Tướng người gặp may mắn –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
hải. Chúng ta chỉ cần thay đổi vị trí cửa là có thể chuyển được toạ hướng của căn nhà.

Thay đổi phương hướng không có nghĩa là nói đóng bít cửa đó đi, chuyển cửa sang vị trí mới. Mà chỉ cần thay đổi một chút tại vị trí cửa hiện tại là được. Bạn hãy mời thợ đến, dịch cả khung cửa tạo thành một góc có độ chéo nhất định. Như vậy là đã bố trí xong căn nhà phú quý, khai vận, vượng tài. Chúng ta có thể dựa theo vạch vị trí sẵn có trên la bàn, căn chỉnh làm sao để hướng của cửa trùng với vạch đó là được. Thao tác cực kỳ đơn giản, dễ làm.
Lịch Sử Khoa Tử Vi
Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng.
Trong thập niên 1960 trở lại đây, VN ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên Khoa Học Huyền Bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây :
- Tử-vi đẩu số tân biên của Vân Điền Thái Thứ Lang.
- Tử-vi áo bí của Hà Lạc Dã Phu.
- Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc.
- Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn.
Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử vi Áo bí của Hà lạc Dã Phu.
Hiện (1977) khoa Tử-vi ở VN, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tử-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.
Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu.
Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau : “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.
Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. (Chính là tôi và ba em tôi). Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỷ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)
Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vẫn là quan trọng”. (trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm : lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy :
– Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung : Mệnh (Thân), Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc. Phúc Đức, Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức, Huynh Đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết : tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa Tử vi không hợp lý vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau : điều đó không chấp nhận được.
Khoa Tử Bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lý. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
Hà Lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn Tử Bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử Vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử Bình hợp lý, thích hợp với giới trí thức; Hà Lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu. Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kỳ dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa. Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được.
Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy : “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn).
Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ (Pháp quốc)
Người sành tử vi, đều biết rõ mỗi lục thập hoa giáp có 518,000 dạng lá số (tạm gọi 518,000 lá số), nhân loại ngày nay khoảng 6 tỉ người (tức là cứ 12,000 người có chung một lá số, thế nhưng trong 12,000 cùng một lá số ấy có ai giống ai đâu ? Vẫn là 12,000 sứ mệnh khác nhau ! Điều này đã làm cho giới trí thức đâm ra bi quan và nghi ngờ giá trị xác thực của khoa nghiệm lý Tử vi. Thật ra, cổ nhân khi lập thành khoa lý học này, không phải để người ta dựa vào đó mà luận sự sang giàu, nghèo hèn mà muốn hệ thống hóa cái đặc loại (type) của con người, rồi do theo đó mà dạy dỗ, giáo dục từng đặc loại (theo các phương pháp riêng biệt, tỷ dụ dạy trẻ thông minh thần đồng thì dạy khác, dạy trẻ câm điếc lại cách khác nữa) sao cho tất cả mọi người cùng xứng đáng với nghĩa làm người !
Trải qua thời gian, khoa tử vi dần dần bị biến chất, hạ thấp thành phú đoán dị đoan (cốt xem vận mệnh, công danh, phú quí ra sao để trục lợi). Thuật đối nhân xử thế tiềm tàng trong mỗi lá số Tử vi, chính là cái tự do của con người (để sống hòa hợp với bao nhiêu phiền toái và ràng buộc của con người với tạo vật, tạm gọi là môi sinh). Vậy thì tử vi không là một kiểu định mệnh độc ác và bất khả chối từ đâu ! Người hiện đại, nhất là giới trí thức đều nghĩ không có định mệnh nào làm sẵn theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” cả, không thể có một tha lực nào bắt con người phải nô lệ cho một định mệnh !
Mỗi lá số tử vi có một cung cách chung cho 12,000 người, nhưng đồng thời lại có đủ 12,000 trình độ xử thế khác nhau (do con người chủ động cách suy nghĩ và cách hành động của bản thân), và từ đó phát sinh ra 12,000 cái sứ mệnh khác nhau, không ai giống ai (ví như một lớp học, tuy cùng một trình độ, có người hạng nhất, có người hạng trung bình và có người xếp hàng chót). Người khoa học là người chịu khó quan sát nhiều lần cái ngẫu nhiên giống nhau, mà qui nạp thành cái tất nhiên (gọi là qui luật). Cổ nhân (gồm nhiều thế kỷ xa xưa kinh nghiệm, tích lũy được) cũng làm theo hệ thống này mà tạo thành khoa nghiệm lý tử vi để hậu thế hiểu thêm giá trị sống ở đời (mà vừa thích nghi vừa chế ngự thiên nhiên, hoàn cảnh).
Mỗi lá số tử vi có một cấu trúc thật diệu kỳ (thật huyền ảo) của 14 chính tinh (chưa nói các phụ tinh khác), ta tạm chia làm ba cách phân bổ :
- Nhân cách là tính nhị hạp của Liêm với Lương, của Phá với Cơ, của Vũ với Nguyệt, của Nhật với Phủ, của Đồng với Tham
- Địa cách là tính xung đối của Phá với Tướng, của Sát với Phủ
- Thiên cách là cái tính hại của Tử với Cự, của Tướng với Cơ, của Nhật với Sát
Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của tinh đẩu vừa nêu ở trên (dù đóng ở bất cứ cung nào), chính là một cách ẩn tàng khuyên bảo người ta nên đối nhân xử kỷ sao cho xứng danh “Nhân linh ủ vạn vật”, từ đó nâng cao cuộc sống vật chất và nhân cách của bản thân (Nguyễn Du: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều)…
…. một vị thứ xếp hạng riêng biệt trong 12,000 người cùng một lá số tử vi người này vẫn khác người kia. Mỗi lá số tử vi có cái thuận lợi riêng và cái bất lợi riêng của nó. Người sành tử vi biết số của mình, không phải là biết khi nào vào vòng thái tuế, lúc nào đáo vận thiên không, cái biết này chỉ là cái “dụng” tầm thường, quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ rệt mà xử lý với đời như thế nào cho phải đạo. Nhân sinh quan của người thích tử vi có phần tích cực và lạc quan (chứ không chịu dị đoan, yếm thế đâu). Nhìn vào lá số của mình trong thiên bàn tử vi, suy gẫm về nhân cách (là các sao nhị hạp), ta thấy bàng bạc các lời khuyên bảo chí tình :
- Sống thanh bạch phải giữ cho được phẩm cách thanh cao, đấy mới là khó ở đời (Liêm trinh với Thiên lương)
- Muốn đổi cũ thay mới, phải biết cân nhắc, tính toán cẩn thận và khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Thiên cơ với Phá quân)
- Phải sống có tình cảm nhân hòa nhân ái, chứ không vì đồng tiền mà cô đơn, lẻ loi, ti tiện (Thái âm với Vũ khúc)
- Phú quí song toàn, có nghĩa khi sống ở địa vị sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương với Thiên phủ)
- Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các lầm lỗi, để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ trích chuyện canh cải sửa đổi hời hợt (Tham lang với Thiên đồng)
Suy gẫm về địa cách (các sao xung đối), rõ ràng là thuật xử thế :
- Lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân với Thiên tướng)
- Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế bớt hung bạo (Thất sát với Thiên phủ)
- Suy gẫm về thiên cách (là tính hình hại của các tinh đẩu. Tỵ hại Dần, Ngọ hình hại Sửu) cho thấy lối chỉ dạy kinh nghiệm sống ở đời phải biết:
- Khi có địa vị cao sang, phải biết nghe lời phê phán. Sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân thêm chính đáng (Tử vi với Cự môn)
- Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này là mất ngay cái kia (Thiên tướng với Thiên cơ)
- Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, dự trong sáng nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu (Thái dương và Thất sát).
Nếu mỗi người chịu sống là làm theo “ẩn ngộ” trong cấu trúc của các chính diệu nêu trên thì rõ ràng là đã giúp mình tìm một vị thế riêng trong 12,000 người cùng một lá số tử vi.
Cụ Thiên Lương nêu cao hai chữ Tài, Thọ, để thế nhân hoán cải phần số của mình, thiết tưởng không bỏ qua cả những cơ cấu chặt chẽ của tinh đẩu hình hại, tinh đẩu đối cung và tinh đẩu nhị hạp (mà cụ Thiên Lương là người đầu tiên phát hiện rõ sự trạng này) để ta thấy rõ cái bản thể của ta hơn.
Đời người theo tình lý của khoa tử vi chỉ là một “project schematique”, không một tha lực nào độ mạng cho ta được, đời ta là do ta gây dựng mà thôi. Cái thú chơi tử vi là vậy đấy. Khoa nghiệm lý tử vi không có tà thuật gì cả. Nó chỉ là một khoa chứa đựng nhiều tinh túy nhân bản của người xưa, nói về đạo sống ở đời. Ta thuộc về một lá số nào, thì ta phải cố mà bảo trì phát huy cái thuận lợi chứa trong lá số của mình từ đó các tật xấu (hoa hại) sẽ bớt đi. Chẳng khác nào ta biết được cái ưu, cái nhược của cái xe ta đi, nương theo đó mà bảo trì, sửa chửa thì xe lâu hư lâu cũ! Vậy thì, không nên chê trách các lá số kiểu Thiên không, mà cũng không nên tôn sùng quá đáng các lá số Thái tuế ! Xe honda có mau hơn tốc độ, nhưng xe đạp vẫn giúp ích cho đời nghèo chứ ? Vấn đề là dựa vào cấu trúc nhân cách (tính nhị hạp) địa cách (tính xung đối) thiên cách (tính hình hại) trong tử vi mà xử thế với đời, hai chữ thiên tài, thiên thọ nghiêm túc duy trì chính là học làm người tốt lành trong xã hội tiến bộ.
Nhìn chung mọi lá số tuy chứa 12,000 người kỳ thật lại xếp hạng từ thứ nhất, thứ nhì tới thứ 12,000 cả thẩy 512,000 lá số cho ta đủ 6 tỉ người có vị thứ khác nhau (mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười), đấy là sự thật rõ ràng nhất !
Hoàn cảnh sống, dòng dõi, nền giáo dục được hấp thụ, tất cả đúc kết lại thành “môi sinh” để mỗi người tự vươn lên, do đó việc có cùng một lá số tử vi, mà không ai giống ai (kể cả việc anh em song sinh) là tất nhiên vậy thôi. Lại nữa, con người cũng là một thứ sinh vật (như bao sinh vật và vật chất khác) luôn biến dịch theo luật tuần hoàn của vật chất, nghĩa là cùng chịu những chi phối của môi sinh (đồng thời cũng tác động lại để cải biến môi sinh), nên dù ở loại lá số nào (và xếp hạng cao thấp trong mỗi lá số) vẫn phải theo qui luật của môi sinh để trường tồn (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, thiên ở đây là cái lý tất nhiên tối cao, chứ không phải là mô thức Thượng đế nào). Tỉ dụ như muôn loài động vật đêm tối thì đi ngủ, trời mưa gió thì tìm chỗ ẩn náu.
Cái vi diệu của cuộc sống xã hội là có rất nhiều cái lý tối cao chi phối con người, nên dù ở lá số nào, người ta vẫn làm theo cái lý tối cao ấy (hoặc bằng vật chất, hoặc bằng tư duy) rồi trong khi thi hành theo lý tối cao của môi sinh, ta lại thấy có các trật tự khác nhau (vẫn là khác nhau!) giữa người này với người kia. Chẳng khác nào việc ta cùng nắm trong tay nhiều hòn bi màu (là các lá số khác nhau) rồi cùng một động tác duy nhất là ném ra xa (do một lý tối cao chi phối), thử xem kết quả ra sao? Không hòn bi nào nằm ngang cùng một khoảng cách đến bàn tay ném ra cả !
Cái trật tự, do lý tối cao chi phối các hòn bi ấy vẫn có mức độ khác nhau. Vậy thì cùng một môi sinh hun đúc các lá số tử vi vẫn phát triển một cách khác nhau. Đời người có may mắn có họa hại, chẳng qua là do cung cách đối nhân xử thế của mỗi cá nhân không có tha lực (thần quyền) nào dẫn dắt chúng sanh đâu !
Tác động qua lại giữa bản thể của ta với môi sinh, chính là nguồn gốc của họa phúc. Khoa tử vi giúp ta thấy được bản thể (cái thể xác thực là lá số tử vi của ta đang thuộc về) rồi tùy ta (tự do tính) định liệu xử lý với ngoại cảnh (cái dụng chân thành). Thể và dụng là chuỗi dài quá trình sinh hóa của con người khác nhau giữa người với người là chính ở ta “sống với môi sinh” của ta như thế nào thôi.
Cái thú của khách mộ điệu tử vi không phải là làm việc “bất xuất hô tri thiên hạ”, không phải làm “thầy” để “bói” đời hẳn nhiên chỉ ở chỗ: “Bất khuy dữ kiến thiên đạo” (không sống thừa không sống thiếu là thấy cái lý cùng thông của tạo vật, trong đó có ta).
Toán học thuần lý cho rằng “Les elements des nombres sont les des choses”, thì khoa tử vi cũng vẫn nghiệm cái lý: làm chủ bản thân hòa hợp với xã hội khi nào ta biết rõ cái số của ta vậy.
GS Lê Trung Hưng
Máy tính – công cụ làm việc đắc lợi của phần đông con người thời hiện đại. Tuy nhiên, đặt máy tính như thế nào để công việc suôn sẻ lại là cả một nghệ thuật.
Tránh đặt máy tính bên phải bàn làm việc
Theo quan niệm phong thủy, bên phải là Bạch Hổ, bên trái là Thanh Long, Long sợ xú uế Hổ sợ động. Máy tính đặt ở bên phải – hướng Bạch Hổ sẽ bất lợi. Vì vậy, nên đặt máy tính ở phía bên trái bàn làm việc của bạn.
Tránh để màn hình máy tính đối diện giường ngủ
Tương tự như gương hay màn hình tivi, tránh để màn hình máy tính đối diện với giường ngủ vì sẽ ảnh hưởng đến tinh thần con người và chất lượng giấc ngủ.

Tránh để ánh sáng chiếu trực diện màn hình máy tính
Khi màn hình máy tính bị ánh sáng chiếu trực diện sẽ bất lợi cho gia chủ, gây ra nhiều điều thị phi, tranh cãi. Tuy nhiên, tránh đặt máy tính ở nơi quá u tối, dễ khiến chủ nhân rơi vào trạng thái tâm lý bất an, trầm uất, ảnh hưởng xấu đến công việc.
Tránh đặt tại nơi không khí không lưu thông
Đặt máy tính tại nơi thoáng khí sẽ giảm thiểu tác hại của bức xạ máy tính. Ngược lại, nếu đặt ở nơi không khí tù đọng sẽ khiến chủ nhân trở nên thiếu minh mẫn và kém nhạy bén trong công việc.
Tránh xa vị trí có nước
Máy vi tính được coi là thuộc Hỏa, khi đặt gần nơi có nước như bể cá, tiểu cảnh ướt… sẽ gây nên tình trạng Thủy – Hỏa tương khắc, bất lợi cho chủ nhân.
Tránh tạp vật xung quanh máy tính
Vị trí xung quanh máy tính cũng như bàn làm việc cần luôn giữ gọn gàng. Nếu tình trạng bừa bộn xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung cho công việc của bạn.
Dòng năng lượng luân chuyển uốn khúc và thong thả sẽ tốt hơn dòng năng lượng luân chuyển thẳng và nhanh. Nếu sự luân chuyển của dòng năng lượng bị cản trở, dồn nén sẽ ảnh hưởng không tốt tới gia chủ.
Để có được sự hòa hợp trong đời sống tình cảm cũng như trong quan hệ hôn nhân, nên làm cho năng lượng âm - dương được cân bằng. Điều này nhằm giúp các thành viên trong gia đình cảm thấy thoải mái và khỏe mạnh trong môi trường mà mình đang sống.
![]() |
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Nhìn chung, khi phong thủy của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm - dương, cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như khó có thể có các mối quan hệ tốt đẹp.
Tạo sự hài hòa năng lượng âm - dương:
- Không nên bài trí quá nhiều biểu tượng mang năng lượng âm trong nhà. Tránh việc lạm dụng tông màu âm (xanh, đen) trong trang trí.
- Không nên sử dụng quá nhiều tranh ảnh tối màu và loại ánh sáng mờ nhạt trong nhà.
Cần chú ý, trong những căn phòng lạnh lẽo, vắng lặng, không có vật nuôi hoặc không có âm nhạc thì năng lượng âm sẽ chế ngự và lấn át năng lượng dương.
(Theo Phong thủy tình yêu)
Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 là năm Tân Sửu, nạp âm Bích Thượng Thổ. Với những người đang có ý định sinh con trong năm này thì nên theo dõi ngay những đặc điểm chính về tử vi của tuổi để chọn lựa năm ra đời đẹp nhất cho em bé của mình.
![]() |
![]() |
Nhận định về cát cách Hóa Lộc, Lộc Tồn:
Sao Hóa Lộc và Sao Lộc Tồn là hai tài tinh quan trọng trong Tử Vi Đẩu Số, hai ngôi sao này có những điểm tương đồng và khác biệt về tính cách, đồng thời có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Nếu trong lá số tử vi chúng nằm đồng cung, hội chiếu lẫn nhau, hoặc gia hội với các cát tinh khác sẽ tạo nên các cát cách có lợi cho mệnh lý, những cách cục đó về cơ bản gồm những loại sau đây:
Quyết Sát Hóa Lộc: Hỏa Tinh miếu vượng trấn mệnh, được ba sao Thất Sát, Hóa Quyền, Hóa Lộc miếu vượng hội chiếu, có ưu điểm là tính cách cương liệt dũng cảm, tuy gặp nhiều nguy hiểm vẫn uy nghi lẫm liệt.
Lộc Văn củng mệnh: Lộc Tồn nằm cùng cung với Văn Khúc, cung vị tam phương tứ chính có Văn Xương củng chiếu, lá số được cách này sẽ giàu sang, nhờ tài văn mà có được của cải, trở thành nhân sĩ nổi tiếng, lại giàu có nhưng gặp sát tinh sẽ là mệnh bình thường.
Lộc hợp uyên ương: Lộc Tồn và Hóa Lộc cùng trấn thủ cung mệnh, có ưu điểm chủ giàu sang, quan tước, tiền tài có đủ, được người kính trọng, có danh vọng, nhiều phúc, tài hoa nhưng có khuyết điểm là khi hai sao Lộc trấn mệnh mà gặp sao Thiên Đồng chủ về lười biếng, gặp Thiên Lương chủ về khoác lác.
Song Lộc triều viên: Sao Lộc Tồn, Hóa Lộc hội chiếu tại cung vị tam phương tứ chính của cung mện (tức mệnh, tài, quan, di). Có ưu điểm là khi Lộc Tồn, Hóa Lộc đóng tại cung phu thê hoặc hợp chiếu cung phu thê thì chồng giàu nhờ vợ, vợ sang nhờ chồng nhưng kỵ gặp không vong.
Lộc Mã bội ấn: Sao Lộc Tồn và mệnh Mã cùng nằm tại cung mệnh, tài, thiên di, điền trạch, không bị hung sát tinh xung phá, có ưu điểm là càng hoạt động càng có tiền của, sự thay đổi của hoàn cảnh sẽ đưa đến phát triển và tiền tài, quyền lực lớn, giàu có có khuyết điểm là chuyên quyền.
Lộc Mã giao trì: Tại cung vị tam phương tứ chính của cung mệnh có Lộc Tồn (hoặc Hóa Lộc), Thiên Mã gia hội, có ưu điểm là thường phát tài tại quê người hoặc có tiền của từ xa tới, môi trường sống có nhiều thay đổi, thường đi xa, du lịch, có khuyết điểm là gặp nhiều bôn ba, vất vả.
Khoa danh Lộc hội: Sao Hóa Khoa tại cung mệnh, cung vị tam phương tứ chính có Lộc Tồn, Hóa lộc hội chiếu, khuyết điểm kỵ gặp hung tinh, sát tinh, Kỵ tinh đồng cung hoặc xung phá.
Đối chiếu tính cách của hai sao Hóa Lộc và Lộc Tồn
Hóa Lộc: Thuộc tính ngũ hành – Âm Thổ
Chủ: Tài Lộc
Hóa: Tài Lộc (động)
Khả năng: Cụ thể hóa tài phú
Cung vị: Có thể nhập tất cả các cung, nhưng kỵ nhập bốn cung Mộ – Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Lộc Tồn: Thuộc tính ngũ hành – Âm Thổ
Hóa: Phú quý (tinh).
Chủ: Lộc trời, tuổi thọ
Khả năng: Giải ách, chế hóa.
Cung Vị: Không nhập bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, luôn nằm giữa Kình dương, Đà La.
Nguồn Tử vi
Có nhiều căn bệnh liên quan tới mắt, trong đó hiện tượng nháy mắt, giật mắt là hiện tượng phổ biến mà ai cũng từng gặp phải. Nhưng nó có nguy hiểm hay không nếu như bị giật mắt liên tục thì nên chữa trị như thế nào?
Nháy mắt hay còn gọi là giật mắt là những cử động không có chủ ý, phạn xạ tự nhiên của con người, thường xảy ra ở hai bên mắt, do hiện tượng co thắt cơ ở dưới da mí mắt. Thông thường, hiện tượng giật mắt sẽ kéo theo vùng da dưới mắt, các cơ vòng mi phần trước sun và cung mày. Khi nháy mắt mạnh thì các cơ ở khu vực mặt cũng bị co giật theo, các cơn cơ giật cơ có thể khéo dài tới vài phút.

Giới khoa học và tâm linh giải thích hiện tượng nháy mắt này như thế nào?
Nhiều nghiên cứu cho thấy chúng ta thường bị nháy mắt liên tục khi cơ thể có những dấu hiệu như mệt mỏi, mất ngủ, căng thẳng thần kinh hay stress, do thiếu máu hay mắc các bệnh về mắt như cận thị, loạn thì, viêm giác mạc, đau mắt,…
Hiện tượng nháy mắt nặng lên khi chúng ta tập trung nhìn, khi chăm chú lắng nghe, và chỉ thuyên giảm khi chúng ta nghỉ ngơi, hoặc có thể biến mất khi chúng ta nói, hát,…
Hiện tượng giật mắt liên tục trong nhiều ngày có thể do bạn mắc một số bệnh lý về tổn thương dây thần linh số 5, 7 hoặc do các dây thần kinh số 5, 7 bị kích thích quá mức bởi các bệnh như viêm loét giác mạc, viêm màng bổ đào, khô mắt, zona mắt. Nguy hiểm hơn là các bệnh gây thoái hóa nơ ron thần kinh như Parkinsom, hội chứng Wilson, cơn Hysteria, tác dụng phụ của việc dùng một số loại thuốc thần kinh,…
Tuy nhiên, nếu bạn chỉ bị nháy mắt hay giật mắt 1 lần hoặc 2 lần trong ngày thì không có vấn đề gì. Theo các nhà nghiên cứu tâm linh thì đó có thể là một dấu hiệu mang tới cho bạn điềm báo về một sự việc nào đó, có thể tốt, có thể xấu sắp xảy ra.
Bạn có thể xem bói về các điềm báo giật mắt theo giờ để biết đó là điềm báo tốt hay xấu.
Để phòng bệnh bị giật mắt, nháy mắt mọi người nên cần sắp xếp thời gian nghỉ ngơi khoa học, ngủ đu 8h 1 ngày, tránh cho mắt bị mệt mỏi do thiếu ngủ. Hạn chế tình trạng căng thẳng thần kinh, stress. Thường xuyên đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các bệnh về mắt tránh mù lòa hay giảm thị lực mắt.
Mỗi lần chớp mắt chỉ chiếm khoảng 1/10s nhưng giúp bạn không bị khô mắt, làm giảm căng thẳng cho mắt, cũng như đẩy các hạt bụi ra khỏi mắt.
Về khoa Tử vi, có cả ngàn chuyện lý thú, kể ra hoài hoài không sao hết được. Trong những câu chuyện lý thú, lại có những kinh nghiệm ly kỳ, làm đề tài thảo luận cho những vị mê Tử vi. Vì Tử vi là một khoa rất khó, bao la, đòi hỏi những kinh nghiệm cả mấy chục năm đối với những người say sưa nhất, cho nên chúng tôi đã thỉnh các vị tài ba nhất về Tử vi để nêu lên đây những câu chuyện về Tử vi để cống hiến quý vị.
Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây có thường xuyên trong mỗi số báo, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những “cách” có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến gia giảm, mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng.
Bởi thế, chủ đích của chúng tôi là nhân những câu chuyện, nêu lên một số những kinh nghiệm để làm đề tài thảo luận và trao đổi sự am hiểu giữa các quý vị, cũng như góp thêm kinh nghiệm với những vị đương theo dõi Tử vi, đương thích Tử vi.
Với những bạn đọc chưa biết Tử vi, xin cứ đọc những câu chuyện sau đây xuất hiện hàng tuần để tìm những hứng thú và để thích Tử vi. Rồi một thời gian sau, chúng tôi sẽ xin trình bày với quý vị các cách lấy số Tử vi (phép lập thành, phép tính nhẩm và nhanh) cùng với các phép giải đoán (đã được hệ thống hóa)
CỤ HOÀNG HẠC.
Tôi lấy một thí dụ: tôi có coi cho một anh bạn buôn bán làm ăn. Tôi bảo: đúng vì “Tài đa hóa Quỉ” nghĩa là cầu tài mà ứng trên mặt quẻ, toàn là hào tài và tài hào thái vượng, tôi bảo coi chừng tiền vô như vậy…thì sẽ phải trái lại bị họa ương. Anh bạn tôi (hiện là một kỹ sư) không nghe. Anh ấy bảo với tôi rằng: “công việc này là việc làm của kẻ khác, nhưng mình chỉ “hùn” miệng thôi, nếu thành công thì mình ăn chia, còn thất bại thì thôi. Nhưng mà anh ta về bàn với chị vợ. Chị vợ bảo: “Ối, anh dị đoan, tôi xin xâm trên Lăng Ông, ông thầy đoán nói là Đại tài mà. Để đó cho tôi, sắp tiền chia đây.
Vợ chồng ông kỹ sư không tin
Anh chồng thì hơi tin và lo sợ vì tôi miệng ăn mắm ăn muối nói “ẩu” nhưng rồi có khi trúng bất tử, và anh ta đã được nhiều lần chứng kiến việc ấy. Nhưng khi anh ta nghe vợ nói, thì cũng tin: Biết đâu “lạc quẻ”?
Vì thấy số bạc ngon lành quá, dại gì nghi ngờ, cứ tin xăm ở Lãng Ông là phải. Chẳng bao lâu, anh lãnh một số tiền lời, chạy lại cho tôi hay, như cố ý bảo tôi rằng tôi đã coi sai. Hai vợ chồng lấy tiền ấy mua xe hơi, xe kéo cho mướn, khai thác cả số tiền, vì trong bụng cũng ngán là “đồng tiền” ấy nó hóa “quỷ” như lời tôi dã nói. Nhưng một hôm vợ anh chạy hơ hải lại tôi cho hay rằng chồng chị đã bị bắt.
Người vợ ông bạn kỹ sư (nay đương đóng một chức vụ khá lớn) chay hơ hải đến tôi:
- Anh ơi! Nhà tôi bị công an mời, rồi giam luôn. Bây giờ làm sao đây?
- Thì cứ ở tù một thời gian đi. Rồi sẽ được thả, chứ có sao?
Chi ấy la to:
- Anh cứ diễu hoài. Tôi lo gần muốn chết rồi đây.
- Thì biết làm sao? Tôi đã bảo rằng “tài đa hóa quỷ”, vì công việc đã đến mức hoàn thành rồi, trái cây chín muồi thì rụng. Luật “nhân quả” đã kết rồi thì rụng. Ông trời xuống cũng không làm gì được.
- Nói vậy thì nhà tôi phải bị ngồi tù à? Họ cho mời rồi giữ lại điều tra, chứ chưa có giấy tống giam.
- Tôi không biết. Chỉ biết là anh bị “Quỉ” động, nhưng Quỉ là quỉ Câu Trận thì bị lính bắt và bị quản thúc cho nên nói là giữ lại để điều tra, thì cũng là một lối giam chứ gì nữa, nghĩa là mất tự do, dù là tạm.
- Bây giờ làm sao?
- Thì tiền.
- Nghĩa là gì?
- Nghĩa là lấy cái “tài” bị hóa “Quỉ” kia vụt nó ra khỏi nhà thì êm.
Chồng ông kỹ sư trả quả
- Làm sao vụt ra?
- Bây giờ tiền bạc mà hai ông bà đã lãnh về, đã tiêu xài bao nhiêu rồi.
- Chúng tôi lãnh 500.000 đồng.
- Rồi xài hết bao nhiêu?
- Chúng tôi “tậu nhà” và mua một mớ xe kéo cho mướn.
- Vậy hãy bán cái nhà ấy và xe kéo kia và lấy đem nạp cho các ông bắt chồng chị…À quên dặn, đã ăn xài cho bản thân là bao nhiêu trong số tiền ấy.
- Tụi tôi tiệc tùng khai trương nhà mới và ăn xài lối vài vạn bạc thôi.
- Thì cũng chạy vay bợ một số tương đương ấy để “lo” thì mới tiêu tai.
- Trời ơi, tôi bây giờ không còn một đồng trong nhà. Bán cả thảy cũng không không sao đủ, vì bán gấp ai thèm mua giá cao.
- Liệu lấy. Hễ hai ông bà làm sao cho tiêu hết số bạc thì mới hết nạn, bằng không thì chả làm gì cả. Phải chịu nợ rồi, là để trả lại cái “bất lương” và cũng là cái mà số mình không được quyền hưởng. Sở dĩ được hưởng là nhờ thủ đoạn, thì nên trả bằng hai. Nghĩa là chịu khó “ăn gạo lức” một thời gian.
Bà vợ kỹ sư về nhà toan tính lo lót nhưng cũng không xong. Chồng à bị giam mãi…Tức quá bà chạy lại tôi:
- Tôi bán tuốt hết rồi! Sao lại chẳng ra được?
- Nếu chưa ra là vì chưa chả dứt bởi còn trả liền lời nữa.
- Nói thật với anh. Tôi đã cậy trạng sư lãnh ra, nhưng chưa trả tiền vì khất nợ, khi nào nhà tôi ra, chúng tôi sẽ còn trả cho trạng sư nữa.
- Vậy thì đi vay và trả tiền cho trạng sư đi.
- Không! Trạng sư này là bạn thân của nhà tôi.
- Không được, phải đem tiền trả lập tức! Cãi tôi thì ông anh ráng ngồi khám chờ cho bà vợ “thương” đến và hy sinh thêm một chút nữa. Bằng tiếc tiền, cãi tôi, thì xin chị đừng phiền nhé, xin chị đừng đến tôi nữa làm gì. Trước đây chị đã bảo với chồng chị rằng tôi nói ẩu. Thôi chị đi về đi, để nằm nhà chờ ông “trả quả”.
Cách tuần sau, anh kỹ sư của tôi được trả tự do, hai vợ chồng đến cảm ơn tôi.
Tôi bảo:
- Có gì cảm ơn!
………..(bị mất trang)
…anh nhất là Đào Hồng đây lại gặp Kỵ, tôi xin lỗi nói và anh cũng thông cảm cho đừng giận: anh đi tu rồi bỏ đàn bà cho ai? Đây 3 điểm là nghiệp anh nặng lắm”. Thứ nhất, cung phối có Tả Hữu chiếu, nhất là có Hóa Kỵ chánh chiếu, việc vợ chồng đủ mệt cho anh. Huống chi Thân Hồng, Đào ngộ Kỵ…thì là kẻ mê dâm…
Đó là điều khó nhất gần như nan giải.
Điểm thứ hai: Mạng anh là mạng vô chánh diệu thì đầu não bất định mà tâm tư cũng không định hướng. Thứ ba: mạng ngộ “Phục binh, Kiếp sát” cùng “Thiên Di” lại bị Tướng quân ngộ Triệt, thì tôi e anh khó thoát các nạn bị ám sát vì anh đa mưu quá. Anh bị cả hai định mạng đau đớn và khó gỡ, nhất là “gian hùng” dù lắm khi anh muốn chạy trốn nó, nhưng rồi anh cũng bị cái “định mạng bên trong” (destinee interieure) là tâm tính anh nó càng làm cho anh dễ sa vào oan nghiệt càng ngày càng tăng. Anh không nên đi tu một mình mà phải kiếm một hoàn cảnh thanh cao trong sạch, gần các bạn tốt để cùng hưởng một thứ Cộng nghiệp (tức là nghiệp chung) của một tu viện, chứ không nên vào những chỗ tên gọi là tu viện mà thích làm chính trị chứ không phải để tu. Như vậy, may ra có giảm được chút nào cái oan nghiệt của anh chăng?
Nhưng anh nên để ý kỹ rằng tiểu hạn năm Ngọ sắp tới hạn ngộ Trúc la lại Mạng vô chánh diệu Đào Hồng Suy Tuyệt. Đào Hồng của anh gặp Mộ, Tuyệt tức là “nô lệ chi địa”…”e tánh mạng nan toàn”…Anh bạn tôi buồn thiu. Ngồi một hồi đứng dậy ra về, nói:
- Tôi đi tu!
Định mạng
Việc đã qua, cách mấy năm thì bỗng một hôm người trong thân của anh đến cho tôi hay: anh ấy ra ngoài Trung và vào một ngôi chùa tu nhưng mới vừa nghe tin bị đạn lạc chết.
Các anh em trong xóm nghe tôi nói xong, hỏi:
- Ai vậy?
- Bí mật nghề nghiệp. Xin cho tôi không nói ra: “từ giã biệt luận”. Nói xong là anh đi tu, nhưng anh không mặc áo cà sao, anh chỉ quyết tâm sửa “số” thôi, chị vợ của anh đâu có cho anh cạo đầu. Thoe anh là một nhà trí thức đã từng phú quí hết sức vì mạng anh là “phú quí khả kỳ” nhưng anh có gan bỏ tất cả phú quý ấy (anh có một biệt thự, có một chiếc xe hơi Hòa Kỳ lộng lẫy, nhất là có một cô vợ nhỏ “đẹp người” nữa, nhưng nếu anh bị tù tội còn đỡ, vì chỉ có 3 cái thứ họa, một là “đau nặng”, hai là bị “ở tù”, 3 là “chết”.
Người ta “sức mấy” mà chống lại với số mạng một khi cái Nghiệp mình nó nặng như thế? Các bạn nghe lời kể chuyện bèn người nào người nấy không ăn nói gì với ai nữa và dường như mỗi người đeo đuổi theo một ý tướng gì…mông lung.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Miếu địa ở: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân ( thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn và uy nghi).
Vượng địa: Thìn, Tuất (Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong).
Đắc địa: Sửu, Mùi (thông minh, thao lược, hay liều lĩnh).
Bình hòa: Hợi, Tý, Mão, Dậu (Kém thông mình, nhân hậu).
Sao tử vi không có vị trí hãm địa.
Sao Tử Vi an tại cung nào thì giáng phúc tại cung đó.
Sao Tử vi an tại Hợi, Tý, Mão, Dậu: Kém rực rỡ, giảm uy lực, nên không cứu giải được tai ương hay họa hại.
Sao Tử Vi gặp thiên tướng, văn xương, văn khúc, thiên khôi, thiên việt, tả phù và hữu bật thì uy quyền hiển hách. Tử Vi gặp những sao này giống như vua gặp được bề tôi trung lương có tài phò tá.
Sao Tử vi gặp sao thiên phủ thì của cải súc tích. Sao thiên phủ được ví như một vị thần coi kho cho nhà vua.
Sao Tử vi gặp sao lộc tồn và sao thiên mã thì tăng thêm quyền lực.
Sao tử vi làm cho sao thất sát thêm rực rỡ, ban quyền hành cho sao thất sát. Tử vi gặp thất sát ví như vua cầm cây kiếm báu.
Tử vi khắc chế được đặc tính hung ác của các sao hỏa tinh và linh tinh.
Sao Tử Vi kị gặp sao tuần, triệt án ngữ và kình dương, đà la, không kiếp, địa kiếp. Sao tử vi gặp những sao này chẳng khác gì vua bị vây hãm, bị quân hung đồ làm hại, nên sẽ thường sinh ra những chuyện chẳng lành.
Cung mệnh có Sao Tử Vi miếu địa vượng địa hay đắc địa tọa thủ thì thân hình đẫy đà và cao, da hồng hào, mặt đầy đặn, có trí thông minh, suốt đời được hưởng phúc, tuổi thọ cũng gia tăng.
Tử vi bình hòa nên thân hình vừa phải, kém thông minh nhưng trọn đời vẫn được cơm no áo ấm, sống lâu.
Từ Vi miếu địa và bình hòa: tính nhân hậu và thẳng thắn, về già lại rất khiêm cung.
Sao Tử vi vượng địa hay đắc địa có nhiều mưu cơ, thủ đoạn, đôi khi giám làm cả những việc bất nghĩa.
Tử Vi gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp nhất là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Vũ Khúc, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả phù, Hữu Bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Long Trì, Phượng Các: Tất có uy quyền hiển hách, phúc thọ song toàn và được hưởng giàu sang trọn đời.
Sao Tử Vi gặp sao Tuần, Triệt nên sớm khắc một trong hai thân, hay khắc anh chị em, lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng, thường đau yếu và có nhiều bệnh tật. Lại phải ly tổ buôn ba dấn thân vào những chốn hiểm nghèo nên hay mắc bệnh tai họa khủng khiếp, đôi khi phải mang tàn tật. Về già mới được an nhàn sung sướng. Có cách này, nếu không sớm lìa bỏ gia đình, bôn tẩu phương xa chắc chắn là yểu tử.
Tử vi gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội họp nhất là Không Kiếp thì suốt đời phải lao tâm khổ tứ, công danh trắc trở hay gặp những chuyện chẳng lành.
Cung mệnh an tại Mão, Dậu có sao Tử vi tọa thủ gặp Tham Lang đồng cung: là người yếm thế, thường nhìn đời bằng con mắt bi quan, đôi khi lại muốn lánh xa khỏi cảnh trần tục để tu dưỡng thân tâm. Có cách này mà còn chen chân vào chốn phồn tạp, dĩ nhiên còn phải lao khổ. Nhưng sớm biết tu hành, tất được yên thân và hưởng phúc.
Đối với nữ: Tử vi thủ tại mệnh gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp là người có đức độ, sống lâu, được hưởng giàu sang trọn đời và rất vượng phu ích tử.
Sao tử vi gặp tuần, triệt án ngữ, nên lúc thiếu thời cô đơn, gian khổ, đôi khi có bệnh tật khó chữa, nếu không xa cách những người thân, tất không thể sống lâu được, lại phải muộn lập gia đình hay lấy kế, lẽ mới tránh được độ buồn thương. Nếu sơm lập gia đình, chắc chắn phải bỏ chồng, khóc chồng, hay sầu não vì con.
Tử Vi gặp nhiều sao mờ ám hội họp: là người hạ tiện, dâm dật, hay ưa chuyện ong bướm đi về, tuy khắc chồng hại con nhưng vẫn được cơm no áo ấm.
Trán có nhiều lằn, mắt lộ tròng trắng bệch là người gian dâm đại ác khắc chồng sát con, tán tài cơ cực.
Bụng teo ngực nẩy cũng là người có tướng nghèo hèn tham lam dâm đãng.
Tiếng nói như lửa reo hừng hực, mắt lộ gân đỏ lan tới con ngươi là tướng người hung ác thô bạo, hình phu sát tử. Môi trên như trùm xuống, môi dưới như đầy ra cũng đều là tướng người khắc sát bần bạc, ngu độn.
Hay đứng dựa cửa liếc dọc ngang, chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy, đang làm công việc, dừng tay châu mày thở ra, hay ca hát nho nhỏ, tự nhún nhẩy một mình, tóc hoe mà thưa lợt gần như lông măng tay, đều là những hình tướng đê tiện dâm đãng.
Miệng dụm như thổi, môi thâm mồm rộng, chơn mày dựng ngược, thấy cười mỉm, mắt nhìn như diều hâu, như cú dữ, đều là tướng hèn hạ, bạc ác.
Đi như chim se sẻ, ăn liếm láp như bò dê, nét mặt xanh đen, lông mày có góc xương lộ, hay tự nói lầm thầm, nói chuyện làm việc quên đầu quên đuôi, hơi khô giọng thổ, đều là các hiện trạng hình tưởng đàn bà âm trầm bạc ác, sâu độc nghiêng ngả, ghen tương như điên dại.
Đôi gò má ửng hồng, mắt như sao chớp, mát bóng như mở, miệng ngậm không kín răng, hạ mao như cỏ khô lưa thưa vàng úa, âm hộ chỉ có da bọc xương nhô lên, chớ không đầy thịt, ngủ say hay nói một mình hoặc kinh hoảng mớ la. Ngồi tựa như đứng, đứng giống như ngồi, mừng vui giận ghét không chừng đổi, hay lắc mình nghiêng đầu, liếc dọc nhìn ngang. Ấy là biểu lộ hình trạng tà dâm bạo ác không tốt.
Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác theo TƯỚNG PHÁP DIỄN CA
Đàn bà khắc sát chồng con
Mặt dày miệng rộng, trán còn lằn ngang
Xoáy tóc trước trán mấy hàng
Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa
Mày cao xương mí lộ ra
Lông mày mọc ngược thấy mà gớm ghê
Lại thêm mặt trẹt một dề
Lông mày dựng đứng phu thê xa lìa
Con ngươi vàng bệt đỏ tươi
Tròng trắng, trắng giã là người sát phu
Mũi mọc cụm lông u xù
Miệng chụm như thổi lao tù chồng con
Tai mỏng lật ngược vòng tròn
Tóc nám như cháy vàng son phai màu
Tuổi trẻ tóc rụng sói đầu
Hình phu khắc tử lệ sầu không vơi ?
Đầu lủi trước, bước đi sau
Ngoảnh đầu ngoái cổ làm màu đong đưa
Đầu to sói tựa gáo dừa
Giả sầu giả bịnh đánh lừa phu quân
Đầu lép trán dẹp lưng chừng
Trán rộng mày rậm cũng đừng vội tin
Bao nhiêu tướng đã lộ hình
Là bao nhiêu tánh dâm tình tà gian
Má hồng, mặt đẹp trái soan
Ngoại gian mê đắm lấy vàng cũng cho
Má lép mặt như đất tro
Tỉnh sâu thâm thẩm ai đo cho vừa
Ánh mắt chiếu rực mây mưa
Nhìn ngang liếc dọc đẩy đưa duyên tình
Mắt mọc nút ruồi xinh xinh
Lại như ướt rượt mày xanh mi dài
Đa tình không gởi cho ai
Trong nhà dù có ra ngoài cũng thêm
Môi xanh như rêu bên thềm
Môi trắng bềnh bệch như têm vôi trầu
Răng chuột tai dơi nhọn đầu
Thân dài cổ ngắn, chớ cầu chính chuyên
Thân gầy như liễu gió nghiêng
Ngực cao mông lép lụy phiền vì yêu
Bao nhiêu cũng chưa là nhiều
Sáng mai không đủ thêm chiều không dư
Rún lòi đầu vú cứng khừ
Cũng phường lãng đãng tà tư khôn lường
Đầu vú trắng bệch điểm sương
Núm sát trùng thịt cũng vương lưới tình
Vừa đi vừa nói một mình
Cười như ngựa ré tiết trinh kể gì
Vung văng như rắn cuốn đi
Ăn như chuột gặm, ngủ thì mớ la
Bao nhiêu hình bóng nêu ra
Đều thuộc dâm đãng biết mà làm sao
Sách xưa chép dễ sai nào
“Tướng tùng tâm diệt” nhớ trao sửa mình
Còn câu “Tướng tự tâm sinh…”
Chữ tâm kia mới chứng minh tỏ tường
Tâm minh chính, chí đường đường
Tướng yểu lại được thọ trường khó chi
Mặc dầu sách cổ đã ghi
Vẫn còn tùy diệt vẫn còn tùy sinh
Hư nên do ở tâm mình
…….. Xin nhớ đinh ninh.
Theo quan niệm dân gian, không nên cắt móng tay vào ban đêm, đặc biệt với trẻ nhỏ còn không nên cắt vào lúc đang ngủ. Việc tưởng chừng như mang tính tâm linh này lại có cách lý giải theo phong thủy ngũ hành.
Theo khoa học, móng tay của con người là chất sừng, có tác dụng bảo vệ phần thịt mềm ở các đầu ngón tay, ngón chân phải tiếp xúc nhiều với các vật. Nó giống như tấm lá chắn, giữ gìn tính ổn định và an toàn cho các chi, tăng cường sự mẫn cảm cho các ngón tay trong khi tiếp xúc. Không những vậy, móng tay lại cần các dây thần kinh đầu ngón tay, có tác dụng điều tiết mạch máu và điều hòa nhiệt độ cơ thể.
Vì thế mà nên cắt móng tay vào ban ngày, khi hệ thần kinh của con người khá mẫn cảm, buổi tối thần kinh mệt mỏi lại tác động đến nơi này thì không nên.
Còn dân gian thì thường truyền nhau, nếu cắt móng tay vào ban đêm sẽ dễ bị nấm móng hoặc bị mất hồn. Nguyên nhân của điều này là những câu chuyện dân gian mang đậm tính chất tâm linh, huyền bí hoặc dựa trên nguyên lý phong thủy âm dương ngũ hành.Về phong thủy, khi đứa trẻ chưa đủ 12 tuổi, tức là chưa hoàn tất một vòng cầm tinh thì chính là hồn xác chưa hoàn thiện. Nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì “điệu hồn” sẽ bay mất, khiến đứa trẻ ốm đau bệnh tật, thậm chí mất mạng. Kị nhất là sau 11 giờ đêm. Sau lan ra áp dụng cả với người trưởng thành.
Về mặt truyền thuyết, bắt nguồn từ câu chuyện một người phụ nữ xinh đẹp nhưng bị chồng mưu sát, trước khi chết người chồng cắt hết những chiếc móng xinh đẹp của nàng. Vì thế, nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì oan hồn người phụ nữ với đôi bàn tay cụt móng sẽ xuất hiện đòi báo thù. Tất nhiên, đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Tại Nhật Bản cho rằng “Cắt móng tay ban đêm thì không tốt”. Người ta cho rằng nếu cắt móng tay vào ban đêm thì sẽ không thể gặp được cha mẹ khi mất. Cũng có lý do cho rằng thời xưa vì không có dụng cụ cắt móng tay nên sử dụng là các loại dao, kéo, các vật dụng có cạnh sắc, nhọn trong điều kiện thiếu sáng nên dễ bị thương. Có nhiều giả thuyết không rõ ràng đưa ra như là “Cắt móng tay buổi tối” => “Cuộc đời ngắn lại”.
Theo Phunutoday/ Khỏe & Đẹp
| ► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Có thể nói, bạn là một người phụ nữ may mắn nếu "sở hữu" một đức lang quân có tuổi giáp sau đây. Các chàng không những chiều vợ, thương con mà còn biến cuộc sống mỗi ngày của bạn đều là màu hồng khiến ai nhìn vào cũng phải ganh tị.
Tuổi Ngọ

Bản tính của loài ngựa là yêu thích tự do, bay nhảy trên đồng cỏ thảo nguyên. Chính vì vậy các chàng trai tuổi này thường rất phóng khoáng, kiêu ngạo và trọng sĩ diện.
Tuy nhiên trong cuộc sống gia đình, các chàng trai tuổi Ngọ lại rất tôn trọng vợ. Họ là điển hình cho mẫu người chiều vợ, thương yêu con cái. Tuy nhiên, để thuần phục được những chú ngựa bất kham, bạn phải có một trái tim chân thành và sự kiên trì.
Tuổi Mão

Những chàng tuổi Mão thường là người rất hiền lành, thông minh và đa tài. Họ rất biết cách chăm sóc cho người khác. Họ thường yêu hết mình và chỉ biết tới người con gái mình yêu. Khi làm chồng, họ thường rất chiều vợ và chăm con.
Đôi khi trước mặt bạn bè, chàng trai tuổi Mão tỏ ra rất gia trưởng. Nhưng khi chỉ có hai người, họ lại sẵn sàng chiều theo mọi yêu cầu của nửa kia. Thậm chí, chàng sẵn sàng nấu cơm, rửa bát nếu vợ mệt.
Tuổi Tỵ

Những chàng trai tuổi Tỵ có vẻ bề ngoài rất nam tính. Họ thường là người có tính cách mạnh mẽ giống như những chú rắn chuông săn mồi, tinh thần trách nhiệm cao.
Chính vì tính cách đó mà mọi người lầm tưởng các chàng trai tuổi Tỵ gia trưởng. Nhưng thực tế không phải vậy, họ rất chiều chuộng và yêu thương vợ con hết mực. Ai may mắn lấy được các chàng trai tuổi Tỵ thì sẽ sung sướng suốt đời.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
| Âm lịch |
Âm lịch do có tháng khởi đầu khác nhau mà được chia thành 4 loại:
Tần kiến Hợi: Nhà Tần (Trung Quốc) lấy tháng Hợi tức tháng 10 theo lịch hiện nay làm tháng khởi đầu 1 năm.
Chu kiến Tý: Nhà Chu (Trung Quốc) lấy tháng Tý tức tháng 11 theo lịch hiện nay làm tháng khởi đầu của 1 năm.
Thương kiến Sửu: Nhà Thương (Trung Quốc) lấy tháng Sửu tức tháng 12 hiện nay làm tháng khởi đầu 1 năm.
Hạ kiến Dần: Nhà Hạ (Trung Quốc) lấy tháng Dần tức tháng 1 theo lịch hiện nay làm tháng khởi đầu 1 năm.
Âm lịch chúng ta đang dùng hiện nay cũng lấy tháng Dần làm tháng khởi đầu 1 năm như lịch của nhà Hạ nên còn gọi là Hạ lịch.
Theo Lịch vạn niên dự đoán nhân sinh phúc họa
![]() |
![]() |
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Cúng Rằm tháng 7 và Lễ Vu Lan |
ở. Vì vậy, trong bố trí bể nước tại sân vườn cần chú ý:
– Căn cứ vào phương hướng nhà ở để xác định vị trí đặt bể nước, sau đó thiết kế kiểu dáng và thể tích bể.

– Không nên đặt bể nước ở phía sau nhà để tránh ngược thế “dựa lưng vào núi quay mặt ra sông”, nếu muốn đặt bể nước cả trước và sau nhà, thì nên làm bể cạn nằm trên mặt đất.
– Khoảng cách giữa nhà ở với bể nước phải xa nhau, nếu không, khi trời nắng, ánh mặt trời phản quang qua mặt nước sẽ chiếu trực tiếp vào trần nhà, khiến ta cảm thấy nhức đầu hoa mắt. Nếu không còn cách nào khác thì phải dùng nắp đậy hoặc thả hoa sen, hoa súng và các loại rong, cây trang trí mặt bể, vừa đẹp vừa giảm được ánh sáng chiếu vào bể nước.
Có thể thiết kế hình dáng của bể nước như sau:
– Thiết kế bể nước theo hình tròn, 4 mặt nước nông và hơi nghiêng nghiêng ôm về phía trong nhà ở (phương tròn hướng về phía trước). Theo phong thuỷ thì thiết kế như vậy sẽ có thể “tàng phong tụ khí” làm tăng cảm giác thanh tân và dễ chịu đối với không gian nhà ở.
– Thiết kế bể nước theo hình bán nguyệt, với ý nghĩa “trăng khuyết rồi trăng lại tròn” để cầu mong sự tăng tiến mọi mặt của chủ nhà.
– Không nên thiết kế bể nước hình vuông, hình chữ nhật, hình thang, vì những kiểu dáng này dễ tạo nên nước sâu không thấy đáy, gây nguy hiểm cho người đứng cạnh bể, đặc biệt là trẻ nhỏ khi chơi trong sân vườn.
– Thiết kế hình dáng bể nước có góc nhọn, hướng thẳng vào mặt tiền nhà cũng không phải là lựa chọn đúng vì mặt nước phản quang, tia mặt trời sẽ hắt vào trong nhà, theo phong thủy học thì sẽ tạo nên ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe gia chủ.
Phong thuỷ học cho rằng, trong khu vườn không lớn mà đào một cái ao hay hồ thì không những làm cho đất đai ẩm ướt mà còn làm cho độ ẩm của không khí tăng cao và rất dễ gây bệnh.
Những ngôi nhà thông thường có diện tích khoảng 100m2 thì thường chỉ nên có khu vườn rộng từ 3 – 4m. Nếu đào thêm một cái ao thì sẽ tạo thành “thuỷ lao” (nhà tù dưới nước), không đem lại may mắn. Bởi vậy một cái ao như thế nhất định phải lấp đi, nếu cần phải xây ao thì ao chỉ được rộng 1 m2 và phải xây bằng xi măng. Đồng thời cũng phải chú ý giữ cho nước luôn luôn sạch sẽ, ngoài ra còn phải chú ý một vài điểm sau:
– Cần đặt một vòi nước chuyên dụng ở bên ao để
thuận tiện cho việc thay nước.
– Cần phải đặt một công thoát nước ở đáy hồ để nước không thể chảy dần ra.
– Thiết bị thoát nước tự động và công thoát nước ở đáy ao phải đảm bảo chất lượng thoát nước tốt.
Vòi phun nước ở giữa ao hồ hay thác nước nhân tạo đều được gọi là “hoạt thuỷ” (nước sống), có tác dụng làm bầu không khí trong nhà sinh động, tránh được luồng không khí bị đè nén lại và có thể xoá bỏ sự ảnh hưởng của con đường cong đối diện với ngôi nhà. Nếu có thể lắp thêm một chiếc đèn ở trên vòi phun nước thì hiệu quả sẽ lớn hơn.
Đồng thời khi xây dựng hệ thông nước trong vườn cần chú ý dòng nước phải uốn khúc chảy nhẹ nhàng về phía nhà ở chứ không chảy ngược, để tránh không khí, tài lộc chảy hết ra ngoài.
Nếu khu vườn nhà bạn tương đối rộng thì bạn có thể mua một vài hòn đá Thạch Hồ về để xây ngọn giả sơn, làm tăng khí thế cho khu vườn. Tuy không thể đứng cao để nhìn nhưng cũng có thể kích thích tình cảm và cũng có thể nhờ vào đó để trông giữ nhà cửa.
Nhưng không thể tuỳ tiện xây ngọn giả sơn, vì ngọn giả sơn có vai trò làm tăng khí thế của khu vườn, nếu xây ở vị trí hợp lí sẽ tăng thêm sự may mắn cho ngôi nhà. Bởi vậy khi xây ngọn giả sơn trước hết cần phải biết xây ở vị trí nào cho may mắn.
– Nên xây ngọn giả sơn ở hướng Tây, Tây Bắc. Hướng Tây thuộc cung Đoài trong bát quái, thuộc mệnh Kim. Núi chính là Thổ, Thổ có thể sinh Kim có nghĩa là vàng bạc đầy nhà, tài lộc bất tận. Người xưa nói núi vàng núi bạc đều là chỉ núi ở phía Tây.
– Nên xây ngọn giả sơn ở hướng Đông Bắc, thuộc cung Cấn trong bát quái, cấn là núi, là vị trí vôn có của núi, gọi là “đắc vị”, con người được ông trời giúp đỡ, mọi việc đều thuận lợi, không có gì là không may mắn. Bởi vậy nếu xây ngọn giả sơn tại cung cấn là tốt nhất, có nghĩa là “lên cao để thưởng nguyệt và ngắm mây xanh”.
– Không nên xây ngọn giả sơn ở hướng Đông thuộc cung Chấn trong bát quái. Chấn chính là sấm chớp gây chấn động sẽ làm ảnh hưởng đến độ cố định của núi, nếu bị chấn động sẽ rất dễ bị sụt lở và mất đi tư thế.
– Không nên xây ngọn giả sơn ở hướng Đông Nam thuộc cung Tốn trong bát quái. Tốn có nghĩa là gió, hay lung lay. Xây ngọn giả sơn tại vị trí này sẽ rủi ro, gặp nhiều mất mát và bất lợi trong quan hệ giữa người với người và trong làm ăn buôn bán.
– Không nên xây ngọn giả sơn ở hướng Nam. Xây ngọn giả sơn tại vị trí này cũng không may mắn, có nghĩa là tài trí sẽ bị mai một, không có cách nào để phát huy.
Không nên xây ngọn giả sơn ở hướng Tây Nam, vì không may mắn.
Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
Tính: Âm
Hành: Thủy
Loại: Phúc Tinh, Phú Tinh
Đặc Tính: Điền trạch, tiền bạc, đôi mắt, mẹ, vợ
Tên gọi tắt thường gặp: Nguyệt
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 2 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Miếu địa: Cung Dậu, Tuất, Hợi.
Vượng địa: Cung Thân, Tý.
Đắc địa: Cung Sửu, Mùi.
Hãm địa: Cung Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo:
Cung Mệnh có sao Thái Âm miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình to lớn, cao, da trắng, mặt tròn, mắt sáng. Còn Thái Âm hãm địa thì thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài, mắt kém.
Tính Tình:
Thái Âm ở các cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người thông minh, hòa nhã, từ tâm, thích văn chương, mỹ thuật.
Thái Âm ở cung hãm địa là người có tính ương ngạnh, từ thiện, không tham danh lợi.
Công Danh Tài Lộc
Thái Âm là phú tinh nên có nhiều ý nghĩa tài lộc nhất. Nếu đắc địa, vượng địa và miếu địa, và tùy sự hội chiếu với Thái Dương và cát tinh khác, người có Thái Âm sáng sẽ có:
Dồi dào tiền bạc, điền sản.
Có khoa bảng cao, hay ít ra rất lịch lãm, biết nhiều.
Có danh tiếng, quý hiển.
Thái Âm đóng ở cung Tài, hay Điền thì tốt nhất. Thái Âm sáng mà bị Tuần Triệt coi như bị hãm địa, trừ phi ở Sửu Mùi thì tốt.
Nếu hãm địa, thì:
Công danh, trắc trở, không quý hiển được.
Lập nghiệp phương xa, bôn ba.
Khoa bảng dở dang.
Bất đắc chí.
Khó kiếm tiền, nghèo khổ, vất vả.
Các trường hợp này cũng xảy ra nếu Thái Âm miếu, vượng hay đắc địa mà gặp nhiều sao mờ ám, nhất là sát tinh Riêu, Đà, Kỵ, Hình.
Nếu Nguyệt hãm địa ở cung Âm thì cũng hưởng được lợi ích của luật âm tương hợp: Tuy không quý hiển nhưng cũng đủ ăn và ít phiền muộn. Nếu được nhiều cát tinh hội chiếu, thì sẽ được quý hiển, có danh vọng, tài lộc.
Cũng như đối với Thái Dương, Thái Âm ở Sửu Mùi gặp Tuần Triệt án ngữ, thêm Hóa Kỵ càng hay, sẽ được vừa phú, vừa quý như được miếu địa. Tại hai cung này, Thái Âm còn sáng hơn cả Thái Dương đồng cung, vì tọa thủ nơi cung Âm hợp vị. Danh tài càng về già càng hiển đạt vì Thái Âm sáng ăn về hậu vận.
Phúc Thọ Tai Họa
Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thái Âm hãm địa hoặc Thái Âm gặp các sao như Kình, Đà, Không, Kiếp, Riêu, Hình, Kỵ bị tật về mắt hay chân tay, đau bụng, gặp tai họa khủng khiếp, yểu tử, hoặc phải bỏ làng tha hương lập nghiệp mới sống lâu được. Riêng phái nữ còn chịu thêm bất hạnh về gia đạo như muộn gia đình, lấy kế, lấy lẽ, cô đơn, khắc chồng, xa cha mẹ.
Thái Âm và Thái Dương.
Thái Âm sáng gặp Lộc Tồn: Rất giàu có, triệu phú. Trong trường hợp này, Thái Âm có giá trị như sao Vũ Khúc sáng sủa, chủ về tài lộc.
Thái Âm đắc địa gặp Hóa Kỵ: Càng rực rỡ thêm.
Thái Âm sáng gặp Tam Hóa: Rất tốt đẹp, vừa giàu, vừa sang, vừa có khoa bảng.
Thái Âm sáng gặp Xương Khúc: Rất thông minh, lịch duyệt, từng trải, lịch lãm, tài hoa.
Thái Âm sáng gặp Tứ Linh (Long, Phượng, Hổ, Cái): Hiển hách.
Thái Âm, Thiên Đồng gặp Kình ở Ngọ: Rất có nhiều uy quyền.
Thái Âm sáng gặp Đào, Hồng: Rất phương phi, đẹp đẽ, được người khác phải mến chuộng tôn thờ. Đây là bộ sao của minh tinh, tài tử nổi danh. Tuy nhiên, bộ sao này có thể có nhiều bất lợi về tình duyên, có thể đưa đến sự sa ngã, trụy lạc, lăng loàn.
Thái Âm hãm gặp tam ám (Riêu, Đà, Kỵ): Bất hiển, bị tật mắt, lao khổ, nghèo, họa vô đơn chí, hao tài, bị tai họa liên tiếp, ly tán, bệnh hoạn triền miên. Phụ nữ có thể hiếm con.
Thái Âm hãm gặp sát tinh: Lang thang nay đây mai đó, lao khổ.
Thái Âm hãm gặp Tam Không: Phú quý nhưng không bền.
Thái Âm Thiên Đồng ở Tý gặp Hổ Khốc Riêu Tang: Người nữ có sắc đẹp nhưng bạc mệnh, đa truân, suốt đời phải khóc chồng, góa bụa.
Ngoài những bộ sao tốt xấu nói trên, cung Mệnh có Nhật sáng sủa tọa thủ rất tốt, nhưng còn kém hơn cung Mệnh được Nhật sáng sủa hội chiếu với Nguyệt. Nếu giáp Nhật, Nguyệt sáng cũng phú hay quý.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phụ Mẫu
Thái Dương, Thái Âm đều sáng sủa: Cha mẹ sống thọ.
Thái Dương, Thái Âm gặp Tuần Triệt: Cha mẹ mất sớm, có sự chắp nối, hoặc mình không ở gần.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung: Cha mẹ khá giả, nhưng hay bất hòa, khắc khẩu, không được ở gần một trong hai người.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phúc Đức
Thái Âm ở cung Dậu, Tuất, Hợi: Được hưởng phúc trọn đời, sung sướng và sống lâu. Trong họ có nhiều người quý hiển và giàu sang.
Thái Âm ở cung Mão, Thìn, Tỵ: Phúc đức rất kém, tuổi thọ bị giảm, mồ côi, hoặc phải ở nhờ nơi người thân, cha mẹ xa cách, chắp nối, lại hay đau bệnh, nghèo nàn, có nhiều sự khổ tâm, làm ăn chật vật, túng thiếu. Số phải ly hương. Trong gia tộc có người cô đơn, nghèo, làm nghề cực nhọc, tha phương cầu thực, duyên nợ vất vả, hay đau yếu, có tật nguyền, hoặc hay gặp tai nạn. Người nữ, con gái vất vả về chồng con.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung: Được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng danh giá. Nên lập nghiệp ở xa quê hương bản quán.
Nhật Nguyệt đồng cung: Được hưởng phúc, nhưng phải ly hương, vất vả một thời gian mới yên ổn. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán.
Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung tại Dần: Phúc đức không được tốt, chịu cảnh mồ côi, hoặc phải ở nhờ nơi người thân, hoặc lúc bé đã phải xa nhà, ly hương. Trong gia tộc, người nữ, con gái hay trắc trở về chồng con, hoặc có người cô độc, tật nguyền.
Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung tại Thân: Được hưởng phúc, sống lâu. Trong gia tộc có người làm nên sự nghiệp. Người nữ cuộc đời luôn luôn khá giả hơn người nam.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Điền Trạch
Nguyệt sáng: Điền sản rất nhiều.
Nguyệt hãm: Ít của, không có của.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Quan Lộc
Thái Âm đơn thủ tại Dậu, Hợi: Công danh danh hiển đạt.
Thái Âm đơn thủ tại Tuất: Có tài, công danh hiển đạt nhưng thường bị nhiều người ghen ghét hay bị bó buộc vào nhưng công việc không hợp với chí hướng.
Thái Âm tại Mão: Công danh muộn màng, có tài ăn nói, văn chương lỗi lạc.
Thái Âm đơn thủ tại Thìn, Tỵ: Gặp nhiều trở ngại trên đường công danh, có tài nhưng không gặp thời, công danh lận đận. Lúc thiếu thời vất vả, đến khi nhiều tuổi thì mới xứng ý toại lòng. tuy vậy, vẫn được nhiều người kính trọng có đức độ và có tài văn chương.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung tại Tý: Công danh hiển hách, có nhiều tài năng khéo léo, nghề tinh xảo, đặc biệt, thông minh, mưu trí. Là số tay trắng làm giàu, càng lớn tuổi thì càng khá giả.
Thái Âm đồng cung với Thiên Đồng tại Ngọ: Chuyên về kỹ nghệ hay doanh thương.
Thái Âm, Thái Dương đồng cung tại Sửu, Mùi: Công danh bất hiển vì Âm Dương hổn hợp. Nhưng nếu có Tuần, Triệt thì lại tốt.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Nô Bộc
Nhật Nguyệt đắc địa: Tôi tớ lạm quyền, có học trò giỏi, người phò tá đắc lực.
Nguyệt hãm địa: Tôi tớ ra vào luôn, không ở lâu bền.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Thiên Di
Nhật, Nguyệt sáng gặp Tam Hóa: Được nhiều người quý trọng tôn phục, giúp đỡ, hậu thuẫn.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tật Ách
Nguyệt hãm gặp sát tinh: Gặp nhiều bệnh hoạn triền miên ở mắt, thần kinh, khí huyết, kinh nguyệt.
Nguyệt, Trì, Sát: Hay đau bụng.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tài Bạch
Nguyệt sáng gặp Sinh, Vượng: Rất giàu có, kiếm tiền rất dễ dàng và phong phú.
Nguyệt sáng gặp Vũ chiếu: Giàu có lớn.
Nguyệt Tuất, Nhật Thìn: Đại phú.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tử Tức
Nguyệt Thai Hỏa: Có con cầu tự mới nuôi được.
Nhật Nguyệt Thai: Có con sinh đôi.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phu Thê
Nguyệt, Nhật miếu, vượng địa: Sớm có gia đình.
Nguyệt Xương Khúc: Vợ đẹp, có học (giai nhân).
Nguyệt, Quyền ở Thân: Sợ vợ.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Huynh Đệ
Nhật Nguyệt giáp Thai: Có anh chị em song sinh.
Thái Âm Khi Vào Các Hạn
Nguyệt sáng: Tài lộc dồi dào, có mua nhà, đất, ruộng vườn, gặp việc hên, sanh con.
Nguyệt mờ: Hao tài, đau yếu (mắt, bụng, thần kinh) bị kiện vì tài sản, bị lương tâm cắn rứt, sức khỏe của mẹ, vợ bị kém.
Nếu thêm Đà Tuế, Hổ: Nhất định mất mẹ.
Nguyệt Đà Kỵ: Đau mắt nặng, mất của.
Nguyệt Hỏa Linh: Đau yếu, kiện cáo.
Nguyệt Hình: Mắt bị thương tích, phải mổ.
Nguyệt Cự: Đàn bà sinh đẻ khó, đau đẻ lâu.
![]() |
| ► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn niên để đón lành tránh dữ |
n ngập niềm vui và hạnh phúc.

Đặc biệt, chọn màu sắc phù hợp với phương của hướng cửa sẽ mang lại nhiều lợi ích và cát lành cho ngôi nhà thân thương của bạn. Sau đây là những màu sắc phù hợp với hướng cửa:
– Cửa sổ hướng chính Đông, Đông Nam: Màu vàng.
– Cửa sổ hướng chính Nam: Màu trắng, bạc.
– Cửa sổ hướng Tây Nam, Đông Bắc: Màu đen, xanh lam.
– Cửa sổ hướng chính Tây, Tây Bắc: Màu xanh lục, xanh da trờiệ
– Cửa sổ hướng chính Bắc: Màu đỏ, hồng.
Màu sắc của cổng nhà tốt nhất phải phù hợp với màu sắc ngũ hành của chủ nhà, như vậy cổng nhà sẽ hoàn mỹ hơn.
– Chủ nhà mệnh Kim, cổng sơn màu: trắng, vàng, bạc, nâu.
– Chủ nhà mệnh Mộc, cổng sơn màu: xanh, xanh lục, đen, xanh lam.
– Chủ nhà mệnh Thuỷ, cổng sơn màu: đen, xanh lam, trắng, vàng kim, bạc.
– Chủ nhà mệnh Hoả, cổng sơn màu: đỏ, vàng cam, tím, xanh, xanh lục.
– Chủ nhà mệnh Thổ, cổng sơn màu: vàng, nâu, đỏ, vàng cam, tím.
Ngoài ra, cần phải kết hợp với phương hướng của bát quái để tìm ra điểm tương sinh. Dưới đây là màu sắc may mắn của 8 hướng cổng
– Cổng hướng Đông (cung Chấn)ế Hướng Đông thuộc mệnh Mộc. Thuỷ có tác dụng tương sinh còn Mộc có tác dụng hỗ trợ.
Màu của cổng:
Chủ nhà mênh Môc nên chon màu xanh, xanh lục
Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, xanh lam
– Cổng hướng Đông Nam (cung Tốn)ẻ Hướng Đông Nam cũng thuộc mệnh Mộc. Thuỷ có tác dụng tương sinh còn Mộc có tác dụng hỗ trợ.
Màu sắc của cổng:
Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh, xanh lục
Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, xanh lam
– Cổng hướng Nam (cung Ly). Hướng Nam thuộc mệnh Hoả. Mộc có tác dụng tương sinh còn Hoả có tác dụng tương trợ.
Màu của cổng:
– Chủ nhà mệnh Mộc nên chọn màu xanh, xanh lục
– Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn màu đỏ, tím, vàng, cam.
– Cổng hướng Tây Nam (cung Khôn). Hướng Tây Nam thuộc mệnh Thổ. Hoả có tác dụng tương sinh còn Thổ có tác dụng tương trợ.
Màu sắc của cổng:
Chủ nhà mệnh Hoả nên chọn màu đỏ, tím, vàng cam
Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, màu cà phê
– Cổng hướng Tây (cung Đoài). Hướng Tây thuộc mệnh Kim. Thố có tác dụng tương sinh còn Kim có tác dụng tương trợ.
Màu sắc của cổng:
Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, màu cà phê.
Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, màu trắng
– Cổng hướng Tây Bắc (cung Càn). Hướng Tây Bắc thuộc mệnh Kim. Thổ có tác dụng tương sinh còn Kim có tác dụng tương trợ.
Màu sắc của cổng:
Chủ nhà mệnh Thố nên chọn màu vàng, cà phê
Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, trắng
– Cổng phía Bắc (cung Khảm). Phía Bắc thuộc mệnh Thuỷ. Kim có tác dụng tương sinh còn Thuỷ có tác dụng tương trợ.
Màu của cổng:
Chủ nhà mệnh Kim nên chọn màu vàng kim, màu trắng.
Chủ nhà mệnh Thuỷ nên chọn màu đen, màu xanh lam
– Cổng hướng Đông Bắc (cung Cấn). Hướng Đông Bắc thuộc mệnh Thổ. Hoả có tác dụng tương sinh còn Thổ có tác dụng tương trợ
Màu của cổng:
Chủ nhà mệnh Hoả thì nên chọn màu đỏ, tím, vàng cam.
Chủ nhà mệnh Thổ nên chọn màu vàng, cà phêẻ
Bên cạnh đó, không nên dùng các màu sắc sau cho 8 hướng của cổng (cửa):
– Cổng hướng Đông không nên có màu: vàng kim, trắng, đỏ tím, vàng cam.
– Cổng hướng Đông Nam không nên có màu vàng kim, trắng, đỏ, tím, vàng cam.
– Cổng hướng Nam không nên có màu đen, xanh lam, vàng, màu đất, màu cà phê.
– Cổng hướng Tây Nam không nên có màu xanh, xanh lục, vàng kim hay màu trắng.
– Cổng hướng Tây không nên có màu đỏ, tím, vàng cam, đen hay xanh lam.
– Cổng hướng Tây Bắc không nên có màu đỏ, tím, vàng cam, đen, xanh lam.
– Cổng phía Bắc không nên có màu xanh, xanh lục, vàng, màu đất, màu cà phê.
– Cổng hướng Đông Bắc không nên có màu xanh, xanh lục, vàng kim, trắng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Quán quân: Cô nàng tuổi Mão
![]() |
Người tuổi Mão có địa chi là cây liễu vừa thanh thoát, xinh xắn lại dịu dàng, khéo léo. Phần lớn các cô gái cầm tinh con mèo đều sở hữu những tài lẻ xuất chúng, cộng thêm tính hài hước thiên bẩm, đi tới đâu nàng tuổi Mão cũng hút sự chú ý .
Á quân: Cô nàng tuổi Dậu
![]() |
Địa chi gắn với những cô nàng tuổi Dậu là ngọc ngà châu báu, do đó, hầu hết các nàng ấy đều sở hữu khuôn mặt rạng rỡ, làn da trắng hồng tinh khiết. Họ còn sở hữu tâm hồn lãng mạn vô đối và không ngừng nỗ lực để hoàn thiện bản thân về mọi mặt. Nhan sắc của cô gái tuổi Dậu cũng thuộc hàng “nghiêng nước nghiêng thành” đó nha!.
No3: Cô nàng tuổi Ngọ
![]() |
Những cô nàng tuổi Ngọ nhiệt tình, hào phóng và tràn đầy năng lượng vốn thuộc địa chi Đinh Hỏa (ngọn lửa sáng rực rỡ) và nhan sắc có phần “nhỉnh” hơn người khác. Với nhiệt huyết tuổi trẻ lúc nào cũng như ngọn lửa đang bùng cháy, dù tới bất cứ nơi đâu, các nàng tuổi Dậu sẽ nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý.
No4: Cô nàng tuổi Tý
![]() |
Các nàng tuổi Tý có địa chi là những giọt sương long lanh, tinh khiết. Phần lớn dung nhan của họ đều nổi trội và là niềm mơ ước của bao người. Vốn là cô nàng thích theo đuổi hình tượng hoàn mỹ, họ biết cách ăn vận hợp lý làm tôn lên vẻ đẹp thiên phú của mình khiến ai nấy đều không ngớt lời khen ngợi.
No5: Cô nàng tuổi Tỵ
![]() |
Hầu hết con gái tuổi Tỵ đều sở hữu gương mặt nhỏ nhắn và ánh lên sắc hồng hào thu hút mọi ánh nhìn của người đối diện. Họ có địa chi là ánh rực rỡ của phượng hoàng lửa, nên dung mạo khá nổi trội. Hơn thế, cá tính mạnh mẽ, sôi nổi và nhiệt tình giúp đỡ người khác mang lại cho cô nàng này không ít may mắn và thuận lợi trong cuộc sống.
Mr.Bull (theo TX)
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
| ► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
| Phụ nữ mắt xếch là tướng đa dâm |
![]() |
| Mắt lệch là người có tâm địa bất chính |