi tiết này làm cho vận hạn đã xấu lại càng xấu hơn.

Chỉ có các sao không có hóa khí như bộ PHỦ TƯỚNG… là ít chịu hóa khí tác động, vì bộ này chủ yếu là đa phần được người ta thương. Nó bi xấu là do các chính tinh khác tác động. Và bị xấu do hàng Can Chi sẽ đề cập ở dưới.

Trên là phần lưu hóa khí các năm. Phần các sao trong bộ Can Chi cũng thế. Các sao CỰ MÔN, PHÁ QUÂN tọa thủ Mệnh không thích lưu LỘC TỒN hội họp tại Mệnh mà nó chỉ thích sao HAO. Bộ PHỦ TƯỚNG không hợp với KÌNH TRIỆT. THIÊN CƠ rất kỵ TANG MÔN. TỬ VI rất kỵ THIÊN HƯ TUẾ PHÁ, nhất là Hư TRIỆT… Nếu có những sao kỵ tất nhiên cũng có những sao đem lại vui mừng như ĐÀO HỒNG HỈ, Song Hỉ và Tứ Linh che chở Mệnh làm cho cung Mệnh có giá trị hơn. Như thế có nghĩa là Mệnh hạn năm này có thể tốt hay xấu, đối đầu với Đại, Tiểu Hạn.

Ngoài ra chú ý các bộ Can Chi tại cung Tật Ách, lưu tại cung Mệnh thường đem lại những tai ách. Một sao thuộc hàng Can thiên về việc làm và 1 sao thuộc hàng Chi thiên về trạng thái. Kể cả các trường hợp lưu tại Đại Hạn, Tiểu Hạn cũng là xấu vì nó đại diện cho tai ách.

Cũng thế các bộ Can Chi tại các cung, lưu động tại Mệnh hay đai Tiểu Hạn tất nhiên có việc liên quan đến cung đó. Ví dụ bộ Can Chi của cung huynh đệ lưu tại Mệnh hay đại, Tiểu Hạn tất nhiên có vấn đề liên quan, tốt xấu còn tùy thuộc vào hung cát tinh để luận đoán.

1.2.6.Cách tính Can Chi của tháng

Dựa trên cơ sở Can của năm theo lịch kiến dần (nguyên tắc ngũ dần)

Trước hết tháng giêng là tháng Dần, tháng Hai là tháng Mão..., mỗi tháng đi với một Chi nhất định

Muốn biết Can của tháng thì áp dụng phương pháp sau gọi là phương pháp Ngũ Dần:

  • Năm Giáp và Kỷ tháng giêng là tháng Bính Dần
  • Năm Ất và Canh tháng giêng là tháng Mậu Dần
  • Năm Bính và Tân tháng giêng là tháng Canh Dần
  • Năm Đinh và Nhâm tháng giêng là tháng Nhâm Dần
  • Năm Mậu và Quí tháng giêng là tháng Giáp Dần

1.2.7.Cách tính Can Chi của ngày

Dựa trên Can Chi của tháng. Theo nguyên tắc tháng giêng là tháng Giáp Tí thì ngày mùng một sẽ là ngày Giáp

Tí, mùng hai sẽ là Ất Sửu...Vì số ngày trong năm không chia chẵn cho 60, nên ta không thể có qui tắc tính Can Chi của ngày dựa trên Can Chi tháng được mà phải tra lịch.

1.2.8.Cách tính Can Chi của giờ

Căn cứ vào Can Chi của ngày theo nguyên tắc ngũ Tý

  • Ngày Giáp và Kỷ giờ Tý là Giáp Tý;
  • Ngày Ất và Canh giờ Tý là Bính Tý;
  • Ngày Bính và Tan giờ Tý là Mậu Tý;
  • Ngày Đinh và Nhâm giờ Tý là Canh Tý;
  • Ngày Mậu và Qui giờ Tí là Nhâm Tý.

PHẦN 2: HẠN HÔN NHÂN VÀ CÁC CÁCH ĐA PHỐI TRONG TỬ VI

2.1.LƯU Ý CHUNG

Để nghiên cứu về Hạn Tình cảm, chúng ta chỉ cần lưu ý tới 2 ngôi sao THIÊN TƯỚNG và TƯỚNG QUÂN. Đây là hai ngôi sao chủ tình yêu, tình cảm trong Tử Vi. Người có hai ngôi sao này đẹp chuyện tình cảm thường êm đẹp. Hai ngôi sao này xấu xem như một đời sầu với chuyện tình cảm. Nếu mất một còn một cũng được xem là hay, thà mất một còn một còn hơn là mất cả hai.

Nếu Mệnh, Đại Vận, Phu Thê có TƯỚNG hay THIÊN TƯỚNG cố định tất có thiên hướng yêu sớm. Ngược lại là không, nếu có chỉ xuất hiện ở Tiểu hạn, qua năm đó họ lại không bận tâm tới việc đó nữa.

2.2.TÌNH YÊU TỪ ĐÂU ĐẾN

2.2.1.Tình cảm nảy sinh từ đâu

Nhìn trên lá số xem TƯỚNG QUÂN và THIÊN TƯỚNG cố định đóng tại các cung số nào thì tình cảm hay nảy sinh từ cung số đó.

Với bộ TƯỚNG BINH lưu động cũng thế, năm ta có tình cảm cần xem xét xem vị trí lưu TƯỚNG hay BINH ở cung số nào. Ở đâu ta đoán tại đó.

VD: THIÊN TƯỚNG hay TƯỚNG QUÂN tại Quan Lộc ta hay có tình cảm với đồng nghiệp hay trong công việc.

2.2.2.Vợ/chồng thường xuất phát từ mối quan hệ nào

Để xem xét về Người Chồng/Vợ ta quen ở đâu nhìn vào các cung Nhị Hợp và Lục Hội (đứng từ cung Phu Thê để xem xét).

Nếu cung Phu Thê Lục hội hay Nhị hợp với cung Phụ Mẫu thì chuyện tình cảm bị phụ thuộc vào cung Phụ Mẫu, tương tự TƯỚNG QUÂN hay THIÊN TƯỚNG đóng tại Phụ Mẫu, Huynh Đệ chuyện tình cảm cũng bị tác động bởi cung số này. Nếu có thêm ĐÀ LA ở cung Phụ Mẫu thì càng rõ rang về việc Thuận theo cha mẹ trong chuyện tình cảm (ĐÀ LA chủ thuận theo, đong tại cung số nào ta hay thuận theo cung số đó).

2.2.3.Tính chất về phương và hướng

Trên Tử Vi ta có các Hướng như trong Phần một của Tử Vi cơ bản đã đề cập. Nhìn vào vị trí của TƯỚNG hay TƯỚNG QUÂN để xem xét về Phương và Hướng của người yêu ta (họ từ Phương nào tới). Tiểu Hạn có bộ TƯỚNG BINH ta nhìn vào đó.

2.3.HẠN TÌNH CẢM

Ta quan tâm tới bộ TƯỚNG QUÂN (TƯỚNG), PHỤC BINH (BINH), hai sao này luôn Xung chiếu nhau dù cố định hay lưu động như đã nói ở trên. Tiểu Hạn, Mệnh Hạn hay Phối Cung có bộ TƯỚNG BINH tất có liên quan tới chuyện tình cảm. Một sao chủ thương yêu gắn bó và 1 sao chủ phục vụ, và theo về.

Nói là bộ TƯỚNG BINH nhưng thực chất là ngôi sao TƯỚNG QUÂN. Nếu đứng tại Vị trí thấy cả TƯỚNG và BINH tức tình cảm nảy sinh từ hai phía. Nếu đứng tại ví trí xem xét chỉ thấy 1 trong hai sao TƯỚNG QUÂN hay PHỤC BINH thì tình cảm chỉ xuất hiện từ một phía, hay là năm ta bị kích động về việc đó.

Từ vị trí TƯỚNG QUÂN ta luôn có LỘC TỒN, QUỐC ẤN, BỆNH PHÙ (TỒN TƯỚNG ẤN BỆNH) hội họp. Thực chất được mô ta như sau: Chuyện tình cảm (TƯỚNG) bao giờ cũng là một kỷ niệm (QUỐC ÂN) khó phai mờ và được lưu giữ (LỘC TỒN) và khi yêu thường lo sợ mất đi người mình yêu nên dễ bị ảnh hưởng xấu của ngôi sao BỆNH PHÙ. Kỷ niệm liên quan tới tình yêu thường để lại cho ta niềm vui hay nỗi buồn hay cả vui lẫn buồn hay sự tủi nhục. Muốn đánh giá tính chất tốt đẹp cần kết hợp với nhóm Tam Minh hay thấy PHƯỢNG kể là hay ngược lại với TANG HƯ KHÁCH không có PHƯỢNG được kể là xấu.

2.3.1.Đại Hạn có TƯỚNG BINH cố định

a. Nội TƯỚNG ngoại BINH: tại gốc Đại hạn có TƯỚNG QUÂN tại chính cung tức là tình cảm xuất phát từ phía ta. Tức bên trong ta thấy thương người đó, muốn gắn bó với người đó còn bên ngoài (đối phương, người ta đang thương) họ cũng muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta.

b. Nội BINH ngoại TƯỚNG: được lý luận ngược lại với cách Nội TƯỚNG ngoại BINH.

c. Từ gốc Đại Hạn có TƯỚNG hội họp trong Tam hợp mà không thấy BINH

Tức ta muốn có chuyện tình cảm, muốn được gắn bó với ai đó tuy nhiên ta chưa biết đối tượng cần gắn bó là ai. Tất nhiên có kẻ muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta mà ta lại không biết có khi không thích.

d. Từ gốc Đại Hạn có BINH hội họp trong Tam hợp mà không thấy TƯỚNG

Lý luận ngược lại với trường hợp c

2.3.2.Tiểu Hạn có TƯỚNG BINH cố định

a. Nội TƯỚNG ngoại BINH: tại gốc Tiểu hạn có TƯỚNG QUÂN tại chính cung tức là tình cảm xuất phát từ phía ta. Tức bên trong ta thấy thương người đó, muốn gắn bó với người đó còn bên ngoài (đối phương, người ta đang thương) họ cũng muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta.

b. Nội BINH ngoại TƯỚNG: được lý luận ngược lại với cách Nội TƯỚNG ngoại BINH.

c. Từ gốc Tiểu Hạn có TƯỚNG hội họp trong Tam hợp mà không thấy BINH

Tức ta muốn có chuyện tình cảm, muốn được gắn bó với ai đó tuy nhiên ta chưa biết đối tượng cần gắn bó là ai. Tất nhiên có kẻ muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta mà ta lại không biết có khi không thích.

d. Từ gốc Tiểu Hạn có BINH hội họp trong Tam hợp mà không thấy TƯỚNG

Lý luận ngược lại với trường hợp c

Lưu ý

Với 2 trường hợp c và đ của “Mục 1.1.1” và “Mục 1.1.2”. Nếu Đại Vận chỉ thấy TƯỚNG cố đinh mà không thấy BINH khi đến Tiểu Hạn thấy BINH cố đinh tất ta biết được ai là kẻ đang muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta. Ngược lại với Đại Vận chỉ thấy BINH mà không thấy TƯỚNG đến Tiểu Hạn có TƯỚNG cố định tất ta sẽ tìm thấy đối tượng để quấn quit, chìu chuộng phục vụ và người ta sẽ có tình ý với ta.

2.3.3.Tiểu Hạn, Mệnh hạn hay Phối cung có bộ TƯỚNG BINH hội họp

Được phân ra theo các trường hợp như ở hai “Mục 1.1.1” và “Mục 1.1.2

2.4.TÍNH CÁCH TỪNG NGƯỜI YÊU VÀ NGƯỜI SẼ LẬP GIA ĐẠO

Đa phần chúng ta thường trải qua hơn 1 mối tình mới có thể tìm được người Phối ngẫu của mình. Cá biết có trường hợp chỉ yêu 1 mà lấy một. Có trường hợp yêu nhiều vô kể. Như vậy ta cần đoán xem ai là người ta có thể sẽ kết hôn với họ.

Nếu chúng ta để ý cung Phu Thê là một cung số cố định. Ở đó có thể thể hiện yếu tố đa thê, đa tình nhưng ta không thể dồn tất cả các tính cách của nhiều người yêu vào đó được. Việc xem xét về tính cách của từng người yếu tưởng chừng như khó khăn nhưng kỳ thực rất đơn giản và thú vị.

2.4.1.Tính cách các người tình

Để đoán tính cách của người yêu ta đứng từ cung có TƯỚNG QUÂN Lưu động mà cung đó là Mệnh Hạn, Tiểu Hạn, Phu Thê hay Tiểu Hạn có TƯỚNG QUÂN cố định mà đoán.

Sử dụng bản đồ Phi Tinh kết hợp với Chính tinh và các Phi Tinh lưu động hội họp về cung số có TƯỚNG QUÂN Lưu động mà luận đoán giống như ta đoán tính cách của cung Mệnh. Trường hợp TƯỚNG QUÂN cố định dùng các cách cục cố định để đoán.

Có trường hợp 1 năm có tới mấy người tình, người yêu là do cùng một năm đó họ vừa thấy TƯỚNG QUÂN cố định lại thấy cả TƯỚNG QUÂN lưu động có khi thấy luôn cả THIÊN TƯỚNG nên có những người một năm vui vẻ với mấy mối tình.

2.4.2.Ai là người phối ngẫu

Muốn đoán ai là người Phối ngẫu (Chồng/vợ) trong số các người tình hoặc khi nào ta gặp được người chồng/vợ của mình ta cần xem xét như sau:

  • Năm cung Phu Thê có bộ Lưu TỒN TƯỚNG ẤN
  • Năm có Phu Thê xung và tại Tiểu Hạn đó ta thấy TƯỚNG QUÂN hội họp.
  • Năm đến Tiểu Hạn Phu Thê lại có TỒN TƯỚNG ÂN cố định

Đó là những năm ta sẽ gặp được người mà ta sẽ lấy làm chồng hay vợ.

2.5.HẠN LẬP GIA ĐẠO

2.5.1.Điều kiện về Cung

Có Đại Hạn hay Tiểu Hạn hội họp tại Phối cung (Di, Phúc, Quan) tức là cần phải có một trong hai Hạn hoặc cả hai thấy cung Phu Thế (Tam hợp hay Xung chiếu). Đại Hạn thấy cung Phu Thê là lúc người ta thường lo nghĩ nhiều hơn đến cái cung thường thấy là cung Phối, cho nên vấn đề hôn sự đăt lên hàng đầu, hầu hết hỉ sự thường gặp tại đây tương tự với Tiểu Hạn cũng vậy. Nếu hôn nhân xảy ra tại Đại Hạn thứ 2 (Phụ, Huynh) là sớm. Đến từ Đại Hạn thứ 4 là muộn.

Sớm muộn còn báo hiệu tại Phối cung là các sao KÌNH chủ sớm, ĐÀ chủ muộn, HỶ THẦN tại Phối cũng báo hiệu niềm vui đến sớm từ cung này. Tuy nhiên từ vị trí HỶ THẦN cần có PHƯỢNG hay nhóm Tam Minh để thiên về niềm vui mừng sớm và tốt đẹp về sau. Nếu HỶ THẦN đi với nhóm TANG HƯ KHÁCH thiếu PHƯỢNG tất có bất trắc kèm theo về lâu dài không tốt đẹp. Dễ ở tình trạng chống đỡ với khó khăn (KÌNH) cản trở (ĐÀ) sau hôn nhân (từ vị trí HỶ THẦN luôn thấy KÌNH ĐÀ). Nếu cung Phu Quân xấu tất sinh chuyện phức tạp ở cung số này.

Bộ ÂM DƯƠNG quá sáng tại Phối cung cũng báo hiệu quá sớm.

Bộ Tam Minh tụ tập tại đâu báo niềm vui tại đó, nếu là Quan Cung công việc thuận lợi, Phối cung dễ có hỉ sự nếu chưa có gia đình, nếu có rồi báo hiệu 1 năm tình cảm tốt đẹp. Tử tức cung báo những tin vui do con cái mang lại. Nếu là Nô Cung là do bạn bè mang lại niềm vui đến cho ta….

2.5.2.Điều kiện về Chính tinh

Nam cần đi với nhóm ÂM DƯƠNG LƯƠNG (biểu tượng đôi nam nữ) hoặc nhóm CƠ ÂM LƯƠNG (hình tượng phụ nữ).

Nữ cần gặp nhóm SÁT PHÁ THAM (người đàn ông quấn quit bên tôi, phá… tôi).

Chung của cả nam nữ có thể gặp là PHỦ TƯỚNG chủ vỗ về, ve vuốt, thương yêu. Nói chung cả 3 nhóm sao kể trên đèu có dấu hiệu hôn nhân nhưng cần gặp các nhóm sao hàng Can và Chi, để quyết đoán.

2.5.3.Điều kiện về Bàng Tinh

Có thể gặp ít nhất một bộ Bàng tinh thuộc các nội dung từ “Mục a” đến “Mục c” sau đây

a.Bàng tinh hàng Chi cố định

Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ Tam Minh (ĐÀO HỒNG HỶ), hoặc ĐÀO HỒNG cũng tốt hay Song Hỷ (THIÊN HỶ, HỶ THẦN) kế tiếp là bộ LONG PHƯỢNG, biểu tượng kết đôi của trai và gái, hai giới.

b.Bàng tinh hàng Can cố định

Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ TƯỚNG BINH (hay nhất). Một sao chủ thương yêu gắn bó và 1 sao chủ phục vụ, và theo về. Bộ sao này hợp với chữ vu quy bên nữ. Tiếp theo là bộ HAO KÌNH ĐÀ có HỶ THẦN, chủ sự xây (ĐÀ) dựng (KÌNH) gia đình, tổ ấm.

c.Các bộ Bàng tinh Lưu động

Mỗi năm nhất định, ta luôn có bản đồ Phi Tinh cho cả Nam và Nữ. Từ bản đồ Phi Tinh của Nam hay Nữ kiểm tra cac bộ sao Lưu động giống như các bộ Bàng Tinh của hàng Can và Chi cố định ở “Mục 1.1.2” và “Mục 1.1.4”. Cần lưu ý các bộ sao Lưu động tại năm lập gia đạo có thể lưu tại Mệnh Hạn, Tiểu Hạn và Phối Cung.

2.5.4.Kết luận

Hạn lập gia đạo cần thỏa mãn:

  • Điều kiện về Cung như “Mục 1.1.1”;
  • Điều kiện về Chính tinh ứng với Nam hay Nữ như “Mục 1.1.2”;
  • Điều kiện về Bàng tinh như “Mục 1.1.3”.

2.5.5.Tiếng sét ái tình, tình ảo

Một lá số có THIÊN TƯỚNG đi với KHÔI VIỆT hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có sao này dễ bị sét ái tình đánh te tua, nếu THIÊN TƯỚNG không có KHÔI VIỆT đánh thì sẽ đánh vào năm có lưu KHÔI VIỆT. Cho nên Mệnh có sao THIÊN TƯỚNG hội họp dễ bị sét ái tình.

Tương tự ta có cách Tình Ảo khi THIÊN TƯỚNG đi với TUẾ HƯ hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có TUẾ HƯ hội họp. Các năm TƯỚNG có TUẾ HƯ lưu vào cũng dễ bị tình ảo. Người TƯỚNG hội họi hay bị đặc điểm này vì 12 Chi khi xoay vòng tất có các năm TƯỚNG thấy TUẾ HƯ.

2.5.6.Các cách phản bội tình cảm

Mệnh có THIÊN TƯỚNG hạn đến CỰ MÔN. CỰ và THIÊN TƯỚNG luôn luôn kề nhau. THIÊN TƯỚNG qua hạn CỰ MÔN dễ gặp tình đã xa, CỰ MÔN đến hạn THIÊN TƯỚNG dễ phản bội tình cảm.

Mệnh có THIÊN TƯỚNG hay CỰ MÔN mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này.

Mệnh đóng tại LƯƠNG hay TƯỚNG mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này. Tình đi với Tiền, Tiền hết thì tình tan.

Đại Hạn hay Tiểu Hạn có CỰ MÔN đi với LỘC TỒN hay TƯỚNG QUÂN. Đó là cách Cát xứ tàng hung. Đó là cách dễ bi phản bội về tình cảm nhất.

Mệnh có CỰ MÔN có Lưu TỒN TƯỚNG ÂN hội họp cũng dễ xảy ra chuyện.

Phối cung có CỰ MÔN hạn có TÔN TƯỚNG ÂN lưu vào cũng được kê là xấu.

Kỵ nhất là trường hợp có thêm KỴ cố định hay lưu động hội họp

2.5.7.Các cách đánh mất tình cảm

Mệnh, Hạn, Phối có SÁT PHÁ lại có TỒN TƯỚNG ÂN hoặc có TỒN TƯỚNG ÂN lưu vào dễ chịu cảnh thất tình, mất tình, bỏ tình kỵ nhất là trường hợp có KỴ cố định hay lưu động.

2.5.8.Cách dễ bị lộ chuyện trăng hoa (nếu có trăng hoa)

THIÊN TƯỚNG ngộ TRIỆT LỘ, TƯỚNG LỘ cách

Đây là cách mà các từ thường dùng là vạch măt tên phản bội, cháy nhà ra mặt chuột, bị lộ mặt… THIÊN TƯỚNG ngộ TUẦN dễ bị bắt. Rất kỵ gặp thêm THIÊN KHÔNG. Tạo thành cách Tam KHÔNG, kỵ cho toàn bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM.

Hay xảy ra với trường hợp TRIỆT đóng giữa TƯỚNG và LƯƠNG và TƯỚNG và CỰ. Và cũng chỉ có 2 trường hợp đó mà thôi.

Khi có hai cách trên thường có dấu hiệu ngoại tình đặc biết Mệnh có ĐÀO HOA hội họi. Nếu xảy ra chuyện trăng hoa, phản bội thì các năm bị Lưu TRIỆT dễ lộ mặt đặc biệt là bộ KỴ TRIỆT.

Các tuổi Dương sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI DƯƠNG thấy KỴ lưu.

Các tuổi ÂM sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI ÂM thấy KỴ lưu.

Các năm LIÊM có KỴ cũng là năm ta dễ bị nghi ngờ về chuyện đó.

Trường hợp tình yêu quay lại ta hay gặp khi bộ KHÔI PHỤC cố định ở cung Phu Thê hay năm có bộ sao này lưu tại cung Phu Thê. Nếu Mệnh, Phu có dấu hiệu ngoại tình tất sinh chuyện “tình cũ không rủ cũng tới”.

2.5.9.Các bộ sao không nên gặp ở Hạn hôn nhân, tình cảm

Hạn hôn nhân, tình cảm rất kỵ Tiểu Hạn hay Phối cung có nhiều sao ám tinh nhất là bộ DIÊU ĐÀ KỴ lại đi với CỰ MÔN. Các Cách THAM ngộ KHÔNG, ĐỒNG ngộ KHÔNG, TRIỆT THIÊN TƯỚNG. Các bộ KỴ TRIỆT. Một số các tuổi Dần Thân Tị Hợi nữ vị trí sao HỒNG LOAN bị mất tác dụng. Ngoài ra ai ngại THIÊN KHỐC hay THIÊN HƯ hội họp với TƯỚNG hay THIÊN TƯỚNG.

Nếu cưới hay yêu trong các năm có những bộ sao đó rất bất lợi, hay bị cản trở, chuyện tình cảm phức tạp nếu Phối cung xấu về sau rất bất lợi và khó bền vững.

Hạn tình cảm có bộ KHỐC lại có KỴ đi với KHÔNG KIẾP rât xấu. Đây là cảnh OÁN HẬN RỒI RA TAY LÀM HẠI có các sao HỎA LINH KÌNH ĐÀ đi với KHÔNG KIẾP mới đoán xấu.

Nhìn chung các hạn về bỏ tình, thất tình, đánh mất tình cảm, phản bội tình, hay lộ về việc lăng nhăng bồ bịnh hầu hết có KỴ cố định hay lưu động.

2.5.10.Các trường hợp bất lợi trong tình cảm

Nếu các lá số có THIÊN TƯỚNG, TƯỚNG QUÂN đặc biệt là THIÊN TƯỚNG cố định tại Mệnh, Thân, Đại Hạn, Tiểu Hạn hay Phối rất bất lợi cho chuyện tình cảm. Sợ các năm có TRIỆT lưu, KHỐC lưu lại thêm KỴ rất khổ về tình cảm. Bộ THIÊN TƯỚNG THIÊN KHỐC là tiếng khóc trong tình yêu. Có thêm KỴ rất sợ có thêm KHÔNG KIẾP càng nguy hiểm. TƯỚNG có KHỐC là ta vừa thương vừa vận, có KỴ ta cộng thêm chữ oán, có KHÔNG KIẾP ta thêm cụm từ RA TAY LÀM HẠI, có KỴ HÌNH cũng xấu, có KỴ thêm KÌNH cũng xấu thiên về ĂN MIÊNG TRẢ MIẾNG, có KHÔNG KIẾP thêm KÌNH ĐÀ HỎA LINH xấu không thể nói hết.

Tuổi Dần có cung Sửu (HỒNG QUẢ) và cung Thìn (TANG KHỐC) rất bất lợi cho chuyện gia đạo kế đó là các cung Tị và Dậu, Thân và Tý.

Tuổi Thân có cung Mùi (HỒNG QUẢ) và cung Tuất (TANG KHỐC) bất lơi kế đó là các cung Mão, Mùi và Dần, Ngọ.

Nhìn chung ai có TANG ở Mệnh hay Phối đa phần bất lợi cho chuyện tình cảm. Có TANG ở Phối nếu không có PHƯƠNG dễ có chuyện bất chính hoặc không trên người tất có Tỳ vết hay cưới chạy tang hay phải có Tang mới có lâu dài.

Cung Phối có TRIỆT mà Phối cung lại có các Chính tinh sợ TRIỆT như ÂM DƯƠNG sáng, TỬ VI, THIÊN TƯỚNG đa phần bất lợi hôn nhân. Xem thêm cách đa phối ở “Mục 1.6”;

Với nữ còn sợ cách ĐÀO HỒNG SÁT PHÁ THAM tại Mệnh hay Phu là cách sat Phu và cách KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đi với CỰ NHẬT tại Mệnh hay Phối hoặc Mệnh có KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đáo hạn có CỰ NHẬT.

Mệnh CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG qua hạn CỰ NHẬT cũng dễ xảy ra chuyện.

Kỵ nhất cung Phu Thê có CƯ lại có THAI CÁO trong TỒN TƯỚNG ÂN thêm KỴ càng nguy hiểm. Là cách dễ đưa nhau ra tòa. Công thêm các Sát Tinh (lấy KHÔNG KIẾP làm gốc) và KỴ

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hạn tình cảm và một số phương pháp xem hạn nói chung

Lời Phật Dạy về đạo làm người

Đây là một bản kinh ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các trách nhiệm của Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội
Lời Phật Dạy về đạo làm người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bấy giờ, đã đến lúc đức Thế Tôn khoác y – bát lên đường vào thành khất thực, trên đường đi, đức Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái, là người con có hiếu nên nghe theo lời dạy của cha trước khi mất, cứ mỗi sáng, sau khi tắm gội xong anh ta ra đường thực hành việc lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Cuộc gặp gỡ là duyên khởi cho bản kinh Thiện Sanh ra đời.

Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách kiến tạo một xã hội hài hòa, một cuộc sống đầy an lành và hạnh phúc.

Trong tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh. Bài viết chủ yếu trích từ ấn bản điện tử từ trang nhà Phatviet.com của TT.Tuệ Sỹ, tất cả các đoạn trích đều được đóng mở “.”, phần lễ bái sáu phương, hầu hết lấy nguyên văn trong kinh.

Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản

Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:

“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”

Thiện Sinh bạch Phật:

“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái.”

Phật bảo Thiện Sanh:

Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.

Thiện Sinh thưa:

Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh.”

Phật bảo Thiện Sinh:

“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”

Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.

Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc..thì cần thực hành và phát huy.

Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:

  1. Đam mê rượu chè.
  2. Cờ bạc.
  3. Phóng đãng.
  4. Đam mê kỹ nhạc.
  5. Kết bạn người ác.
  6. Biếng lười.

Phật bảo Thiện Sinh:

“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.

Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…

Người nào không làm ác,

Do tham, hận, sợ, si,

Thì danh dự càng thêm,

Như trăng hướng về rằm”.

Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân

Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ, khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá,cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:

“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,

Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?

Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.

Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”

Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.

đạo phật
Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán

Phật bảo Thiện Sanh.

“Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.

[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.

(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.

(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt”.

(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”

“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.

1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.

(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]

Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc

Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.

Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ.

Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:

  1. Cung phụng không để thiếu thốn.
  2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.
  3. Không trái điều cha mẹ làm.
  4. Không trái điều cha mẹ dạy.
  5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.

Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:

  1. Ngăn con đừng để làm ác.
  2. Chỉ bày những điều ngay lành.
  3. Thương yêu đến tận xương tủy.
  4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.
  5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng..

Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.

Đạo nghĩa thầy trò

Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:

  1. Hầu hạ cung cấp điều cần.
  2. Kính lễ cúng dường.
  3. Tôn trọng quí mến.
  4. Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.
  5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.

Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:

  1. Tùy thuận pháp mà huấn luyện.
  2. Dạy những điều chưa biết.
  3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.
  4. Chỉ cho những bạn lành.
  5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.

Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.

Đạo nghĩa vợ chồng

Chồng phải có năm điều đối với vợ

  1. Lấy lễ đối đãi nhau.
  2. Oai nghiêm không nghiệt.
  3. Tùy thời cung cấp y, thực.
  4. Tùy thời cho trang sức.
  5. Phó thác việc nhà.

Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng

  1. Dậy trước.
  2. Ngồi sau.
  3. Nói lời hòa nhã.
  4. Kính nhường tùy thuận.
  5. Đón trước ý chồng.

“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.

Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm

Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con

  1. Chu cấp.
  2. Nói lời hiền hòa.
  3. Giúp ích.
  4. Đồng lợi.
  5. Không khi dối.

Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại

  1. Che chở cho mình khỏi buông lung.
  2. Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.
  3. Che chở khỏi sự sợ hải.
  4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.
  5. Thường ngợi khen nhau.

“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.

Quan hệ chủ tớ, trên dưới

Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo

  1. Tùy khả năng mà sai sử.
  2. Tùy thời cho ăn uống.
  3. Phải thời thưởng công lao.
  4. Thuốc thang khi bệnh.
  5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.

Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:

  1. Dậy sớm.
  2. Làm việc chu đáo.
  3. Không gian cắp.
  4. Làm việc có lớp lang.
  5. Bảo tồn danh giá chủ.

“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.

Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn

Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều.

  1. Thân hành từ.
  2. Khẩu hành từ.
  3. Ý hành từ.
  4. Tùy thời cúng thí.
  5. Không đóng cửa khước từ.

Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:

Ngăn ngừa chớ để làm ác.

  1. Chỉ dạy điều lành.
  2. Khuyên dạy với thiện tâm.
  3. Cho nghe những điều chưa nghe.
  4. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.
  5. Chỉ vẻ con đường sanh thiên.

“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.

Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:

“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”

Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.

Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống,…vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.

Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “đường hai nẻo xuống lên”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật Dạy về đạo làm người

Phản hữu Hồng Loan sắc không giác ngộ

Cũng là Thiên Tướng cư Dậu, tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch, Đào Hỉ ở Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng như không, ngộ ra mọi sắc hương đều là giả dối.
Phản hữu Hồng Loan sắc không giác ngộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận tương tự nhưng xác suất thấp hơn.

Luật chung về Thiên Tướng cho tất cả mọi cung: Thiên Tướng ứng với hình thức bề ngoài, nếu hội họp với cả hai loại sao sắc (Đào Hồng Hỉ) và Không (Tuần Triệt Thiên Không Địa Không) lại biến thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với cảnh tu hành).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phản hữu Hồng Loan sắc không giác ngộ

Lì xì - Phong tục mừng tuổi đầu năm

Lì xì là phong tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ vào đầu năm mới, thường ở tết cổ truyền của người Việt là tục lệ đặt tiền lì xì vào phong bao đỏ gọi là bao lì xì.
Lì xì - Phong tục mừng tuổi đầu năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lì xì là phong tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ vào đầu năm mới, thường ở tết cổ truyền (còn gọi là Tết Nguyên Đán) của người Việt. Đây là tục lệ đặt tiền lì xì vào phong bao nhỏ có màu son đỏ rực rỡ của người lớn khi gặp trẻ nhỏ vào những ngày tết. Chiếc phong bao màu đỏ được gọi là bao lì xì.

Nguồn gốc của tục lì xì đầu năm

Lì xì đầu năm vốn tồn tại từ lâu, nguồn gốc của phong tục này cũng được thêu dệt ra khá nhiều câu chuyện. Có chuyện kể rằng ngày xưa, ở Đông Hải có rất nhiều yêu quái thường xuyên gây hại bá tánh, song những ngày thường chúng luôn bị các thần tiên ở hạ giới canh giữ. Tuy nhiên, hàng năm các vị thần tiên đều phải về trời vào thời điểm đêm giao thừa. Lúc này, yêu quái lộng hành quấy rối trẻ em đang ngủ, khiến trẻ thường giật mình khóc thét và bị sốt, nên bố mẹ thường không dám ngủ để thức canh con trẻ.

Một lần có 8 vị tiên đi ngang nhà kia thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền này vào tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Phép lạ này nhanh chóng lan truyền ra khắp nhân gian, nên khi Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ tặng trẻ con, để trẻ chóng lớn và khỏe mạnh hơn, từ đó trở thành tục lì xì đầu năm như hiện nay.

bao lì xì
bao lì xì

Lại có câu chuyện kể rằng tiền lì xì được biến thể từ tục “đặt áp tế tiền” – là những đồng tiền được xâu bằng chỉ đỏ, buộc lại theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở giường hoặc nôi với mục đích chống tà ma, bảo vệ giấc ngủ cho trẻ nhỏ. Theo thời gian, mọi người để tiền trong những bao giấy màu đỏ để trao cho nhau vào dịp năm mới với ý nghĩa chúc nhau sung túc, khỏe mạnh, an khang. Lì xì từ đó trở thành phong tục không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới.

Ý nghĩa đáng quý của việc mừng tuổi năm mới

Lì xì có nghĩa là tốt lành, được lợi. Một nghĩa khác là vận tốt, gặp may mắn. Do đó tiền mừng tuổi hay tiền lì xì chính là thứ tiền mang lại cái may mắn, điều tốt lành cho trẻ em dịp đầu xuân.

Phong bao lì xì là những chiếc túi màu đỏ bên trong chứa tiền mới, gọi là tiền may mắn. Phong bao tượng trưng cho sự kín đáo, không muốn có sự so bì dẫn đến chuyện xích mích, không vui trong ngày Tết.

Phong bao mừng tuổi còn tượng trưng cho tài lộc, nhiều người nhận được hay cho đi càng nhiều bao lì xì thì càng tin rằng mình đã phát tài phát lộc…

Ngày tết, mừng tuổi cho trẻ nhỏ, người lớn mừng tuổi cho trẻ nhỏ, con cháu hay người ít tuổi hơn, được gọi là lì xì. Còn con cháu mừng tuổi cho ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi hơn không gọi là lì xì, mà hành động được đó được coi là chúc sức khỏe, bình an, chúc ông bà, cha mẹ sống lâu trăm tuổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lì xì - Phong tục mừng tuổi đầu năm

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Điểm danh 3 chòm sao nữ kén chọn khiến chậm duyên muộn chồng

3 chòm sao nữ kén chọn dưới đây cũng vì khắt khe quá nên mãi mà vẫn chưa thể tìm được người ưng ý, nhân duyên chậm muộn.
Điểm danh 3 chòm sao nữ kén chọn khiến chậm duyên muộn chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm con gái, đôi khi hồ đồ một chút, ngây thơ một chút còn tốt hơn là quá khôn khéo, đặc biệt là về phương diện tình cảm đừng quá tính toán chi li. 3 chòm sao nữ kén chọn dưới đây cũng vì khắt khe quá nên mãi mà vẫn chưa thể tìm được người ưng ý, nhân duyên chậm muộn.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Diem danh 3 chom sao nu ken chon khien cham duyen muon chong hinh anh
 

Thiên Bình

Chòm sao nữ kén chọn như Thiên Bình khi đối diện với những chuyển biến tình cảm thường rất do dự, thích duy trì tình trạng mập mờ, cân bằng hơn là đưa ra một đáp án rõ ràng. Cũng là vì điều kiện của họ tốt, có quyền được lựa chọn nên nhất định phải chọn được người thập toàn thập mĩ.   Cô gái Thiên Bình đối với tình cảm vừa nhiệt tình vừa nhút nhát, đã có ý nhưng vì điểm này chưa ưng, điểm kia chưa ưng mà lại chần chừ. Hãy nhớ rằng, không ai là hoàn hảo cả, càng không có chàng trai xứng đáng, chỉ có người mình yêu và muốn hòa hợp mà thôi, Thiên Bình nhé.  

Xử Nữ

Theo đuổi hoàn mĩ, chòm sao nữ kén chọn Xử Nữ đối với tình yêu, hôn nhân phải nắm giữ 100%, chuẩn bị đầy đủ, không một chút sơ hở. Đối tượng đáp ứng được các yêu cầu của Xử Nữ phải nói là trần đời hiếm thấy, có một không hai.   Chỉ khi nào buông bỏ được những nguyên tắc cứng nhắc, tính toán thái quá, để cho trái tim mình có cơ hội cảm nhận thoải mái thì Xử Nữ mới có thể tiến tới hạnh phúc. Vì ai cũng có khuyết điểm, bản thân Xử Nữ cũng vậy, nếu tìm người hoàn hảo thì trên đời chắc chắn không có, chỉ có người ngày càng hoàn thiện hơn mà thôi.
Diem danh 3 chom sao nu ken chon khien cham duyen muon chong hinh anh
 

Hổ Cáp

  Cô gái Hổ Cáp có nội tâm phức tạp, vừa hi vọng là nữ sinh nhỏ bé được người yêu che chở, bảo vệ lại vừa muốn khống chế, quản lý đối phương một cách chặt chẽ như nữ vương. Trong chuyện tình cảm, chòm sao nữ kén chọn này phải thỏa mãn được cả hai yêu cầu trên thì mới chấp nhận. Như vậy thật quá khó khăn.   Thế nên, sớm sớm tối tối vẫn lẻ bóng, đa nghi thấy chàng trai nào bày tỏ với mình cũng phải thẩm tra hết lượt. Thả lỏng ra, bản thân cần sự an toàn thì phải tạo an toàn từ mối quan hệ, vun đắp tình cảm chứ không thể lo được lo mất mà đưa ra những yêu cầu quá mức thực hiện được đâu Hổ Cáp à.
3 chòm sao nữ tư tưởng hiện đại, vượt khỏi quan niệm cũ 3 cô nàng hoàng đạo ngốc nghếch, biết sai vẫn cố chấp yêu 3 cô nàng hoàng đạo càng lớn tuổi càng hấp dẫn
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 chòm sao nữ kén chọn khiến chậm duyên muộn chồng

Chịu khổ trăm năm chỉ vì một lời ác ý

Dân gian có câu: Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai, chỉ vì một lời ác ý có thể khiến con người ta phải chịu khổ đến trăm năm.
Chịu khổ trăm năm chỉ vì một lời ác ý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa có câu "Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai", chỉ một lời ác ý cũng có thể khiến con người phải chịu quả báo. Câu chuyện tâm linh Phật giáo về khẩu nghiệp dưới đây sẽ khiến bạn phải cẩn trọng hơn trong từng lời nói của mình. 


Chiu kho tram nam chi vi mot loi ac y hinh anh
 
Có một người xuất gia từ giáo pháp của Như Lai, hay luyện tập thiền định. Một lần, ông ta đi tới thôn nhỏ, nghỉ lại qua đêm ở một ngôi chùa.    Đêm đầu tiên, ông ta ngồi tĩnh tâm như thường hay làm, chuẩn bị tiến vào trạng thái định. Tuy nhiên, lúc này các vị sư trong chùa bắt đầu tụng kinh, khiến tâm của ông không thể an định, liền nghĩ: "Hôm nay thiền định vào giữa đêm thôi!". Đến giữa đêm, các nhà sư vẫn tụng kinh, ông lại nghĩ: "Để gần sáng bắt đầu vậy!"    Gần sáng, ông ngồi xếp bằng tâm gần tiến vào thế thiền định, các nhà sư lại lớn tiếng tụng kinh. Bởi vì không đạt được nguyện vọng của mình, trong lòng khó chịu, lần này ông ta giận dữ đến mức nói: "Nhà sư trong giáo pháp Như Lai này từ sáng đến tối kêu như ếch". Vì lời này mà sau khi mất, ông ta chuyển kiếp biến thành con ếch xanh.   Phật chỉ ra hai đại bi kịch của con người
Phật dạy hai đại bi kịch của con người sẽ đẩy họ tới khổ đau và tuyệt vọng. Đó là chiếm được thứ mình muốn và không chiếm được thứ mình muốn.

Chú ếch ngụ gần nhà một người chăn gia súc có tên là Hoan Hỷ, sống cách Phật không xa, nghe tiếng Phật Đà giảng pháp, ông ta liền chống gậy đứng nghiêm nghe lời Phật dạy. Lúc này, chú ếch do người xuất gia chuyển kiếp đang ngồi bên bờ sông, bị chiếc gậy của người chăn gia súc không may chống lên lưng. 
  Mặc dù rất đau, nhưng chú ếch xanh rất thiện lương nghĩ rằng: "Nếu mình kêu ra tiếng, nhất định làm cho tâm người chăn gia súc hoảng hốt, ảnh hưởng đến việc nghe Phật pháp của ông ta". Thế nên, cứ chịu đau, còn thể hiện tấm lòng thanh tịnh của mình với Thích Ca. Vì vậy mà sau khi chết được cư ngụ trong thiên cung của Tứ đại thiên vương.   Câu chuyện Phật giáo về khẩu nghiệp không dài, không ngắn, đủ để nhắn nhủ tất cả. Vì nói lời không hay về tiếng tụng kinh của các đệ tử Như Lai đã tạo nên nghiệp chướng, trong 500 kiếp phải rơi vào thân phận của một chú ếch. Sau này, bởi vì thể hiện tấm lòng thanh tịnh của mình, nên mới được giải thoát khỏi thân kiếp ếch mà được sinh ra tại Ngũ đại thiên vương.   Người xuất gia từng được rèn luyện các hành vi giáo pháp của Như Lai, thế nên mới nhận ra được chân lý. Ta thường nói ác giả ác báo, thiện giả thiện lai, vậy nên cần phải tránh điều ác, tu tâm dưỡng tính làm điều thiện. Giải trừ khẩu nghiệp, trăm sự đều lành.
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống, những câu nói hay về tình bạn và suy ngẫm

Chi Nguyễn (Theo Xuefo)
Xem Clip Nhân quả ba đời, một người gây tội con cháu gánh họa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chịu khổ trăm năm chỉ vì một lời ác ý

Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên nhờ phòng ăn hợp phong thủy

Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên, gia đình đoàn tụ, tăng cường sự thân thiết gắn bó. Hãy nhân dịp này cải thiện phong thủy phòng ăn để Trung Thu năm nay thêm
Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên nhờ phòng ăn hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên, gặp gỡ trao đổi tình cảm, tăng cường sự thân thiết gắn bó. Hãy nhân dịp này cải thiện phong thủy phòng ăn của nhà bạn để Trung Thu năm nay thêm vui vẻ và hài hòa nhé. 


Tet Trung Thu tham tinh doan vien nho phong an hop phong thuy hinh anh
 
Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên, là dịp hiếm hoi gia đình hội họp giữa những tháng ngày bận rộn của cuộc sống. Thông qua cải thiện phong thủy phòng ăn có thể giúp cho mối quan hệ thân tình trong nhà càng thêm gắn bó, khăng khít, tạo không khí ấm áp cho một tối Trung Thu đáng nhớ.   Phong thủy phòng ăn chú trọng nhất là màu sắc. Màu sắc nên nhẹ nhàng trong sáng, vừa tươi vui sáng sủa lại kích thích cảm giác muốn ăn. Có thể chọn màu vàng nhạt làm tông chủ đạo, mang đến cảm giác gần gũi, ấm áp, còn có thể tăng hứng thú dùng bữa với người khác, xúc tiến quan hệ thân mật, gần gũi với người trong gia đình.   Đồ dùng trong phòng ăn có hình tròn thì tình cảm gia đình hài hòa. Bàn ăn hình tròn là tốt nhất, nếu không có thể dùng hình bầu dục, tránh được những góc bàn sắc bèn, tượng trưng cho gia nghiệp thịnh vượng đoàn kết. Nếu nhà muốn dùng bàn ăn hình vuông thì nên tránh bố trí ghế ngồi ở góc bàn để không đón sát khí.    Số ghế ngồi nên là 5 hoặc 9 bởi chúng là những số thuần dương, là con số cát tường, mang đến may mắn. Ghế nên cao vừa phải, quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng đến tâm tình lúc dùng cơm, như vậy mới giúp Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên.   Để tăng cường mối quan hệ thân mật của người trong nhà, hãy trang trí thủy tinh tím – biểu tượng của sự bình tĩnh trong phòng ăn. Thủy tinh tím mang năng lượng vững vàng, giúp bình ổn cảm xúc, đối với tình bạn hay tình thân đều có tác dụng cực kì tốt, mọi người dễ dàng giao lưu, tiếp túc, bày tỏ, chia sẻ tấm lòng.
Tet Trung Thu tham tinh doan vien nho phong an hop phong thuy hinh anh 2
 
Hoa nghệ tây hay còn gọi là hoa hồng tây, hoa hồng tạng là loài hoa có ý nghĩa phong thủy tốt lành với quan hệ nhân sinh. Trong phòng ăn bày bình hoa này với ngụ ý một nhà hoàn mỹ, chu đáo tin tưởng. Bình hoa với nhiều sắc màu như tím, vàng trắng, hồng,.. cũng rất sinh động, có tính thẩm mĩ cao, giúp Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên hơn nữa.

► Mời các bạn tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung Thu theo truyền thống dân gian

Chọn khăn trải bàn cho phòng ăn Giải pháp cho phòng ăn nhỏ hẹp Tăng cường sức khỏe nhờ bài trí phong thủy phòng ăn hợp lí
  Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu thắm tình đoàn viên nhờ phòng ăn hợp phong thủy

Hiểu hết về Vu Lan Báo hiếu

Mùa hiếu hạnh lại đến, gợi lên cảm xúc trào dâng về mẹ cha, khơi dậy trong lòng ta một tinh thần báo hiếu đáng quý, đáng trân trọng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùa hiếu hạnh lại đến, gợi lên cảm xúc trào dâng về mẹ cha - những người đã tạo tác ra ta, cho ta vóc hình, sự nghiệp. Dù bạn là ai, người nông phu hay bậc quyền cao chức trọng thì điểm gặp gỡ giữa chúng ta là tinh thần báo hiếu đang tuôn trào trong dòng nhiệt huyết của con tim.

hieu-het-ve-vu-lan-bao-hieu

Trong cung bậc tri ân và báo ân của dân tộc, Phật giáo đã từ lâu luôn trân trọng và lấy hạnh hiếu làm đầu. Sự tương phùng của tinh thần đó đã dẫn dắt nên những gương hiếu hạnh trong quá khứ cũng như hiện tại, sáng rực và ghi mãi dấu ấn với thời gian.

Không phải ngẫu nhiên, cứ đến ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, giới Phật Giáo long trọng tổ chức đại lễ Vu lan – Báo hiếu thật trang nghiêm, hoành tráng từ hình thức tổ chức cho đến nội dung mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh – văn hóa của con người. Lễ hội xuất phát từ điển tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.

“Vu Lan” là danh từ gọi tắt của “Vu Lan Bồn”, tiếng Phạn là Ullambana. “Ullam” dịch là “treo ngược” (đảo huyền), dụ cho cái khổ của người chết như bị treo ngược, cực kỳ thống khổ. Chữ “bồn” tiếng Phạn là “bana”, dịch là “cứu giúp”. Như vậy “Vu Lan Bồn” là giải cứu tội bị treo ngược.

“Báo hiếu” là sự đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.

Lễ Vu Lan của Phật giáo như chúng ta thấy ngày nay phát xuất từ thời Đức Phật. Bằng đại bi tâm, Đức Phật đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận không ai khác là Tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả là một trong mười vị đệ tử xuất chúng của Thế Tôn.

Khi Mục Kiền Liên vừa chứng được lục thông, liền nhớ tới mẹ mình, Tôn giả bèn dùng tuệ nhãn kiếm tìm, liền thấy mẹ đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đói khổ. Thương mẹ vô vàn, Ngài đã vận dụng thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Do tâm bà Thanh Đề còn quá san tham và ác nghiệp thọ báo còn quá nặng nề nên bà không thể dùng cơm vì bát cơm biến thành lửa. Vô cùng đau đớn, không biết dùng cách nào để cứu mẹ mình, Ngài liền về hỏi đức Thế Tôn.

Đức Phật liền dạy: "Tội lỗi của mẹ ngươi dù có dùng thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu được, duy chỉ nhờ thần lực của chúng Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, tin tấn tu hành thanh tịnh, tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hóa được nghiệp lực, mẹ ngươi mới thoát được cảnh khổ”.

Nghe vậy, Tôn giả mục Kiền Liên liền khẩn cầu Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mời được chư Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được ?”.

Đức Phật dạy :“Ngày Vu Lan cũng là ngày Tự Tứ của chư Tăng, ông nên sắm các thứ cúng dường trong ngày Tự Tứ. Ngày đó dù các vị ở trong thiền định hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ nhân gian, cũng tập trung lại để Tự Tứ và cầu nguyện cho mẹ người được thoát khổ”.

Tôn giả thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn, và chính ngay trong ngày đó mẹ Tôn giả thoát được cảnh khổ ngạ qủy mà được sanh lên cõi trời. Tôn giả vô cùng hoan hỷ và thỉnh cầu : “Sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui, họ có được làm như con không?”.

Thế Tôn bảo rằng : “Có thể được làm như vậy trong ngày Tự tứ để cha mẹ đời này và nhiều đời được siêu độ giải thoát”.

Từ đó trong Phật giáo truyền lại một pháp thức cứu độ cho các bậc tiền nhân quá vãng siêu thoát về cảnh giới an lành, được thực hiện trong ngày Vu Lan - Tự Tứ. Vào những ngày này, dù bạn là ai, ở đâu cũng ước muốn được đến chùa để tham dự lễ Vu Lan - Báo Hiếu, thắp một nén hương lòng cầu nguyện cho cha mẹ hoặc đời này hay nhiều đời được siêu độ, còn người đang hiện hữu nhờ công đức này mà an lành hạnh phúc trong cuộc sống nhân sinh.

Kể từ khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, mùa Vu Lan trở thành truyền thống báo hiếu. Ngày nay, lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người” với bất cứ ai đang hiện hữu trên cõi đời này. Hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, nối kết ân tình nghĩa cảm giữa người còn kẻ mất là truyền thống cao đẹp trong dòng chảy văn hóa tình người của dân tộc.

Một nét đẹp trong ngày Vu lan là chương trình bông hồng cài áo. Trong buổi lễ thiêng liêng ấy, ai còn cha mẹ sẽ sung sướng được cài lên ngực áo một đoá hoa hồng, ai mất mẹ lại buồn tủi cài lên ngực đoá hồng trắng buồn thương. Thế nhưng dù còn cha mẹ hay đã mất thì mỗi người con lúc này đang dâng lên một tình cảm biết ơn mẹ cha sâu lắng, và mỗi người tâm niệm sẽ sống hết lòng với bổn phận làm con hiếu của mình.

Chúng ta hiểu vì sao mà bổn phận làm con phải biết báo hiếu ? Bất cứ ai hiện hữu trên đời, trước hết phải được mẹ mang nặng đẻ đau : “Chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi; đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn; trong khi sinh nở, gan ruột dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề” (Kinh Báo Ân).

Sanh con ra cha mẹ đã khổ nhọc, để nuôi con khôn lớn lại chịu khổ nhọc hơn, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, thậm chí vì con mà phải làm ác. Con là vàng ngọc, là giọt máu của cha mẹ chia hai, nên dẫu con thế nào cha mẹ vẫn thương con. Tình thương đó “có dừng lại chăng, chỉ hơi thở sau cùng”. (Kinh Báo Ân).

Ơn sanh thành của cha mẹ thật bao la, cao như núi và rộng như biển, cha mẹ là đôi vầng nhật nguyệt sưởi ấm và sáng soi đời con: “Mẹ còn sống gọi là mặt trời giữa trưa chói sáng, mẹ khuất bóng rồi gọi là mặt trời đã lặn”(Kinh Tâm Địa Quán).

Trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi. Hình ảnh người cha lao động cần mẫn sớm hôm, người mẹ dịu hiền chăm chút các con từng miếng ăn, giấc ngủ, đã từng và mãi mãi là những cung bậc êm đềm của bài hợp xướng gia đình. Căn bản đạo đức cũng bắt đầu từ sự giáo dục gia đình, vì cha mẹ là chuẩn mực của các con từ lúc còn thơ ấu. Mãi mãi về sau, dù ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng thấy cha mẹ là chổ dựa tinh thần vững chắc.

Có thể lúc ta thành công trong sự nghiệp hay hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi thì ta không cảm nhận rõ điều này, nhưng khi gặp cảnh ngộ không may, khi bị sống đời vùi dập tơi tả, khi hoàn toàn mất hết niềm tin đối với người chung quanh, ta mới chợt hiểu rằng, nơi một gốc trời xa yêu dấu, cha mẹ vẫn là chiếc nôi ấm cho mình ru giấc ngủ sâu, là vòng tay êm xóa tan hết nơi mình mọi buồn đau hận tủi. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của mình?

Nói về đạo hiếu, kinh điển Phật giáo đề cập đến rất nhiều, ngoài kinh Vu Lan Bồn ra, còn có một số kinh khác như kinh Nhẫn Nhục, Đại Tập, Tứ Thập Nhị Chương, A Hàm, Tăng Chi … lời lẽ rất thống thiết, sinh động, để lại dấu ấn tâm linh cho người đọc thực thi đạo sống làm người. Ngay trong bản kinh Tứ Thập Nhị Chương đã trình bày rõ quan điểm : “Phàm làm người phụng thờ qủy thần, không bằng phụng thờ cha mẹ, cha mẹ là vị thần tối thượng”. Còn kinh Đại Tập nói rằng: “Nếu ở đời không có Phật thì hãy theo phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật”.

Phụng dưỡng cha mẹ là một sứ mệnh thiêng liêng, vượt lên trách nhiệm và bổn phận. Hiếu dưỡng cha mẹ bằng cách kính thuận năm điều: “Nuôi dưỡng cha mẹ; làm đủ bổn phận con cái đối với cha mẹ; giữ gìn gia đình và truyền thốn; bảo vệ tài sản thừa tự; làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Kinh Giáo ThọThi La Ca Việt). Kính thờ cha mẹ, con cái phải làm tròn năm việc: “Phải lo sanh kế; dậy sớm lo cơm nước cho cha mẹ kịp thời; không nên làm cha mẹ thêm lo; phải nhớ ơn cha mẹ; khi cha mẹ có bệnh phải lo sợ chạy chữa kịp thời” (Kinh Lục Phương Lễ).

Dù nổ lực để tận hiếu nhưng công ơn cha mẹ vô thượng thậm thâm thật khó đáp đền. Trong kinh Tăng Chi I, Đức Phật dạy “Có hai hạng người, này các Tỷ kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến khi các người 100 tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dầu tại đấy họ có vãi đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”.

Những cách báo hiếu trên tuy xem ra cũng cao cả và không phải người con nào cũng hiểu và làm được trọn vẹn. Thế nhưng theo như những gì Đức Phật dạy thì sự báo ân như vậy vẫn chưa trả đủ công ơn cha mẹ. Công ơn cha mẹ to lớn như thế, bổn phận con cái phải làm thế nào mới tròn câu hiếu đạo?

Hiếu đạo theo Phật giáo, nếu chỉ phụng dưỡng song thân đầy đủ vật chất cùng tất cả sự cung kính thì chưa đủ để báo ân cha mẹ. Người con hiếu, ngoài hiếu dưỡng thông thường phải hướng cha mẹ trở về an trú trong chánh pháp. Kinh Tăng Chi, Phật dạy : “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, đồ ăn, tiền bạc thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ.

Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới ; đối với cha mẹ san tham, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí ; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha, là chân thật báo ân”. Khuyến hóa cha mẹ trở về chánh pháp để tránh đọa lạc là cách báo hiếu trọn vẹn, bởi “Cúng dường cha mẹ không bằng khuyên cha mẹ làm việc lành, bỏ việc ác. Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam bảo thời tuy có hiếu dưỡng cha mẹ cũng gọi là bất hiếu. Cha mẹ hung ngược, dâm dật, tà ngụy, trái đạo … người con phải hết sức ngăn cản mới gọi là hiếu” (Kinh Hiếu Tử).

Khi cha mẹ quá vãng, Phật dạy : “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngay Tăng Tự Tứ, thiết lễ cúng dường mười phương chúng Tăng, nguyện cho cha mẹ hiện đời phước thọ tăng long, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ qủy, được sanh vào trời người hưởng phước lạc vô cùng” (Kinh Vu Lan Bồn). Như vậy bổn phận con cái đối với cha mẹ thì ngoài việc dâng cúng những điều kiện về mặt vật chất là lẽ tất nhiên, thế nhưng sẽ có ý nghĩa hơn nếu như con cái biết hướng cha mẹ quy ngưỡng Tam Bảo, biết bố thí cúng dường, bỏ việc ác, làm các điều thiện.

Mặt khác vì do công lao sanh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái như trời như biển cho nên không thể lấy của cải vật chất bù đắp được. Vả lại, mọi của cải vật chất trên thế gian này đều tạm bợ, vô thường, biến hoại, không có giá trị trường cửu, do đó, nếu như khuyến khích cha mẹ có lòng tin, làm điều lành, sống theo chánh kiến, đó là hành động báo hiếu có ý nghĩa nhất. Bởi vì nếu ai thực hiện được như vậy thì cha mẹ của họ sẽ tăng phước, tăng thọ, an vui trong cuộc sống hiện tại mà đời sau cũng được thọ hưởng các quả báo tốt đẹp.

Hiếu dưỡng không chỉ báo đền ân đức cho cha mẹ mà chính người con cũng được tăng trưởng phước đức: “Cúng dường cha mẹ dù một chút ít cũng được phước đức vô lượng” (Kinh Tạp Bảo Tạng). Gia đình có con cháu hiếu thảo được Phật ca ngợi phước báu ngang hàng với Phạm thiên, xứng đáng được cúng dường. Kinh Tăng Chi, Phật dạy: “Những gia đình nào trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ , những gia đình ấy được chấp nhận ngang hàng bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”.

Chính Sakkha (Đế Thích) nhờ hiếu thảo với cha mẹ mà được phước báo thiên chủ, làm vua cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Điều này trong kinh Tương Ưng, đức Phật bảo Mahàli : “Này Mahàli, thuở xưa khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thực hành bảy cấm giới túc : hiếu dưỡng với cha mẹ, kính trọng các bậc gia trưởng … Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakkha được địa vị Thiên chủ”. Kinh Hiền Ngu, Phật dạy: “Công đức hiếu thuận cha mẹ thù thắng khôn lường, nhờ công đức này trên làm Thiên đế, dưới làm Thánh vương cho đến thành Phật, được ba cõi tôn kính đều là do phước đức này vậy”.

Nếu như con cái sống hiếu dưỡng với mẹ cha tạo phước đức vô lượng chừng nào thì bất hiếu là tội lớn nhất chừng đó. Chúng sanh phần nhiều vì nghiệp chướng che mờ tâm trí nên bất hiếu nhiều hơn hiếu thảo. Đức Phật xác định: “Điều ác nhất không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục). Giết hại cha mẹ là tội nặng nhất, rơi vào địa ngục không thể cứu chữa.

Đã có nhiều người con giàu sang phú qúy nhưng cha mẹ vẫn ở túp lều tranh, nhiều người cơm ăn áo mặc đầy tràn nhưng cha mẹ vẫn áo quần tả tơi, bươn chãi từng ngày để lo sinh kế, thậm chí đã có những người con có những hành động mất tính người như chửi mắng cha mẹ, đánh đập cha mẹ và nhan nhãn những bài báo đăng tin con cái giết cha mẹ … Thật đau lòng thay!

Cha mẹ gian lao khổ cực làm lụng nuôi đàn con khôn lớn, thế nhưng đàn con không nuôi nổi cha mẹ, bạc đãi cha mẹ. Nhân nào quả đó, rồi đến lúc những đứa con bất hiếu này lại bị con cái của họ đối xử tệ bạc lại với họ. Khi đó dù họ có hối hận cũng đã muộn rồi, chỉ còn con đường vào địa ngục đang mở cửa đón chờ họ ở phía trước.

Tóm lại, Vu Lan bồn là ngày lễ báo hiếu vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con hiếu trên thế gian này. Lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thật thiêng liêng cao cả, giúp cho con cái nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ, khơi dậy trong lòng họ một tinh thần báo hiếu đáng quý, đáng trân trọng. Người con Phật nhận thức sâu sắc lời Phật, mùa Vu Lan về càng nỗ lực tinh tấn thực hành hạnh hiếu để báo đáp thâm ân của cha mẹ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiểu hết về Vu Lan Báo hiếu

Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

Âm nhạc và ca hát – đối với hàng cư sĩ, nếu biết sử dụng khéo léo, đúng mục đích, là một phương tiện truyền thông tốt trong các sinh hoạt Phật giáo.
Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm)

1. Cư sĩ tại gia

Đối với người cư sĩ tại gia nguyện giữ 5 giới căn bản, ca hát không là vấn đề. Đức Phật không ngăn cấm người cư sĩ ca hát, sử dụng âm nhạc. Điều quan trọng là gìn giữ tâm ý, không để lôi cuốn, loạn động bởi âm thanh qua bài ca, tiếng hát, nhạc điệu. Âm nhạc và ca hát – đối với hàng cư sĩ – nếu biết sử dụng khéo léo, đúng thời, đúng mục đích, là một phương tiện truyền thông tốt trong các sinh hoạt Phật giáo.

Tuy nhiên, nếu người cư sĩ nguyện giữ 8 giới (bát quan trai giới) – thông thường trong các khóa thiền hay những ngày bố tát tịnh tu – không ca hát là điều giới thứ 7 cần phải tuân giữ:

“Trong đêm nay và ngày nay, ta nguyện sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang…” (Tăng chi bộ, chương Tám pháp).

2. Sa-di, sa-di-ni xuất gia

Không ca hát là giới thứ 7 trong 10 giới căn bản của hàng sa-di, sa-di-ni:

– Ðệ tử thực hành giới tránh múa, hát, nhạc, kịch (Tiểu bộ, Tiểu tụng).

3. Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni xuất gia

Riêng giới không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát, nghe đàn kèn tuy không ghi rõ trong giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa nhưng có ghi trong các điều liên quan đến tội Tác ác (dukkata) [*], thuộc Tiểu phẩm (Chương V), của Luật tạng. Duyên sự như sau (dựa theo bản Việt dịch của Tỳ-khưu Indacanda):

… Một lần nọ, tại thành Rājagaha (Vương xá) có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ-khưu nhóm Lục sư (lục quần tỳ-khưu) đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc, giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:

– Này các tỳ-khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào đi thì phạm tội dukkata (tác ác). [*]

[*] Theo Gs Rhys Davids (Vinaya Texts – bản dịch Anh ngữ Luật tạng), “dukkata” dịch là “wrong doing” (làm xấu, tác ác) là những lỗi nhẹ, chỉ cần tự sám hối là đủ.

4. Ngâm nga theo âm điệu ca hát

Ngay cả đến việc ngâm nga các bài kệ, bài pháp với các âm điệu trầm bổng du dương cũng bị đức Phật khiển trách và ngăn cấm. Một lần nọ, các tỳ-khưu nhóm Lục sư ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Các sa-môn Thích tử này ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.

Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:

– Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài:

Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu,
Khiến cho những kẻ khác cũng bị ảnh hưởng say đắm trong âm điệu,
Hàng cư sĩ tại gia phàn nàn, chê cười vị ấy,
Trong khi ra sức thể hiện âm điệu, thiền định của vị ấy bị phân tán,
Điều cuối cùng là vị ấy khiến dân chúng thực hành theo đường lối sai trái.

Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

Sao Đà La - hình tượng Hoàng Thiên Hóa

Sao Đà La trong Tử Vi Đẩu Số được lấy từ hình tượng Hoàng Thiên Hóa, con trai cả mất tích từ nhỏ của Hoàng Phi Hổ. Ông được Thanh Hư Đạo Đức chân quân cứu và dạy phép thuật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử Vi Đẩu số, Hoàng Thiên Hoá là nhân vật tượng trưng cho sao Đà La. Nàng Giả thị, phu nhân của Hoàng Phi Hổ vì không cam tâm chịu nhục trước Trụ Vương, nên đã nhảy lầu Trích Tinh tuẫn tiết. Hoàng Phi Hổ phẫn uất nhẫn nhịn dẫn gia tướng, gia binh rời khỏi Triều Ca, vượt qua trùng trùng quan ải về với Tây Kỳ, quy thuận Tây Bá hầu Cơ Xương.

Tại ải Đồng Quan, ông bị tướng giữ thành là Trần Đồng dùng hoả long tiêu đánh trúng ngực mà mất mạng. Ngày hôm đó, Thanh Hư Đạo Đức chân quân tại động Tử Dương núi Thanh Long chợt thấy thắc thỏm không yên, bèn bấm độn tính toán, biết rằng Hoàng Phi Hổ ngộ nạn nguy đến tính mạng, liền cho gọi đệ tử Hoàng Thiên Hoá đến căn dặn: "Cha người Hoàng Phi Hổ đang gặp nạn, ngươi hãy mau lên đường đi cứu cha!" Rồi ban cho Hoàng Thiên Hoá thanh bảo kiếm Mạc Da, một chiếc làn báu và viên tiên đan cải tử hoàn sinh đồng thời dạy cách thức phá trận.

sao đà la hoàng thiên hóa

Hoàng Thiên Hoá vốn dĩ là người con cả thất lạc đã nhiều năm của Hoàng Phi Hổ. Năm xưa khi Hoàng Thiên Hoá mới ba tuổi, hai cha con đang chơi đùa trong vườn hoa thì từ trên đỉnh đầu Hoàng Thiên Hoá rọi ra một luồng sát khí, chắn mất đường mây của Thanh Hư Đạo Đức chân quân. Chân quân vốn mang lòng từ bi, không nỡ để đứa be phải chết yểu, bèn bí mật đưa về động Tử Dương núi Thanh Phong tu luyện. Ngày tháng thoi đưa, thấm thoắt đã mười ba năm qua, Hoàng Thiên Hoá đã tu thành rất nhiều pháp thuật.

Hoàng Thiên Hoá vâng mệnh thầy, dùng phép độn thổ nhanh chóng đến thành Đồng Quan, thấy cha đã tắt thở, bèn vội sai người mang nước đến, hoà tan tiên đan vào trong nước cậy răng đổ cho Hoàng Phi Hổ uống, rồi dùng thuốc tiên đắp lên vết thương. Sau đó lại tiếp tục cứu những người bị thương khác. Khi trời vừa hửng sáng, chỉ nghe Hoàng

Phi Hổ hét lớn "Đau chết ta mất thôi!". Rồi mở bừng mắt vùng dậy, từ cõi chết trở về.

 Cha con gặp nhau mừng vui khôn xiết, ôm nhau mà khóc cho thoả lòng mong nhớ suốt mười mấy năm trời. Hoàng Phi Hổ bèn thuật lại đầu đuôi sự việc cho Hoàng Thiên Hoá nghe. Nghe tin mẹ và cô đều đã chết thảm dưới tay bạo chúa Trụ Vương và Đát Kỷ, Hoàng Thiên Hoá vô cùng uất hận, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.

Lúc này, tướng giữ thành Đồng Quan là Trần Đồng lại dàn trận khiêu chiến, hai cha con Hoàng Phi Hổ lập đưa quân nghênh chiến. Hoàng Thiên Hoá theo lời Thanh Hư Đạo Đức chân nhân, phá vỡ trận của Trần Đồng, lại cướp được cả hoả long tiêu của ông ta. Hoàng Thiên Hoá trở về phục mệnh sư phụ, còn Hoàng Phi Hổ tiếp tục đột phá trùng vây, chạy đến Tây Kỳ quy thuận Cơ xương, được Cơ Xương phong cho tước cũ là Vũ Thành hầu. 

Được sự ủng hộ và hiệp lực của các chư hầu lớn nhỏ, khí thế của Chu Vũ Vương Cơ Phát ngày càng lớn mạnh, ông quyết định thuận ứng lòng dân, đảm nhiệm trọng trách thảo phạt Trụ Vương đế cứu muôn dân khỏi lầm than khổ cực.

Hoàng Thiên Hoá là con cả của Hoàng Phi Hổ, đệ tử của Thanh Hư Đạo Đức chân quân tại động Tử Dương núi Thanh Phong, thân cao chín thước, mặt trắng, mắt lộ hung quang, thân hình như hổ, dáng di như báo, tóc búi cao, lưng thắt dây gai, chân đi dép cọ, được Khương Tử Nha phong làm tướng tiên Phong trong quân đội phạt Trụ.

Trong thời gian thảo phạt Trụ Vương, Hoàng Thiên Hoá giữ chức tướng tiên phong, cùng Dương Tiễn (sao Kình Dương), Na Tra (sao Hoả), Lôi Chấn Tử (sao Linh) làm tướng tiên phong mở đường, lập nên vô số chiến công. Sau khi qua đời, Hoàng Thiên Hóa được phong làm chủ nhân của sao Đà La, chủ về tàn nhẫn, dũng cảm, trí tuệ. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Đà La - hình tượng Hoàng Thiên Hóa

Phong thủy căn hộ nhỏ cần lưu ý điều gì ?

Căn hộ nhỏ sẽ là một thách thức đối với bạn khi bài trí các đồ vật theo phong thủy vì sự ngăn cách không gian trong căn hộ sẽ bị bó hẹp. Tuy nhiên, có một số mẹo nhỏ có thể giúp bạn có được một căn hộ nhỏ hoàn hảo về phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không gian sống ngày càng thu hẹp nên các căn hộ nhỏ hiện đã trở thành mẫu căn hộ phổ biến. Bạn sẽ làm thế nào để bài trí phòng ốc đúng phong thủy nếu phòng ngủ là một phần của phòng khách, và phòng bếp với bàn ăn cũng nằm trong nhau. Tất cả các khu vực đều không có tường nên để tách biệt các nguồn năng lượng khác nhau là vô cùng khó?

Bạn hoàn toàn có thể làm chủ được việc bài trí này với 2 kĩ năng đơn giản:

- Kỹ năng phân chia hài hòa giữa các không gian mở trong nhà.

- Kỹ năng sắp xếp, tổ chức khoa học và loại bỏ sự lộn xộn, bừa bãi trong căn hộ.

Nói là kĩ năng đơn giản nhưng để có thể làm được, bạn cũng phải thật thông minh và tinh nhạy để nhận ra cái gì cần thiết và cái gì không? Bạn phải chấp nhận sự kiên trì và tiếp tục cố gắng cho đến khi tìm ra giải pháp hoàn hảo cho không gian sống nhỏ xinh của gia đình mình. Lư ý, bạn cần mở con đường năng lượng trong căn hộ và đảm bảo sự riêng tư nhiều nhất có thể cho phòng ngủ của mình.

Mỗi không gian bạn lại cần những giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, nếu bạn làm việc tại nhà, bạn sẽ cần nhiều vách ngăn chia không gian hơn. Một số loại vách ngăn vừa có ý nghĩa phong thủy, vừa điển hình dành cho căn hộ nhỏ là bình phong, cây xanh có chiều cao như câytrúc, giá sách hoặc một tấm rèm họa tiết...

Xác định loại vách ngăn tốt nhất để sử dụng cũng cần có kinh nghiệm, đầu tiên bạn hãy tìm ra năng lượng phong thủy/yếu tố phong thủy cần thiết trong không gian đó. Biết được yếu tố phong thủy cần thiết đem đến phong thủy tốt cho ngôi nhà sẽ giúp bạn đưa ra lựa chọn đúng đắn nhất.

Ví dụ, bạn đang cần vách ngăn cho khu vực phong thủy phía Nam, nên chọn cây xanh cao lớn, bình phong gỗ, giá sách gỗ hoặc rèm cửa màu đỏ để ngăn lại và tránh sử dụng màu xanh lá cây và đen, vách ngăn bằng gương hoặc các chất liệu có khả năng phản chiếu hình ảnh.

Một vài lưu ý phong thủy chủ đạo cho bạn khi có một căn hộ nhỏ:

Phong thủy cửa chính và lối vào

Cửa chính được xem là "miệng khí" của ngôi nhà. Căn hộ của bạn đã nhỏ rồi thì lối vào cần phải sạch sẽ và thoáng đãng. Bạn không nên để giày dép, treo quần áo hoặc đồ dùng cá nhân xung quanh tầm mắt, rác rưởi, bụi bặm cũng nên thường xuyên quét dọn. Điều này sẽ cho phép năng lượng đi vào nhà nhiều hơn và nuôi dưỡng không gian sống của bạn thêm nhiều năng lượng tốt.


Lối vào sạch sẽ, gọn gàng cho phép năng lượng tích cực "xâm nhập" thuận lợi hơn

Phong thủy khu vực ngủ/phòng ngủ

Căn hộ nhỏ đôi khi không cho phép bạn có được một phòng ngủ đúng nghĩa nhưng bạn cần quan tâm đến việc hình thành đủ sự tách biệt giữa khu vực sinh hoạt và ngủ nghỉ bằng các giải pháp phân tách không gian như rèm, bình phong hay kệ tủ...

Hãy chú ý đến nơi bạn nhìn thấy đầu tiên mỗi khi thức dậy và trước khi đi ngủ, bài trí góc đó sao cho không có TV hay các máy móc điện tử khác, giỏ đựng quần áo bẩn cũng đưa vào phòng tắm. Bạn hãy trưng bày thứ gì đó mang đến năng lượng dồi dào, truyền cảm hứng cho bạn mỗi buổi sáng mai thức dậy.


Không có một phòng ngủ riêng cũng không sao, bạn hãy bài trí để chốn ngủ có đủ sự riêng tư và ấm cúng

Bài trí gương trong nhà nhỏ

Gương giúp mở rộng không gian, thu hút nhiều ánh sáng hơn cũng như mang đến năng lượng phong thủy của yếu tố nước nên nó được dùng rất nhiều trong phong thủy, nhất là ở một căn hộ nhỏ. Gương sẽ giúp bạn mở rộng không gian một cách trực quan và làm cho bầu không khí trử nên thông thoáng hơn.

Với căn hộ xinh xắn của mình, bạn nên chọn gương khổ lớn nếu điều kiện cho phép và dùng nó để tăng ánh sáng, tăng không gian ảo. Khu vực phong thủy lý tưởng nhất đối với gương là phía Đông, Đông Nam và Bắc của căn hộ.


Gương - phụ kiện "thần kỳ" có khả năng nở không gian

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy căn hộ nhỏ cần lưu ý điều gì ?

Cảnh sát đau đầu tìm đủ cách không bằng một hành động nhỏ của chàng trai trẻ

Muốn người ta lương thiện, đầu tiên cần phải có lòng thương, đối với người ác, ta dùng lòng thương, thì đều có thể thức tỉnh được thiện tâm trong lòng họ
Cảnh sát đau đầu tìm đủ cách không bằng một hành động nhỏ của chàng trai trẻ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đôi khi có những việc không cần phải quá đao to búa lớn để xử lý mà chỉ cần dùng đến thiện tâm, bởi thiện tâm là điều có sức mạnh và trí tuệ mà không thứ gì khác trên thế gian này có thể đạt được. Một chữ thiện thành tâm có thể tan chảy cả sắt đá, chính là ý tứ này.

Miền Bắc Ấn Độ có một thôn làng tên là Cách Y Mã. Nơi này đất đai cằn cỗi, cuộc sống người dân khốn khổ, ngay cả việc làm sao để được ăn no cũng là một vấn đề. Người trong thôn cũng muốn thay đổi hiện trạng này, khổ nỗi tìm không được kế sinh nhai nào cả.

Cách thôn Cách Y Mã không xa là một con đường quốc lộ thô sơ, giao thông qua lại khá khó khăn, xe cộ đi qua thường hay phát sinh sự cố. Có một lần, một chiếc xe hàng vận chuyển thức ăn gặp phải mương sâu lật nhào, các chum vại đồ ăn rơi vãi tứ tung. Lái xe bị thương, đi nhờ một chiếc xe thuận đường tới bệnh viện, hàng hóa không ai trông giữ.

Người dân thôn Cách Y Mã thấy thế, bèn trộm lấy số chum vại đồ ăn đó về nhà, liên tiếp mấy ngày, nhà nào cũng có thức ăn. Chuyện này đã khơi dậy trong đầu người dân thôn Cách Y Mã một cách kiếm ăn. Tục ngữ nói: “Ở gần núi thì nhờ núi mà có cái ăn, ở gần nước thì nhờ nước mà có cái ăn”, dân thôn hoàn toàn có thể kiếm lợi từ con đường gần nhà họ. Thế là, bọn họ thường xuyên loanh quanh ở gần đoạn đường ấy, hy vọng lại gặp những chuyến xe vận tải đồ ăn. Nơi nào xảy ra chuyện, họ sẽ thừa cơ thu hoạch.

Tuy nhiên, tai nạn thì không thể thường xuyên phát sinh. Mắt nhìn mấy chiếc xe vận chuyển đồ ăn tới rồi lại đi mà hoàn toàn không thu lượm được gì, họ rất không cam lòng. Vì thế, họ bèn theo chủ ý của một người, đêm đến, thừa lúc con đường không có ai, họ dùng công cụ đào khoét mặt đường tạo ra nhiều hầm hố. Cứ như thế, xe cộ qua đây thường xảy ra tai nạn hơn. Dù cho không bị sự cố đi nữa, thì cũng bởi tình hình giao thông quá kém, tất cả xe đều đi chậm, dân thôn đi theo sau xe, thừa dịp lái xe không chú ý liền ăn trộm hàng hóa của họ.

Ban đầu, dân thôn chỉ trộm đi một ít đồ ăn, về sau, những thứ hàng hóa khác họ cũng trộm, mang đến chợ bán lấy tiền. Cuối cùng, họ không còn ăn trộm lén lút nữa, mà trắng trợn cướp luôn. Trong khoảng thời gian đó, con đường thô sơ bên cạnh thôn Cách Y Mã trở thành đoạn đường hết sức không an toàn. Cục cảnh sát mỗi tháng đều nhận được báo cáo về mấy vụ xe chở hàng hóa bị cướp bóc, bèn điều động lực lượng để phá án. Họ bắt quả tang tại hiện trường hai người dân thôn Cách Y Mã đang cướp hàng hóa và nhốt hai người này vào tù.

Tuy nhiên việc này cũng không răn đe được những người dân thôn khác, ngược lại còn khiến họ càng thêm tinh ranh và giỏi che giấu việc xấu của mình hơn. Họ bắt đầu phạm tội có tổ chức, có người chuyên phụ trách canh chừng báo động, còn hàng hóa cướp được thì đem về nhà cất giấu, hoặc thay đổi bao bì hàng hóa để cảnh sát đến lục soát không ra vật chứng. Chính quyền địa phương cũng suy nghĩ rất nhiều biện pháp, muốn người dân thôn Cách Y Mã bỏ thói trộm cướp hàng hóa vô đạo đức và phi pháp ấy, hướng dẫn cho họ đi theo chính đạo. Tiếc rằng, dân thôn Cách Y Mã dấn thân vào con đường trộm cướp thường thu được lợi lộc, nên đã quen với phương thức kiếm ăn không nhọc sức này rồi. Vậy là nạn trộm cướp hàng hóa xung quanh khu vực thôn Cách Y Mã liên tục phát sinh.

Mùa đông năm đó, bởi đoạn đường qua thôn Cách Y Mã thường xuyên bị mất hàng hóa, cho nên rất nhiều lái xe lựa chọn đi đường vòng tránh đoạn đường qua thôn. Như thế, suốt mấy ngày người dân thôn không thu hoạch được gì. Một hôm rốt cục có một chiếc xe hàng đi qua nơi đó, trên xe chở toàn những bao đựng bột a-xít-phốt-pho-ríc. Dân thôn Cách Y Mã đều không có văn hóa, trong mắt họ bột chính là lương thực, có thể chế biến thành đồ ăn ngon. Lập tức, mọi người ùa ra, cướp đi 20 bao đựng thứ bột này.

Anh lái xe trẻ tuổi thấy có người cướp hàng hóa của mình, liền dừng lại, đi theo dấu băng cướp tìm đến thôn Cách Y Mã. Ngược lại, những dân thôn khác nhân cơ hội đó, thoải mái tới chỗ chiếc xe lấy hết những bao bột a-xít-phốt-pho-ríc ấy, bỏ lại chiếc xe rỗng không. Chàng trai tìm tới thôn, thỉnh cầu dân thôn trả hàng hóa lại cho mình. Dân thôn làm sao dễ dàng giao trả đồ ăn cướp được, một mực phủ nhận việc lấy hàng của anh. Chàng trai trăm lần khẩn cầu đều không được, anh bèn nói cho dân thôn biết rằng loại bột này không phải là thứ tinh bột làm thức ăn thông thường, mà là bột công nghiệp. Nó có độc, ăn vào sẽ chết người, dân thôn có lấy cũng vô dụng thôi. Chàng trai nói lời chân thật, nhưng dân trong thôn đều không tin, bởi loại bột a-xít-phốt-pho-ríc này từ màu sắc hay cảm quan thì đều giống hệt loại tinh bột bình thường làm thức ăn hàng ngày của họ.

con đường yên bình
Lòng nhân từ thiện lương như thế, tấm lòng tốt đẹp nhường ấy khiến họ xấu hổ vô cùng, cảm động mãi không thôi.

Chàng trai trẻ thấy dân thôn không tin, sợ lắm mà không biết phải làm sao. Anh vốn muốn đi báo cảnh sát, nhưng lại lo rằng một khi rời đi, thì thật sự sẽ có người nhân lúc ấy lấy bột này chế thành đồ ăn, khi đó sẽ có án mạng. Tuy rằng có chết người cũng không phải là trách nhiệm của anh, nhưng anh không thể trơ mắt nhìn những người này phải chết! Anh bèn đến tận nhà những người dân thôn, nói rõ tình hình, thậm chí còn quỳ xuống trước mặt họ thỉnh cầu: “Số bột ấy các vị không giao trả cho tôi cũng không sao cả, nhiều lắm tôi cũng chỉ bị tổn thất chút ít, nhưng tôi van xin các vị, ngàn vạn lần không được ăn thứ bột này, như vậy sẽ gây chết người”.

Nỗ lực của chàng trai đã khiến dân trong thôn từ chỗ không tin đến chỗ nửa tin nửa ngờ, có người đem thứ bột ấy cho gà ăn thử. Kết quả, con gà ăn loại bột này chỉ trong chốc lát lăn ra chết. Lập tức dân thôn kinh hãi, rồi chuyển sang vô cùng cảm động. Họ cướp hàng hóa của chàng trai kia, anh lẽ ra phải oán hận bọn họ, để cho họ ăn thứ bột đó mà trúng độc chết, thế cũng là xứng đáng. Ấy vậy mà chàng trai vì để cứu mạng họ, không ngại quỳ xuống thỉnh cầu họ đừng ăn.

Dân trong thôn tự nguyện mang trả lại xe những bao bột a-xít-phốt-pho-ríc mà họ đã lấy. Từ đó trở đi, người dân thôn Cách Y Mã không còn trộm cướp hàng hóa của xe cộ qua lại nữa. Nếu có người chủ ý làm vậy, lập tức có người lên tiếng: “Ngẫm lại người hảo tâm kia mà xem, chúng ta làm hại anh ta, anh ta lại cứu mạng toàn bộ dân thôn. Nghĩ đến anh ấy, chúng ta còn mặt mũi nào tiếp tục thứ thủ đoạn hại người này nữa đây? Chẳng lẽ chúng ta thực sự là ma quỷ hay sao?”.

Vùng xung quanh con đường quốc lộ qua thôn Cách Y Mã đã thanh bình, dù trước đó cảnh sát và chính quyền ra sức làm đủ điều, nhưng đều chưa từng có hiệu quả. Thế rồi, một người lái xe trẻ tuổi lương thiện lại thay đổi được tất cả.

Thói quen của người ta là có thể thay đổi được, thiện niệm của con người là có thể thức tỉnh được, chỉ là xem thử làm cách nào chúng ta mới có thể thức tỉnh được họ mà thôi. Bất luận là ai đi nữa, trong lòng kỳ thực đều có một mầm thiện tâm, chỉ lòng nhân từ mới có thể khơi dậy nó. Muốn người ta lương thiện, đầu tiên cần phải có lòng thương, đối với người ác, ta dùng lòng thương, thì đều có thể thức tỉnh được thiện tâm của họ, khiến họ trừ bỏ được ác niệm.

Ai cũng ôm giữ trong lòng sự thiện lương, xã hội này sẽ tốt đẹp biết bao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cảnh sát đau đầu tìm đủ cách không bằng một hành động nhỏ của chàng trai trẻ

Văn hóa đón Tết thời Lý - Trần

Phong tục đón Tết thời Lý - Trần mang nét văn hóa riêng, thể hiện tinh thần, khí phách và sự phồn thịnh của triều đình, quân dân đương thời.
Văn hóa đón Tết thời Lý - Trần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ bao đời nay, Tết Nguyên Đán là ngày lễ quan trọng, linh thiêng của dân tộc Việt. Ở mỗi triều đại, phong tục đón Tết đều mang nét văn hóa riêng, thể hiện tinh thần, khí phách và sự phồn thịnh của triều đình, quân dân đương thời.


Dưới đây là một số nét văn hóa riêng trong phong tục đón Tết thời Lý - Trần.

Tối 30 Tết, vua yết kiến thái hậu, thái thượng hoàng ở cung Đồng Nhân. Các tăng đồ, đạo sĩ vào cung làm lễ tống trừ ma quỷ. Đêm 30, dân Đại Việt đốt pháo trước cửa nhà để xua đuổi tà ma và đón mừng năm mới.

Phong tục thời Lý - Trần cho phép con trai, con gái nhà nghèo nếu yêu nhau nhưng không đủ tiền cưới xin theo lễ giáo phong kiến thì lúc này có thể tự ý lấy nhau. Đây là phong tục mang tính nhân đạo hiếm có trong thời phong kiến.

Sáng mồng 1 Tết, vua Trần ngự ở điện Vĩnh Thọ. Thái tử và các quan hầu cận đến chúc mừng nhà vua. Sau đó, vua vào cung Trường Xuân làm lễ cúng tổ tiên. Tiếp theo, vua ngự ở điện Thiên Ân, các phi tần xếp hàng ngồi quanh còn nội quan đứng ở trước điện. Thái tử và các quan đứng theo bậc, lạy mừng vua, tiến 3 lần rượu. Tiếp theo, thái tử lên lầu dự yến, triều quan ngồi ở điện nhỏ phía Tây... dự yến đến xế chiều mới ra về.

Ở trước điện, thợ thuyền dựng ngay đài Chúng Tiên hai tầng, tam cấp, ngói bạc chiếu sáng khung trời, tòa sen phô bày tướng quý. Trên nóc Bảo Đài có chim thiêng đứng đậu (chim là hình ảnh mặt trời, dương khí). 4 góc có rồng cuốn bay (cá rồng là biểu tượng của nước, âm khí). Trên thềm cao nhất, đấng Thanh Minh ngồi ngự. Thấp hơn có cấp dưới, bậc dưới, tiên nữ và chầu quan. Nhạc quan dàn hàng ở ngoài sân. Mọi người cùng nhảy múa, ca hát. Không khí tưng bừng, rộn rã, phấn chấn đón chào các chư hầu từ xa vào chầu ở kinh đô.

(Ảnh mang tính chất minh họa)

Vua lên quan Đài dự yến tiệc, trước khi ăn phải thực hiện đủ 9 lần vái, 9 lần uống rượu rồi mới tan tiệc. Ngày Tết, mọi nhà dân đều dọn mâm cơm cúng tổ tiên. Thời Thăng Long - Đại Việt tôn sùng đạo Phật nên trai gái ngày Tết thường mang hương lên chùa lễ Phật.

Ngày mồng 2 Tết, các quan được ở nhà cúng lễ tổ tiên. Ngày mồng 3 Tết, vua ngự trên lầu phía cửa Đại Hùng (cửa Nam) xem hoàng tử cùng các quan nội thị ném quả tú cầu (quả còn). Quả tú cầu được làm bằng gốm, to bằng nắm tay trẻ con, có buộc 20 dải ngũ sắc. Ai đón mà không rơi là người đó nhận được nhiều may mắn trong năm. Toàn kinh thành nhộn nhịp, tưng bừng trong các trò chơi. Trai gái chơi đánh đu, đá cầu, ca múa giao duyên, tung còn, kéo co. Ai thắng được uống rượu, ai thua uống nước lã.

Mồng 4 Tết, vua Lý mở tiệc ban yến cho các quan. Sáng mồng 5 Tết, vua mở tiệc bắt đầu cho khai hạ. Sau đó, các quan dân đi lễ chùa, đền rồi đi dạo chơi các công viên nổi tiếng. Ngày mồng 7, thấy trời sáng đẹp, không mưa gió thì người ta tin rằng con người cả năm được khỏe mạnh. Do đó, họ mở tiệc ăn mừng (gọi là khai hạ). Sau này, cứ đến mồng 7, kể cả trời có mưa thì quan dân cũng mở tiệc khai hạ.

Rằm tháng Giêng, người ta có câu: “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng”. Đó là ngày thượng nguyên, ngày trăng tròn đầu tiên của một năm mới. Theo “An Nam chí lược”, đêm nguyên tiêu, triều đình nhà Trần dựng cây đèn trên sân rộng (gọi là đèn Quảng Chiếu), tỏa ánh sáng rực rỡ trên trời, dưới đất. Các vị sư đi xung quanh đèn đọc kinh, các quan đứng vòng quanh đèn làm lễ Triều Đăng.

Theo thời gian, Tết Nguyên Đán của người Việt vẫn còn giữ phong tục thời Lý - Trần. Bên cạnh nội dung nghi lễ truyền thống, người dân còn sinh hoạt văn hóa, văn nghệ tạo nguồn hứng khởi đón năm mới cường thịnh.

Theo Việt Báo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn hóa đón Tết thời Lý - Trần

Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 09/12 tới ngày 13/12)

Theo ý nghĩa các ngày sinh, những người sinh vào ngày 10 tháng 12 rất tích cực, luôn chủ động trong cuộc sống, nhìn đời khá lạc quan.
Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 09/12 tới ngày 13/12)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Giai ma y nghia cac ngay sinh Tu ngay 0912 toi ngay 1312 hinh anh
 

Ngày 09 tháng 12

  Những người sinh vào ngày 09/12 thường có khí tưởng tượng phong phú và tràn đầy nhiệt huyết. Họ theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn nhưng đôi khi lại liều lĩnh tới mức không màng sự sống. Ngoài ra, những người này cũng rất thích tìm hiểu, khám phá những điều mới lạ, họ có khát khao trở thành người nổi tiếng, thu hút sự chú ý của công chúng.   Ưu điểm: Yêu đời, rất chủ động, dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn.   Khuyết điểm: Dễ bị kích động, tính khí bất ổn.  

Ngày 10 tháng 12

  Những người sinh vào ngày 10 tháng 12 rất tích cực, luôn chủ động trong cuộc sống, họ đặt nhiều hi vọng vào bản thân, nhìn đời khá lạc quan, hơn nữa, họ cũng rất thích giúp đỡ người khác.   Ưu điểm: Nhiệt tình, thông minh, tinh lực dồi dào, linh hoạt nắm bắt thời cơ.   Khuyết điểm: Quá tự phụ, thích mình phải là trung tâm, không dễ thích ứng, bị áp lực khi gặp phải khó khăn.  

Ngày 11 tháng 12

  Hầu hết những người sinh vào ngày 11 tháng 12 đều có tác phong tao nhã, thanh lích, trí tưởng tượng phong phú, rất chăm chỉ làm việc. Bên cạnh đó, họ còn có nghị lực, ý chí kiên cường và tính cách khá thẳng thắn.   Ưu điểm: Kiên quyết nhưng nội tâm lại rất ôn nhu, đối đãi chân thành với tất cả mọi người.   Khuyết điểm: Luôn muốn người khác phải coi trọng, đề cao mình, nếu bị lạnh nhạt hoặc không được chú ý thì tinh thần sẽ ủ rũ, phiền muộn.  

Ngày 12 tháng 12

  Những người có sinh nhật là ngày 12 tháng 12 thường rất hoạt bát, có tính cách hướng ngoại, hiếu động, có cá tính, khả năng giao tiếp tốt, khéo ăn khéo nói. Những người này giỏi xã giao, có thể đánh đổi mọi thứ để có được tình cảm.   Ưu điểm: Thông minh, phản ứng nhanh, năng lực tốt, thích mạo hiểm và thích sự đổi mới.
Giai ma y nghia cac ngay sinh Tu ngay 0912 toi ngay 1312 hinh anh
 
Khuyết điểm: Dễ xúc động, thiếu thực tế, cuộc sống gặp nhiều nguy hiểm.  

Ngày 13 tháng 12

  Những người sinh vào ngày 13 tháng 12 thường có tính cách lập dị, thích hành động một mình, thích làm theo ý mình, tư tưởng suy nghĩ cũng đặc biệt, làm việc rất có động lực, dám đương đầu với khó khăn.   Ưu điểm: Có tinh thần đổi mới, có dũng khí, không chịu khuất phục khó khăn và thất bại. Khuyết điểm: Có phong cách hành sự khác biệt tất cả moi người, cuộc sống trải qua nhiều khó khăn, khúc chiết.   Lichngaytot.com
Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 19/11 tới ngày 23/11) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 14/11 tới ngày 18/11) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 09/11 tới ngày 13/11)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 09/12 tới ngày 13/12)

Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ
Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ là những người thường xuyên đến chùa hơn.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm để thuận lợi công việc

Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt có được đi chùa lễ Phật? 5 ngôi chùa cầu được ước thấy nên đi lễ đầu năm
Di chua dau nam vao nhung ngay nay thi ca nam tien bac rung rinh hinh anh
 
Đi chùa đầu năm không đơn giản chỉ là để ước nguyện mà còn là khoảnh khắc con người hòa mình vào chốn tâm linh, rũ bụi trần, mà còn là chốn thanh tịnh để con người thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng hơn.   Mùng 1 Tết: Theo phong tục xưa của người Việt, việc lên chùa vào mùng 1tếtđã trở thành tục lệ quen thuộc, thậm chí họ sẽ lên chùa ngay đêm giao thừa. Họ cầu cho bản thân, gia đình mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hòa thuận, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.   Nên đi chùa vào mùng 1 cũng đồng nghĩa cả năm bạn sẽ có được sự an lạc, cả năm may mắn. Hứa hẹn một năm mới tràn ngập tin vui.
Mùng 2,3 Tết: Ngày mùng 2, 3 là lễ đón Hỷ thần (may mắn, hạnh phúc), đón tài thần. vậy nên, đi chùa vào 2 ngày này sẽ được cầu nhiều tài lộc, tiền bạc dư giả nguyên năm.
Mùng 4 Tết: Thông thường, ngày mùng 4 là ngày các gia đình đón các vị thần từ thiên đình về hạ giới cai quản một năm. Nếu đi chùa vào ngày này và thành tâm, thì điều bạn mong muốn sẽ được linh ứng và dễ thành hiện thực, ngày này cầu gì sẽ được nấy, nên nhưng ai muốn cầu tình duyên có thể chọn ngày này.   Mùng 6 Tết: Theo quan niệm của ông bà ta thì mùng 6 là ngày bình an, và mùng 6 năm nay cũng là ngày rất tốt để xuất hành cho các chuyến đi. Vậy nên, đi chùa vào ngày này cầu mong bình an, sức khỏe, gia đạo sẽ rất tốt.   * Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, chiêm nghiệm!

Lễ chùa đầu xuân - đừng để mất phúc vì hiểu sai Điều dễ phạm phải khi đi đền chùa đầu năm Lễ chùa mà phạm phải 7 điều thì công quả mất hết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Bỏ Lộc dày để chuyên tâm dưỡng Khí

Luận khí sắc mhìn được người lương thiện, kẻ tiểu nhân; số trường thọ hay đoản mệnh. Vì thế, Mạnh Tử nói là cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí là thế.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chất là do khí dồi dào mà hình thành, khí lại dựa vào chất để vận hành. Nói cách khác, khí bảo vệ hình, hình lại khiến khí bình ổn, an lành. Vì thế chất lớn thì khí mở rộng, thần an thì khí tĩnh. Vinh nhục được mất không khiến người bị dao động. Buồn vui lại không thể khiến thần kinh động, như vậy mới gọi là đức. Nên Mạnh Tử nói "cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí" là như thế.

Hình thể của người như cây cối, có tùng bách, có bụi gai. Đặc điểm của cây cối không giống nhau, khí cụ khác nhau, căn cứ theo sự khác nhau của hình dáng mà chế thành dụng cụ khác nhau.

Quân tử thì lấy không chế được khí mới đạt được đạo. Vì thế, khí của người lương thiện không gấp, không bạo, không loạn không nóng, lượng khí rộng và có thể dung hòa vạn vật, tâm lớn như biển, tâm khí hòa thì mới có thể dung nạp được vạn vật khác nhau, như gió xuân thổi tới ấm áp; tuy cương mà vẫn có thể khắc chế, bất luận trong tình hình nào cũng không thể thay đổi đạo đức, sự thanh liêm cao thượng.

Khí của kẻ tiểu nhân thì ngược lại, hẹp hòi không khoan dung, nhu nhược không kiên cường, hỗn đục không thanh tú, thiên lệnh không đoan chính, vội vàng không thư thả. Do đó chỉ cần quan sát tỉ mỉ độ nông sâu của khí, độ tĩnh và khô của sắc thì không khó phân biệt tiểu nhân và quân tử.

Khí sâu mà thư thái, khoan dung không nóng vội thì có phúc thọ. Gấp gáp và không đều, vội vàng là người khổ hạnh.

Đồng thời khí còn có thể hiển hiện cát hung ở trên mặt. Khí tán như lông tóc, khí tụ như hạt thóc, nhìn hình không biết nguồn gốc nhưng khí ở trên mặt có thể dự báo họa phúc. Nếu khi thở mà âm thanh nhỏ đến bản thân cũng không thể nghe rõ, hoặc khi ngủ không phát ra tiếng thì là “quy tức” (hơi thở của rùa), là tướng trường thọ.

Nếu hơi thở mạnh là điềm báo đoản mệnh. Đây là nguyên nhân mà Mạnh Tử nói là cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí. Vì một chút lợi nhỏ mà phẫn nộ, nóng nảy thì không đáng để nhắc đến. Khí có thể dưỡng hình là do khí hành giữa ngũ tạng Lục phủ, có thể dựa vào sự thay đổi tính khí của một người hoặc là phát tán hoặc là thu lại.

Khí hiển lộ ở Ngũ nhạc Tứ độc có 6 loại: (1) Trong mà không đục, bình tĩnh, chỉ có thể là nguồn của núi sông, nhưng không thể dùng 6 loại khí để biểu đạt; (2) Nếu là mây tôn thêm cho ánh trăng thì là khí Thanh long; (3) Nếu ráng chiều chiếu trên mặt nước là khí Chu tước; (4) Nếu là gió đen thổi mây là khí Câu trần, nếu là cây cối thành tro bụi là khí Đằng xà; (5) Nếu ngưng đọng như bôi mỡ dầu là khí Bạch hổ; (6) Nếu hỗn tạp như sương khói là khí Huyền vũ.

6 loại khí trên chỉ có khí Thanh long là cát lợi, các khí khác hoặc là phá tài, kinh sợ, than khóc, bị trộm hoặc hình cốt không tốt, cuối đời vẫn còn phải lo lắng bất an. Nếu hình xương thẳng cũng cần kiên nhẫn chờ đợi khí không may mắn biến mất, vận tốt phía sau mới đến, ngoài ra còn cần dựa vào thiên phú của con người để phán đoán.

Một người có tướng mạo kỳ dị nhưng không thể phú quý là do có tạp khí bao quanh, đây giống như đỉnh núi ở xa bị mây che lấp, không dễ để nhìn rõ. Khi gặp được gió trong thổi đến, xua tan mây thì đỉnh núi kỳ vĩ sẽ hiện ra trước mắt, khiến người khác phải lưu luyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bỏ Lộc dày để chuyên tâm dưỡng Khí

Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mùi

Xét về tổng thể, vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mùi ở mức bình thường và có nhiều thay đổi trong công việc, tình cảm.
Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Van the nam At Mui cua nguoi tuoi Mui hinh anh
Ảnh minh họa
 
Tổng quan:
Người tuổi Mùi sinh năm 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003. Nhìn chung vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mùi bình thường, tuy vậy cũng có nhiều thay đổi về cả công việc và tình cảm. Năm nay là năm bản mệnh của tuổi này, do đó cũng gặp sao Thái Tuế chiếu mệnh. Mọi việc thay đổi tuy không theo chiều hướng xấu nhưng cũng rắc rối. Ngoài ra, tuổi này có họa thị phi, dễ bị vướng vào tranh cãi. Tốt nhất nên im lặng, nhường nhịn và tập trung vào việc của mình, tránh những va chạm không hay xảy ra.
 
Tài vận: Trong năm bản mệnh, tài vận của người tuổi Mùi bình thường, không có gì đặc sắc. Thậm chí tài vận không rõ ràng, chi nhiều nhưng thu về không như mong đợi. Tuy nhiên, người sinh vào mùa đông thì thuận lợi hơn các mùa khác. Bạn phải biết tận dụng cơ hội để tăng tài vận cho mình.
 
Sự nghiệp: Do phạm vòng Thái Tuế nên người tuổi Mùi có nhiều biến chuyển trong công việc. Ví dụ thay đổi nơi làm việc, vị trí hoặc chức vụ. Vì là năm bản mệnh, nên người tuổi Mùi cần phải cẩn trọng, không nên mở rộng đầu tư hay kinh doanh. Ngoài ra, cần chú ý đến các mối quan hệ với đồng nghiệp và cấp trên, tránh vướng vào chuyện thị phi gây cản trở công việc.
 
Sức khỏe: Tình hình sức khỏe cả năm của người tuổi Mùi không mấy ổn định. Con giáp này dễ bị các tổn thương ngoài da như chảy máu do dao, vật sắc. Những người sinh năm 1955 dễ bị suy nhược cơ thể vì làm việc quá vất vả và áp lực. Cần phải chú ý nghỉ ngơi, kết hợp làm việc và giải lao hợp lí.
 
Tình duyên: Do có nhiều sự thay đổi trong công việc khiến tâm lí của người tuổi Mùi cũng ảnh hưởng đáng kể. Chuyện tình cảm của con giáp này trong năm 2015 cũng thay đổi, cát hung khó lường trước. Với người đã kết hôn, cần lưu ý quan tâm nhiều hơn đến tình cảm vợ chồng, tránh tình trạng lạnh nhạt kéo dài. Người còn độc thân có thể tìm được người yêu nhưng cũng có thể bị lỡ dở do rào cản nào đó.
 
Cách hóa giải: Người tuổi Mùi được Phật bản mệnh Như Lai đại nhật độ trì, do đó, có thể bài trí tượng phật này trong nhà. Ngoài ra, có thể dùng trang sức, ngọc phong thủy để hóa giải phần nào vận xui xẻo. Nên dùng các loại trang sức màu đỏ như mã não đỏ, ruby, thạch anh tím…để mang lại nhiều may mắn cho mình.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mùi

26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái

26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái. Con yêu dấu, khi con sinh ra đời mẹ đã mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho con.
26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái. Con yêu dấu, khi con sinh ra đời mẹ đã mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho con. Và con biết không, có những điều mẹ luôn hi vọng rằng con sẽ không bao giờ phải đối mặt với chúng…

26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái

1. Đau khổ vì một kẻ không ra gì

Con gái à, đã là một kẻ không ra gì rồi, thì việc con đau khổ vì kẻ đó cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa cả. Họ hoàn toàn không xứng đáng để con gái của mẹ phải đau đớn nhiều như vậy.

2. Bị chính người bạn của mình phản bội

Người bạn luôn bên cạnh mình, trải qua mọi điều cùng mình lại quay lưng lại phản bội mình… quả thật là một điều đau lòng. Nhưng con gái ơi, có những chuyện phải trải qua rất nhiều thử thách mới có thể giúp con nhận biết đúng đắn về một người. Hãy cảm thấy may mắn vì mình đã sớm nhận ra được sự thật về người tưởng-rằng-thân-thiết lắm.

3. Bị thất vọng với cả thế giới này – một thế giới vốn chẳng thể đổi khác

Ở những bước chân chập chững vào đời, hẳn là cô bé con của mẹ đã có nhiều mong mỏi, hy vọng đầy màu hồng. Thế nhưng, cuộc sống lại luôn đem đến cho con những thất vọng, hết lần này đến lần khác. Con có quyền vấp ngã và cảm thấy thất vọng. Và rồi mọi thứ vẫn tiếp diễn, con phải đứng lên và lại tiếp tục bước đi. Ngồi đó ôm nỗi thất vọng chỉ khiến con trở nên hèn nhát và yếu đuối mà thôi.

4. Tuyệt vọng với câu nói “con không thể”

Con gái bé bỏng của mẹ, chắc con không biết rằng, ngày sinh con, mẹ đã liên tục gào lên rằng “tôi không thể làm được” vì đau đớn. Mẹ đã muốn bỏ chạy hết tất cả. Thế nhưng, rồi mẹ đã nghe được tiếng con òa khóc. Đó là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong đời mẹ. Mẹ chỉ muốn nói con biết rằng, chỉ cần thực sự cố gắng, mọi nỗ lực sẽ được đáp đền.

5. Ganh tị với những người không có gì ngoài vẻ đẹp giả tạo

Hãy tự hào với vẻ đẹp vốn có của con, vì nó là duy nhất và tự nhiên nhất! Và xin lỗi con, cô gái của mẹ. Mẹ xin lỗi vì đã không thế sinh con ra với vẻ đẹp kiêu sa. Nhưng mẹ hứa, mẹ sẽ luôn bên cạnh và giúp con trở thành cô gái xinh đẹp nhất, cả nhan sắc lẫn tính tình.

6. Tự ti trước những lời phán xét và nghĩ rằng mình vô dụng vì những lời “cáo buộc” như thế

Nếu con cũng nghĩ mình vô dụng thì hoá ra họ nói đúng à? Tự tin lên nào con gái. Hãy nhìn vào con lật đật – món đồ chơi ngày bé của con. Dù cho con có nghiên lật đật thế nào, thì nó cũng sẽ bật dậy mạnh mẽ và lại đứng thật vững vàng. Hãy làm một con lật đật trước những gièm pha, phán xét của người đời, con nhé!

7. Cảm thấy không an toàn ngay cả với chính những người phụ nữ xung quanh

Các cô gái vốn có quá nhiều ganh ghét với nhau. Nhưng con xứng đáng để được yêu thương chứ không phải cạnh tranh và lo sợ khi ở cạnh họ.

8. Quá thần tượng vào vẻ hào nhoáng của truyền thông mang lại

Các nghệ sĩ luôn xuất hiện long lanh, nhưng chỉ là trên truyền hình thôi con ạ. Vì cuộc đời này không ai “cho không, biếu không” điều gì. Đằng sau những hào nhoáng đó, là rất nhiều “cái giá” phải đánh đổi. Tất cả chúng ta đều có một cuộc đời riêng và không thể mãi bóng bẩy thế được đâu con.

9. Gặp phải những tên đàn ông chẳng biết gì về vẻ đẹp sâu sắc thật sự

Sẽ có những lời nói gieo rắc vào con rằng đàn ông chỉ chú trọng vẻ bề ngoài. Nhưng con biết không, đó chỉ là những kẻ tầm thường không biết đến cái gọi là “vẻ đẹp thật sự” – thứ chỉ có thể xuất phát từ sâu thẳm bên trong mỗi người.

10. Lo sợ những điều không thể gọi tên

Nếu đã không thể chỉ mặt đặt tên, tại sao chúng ta phải lo sợ con nhỉ? Những cảm giác lo sợ vô hình đó chỉ khiến con càng thêm hoang mang, lo lắng mà thôi.

11. Bị những sai sót quấy nhiễu

Chẳng bất kì ai trên đời này là hoàn hảo cả. Và nếu con mắc sai lầm thì cũng chẳng sao đâu con gái ạ. Quan trọng là học từ những sai lầm mà tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Càng dày dạn kinh nghiệm, con sẽ càng vững vàng hơn.

12. Thất vọng trước những lời-hứa-được-bảo-vệ

Sẽ có những lời hứa từ những người con đặt niềm tin rằng sẽ không bỏ rơi con khi khốn khó, và rồi lời hứa bị phá vỡ. Con yêu dấu, hãy luôn biết tha thứ. Và trước hết, quan trọng hơn, mẹ muốn con học cách tự bảo vệ mình. Vì không cha mẹ nào có thể bên con dài lâu mà che chở cả. Đừng ngồi đó mà trông chờ được bảo vệ. Không ai tốt với mình hơn chính mình đâu con.

13. Xấu hổ về vóc dáng

Có vẻ như không bất kì một cô gái nào lại không có những nỗi lo sợ, xấu hổ về vóc dáng của mình cả. Con gái cưng, mẹ đã từng rất xấu hổ khi vòng eo lại to ra, còn chân thì chỉ có một khúc. Thế nhưng, vóc dáng không nói lên được vấn đề gì cả con ạ. “Mập đẹp, ốm dễ thương, cao sang, lùn quý pháí”, hãy yêu bản thân mình và đừng hành hạ nó với những lần giảm cân khổ sở nữa. Mẹ chỉ mong con gái mẹ luôn sống thật khỏe mạnh mà thôi.

14. Những cuộc gọi quấy nhiễu từ những gã xung quanh

Và mẹ mong con biết cách cho họ biết đâu là phép lịch sử tối thiểu của một người văn minh!

15. Làm việc trong môi trường bất bình đẳng giới

Chắc chắn sẽ rất khắc nghiệt khi thế giới mỗi ngày đều phải đấu tranh và con thì quá nhỏ bé. Tuy nhiên đừng bỏ cuộc, hãy chứng tỏ rằng dù là nữ giới nhưng con không yếu đuối con nhé.

16. Đánh rơi những khoảnh khắc vì nỗi lo tương lai

Hãy tận hưởng hiện tại, tương lai mãi là ẩn số mà con chẳng thể nào lo lắng được đâu.

17. Cảm thấy tồi tệ với những điều con không thể thay đổi

Đây chính là lúc con phải học cách chấp nhận và cho bản thân được thử thách. Cuộc sống luôn thay đổi, và chúng ta cũng không ngoại lệ đâu con à.

18. Tức giận về những điều không đáng

Đã là không đáng thì sao còn phải tức giận về nó, phải không con? Việc bực tức sẽ khiến con gái của mẹ nhăn nhó, cau mày. Lúc đó, đến cả mẹ cũng phải thừa nhận rằng, trông con thật xấu xí đấy, bé con.

19. Nghi ngờ khả năng của bản thân

Nếu con còn không tin mình có thể thì còn ai khác dám làm điều này đây?

20. Bị những căng thẳng của cuộc sống hàng ngày uy hiếp

Ai cũng bị chúng “uy hiếp”, nhưng con sẽ phản kháng thế nào đây cô bé?

21. Không tin vào lòng tốt của con người

Mẹ biết thế giới thật khắc nghiệt, nhưng đừng để lòng tin biến mất. Thế giới luôn có đủ người tốt để con yên tâm sống. Và trước hết, chính con cũng nên là một người tử tế và chân thành.

22. Rơi nước mắt vì những điều không đáng

Cuộc sống đã có quá nhiều điều buồn khổ, hãy lưu giữ nước mắt cho những thứ xứng đáng hơn. Hoặc nếu con có muốn khóc, hãy quay về ôm lấy mẹ con nhé.

23. Ám ảnh bởi vật chất và tình dục

Đây chính là nỗi ám ảnh tưởng chừng như kinh hoàng nhất. Nhưng mẹ biết con đủ tỉnh táo để vượt qua, nếu con cố gắng sống bằng một tâm hồn yêu đời, tràn ngập đức tin.

24. Bận tâm với những kẻ tồi tệ

Như mẹ đã nói, đã gọi là kẻ-tồi-tệ, thì đừng phí công bận tâm đến làm gì cả, con gái à. Mẹ mong con sẽ biết đâu là những điều tốt đẹp mà con nên chú tâm đến, hơn là phí hơi sức cho những kẻ-tồi-tệ hoàn toàn không xứng đáng.

25. Hối tiếc về những việc con đã không làm

Đừng lãng phí tuổi trẻ, hãy làm tất cả những gì con có thể.

26. Cảm giác rằng con không xứng đáng với cuộc sống này

Ngay từ khi mẹ sinh ra con, trao cho con một vóc hình, con vốn đã vô cùng xứng đáng với cuộc sống này, con yêu dấu. Và mẹ còn nhiều điều lo lắng khác tưởng chừng như không bao giờ là đủ. Nhưng con yêu dấu, mẹ luôn có niềm tin với con, tin rằng con đủ mạnh mẽ để có thể đối diện và giải quyết chúng, con gái của mẹ. Những lúc quá tuyệt vọng và mệt mỏi, hãy trở về, gia đình mình vẫn luôn bên cạnh, che chở cho con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái

Các sao sinh con trong lá số Tử vi

Trong tử vi hầu hết các chính tinh đắc địa trở lên đều có nghĩa là có con. Vì vậy, dưới đây là danh sách các sao chỉ cách hiếm muộn con cái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xem lá số tử vi, các sao sinh con ảnh hưởng đến có con hoặc hiếm muộn con cái được quy định bởi các chính tinh. Với phụ tinh, có thể cho biết tướng mạo con cái thế nào, sinh nở vuông tròn hay không.

1. Cách tử tức qua các sao

a. Chính tinh: hầu hết các chính tinh đắc địa trở lên đều có nghĩa là có con. Vì vậy, dưới đây là danh sách các sao chỉ cách hiếm muộn con cái:

– Vũ Khúc

– Vũ Khúc, Thất Sát

– Vũ Khúc, Thiên Tướng

– Thất Sát ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ

– Thất Sát, Liêm Trinh

– Tham Lang ở Tý, Ngọ

– Phá Quân

– Phá Quân, Liêm Trinh

– Thiên Đồng ở Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi

– Thiên Đồng, Thái Âm ở Ngọ

b. Các phụ tinh:

Thai: có sao này ở Mệnh, Thân, Tử thì khỏi lo tuyệt tự. Tuy nhiên, sao Thai chỉ khả năng có con chứ không hẳn có nghĩa là nuôi được đứa con đó.

Mộc Dục: chỉ sự thụ thai và sinh nở nhiều, ý nghĩa rõ hơn sao Thai.

Long Trì, Phượng Các – Thanh Long: chỉ có con và sinh nở được vuông tròn. Con sinh ra lại đẹp đẽ, dĩnh ngộ.

Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự phong phú con, cụ thể là có nhiều con trai.

Ngoài ra, một số sao khác có ý nghĩa tử tức một cách gián tiếp hơn, chỉ sự may mắn, sự sớm con nói chung:

Nguyệt Đức, Thiên Đức – Long Đức, Phúc Đức – Thiên Quan, Thiên Phúc – Tả Phù, Hữu Bật – Dưỡng – Thiên Hỷ, Hỷ Thần – Thiên Mã, Tràng Sinh – Thanh Long, Lưu Hà. Những sao này chỉ xác nhận thêm triển vọng sinh nở vuông tròn, suôn sẻ khi đi chung với sao tử tức kể trên.

2. Cách sinh trai, gái

a. Vấn đề trai nhiều hay gái nhiều trong số con:

Khi nào cung Tử có sao nam đẩu tọa thủ thì có con trai nhiều hơn con gái.

Có 7 sao nam đẩu: Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thiên Tướng, Thái Dương, Thiên Lương, Thất Sát, Thiên Đồng.

Khi nào cung Tử có sao bắc đẩu tọa thủ thì có con gái nhiều hơn con trai.

Có 6 sao bắc đẩu: Cự Môn, Tham Lang, Thái Âm, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Phá Quân.

Trong trường hợp cung Tử có cả nam, bắc đẩu đồng cung thì căn cứ vào âm dương tính của cung Tử mà xét. Nếu cung Tử ở dương cung thì trai nhiều hơn, ở âm cung thì gái nhiều hơn. Riêng sao Tử Vi vừa là nam đẩu vừa là bắc đẩu nên nếu đi chung với nam đẩu thì trai nhiều hơn, với bắc đẩu thì gái nhiều hơn.

Trong trường hợp cung Tử vô chính diệu thì căn cứ vào chính tinh xung chiếu để tính: nam đẩu là trai, bắc đẩu là gái. Nếu có cả nam, bắc đẩu đồng cung xung chiếu vào cung Tử thì tùy theo cung Tử là dương thì trai nhiều, âm là gái nhiều.

b. Vấn đề tiên đoán sinh trai, gái vào năm sinh nở:

Nếu năm sinh nở rơi nhằm cung có nam đẩu thì sinh trai, có bắc đẩu thì sinh gái. Nếu có cả nam bắc đẩu đồng cung thì căn cứ vào dương cung của năm sinh để đoán trai, âm cung để đoán gái. Nếu năm sinh rơi vào vô chính diệu thì dựa theo trường hợp vô chính diệu ở đoạn trên mà tính.

c. Tuần, Triệt và vấn đề trai gái:

Trong mọi trường hợp cung của năm sinh nở gặp Tuần hay Triệt hoặc Tuần, Triệt đồng cung thì mọi kết luận phải đảo ngược.

d. Vấn đề trai hay gái đầu lòng:

Nếu cung Tử có nam đẩu thì sinh con trai trước, nếu có bắc đẩu thì sinh con gái trước. Nếu từ cung Tử biết con đầu lòng là trai mà đến năm sinh nở lại sinh gái thì phải đoán rằng sinh gái đầu lòng khó nuôi còn sinh đúng trai thì dễ nuôi. Ngược lại, nếu cung Tử cho biết con gái đầu lòng mà vào hạn sinh nở lại gặp trai thì khó nuôi.

3. Số lượng con

a. Các sao đông con:

Sao Tràng Sinh: 8 con và sao Đế Vượng: 7 con.

Những sao hay bộ sao 5 con bao gồm:

Tử Vi ở Ngọ – Tử, Phủ đồng cung – Thiên Phủ ở Tỵ, Hợi – Thái Dương, Thái Âm sáng sủa – Thái Dương, Thái Âm đồng cung – Thái Dương, Thiên Lương ở Mão – Thiên Lương ở Tý, Ngọ – Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý – Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần – Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung – Thiên Cơ, Thái Âm ở Thân – Cự Môn ở Hợi, Tý, Ngọ.

b. Các sao có số con trung bình

Từ 3-5 con, bao gồm: Tử Vi ở Tý – Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung – Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu – Thiên Đồng ở Mão – Cự Môn, Thái Dương ở Dần, Thân – Thiên Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi – Thái Dương, Thiên Lương ở Dậu – Thái Dương hay Thái Âm hãm – Thái Âm, Thiên Cơ ở Dần – Tham Lang ở Thìn, Tuất – Thiên Lương ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi – Cự Môn, Thiên Đồng đồng cung – Thất Sát ở Dần, Thân – Phá Quân ở Tý, Ngọ – Tử Vi, Thất Sát đồng cung – Quan Đới, Lâm Quan, Dưỡng – Tả Phù, Hữu Bật

c. Các sao ít con, làm giảm số con

Ít con được kể như có hai hay một người con, bao gồm các sao hay bộ sao còn lại, ngoại trừ các sao kể trong cách hiếm muộn. Trong số các sao làm giảm số con, đặc biệt có sao:

– Lộc Tồn: làm giảm đi hai con

– Tuần hay Triệt gặp chính tinh sáng sủa, sẽ làm giảm một nửa số con.

4. Cách sinh đôi

Những bộ sao có ý nghĩa sinh đôi khá chắc chắn bao gồm:

– Thai, Nhật, Nguyệt đồng cung

– Nhật, Nguyệt ở Tử giáp sao Thai

– Thai, Tả, Hữu đồng cung

Những bộ sao dưới đây không chắc chắn lắm: Thái Dương, Thiên Hỷ – Thái Âm, Thiên Phúc – Hỷ Thần, Tuyệt đồng cung – Thiên Mã, Tả, Hữu, Địa Không đồng cung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao sinh con trong lá số Tử vi

Những câu nói hay của người Nhật giúp bạn ấm lòng ngay lập tức

Những câu nói hay của người Nhật giúp bạn ấm lòng ngay lập tức. Ở người Nhật có nhiều điều rất đáng để chúng ta học tập về sự hiện đại và văn minh, văn hoá.
Những câu nói hay của người Nhật giúp bạn ấm lòng ngay lập tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay của người Nhật giúp bạn ấm lòng ngay lập tức. Ở người Nhật có nhiều điều rất đáng để chúng ta học tập. Không chỉ là sự hiện đại và văn minh, văn hoá cùng con người Nhật Bản chính là sự kết nối với những giá trị truyền thống rất đáng ngưỡng mộ.

Cùng xem những câu nói hay của người Nhật có giúp bạn ấm lòng và thêm vững tâm trước cuộc sống.

Những câu nói hay của người Nhật

1. Một hành trình dài luôn bắt đầu từ một hành trình ngắn.

2. Thanh kiếm dù chỉ cần dùng một lần trong đời, nhưng lúc nào cũng nên mang bên người.

3. Thà làm kẻ thù của một người tốt còn hơn làm bạn của một kẻ xấu.

4. Nếu một vấn đề có thể giải quyết được, vậy không cần phải lo lắng về nó nữa. Nếu nó không thể giải quyết được, vậy thì có lo lắng cũng chẳng ích gì.

5. Trà nguội hay cơm nguội đều có thể chịu được; thứ không thể chịu được là cái nhìn nguội và lời lẽ cục cằn.

6. Dùng thời gian để suy nghĩ, lá gan để hành động. Khi đã hành động rồi thì đừng suy nghĩ.

7. Ếch ngồi đáy giếng thì không biết được sự bao la của biển cả.

8. Đừng níu giữ những thứ đã xa, đừng xua đuổi những điều đang đến.

9. Nhanh nghĩa là đi chậm mà không bị ngắt quãng.

10. Người có khát vọng vươn lên sẽ nghĩ về cách tạo ra cho mình một chiếc thang.

11. Vợ chồng giống như tay và mắt: khi tay đau thì mắt khóc; còn khi mắt khóc, tay lau đi những giọt lệ.

12. Một lời tốt có thể giữ ấm cho bạn trong ba tháng mùa đông.

13. Những con sông sâu nhất trôi rất êm đềm.

14. Làm tất cả những gì bạn có thể và để mọi chuyện còn lại cho số phận.

15. Kẻ uống rượu không biết sự nguy hiểm của rượu, người không uống rượu không hiểu được lợi ích của nó.

16.Những đóa hoa đẹp không sinh ra trái ngọt.

17. Tiền tài luôn đến với những ngôi nhà có tiếng cười.

18. Người có thể chịu đựng được chỉ hơn nửa giờ so với đối thủ của mình là người có thể đạt được chiến thắng.

19. Nếu một người phụ nữ muốn một điều gì, cô ta sẽ leo qua cả một ngọn núi để có được nó.

20. Đặt một câu hỏi và bạn chỉ cảm thấy xấu hổ trong thoáng chốc. Không hỏi và không biết nghĩa là bạn sẽ thấy xấu hổ cả đời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay của người Nhật giúp bạn ấm lòng ngay lập tức

Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Bạn đã từng hỏi niềm vui lớn nhất trong cuộc đời mình là gì chưa? Bạn mải theo đuổi những niềm vui nơi xa xôi mà dễ quên đi hạnh phúc căn bản quanh ta
Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có bao giờ bạn tự hỏi: niềm vui nào lớn nhất trong đời? Thành công, giàu sang hay có được điều mình mong muốn. Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng khi có được thứ này chúng ta lại muốn có được thứ khác. Quá trình đuổi bắt cứ kéo dài suốt năm này qua năm khác, chúng ta không dễ gì nhận ra, niềm vui lớn nhất trong đời gần gũi và thân thương biết chừng nào.

Ngay từ lúc mới sinh ra, được sống trong vòng tay của cha mẹ chúng ta hạnh phúc và cảm thấy bình yên. Mỗi ngày là một ngày vui, lúc đó, cha mẹ tuyệt vời nhất. Thế rồi, lớn lên, chúng ta muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của mẹ cha. Muốn tự do bay lượn, chê đấng sinh thành giờ đây lạc hậu, không có những suy nghĩ tân tiến, hợp thời. Để rồi xa cách cha mẹ hơn, nhưng bạn ơi, niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là:

  1. Được sống cùng cha mẹ
  2. Được làm công việc mình thích
  3. Lấy được người mình yêu
  4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

4 niềm vui lớn nhất trong cuộc đời

1. Được sống cùng cha mẹ

Trải qua những năm tháng tuổi trẻ bồng bột và ích kỷ, chúng ta trở về với những toan tính của cuộc đời. Không còn tự do bay nhảy, không còn những suy nghĩ ấu trĩ và ngông cuồng. Giờ đây chúng ta có cả một gia đình cần gánh vác. Lúc ấy mới chợt nhận ra rằng, được sống cùng cha mẹ là một niềm hạnh phúc to lớn.

Không chỉ dựa dẫm vào đôi vai gầy yếu của mẹ cha mỗi khi bước chân ta trên đường đời rệu rã, không chỉ được ăn bát cơm mẹ nấu, được cùng cha đàm đạo mỗi lúc chiều tà. Quãng thời gian đó yên bình và hạnh phúc biết bao. Không phải chỉ có cười thật to, hét thật lớn thì mới được gọi là niềm vui. Đôi lúc niềm vui bình dị và nhẹ nhàng biết bao, nhưng nó sẽ ngấm sâu vào ký ức của ta, an ủi vỗ về ta mỗi khi mệt mỏi và đau đớn trong cuộc đời.

2. Được làm công việc mình thích

Niềm vui này sẽ chẳng có niềm vui nào có thể sánh được. Đó là cảm giác thỏa mãn bởi vì chúng ta đã làm được điều mà mình thích. Không ít người không làm được việc mình thích, không dám theo đuổi ước mơ và hoài bão của bản thân. Chán nản, thất vọng để rồi họ nhận ra cuộc sống của mình thật nhàm chán, thật buồn bã.

Chỉ khi chúng ta được làm công việc mình thích, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui đến từ những điều bình dị, những điều tưởng chừng như vốn có của cuộc sống nhưng không phải lúc nào cũng cảm nhận được. Thế nên, nếu bạn cho rằng công việc chỉ là một công cụ để nuôi sống bản thân thì bạn hãy suy nghĩ lại đi nhé. Bởi vì chỉ khi yêu thích công việc của mình chúng ta mới làm tốt nó được. Được làm công việc mình thích là niềm vui lớn nhất trong đời.

3. Lấy được người mình yêu

Bất kỳ ai trong chúng ta đều muốn có được hạnh phúc trong cuộc sống vì vậy chúng ta mới trao đi tình yêu của mình. Có người lấy được người mình yêu, tin tưởng để làm chỗ dựa suốt đời cho mình, có người lại quyết định kết hôn trong lúc nóng vội. Rất nhiều người đã nếm quả đắng vì vội vàng trong tình yêu.

Một trong những niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là lấy được người mình yêu và yêu mình. Khi sống cùng nhau, những bất đồng, những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, nếu không có một tình yêu lớn dành cho nhau, ít khi chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận lẫn nhau được. Lấy được người mình yêu là niềm vui lớn nhất trong đời. Lớn hơn rất nhiều những niềm vui do tình cảm tạo ra trước đó. Thế nên, hãy trân trọng cuộc sống gia đình và trân trọng người bạn đã lựa chọn.

4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

Đây là niềm vui rất lớn bởi hàng ngày chúng ta đều cố gắng tìm kiếm nó nhưng ít người nắm giữ được nó. Có người lo lắng cho những việc không đâu để rồi cáu gắt với người thân và con cái của mình, làm mất đi một ngày đẹp đẽ. Bạn ơi, hãy đối diện với cuộc sống mỗi ngày, dẫu khó chịu bao nhiêu cũng đừng đổ lỗi lên đầu người khác. Hãy tìm cách chế ngự sự giận dữ của mình và bao dung với người bên cạnh, để mỗi ngày với bạn trọn vẹn hơn. Có thể bạn không nhận ra, nhưng mỗi sớm mai thức dậy, tâm trạng bạn thoải mái bạn sẽ có một ngày ngập tràn niềm vui.

Vậy nên, hãy mỉm cười khi ánh bình minh chiếu qua cửa sổ, bởi vì ít nhất thì chúng ta vẫn còn một ngày để làm những điều mình muốn. Hãy sống trọn vẹn từng ngày một với công việc, gia đình, con cái và những niềm đam mê nho nhỏ của bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Khám phá tính cách và đời người qua đốt ngón tay

Hình dạng và mức độ phát triển của các đốt ngón tay phản ánh năng khiếu, tài năng, tính cách, từ đó hé lộ cuộc đời mỗi con người.
Khám phá tính cách và đời người qua đốt ngón tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hình dạng và mức độ phát triển của các đốt ngón tay phản ánh năng khiếu, tài năng, tính cách, từ đó hé lộ cuộc đời mỗi con người. 

Kham pha tinh cach va doi nguoi qua dot ngon tay hinh anh
Ảnh minh họa


1. Ngón trỏ

- Đốt trên: Nếu đốt ngón tay này ngắn có nghĩa là coi trọng vật chất, nếu dài lại tượng trưng cho óc quan sát.
 
- Đốt giữa: Đốt này dài thể hiện sự hiệu quả, thông thường đốt giữa của những nhà quản lí rất dài. Nếu đốt giữa ngắn, chứng tỏ không có hoài bão ước mơ.
 
- Đốt dưới: Nếu đốt dưới ngón trỏ ngắn thể hiện thái độ sống an nhàn; nếu dài thì thích sai khiến người khác; nếu mỏng đại diện cho sự soi mói song lại rất biết thưởng thức nghệ thuật.
 
2. Ngón giữa

- Đốt trên: Nếu đốt này dài chứng tỏ là người làm việc cẩn thận, kín kẽ, yêu thích nghiên cứu; còn nếu đốt này ngắn lại là người ổn định, vững chãi; nếu đốt này mỏng thì hay nghi ngờ người khác.
 
- Đốt giữa: Người có đốt giữa này ngắn rất yêu thích khoa học, dài thì là nhà quản lí giỏi, còn dày thì ham thích nghệ thuật làm vườn.
 
- Đốt dưới: Đốt này dài có nghĩa thích coi mình là trung tâm, còn nếu ngắn thì tính tình keo kiệt.

3. Ngón áp út
 
- Đốt trên: Đốt ngón tay này dài có nghĩa khả năng thưởng thức nghệ thuật tốt, nhưng nếu dài có khuynh hướng tự ái, còn nếu dẹt và phẳng thì hay giả tạo.
 
- Đốt giữa: Đốt giữa thon dài thể hiện năng khiếu nghệ thuật, có sự tinh tế và sáng tạo về màu sắc và đường nét. Nếu đốt này ngắn hoặc mỏng có nghĩa là không biết thưởng thức nghệ thuật.
 
- Đốt dưới: Nếu đốt dài, thể hiện nhu cầu ham học hỏi mạnh mẽ; nếu ngắn có nghĩa trái ngược.
 
4. Ngón út
 
- Đốt trên: Đốt này dài đại diện cho tài ăn nói giỏi, nếu có thêm đặc điểm là nhọn thì lời nói có sức thuyết phục cao.
 
- Đốt giữa: Nếu đốt dài, chứng tỏ có năng lực trong lĩnh vực tài chính, ngắn thì có năng lực tổ chức.
 
- Đốt dưới: Đốt này dài chứng tỏ là người có tâm hồn ngây thơ trong sáng, còn dài lại thiếu sức tưởng tượng và dễ tự lừa dối chính mình.
 
5. Ngón cái
 
Cũng tương tự các ngón tay khác, ngón cái có ba đốt. Đốt trên và đốt giữa là ngón mà chúng ta quen thuộc, còn đốt dưới thì kết hợp với lòng bàn tay tạo thành một phần của gò Nguyệt. Khi coi tướng tay có thể coi ngón cái như một chỉnh thể hoặc phân tích thành hai đốt là đốt trên và đốt dưới.
 
- Đốt trên: Đốt này đại diện cho ý chí, lòng quyết tâm và sự kiên trì. Từ chiều dài của ngón cái, hình dạng đầu ngón tay cũng như ngoại quan tổng thể bên ngoài có thể nhìn được nguồn động lực của bạn. Điều này có nghĩa là bạn định đầu tư bao nhiêu tâm trí vào việc mà bạn đang đảm nhiệm.
 
- Đốt dưới: Đốt ngón tay này quyết định việc bạn vận dụng nguồn động lực như thế nào. Hình dạng và kết cấu của nó là tiêu chuẩn đo trí tuệ và khả năng suy luận. Đốt này cũng có thể phản ánh mức độ hơn logic hành vi của bạn.
 
Theo Ngôn ngữ của bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá tính cách và đời người qua đốt ngón tay

Lấy chồng tuổi nào thì vợ sướng hơn tiên?

Chị em thường luôn băn khoăn lấy chồng tuổi nào để được yêu thương, nâng niu và chiều chuộng? Nếu có lấy hãy lấy 5 chàng giáp này.
Lấy chồng tuổi nào thì vợ sướng hơn tiên?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu "không may" lấy phải 5 chàng giáp này thì các nàng chẳng có việc gì để làm cả, bởi sẽ được cưng nựng, chiều chuộng hết mức. Lấy chồng tuổi nào thì sướng hơn tiên?


► ## gửi đến bạn đọc công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Lay chong tuoi nao thi vo suong hon tien hinh anh
Ảnh minh họa

Đàn ông tuổi Hợi

  Lấy chồng tuổi nào để an nhàn hạnh phúc, chớ bỏ qua đàn ông tuổi Hợi. Những người đàn ông tuổi Hợi luôn ưu tiên tình cảm gia đình là trên hết. Sự nghiệp của họ cũng thành công tốt đẹp nhưng trong lòng họ gia đình chiếm giữ vị trí chủ đạo. Đàn ông tuổi Hợi thường tranh làm việc nhà giúp vợ, từ việc sửa sang đồ đạc trong nhà đến lau nhà, đi chợ, mua đồ cho con cái. Do đó,lựa chọn kết hôn cùng các anh chàng tuổi Hợi là một điều tuyệt vời mặc dù có thể anh ấy không quá tài giỏi xuất sắc.

 

Đàn ông tuổi Mão

  Những anh chàng nào tuổi Mão thường là người rất hiền lành, thông minh và đa tài. Vì là người luôn biết chăm sóc, quan tâm đến mọi người nên khi yêu, họ sẽ yêu hết mình và chung thủy với người con gái mình yêu. Vì thế, lấy đàn ông tuổi Mão làm chồng, bạn sẽ được chiều chuộng hết mực và đặc biệt anh ấy còn thương yêu và chăm con rất giỏi. Thỉnh thoảng, khi ra ngoài, đàn ông tuổi Mão tỏ ra rất gia trưởng trước mặt mọi người. Nhưng ở nhà cùng vợ con, anh ấy sẽ sẵn sàng chiều theo mọi yêu cầu của bạn.  

Đàn ông tuổi Tỵ

  Đàn ông tuổi Tỵ ngoại hình bảnh bao, là người có ý chí mạnh mẽ và tinh thần trách nhiệm đầy mình. Có thể mọi người nhìn vào sẽ nghĩ anh ấy là người độc đoán trong các mối quan hệ kể cả trong tình yêu. Nhưng thực ra, các chàng trai tuổi Tỵ chỉ tỏ ra quyết đoán, tung hoành ngang dọc trong công việc thôi. Khi trở về nhà, họ trở nên mềm mỏng và yêu chiều vợ con. Những ai lấy chồng tuổi Tỵ quả thật rất may mắn đấy nhé.

 

Đàn ông tuổi Ngọ

  Những người đàn ông tuổi Ngọ thường mang trong mình suy nghĩ phải ổn định chuyện gia đình trước rồi mới lập nghiệp. Thế nên, các cô vợ hãy cứ yên tâm vì các chàng trai tuổi Ngọ dành rất nhiều tâm trí cho gia đình, họ không để sự nghiệm lấn át, mà quên đi bổn phận làm chồng, làm cha của mình đâu.   Đàn ông tuổi Ngọ mạnh mẽ, coi trọng sự nghiệpSự nghiệp của họ vẫn tốt đẹp, vẫn đáp ứng đủ đầy nhu cầu vật chất lẫn tình cảm cho vợ con. Tuy vậy,các nàng lấy chồng tuổi Ngọ cũng nên cảm thông và thấu hiểu cho chồng nhiều hơn. Cho họ thời gian riêng tư để theo đuổi những mục tiêu trong sự nghiệp nhé.  

Đàn ông tuổi Mùi

  Các chàng trai tuổi Mùi thường là người nhạy bén, tinh anh nên rất thành công trong sự nghiệp. Do đó, đàn ông tuổi Mùi gần như quên mất gia đình mà chỉ tập trung vào phát triển sự nghiệp. Nhưng khi có quá nhiều va chạm và mệt mỏi khi đấu đá trên thương trường, họ sẽ nhận ra gia đình mới thực sự quan trọng nhất.   Họ cũng đủ sáng suốt để biết rằng, gia đình chính là bến đỗ, là chỗ dựa vững chắc nhất của mỗi người. Nếu không có gia đình, không có vợ con bên cạnh chia sẻ thì thành công rồi cũng chỉ cô đơn, lạnh lẽo mà thôi. Vậy là các chị em đã biết nên lấy chồng tuổi nào rồi nhé!   ST. 4 nàng giáp khiến sự nghiệp của chồng không thăng hoa thì cũng rực rỡ 4 con giáp có cơ hội vươn mình tỏa sáng sau tiết Lập Đông Dù phạm thái tuế nhưng những con giáp này vẫn phát tài trong năm 2017
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lấy chồng tuổi nào thì vợ sướng hơn tiên?
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd