Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Lễ Hội Quan Lạn được tổ chức vào ngày 10 tới ngày 20 tháng 6 âm lịch tại Bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Lễ Hội Quan Lạn

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tới ngày 20 tháng 6 âm lịch (chính hội vào ngày 18 tháng 6).

Địa điểm: Bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Khánh Dư (tức Nhân Huệ Vương) là võ tướng nhà Trần.

Nội dung: gày 10 tháng 6: khoá làng (một tục làm trong lễ hội của người Việt), dân trong làng không được đi bất cứ đâu nhưng những người làm ăn ở xa và khách thập phương lại có thể về làng dự hội. Lễ hội Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị thuyền đua. Thuyền đua thường là thuyền đi biển trọng tải 5 đến 6 tấn, rộng và sâu lòng, được hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền.

Ngày 16 làm lễ nghinh thần. Dâng lễ rước bài vị của Trần Khánh Dư từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dưới bến, đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tưng bừng náo nhiệt.

Ngày 18 tháng 6 vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thường lúc này nước triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên văn áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh, lính bên võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình, quân lính cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tướng múa những đường đao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tượng trưng cho ba lần đánh thắng quân Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập hợp trước miếu, hai vị tướng vào tế, khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu.

Lễ hội Quan Lạn diễn ra từ ngày 10 – 20/6 âm lịch, tại bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh mang dấu ấn của một hội làng truyền thống nhưng rất hoành tráng thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nước của những người dân vùng biển.

Đây là dịp người dân huyện đảo Vân Đồn và du khách thập phương tụ hội về ôn lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha ta đã bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, đồng thời cũng là ngày hội cầu ngư của cư dân vùng biển. Và với người dân xã đảo Quan Lạn, đây còn là ngày hội làng để bà con, anh em lâu ngày xa quê có dịp gặp mặt nhau tại quê hương.Nét mới của lễ hội năm nay được người xem thích thú đó là chương trình biểu diễn múa lân của đoàn lân Từ Long Đường đến từ TP Hạ Long. Cùng với đó là các chương trình như giao lưu văn hoá văn nghệ, hoạt động thể thao và trò chơi dân gian… Điểm nhấn quan trọng được người dân và du khách chờ đón nhiều nhất tại lễ hội đó là phần thi bơi chèo truyền thống diễn ra giữa 2 giáp Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ tại Bến Đình.

Trong tiếng reo hò náo nhiệt, tưng bừng khí thế, lễ hội Vân Đồn thực sự mang dấu ấn của một hội làng truyền thống thể hiện tinh thần thượng võ, chống giặc ngoại xâm của dân tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Tướng phụ nữ cao quý |

Tướng người cao quý đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây: - Mục quang sáng sủa, chính đín
Tướng phụ nữ cao quý |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ cao quý |

Chu dịch và Kinh dịch

Chu dịch và Kinh dịch hay nói đúng hơn là Chu dịch và Bói Dịch không hòan tòan giống nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng

Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.

Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào .Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung :                              Dịch nghĩa :
Thả thủ quân tử phận.             Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.         Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn          Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên          Làm lành vậy mới yên

Quẻ sáu hào . Ví dụ : Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa : Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đóan : Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.


Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ

Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch : Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng : Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ :
- Sơ lục : Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch : Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị : Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam : Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ : Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch : Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ : Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch : Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu : Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch : Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.

Hai lọai dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.

1/ Thư yết Âm Dương- Ngũ Hành :
a- Sự hình thành Âm Dương :
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.



Cực Nam

 

Cực Bắc

Hình lưỡng nghi

Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng:. Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “ cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.

Ví dụ : không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm –Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm

Hình tứ tượng

Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”

b- Ngũ Hành :
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.

Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.

3/ Thuyết Thiên Địa Nhân : Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên : Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí : Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa : Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái

2/ Hà Đồ – Lạc Thư :
Hà Đồ- Lạc Thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ-Lạc Thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà Đồ - Lạc Thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng .
a- Hà Đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau : 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.

Hình Hà đồ


b-Lạc Thư : Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5




Hình Lạc Thư

Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái :
1/ Thiên Bát quái : ( biểu đồ tiết khí)



Bốn Mùa

 

Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương , cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.


 

Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ : Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân ; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí :
- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6

Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như : thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau :
- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.

2/ Địa bát quái : ( biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo

 


Ví dụ : Địa bát quái                                                         Hậu Thiên bát quái

 

Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy

So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy

Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :

- Cấn : Tiết lập xuân,
- Chấn : Tiết xuân phân
- Tốn : Tiết lập hạ
- Ly : tiết hạ chí
- Khôn : tiết lập thu.
- Đòai : tiết thu phân
- Kiền : tiết lập đông
- Khảm : tiết đông chí

Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết : “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn.”
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên : “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông . Gọn gàng ở Tốn , Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ . Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.


Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau :
- Đế xuất hồ Chấn : là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.

Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau :
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.

Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....

Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.

Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu ?

Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.

Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :


Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.

Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.

Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren ( Tọai Nhân), sau đó họ You Chao ( Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa ( Nữ oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “ cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” ( chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi ; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày” , mở chợ lập làng , tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.

Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào , tổ tiên của người Hàn quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví : bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng .

Ở Trung hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.

“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường xử dụng.

Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương ngũ hành , Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói : “ Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.

Để giải thích, Chu Hy viết : “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”

Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiế
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu dịch và Kinh dịch

Đá Ruby mang lại may mắn cho người mệnh nào? –

Đá Ruby là một 4 loại đá quý hiếm theo tiêu chuẩn quốc tế. Là loại đá có công năng tuyệt vời. Đá Ruby được rất nhiều người lựa chọn làm đồ trang sức, nhưng có lẽ nhiều người không biết đeo đá ruby có ý nghĩa phong thủy gì? và đá ruby mang lại may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá Ruby là một 4 loại đá quý hiếm theo tiêu chuẩn quốc tế. Là loại đá có công năng tuyệt vời. Đá Ruby được rất nhiều người lựa chọn làm đồ trang sức, nhưng có lẽ nhiều người không biết đeo đá ruby có ý nghĩa phong thủy gì?đá ruby mang lại may mắn cho người mệnh nào? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu nhé!

Nội dung

  • 1 Ruby là gì?
    • 1.1 Tại sao Ruby được ưa chộng
  • 2 Đá Ruby hợp với người mệnh nào?
    • 2.1 Ý nghĩa phong thủy của đá ruby
      • 2.1.1 Đối với Người mệnh Thổ
      • 2.1.2 Đối với người mệnh Thủy
      • 2.1.3 Đối với người mệnh Hỏa
      • 2.1.4 Người mệnh cung Bạch Dương
    • 2.2 Người mệnh Bò Cạp

Ruby là gì?

Ruby (Hồng ngọc) là một trong 4 loại đá quý nhất của thế giới đá, cùng với Kim cương, Sapphire và Emerald (Ngọc lục bảo).

Người mẹ – Đá Corindon sinh được 2 người con, đều rất đẹp đẽ, đó chính là Ruby và Sapphire. 2 loại ngọc này thực ra là 1, chỉ khác nhau về màu sắc. Corindon có màu thuộc sắc đỏ gọi là Ruby, các màu còn lại gọi là Sapphire.

Có thể bạn không tin, nhưng Ruby thực chất chính là … nhôm oxit Al2O3, nghe tầm thường dễ sợ. May sao, mấy cục nhôm rỉ này có Crôm chui vào, tạo nên màu đỏ bắt mắt, thế là từ vịt phút chốc hóa thành thiên nga!

Tại sao Ruby được ưa chộng

Ruby được ưa chuộng vì hội đủ những yếu tố làm nên một viên đá quý: Màu sắc đẹp, độ cứng cao, hiếm, bền, hiệu ứng quang học đặc biệt, hơn nữa màu đỏ lại là màu của may mắn, nên có cả ý nghĩa tâm linh.

Đá ruby tượng trưng cho Mặt Trời, quyền lực, tự do, vui vẻ và may mắn, là một trong những loại đá hoàn hảo nhất.

Đá Ruby hợp với người mệnh nào?

Màu đỏ của ruby là màu đặc trưng của lửa và máu, tượng trưng cho tình yêu ấm áp và rực lửa. Vì thế, nó luôn là màu của quyền lực, nóng bỏng và đam mê. Nếu đeo viên đá này gần tim sẽ giúp cho tình yêu của chủ nhân thêm mặn nồng. Ngoài ra nó còn giúp lưu thông máu và giúp ngủ ngon. Người ta tin rằng đá ruby có những tính chất siêu nhiên, có khả năng phòng chống các căn bệnh nặng và tạo cho cơ thể nguồn năng lượng.

Theo nguyên lý ngũ hành, môi trường gồm có 5 yếu tố Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất) và mỗi yếu tố đều có những màu sắc đặc trưng riêng. Kim gồm màu sáng và những sắc ánh kim; Mộc có màu xanh, màu lục; Thủy gồm màu xanh biển sẫm, màu đen; Hỏa có màu đỏ, màu tím; Thổ gồm màu nâu, vàng, cam… Ngũ hành tương sinh, tương khắc cũng là một quy luật. Có những quy định về nhiều mặt của ngũ hành, trong đó phải kể đến màu sắc.

Dùng trang sức bằng đá quý, khi đeo trực tiếp vào người, có nghĩa là trang sức đã tiếp xúc với nhân điện của người đeo, nếu không theo màu sắc ngũ hành cho hợp với Mệnh Cung của người đeo, sẽ đem lại những điều không may mắn cho họ. Ngược lại, nếu đeo trang sức đá quý có màu sắc phù hợp với Mệnh Cung thì sẽ đem lại sức khỏe, may mắn, hưng vượng cho người đeo.

Ý nghĩa phong thủy của đá ruby

Đối với Người mệnh Thổ

Với mệnh Thổ, khi mọi vật bị đốt cháy, sẽ thành tro, bụi, đất, cát, vậy hỏa sẽ sinh ra thổ. Cho nên, người mệnh Thổ hãy dùng những viên đá quý có màu của Hỏa (đỏ, hồng, tím) như Ruby, thạch anh tím. Ruby là đá quý thiên nhiên được nhiều người săn lùng không chỉ bởi sự quý, hiếm mà còn bởi những ý nghĩa tâm linh của nó. Ruby là biểu tượng của may mắn, thành công và hạnh phúc. Vì thế nếu bạn mệnh Thổ thì Ruby là viên đá quý cực kỳ hợp với bạn. Giống như lá bùa hộ mệnh mang bên mình, Ruby bảo vệ bạn khỏi những tai ương, mang những điều tốt lành, may mắn.

Đối với người mệnh Thủy

Còn đối với người mệnh Thủy, Thủy khắc được Hỏa (nước sẽ dập tắt được lửa), tức là người mệnh Thủy dùng được các màu mà họ chế ngự được như màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu tím. Như vậy Ruby đỏ cũng là loại đá hợp với họ.

Đối với người mệnh Hỏa

Với những người mệnh Hỏa, dùng Ruby đỏ là dùng đá có màu tương hợp. Hỏa có màu đỏ là chủ đạo (cũng là màu chủ đạo của đá Ruby). Vì vậy viên đá này sẽ luôn mang đến cho những chủ nhân mệnh Hỏa những điều tốt lành.

Người mệnh cung Bạch Dương

Người mệnh cung Bạch Dương (21/3 -19/4) chịu ảnh hưởng của sao Hoả. Màu thuộc mệnh Hoả là tất cả sắc màu đỏ, hồng, đỏ thẫm và màu nâu sẫm. Vì vậy đá Ruby hay trang sức gắn đá ruby đặc biệt phù hợp với chủ nhân thuộc cung này.

Người mệnh Bò Cạp

Đối với người mệnh Bò Cạp (24/10-22/11) thì sao Hoả bốc lửa luôn rực sáng phía sau vẻ ngoài điềm tĩnh của những người thuộc cung mệnh này, sức mạnh nguyên thuỷ của nó có thể nhận thấy thông qua các màu đỏ (biểu tượng của quyền lực). Hồng đỏ, đỏ thẫm, đỏ tươi, đỏ tía hợp với ngôi sao chiếu mệnh này. Vì thế đá quý phù hợp nhất với họ là ruby, granat,…

Ứng với 12 tháng trong năm, ngọc Ruby là ngọc của tháng 7- biểu tượng cho sự thịnh vượng và may mắn. Theo 12 con giáp, Ruby đại diện cho chủ nhân tuổi Hợi. Theo quan niệm phương Đông, những ai dùng đá quý hay trang sức gắn đá quý hợp với tuổi và tháng sinh của mình sẽ luôn gặp may mắn và hưng vượng. Vì thế Ruby rất thích hợp cho chủ nhân sinh vào tháng 7 và chủ nhân tuổi Hợi. Ruby còn là viên đá kỉ niệm 15 năm và 40 năm ngày cưới.

Xem thêm: Hướng dẫn cách phân biệt Ryby thật giả
Những loại đá quý đắt nhất thế giới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đá Ruby mang lại may mắn cho người mệnh nào? –

Lành dữ tướng đất tướng nhà –

Nếu người nào đó có bộ mặt, tướng tay đều thuộc tướng nghèo, nhưng họ lại không bị tai nạn, vô bệnh tật, tài phú không ngừng. Đó là vì sao? Nói rõ ra không có gì lạ cả, chỉ là vì nhà anh ta lành, cũng có nghĩa là tướng nhà và tướng đất của anh ta đều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu người nào đó có bộ mặt, tướng tay đều thuộc tướng nghèo, nhưng họ lại không bị tai nạn, vô bệnh tật, tài phú không ngừng. Đó là vì sao?

Nói rõ ra không có gì lạ cả, chỉ là vì nhà anh ta lành, cũng có nghĩa là tướng nhà và tướng đất của anh ta đều là tướng lành.

Lành dữ của tướng nhà và tướng đất có ảnh hưỏng rất lớn, một người ở lâu dài trong nhà phúc âm, vận đen đều vượt đươc cả. Ngược lại, một người trước nay gặp việc gì cũng thuận lợi, nếu ở nhà tưóng dữ, vận phúc của anh ta sẽ chuyển sang yếu mỏng.

av

Cho nên tướng nhà và tướng đất có quan hệ đến thịnh suy của vận mệnh một con người.

Người xưa có câu rằng: “Gần đen thì đen, gần đỏ thì đỏ”, đem miếng vải trắng đặt vào chậu thuốc nhuộm đỏ, lập tức miếng vải biến thành vải đỏ. Quan hệ giữa người và nhà ở cũng như vậy, nếu bạn không cẩn thận ở vào hoàn cảnh không tốt, lâu dần chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh mà không tự biết, tóm lại không thể có đất tự bốc, chọn nhà ở không thể không cẩn thận.

Muốn tìm hiểu về dương trạch (tướng nhà) phải hiểu về phương vị hoàn cảnh 4 bên, phương vị 4 bên của ngôi nhà.

4 phưong Đông, Tây, Nam, Bắc, các thầy phong thủy gọi là:

– Phương Đông gọi là: “Rồng xanh” – đại diện cho nước chảy.
– Phương Nam gọi là: “Chu tước” đại diện cho cánh đồng dương khí sung mãn.
– Phương Tây gọi là: “Bạch hổ” đại diện cho hộ vệ giao thông.
– Phưong Bắc gọi là: “Huyền vũ ” đại diện cho sự canh giữ của núi.

Luận về 4 phương lớn Đông, Tây, Nam, Bắc thì:

– Phương Đông phải nước chảy sạch, triệt để.
– Phương Nam cần phải có tầm nhìn rộng.
– Phương Tây phải có đường giao thông.
– Phương Bắc phải có núi bất động. Vì thế hướng Bắc của ngôi nhà, nếu có đỉnh núi, có thể đem lại dinh dưỡng của đại tự nhiên, có thể nuôi dưỡng đại khí xuất hiện.

“Khí lành khó gặp mà dễ tan, khí dữ dễ triệu mà khó tránh”, phong thủy đă cảnh giói như vậy.

Chúng ta cần phải cẩn thận chọn tốt hướng nhà, muốn có nhà lành trước hết phải có tướng đất lành, thích ứng nguyên lý đại khí, bởi vì một hoàn cảnh có tốt, có ảnh hưởng rất lớn đến tính linh, tuổi thọ, trí tuệ của mỗi con ngưòi.

Chọn chỗ tốt ở còn phải xét đến tính an toàn của ngôi nhà, địa thế phụ cận, luồng ánh sáng, luồng khí không khí, tính dễ chịu… của nhà mình.

Hiểu biết tầm quan trọng của nhà ở, cũng phải biết sự quan trọng của mồ mả. Nơi ở là của người sống ở, còn mồ mả là noi an nghỉ của tổ tiên. Thầy phong thủy chỉ ra rằng: Đất đai phần mộ lành mà chỗ ở dữ, cơm cháo của con cháu cũng không đủ, cho thấy rằng chỗ ở là phải cẩn thận nhất.

Giữ được núi xanh ở lại, không sợ không có củi đun, chỉ cần tự mình cố gắng, chọn lựa cẩn thận nơi ở, không có sự hỗ trợ của tiền nhân, cũng có thể làm nên sự nghiệp lớn.

Theo thuyết Ngũ thực ngũ hư:

Nếu có một ngôi nhà xây dựng trên một mảnh đất hình tam giác, thường là không lành, còn gọi là “Nhà quỷ”. Rằng xây dựng trên đất hình tam giác là rất không lành.

Nhà ở liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày, điều kiện thứ nhất cần cho nhà ở là phải được dễ chịu; ở dễ chịu không thể tách rời hoàn cảnh.

Thời cổ đại, các bậc đế vưong xây dựng kinh đô đều phải chọn đất: “Đĩa rồng Hổ cái”, đó không chỉ là phòng thủ chiến tranh, mà còn vì thịnh vượng của vận vua, vì họ hiểu hoàn cảnh địa lý ảnh hưởng trực tiếp đến loài người.
Nếu phối họp hoàn cảnh họp lý, chỗ ở và hoàn cảnh họp lý, cung thất của Hoàng đế đạt “Ngũ thực” thì tất nhiên sẽ ngày càng phú quý.

Nếu phối họp hoàn cảnh không tốt, chỗ ở và hoàn cảnh không hiệp đồng nhất trí vói nhau, cung thất của Hoàng đế đạt “Ngũ hư”. Nhà ngũ hư tất nhiên sẽ ngày càng nghèo đói.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lành dữ tướng đất tướng nhà –

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Yêu cầu phong thủy bài trí bàn sách –

Nhìn tổng thể thì bàn sách nên đặt ở vị trí đủ ánh sáng và có không khí trong lành. Nên đặt bàn sách ở góc nhà để phía trước bàn có được không gian rộng. Theo cách nói phong thuỷ đó là khu sinh khí, nó sẽ làm cho người ta cảm thấy khoan khoái. Đồng t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hời, bàn nên cách xa cửa một chút và cửa phải nằm chếch sang một bên, tránh người khác từ ngoài cửa nhìn thây bàn, tường phía sau bàn phải vừng chắc tạo cảm giác vững chãi cho người ngồi.
Theo phong thuỷ học, khi kê đặt bàn sách cần chú ý những vấn đề sau:

191(1)
(1) Không được đặt bàn ở vị trí thẳng dưới xà nhà, nếu không người ngồi dưới sẽ có cảm giác bị chèn ép, tinh thần khó chịu, bất lợi cho học tập.
(2) Không đặt bàn đối diện cửa sổ, vì như vậy là “vọng không”, không hợp phong thuỷ. Không nói về phong thuỷ mà chí riêng về môi trường, bàn kê đối diện cửa sổ người ngồi đó dễ bị cảnh vật làm phân tán việc học tập. Vì vậy, muôn nâng cao hiệu suất làm việc và học tập, khi bố trí bàn học tránh để bàn đối diện cửa sổ, hãy đặt bàn lệch sang một bên.
(3) Không kê bàn đối diện với bếp và phòng vệ sinh. Bàn không được đặt đối diện vách tường phòng chủ nhà hoặc vách tường phòng vệ sinh, cũng không thể kê bàn tựa vào vách tường phòng vệ sinh hoặc đối diện phòng bếp. Vì nếu như vậy, khí ấm thấp uế tạp có thể bay thẳng đến chỗ người đang ngồi học hoặc làm việc và sẽ ảnh hưởng đến tinh thần, gây trở ngại sức khoẻ cho người đó.

(4) Không được kê bàn học cạnh cửa nhà.
Kê bàn học bên cạnh cửa hoặc quá gần cửa, tiếng ồn bên ngoài hoặc có người ở ngoài nhìn vào sẽ làm phân tâm người đang làm việc.
(5) Bàn học không được kê ở cạnh cửa sể hành lang. Cửa sổ là miệng khí của nhà, nó thu nạp cả sinh khí và khí xâu, đặc biệt là cửa mở mà bên ngoài có hành lang, cửa này thu nạp nhiều khí xấu, ảnh hưởng không tốt đến học tập.
(6) Tránh ngồi quay lưng ra cửa. Người ngồi mà cửa ngay phía sau là không tốt. Cửa là miệng khí, thu nạp sinh khí, đồng thời cũng thu nạp cả tạp khí. Người ngồi sau lưng là cửa, không có chỗ tựa, chênh vênh trống trải sẽ có cảm giác thiếu an toàn, cảm giác sợ có người tập kích phía sau mình. Ngoài ra, luôn ở trạng thái căng thẳng vì không biết gì phía sau lưng, trạng thái này bất lợi cho việc học hành.
Tránh kê bàn mà phía sau có cửa sổ. Kiến trúc mành che bằng kính trong suốt đang là xu thế phổ biến, tuy nhiên, với người làm hoặc thực hiện quyết sách lớn, vị trí ngồi không thể tựa vào mành che được, phong thuỷ đại kỵ ngồi “sau lưng không tựa” kiểu này, tất nhiên là sẽ hại đến sự phát triển sự nghiệp. Phòng sách nhà bạn phải tránh có tình trạng phía sau không có điểm tựa như vậy, phía sau bàn tốt nhất là có vách tường vững chắn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yêu cầu phong thủy bài trí bàn sách –

Sự nghiệp thành công qua phong thủy

Bạn sẽ đạt được thành công dễ dàng và nhanh chóng hơn nếu biết cách sắp xếp và trang trí văn phòng thật hài hòa với những bí quyết phong thủy dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả mọi người đều thích làm việc say mê, hiệu quả dù cho nơi làm việc nằm trong một tòa cao ốc ở trung tâm thành phố hoặc nép mình trong tủ quần áo hành lang của ngôi nhà. Không quan trọng việc bạn yêu công việc mình làm nhiều như thế nào, bạn chắc chắn sẽ đánh giá cao (và hưởng lợi ích) khi có không gian làm việc sở hữu dòng chảy năng lượng năng động và thành công. Phong thủy có thể là điều bạn cần ngay lúc này để biến đổi không gian làm việc thành "thiên đường" như mong muốn.

Vì chúng ta dành rất nhiều thời gian ở văn phòng, điều quan trọng là phải kết hợp những bí quyết phong thủy hài hòa trong cách sắp xếp và trang trí. Dưới đây là một số ý tưởng để hoàn thiện nơi làm việc sao cho thuận phong thủy, nhanh chóng đạt được thành công hơn:

Sự nghiệp thành công qua phong thủy

1. Khi lựa chọn văn phòng, bạn nên chọn một không gian càng xa phòng ngủ càng tốt. Phòng làm việc với một lối đi riêng bên ngoài là lý tưởng nhất, mặc dù nó không phải luôn luôn là một lựa chọn thực tế.

2. Không ngồi ở vị trí tạo thành đường thẳng trực tiếp với cửa. Trường hợp này khiến bạn phải đón nhận sự tấn công của nguồn năng lượng tiêu cực. Thay vào đó, chuyển ghế ngồi của bạn sang vị trí khác để tránh năng lượng tiêu cực đi qua cơ thể.

3. Trang trí một chậu cây xanh tươi tốt, khỏe mạnh và cao lớn trong khu vực làm việc. Nó không chỉ giúp tăng cường năng lượng tốt khi bạn làm việc, mà còn giúp hấp thụ năng lượng tiêu cực và phá hoại xung quanh. Một cây xanh mềm mại với phần gốc rộng, chắc chắn là lựa chọn tuyệt vời.

Sự nghiệp thành công qua phong thủy 1

4. Bố trí bàn làm việc ở vị trí tránh xa cửa và lưng của bạn không đối diện với cửa. Theo phong thủy, đây được gọi là vị trí chỉ huy, có khả năng thu hút năng lượng mạnh mẽ và thành công hơn đến với khu vực làm việc của bạn. Luôn ghi nhớ rằng bạn phải ngồi ở vị trí nhận được sự thành công chứ không phải quay lưng lại với nó.

5. Nếu lưng của bạn buộc phải quay về phía cửa khi ngồi vào bàn làm việc, bạn có thể giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực bằng cách nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của cửa. Hãy treo gương hoặc bất kỳ đồ vật phản chiếu nào xung quanh bàn làm việc để bạn có thể nhìn thấy mọi chuyện diễn ra sau lưng.

6. Tránh kê bàn làm việc của bạn trực diện với bàn làm việc của người khác. Lý do, đây là tình huống phong thủy xấu, mời gọi năng lượng tiêu cực bao gồm gia tăng sự căng thẳng, đối đầu trong công việc. Lưu ý này đặc biệt quan trọng với ai dùng chung văn phòng với nhiều người.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp thành công qua phong thủy

Gái Đinh, Nhâm, Quý có thực sự lận đận tình duyên?

Người ta thấy rằng phụ nữ mang ba can Đinh, Nhâm, Quý đều là những người có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, thông minh, nhanh nhẹn.
Gái Đinh, Nhâm, Quý có thực sự lận đận tình duyên?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên thực tế, quan niệm "Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài; Gái Đinh, Nhâm, Quý qua hai lần đò" gây không ít phiền phức, hệ lụy cho nhiều người. Từ chuyện kết hôn phải dẫn dâu hai lần đến chuyện các cặp vợ chồng chọn năm sinh cho con, những mong sinh được con trai trong năm "lợn vàng" (Đinh Hợi), "rắn vàng" (Quý Tỵ) để con có cuộc sống an nhàn, sung sướng sau này. Thế nhưng, theo các chuyên gia, nếu không cẩn thận sẽ "xôi hỏng bỏng không".

Thạc sĩ Vũ Đức Huynh, tác giả của gần chục cuốn sách về tử vi, tướng mạo cho rằng, từ thời xa xưa, các nhà tử vi, tướng số đã tổng hợp trên cơ sở 60 năm (lục thập hoa giáp) và đưa ra tổng kết chung về tính cách, năng lực, tình cảm, trí tuệ ở từng tuổi.

"Theo kết quả thống kê này thì phụ nữ có can Đinh, Nhâm, Quý thường không mấy suôn sẻ chuyện tình duyên. Chẳng hạn, nữ tuổi Đinh Sửu thường trăng hoa, Đinh Mão thì nhiều đời chồng, Nhâm Dần xung khắc hoặc cách trở tình duyên, Nhâm Tuất khắc phu, Quý Tỵ nhiều đời chồng.

Trong khi nam giới ở những tuổi đó thường là tốt đẹp. Nam tuổi Đinh Sửu sẽ sáng suốt, Đinh Mão mưu trí, Nhâm Dần có chức quyền, Nhâm Tuất vinh hiển, Qúy Tỵ thông minh, dễ thăng quan", ông Huynh cho hay.

Dù thừa nhận đó chỉ là sự tổng kết theo kinh nghiệm song ông Huynh khẳng định "ít nhiều cũng có cơ sở". Theo kết quả ông Huynh đưa ra, nam giới tuổi thuộc ba can Đinh, Nhâm, Quý về cơ bản tốt hơn nữ giới mang can đó.

Đinh, Nhâm, Quý là ba can quan trọng

Theo ông Vũ Quốc Trung, người có nhiều năm nghiên cứu về tử vi, kinh dịch cho rằng, lý giải điều đó phải dựa trên thuyết Âm

Dương, Ngũ hành.

Theo các thuyết này, hệ Can chi được chia ra như sau: Giáp - dương, Ất- âm, đều thuộc Mộc; Bính - dương, Đinh - âm, đều thuộc Hoả; Mậu - dương, Kỷ - âm, thuộc Thổ; Canh - dương, Tân - âm thuộc Kim; Nhâm - dương, Quý - âm thuộc Thủy.

Tương tự, 12 địa chỉ cũng chia ra làm Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất - dương; Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi - âm. Trong đó, Tý, Hợi phương Bắc thuộc Thủy, Tỵ - Ngọ phương Nam thuộc Hỏa, Mão - Dần phương Đông thuộc Mộc, Dậu - Thân phương Tây thuộc Kim, còn hành Thổ ở chính giữa.

Theo quy luật, một can phải có âm dương hài hòa. Nếu đồng khí (cùng dương hoặc cùng âm) thì đẩy nhau. Do đó, phải có dương có âm và theo quy luật tương sinh mới tốt.

Từ đó có thể giải thích như sau: Nói "Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài" là vì bản thân nam giới đã là dương rồi. Nếu mang can Đinh hoặc Quý là âm thì sẽ hài hòa âm dương. Ngược lại, vì nữ là âm, kết hợp với can Đinh hoặc Quý cũng là âm thì sẽ đồng khí, đẩy nhau, không tốt.

Còn với canh Nhâm thì Nhâm là dương, kết hợp với các chi Thân, Ngọ, Thìn, Dần, Tý, Tuất cũng là dương. Thế nhưng, Nhâm lại thuộc hành Thủy (âm) nên vẫn tốt đối với nam giới. Song với nữ lại không tốt vì người mang can đó có quá nhiều phần dương, do đó nữ giới thường có xu hướng "nam tính hóa", như vậy là "khác người", cuộc sống sẽ khó có thể suôn sẻ như các tuổi khác được, ông Trung lý giải.

Lý giải việc vì sao chỉ nói đến ba can Đinh, Nhâm, Quý mà không nói đến các can còn lại (Giáp, Ất, Bính, Mậu, Kỷ, Canh, Tân). Ông Trung cho rằng, vị trí của 12 chi là vị trí cố định theo hai trục Tý (Thủy) - Ngọ (Hỏa) là trục tung và Mão (Mộc) - Dậu (Kim) là trục hoành. Tương tự các can cũng chia trục như thế: Bính và Đinh thuộc Thủy, Nhâm và Quý thuộc Hỏa sẽ là trục tung. Trong khi đó, Thổ ở trung tâm. Vậy nên, người ta sẽ chỉ tính trục quan trọng hơn là trục Thủy - Hỏa (Bắc - Nam) chứ không xét trục Mộc - Kim (Đông - Tây) (xem hình vẽ dưới). "Điều đó lý giải vì sao người ta sẽ chỉ xét ở ba can Đinh, Nhâm, Quý chứ không xét rộng sang các can khác", ông Trung khẳng định.
Cẩn thận để không chuốc phiền hà

Theo ông Nguyễn Hoàng Điệp, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật, Dịch vụ văn hóa và Khoa học - Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, dựa trên những kinh nghiệm đúc kết trong dân gian, người ta thấy rằng phụ nữ mang ba can Đinh, Nhâm, Quý đều là những người có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, thông minh, nhanh nhẹn. Trong khi đó, theo quan niệm truyền thống "xuất giá tòng phu", người phụ nữ khi lập gia đình thì phải nhất nhất theo chồng. Vậy nên, suy luận logic thì phụ nữ có cá tính mạnh mẽ sẽ có tính tự lập cao, khó có thể răm rắp theo chồng được. Thế nên, chuyện họ trắc trở về đường tình duyên cũng là điều dễ hiểu.

Còn ông Vũ Quốc Trung bổ sung thêm: "Sở dĩ người ta nói gái Đinh, Nhâm, Quý qua "hai lần đò" vì ngày xưa quan niệm phụ nữ quan trọng nhất là chồng con. Còn đàn ông thì sự nghiệp là quan trọng hơn cả. Vậy nên, người xưa lấy chuyện "hai lần đò" ra để chỉ sự xui xẻo của phụ nữ.

Ông Vũ Quốc Trung nhấn mạnh: "Câu ca trên chẳng qua là sự suy luận logic theo cổ học chứ thực tế không hẳn vậy. Nó không áp dụng cho tất cả những ai sinh ra ở ba can đó (nam thì tài, gái thì "hai lần đò") và chỉ mang tính ước lệ mà thôi".

Nói về chuyện phải rước dâu hai lần với những người phụ nữ "cao số", mang can Đinh, Nhâm, Quý khi kết hôn, ông Vũ Đức Huynh cho hay, đó chỉ là quan niệm dân gian, người ta làm thế để yên lòng thôi chứ không có căn cứ nào nói rằng nó sẽ hóa giải "cao số" cả.

"Mọi người không nên quá lệ thuộc vào quan niệm đó để chuốc phiền hà cho chính mình và con cháu mình. Nếu cô dâu, chú rể ở gần nhà nhau thì rước dâu hai lần còn có thể hợp lý chứ cách nhau tới ba, bốn trăm cây số làm sao mà thực hiện được? Chỉ tốn kém, mệt mỏi cho cả hai bên thôi", ông nói.

"Con người có hai bản thể tự nhiên do cha mẹ, trời đất sinh ra hay còn gọi là tiên thiên và bản thể tự nhiễm (sống trong hoàn cảnh, môi trường nào thì sẽ bị chi phối, tác động bởi chính hoàn cảnh, môi trường ấy, còn gọi là hậu thiên). Trong cổ học thì tiên thiên và hậu thiên có mối quan hệ qua lại với nhau. Tiên thiên tốt là tiền đề cho hậu thiên phát triển. Nhưng dù có sinh ra vào ngày giờ đẹp, mang can đẹp (trai Đinh, Nhâm, Quý) mà không có sự giáo dục, quan tâm chu đáo của gia đình thì cũng sẽ khó mà thành đạt".

Vũ Quốc Trung


Trích từ: webphunu.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gái Đinh, Nhâm, Quý có thực sự lận đận tình duyên?

Những thao tác thực địa khi xem xét phong thủy chung cư

Khâu chuẩn bị để xem phong thủy chung cư có ít nhất 3 vòng, đầu tiên là la bàn, trên la bàn có định vị rõ 24 sơn - hướng nhà theo nguyên lý của phong thủy bát trạch. Sau đó, bạn cần chuẩn bị thước đo độ dài, giấy bút để ghi chép, dây để căng định vị, cọc tre để cắm tiêu, đánh dấu… và đặc biệt là phải có sơ đồ khu đất cũng như thiết kế sơ bộ toàn khu chung cư.
Những thao tác thực địa khi xem xét phong thủy chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xem xét hướng của chung cư, cần đặt la bàn tại trung tâm của toàn khu đất để xác định vị trí tòa nhà nằm ở hướng nào, cung nào trong khối tổng thể đó.

Sau đó, phải cắm ít nhất 4 cọc để định vị nền móng theo đúng diện tích của từng tòa nhà cụ thể. Tiếp theo, phải căng dây theo hai đường chéo để xác định tâm của nền móng. Đặt la bàn ở điểm hai đường chéo cắt nhau để xác định hướng của tòa nhà. Bạn cần quan sát bốn phương tám hướng quanh nền móng của tòa nhà, đối chiếu với la bàn để xác định hình thế địa lý, vị trí núi sông và môi trường xung quanh.

Sau khi xác định sơ bộ sơn chủ, cần lập hướng của tòa nhà, xác định các khu vực thuộc đông tứ và tây tứ trên nền tòa nhà, tiến hành đánh dấu trên bản vẽ hoặc cắm cọc trên thực địa để không nhầm lẫn.

Căn cứ vào thiết kế sơ bộ của tòa nhà, đặt la bàn tại vị trí “giọt tranh” trước cửa chính của tòa nhà để xác định cung vị hoàng tuyền và bát sát. Sau đó dánh dấu các vị trí này trên bản vẽ hoặc cắm cọc thực địa để không phạm hoàng tuyền, bát sát khi đặt cổng, xây bể - đài phun nước, cấp - thoát nước, non bộ hoặc đường nội bộ, hành lang giao thông…

Cần phải gi chép chính xác, thận trọng toàn bộ số liệu, dữ liệu đo vẽ trên thực địa để phục vụ việc tính toán phong thủy. Chủ đầu tư cần phải cung cấp chính xác số liệu về diện tích nền móng, độ cao, dự kiến chức năng từng phòng, căn hộ của tòa nhà cũng như những yêu cầu của chủ đầu tư về phong thủy đối với tòa nhà…

Trên cơ sở dữ liệu, số liệu thu thập được, thiết kế phương án phong thủy lần 1, sau đó giao cho kiến trúc sư thiết kế chi tiết theo một tỷ lệ thống nhất. Sau khi có bản thiết kế tòa chung cư chi tiết, xác định lại thiết kế phong thủy trên bản vẽ, kết hợp với kiến trúc sư để “chốt” phương án xây dựng.

Ở Trung Quốc, từ trước thời Hán người ta đã yêu cầu sử dụng bản vẽ chi tiết theo phong thủy đối với các đô thị, thành quách, cung điện. Nhờ thiết kế kiến trúc phù hợp với địa hình thực tế và quy luật của vũ trụ mà các công trình cổ luôn bảo đảm phù hợp với sinh thái, có sự ngăn nắp và tạo thuận lợi đối với cuộc sống sinh hoạt của con người.

Ở Việt Nam, đến thời vua Lê Thánh Tông, từ cung vua, các cung - phủ, đền miếu… đến các làng, khu vực buôn bán… đều được quy hoạch rất gọn gàng, ngăn nắp. Tại Hà Nội có 36 phố phường do đặc điểm đông người và hỗn tạp nên được bố trí từ phía đông xuống đông nam kinh thành. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý phong thủy.

Những nguyên lý, thao tác nói trên là những nội dung cơ bản trong thiết kế phong thủy chung cư, công sở. Chúng tôi sẽ viết chi tiết hơn trong từng bài viết riêng về từng loại kiến trúc phối hợp trong chung cư, công sở như phòng điều hành, quản lý, phòng thủ trưởng, sơn - hướng của từng căn hộ chung cư, thiết kế bếp, ban thờ,...

(Theo Lao động Online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thao tác thực địa khi xem xét phong thủy chung cư

Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý

Người xưa có câu, đời người ba phần do trời định, bảy phần do cố gắng. Cùng là một tuổi, một năm nhưng có người sinh ra trong nghèo khó, bần hàn lại có người sinh ra đã ngậm thìa vàng, giàu sang, sung sướng. Thế mới hay, số mệnh quả nhiên quan trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ Tý là từ 23 giờ đến 1 giờ, là canh 1. Người sinh giờ này thì cá tính kiên cường, nóng vội, làm việc gấp gáp, thích gây chuyện thị phi, được người nhà trợ giúp, có thể từ tay trắng tạo lập sự nghiệp.

Xem tử vi cho người sinh giờ Tý thấy rằng, người sinh vào đầu giờ Tý thì khắc mẹ, những năm tuổi trẻ chịu khổ sở, cần kiệm, quản lý gia đình, có mệnh phú quý. Giờ Tý là thời khắc ban đầu nên vận sớm mang khổ lao, một khi vận mệnh tới thì như trăng lên trời, báo trước mạt hạn, phá tài lao lực.

Người sinh giữa giờ Tý thì cha mẹ song toàn, vợ/chồng tốt con ngoan, tiền vận điên đảo nhưng tuổi già vận tốt, cơm no áo ấm, một đời phú quý. 

Người sinh vào cuối giờ Tý chủ khắc cha, những năm đầu vinh hoa nhưng tâm phiền, tuổi già càng thêm lao lực, chỉ có thể phiền não, thở dài, không dựa được người thân, anh em bất hòa, thậm chí còn gây thêm liên lụy.

 Xem phan suong kho cho nguoi sinh gio Ty hinh anh


 

Nam mệnh sinh giờ Tý tao nhã phong độ, ngọc thụ lâm phong, hiểu được đạo lí đối nhân xử thế, bề ngoài hấp dẫn người khác phái, có Đào Hoa tinh trong tử vi nên sinh tính trăng hoa.

Nữ mệnh sinh giờ Tý có Tý thuộc ngũ hành Thủy, đích thực là cô gái thông minh nhanh nhẹn, xinh đẹp động lòng người, phong thái đẹp mắt, hiểu được đạo lý. Quan điểm tình yêu của người này rất thuần khiết, thẳng thắn bày tỏ, không kéo dài thời gian, trong tình yêu có nhiều cơ hội lựa chọn, gặp được ý trung nhân phù hợp.

Như vậy, nhìn chung, số mệnh của người sinh giờ Tý là khổ trước sướng sau, tuy không may mắn tuyệt vời, hanh thông nhưng cũng không quá tệ, ở tuổi về già vẫn có đôi chút phúc phần và gặp tốt lành về đường gia vận, hôn nhân.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý

7 điều phong thủy dự báo gia vận đi xuống

Cây cối hoặc cá cảnh liên tục chết, người trong nhà thường gặp ác mộng... là những điềm báo về phong thủy gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận thế của mỗi người và gia vận luôn có mối quan hệ với phong thủy trong nhà, dựa vào các dấu hiệu xảy ra mà đoán trước việc lành dữ để có cách phòng tránh thích hợp.

Cây cối hoặc cá cảnh liên tục chết Cây cối hoặc thực vật trong nhà liên tục chết, nếu chuyển sang vị trí khác thì mọi thứ đều bình thường có nghĩa là nơi đó cần phải điều chỉnh phong thủy. Tuy nhiên, nếu đem cây cối hoặc cá cảnh đến bất kỳ nơi nào trong nhà đều xuất hiện hiện tượng như vậy có nghĩa là môi trường phong thủy trong nhà không tốt, chắc chắn ảnh hưởng đến gia vận.

Thành viên gia đình liên tục làm vỡ đồ

7 dieu phong thuy du bao gia van di xuong
Ảnh minh họa. 

Nếu các thành viên trong gia đình liên tục làm vỡ đồ, chảy máu, hoặc các bức tranh trong nhà nhiều lần rơi, đèn điện không hoạt động bình thường, đây đều là điềm báo của từ trường không tốt xuất hiện trong gia đình.

Trong nhà hương hỏa bất thịnh Lửa là yếu tố vô cùng quan trọng, nếu một gia đình nhiều ngày tháng trong năm mà không thấy có lửa, bếp không ấm cũng như không có hương hỏa, không thấy nấu ăn, không có tiếng chén đũa nồi niêu…thì đó là một trong những điềm báo hung cho thấy gia đình có dấu hiệu tán gia bại sản.

Cuộc sống hiện đại cho thấy thực tế nhiều người quá bận rộn với công việc vì vậy thường không ăn cơm và nấu cơm ở nhà. Tuy nhiên nếu chỉ trong thời gian ngắn thì không sao nhưng khi kéo dài liên tục thì đó là hiện tượng "Hương Hỏa Bất Vượng Gia" trong Phong thủy, không lâu sau đó sẽ Giao đạo suy lạc, vận khí đi xuống.

Vận khí từng thành viên không ngừng đi xuống Sau khi chuyển nhà hoặc dời đến nhà mới, vận thế của các thành viên trong gia đình liên tục đi xuống, thậm chí luân phiên chịu bệnh, phá sản, gặp thị phi hoặc gia đình bất hòa, gặp trắc trở trong công việc. Điều này chính là minh chứng của việc phong thủy trong gia đình có vấn đề, cần phải điều chỉnh ngay tức khắc.

Gia đình mâu thuẫn, bất hòa Người xưa có câu nói: “Gia hòa vạn sự hưng”, ai trong chúng ta cũng hiểu ý muốn nói rằng gia đình hòa thuận thì mọi chuyện sẽ hưng thịnh. Nhưng trên thực tế gia đình nào cũng đều có những mâu thuẫn, thậm chí có thể dẫn đến bạo lực…Hầu hết những gia đình bại vong đều có vấn đề này. Hơn nữa khi trong gia đình xuất hiện mâu thuẫn sẽ khiến cho sát khi trong nhà tăng dần, cát khí suy giảm, lòng người ly tán, sự bại vong là điều khó tránh khỏi.

7 dieu phong thuy du bao gia van di xuong-Hinh-2
Ảnh minh họa. 

Hãy luôn nhớ câu: “Hòa khí sinh Tài, Gia hòa vạn sự hưng”.

Thành viên trong gia đình thường có ác mộng Thành viên trong gia đình thường có ác mộng, ảnh hưởng đến việc nghỉ ngơi, hoặc trong nhà có trẻ con thường bật khóc lúc nửa đêm do bị kinh sợ, thú cưng trong nhà luôn bất an, tất cả các điều trên đều là từ trường tiêu cực trong nhà đang hoành hành, gia chủ cần phải điều chỉnh để tránh ảnh hưởng đến gia vận.

Thành viên trong gia đình không muốn về nhà Khi ở nhà trong thời gian dài luôn thấy tâm phiền ý loạn, tâm tình bất an, luôn mượn cớ để ra khỏi nhà, hoặc là bạn thân đến chơi ra về ngay lập tức, đặc biệt là trẻ nhỏ vào nhà luôn khóc, điều này nếu xảy ra nhiều lần liền có thể chứng minh phong thủy trong gia đình không tốt, ảnh hưởng đến gia vận.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều phong thủy dự báo gia vận đi xuống

Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Một bình hoa ở vị trí nhất định trong nhà có thật sự cải thiện cuộc sống của bạn? Những người thực hành nghệ thuật phong thủy cổ xưa sẽ trả lời bạn rằng: Chắc chắn có!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các chuyên gia phong thủy tin rằng việc sử dụng và bố trí các đồ vật nhất định trong nhà hoặc phòng làm việc có thể chống lại năng lượng tiêu cực, thúc đẩy năng lượng tích cực trong cuộc sống của bạn.

Ít người biết cây và hoa đóng vai trò lớn trong việc điều khiển năng lượng vũ trụ có lợi, chưa kể cây trồng trong nhà còn có tác dụng lọc không khí, tăng hàm lượng oxy, chống lại ảnh hưởng của trường điện từ tạo ra từ các thiết bị điện tử. Chúng tạo ra môi trường tốt để phát triển hài hòa mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà.

1. Các loại cây và hoa có ý nghĩa phong thủy

Cây cối có tác dụng điều hòa dòng chảy năng lượng tích cực, đặc biệt là các cây thân gỗ. Màu xanh của cây tượng trưng cho sự phát triển, hòa bình và hợp tác. Vì vậy, cây được trồng trong nhà với tác dụng mang đến sự bình tĩnh, giảm căng thẳng và tạo ra môi trường yên tĩnh và hài hòa.

Khi đặt ở các góc lõm của nhà, cây lá nhọn và dài sẽ giúp ngăn cản năng lượng trì trệ xuất hiện ở đây. Ngược lại, cây tán rậm rạp có lá tròn sẽ làm mềm năng lượng ở các góc nhọn. Cây cảnh trong phòng ngủ sẽ tạo ra môi trường yên tĩnh. Nhà bạn có một hành lang dài? Hãy đặt các chậu cây bụi ở hai bên để giảm bớt tốc độ chảy quá nhanh của năng lượng. Còn nếu thấy lo ngại về vấn đề an ninh bạn có thể thử đặt các chậu xương rồng trên ngưỡng cửa sổ.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Phong thủy dựa trên những cảm giác mà bông hoa gợi lên như cái đẹp, sự duyên dáng và nét tinh tế.

Dưới đây là một số loại cây trồng và hoa được các chuyên gia phong thủy khuyên sử dụng:

- Tre: Có ý nghĩa may mắn, cây tre đặc biệt tốt để bày trong nhà bếp, phòng tắm nhằm mang lại sự giàu có, tình yêu, sức khỏe và hạnh phúc.

- Cây xương rồng. Thực vật có gai nhọn và lá nhọn này dùng nhiều trong các góc lõm để kích hoạt các năng lượng trì trệ.

- Hoa cẩm chướng: Màu đỏ cải thiện tính lãng mạn, màu  hồng cho hưởng thụ tình dục, và màu trắng để giúp bạn có động lực.

- Hoa thược dược: Những bông thược dược đỏ tươi sẽ mang lại cuộc sống lãng mạn và cải thiện tình hình tài chính của gia chủ.

- Cây huyết rồng: Loại cây lá nhọn này giúp di chuyển năng lượng đình trệ ở góc nhà hoặc phía cuối của trần dốc.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa Cúc đồng tiền màu đỏ mang lại may mắn về tình yêu và tiền bạc.

- Cây lá bỏng: Cũng được biết đến như một cây trồng có tác dụng ổn định tài chính.

- Hoa loa kèn: Nếu bạn có một không gian quá bận rộn thì hoa loa kèn có thể sử dụng để tạo ra ảnh hưởng êm dịu hơn trong khu vực đó.

- Hoa sen: Được cho là tốt cho cặp vợ chồng nào đang mong có con.

- Hoa hồng: Mang đến các cơ hội tốt về tình yêu và tiền bạc.

- Hoa tulip: Màu đỏ là sự lãng mạn, hồng là niềm vui còn màu trắng sẽ thúc đẩy nhiệt huyết của bạn.

- Cây dây nhện: Loại cây trồng này sẽ mang đến không gian thoải mái và thoáng đãng trong nhà.

2. Hoa cắm lọ hoặc hoa trồng chậu

Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Khi bạn chưng hoa tươi trong nhà đòi hỏi phải chăm sóc cẩn thận, tránh hoa bị úa, héo hoặc khô.

Một lọ hay một chậu hoa tươi đều có ý nghĩa tích cực như nhau. Tuy nhiên, cả hai đều đòi hỏi phải được chăm sóc tốt vì hoa héo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng lượng phong thủy. Bỏ các bông hoa hoặc lá héo ngay lập tức. Chú ý tưới nước trước khi đất khô cạn nhưng cũng không để cây sũng nước lâu hơn 24 giờ. Ngắt bỏ lá và bông hỏng, cắt một chút gốc hoa mỗi hai ngày, thay nước trong bình để kéo dài tuổi thọ hoa. Khi hầu hết hoa trong bình bị héo thì bỏ chúng đi càng sớm càng tốt.

3. Hoa khô hoặc hoa giả

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Tốt nhất nên mua hoa giả làm từ lụa hoặc giấy.

Hoa khô và hoa giả không hữu ích như hoa tươi nhưng nếu như bạn không có lựa chọn nào khác thì có nó còn tốt hơn là không có gì. Có người cho rằng hai loại hoa này là biểu tượng của cái chết và sự phân rã. Tuy  nhiên nếu bạn không thấy ý nghĩa tiêu cực này thì vẫn có thể sử dụng chúng, chỉ cần chú ý mua hoa bằng lụa hoặc giấy và tránh xa hoa nhựa hoặc vải. Giữ hoa sạch bằng cách phẩy bụi hoặc giặt qua với nước, tránh để hoa rụng, gãy vào bình chứa hoặc bị phai màu do ánh nắng.

4. Chọn chậu và bình

Hình dáng và chất liệu của chậu và bình có thể tăng thêm hiệu quả phong thủy của cây trồng và hoa. Bạn có thể kết hợp giữa ý nghĩa các loại cây, hoa với hình dáng chậu, bình và đặt vào các góc nhất định của nhà để có được lợi ích lớn nhất cho mình.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Bình hình tròn mang lại sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình.

Bình thủy tinh, bình cong có ý nghĩa phong thủy về tiền bạc. Chậu gỗ cao tốt cho sự phát triển nghề nghiệp. Hình tam giác hoặc màu tím sẽ giúp những nỗ lực của bạn được công nhận trong khi chậu và bình kim loại tròn có ý nghĩa hướng tới sự lãng mạn và hòa hợp, còn nếu là màu đỏ và bằng bạc thì sẽ mang tới nhiều may mắn về tiền bạc. Sự kết hợp giữa bình màu trắng với hoa màu hồng hoặc đỏ đặt trong phòng ngủ mang đến tình yêu cho vợ chồng. Chậu hoặc bình bằng đất sét sẽ giúp các thành viên trong nhà gắn bó hơn, đặc biệt là khi nó có hình dáng giống như cái bát.

Hữu Nguyên
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Xem tướng cổ và gò má đoán vận mệnh –

Gò má tốt nhất là cao rộng vừa phải, cao quá, thấp quá, hẹp quá, rộng quá đều không được tốt. Cổ và gò má quí ở chỗ cân đối với đầu mặt: Dù là phép xem tướng chẳng khác chi nhãn quan thẩm mỹ. Tất cả những gì lệch méo, hoặc bất túc hoặc hiểu dư phản m
Xem tướng cổ và gò má đoán vận mệnh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng cổ và gò má đoán vận mệnh –

Xem hướng nhà theo tuổi: Nữ tuổi Dần nên và không nên làm nhà the

Xem hướng nhà theo tuổi là việc cần thiết để có nơi ở phù hợp với bản mệnh. Xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Dần, mời bạn đọc tham khảo.
Xem hướng nhà theo tuổi: Nữ tuổi Dần nên và không nên làm nhà the

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng nhà theo tuổi là việc cần thiết để có nơi ở phù hợp với bản mệnh, mang lại may mắn, hành thông và nhiều phúc khí cho bản thân cùng gia đình. Xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Dần, mời bạn đọc tham khảo.  

xem huong nha theo tuoi cho phu nu tuoi Dan
 
Phụ nữ đứng chủ gia đình là người sẽ quyết định ngôi nhà nên đặt ở hướng nào thì tốt. Hướng tốt, hợp phong thủy chính là khởi đầu tốt đẹp mà bất cứ người nào cũng mong muốn. Phụ nữ tuổi Dần hãy dựa theo những gợi ý xem hướng nhà theo tuổi để ưu tiên chọn hướng đẹp, hợp với hoàn cảnh thực tiễn.  

1. Tuổi Canh Dần 2010 – mệnh Đoài

  - Hướng tốt:    Hướng Tây Bắc - Sinh khí: Nhà này lúc đầu rất tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhưng do hướng nhà khắc sao Mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.    Hướng Đông Bắc - Diên niên: Nhà này giàu sang phú quý, nhân khẩu tăng, sức khỏe mọi người tốt, gia đình hạnh phúc, con cái thông minh và thành công trong cuộc sống. Mọi người đều có tuổi thọ cao.   Hướng Tây Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu phát đạt nhanh, giàu có, nhưng về sau nam giới tổn thọ, phụ nữ nắm quyền trong gia đình, khó có con trai nối dõi.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Tuyệt mệnh: Nhà này không hưng vượng, nhân đinh thiệt hại, nhà thường lo buồn, kinh tế sa sút.   Hướng Đông Nam – Lục sát: Nhà này sống không thuận lợi. Phụ nữ dễ xích mích, bị bệnh, chịu cô quả, bị thương, trưởng nữ dễ bị tổn thương. Làm ăn kinh doanh sa sút, khó phát triển.   Hướng Bắc – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng có của nhưng không giàu có, về sau càng nghèo khó. Thiếu nữ dễ bị tổn thương, nhất là khi sinh nở.   Hướng Nam – Ngũ quỷ: Nhà này lắm chuyện thị phi, anh em bất hòa, kinh tế suy bại dần, thiếu nữ trong nhà dễ bị tổn thương, bệnh tật.
Xem thêm bài viết 12 con giáp mua nhà năm nào được tuổi, hướng nhà nào phát tài phát lộc?
 

2. Tuổi Mậu Dần 1998 – mệnh Tốn

  - Hướng tốt:    Hướng Bắc – Sinh khí: Nhà này được công danh phú quý song toàn, có danh có tiếng. Con cái ngoan hiền thành đạt có công danh hiển hách.   Hướng Đông – Diên niên: Nhà này giàu có, thăng tiến, công danh hiển đạt, con trai và con gái đều phát triển.   Hướng Nam – Thiên y: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này những năm đầu được phú quý. Người trong nhà sống lương thiện, nữ giới phát triển, nam giới vận khí kém.   - Hướng xấu:   Hướng Đông – Phục vị: Nhà này âm vượng, dương suy, nên nam giới trong nhà kém hơn nữ giới. Nhà này lúc đầu khá giả, tăng nhân đinh. Nhưng về sau nhân đinh kém dần, con trai dễ đoản thọ. Phụ nữ nắm quyền trong gia đình và nuôi con.   Hướng Đông Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này rất xấu, kinh tế suy bại, nhà thiệt nhân đinh, nữ giới bệnh tật khó chữa. Phụ nữ khó nuôi con.   Hướng Tây – Lục sát: Nhà này lúc đầu làm ăn cũng có của, nhưng về sau sa sút. Âm thịnh dương suy nên nam giới dễ đoản thọ, trưởng nữ trong nhà hay ốm đau và thương tật.   Hướng Tây Bắc – Họa hại: Xem hướng nhà tốt xấu cho phụ nữ tuổi Dần, nhà này lúc đầu có tài lộc, nhưng về sau suy. Nhiều tai họa xảy ra, phụ nữ đặc biệt là trưởng nữ dễ bị tổn thương, khó sinh đẻ.   Hướng Tây Nam – Ngũ quỷ: Người trong nhà hay bị đau ốm, bệnh tật; tài sản suy bại, nhiều chuyện thị phi, người mẹ gánh chịu nhiều bệnh tật và tổn thọ.  

3. Tuổi Bính Dần 1986 – mệnh Khảm


xem huong nha tot xau cho phu nu tuoi dan
 
- Hướng tốt:   Hướng Đông Nam – Sinh khí: Nhà này phú quý; con cái đều thông minh, hiển đạt; vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo; hạnh phúc lâu bền; trường thọ.   - Hướng xấu:   Hướng Nam – Diên niên: Ban đầu căn nhà có vẻ phát sinh thuận lợi, nhưng sau gia sản suy dần, con cháu vận khí kém, nhất là người tuổi trung nam.   Hướng Đông – Thiên y: Nhà này lúc đầu hưng vượng, nhưng về sau kém dần, nhân khẩu không tăng. Gia đình hòa thuận, sống nhân nghĩa, phụ nữ sẽ kém hơn nam giới, người phụ nữ dễ bị bệnh.   Hướng Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu phát đạt, giàu có. Nhưng do nhà thuần dương nên âm suy, vợ con sức khỏe kém.   Hướng Tây Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này dễ thiệt hại nhân đinh, nhiều chuyện thị phi, nhà ở bất an, gia sản suy bại.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu có của ăn của để, nhưng sau bị sa sút, làm ăn thất bại, kinh tế khó khăn. Do nhà thuần dương, âm suy nên phụ nữ dễ bị suy yếu.   Hướng Tây – Họa hại: Nhà này nhiều chuyện thị phi trai gái, cờ bạc, gia sản suy bại, làm ăn kinh doanh hay gặp trắc trở và thất bại.   Hướng Đông Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, anh em bất hòa, hay tranh chấp kiện tụng. Về kinh tế thường nghèo khó, không giàu.  
Xem thêm bài viết Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Nam có tốt không?
 

4. Tuổi Giáp Dần 1974 – mệnh Đoài

  - Hướng tốt:    Hướng Tây Bắc - Sinh khí: Nhà này lúc đầu rất tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhưng do hướng nhà khắc sao Mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.    Hướng Đông Bắc - Diên niên: Nhà này giàu sang phú quý, nhân khẩu tăng, sức khỏe mọi người tốt, gia đình hạnh phúc, con cái thông minh và thành công trong cuộc sống. Mọi người đều có tuổi thọ cao.   Hướng Tây Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu phát đạt nhanh, giàu có, nhưng về sau nam giới tổn thọ, phụ nữ nắm quyền trong gia đình, khó có con trai nối dõi.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Tuyệt mệnh: Nhà này không hưng vượng, nhân đinh thiệt hại, nhà thường lo buồn, kinh tế sa sút.   Hướng Đông Nam – Lục sát: Nhà này sống không thuận lợi. Phụ nữ dễ xích mích, bị bệnh, chịu cô quả, bị thương, trưởng nữ dễ bị tổn thương. Làm ăn kinh doanh sa sút, khó phát triển.   Hướng Bắc – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng có của nhưng không giàu có, về sau càng nghèo khó. Thiếu nữ dễ bị tổn thương, nhất là khi sinh nở.   Hướng Nam – Ngũ quỷ: Nhà này lắm chuyện thị phi, anh em bất hòa, kinh tế suy bại dần, thiếu nữ trong nhà dễ bị tổn thương, bệnh tật.  

5. Tuổi Nhâm Dần 1962 – mệnh Tốn


xem huong nha
 
- Hướng tốt:    Hướng Bắc – Sinh khí: Nhà này được công danh phú quý song toàn, có danh có tiếng. Con cái ngoan hiền thành đạt có công danh hiển hách.   Hướng Đông – Diên niên: Nhà này giàu có, thăng tiến, công danh hiển đạt, con trai và con gái đều phát triển.   Hướng Nam – Thiên y: Xem hướng làm nhà, nhà này những năm đầu được phú quý. Người trong nhà sống lương thiện, nữ giới phát triển, nam giới vận khí kém.   - Hướng xấu:   Hướng Đông – Phục vị: Nhà này âm vượng, dương suy, nên nam giới trong nhà kém hơn nữ giới. Nhà này lúc đầu khá giả, tăng nhân đinh. Nhưng về sau nhân đinh kém dần, con trai dễ đoản thọ. Phụ nữ nắm quyền trong gia đình và nuôi con.   Hướng Đông Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này rất xấu, kinh tế suy bại, nhà thiệt nhân đinh, nữ giới bệnh tật khó chữa. Phụ nữ khó nuôi con.   Hướng Tây – Lục sát: Nhà này lúc đầu làm ăn cũng có của, nhưng về sau sa sút. Âm thịnh dương suy nên nam giới dễ đoản thọ, trưởng nữ trong nhà hay ốm đau và thương tật.   Hướng Tây Bắc – Họa hại: Xem hướng nhà cho phụ nữ tuổi Dần, nhà này lúc đầu có tài lộc, nhưng về sau suy. Nhiều tai họa xảy ra, phụ nữ đặc biệt là trưởng nữ dễ bị tổn thương, khó sinh đẻ.   Hướng Tây Nam – Ngũ quỷ: Người trong nhà hay bị đau ốm, bệnh tật; tài sản suy bại, nhiều chuyện thị phi, người mẹ gánh chịu nhiều bệnh tật và tổn thọ.

Xem thêm bài viết Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Bắc có tốt không?
 

6. Tuổi Canh Dần 1950 – mệnh Khảm

  - Hướng tốt:   Hướng Đông Nam – Sinh khí: Nhà này phú quý; con cái đều thông minh, hiển đạt; vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo; hạnh phúc lâu bền; trường thọ.   - Hướng xấu:   Hướng Nam – Diên niên: Ban đầu căn nhà có vẻ phát sinh thuận lợi, nhưng sau gia sản suy dần, con cháu vận khí kém, nhất là người tuổi trung nam.   Hướng Đông – Thiên y: Nhà này lúc đầu hưng vượng, nhưng về sau kém dần, nhân khẩu không tăng. Gia đình hòa thuận, sống nhân nghĩa, phụ nữ sẽ kém hơn nam giới, người phụ nữ dễ bị bệnh.   Hướng Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu phát đạt, giàu có. Nhưng do nhà thuần dương nên âm suy, vợ con sức khỏe kém.   Hướng Tây Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này dễ thiệt hại nhân đinh, nhiều chuyện thị phi, nhà ở bất an, gia sản suy bại.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu có của ăn của để, nhưng sau bị sa sút, làm ăn thất bại, kinh tế khó khăn. Do nhà thuần dương, âm suy nên phụ nữ dễ bị suy yếu.   Hướng Tây – Họa hại: Nhà này nhiều chuyện thị phi trai gái, cờ bạc, gia sản suy bại, làm ăn kinh doanh hay gặp trắc trở và thất bại.   Hướng Đông Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, anh em bất hòa, hay tranh chấp kiện tụng. Về kinh tế thường nghèo khó, không giàu.   Giải đáp những thắc mắc thường gặp để xác định hướng nhà tốt Xem hướng nhà theo tuổi: Nam tuổi Dần nên và không nên làm nhà theo hướng nào? Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủy
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi: Nữ tuổi Dần nên và không nên làm nhà the

Hình dạng bàn tay nói lên điều gì

Với mỗi hình dạng bàn tay khác nhau lại thể hiện tính cách, tình cảm cũng như sức khỏe không giống nhau của mỗi người.
Hình dạng bàn tay nói lên điều gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Căn cứ vào nghiên cứu của các chuyên gia tướng học phương Đông, tướng tay con người có một số hình dạng chủ yếu sau:

Hinh dang ban tay noi len dieu gi hinh anh
Ảnh minh họa

1. Dạng tay lao động

 
Đặc trưng của bàn tay này là các ngón tay khá ngắn và thô cứng. Phần lớn người có tướng bàn tay này thuộc tầng lớp lao động, không giỏi về tư duy trí não.
 
2. Dạng tay có nghị lực
 
Hình dáng bàn tay khá tròn, các ngón tay ngắn, ngón giữa chắc khỏe. Đây là tướng bàn tay của người có đầu óc suy nghĩ thực tế, làm việc chuẩn xác, tuân thủ giờ giấc theo đúng quy định. Hơn thế, người này giàu nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Dù trải qua bao khó khăn sóng gió của cuộc đời, họ vẫn tiếp tục sống một cách vui vẻ, hòa đồng với mọi người xung quanh.
 
3. Dạng tay triết lí

Đặc trưng của tướng tay này là bàn tay to, đặc biệt là ngón cái to hơn hẳn so với các ngón tay còn lại. Ngoài ra, các đốt xương ở ngón tay đều nhô ra. Người có tướng tay này thường sở hữu khả năng quyết đoán và độc lập cao. Họ giỏi về tư duy logic, ăn nói triết lí, có sức thuyết phục người khác. Đồng thời, đây là người nghiêm khắc với bản thân, sống thực tế và luôn biết cách hưởng thụ cuộc sống.
 
4. Dạng tay miệt mài
 
Tướng tay này có đặc điểm là bàn tay và ngón tay mỏng dẹt, có hình dạng như cái xẻng. Những người có kiểu tay này thường lạc quan, tự tin, thông minh và nỗ lực hết mình trước hoàn cảnh khó khăn. Họ chăm chỉ làm việc bất kể thời gian cũng như sức khỏe, miễn sao có thể đạt được mục tiêu đã đề ra. Người có tướng tay này phần lớn hưởng cuộc sống an nhàn khi về trung vận, do đã tích lũy được không ít tiền bạc từ khi còn trẻ.
 
5. Dạng tay nghệ thuật
 
Đặc điểm dễ nhận biết của tướng tay này là ngón tay dài, mảnh và mềm mại. Người có kiểu tay này rất giỏi về tư duy hình tượng và nghệ thuật. Theo đó, người này thích hợp làm những công việc liên quan đến nghệ thuật như ca hát, hội họa... Trong tình yêu, người này tôn thờ chủ nghĩa lãng mạn, hay mơ mộng về những thúc có hậu đẹp như trong chuyện cổ tích.
 
Theo Tìm hiểu tính cách con người qua bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dạng bàn tay nói lên điều gì

Thiết kế nội thất phòng tắm hợp phong thủy tràn đầy năng lượng –

Quan tâm tới phong thủy phòng tắm giúp bạn tái tạo năng lượng, giữ gìn sức khỏe một cách toàn diện. Bạn phải tổ chức hợp lý màu sắc, gương soi, thảo mộc… Nhịp điệu cuộc sống hiện đại khiến chúng ta ít có thời gian để thư giãn. Và phòng tắm là một tro

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan tâm tới phong thủy phòng tắm giúp bạn tái tạo năng lượng, giữ gìn sức khỏe một cách toàn diện. Bạn phải tổ chức hợp lý màu sắc, gương soi, thảo mộc…

Nhịp điệu cuộc sống hiện đại khiến chúng ta ít có thời gian để thư giãn. Và phòng tắm là một trong những chốn hiếm hoi có thể giúp bạn tạm rời thế giới xung quanh để “mình ta với ta”.

Đó cũng chính là lý do bạn nên trang trí phòng tắm sao cho nơi đây không chỉ để gột rửa thân thể mà còn là chốn tận hưởng những giây phút sảng khoái mỗi sáng hoặc thư giãn tâm trí, giải tỏa cảm xúc sau một ngày bận rộn. Dưới cái nhìn phong thủy, bạn có thể xem xét và thực hiện những điều sau để biến phòng tắm thành nơi chốn bình yên, giúp phục hồi năng lượng hiệu quả.

Màu sắc

Theo phong thủy, màu sắc trang trí phòng tắm có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác của chúng ta. Căn phòng này vốn đã có nguồn năng lượng nước đại diện: bồn rửa, vòi sen, bồn tắm và bồn vệ sinh. Màu sắc thuộc hành Mộc như các sắc thái nhẹ nhàng của xanh dương, xanh lá cây, tương sinh với hành Thủy sẽ tạo ra cảm giác cân bằng, êm đềm. Các chuyên gia trị liệu cũng tin rằng màu xanh dương giúp chúng ta hít thở sâu, dễ đi vào giấc ngủ và làm giảm huyết áp. Trong khi đó, màu xanh lục giúp thị giác được nghỉ ngơi và thần kinh ổn định.

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

phong-tam-2

phong-tam-3

Hương thảo mộc

Mùi hương rất gợi cảm và cũng khuyến khích dòng chảy tích cực của khí vào phòng tắm. Chậu nhỏ đựng các loại thảo mộc như hoa oải hương, hoa phong lữ, hoa cam làm nguôi ngoai những lo âu, phiền muộn. Hương chanh, hoa hồng, hoa cúc La Mã giúp tâm hồn thư thái hơn. Bồn tắm là nơi rất lý tưởng để bạn thêm tinh dầu vào, cũng như tự massage. Hương thơm thư giãn, âm nhạc du dương quyện vào làn nước ấm áp sẽ tạo nên nguồn năng lượng tích cực trong chính bạn.

phong-tam-4

Thoáng khí

phong-tam-5

Phong thủy cho rằng nguồn năng lượng chúng ta nhận được từ không khí có giá trị hơn cả thức ăn và nước uống. Ngay cả trong phòng tắm – nơi bạn muốn dành ít thời gian cho việc thư giãn tâm trí, việc hít thở đúng cách ở nơi thoáng khí cũng giúp giữ gìn sức khỏe. Hãy lưu ý hệ thống cửa sổ điều chỉnh đối lưu gió khi xây dựng phòng tắm, hoặc chạy các quạt thông gió, giúp ngăn ngừa năng lượng tiêu cực lẫn nấm mốc.

phong-tam-6

Năng lượng

Nến tượng trưng cho yếu tố Hỏa, bổ trợ các yếu tố “nước” đã có ở phòng tắm. Đồng thời, hình ảnh nến cũng thật lãng mạn và mang đến cho bạn cảm giác thoải mái hơn khi ngâm mình trong bồn. Cùng với nến, hãy đưa cây xanh vào phòng tắm để cân bằng yếu tố “nước” và tạo cảnh trí nên thơ. Ngoài ra, bạn nên đặt đá tinh thể thạch anh hồng để giải trừ năng lượng tiêu cực, nâng cao bầu không khí an bình

Gương soi

Lưu ý rằng gương phòng tắm nên đủ lớn, cho phép bạn thấy được toàn bộ khuôn mặt mình. Có thể đặt gương để có cảm giác nới rộng không gian nhưng nên tránh đặt hai tấm gương đối diện nhau, dễ gây ảo giác không tốt và cảm giác bất an.

phong-tam-7

Tổ chức hợp lý

Giữ phòng tắm thật gọn gàng, sạch sẽ, không làm bận mắt bạn cũng có nghĩa là khuyến khích đầy đủ yếu tố phong thủy tốt cho căn phòng. Luôn bảo trì các thiết bị hoạt động tốt và sửa chữa ngay bất kỳ vòi nước nào bị rò rỉ. Rò rỉ nước được cho là thất thoát sự thịnh vượng của bạn, dẫn đến khó khăn về tài chính sau đó.

phong-tam-8

Ở những ngôi nhà hiện đại, phòng tắm và phòng ngủ thường gắn bó mật thiết, thậm chí là những không gian mở liên thông với nhau. Việc quan tâm trang trí phòng tắm thích hợp sẽ giúp bạn tái tạo năng lượng cơ thể, giữ gìn sức khỏe một cách toàn diện để tận hưởng cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiết kế nội thất phòng tắm hợp phong thủy tràn đầy năng lượng –

Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015 - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015, Tuổi tý, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015, tu vi Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015, tu vi Tuổi tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015

Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4/2/2015, hôm nay Canh Tý có sức khỏe không tốt, Qúy Sửu hao tốn tiền của mà không mang lại lợi ích, Nhâm Dần công việc gặp trở ngại.

TỬ VI TUỔI TÝ THỨ 4:

- Bính Tý (Thủy, 19 nam La Hầu nữ Kế Đô) :  Ngày có sự bận rộn về giải đáp, thư tín, đến hẹn, đến kỳ hạn. Gia đạo có hỷ sự, tin vui hoặc có tin tốt của bè bạn ở nơi xa hoặc về công danh, tiền bạc. Hao tài cho tu bổ, mua sắm, tiệc tùng.

- Giáp Tý (Kim, 31 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) :Có sự thay đổi trong công việc, ý tưởng quyết định, hoặc công việc đang tiến hành lại có sự việc khác xảy ra khiến phải tạm ngưng hoặc thay đổi. Sự mong chờ có kết quả hoặc có tài lộc, có tin tốt lành về việc mình mong cầu. Có khách hoặc có bạn đến. Hao tài về vui chơi, giao dịch.

- Nhâm Tý (Mộc, 43 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : Mọi sự chờ đợi đã qua nay đã đến lúc thay đổi, hoặc bắt tay vào công việc. Ngày có nhiều chuyện tình cảm tốt. Có tin vui, hỷ sự. Tài lộc tốt. Tuy nhiên có những người chỉ đến để mà vui chơi hoặc trục lợi, khiến cho hao tốn hoặc sự gặp gỡ không được như ý vì có nhiều quan điểm khác nhau.

- Canh Tý (Thổ, 55 nam La Hầu nữ Kế Đô) : Mọi việc chỉ nên giới hạn, dù là cuộc vui hoặc giao thiệp cũng có nhiều sự bất lợi cho mình, hoặc chỉ là chuyện vui bình thường, dễ hao tài. Có người cần đến mình giúp đỡ hoặc nghe được tin xấu của họ. Sức khỏe không tốt. Việc mong cầu thường không được như ý, chậm trễ, khó quyết định.

- Mậu Tý (Hỏa, 67 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) :Mọi sự chờ đợi đã qua nay đã đến lúc thay đổi, hoặc bắt tay vào công việc. Ngày có nhiều chuyện tình cảm tốt. Có tin vui, hỷ sự. Tài lộc tốt. Tuy nhiên có những người chỉ đến để mà vui chơi hoặc trục lợi, khiến cho hao tốn hoặc sự gặp gỡ không được như ý vì có nhiều quan điểm khác nhau.

TỬ VI TUỔI SỬU THỨ 4:

- Đinh Sửu (Thủy, 18 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu – 78 nam Vân Hớn nữ La Hầu) :Có sự bạc bẽo, hời hợt trong tình cảm. Ngày có nhiều âu lo, buồn phiền vì có nhiều chuyện xảy ra gây rắc rối, trở ngại cho công việc cũng như sức khỏe, tình cảm. Không nên tin vào người khác hãy tự mình giải quyết lấy công việc của mình. Đi xa, di chuyển không có lợi hoặc phải nhọc công mới có kết quả.

- Ất Sửu (Kim, 30 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) : Làm gì cũng không nên quá đáng nhất là trong chuyện vui chơi, không có lợi. Có tài lộc nhỏ, hoặc tài lộc chậm chạp nhưng vẫn có kết quả. Có sự dời hẹn, sai hẹn chút ít.

- Quý Sửu (Mộc, 42 nam Vân Hớn nữ La Hầu) :  Nên giới hạn trong mọi việc giao thiệp, dễ gặp chuyện phiền lòng mà lại hao tốn không có kết quả. Tránh mọi chuyện thị phi, tranh cãi. Cẩn trọng khi đi lại, di chuyển. Nên xem trọng về sức khỏe hoặc cần phải suy nghĩ công lao của mình có được bù đắp xứng đáng hay không. Dễ có chuyện phiền hà, mất mát tình cảm, làm ơn nên oán. Tài lộc dễ có sự hao tốn vì những chuyện không đâu.

- Tân Sửu (Thổ, 54 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) :Sức khỏe không tốt. Ngày có nhiều sự hao tốn hay phải lo lắng cho công việc. Có tin buồn. Có người đến đem lại sự bất lợi cho mình. Có tin không tốt của thân nhân, bè bạn trong một chuyến đi hoặc công việc. Tài lộc trung bình. Nên tu bổ, dọn dẹp, làm những công việc cũ.

- Kỷ Sửu (Hỏa, 66 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) : Nên xem trọng về sức khỏe hoặc cần phải suy nghĩ công lao của mình có được bù đắp xứng đáng hay không. Dễ có chuyện phiền hà, mất mát tình cảm, làm ơn nên oán. Tài lộc dễ có sự hao tốn vì những chuyện không đâu.

TỬ VI TUỔI DẦN THỨ 4:

- Mậu Dần (Thổ, 17 nam Thái Âm nữ Thái Bạch, 77 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Nếu có tài lộc thì cũng phải chi phí trong chuyện giao thiệp, đi lại, chuyện tình cảm. Đến đâu cũng không được trọn vẹn vì có những công việc cần thiết phải làm. Công việc có gặp sự trở ngại, gia đạo có tin buồn hoặc có nhiều chuyện lo âu về sức khỏe, bổn mạng, công danh của mình, người thân. Có người giúp đỡ mình trong việc hoàn trả hoặc chi phí cần thiết.

- Bính Dần (Hỏa,29 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) : Có tin buồn về công danh, tài lộc, cũng như bổn mạng Của người thân, bè bạn. Tuy nhiên cũng có tin vui về sự thay đổi việc làm, hoàn cảnh sống của người thân khác. Ngày của sự đáo hạn, đến hẹn, định kỳ. Có cuộc vui nhỏ. Sự đi lại, di chuyển, có sự lòng vòng hoặc chậm trễ đôi chút. Tài lộc trung bình.

- Giáp Dần (Thủy, 41 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Nên bền chí nhẫn nại với tình trạng hiện tại, mọi việc còn chưa sáng tỏ, nhưng cũng nên bày tỏ ý định của mình để dễ thảo luận khi thay đổi phương hướng làm ăn, công danh, tình cảm. Sự mong cầu về tiền bạc, tình cảm còn trong giai đoạn chờ đợi nhưng sẽ đến.

- Nhâm Dần (Kim, 53 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) :  Nếu có tiền bạc, tài lộc thì cũng phải chi phí trong chuyện giao thiệp, đi lại, chuyện tình cảm. Đến đâu cũng không được trọn vẹn vì có những công việc cần thiết phải làm. Công việc có gặp sự trở ngại, gia đạo có tin buồn hoặc có nhiều chuyện lo âu về sức khỏe, bổn mạng, công danh của mình, người thân. Có người giúp đỡ mình trong việc hoàn trả hoặc chi phí cần thiết.

- Canh Dần (Mộc, 65 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) :  Mọi việc dễ gặp sự trắc trở, không thuận lợi, dễ gây ra những chuyện buồn phiền, sức khỏe không tốt. Không nên vì tình cảm mà làm hại đến công việc, dự tính của mình. Có tin xa. Công việc không nên tính toán quá nhiều sẽ không có lợi. Có quý nhân giúp đỡ nhưng chỉ là lời hứa. Có sự hoàn trả nợ nần, chi phí.

TỬ VI TUỔI MÃO THỨ 4:giữa Tam Tai

- Kỷ Mão (Thổ, 16 nam Kế Đô nữ Thái Dương, 76 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) : Ngày có nhiều chuyện phiền toái, rắc rối gặp trở ngại. Nên ra đi giải quyết công việc. Có sự tu bổ, sửa chữa, mua sắm. Không nên mưu cầu những việc lớn lao sẽ có hại. Có sự bôn ba, vất vả, xoay trở khó khăn, nên cầu viện ý kiến của người khác. Có lộc nhỏ.

- Đinh Mão (Hỏa, 28 nam La Hầu nữ Kế Đô) :Nên cẩn trọng trong mọi việc, và nên chú trọng vào công việc, nguyên tắc hơn là nặng về tình cảm mới tốt. Cuộc vui chơi nào cũng nên giới hạn, không nên kéo dài có hại. Tính toán gì cũng chỉ nên ngắn hạn và gọn ghẽ. Có tin tức về tiền bạc, nhưng còn chậm chạp chưa đến, dễ hao tài.

- Ất Mão (Thủy, 40 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) : Ngày đề phòng đau ốm, hoặc có chuyện buồn phiền về sức khỏe, tình cảm, tài lộc. Có tin buồn. Tài lộc khó khăn. Nếu có chỉ là sự vay mượn, tiền bồi thường, bồi hoàn. Có sự tu bổ, sửa chữa chỉnh đốn về nhà cửa, đồ đạc. Chuyện tình cảm, hẹn ước nên đợi dịp khác.

- Quý Mão (Kim, 52 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : Ngày có nhiều chuyện phiền toái, gặp trở ngại. Nên ra đi giải quyết công việc. Có sự tu bổ, sửa chữa, mua sắm. Không nên mưu cầu những việc lớn lao sẽ có hại. Có sự bôn ba, vất vả, xoay trở khó khăn, nên cầu viện ý kiến của quý nhân. Có lộc nhỏ. Có tin buồn. Nếu là chuyện gặp gỡ vui chơi, không nên kéo dài sẽ gặp chuyện không hay.

- Tân Mão (Mộc, 64 nam La Hầu nữ Kế Đô) : Những gì thất bại ở quá khứ nay nếu làm lại thì thành công. Có tài lộc. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn của người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Có tin xa. Có người nhờ mình giúp đỡ hoặc góp ý kiến.

TỬ VI TUỔI THÌN THỨ 4:

- Mậu Thìn (Mộc, 27 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) : Mọi việc không nên cưỡng cầu, hãy chấp nhận những gì mình đang có trong hiện tại, sẽ có lợi sau này. Có tin tức ở xa tốt cũng có mà xấu cũng có. Mọi việc nên chờ đợi không nên hấp tấp tiến hành, cũng không nên nghe ý kiến của những người khác. Có người ra đi, gặp lại người xưa. Tài lộc trung bình, định kỳ, đáo hạn.

- Bính Thìn (Thổ, 39 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) : Đã đến lúc cần phải có sự quay lại nơi chốn cũ để giải quyết các công việc cần thiết. Có tin buồn về tình cảm, hoặc có sự chậm trễ về sự giao hẹn, hẹn ước, có tin tức tốt ở xa. Có tài lộc. Ngày có sự sắp xếp, sửa chữa, chỉnh trang mọi việc.

- Giáp Thìn (Hỏa, 51 nam Vân Hớn nữ La Hầu) : Có tin xa, thuận lợi về công danh, tình cảm, tài lộc. Không nên e ngại khi đảm nhận các công việc khó khăn hoặc mới lạ. Sẽ có người hiểu được tài năng cũng như tâm tình của mình. Tài lộc dễ hao. Tình cảm tốt.

- Nhâm Thìn (Thủy, 63 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) :  Mọi việc không nên cưỡng cầu, hãy chấp nhận những gì mình đang có trong hiện tại, sẽ có lợi sau này. Có tin tức ở xa tốt cũng có mà xấu cũng có. Mọi việc nên chờ đợi không nên hấp tấp tiến hành, cũng không nên nghe ý kiến của những người khác. Có người ra đi, gặp lại người xưa. Tài lộc trung bình, định kỳ, đáo hạn.

- Canh Thìn (Kim, 75 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) : Chuyện giao du tình cảm, ước hẹn, hò hẹn coi chừng chỉ là lời nói suông, hoặc không có được kết quả gì, chỉ là sự chờ đợi, khó khăn, buồn phiền, hao tốn. Có tin xa. Có người đến nhờ mình giúp đỡ hoặc giúp về ý kiến, nhưng cũng không nên nhúng tay vào chuyện của người, ngoại trừ vì tình nghĩa mà mình phải hy sinh.

TỬ VI TUỔI TỴ THỨ 4:

- Kỷ Tỵ (Mộc, 26 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) :Ngày xung của bổn mạng. Có việc đi xa, gặp gỡ bè bạn, thân nhân hoặc có chuyện mình cần người giúp đỡ. Không nên tranh cãi, hoặc nhúng tay vào những việc của người khác dễ bị làm ơn mắc oán. Sự mong cầu về công việc, tin tức đều chậm, có trở ngại. Có tài lộc nhưng dễ hao. Nên kết thúc công việc.

- Đinh Tỵ (Thổ, 38 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) :  Ngày xung của bổn mạng. Nếu có việc cần phải ra đi thì cũng không nên ở lâu. Việc giao dịch, giao thiệp nên giữ lấy lập trường của mình chớ nên nghe lời bàn ra tán vào sẽ không có kết quả. Không nên ký kết, hứa hẹn, hấp tấp trong quyết định hoàn toàn không tốt. Có sự tu bổ, sửa chữa, mua sắm đồ đạc, vật dụng.

- Ất Tỵ (Hỏa, 50 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Ngày xung của bổn mạng. Nếu có người đến đề nghị công việc hoặc hợp tác thì nên chấp nhận. Nên có cuộc hẹn hoặc đi gặp gỡ sẽ có lợi. Ngày có tài lộc, hoặc gặp được chuyện như ý.

- Quý Tỵ (Thủy, 62 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) : Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn giữa mình và người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Ngày có nhiều bất lợi, mọi sự đều phải cẩn trọng. Đừng vì tự ái, bất mãn, khó khăn mà làm liều sẽ có sự thiệt thòi. Có tin buồn.

- Tân Tỵ (Kim, 74 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) :Ngày xung của bổn mạng. Có cuộc đi ngắn nhưng niềm vui không trọn vẹn. Việc vui chơi không nên quá lời. Mong cầu về tiền bạc tuy có nhưng dễ hao hoặc phải chia chác. Có tin buồn.

TỬ VI TUỔI NGỌ THỨ 4:

- Canh Ngọ (Thổ, 25 nam Kế Đô nữ Thái Dương) :Ngày có đám tiệc, gặp gỡ. Có người đi xa hoặc có tin xa. Nên cẩn trọng trong vấn đề di chuyển, đi lại, có rủi ro chút ít. Có sự thuận lợi về tiền bạc, tài lộc, công việc làm ăn, hao tán về giao thiệp, hoàn trả nợ nần, giúp đỡ, tu bổ, mua sắm.

- Mậu Ngọ (Hỏa, 37 nam La Hầu nữ Kế Đô) : Những gì thất bại ở quá khứ nay nếu làm lại thì thành công. Có tài lộc. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn của người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Có tin xa. Có người nhờ mình giúp đỡ hoặc góp ý kiến. Có cuộc đi ngắn.

- Bính Ngọ (Thủy, 49 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) :Làm gì cũng phải cầu việc đến ý kiến của quý nhân, thân nhân, không nên nóng vội. Mọi việc không thể chờ đợi, cần phải tiến hành. Nên tự mình ra đi để tìm phương hướng khác để giải quyết. Có tin tức ở xa hoặc có thân nhân, bè bạn đến, có tiệc tùng, đình đám, cuộc vui nhỏ. Có người đem tin buồn đến và cần nhờ vả, giúp đỡ.

- Giáp Ngọ (Kim, 61 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : Ngày thuận lợi cho việc sửa chữa, tu bổ, chữa bệnh. Tài lộc vào ra thất thường, hoặc chậm chạp. Có sự gặp gỡ của thân nhân, bè bạn, gặp lại người cũ. Có người đi xa hoặc thay đổi hoàn cảnh công danh cũng như về tình cảm. Có tin buồn ở xa.

- Nhâm Ngọ (Mộc, 73 nam La Hầu nữ Kế Đô) :  Những gì thất bại ở quá khứ nay nếu làm lại thì thành công. Có tài lộc. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn của người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Có tin xa. Có người nhờ mình giúp đỡ hoặc góp ý kiến. Có cuộc đi ngắn.

TỬ VI TUỔI MÙI THỨ 4: năm giữa Tam Tai

- Tân Mùi (Thổ, 24 nam Vân Hớn nữ La Hầu) :  Ngày có nhiều công việc bận rộn cần phải lo toan giải quyết, và còn có nhiều vấn đề ở phía sau. Cho nên mọi việc đều nên cẩn trọng vì một khi đã làm thì khó có sự thay đổi. Gia đạo hoặc trong công sở có sự tu bổ, sửa chữa, chỉnh đốn đồ đạc, vật dụng. Sức khỏe không tốt. Ngày không nên bày vẽ thêm mọi chuyện.

- Kỷ Mùi (Hỏa, 36 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) :  Mọi việc không nên lơ là dễ gặp rủi ro, hoặc bị trách oán, dèm pha. Cũng không nên tự tin vào sự tính toán của mình mà phải dò xét thêm về công việc cũng như ý kiến của người khác. Có sự tu bổ, sửa chữa, hao tốn về mua sắm, hoặc có sự hư hại về đồ đạc. Nên thay đổi hoàn cảnh sống, việc làm hiện tại. Có tin buồn. Tài lộc không tốt.

- Đinh Mùi (Thủy, 48 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức):  Không nên mưu tính những chuyện lớn lao chỉ có cực nhọc mà kết quả ít, hoặc gặp rủi ro, tai nạn, chuyện phiền lòng. Có tin buồn. Sự mong cầu về tin tức hay về công việc đều chậm chạp, trắc trở, có tin tức ở xa mong cầu ý kiến của mình hoặc có sự trách oán ngấm ngầm. Có quý nhân giúp đỡ về tiền bạc, hoặc có cơ hội, có lộc ăn.

- Ất Mùi (Kim, 60 nam Vân Hớn nữ La Hầu) : Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn của người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Có tin xa. Có người nhờ mình giúp đỡ hoặc góp ý kiến, nhưng nếu là việc của chính mình thì nên xin ý kiến của người mình xem trọng. Ngày có nhiều âu lo, sức khỏe không tốt.

- Quý Mùi (Mộc, 72 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) : Mọi việc không nên lơ là dễ gặp rủi ro, hoặc bị trách oán, dèm pha. Cũng không nên tự tin vào sự tính toán của mình mà phải dò xét thêm về công việc cũng như ý kiến của người khác. Có sự tu bổ, sửa chữa, hao tốn về mua sắm, hoặc có sự hư hại về đồ đạc. Nên thay đổi hoàn cảnh sống, việc làm hiện tại. Có tin buồn. Tài lộc không tốt.

TỬ VI TUỔI THÂN THỨ 4:

- Nhâm Thân (Kim, 23 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Chuyện tình cảm không nên để vướng bận sẽ có hại cho những việc khác. Sự mong cầu về công việc, tiền bạc, tin tức, tình cảm không nên nóng nảy, có sự chậm trễ chút ít nhưng vẫn có kết quả. Nên tiến hành công việc. Không nên e ngại khi nhận sự giúp đỡ của người khác.

- Canh Thân (Mộc, 35 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) :  Ngày có nhiều công việc hoặc có tin tức đến bận rộn khiến phải lo toan hoặc phải giao tiếp. Dù công việc dễ bị bỏ dở, hoặc có sự thiếu sót, gặp trở ngại cũng nên cố gắng hoàn tất rồi mới bàn tính đến việc khác. Có quý nhân giúp đỡ hoặc đến bàn chuyện có lợi cho mình.

- Mậu Thân (Thổ, 47 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) :  Chuyện tình cảm không nên để vướng bận sẽ có hại cho những việc khác. Sự mong cầu về công việc, tiền bạc, tin tức, tình cảm không nên nóng nảy, có sự chậm trễ chút ít nhưng vẫn có kết quả. Nên tiến hành công việc. Không nên e ngại khi nhận sự giúp đỡ của người khác.

- Bính Thân (Hỏa, 59 nam Thái Dương nữ Thổ Tú)  :  Mọi việc có liên quan đến tình cảm, vui chơi chỉ nên giới hạn, dễ có sự hao tốn mà lại chẳng có lợi. Nên đi xa, di chuyển. Sự mong cầu về tin tức làm có trở ngại, hoặc có chuyện bất hòa. Có tin vui về chuyện tình cảm. Tài lộc tốt.

- Giáp Thân (Thủy, 71 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) : Chuyện tình cảm không nên quyến luyến mà hãy để tự nhiên. Chớ nên ràng buộc nhau. Tình bạn nếu mới gặp gỡ không nên có những lời quá đáng đưa đến mích lòng. Sự mong cầu về tiền bạc còn chậm, hoặc chỉ là lộc nhỏ.

TỬ VI TUỔI DẬU THỨ 4:

- Quý Dậu (Kim, 22 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) : Ngày có sự đi xa, di chuyển, hoặc phải tiến hành công việc có tính cấp bách, không làm không được. Không nên hấp tấp trong mọi việc nhất là khi đi xa, di chuyển dễ bị rủi ro, tai nạn hoặc bị phạt vạ. Có tin buồn. Nếu là ngày nghỉ thì nên nghỉ ngơi không nên bày vẽ thêm. Ngày có sự hao tốn về giao tiếp, giúp đỡ, đám tiệc. Tuy nhiên vẫn có tài lộc, chuyện vui.

- Tân Dậu (Mộc, 34 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : Đề phòng sức khỏe không tốt. Có chuyện buồn. Nếu có người đến đề nghị công việc hoặc hợp tác thì không nên nhận lời, nên xem xét lại cho kỹ lưỡng. Nên xem trọng tình cảm của người khác đối với mình. Có quý nhân đến, giúp đỡ nhưng tài lộc, tiền bạc còn chậm.

- Kỷ Dậu (Thổ, 46 nam La Hầu nữ Kế Đô) : Ngày có sự đi xa, di chuyển, hoặc phải tiến hành công việc có tính cấp bách, không làm không được. Không nên hấp tấp trong mọi việc nhất là khi đi xa, di chuyển dễ bị rủi ro, tai nạn hoặc bị phạt vạ. Có tin buồn. Nếu là ngày nghỉ thì nên nghỉ ngơi không nên bày vẽ thêm. Ngày có sự hao tốn về giao tiếp, giúp đỡ, đám tiệc. Tuy nhiên vẫn có tài lộc, chuyện vui.

- Đinh Dậu (Hỏa, 58 nam Thái Bạch nữ Thái Âm) :Ngày có sự gặp gỡ, hội họp bè bạn, thân nhân, có chuyện vui. Nhưng cũng có tin buồn về bổn mạng, sức khỏe, công danh của người thân. Hao tốn về tiệc tùng, mua sắm. Cuộc vui không nên kéo dài sẽ xảy ra nhiều chuyện không vui.

- Ất Dậu (Thủy, 70 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : Chỉ nên ngồi yên hoặc việc như thế nào thì làm như thế ấy, nếu có cuộc đi ngắn hoặc dự tiệc tùng đình đám cũng không vừa ý. Sự hò hẹn chậm chạp, trắc trở hoặc chỉ đem đến điều không vui. Tài lộc bình thường.

TỬ VI TUỔI TUẤT THỨ 4:

- Giáp Tuất (Hỏa 21 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) : Đi xa bất lợi. Mọi công việc không nên tiến hành. Nếu có chỉ nên tu bổ, sửa chữa, dọn dẹp nơi ăn chốn ở, văn phòng, chữa bệnh. Sự mong cầu về tiền bạc còn chậm, khó có kết quả. Có người đi xa hoặc có tin tức ở xa.

- Nhâm Tuất (Thủy, 33 nam Vân Hớn nữ La Hầu) : Khởi đầu công việc bao giờ cũng bận rộn, trắc trở hoặc chờ mong tin tức chậm, có sự dời hẹn. Ngày có nhiều công việc, tin tức đến dồn dập, xảy ra nhiều chuyện bận rộn. Ngày có sự đáo hạn, đến hẹn, định kỳ. Nên tiến hành, không nên để mất cơ hội và giữ được uy tín. Có quý nhân giúp đỡ.

- Canh Tuất (Kim, 45 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu) :Những gì thất bại ở quá khứ nay nếu làm lại thì thành công. Có tài lộc. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn của người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Có tin xa. Có người nhờ mình giúp đỡ hoặc góp ý kiến. Có cuộc đi ngắn.

- Mậu Tuất (Mộc, 57 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức) :  Ngày có nhiều việc, tin tức đến dồn dập, xảy ra nhiều chuyện bận rộn. Có sự đáo hạn, đến hẹn, định kỳ. Nên tiến hành, không nên để mất cơ hội và giữ được uy tín. Có quý nhân giúp đỡ.

- Bính Tuất (Thổ, 69 nam Vân Hớn nữ La Hầu) : Dù công việc có khó khăn đến mấy, nhưng nếu đã có dự tính, thay đổi thì phải tiến hành một cách chân thành và nhiệt tình. Không nên e ngại sự trắc trở, trở ngại sẽ có kết quả tốt vào một ngày khác. Cũng không nên e ngại sự hao tốn hoặc phải bỏ công sức, vì sẽ có người hiểu được mình. Có cuộc vui nhỏ.

TỬ VI TUỔI HỢI THỨ 4: giữa Tam Tai

- Ất Hợi (Hỏa, 20 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) : Ngày tuổi của bổn mạng. Hãy để mọi việc xảy ra tự nhiên không nên toan tính hoặc thay đổi tình trạng hiện tại. Ngày khó có sự kết thúc trong việc mong cầu. Tài lộc trung bình.

- Quý Hợi (Thủy, 32 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Ngày tuổi của bổn mạng. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn giữa mình và người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Ngày có nhiều bất lợi, mọi sự đều phải cẩn trọng. Đừng vì tự ái, bất mãn, khó khăn mà làm liều sẽ có sự thiệt thòi. Có tin buồn.

- Tân Hợi (Kim, 44 nam Thái Âm nữ Thái Bạch) : Ngày tuổi của bổn mạng. Hãy để mọi việc xảy ra tự nhiên, không nên toan tính hoặc thay đổi tình trạng hiện tại. Ngày khó có thể kết thúc trong việc mong cầu. Đề phòng có những sự việc xảy ra không đúng với dự tính và còn có nhiều vấn đề khúc mắc ở phía sau. Chỉ nên nghỉ ngơi, làm việc cũ, mua sắm, sửa chữa. Tài lộc trung bình.

- Kỷ Hợi (Mộc, 56 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn) :Ngày tuổi của bổn mạng. Có tin tức sa thải, nghỉ việc, thuyên chuyển, ưu phiền, rắc rối, xung đột, bệnh tật, tai nạn giữa mình và người thân, bè bạn trong công sở hoặc trong gia đạo. Có tin thay đổi chỗ ở, văn phòng, nơi kinh doanh. Ngày có nhiều bất lợi, mọi sự đều phải cẩn trọng. Đừng vì tự ái, bất mãn, khó khăn mà làm liều sẽ có sự thiệt thòi. Có tin buồn.

- Đinh Hợi (Thổ, 68 nam Thái Dương nữ Thổ Tú) : Ngày tuổi của bổn mạng. Dù có gặp tin tức không thuận lợi cũng không nên nóng vội. Hãy dùng tình cảm để giải quyết mọi chuyện hoặc tìm gặp quý nhân thăm hỏi ý kiến. Nếu không có việc gì thì cũng không nên bày vẽ chỉ gặp mọi chuyện không hay chỉ đưa đến hao tốn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi thứ 4 của 12 Con Giáp ngày 4 tháng 2 năm 2015 - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Mơ thấy nha sĩ: Cẩn thận trong quan hệ giao tiếp –

Hình ảnh nha sĩ trong mắt mỗi người đều gắn liền với cảm giác đau nhức. Mỗi khi tưởng tượng đến chuyện đau răng, ai nấy đều cảm thấy như đang rơi vào tình trạng căng thẳng, lo lắng, bởi thế chẳng mấy ai lại thích gặp gỡ nha sĩ.   Nếu bạn mơ thấy
Mơ thấy nha sĩ: Cẩn thận trong quan hệ giao tiếp –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nha sĩ: Cẩn thận trong quan hệ giao tiếp –

Những điều nên tránh trong năm Bính Thân

Con khỉ lửa (Hỏa hầu) làm chủ năm nay, thêm vào đó là Sơn Hạ Hỏa (lửa chân núi) nên mọi người cần chú ý bổ sung thêm Mộc để lửa cháy càng to càng tốt, mang đến nhiều tài lộc, may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Năng lượng của năm Bính Thân mang đến những bước nhảy vọt trong cuộc sống. Năm nay là thởi điểm để tạo ra những sự thay đổi mới, thậm chí cả những kế hoạch tham vọng nhất cũng có thể thành công. Trong năm nay, mọi việc đều có thể khởi sắc, chỉ cần đừng cả tin và tin tưởng vào những người không xứng đáng. Con khỉ khôn ngoan sẽ dẫn lối cho bạn.

Tính theo Ngũ hành, năm nay là Hỏa Hầu (con Khỉ lửa). Lửa đến là tài lộc đến. Lửa cháy mạnh thì bệnh tật, xui xẻo sẽ bị thiêu rụi. Năm nay, bạn chỉ cần lưu ý không hấp tấp, đặc biệt là những tháng mùa hạ. Trong Phật giáo có một câu chuyện về "ba con khỉ" răn dạy con người về tâm trí. Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành này sang cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước. Tâm người ta cũng thế, không khi nào được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ, nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác. Nghĩ quá nhiều khiến con người bị loạn, hành động rối bời. Hình ảnh ba con khỉ “bịt mắt để dùng tâm mà nhìn, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói” giúp con người từng bước suy nghĩ kĩ và hành động.

Những em bé sinh ra trong năm nay sẽ mang mệnh Sơn Hạ Hỏa (Lửa chân núi). Mệnh Hỏa này cần có thêm Mộc (Mộc sinh Hỏa) để khiến lửa cháy to hơn, qua đó sẽ gặp nhiều thành công, may mắn.

Giờ may mắn

Trong năm con khỉ, nếu hành sự quan trọng thì nên tiến hành trong các khung giờ thuận lợi và may mắn.

- Giờ Tý: 23:00 giờ - 1 giờ

- Giờ Thìn: 7 giờ - 9 giờ

- Giờ Tỵ: 9 giờ - 11 giờ

- Giờ Thân: 15 giờ - 17 giờ

Theo Đông Đông Khampha.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên tránh trong năm Bính Thân

Xem người chết ở tuổi tốt hay xấu –

Nữ Nữ Tị Ngọ Mùi Thân 1 hay 10 Thìn Rơi ô Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thiên ri Rơi ô Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là nhập mộ hết số Rơi ô Dần, Thân, Tị, Hợi là trùng tang Dậu Mão Tuất Dần 1 hay 10 Sửu Tý Hợi Nam * Quy tắc tính tuổi âm lịch: Mỗi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem_clip_dien_tap_phao_tin_dong_dat_chet_nguoi_0                     Nữ

Nữ

Tị

Ngọ

Mùi

Thân 1 hay 10

Thìn

Rơi ô Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thiên ri

Rơi ô Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là nhập mộ hết số

Rơi ô Dần, Thân, Tị, Hợi là trùng tang

Dậu

Mão

Tuất

Dần 1 hay 10

Sửu

Hợi

Nam

* Quy tắc tính tuổi âm lịch: Mỗi cung tương ứng với 1 năm tuổi, nam bắt đầu từ cung Dần, tính thuận chiều kim đồng hồ; nữ bắt đầu từ cung Thân, tính ngược chiều kim đồng hồ. Bắt đầu từ 1 tuổi… đến tuổi chết. Hoặc bắt đầu từ 10 tuổi ở ô Dần, 20 ở ô Mão, đếm tiếp 21, 22 hay 31, 32… 71, 72, hay  81, 82. Nếu tuổi chết mà rơi vào ô Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là người đó đã hết số trời, không sao. Nếu rơi vào ô Dần – Thân – Ti – Hơi là chết bị trùng tang phải làm phép trị trùng. Nếu rơi vào ô Tý – Ngọ – Mão – Dậu là người đó bị thiên ri, chưa hết số mà chết (với người chết trẻ) hoặc chết nhưng phải trả nợ những lỗi lầm khi sống.

Ví dụ: Người chết là nam, ở tuổi 72 (tuổi âm): Bắt đầu từ ô Dần 10 tuổi, Mão 20, Thìn 30, Tị 40, Ngọ 50, Mùi 60, Thân 70, từ Dậu ta tính tuổi lẻ 71 đến ô Tuất là 72. Vậy chết ở tuổi 72 rơi vào ô Tuất là nhập mộ, người này đã hết số nên không phạm gì, vì các ô Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là nhập mộ. Song nếu chết ở tuổi 73 rơi vào ô Hợi là chết trùng tang, vì các ô Dần – Thân – Tị – Hợi là chết trùng. Nếu chết ở tuổi 74 rơi vào ô Tý là thọ nhưng phải trả nợ những lỗi lầm khi sống. Nếu còn trẻ là chưa hết số, nhưng phải đoản kiếp vì nhiều lẽ.

Ví dụ 2: Người chết là nữ, ở tuổi 65 (tuổi âm): Tính 10 tuổi ở ô Thân, ngược chiều đồng hồ tức 20 ở ô Mùi, 30 ở ô Ngọ, 40 ở ô Tị, 50 ở ô Thìn, 60 ở ô Mão. Từ ô Dần tính tuổi lẻ 61, Sửu 62, Tý 63, Hợi 64, Tuất 65. Vậy người này được nhập mộ, nhưng nếu chết ở tuổi 67 thì bị trùng tang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem người chết ở tuổi tốt hay xấu –

Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Theo luật nhân quả của đạo Phật, sẽ tùy vào nghiệp mà mình đã làm khi sống mà khi chết được lên cõi Niết Bàn hay bị đầy xuống địa ngục.
Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dấu hiệu sau khi chết sẽ báo cho bạn biết, sau kiếp người bạn sẽ trở thành gì.


Dao Phat day cach phan biet nguoi duoc len Niet Ban va nguoi bi day dia nguc hinh anh
 
Luật nhân quả hồi báo của đạo Phật là một trong những giáo lý chính, mang tính cốt lõi căn bản. Khi sống tạo nhiều nghiệp lành, tích cực tu tâm dưỡng tính thì khi chết sẽ được được tôn lên làm Thánh, hay đầu thai làm người. Khi sống mà chỉ làm điều ác, gieo nghiệp ác thì thác đi nhất định bị đày xuống địa ngục làm ngạ quỷ hay kiếp cầm thú.
 
Theo Kinh A Hàm của Phật giáo, người sau khi chết thân thể sẽ mất dần dương khí, trở nên lạnh ngắt nhưng vẫn có một điểm còn ấm nóng sau cùng trước khi lạnh hoàn toàn. Tùy vào vị trí điểm nóng cuối cùng trên thân thể mà biết được, người đó tiếp theo sẽ trở thành gì.
 
Nơi nào Thần Thức thoát ra sau cùng thì nơi đó là nơi còn ấm sau cùng trong thân thể, và có sáu nơi tiêu biểu cho sáu đường tái sinh là đỉnh đầu, mắt, ngực, bụng, đầu gối, hai lòng bàn chân. 6 vị trí ấy biểu hiện cho 6 cõi con người có thể sa vào sau khi chết.
 
1) Đỉnh Thánh: Khi một người đã chết được vài giờ, khắp thân thể chỗ nào cũng giá lạnh như băng, nhưng vẫn còn điểm nóng trên đỉnh đầu, nghĩa là thần thức của người này do nơi đỉnh đầu mà xuất ra khỏi thân xác. Người ấy sẽ siêu thoát về cõi Thánh cảnh.
 
2) Mắt sinh Thiên: Khi điểm nóng sau cùng trên thân thể là hai mắt và trán thì thần thức của người ấy đã sinh về cõi trời, tức là được lên Niết Bàn.
 
3) Tim Người: Khi điểm nóng sau cùng nơi tim, là thần thức của người ấy đã sinh lại cõi người, đầu thai kiếp sau lại được làm người.
 
4) Bụng Ngạ quỷ: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là bụng, thì thần thức của người ấy đã sinh làm ngạ quỷ, bị đầy xuống địa ngục làm quỷ đói hoặc lang thang thành cô hồn vương vất ở trần gian
 
5) Đầu gối Bàng sinh: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là đầu gối, thì thần thức của người ấy đã tái sanh vào loại thú, kiếp sau đầu thai thành con vật.
 
6) Lòng bàn chân Địa ngục: Khi điểm nóng sau cùng trong thân là lòng bàn chân, thì thần thức của người ấy đã bị đọa vào địa ngục, bị giam hãm không được tái sinh.  
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Theo Xuân Giao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Ngũ hành Hỏa - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Nạp âm của ngũ hành Hỏa gồm 6 đại điện là Lư Trung Hỏa, Phúc Đăng Hỏa, Tích Lịch Hỏa, Sơn Hạ Hỏa, Thiên Thượng Hỏa, Sơn Đầu Hỏa.
Ngũ hành Hỏa - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp âm của ngũ hành Hỏa gồm 6 đại điện là Lư Trung Hỏa, Phúc Đăng Hỏa, Tích Lịch Hỏa, Sơn Hạ Hỏa, Thiên Thượng Hỏa, Sơn Đầu Hỏa.


Ngu hanh Hoa - Tong hop y nghia cac nap am  hinh anh
 
Phúc Đăng, Lư Trung dữ Sơn Đầu Tam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưu Thiên Thượng, Tích , Sơn hạ Hỏa Thủy trung nhất ngô cân vương hầu

Ngũ hành Hỏa vượng thì được Thủy nên danh lợi lưỡng toàn. 

Hỏa sinh Thổ, Thổ nhiều thì Hỏa mờ mịt, Hỏa mạnh thì sinh Thổ như vậy mới hạn chế được ngọn lửa.

 Hỏa khắc Kim, Kim nhiều thì Hỏa lụi, Kim yếu thì gặp Hỏa, đều có thể tiêu tan.

 Hỏa sinh nhờ Mộc, Mộc nhiều thì Hỏa thêm vượng, Mộc có thể sinh ra Hỏa nên Hỏa nhiều thì Mộc diệt.
 

1. Tích Lịch Hỏa - Lửa sấm sét


Đào Tông Ngại viết: "Mậu Tý, Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa, Sửu thuộc Thổ, Tý thuộc Thủy, Thủy cứ chính vị mà nạp âm vẫn thuộc Hỏa, trong Thủy có Hỏa thì chỉ có Long Thần nên gọi thành Lửa sấm sét". 
Hỏa cứ trên Thủy thì chỉ có sấm sét mới xuất hiện hiện tượng này, xưng là Tích Lịch tức là đột nhiên phát ra âm thanh vang động.
 Tích Lịch Hỏa vừa phát ra ánh chớp trên trời cao hiệu lệnh cửu thiên khắp trời toàn rắn trắng, mây vần vũ như thiết mã. Nhưng Hỏa này phải có nước, gió, lửa, lôi tương trợ thì mới có thể biến hóa. Chỉ cần nghe thấy Tích Lịch Hỏa là có thể liên tưởng tới tốc độ nhanh như gió, sức mạnh thần thánh, tuy nhiên đến nhanh mà đi cũng rất nhanh giống như một kẻ khẩu xà tâm phật vậy, phát tiết nhanh rồi trôi qua như mây gió.
 

2. Lư Trung Hỏa - Lửa trong lò


Đào Tông Ngại viết về phần này trong ngũ hành Hoả: "Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa, Dần là Tam dương, Mão là Tứ dương nên Hỏa này được đất tương sinh, lại được Mộc của Dần và Mão nuôi dưỡng, lúc này thiên địa khai lửa, vạn vận sinh sôi nên gọi thành Lửa trong lò". 
Dần là trường sinh Hỏa, Dần Mão đều có phương vị phía Đông Hỏa khí phát tán dần dần nên lửa trong lò càng đốt càng cháy mãnh liệt, lấy thiên địa làm lò, lấy âm dương lưỡng khí làm  than thì mới huy hoàng cháy sáng khắp vũ trụ càn khôn.
Lửa trong lò thì không thể một khắc  bùng cháy mà phải nuôi dưỡng từ mồi lửa nhỏ rồi thêm củi Mộc khiến nó trở ấm nóng rồi thế lửa mới phát huy hết được công dụng . Cũng giống như một người trầm tĩnh, tự tin làm việc có kế hoạch biết tích luỹ kinh nghiệm vậy.
 

3. Phúc Đăng Hỏa - Lửa đèn chụp


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Thìn, Ất Tỵ là Phúc Đăng Hỏa, Thìn là thực thời, Tỵ là ấu, tướng của nhật ánh sáng âm tuyệt chiếu rọi thiên hạ nên gọi thành Lửa đèn chụp". 
Phúc Đăng Hỏa lấy nhật nguyệt làm đèn, ánh sáng phủ khắp nơi thì đèn này lớn nếu là loại đèn đế thường thì ánh sáng bị hạn chế nên đèn này, lửa này nhỏ.
 Sử chép: “Giáp thiên, Ất Tỵ khí hình thượng đất thế nhất định cao, chế độ cha truyền con nối nên là Phúc Đăng Hỏa". Lại có nghe "Phúc Đăng Hỏa kim đài ngự sáng, ngọc đài thổ tuyệt, chỉ chiếu nhật nguyệt không chiếu tứ phương, vào lúc trời chưa sáng tỏ lúc này Hỏa là Hỏa giữa nhân gian u tối”
. Loại lửa bị chia cách bởi chụp đèn nên chỉ có thể nhìn thấy ánh sáng mà không nhìn được ngọn lửa nhiệt huyết, ngọn lửa bi thương bên trong giống như sự hi sinh âm thầm của một người vậy.
 

4. Thiên thượng Hỏa - Lửa trên trời


Đào Tông Ngại viết: "Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất vượng của Hỏa, trong Mùi có Mộc có thể phục sinh Hỏa, Hỏa tính nhạt dần lại gặp sinh địa nên gọi là Lửa trên trời".
 Lửa trên trời có hai loại: 
1. Mậu Ngọ đại diện cho Nguyệt Đức của Thái Dương, dương đức cao quý, chiếu rọi thiên không nên còn gọi là dương cương Hỏa.
 2. Kỷ Mùi đại diện cho Nguyệt Đức của Thái Âm, âm đức hiền hoà, ánh sáng trắng lan toả dân gian nên gọi âm nhu hòa (bản tính của Mùi là Thổ nhưng lại tàng Ất Mộc).
 Thiên Thượng Hỏa chỉ thái dương, ánh sáng chiếu rọi dương gian chí công vô tư, ban phát ân huệ, chiếu sáng tâm can con người, ai cũng bình đẳng cùng nhau chung sống chan hòa giống như luồng chính nghĩa quang minh chính đại, hào sảng yêu thích giúp đỡ mọi người vậy. 
 

5. Sơn Hạ Hỏa - Lửa dưới núi


Đào Tông Ngại viết: "Bính Thân, Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa; Thân là nhà là đất, Dậu là ngày vào cửa, lúc đó ánh sáng le lói che giấu nên gọi là Lửa dưới núi". 
Sơn Hạ Hỏa có thể lí giải đơn giản như ánh mặt trời sắp rơi xuống chân núi phía Tây, khí của nó sắp tàn, hình của nó sắp lụi, sức mạnh thế lực cùng vì thế mà yếu dần, đối vị với Quy Túc(tức Dậu Cung) sức nhỏ thể yếu, ánh sáng le lói. Chiều Hán phía Đông được dựng lên như ánh sáng ảo ảnh của con thiêu thân, huy hoàng như đám cỏ lau chân núi. Nói như vậy không có nghĩa Sơn Hạ Hỏa không có tính chất đặc biệt của lửa mặt trời, mà ngược lại Sơn Hạ Hỏa rất mạnh mẽ, tính chủ quan cao, có thể bảo vệ bản thân và người khác chỉ là có tìm được người hiểu và thưởng thức nó hay không thôi.
 

6. Sơn Đầu Hỏa - Lửa đầu núi


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Tuất, Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, lửa chiếu thiên môn phát ra thứ ánh sáng cao quý chói lòa nên gọi thành Lửa đầu núi". 
Sơn Đầu Hỏa dùng núi để ẩn náu, bên trong sáng lạn, rõ ràng bên ngoài ẩn giấu bí hiểm khó lường. Ẩn mà không lộ, ánh sáng bay cao đầu vào càn (Càn chính là cung Tuất Hợi) rồi nghỉ ngơi. 
Sơn Đầu Hỏa là ngọn lửa hoang dã, sinh giữa chốn thiên nhiên nên kéo rất dài chiếu rất xa, khi tàn thì như ánh hoàng hôn đang lặn, như ngày rơi xuống ánh sáng phía Tây kia vậy. Lửa trong ngũ hành Hỏa từ trên núi nhìn vừa xa vừa cao, mặc dù khi bốc lên vô cùng mãnh liệt và hung dữ thì khi mất đi lại vô cùng dễ dàng biến mất không chút tàn tích. 
► Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ

Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành Hỏa - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tuỳ từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một khác. Thời trước có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hành công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thành phố thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo.
Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ an táng tiến hành tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm đơn". Ở đây chỉ nói phần tang gia cần làm gì:

  • Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc theo quy ước đã định.
  • Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu.
  • Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục "Cha đưa mẹ đón".
  • Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất.
  • Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần.
  • Nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc, đãi người đắp mộ... 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Màu sắc phòng ngủ nói gì về tính cách của bạn

Người thích màu vàng có tính cách vui vẻ trong khi sắc tím thường là lựa chọn của những người làm trong lĩnh vực truyền cảm hứng .

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu tím

Đây là màu của sự bí ẩn, sang trọng, cao quý và thể hiện sức mạnh tinh thần. Những người hoạt động trong lĩnh vực liên quan tới việc truyền cảm hứng thường lựa chọn màu này cho nơi nghỉ ngơi của mình. Phòng ngủ có sắc tím sẽ giúp tăng cường tinh thần của bạn tốt hơn.

mau-sac-phong-ngu-noi-gi-ve-tinh-cach-cua-ban

Màu sắc của không gian ở được chứng minh có tác động mạnh tới tinh thần của bạn. Ảnh: Eligible.

Màu chàm

Sự hiểu biết, kín đáo và bản năng được thể hiện qua màu chàm. Những người duy tâm và dũng cảm thường ưa thích tông màu này. Sự kết hợp chừng mực của màu chàm với các màu khác sẽ tăng cường sự chính trực, trung thành của chủ nhà. Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng quá đà màu chàm sẽ gây ra những tác động tiêu cực.

Màu lam

Màu lam gắn liền với hòa bình, sự thật và lòng trung thành. Đây cũng là màu biểu trưng cho năng lượng âm và yếu tố nước. Mặc dù màu xanh đem lại sự bình tĩnh nhưng nếu có quá nhiều màu lạnh trong phòng sẽ khiến bạn lười biếng. Những người có tính cách truyền thống thường lựa chọn sắc lam cho nơi nghỉ ngơi của mình.

Màu lục

Khởi đầu mới, sự cân bằng, hạnh phúc gắn liền với màu lục. Nếu bạn cần cảm giác ổn định, an toàn, hãy lựa chọn màu này cho phòng ngủ của mình. Trong phong thủy, màu lục cũng gắn liền với Mộc - cây xanh, đem lại không gian bình yên cho ngôi nhà.

Màu vàng

Hạnh phúc, niềm vui, trí tuệ và logic được thể hiện qua màu vàng. Ai yêu thích màu này cũng là người vui vẻ và đem lại sự phấn khởi cho mọi người. Sắc vàng đậm thúc đẩy sự phát triển còn vàng nhạt giúp tâm trí bạn được minh mẫn hơn.

Màu cam

Nếu bạn thích màu cam, bạn là người thích tìm tòi, khám phá. Hầu hết những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo đều là fan của màu này. Đây cũng là màu sắc thể hiện quyền lực, sự tự chủ. Tuy nhiên, bạn cần hết sức cẩn trọng khi sử dụng màu cam vì nếu có quá nhiều màu nóng trong phòng, bạn sẽ khó có giấc ngủ ngon.


Màu đỏ

Đây là màu thể hiện cho sức sống, đam mê, tính táo bạo. Những người có tính cách thân thiện, cởi mở thường yêu thích màu đỏ. Khi bạn chọn màu nóng, phòng ngủ của bạn sẽ có thêm năng lượng, phấn khích và nhiệt tình. Tuy nhiên, nếu phòng có quá nhiều đồ màu đỏ sẽ tạo cảm giác bức xúc, nóng giận.


Lam Huyền (Theo Eligible)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc phòng ngủ nói gì về tính cách của bạn

Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?
Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Tương truyền vàng bạc châu báu trong phủ Hòa Thân còn nhiều gấp mấy ngân khố của vua. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?   Nói đến những kiến trúc cổ ở Bắc Kinh thì có lẽ không thể không nhắc đến Cung Vương Phủ của Hòa Thân. Từ xưa đã có câu nói rằng “Một tòa Cung Vương Phủ, nửa quyển sử Thanh triều”. Được mệnh danh là Đệ nhất tham quan, cái mà Hòa Thân không thiếu nhất chính là tiền bạc, lẽ đương nhiên không thể không am hiểu về phong thủy.


chan dung Hoa Than
chân dung Hòa Thân
  Vậy Cung Vương Phủ - cấm phủ nơi Hòa Thân sinh sống có phong thủy ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về những bí mật phong thủy ẩn giấu phía sau nhé.  

1. Địa thế phong thủy nơi Cung Vương Phủ

  Tương truyền, Bắc Kinh được trấn giữ bởi 2 long mạch, một là Thổ Long, tức long mạch ở Cố Cung, hai là Thủy Long, tức là vành đai Hậu Hải và Bắc Hải, mà Cung Vương Phủ lại vừa khéo nằm ở đường giao nhau giữa Hậu Hải và Bắc Hải, tọa chính long mạch nên phong thủy cực kì tốt.

Mời bạn đọc thêm: Long mạch dưới góc nhìn khoa học.
  Đã có rất nhiều bậc danh tướng, đại nguyên soái của Trung Hoa có phủ đệ gần với Cung Vương Phủ và đều là những người sống trường thọ. Nghe nói nơi có nhiều người sống thọ nhất Bắc Kinh chính là khu vực xung quanh Cung Vương Phủ. Nơi này được ví như bảo địa phong thủy vậy.


dia the tran giu long mach o cung vuong phu
 
  Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là người rất am tường về thuật phong thủy, đương thời đã không tiếc lời khen cho phủ Hòa Thân. Cổ nhân coi Thủy là Tài, mà trong Cung Vương Phủ nơi nơi đều thấy nước, mà nước ở hồ lớn nhất trong phủ chính là được dẫn về từ Ngọc Tuyền Hồ. Tương truyền chỉ có Hoàng Thượng mới được dẫn nước ở đây về hoàng cung. Ấy vậy mà phủ Hòa Thân dám làm điều đó, mà nước chỉ chảy vào trong phủ chứ tuyệt đối không lọt ra ngoài, điều này càng phù hợp với học thuyết phong thủy liệm tài (giấu tài).  

2. Kiến trúc “Tiền trách hậu khoan”

  Theo phong thủy, tiền trách hậu khoan, tức trước hẹp sau rộng thì phú quý dư thừa. Cung Vương Phủ là ví dụ điển hình cho lối kiến trúc này. Khi Hòa Thân lựa nơi này để làm phủ đệ thì địa khí của nó đang chính vượng, mà như chúng ta đều biết, Hòa Thân là người thông minh tuyệt đỉnh, lại tinh thông phong thủy nên dù là bối cảnh bên ngoài phủ hay bố cục nội phủ đều được Hòa Thân thiết kế vô cùng tỉ mỉ. 


hon da truoc cung vuong phu
 
  Một tòa phủ đệ xây lên được ví như một kiệt tác phong thủy, nâng đỡ Hòa Thân lên tới đỉnh cao danh vọng, cả nhân khí và tài khí đều lên đến đỉnh điểm. Con người có ba loại vận khí, Thăng – Vượng – Mộ, song Hòa Thân thăng nhanh, vượng đến cực hạn nên mộ lạc cũng nhanh vậy.  

3. Bài trí đá trong khuôn viên phủ

  Trong phủ Hòa Thân được bài trí nhiều phiến đá, đá tảng hình thù kì dị, song có hai điểm đặc biệt không thể không nhắc đến. Thứ nhất, nơi cổng vào đặt một hòn đá, nhọn và cao khoảng 2m, có hình giống một đứa trẻ. Hòa Thân lúc bấy giờ vừa nhìn thấy hòn đá này đã cực kì thích thú, bèn đem về đặt ngay trước cửa phủ.   Lý do là gì, có bí mật phong thủy gì ở đây không? Nghe nói hòn đá đó được dùng để chiếu bích, ngăn tà khí xâm nhập vào phủ, cũng chắn không cho tài khí thoát ra ngoài. Thêm nữa, Hòa Thân cả đời chỉ sinh được một người con trai, còn lại đều là nữ nhi nên cực kì khao khát có con trai, mà hòn đá đó lại có hình dáng giống một đứa bé trai nên còn được gọi là Tống Tử Thạch (đá tặng con). Hòa Thân đặt hòn đá trấn phủ là mong muốn nhờ nó mang lại phúc lộc đường con cái, giúp gia tộc càng thêm hưng vượng, đông con nhiều cháu.


tieu dinh trong phu hoa than
 
  Những hòn đá khác phần lớn đều được chuyển từ phương nam tới, mang đủ hình thù kì quái khác nhau. Chúng được nhân công vận chuyển theo đường sông, lựa những tảng băng kết lại khi mùa đông để đẩy lên đó. Số lượng nhiều đến nỗi mà nghe nói đá được chất bên sông từ năm này qua năm khác, mùa đông này chưa chuyển hết thì chờ đến mùa đông sang năm, khi nước đóng thành băng thì tiếp tục chuyển. Tới năm Hồng Lịch thứ 7, công trình Cung Vương Phủ mới được hoàn thành.   Người xưa quan niệm rằng đá mang theo phúc khí, chính vì thế mà Cung Vương Phủ cũng là vương phủ có nhiều đá nhất, thậm chí người ta còn truyền nhau rằng, số lượng đá trong hoàng cung cũng chẳng là gì so với số lượng đá ở phủ Hòa Thân.   Trong phủ có hai hòn giả sơn rất lớn, hình dáng kì vĩ. Đặc biệt hơn, thời đó vẫn chưa có chất kết dính tốt để gắn kết các tảng đá với nhau, hòn giả sơn đã được làm nhờ dùng cơm nếp hòa với phèn trắng để gắn lại, xếp đặt các tảng đá lên nhau tạo nên hình dáng.  

4. Một vạn con nhện

  Trong phủ Hòa Thân, bạn có thể nhìn thấy nhện với đủ mọi hình dáng, giống loài ở khắp nơi nơi. Người xưa tin rằng nhện là biên phúc, đồng âm với chữ phúc nên cũng mang tới phúc lành, mang theo may mắn. Nhện trong phong thủy mang theo điềm may mắn về tài lộc.   Hòa Thân không chỉ tham tài hám lợi mà còn cực kì mê tín. Trong Cung Vương Phủ, từ chậu cây, chậu hoa hay đá tảng đều được chạm khắc hay xếp đặt thành hình con nhện. Đi vào trong phủ, bạn sẽ bị hoa mắt bởi đủ hình thù của đá đều na ná hình con nhện. Thậm chí trên cửa hay vách nhà cũng có nhện, có con được khắc chìm, có con được khắc nổi, tổng cộng có tới 9999 con. 9999 con nhện tức là 9999 chữ Phúc, thêm một chữ Phúc mà Khang Hy ngự bút nữa là 1 vạn chữ phúc, Cung Vương Phủ vạn phúc.  

3. Bóng người ở vườn cây Ngô đồng

  Trong phủ Hòa Thân có một khu vườn nhỏ nằm tách biệt hẳn ra ngoài. Nơi đó trồng đầy những cây ngô đồng to cao song lại rất yểu điệu thướt tha, nhìn đẹp vô cùng. Mỗi khi gió thổi qua là rừng cây xào xạc, tựa như tiếng khóc than nỉ non của phụ nữ và trẻ em. Nơi đó được gọi là Ngô đồng viện.   Khu vườn nhỏ xinh đẹp như vậy nhưng lại giấu phía sau mình câu chuyện không hề đẹp. Ngô đồng viện chính là lãnh cung trong Cung Vương Phủ, tất cả những thê thiếp thất sủng đều bị Hòa Thân đem nhốt ở nơi đây. Họ cô đơn héo mòn không ai hay biết, cuối cùng lấy nước mắt rửa mặt, u buồn mà chết.


bong ma trong Cung vuong phu
 
  Cả khu vườn bị âm khí bao trùm. Âm khí nặng tới nỗi hễ ai bước vào trong đều bất giác nổi da gà, thấy lạnh toàn thân, trước kia nghe nói không một ai dám đặt chân vào trong đó. Tối đến, người ta nghe thấy từ trong Ngô đồng viện vọng ra tiếng khóc than ai oán. Thậm chí vào những đêm mưa gió bão bùng, nhiều người khẳng định họ tận mắt nhìn thấy bóng phụ nữ mặc trang phục triều Thanh xuất hiện trong khu vườn, lả lướt đi lại như đang nhảy múa. Cái bóng thường được phản chiếu lên vách tường gần cổng viện, hình ảnh sống động như người thật.   Sau khi Trung Quốc được giải phóng khỏi tay quân Nhật, một người lính gác đêm từng đi qua nơi này, vô tình nhìn thấy có cô gái đang đứng trước cổng viện khóc lóc thảm thiết, người này sợ tới hồn bay phách lạc, bỏ chạy về phòng trực ban. Ngay sau đó, người lính này lập tức đổ bệnh, thần trí điên cuồng. Chuyện này kinh động tới cả Quốc vụ viện, lãnh đạo cho phái rất nhiều bác sĩ, chuyên gia đến khám nhưng đều không tìm ra bệnh của người lính mắc phải là gì, cuối cùng người đó sợ hãi quá mà chết.   Quốc vụ viện bèn cử rất nhiều binh lính cùng chuyên gia đến đóng quân ở trong Cung Vương Phủ để tìm lời giải cho câu đố ghê người này. Sau cùng chuyên gia đưa ra kết luận như sau: Ngày xưa, đây là nơi ẩm ướt, trên vách tường tích tụ rất nhiều kali nitrat, đêm mưa bão sấm chớp có cô gái đứng khóc trước tường, kali nitrat và tia lửa điện sấm sét nảy sinh phản ứng hóa học, in hình người lên bức vách. Đó là lý do mà từ đó về sau, cứ mỗi khi trời mưa bão, có sấm chớp thì hình cô gái trên bức vách lại hiện ra. Đây là hiện tượng khoa học chứ hoàn toàn không có chút ma quỷ nào cả.   Tuy lời chuyên gia giải thích có lý như vậy như vẫn có rất nhiều chuyện khác ở phủ Hòa Thân không thể lý giải được bằng khoa học. Sau này, để trấn áp dư luận, Quốc vụ viện đã lệnh đầu tư quay một bộ phim tài liệu có tên “Bóng ma nơi vương phủ” để giải thích rõ về hiện tượng này.    Song trong thời gian quay phim ở Ngô đồng viện cũng xảy ra rất nhiều sự việc kì bí không lời giải đáp. Ví dụ, mọi người rõ ràng đều nhìn thấy máy quay được đặt trên bậu cửa nhưng chớp mắt đã thấy nó biến mất, sau đó lại thấy nó xuất hiện bên cạnh bức vách có bóng ma.   Mãi về sau, do lâu ngày không được tu sửa, bức vách mục ruỗng và đổ sập, tới tận khi ấy người ta mới dám đặt chân vào tham quan trong khu vườn này.  

4. Tiểu đình

  Trong Cung Vương Phủ, Hòa Thân cho xây một tiểu đình nhỏ làm nơi hóng mát. Cứ mỗi độ giao mùa xuân hạ thu đông, chỉ cần thời tiết đẹp là Hòa Thân lại cho vời bạn bè thân hữu đến uống rượu ngâm thơ, nghe ca múa. Thông thường, Hòa Thân sẽ chọn chỗ ngồi ở hướng Nam.   Nền của tiểu đình được lát bằng những phiến đá lớn. Song sự kì diệu ở tiểu đình này nằm ở chỗ Hòa Thân đã cho người khắc lên bàn đá vô số rãnh nước, dòng nước sẽ đẩy chén rượu trôi về phía trước. Nước chảy rất chậm, chén rượu trôi tới trước mặt ai mà dừng lại thì người đó sẽ phải làm một bài từ, nếu làm không được thì phạt uống 3 chén rượu.   Bí mật phong thủy ở đây là gì? Những đường rãnh nước đó được thiết kế rất tinh xảo. Nếu nhìn từ hướng Đông thì các rãnh tụ lại thành hình chữ Thủy (水), còn nhìn từ hướng Nam thì lại thấy chữ Thọ (寿). Chỉ vậy thôi cũng đủ để người đời trầm trồ thán phục trí tuệ của Hòa Thân.  

5. Hòn giả sơn

  Trong vườn hoa Hòa Thân cho xây một hòn giả sơn. Đá để làm hòn giả sơn này toàn bộ là đá Thái Hồ, được vận chuyển trực tiếp từ Thái Hồ tới. Đặc điểm của đá Thái Hồ chính là tính hút nước rất mạnh, nó là một loại Thượng Thủy Thạch - đá phong thủy mang tới sung túc, ấm no, nếu được đặt ở nơi nhiều nước thì trên đá sẽ mọc đầy rêu xanh.    Hòa Thân lại cho xây một cái hồ nhỏ trước hòn giả sơn, dẫn nước vào đó, để nước lưu thông quanh năm, nhờ thế mà trên các phiến đá mọc đầy rêu xanh mướt, Hòa Thân gọi đó là Trích thúy nham. Hai bên hồ có 2 cái đầu rồng quay hướng chụm vào nhau, ở giữa là Long Châu, song kì lạ là ở chỗ chỉ nhìn thấy đầu rồng chứ không thấy đuôi rồng.   Vậy hòn giả sơn đó để làm gì, nó có ẩn giấu bí mật phong thủy gì bên trong không? Hóa ra Hòa Thân sớm đã đem long mạch và long vĩ (đuôi rồng) chạm khắc vào dưới Trích thúy nham bên trong động giữa hòn giả sơn, mà nơi long mạch trấn giữ là một bức bích họa bằng ngọc, chính xác hơn là chữ Phúc được khảm vào ngọc. 


Bia chu Phuc trong phu Hoa Than
Bia chữ Phúc trong phủ Hòa Thân
  Chữ Phúc đó chính là chữ do đích thân Khang Hy ngự bút song lại bị Hòa Thân chiếm làm của riêng. Nó được coi là vật trấn trạch trong Cung Vương Phủ. Thậm chí sau này khi Hòa Thân bị vua Gia Khánh bãi chức và kiểm kê gia sản, người ta đã phát hiện ra vật trấn trạch này nhưng do đó là bút tích của Càn Long nên không ai dám phá, bởi phá nó tức là khiến cho Phúc tan. Hơn nữa, nếu lấy cả khối đá về thì long mạch không có gì trấn giữ, là điều đại kị. Đó cũng chính là điềm báo vua Gia Khánh tha chết cho cả nhà Hòa Thân.   Vốn dĩ Hòa Thân bị ghép vào trọng tội, phải lăng trì, tru di tam tộc. Song tới cuối cùng, dù phạm nhiều tội lỗi tày đình nhưng Hòa Thân chỉ bị xử chết bằng cách tự vẫn, cả nhà được tha bổng, người ta cho rằng phần lớn là nhờ có chữ Phúc trấn trạch này. Sau này, vua lệnh người dùng đá tảng phong bế toàn bộ hòn giả sơn, để không ai nhìn thấy chữ Phúc đó mà được hưởng phúc khí nữa, mãi về sau này nơi đó mới được khai thông, mọi người vào tham quan mới có dịp chiêm ngưỡng vật phẩm phong thủy trấn trạch nổi tiếng đó.   Ngoài ra, trong Cung Vương Phủ còn có một hòn giả sơn nữa, trong đó giấu một con tỳ hưu cũng nhằm trấn trạch, hút tài lộc về nhà. Tương truyền khi vua Gia Khánh cho lục soát phủ Hòa Thân đã phát hiện ra vật báu này. Con tỳ hưu được làm bằng ngọc phỉ thúy, trong khi con tỳ hưu của Càn Long cũng chỉ được làm bằng bạch ngọc. Hơn nữa, tỳ hưu của Hòa Thân còn lớn hơn của vua, cũng có mông và bụng rất to. Người ta cho rằng chính vì thế mà của cải trong nhà Hòa Thân còn nhiều gấp mấy lần của cải nhà vua có trong ngân khố. Dân gian truyền rằng “Những gì vua có Hòa Thân cũng có, những gì Hòa Thân có chưa chắc vua đã có” cũng chính là vì thế.    Song suy cho cùng số phận của Hòa Thân cũng không khác gì con tỳ hưu đó, ăn vào bụng quá nhiều tiền vàng nhưng lại không có chỗ để thải ra, lâu ngày tích tụ thành đại họa. Đó là cái họa đã được báo trước, là quả báo nhãn tiền mà những kẻ tham lam sớm muộn sẽ phải gánh chịu.   An An

Nhà ở trên 30 năm, không thể thiếu những vật phẩm phong thủy trấn dương khí Tiền về như nước khi đặt bảo vật phong thủy ở đây 9 món đồ vật hút tiểu nhân nhà nào cũng có, xem ngay để tránh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Cây thông phong thủy là biểu tượng của lòng kiên định –

Cây thông là biểu tượng mạnh nhất của nội lực và lòng kiên định. Giữa mùa đông lạnh giá, cây thông không hề rụng lá, nó cho thấy một sức mạnh và khả năng chịu đựng dẻo dai. Củ thể cây thông phong thủy có ý nghĩa gì chúng ta cùng tìm hiểu trong bài vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cây thông là biểu tượng mạnh nhất của nội lực và lòng kiên định. Giữa mùa đông lạnh giá, cây thông không hề rụng lá, nó cho thấy một sức mạnh và khả năng chịu đựng dẻo dai. Củ thể cây thông phong thủy có ý nghĩa gì chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của cây thông phong thủy
    • 1.1 Ý nghĩa thứ nhất
    • 1.2 Ý nghĩa thứ hai
    • 1.3 Ý nghĩa thứ ba
    • 1.4 Ý nghĩa thứ tư

Ý nghĩa của cây thông phong thủy

qua-bieu-sep-2013-cay-tai-loc

Ý nghĩa thứ nhất

Cây thông còn là biểu tượng của sự trường thọ, rất được ưa chuộng và hay được vẽ nhất.

Hầu như tất cả tranh phong cảnh đều vẽ cây thông với những tảng đá và cây thủy tiên tượng trưng cho một cuộc sống thành đạt lâu bền; hoặc với cây tre và cây mận.

Ba loại cây này hợp lại tượng trưng cho ba người bạn trong mùa đông. Chúng tượng trưng cho tình bạn trong nghịch cảnh, bất chấp mọi khó khăn.

Ý nghĩa thứ hai

Cây thông cũng trở thành một hình tượng phổ biến trong thi ca. Khổng Tử thường dùng hình ảnh này để ngụ ý cho bản tính kiên định và khả năng đứng vững trong nghịch cảnh.

Ý nghĩa thứ ba

Cây thông được trân trọng nhất, vì vậy nếu bạn muốn trồng thông trong vườn, hãy đối xử trân trọng với chúng. Một cây thông tươi tốt cũng là biểu tượng hạnh phúc trong hôn nhân.

Ý nghĩa thứ tư

Bên trái là một bức họa phong cảnh với núi và nước – hai yếu tố quan trọng nhất trong phong thủy cảnh quan.

Nổi bật lên trong đó là cây thông, cành lá xanh tươi cho thấy đó là mùa hè. Bức họa này thể hiện ước mơ trường thọ và có nhiều tài lộc. Nước chảy vào phía trong, hướng về bạn theo hướng tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cây thông phong thủy là biểu tượng của lòng kiên định –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd