Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đón Tết Trung Thu phong cách 12 chòm sao

Tết Trung Thu tết của mọi nhà, 12 chòm sao nhí nhố của chúng ta sẽ làm gì để trông trăng đón thu đây. Cùng đi rình trộm xem nào.
Đón Tết Trung Thu phong cách 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu tết của mọi nhà, 12 chòm sao nhí nhố của chúng ta sẽ làm gì để trông trăng đón thu đây. Cùng đi rình trộm xem nào.


Don Tet Trung Thu phong cach 12 chom sao hinh anh
 

Bạch Dương

  Còn gì tuyệt hơn là vừa chạy bộ vừa ngắm trang cơ chứ. Bạch Dương dù vui Tết Trung Thu vẫn không thể rời xa thói quen thích vận động của mình được.  

Kim Ngưu

  Chen chúc đi siêu thị mua đồ là lựa chọn của Kim Ngưu trong đêm Trung Thu, vì họ thích ăn bánh trung thu lắm mà đêm nay giá bánh sẽ hạ đến mức kịch sàn luôn, mua được bao nhiêu là bánh giá hời ấy chứ.  

Song Tử

  Công viên trò chơi thẳng tiến, Song Tử hiếu động của chúng ta chả kể lớn bé già trẻ, cứ lễ tết là vui mừng xốn xang, phải đến chỗ náo động như vậy chơi bời thoải mái một phen.  

Cự Giải

  Tết Trung Thu – tết đoàn viên, trong 12 chòm sao, có Cự Giải là tình nguyện ở nhà hưởng thụ không khí ấm áp bên gia đình cùng những người thân yêu.  

Sư Tử
 

Náo nhiệt, náo nhiệt thôi, lễ mừng Trung Thu của những nhà hàng lung linh ánh đèn là điểm đến hấp dẫn Sư Tử nhất. Họ sẽ diện những bộ cánh rực rỡ, cùng nhau chúc tụng một mùa trung thu đẹp đẽ.  

Xử Nữ

 

Xử Nữ của chúng ta còn có thể ở đâu được nữa, chắc chắn là dính chặt lấy cái bàn làm việc rồi. Trong khi người khác nô nức bánh trái, đèn hoa thì chòm sao này lại dửng dưng như không ấy.  

Thiên Bình

  Bận rộn trong nhà bếp chuẩn bị mâm cỗ trông trăng hoành tráng nhất, Thiên Bình ra dáng chòm sao đảm đang lắm rồi đấy. Ai gặp cũng phải khen ngợi Bình nhi thôi.
Don Tet Trung Thu phong cach 12 chom sao hinh anh
 

Thiên Yết

  Tết Trung Thu nếu không cùng nửa kia ngắm trăng hẹn hò thì nhất định Thiên Yết sẽ quẩy tưng bừng cùng bạn bè, biết đâu lại bất ngờ gặp nhân duyên tốt ấy chứ.  

Nhân Mã

  Ngắm trăng ở một nơi xa là dự định thường niên của Nhân Mã trong Tết Trung Thu. Đêm Rằm mà ngồi ở trên một đỉnh núi cao thật là cao hay vùng biên viễn xa thật là xa thì còn gì tuyệt bằng nhỉ.  

Ma Kết

  Không ham mê mấy ngày lễ tết nên Ma Kết chỉ thích ngồi yên tĩnh trong phòng làm việc, từ tốn giải quyết những công việc hàng ngày mà thôi. Cùng lắm thì chung vui một chút với gia đình rồi lại trở về ôm lấy cái bàn.  

Bảo Bình

  Bảo Bình thích nhất là lặng lẽ ngắm trăng bên bờ sông và suy nghĩ linh tinh. Lúc ấy tâm hồn tự do của họ mới thực sự được thả lỏng, cảm thấy vô cùng thoải mái.  

Song Ngư

  Không cần bánh, không cần hoa, không cần mâm cỗ, thậm chí cả trăng cũng không cần, Song Ngư chỉ cần được ở bên người mình yêu là cảm thấy Trung Thu hạnh phúc lắm rồi.   Gợi ý phong thủy nhà ở đón phúc tăng tài cho 12 chòm sao Loài cây phong thủy tăng may tăng phúc cho 12 chòm sao 12 chòm sao hóa thân thành hồ ly tinh đầy mê hoặc
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đón Tết Trung Thu phong cách 12 chòm sao

5 món ăn vặt giúp lấy may ngày Tết

Đây đều là những món ăn vặt để nhâm nhi vào dịp Tết, vừa ngon, bổ dưỡng lại vừa góp phần cải thiện vận may cho bạn và gia đình.
5 món ăn vặt giúp lấy may ngày Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Táo tàu đỏ sấy khô - Giàu có và thịnh vượng

5-mon-an-vat-giup-lay-may-ngay-tet

Đỏ vốn là màu sắc may mắn dùng để đón Tết theo tín ngưỡng của người Châu Á, là biểu tượng của sự an khang thịnh vượng, đâm chồi nảy lộc. Táo tàu trong tiếng Trung có cách phát âm tương tự như chữ "sớm", mang ý nghĩa của sự khởi đầu thuận lợi. Vì thế, nên dùng táo tàu đỏ sấy khô để nhâm nhi trong những ngày đầu xuân này để khởi đầu một năm mới suôn sẻ và thành đạt.

2. Lạc - Sức sống tràn trề và trường thọ

5-mon-an-vat-giup-lay-may-ngay-tet-1

Lạc còn có tên gọi khác là "hạt trường thọ", tượng trưng cho sức khỏe dồi dào, sống lâu trăm tuổi, sự no ấm và danh giá.

3. Nhãn khô - Sum vầy, đoàn tụ

5-mon-an-vat-giup-lay-may-ngay-tet-2

Nhãn có hình tròn, tượng trưng cho sự sum họp trong văn hóa Trung Hoa, ngoài ra nó còn đại diện cho sự xa xỉ, cao quý. Nhiều người tin rằng nếu ăn nhãn khô thường xuyên sẽ giúp thêm khỏe mạnh và kéo dài tuổi thọ. Có thể uống với trà khi ăn nhãn khô.

4. Hạt hướng dương - Con đàn cháu đống

5-mon-an-vat-giup-lay-may-ngay-tet-3

Ý nghĩa về hạt hướng dương bắt nguồn từ Trung Quốc. Trong tiếng Hán, chữ hạt có cách viết giống với chữ "con cái". Từ đó hình thành ý nghĩ hạt hướng dương đại diện cho sự sinh sôi nảy nở, nhiều con cháu.

5. Kẹo - Cuộc sống ngọt ngào

5-mon-an-vat-giup-lay-may-ngay-tet-4

Kẹo vốn có vị ngọt, tượng trưng cho những điều ngọt ngào trong cuộc sống. Đây cũng là món ăn vặt không thể thiếu trong những ngày Tết Nguyên Đán. Ăn kẹo đầu năm để lấy may cũng trở thành phong tục của người Việt Nam từ xưa đến nay với mong muốn bắt đầu một năm mới tốt đẹp.

Alexandra V (theo Chinahighlights)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 món ăn vặt giúp lấy may ngày Tết

Nàng tuổi Dậu nên chọn trang phục màu gì cho những ngày đầu năm mới

Việc chọn màu sắc hợp tuổi có thể đem lại cho bạn nhiều may mắn trong năm mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người phương Đông quan niệm màu sắc có ảnh hưởng đến vận mệnh, mang lại nhiều yếu tố may mắn cho người sử dụng. Ngược lại, nếu chọn màu không phù hợp sẽ đem đến những điều không tốt. Cùng chúng tôi điểm qua vài màu sắc sẽ đem lại may mắn cho các nàng tuổi Dậu năm nay nhé.

* Màu ghi

Xám là gam màu trung tính đang chiếm ưu thế nhất trong năm nay nên những cô gái tuổi Dậu tha hồ làm điệu với màu này. Gam màu chứa đựng sự nền nã, nhẹ nhàng mà phong cách, cá tính vô cùng và các nàng cũng không cần quá mất công mà vẫn có thể diện rất sành mốt những món đồ màu ghi xám đơn giản.

nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 1. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 2. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 3. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 4. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 5.

* Màu trắng/ bạc

Những nàng tuổi Dậu mệnh Kim, nên chọn những trang phục có màu trắng nhẹ nhàng hay nổi bật hơn với màu ánh bạc, là gam màu hợp mệnh, đem lại nhiều may mắn và thành công cho nàng tuổi Dậu trong năm mới này.

nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 6. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 7. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 8. Nàng tuổi Dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - Ảnh 9. Nàng tuổi Dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - Ảnh 10. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 11.

* Màu vàng/ nâu

Các nàng có làn da trắng, tươi tắn bạn có thể chọn những sắc độ của vàng và nâu. Đây là những gam màu tương sinh của người mệnh Kim. Những gam màu này sẽ khiến người mặc nổi bần bật trước đám đông. Màu vàng tươi sáng và đầy lôi cuốn khiến phái đẹp không thể làm ngơ. Tone màu nâu nền nã, nhẹ nhàng luôn là gam màu không bao giờ lỗi mỗi trong bất kỳ mùa thời trang nào.

nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 12. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 13. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 14. nàng tuổi dậu nên chọn trang phục màu gì trong những ngày đầu năm mới - ảnh 15.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nàng tuổi Dậu nên chọn trang phục màu gì cho những ngày đầu năm mới

Luận về cách giải đoán một lá số tử vi

Bài viết chia sẻ về cách luận về cách giải đoán một lá số tử vi của cụ Hoàng Hạc. Mời bạn đọc cùng tham khảo!
Luận về cách giải đoán một lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của cụ HOÀNG HẠC

Cái khó của phép đoán tử vi

Phép đoán số Tử vi chẳng phải lấy năm, tháng, ngày, giờ lật sách ra mà ghi vào. Rồi nhìn vào đó, coi Miếu, Vượng…hay lạc hãm mà cho là tốt, xấu. Cái học về Tử vi là cái học Trương Đối Luận, tất cả đều chung vào một cái lý chung. Nhất là phải rành luật Âm Dương và Ngũ hành sinh khắc chế hóa. Quí bạn phải thật rành Dịch học trước đã, rồi mới đi vào Tử vi, nó gồm cả Dịch lý. Nhất là mấy đạo (trung) làm gốc, tức là lấy luật quân bình làm chính yếu. Nói đến những luật căn bản ấy thật là dài dòng, ít ra phải cần một quyển sách cả nghìn trang mới có thể nói sơ sơ những nguyên lý chính, lại còn phải biết áp dụng nữa là khác. Biết áp dụng là cả một nghệ thuật mà tôi đã nhiều lần bàn bạc với các cụ giỏi về Tử vi. Họ cũng đã thú thật là vô cùng khó khăn. Ngay cả sự thuận nghịch của Âm Dương là vô cùng khó khăn rồi, diệu dụng cực kỳ phức tạp. Hiểu nó, đâu phải bậc thường thường là hiểu nổi, và như thế cần nhiều công phu nghiền ngẫm mới có thể hiểu lần lần mà thôi.

Tất cả mọi khoa bói toán của Trung hoa đều căn cứ vào Dịch học nhưng khoa Tử vi có thể gọi là khoa gồm nắm cả Dịch học trong đó nhiều nhất, cả các khoa Nhâm độn cũng không lìa khỏi. Nó là cả một Vũ trụ quan gồm cả quá khứ hiện tại và vị lai

Nói thế không phải để cho quí bạn ngán. Nhưng là để quí bạn thận trọng. Các khoa khác đều chỉ biết một khía cạnh nào của hiện tại, để đoán một khía cạnh nào của tương lai kế cận, chớ không như lá số Tử vi có thể bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp…và cả tương lai gần và xa đến hơi thở cuối cùng. Các bậc tu hành chính cống không một ai là không biết xem lá số của mình, không phải để mong cầu được phú quý mà mừng…hay chỉ để xu kiết tị hung mà thôi đâu. Mục đích của họ là để tu. Tôi chỉ nói sơ qua cái công dụng cao cả của nó.

Xét về năm, tháng và ngày, giờ sanh, âm hay dương.

Như đã nói: trước khi xem lá số nào, cần phải rõ Âm Dương, Ngũ hành của cái tuổi, cái tháng sinh cái ngày sanh và cái Giờ sinh trước hết.

Xin thử lấy một thí dụ là dễ nói hơn.

Đây là lá số của một người đàn ông, tuổi Mùi. Bạn thử tra rồi rõ. Trước hết phải biết cả Thiên can Địa chi của năm tháng, ngày giờ của tuổi này. Tôi thí dụ: Tuổi Đinh mùi, tháng 6, tức là tháng Đinh Mùi. Ngày mùng 2, tức là ngày Tân Dậu. Giờ sửu, tức là giờ Quý Sửu.

Giờ Ngày Tháng Năm
Quý Tân Đinh Đinh
Sửu Dậu Mùi Mùi

Cứ nhìn qua và để ý đến Âm Dương ngũ hành ta thấy cả 8 chữ ấy đều thuộc Âm cả, mà tuổi này là tuổi âm nam.

Theo phép, cả thảy thuần âm hay thuần dương là hay nhất. Bọn người Thuần Dương hay Thuần âm là những tay đáo để nhưng nếu đàn ông mà Thuần Dương, không hay bằng Thuần Âm. Và trái lại đàn bà Thuần Âm, không hay bằng Thuần Dương.

Đó là điều đầu tiên phải ý thức. Như ta đã thấy trong hàng giờ, ngày, tháng, năm ghi trên. Thời hàng Thiên Can là Âm cả, mà hàng Địa chi cũng thuộc về Âm cả. Nếu là đàn bà thì không mấy hay, nhưng là đàn ông thì hay nhất. Ta biết liền người này trong đời ít bị tai nạn dữ dằn, vì Âm thì nhu thuận. Theo phép đoán Năm sanh thuộc Âm thì Tháng sinh phải thuộc Âm mới thuận; Ngày sinh thuộc Dương, tháng sinh thuộc Âm là nghịch. Nếu cả thảy đều thuộc Âm hay thuộc Dương thì rất tốt. Đó là điều thứ nhất phải biết qua thì sự thuận nghịch giữa năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh…

Năm, tháng, Ngày, Giờ tương sinh, tương khắc

Điểm thứ hai: Xem về lẽ tương sinh tương khắc của năm và tháng ngày giờ. Như năm Thủy, tháng phải là Mộc hay Thủy là tốt. Ngày sinh thuộc Hỏa, giờ sinh thuộc Thổ là tốt. Trái lại, khắc nhau là xấu. Lấy theo thứ tự nếu được năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ thì rất tốt. Bằng không thì chỉ hai cặp Năm sinh tháng, Ngày sinh Giờ cũng tốt

Mạng và Cục

Điểm thứ ba: xem Mạng và Cục. Mạng sinh Cục tốt hơn Cục sinh Mạng. Còn về twowg khắc thì Cục khắc Mạng, tuy xấu nhưng không bằng Mạng khắc Cục, rất xấu, vì nó làm cho suy giảm độ số rất nhiều, dù số tốt bực nào.

Cung an mệnh

Điểm thứ tư: Coi tuổi Dương mà an Mạng tại cung Dương là thuận, còn tại cung Âm là nghịch. Suốt đời thường không được vui vẻ, có nhiều công việc bất đắc chí, nghĩa là thường bất mãn, gặp nhiều ngang trái.

Tuy vậy không phải thuận cảnh là hay đâu. Gặp nghịch cảnh để làm cho mình vượt bực và có nhiều cố gắng đã thành công.

Các vĩ nhân cần có nhiều cảnh Còn thành công hay chăng còn tùy lá số và các chi tiết khác. Nhìn sơ qua Bổn mạng…và cung An Mạng là biết sơ đại khái về cuộc đời người ấy rồi.

Coi ngũ hành các chính tinh

Đến khi lập thành lá số rồi, phải nhìn đến ngũ hành các chính tinh (tức là của vòng sao Tử vi) coi được miếu vượng hay hãm địa. Nhất là coi có hợp mạng của người xem không?
Kỵ nhất là chính tinh và Mạng khắc nhau

(….mờ quá không nhìn được, mất trang)

Hành Thủy sinh Mộc, là nguyên ý nhưng có khi Thủy chả sinh gì được Mộc cả là như trường hợp Đại hải Thủy thì làm gì sinh Dương liễu mộc hay bình địa mộc. Nước biển mà tưới cây…thì không thành vấn đề, hơn nữa nó là nước biển thì làm sao chảy vào cản cây cối trên đồng bằng để thấm nhuần gốc rễ? Nếu là “giang hà, thủy hoặc là “thiên hà thủy” (tức là nước trời mưa) thì tự nhiên có thể giúp ích cho cây cối sởn sơ.

CÒn như nhiều người cho rằng Mộc khắc Thổ, nhưng nếu là “thổ” (đất) trên thành, thì Mộc khắc thổ ấy làm gì – Huống chi Thổ là để nuôi Mộc: Cây mà không đất làm sao sống, như cây thiếu nước cũng vậy. Vì vậy mà Thổ và Thủy là điều kiện tất yếu của Mộc, và thổ với Thủy cùng đồng một nguồn gốc Trường sinh, đâu có khác nhau. Thổ khắc Thủy là nhờ Thủy thấm vào Thổ mà Thổ được nhuận mềm và trở thành hữu dụng, nhưng Thủy mà nhiều quá thì Thổ bị lấp đi…, cũng không dùng được.

Chồng mạng Thổ mà là “bích thượng thổ” gặp vợ mạng Kim cũng đâu có ích gì? Là bởi “đất ấy” làm sao sinh ra vàng; cũng như “phú đăng hỏa (lửa trong đèn)” giúp ích gì được “Thổ ở khu đất to (Đại dịch thổ)”…Cho nên cần hiểu cái lý chứ đừng cố chấp trong sự sinh khắc máy móc. Nhiều người yên trí rằng được sinh (về ngũ hành) thì tỏ ra sai lầm to vậy

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về cách giải đoán một lá số tử vi

Phong thủy màu sắc –

Phong là Gió và Thuỷ là Nước. Khái niệm Phong Thuỷ có lịch sử hàng nghìn năm. Người ta áp dụng kiến thức Phong Thuỷ trong kiến trúc, đo đạc, mỹ học, năng lượng sinh học, chiêm tinh... Thuật Phong Thuỷ được sử dụng rất rộng rãi, đặc biệt trong việc xâ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong là Gió và Thuỷ là Nước. Khái niệm Phong Thuỷ có lịch sử hàng nghìn năm. Người ta áp dụng kiến thức Phong Thuỷ trong kiến trúc, đo đạc, mỹ học, năng lượng sinh học, chiêm tinh… Thuật Phong Thuỷ được sử dụng rất rộng rãi, đặc biệt trong việc xây nhà từ lúc đào móng tới khi khánh thành, với từng chi tiết nhỏ nhất liên quan tới số mệnh con người.

Còn với thời trang – lĩnh vực khi nhắc tới là người ta nghĩ đến các nhà thiết kế, trang phục đẹp, những siêu mẫu trên tạp chí – liệu có sự kết hợp nào giữa kiến thức Phong Thuỷ cổ xưa với thời trang hiện đại ngày nay?

Thời trang Phong Thuỷ là kỹ thuật thiết kế và may mặc mới, bắt nguồn từ cảm hứng nghệ thuật cổ xưa của người Trung Quốc về cách sắp xếp, bố cục màu sắc trang phục kèm theo phụ kiện. Theo đó, các mẫu trang phục được thiết kế sao cho hoà hợp, cân bằng giữa môi trường và lợi ích con người.

Người ta coi Phong Thuỷ thể hiện ở năm màu là trắng, đen, đỏ, vàng và xanh. Năm màu – ngũ sắc này là những yếu tố cơ bản của vũ trụ và có thể được ứng dụng trong cuộc sống.

Màu sắc có thể ảnh hưởng tới tâm tính và cảm xúc. Màu sắc trang phục không chỉ tác động tới người mặc, mà còn ảnh hưởng tới những người xung quanh, hay còn gọi là hiệu ứng tâm lý màu sắc. Đây chính là một phần trong thuật Phong Thuỷ khi xem xét mối tương quan với thời trang.

Ví dụ như màu sắc tối thường gợi lại cảm giác huyền bí, nhưng cũng làm người đối diện cảm giác bất an vì sợ hãi, hăm doạ. Màu lam nhạt lại nói rằng, chủ nhân bộ trang phục là người khá mềm mỏng và thân thiện. Màu sắc rực rỡ thì có ý nghĩa sôi nổi, mong muốn xung quanh chú ý.

Nếu mang trang phục với màu sắc khiến chính người mặc không thoải mái, thì có nghĩa là màu sắc đó không phản ánh đích thực con người bên trong của chủ nhân bộ trang phục.

mausacphongthuy

Thời trang Phong Thuỷ không chỉ phổ biến ở màu sắc quần áo, mà còn thể hiện ở cách phối màu trong văn phòng, ngôi nhà của bạn. Ví dụ màu nâu sẫm phù hợp với nhà bếp, trong khi màu lam nhẹ thích hợp hơn với phòng trẻ em hay studio nghệ thuật.

Màu sắc mạnh thường rất phổ biến ở những không gian tập trung đông người, trong khi màu trung tính là ý tưởng hay với phòng tắm.

Ý nghĩa của những sắc màu trang phục

Màu Xanh

Màu xanh là màu của sinh sôi, phát triển. Vì thế, nó là màu sắc lý tưởng cho trang phục nếu người vận nó làm nghề giáo viên, hay đòi hỏi kỹ năng chuyên môn. Nó cũng tốt để thể hiện một con người tích cực, luôn hướng đến cái mới mẻ, không theo lối mòn. Hãy tránh vận bộ xanh nếu có cảm giác không thể nào ngơi nghỉ.

Màu Vàng

Màu vàng rực rỡ là niềm vui hân hoan, màu vàng nhẹ lại là sự ổn định và vững chắc. Vận quần áo màu vàng khi muốn thể hiện sự rõ ràng, sáng sủa, cũng như là màu trang phục lý tưởng khi đưa ra các quyết định. Tránh màu này nếu cảm thấy mệt mỏi.

Màu Đỏ

Đây là màu sắc lý tưởng để thu hút sự chú ý. Hãy mặc trang phục màu đỏ nếu đi tới cuộc thử giọng, thể hiện tác phẩm nghệ thuật hay muốn trở thành một phần không thể thiếu được ở đám đông. Hãy tránh màu này khi cảm thấy bực bội, bồn chồn.

Màu Đen

Màu đen gợi cảm giác huyền bí, sâu kín và sức lực ghê gớm. Mang trang phục màu này khi muốn là người chỉ huy uy quyền hoặc thể hiện sự bí ẩn. Nhưng người mặc hãy tránh xa màu đen nếu bị mọi người hoài nghi về động cơ hay khi muốn được đối xử công bằng.

Màu Trắng

Không gì mang lại cảm giác tin tưởng, tín nhiệm như màu trắng. Vận trang phục trắng khi muốn sự xuất hiện thực sự tỉ mỉ, cẩn trọng, hiệu quả và hoàn hảo. Tránh xa màu trắng nếu muốn tạo ra hình ảnh khoan hoà, dễ chịu. Màu trắng có thể thúc đẩy những âu lo, vì thế, hãy cẩn thận khi lựa chọn trang phục.

Màu Ánh Kim

Những màu ánh kim như vàng, đồng, bạc gợi cảm hứng của sự sáng tạo. Không gì tốt hơn màu này cho trang phục nếu người mặc bận rộn với dự án mang tính nghệ thuật nào đó. Màu ánh kim dễ gợi cho người khác sự bình phẩm, vì thế hãy tránh mang trang phục màu này nếu là người nhạy cảm, hay bị tổn thương.

Ngoài màu sắc, ứng dụng kiến thức Phong Thuỷ vào thời trang, người ta còn nói tới Trí. Trí chính là năng lượng tỏa ra từ con người và tác động tới xung quanh. Trí có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ và cảm giác.

Nó cũng chỉ lối dẫn đường trong sự tương tác giữa một cá nhân với thế giới xung quanh. Người ta tin rằng, Trí được quyết định bởi một phần màu sắc trang phục, đặc biệt là chất liệu, màu và kiểu dáng. Những chất liệu lý tưởng thường là cotton, lụa, lanh, len và da. Điều quan trọng cần lưu ý là, trang phục len và da không nên bó sát cũng như tiếp xúc với da.

Âm và Dương

Da, len và lụa đều xuất phát từ nguồn gốc động vật, nên được cho là mang đặc tính Dương, thể hiện hành động, tổ chức và sự năng động. Nếu muốn tìm tới năng lượng Âm thay thế, thì tìm tới cotton và lanh (xuất phát từ thực vật). Những chất liệu Âm này thường mang đến sự giao tiếp, tính sáng tạo và độ nhạy cảm.

file.404582

Màu Sắc Theo Ngũ Hành

Việc lựa chọn màu sắc phù hợp với sở thích, tính cách của bản thân cũng chính là màu sắc phù hợp với nguyên lý Ngũ Hành tương sinh, tương khắc. Đã có từ rất lâu đời và không thể tách rời với con người phương Đông chúng ta đó là Ngũ Hành trong phong thuỷ.

Màu sắc trong phong thuỷ chủ yếu hướng đến việc cân bằng năng lượng Âm và Dương để đạt đến sự hài hoà lý tưởng. Âm là sắc tối yên tĩnh hấp thu màu và Dương là sắc sáng chuyển động phản ánh màu. Do vậy, màu sắc được vận dụng để tăng cường những yếu tố thuận lợi và hạn chế những điều bất lợi từ môi trường tác động vào ngôi nhà.

Theo nguyên lý Ngũ Hành, môi trường gồm 5 yếu tố và mỗi yếu tố đều có những màu sắc đặc trưng. Màu sắc trong ngũ hành của thuật phong thuỷ được áp dụng trong kiến trúc ngày nay.

  • Kim (kim loại): gồm màu sáng và những sắc ánh kim. Bạn mệnh Kim nên sử dụng tông màu sáng và những sắc ánh kim vì màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh, ngoài ra kết hợp với các tông màu nâu, màu vàng vì đây là những màu sắc sinh vượng (Hoàng Thổ sinh Kim). Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn cho gia chủ. Tuy nhiên gia chủ phải tránh những màu sắc kiêng kỵ như màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng Hoả khắc Kim).
  • Mộc (cây cỏ): màu xanh, màu lục. Bạn mệnh Mộc nên sử dụng tông màu xanh ngoài ra kết hợp với tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen sinh Mộc). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu trắng và sắc ánh kim (Màu trắng bạch kim khắc Mộc).
  • Thuỷ (nước): màu xanh biển sẫm, màu đen. Bạn mệnh Thuỷ nên sử dụng tông màu đeni, màu xanh biển sẫm, ngoài ra kết hợp với các tông màu trắng và những sắc ánh kim (Màu trắng bạch kim sinh Thuỷ). Gia chủ nên tránh dùng những màu sắc kiêng kỵ như màu vàng đất, màu nâu (Hoàng thổ khắc Thuỷ).
  • Hoả (lửa): màu đỏ, màu tím. Bạn mệnh Hoả nên sử dụng tông màu đỏ,màu hồng, màu tím ngoài ra kết hợp với các màu xanh (Thanh mộc sinh Hoả). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen khắc Hoả).
  • Thổ (đất): màu nâu, vàng, cam. Bạn mệnh Thổ nên sử dụng tông màu vàng đất, màu nâu, ngoài ra có thể kết hợp với màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng hoả sinh Thổ). Màu xanh là màu sắc kiêng kỵ mà gia chủ nên tránh dùng (Thanh mộc khắc Thổ).

Tính Tương Sinh Của Ngũ Hành

  • Mộc sinh Hoả.
  • Hoả sinh Thổ.
  • Thổ sinh Kim.
  • Kim sinh Thuỷ.
  • Thuỷ sinh Mộc.

Tính Tương Khắc Của Ngũ Hành

  • Kim khắc Mộc.
  • Mộc khắc Thổ.
  • Thổ khắc Thuỷ.
  • Thuỷ khắc Hoả.
  • Hoả khắc Kim.

Tương sinh, tương khắc hài hoà, hợp lý sẽ mang lại sự cân bằng trong phong thuỷ cũng như trong cảm nhận thông thường của chúng ta theo thuật phong thuỷ.

Việc lựa chọn màu theo sở thích hay chọn màu theo nguyên lý ngũ hành trong phong thuỷ là hai phương pháp khác nhau nhưng cùng chung một kết quả. Nắm được các quy luật trên kết hợp cùng kiến trúc sư, bạn sẽ có được đúng màu sắc hợp với ngũ hành của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy màu sắc –

Mơ thấy tiền –

1. Trong giấc mơ bạn nhìn thấy tiền, biểu thị bạn đang khát khao thực hiện được một điều gì đó lớn lao. 2. Mơ thấy mình có rất nhiều tiền, phản ánh ước muốn cháy bỏng về tiền bạc hoặc khát vọng thành công của bạn. Bạn muốn chứng tỏ cho mọi người rằng
Mơ thấy tiền –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tiền –

Nốt ruồi ở ngực và cổ báo hiệu bạn là quý bà thành đạt

Nếu bạn có nốt ruồi ở ngực và cổ hay ở chỗ nhạy cảm thường được người xưa nhận định là những nốt ruồi đang lại may mắn, giàu sang phú quý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong sách nhân tướng học, có đề cập tới những nốt ruồi ở ngực và cổ. Những nốt ruồi ở ngực và cổ này đa phần đều là những nốt ruồi tốt, đặc biệt có những nốt ruồi đem đến mệnh phú quý cho bạn.

1. Nốt ruồi mọc ở giữa cổ (yết hầu) Đây là nốt ruồi đại phú quý, mang lại nhiều tài lộc và may mắn cho chủ nhân. Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn không chỉ được nhiều quý nhân trợ giúp, mà còn nhanh chóng gặt hái thành công trong bất kỳ công việc nào. Ngược lại, nốt ruồi nằm lệch vị trí yết hầu và gần phía vai lại là điều không may mắn, dễ mang đến vận xui.

2. Nốt ruồi ở phía trái cổ Chủ nhân của nốt ruồi này có đời sống tình cảm phong phú, nội tâm yếu mềm nên khá lận đận về đường tình duyên. Trong tình yêu, người này thường rơi vào thế bị động, dễ bị đối phương “dắt mũi” và làm tổn thương. Tuy nhiên, mảng học hành, công việc của người này lại thuận lợi. Sau khi lập gia đình sẽ trở thành trụ cột kinh tế vững chắc, là chỗ dựa an toàn cho đối phương.

3. Nốt ruồi phía sau cổ Người có nốt ruồi này thì tính tình thẳng thắn, chân thành nhưng hơi lười nhác việc nhà và chuyện bài vở. Tuy nhiên cuộc sống của người này khá yên bình, không phải trải qua nhiều sóng gió.

4. Nốt ruồi ở phía phải cổ Sở hữu nốt ruồi này là người có cá tính mạnh, hiếu động, thích đi du lịch đó đây để khám phá những điều mới lạ. Về phương diện học tập và sự nghiệp: Người này đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, thói quen tiêu xài hoang phí khiến họ khó tích lũy tiền bạc, cuộc sống chỉ ở mức no đủ chứ không dư giả đâu nhé.

Về tình yêu hôn nhân: Sau khi kết hôn, cuộc sống gia đình hòa hợp, hạnh phúc và rất đỗi yên bình.

Not ruoi o nguc va co bao hieu ban la quy ba thanh dat
Nốt ruồi ở cổ và ngực báo hiệu bạn là quý bà thành đạt.

5. Nốt ruồi mọc ở vị trí hai bên xương đòn
Đối với cả nam và nữ, nếu có nốt ruồi mọc ở vị trí xương đòn (hay còn gọi là xương quai xanh), đều là người chân thành, tốt tính, làm việc gì cũng cẩn trọng và ổn định. Hơn nữa, tính khí của họ rất hài hòa, dễ hòa đồng và được nhiều người yêu mến, tin tưởng.

6. Nốt ruồi mọc ở mặt trước hai vai (thuộc vùng ngực) Trong Nhân tướng học, nốt ruồi tại vị trí này không được yêu thích bởi nó hàm ý vất vả về vật chất. Chủ nhân của nốt ruồi này cũng khó gặp suôn sẻ trong đời sống tinh thần vì phải suy nghĩ quá nhiều. Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn có thể sẽ phải gồng gánh rất nhiều việc. Do vậy, lúc nào bạn cũng rơi vào trạng thái tất bật, khó nhọc. Tuy nhiên, đây không phải là nốt ruồi nghèo khổ. Khi nỗ lực và cố gắng hết mình, bạn sẽ sớm có cơ hội để thành công.

7. Nốt ruồi mọc ở phía trên bầu ngực Nốt ruồi mọc ở phía trên và càng gần bầu ngực càng cho thấy tướng đại phú quý của người sở hữu nó. Đây là vị trí nốt ruồi tốt nhất ở phần ngực của nữ giới. Bởi lẽ nó mang lại sự thuận lợi trong công danh, sự nghiệp và gia đình.

8. Nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực Người xưa gọi nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực chính là “kho tiền tả hữu”. Nốt ruồi ở dưới bầu ngực bên trái ám chỉ bạn sẽ tích trữ được nhiều đất đai, nhà cửa về sau. Nếu mọc ở dưới bầu ngực bên phải, bạn có tương lai trở thành “kho vàng, bạc” hoặc được thừa kế khối tài sản khổng lồ từ người đi trước.

9. Nốt ruồi mọc ở giữa hai khe ngực Đây là nốt ruồi hiếm gặp. Những ai sở hữu nốt ruồi này hay tính toán mọi việc để có lợi cho bản thân nhiều nhất, bất chấp phải vượt qua khó khăn thế nào. Thậm chí, đôi khi họ quên cả mọi người xung quanh chỉ vì bản thân.

10. Nốt ruồi mọc phía bên dưới hai bầu ngực Người thời xưa gọi vị trí này là “kho tiền”, vì vậy, những người sở hữu nốt ruồi này sẽ cực kỳ giàu có, không giàu vì tiền bạc cũng giàu có về ruộng đất, bất động sản.

Một tiết lộ thú vị là các đại gia Trung Quốc giàu có hiện nay đang có mốt tìm nốt ruồi để kén vợ. Những cô gái có nốt ruồi như thế này thường dễ lọt vào mắt xanh của các trọc phú “mê tín” hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở ngực và cổ báo hiệu bạn là quý bà thành đạt

Hợp khâm thủy ngăn khí mạch ở xung quanh tiểu minh đường.

Hợp khâm thủy chỉ dòng nước trên phân, dưới hợp để ngăn khí mạch ở xung quanh tiểu minh đường.
Hợp khâm thủy ngăn khí mạch ở xung quanh tiểu minh đường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Khâm” là tà áo; hợp khâm thủy chỉ dòng nước trên phân, dưới hợp để ngăn khí mạch ở xung quanh tiểu minh đường. 

Hop kham thuy ngan khi mach o xung quanh tieu minh duong. hinh anh
Hợp khâm thủy

Các nhà phong thủy cho rằng, minh đường trước huyệt mộ là nơi chúng thủy triều hội. Dòng nước ở trên mộ phân nhánh từ đầu, đến chân sẽ hợp, bao bọc minh đường. Đó là: “Tam phân, tam hợp”.

Thực ra phân càng nhiều càng tốt. Các núi sau mộ phân ra gò Thanh Long, gò Bạch Hổ, nước cũng từ các núi sau mộ phân nhánh theo núi vòng quanh, hợp trước Long Hổ. Trung long mạch đến gần huyệt sẽ lồi lên bao, sinh ra 2 cánh gọi là thiền dực (cánh ve).

Dòng chảy phân nhánh bao theo và hợp ở trước cánh ve tạo thành chữ bát lớn. Long mạch lại sinh ra gò cứng gọi là cầu thiềm (hiên tròn). Nước từ cầu thiềm lại phân chảy sang 2 bên, hợp trước huyệt mộ, tạo thành chữ bát nhỏ.

Dưới cầu thiềm có một hình tròn lõm gọi là táng khẩu, dưới táng khẩu là tiểu minh đường. Bên trái, bên phải gọi là tiểu minh đường còn gọi là ẩn sa, hợp trước tiểu minh đường gọi là cầu chiêm (râu huyệt). Nước lại vòng râu huyệt gọi là hạ tu thủy (nước râu tôm). Chỗ dưới huyệt có vùng nước ẩn hình gọi là cực vưng thủy (nước vầng cực). Nước tiếp tục chảy, nếu chảy vòng quanh bao huyệt mộ tầng tầng, lớp lớp thì gọi là hợp khâm thủy. Nó là bằng chứng long mạch kết huyệt.

Theo Bí ẩn thời vận


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp khâm thủy ngăn khí mạch ở xung quanh tiểu minh đường.

Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Ăn mặc những trang phục khác nhau nhằm thích nghi vởi môi trường khác nhau. Y phục trong mơ mang ý nghĩa thuận hòa. Mơ thấy trang phục sạch sẽ nghĩa là gia đình thuận hòa. Ngược lại, mơ thấy quần áo dơ bẩn, là điềm báo của bệnh tật. Nữ giới mơ thấy q
Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh? - Phong thủy - Xem Tử Vi

Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh?, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh?, tu vi Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh?, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh?

Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia đạo. Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ.

1- Hướng chính Đông và Đông-nam, theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.

2- Hướng chính Nam, theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

 

3- Hướng Đông-bắc và Tây-nam, theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.

 

4- Hướng chính Bắc, theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài vận của gia chủ.

 

5- Hướng Tây-bắc và hướng chính Tây, theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia chủ nên chọn hướng nào để treo tranh? - Phong thủy - Xem Tử Vi

Xem tướng chân phụ nữ –

Những người phụ nữ chân dài thường tự hào vì điều này nhưng đối với những người chân ngắn sao phải e ngại, có khi chân ngắn lại mang lại may mắn cho họ trong cuộc sống hơn. 1. Bắp chân khá to, chân khá dài Thường có thân hình đẹp, tính cách dịu dàng
Xem tướng chân phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng chân phụ nữ –

12 chòm sao đánh nhau vì ai?

Nếu có người sẵn sàng vì mình mà dùng nắm đấm, ra tay che chở, bảo vệ, tương trợ thì vẫn vui lắm chứ nhỉ. Cùng xem 12 chòm sao đánh nhau vì ai nhé.
12 chòm sao đánh nhau vì ai?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ đã là thời đại động khẩu không động thủ, thương lượng đàm phán lên ngôi, dùng chân tay giải quyết vế đề là hạ sách. Nhưng nếu có người sẵn sàng vì mình mà dùng nắm đấm, ra tay che chở, bảo vệ, tương trợ thì vẫn vui lắm chứ nhỉ. Cùng xem 12 chòm sao đánh nhau vì ai nhé.

12 chom sao danh nhau vi ai
 

Bạch Dương: Nhân Mã

  Với chòm sao nghĩa khí như Bạch Dương, để họ động chân động tay chỉ có thể là bạn bè, trong bạn bè người đáng để cừu trắng ra tay tương trợ chỉ có Nhân Mã. Vì sao ư? Vì Nhân Mã thực sự là người bạn hết lòng hết dạ, có bao nhiêu mang cả ra bấy nhiêu để đối đãi với Bạch Dương nên có xả thân cũng đáng.   Chỉ cần Mã Mã lên tiếng, Dương Dương luôn có mặt giải nguy. Kiểu bạn bè thân thiết tới mức này nếu là người ngoài sẽ không thể hiểu được đâu, biết rõ bạn mình sai cũng không nói hai lời mà xông vào, chung chịu hoạn nạn, thật hiếm có khó tìm đấy.  

Kim Ngưu: Sư Tử

  Chòm sao Kim Ngưu rất ít khi vì người khác mà đánh nhau vì họ cho rằng việc đó thật ngốc nghếch, hơn nữa với tính cách hiền lành Ngưu chan cũng không muốn làm tổn thương bất kì ai cả. Song nếu đối phương là Sư Tử, gần như chắc chắn mọi nguyên tắc đều sẽ bị phá vỡ.   Sử Tử là người mà Kim Ngưu nể phục, có sự nhiệt tình và năng lực vượt trội, xứng đáng học tập. Vì người mình ngưỡng mộ có phải ra tay cũng hoàn toàn xứng đáng, Ngưu chan tin rằng mọi điều Sư Tử làm đều đúng, nếu phải đánh nhau thì cũng là có lý do cả thôi. 12 chòm sao đánh nhau vì ai thì niềm tin ngô nghê của Ngưu chan là dễ bị cười nhất đó.
Xem thêm bài viết Bí mật 12 chòm sao: Ai nói dối thành thần - Ai thật như đếm
 

Song Tử:  Xử Nữ

  Là hai người bạn tri kỉ, Song Tử thường xuyên cùng Xử Nữ thổ lộ tâm tình, chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Những đề tài tán gẫu của hai người không bao giờ chấm dứt, họ thực sự là tâm giao trong đời nhau nên sẵn sàng vì nhau làm bất cứ chuyện gì.   Song Tử tính cách vui vẻ, hoạt ngôn, thích khẩu chiến nhưng nếu Xử Nữ cần, sẵn sàng đánh nhau vì bạn. Không cần phân biệt lợi hại, ai làm tổn thương tới Xử Nữ thì chính là kẻ thù của Song Tử, xông vào giết chúng!!!!  

Cự Giải: Song Ngư

  Chòm sao Cự Giải tính tình nhu nhược, bình thường rất ít sẽ theo người khác gây chuyện, trừ phi là xúc phạm nghiêm trọng, vượt quá mức độ nhẫn nại của họ. Thực tế trường hợp này vô cùng hiếm hoi, hầu như lúc nào Giải Giải cũng chủ động bỏ qua, không để tình hình tới mức nghiêm trọng.   Nhưng nếu vì Song Ngư thì mọi chuyện hoàn toàn khác rồi nhé. Ngư nhi có thể dễ dàng dụ dỗ chòm sao ngoan ngoãn này đi quậy phá, gây sự đánh nhau hoặc bênh vực bạn bè. Cự Giải rất tình cảm, Song Ngư lại thân thiện, một khi đã có giao tình thì chuyện gì cũng dễ thương lượng cả mà.  

Sư Tử: Thiên Bình

  Sư Tử tuy bình thường tự cao tự đại, giống như chẳng để ai trong mắt nhưng với họ thì Thiên Bình có sức hấp dẫn rất đặc biệt. Ai bảo người ta là đại mĩ nữ, đại soái ca cơ, Bình nhi mà cười một cái ai chẳng đỏ xiêu đổ vẹo, Sư Tử có cứng rắn đến mấy cũng không chống lại được.   Sư Tử muốn bảo vệ Thiên Bình, sẵn sàng đánh nhau nếu cần thiết. Ở đây không phân biệt giới tính nhé, cô nàng Sư Tử sẵn sàng thi triển công phu để tranh giành, che chở cho chàng trai trong mộng Thiên Bình yếu đuối đó, sức mạnh của cái đẹp thật ghê gớm.  

Xử Nữ: Hổ Cáp


xu nu danh nhau vi ai
 
Xử Nữ đánh nhau á? Chuyện lạ có thật, 12 chòm sao đánh nhau vì ai cũng thấy bình thường nhưng chòm sao nghiêm túc này cũng có lúc giở võ thì đúng là rất khác thường. Chỉ có Hổ Cáp hữu dũng hữu mưu, thông minh tính toán mới có thể trở thành thần tượng khiến Xử Nữ dốc lòng như vậy thôi.    Một khi đã sùng bái thì bảo nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không từ nan huống hồ là mấy chuyện đánh nhau cỏn con. Tuy có hơi sợ nhưng để thể hiện tấm lòng chòm sao này xung phong đi ngay không chút chần chừ.
Xem thêm bài viết Thời thanh xuân vườn trường ai là bạn thân khác phái của 12 chòm sao nữ?
 

Thiên Bình: Ma Kết

 

Nếu Thiên Bình có thể từ bỏ thái độ nho nhã thanh lịch của mình vì người khác thì người ấy chỉ có thể là Ma Kết. Người này đối với họ cực kì quan trọng, cực kì đáng quý, phải là chòm sao có phẩm chất tốt, năng lực cao cường cùng thái độ cầu tiến như Kết Kết mới xứng.   Bình nhi tin tưởng rằng, mọi việc mình làm bất kể là gì cũng đều hoàn toàn đáng nếu vì Ma Kết. Có thể là sùng bái mù quáng, là thần tượng hết lòng, song trong đời dám vì một người quên bản thân mình như vậy cũng đâu dễ dàng gì đúng không nào.  

Hổ Cáp: Bạch Dương

 

Hổ Cáp vốn là chòm sao ích kỉ, ít khi vì người khác làm chuyện này chuyện kia chứ đừng nói tới đánh nhau, thật mất mặt. Gặp Bạch Dương thì tắt điện hoàn toàn vì quá yêu thích dáng vẻ trượng nghĩa, nhiệt tình, không câu nệ của cừu trắng mà bảo gì cũng nghe, rủ đi đánh nhau là đi liền.   Người khác làm tổn thương Dương Dương, Cáp Cáp sẵn sàng xông pha trả thù hộ, liên hợp lại đánh cho kẻ đó bò lê bò càng, không còn chốn dung thân luôn. Đúng là chỉ có ánh mặt trời rạng rỡ của Bạch Dương mới kéo được Hổ Cáp thâm trầm ra khỏi vỏ bọc.  

Nhân Mã: Song Ngư

  Nhân Mã tiêu sái, đánh nhau với người khác là chuyện bình thường  như cơm bữa. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều có thể giải quyết bằng nắm đấm. Gặp người yếu đuối như Song Ngư lại càng muốn ra tay tương trợ, che chở trong lòng, người khác mà ức hiếp thì không nói hai lời xông tới luôn.   Có thể chẳng quen biết gì đâu nhưng vì chính nghĩa, thấy ác không chịu được, thầy người yếu nảy sinh thương cảm nên giữa Nhân Mã và Song Ngư mới nảy sinh mối nhân duyên kì lạ này. Biết đâu thông qua sự cố lại có thêm bạn bè, thậm chí là thành đôi thành cặp cũng nên.  

Ma Kết: Song Tử


ma ket danh nhau vi ai
 
Chòm sao Ma Kết thích nhất dáng vẻ linh hoạt năng động, vui nhộn hài hước của Song Tử. Nhìn mãi càng nhìn càng yêu, thưởng thức dáng vẻ phóng khoáng, nhiệt tình, dễ thương khiến Kết Kết phải tình nguyện vì Tử nhi mà làm bất cứ việc gì, đánh nhau cũng chẳng nề hà luôn.   Cứ bảo Ma Kết lý trí, trầm ổn, không bao giờ động chân động tay với người khác nhưng nếu thấy họ trước mặt Song Tử thì sẽ thấy một mặt hoàn toàn khác nhé. Nếu thấy Kết Kết trong đám đông xô đẩy, bạo lực thì đảm bảo xa xa kia sẽ có bóng dáng Tử nhi đang ngóng chờ kết quả đó.  

Bảo Bình: Kim Ngưu

  12 chòm sao đánh nhau vì ai? Bảo Bình vốn rất nhiệt tình và thành thật, ai đối tốt với họ thì họ đối tốt lại. Trong mắt chòm sao này Kim Ngưu là người lương thiện nhất, quan tâm nhất, tốt đẹp nhất, yêu thương nhất nên đánh nhau vì Ngưu chan là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra, thậm chí còn xảy ra nhiều lần ấy chứ.   Mà Bảo Bình hồ hởi phấn khởi với chuyện này lắm nhé, đánh nhau chẳng phải chuyện gì to tát,c hỉ cần làm Kim Ngưu vui là được rồi. Nếu có bạn thân hay người yêu là Bảo Bảo thì chẳng bao giờ lo bị bắt nạt rồi đúng không Ngưu chan.
Xem thêm bài viết Khi 12 chòm sao gặp ma, bản chất hiện nguyên hình

Song Ngư: Bảo Bình

  Song Ngư thưởng thức vẻ đẹp và tài trí của Bảo Bình, thích sự thông minh, mơ mộng cùng cuộc sống lãng mạn, không gian như cổ tích khi ở bên chòm sao này. Để giữ gìn sự tốt đẹp giữa hai người, Ngư nhi sẵn sàng làm trái với bản tính, đánh nhau là chuyện nhỏ thôi.    Song Ngư quý trọng mối quan hệ này đến mức nâng như nâng trứng húng như hứng hoa, ai dám làm tổn thương tới người họ yêu mến thì tuyệt đối không thể tha thứ. Bình thường hiền lành nhưng động chuyện sẵn sàng xù lông lên ngay lập tức đấy, đừng có đùa.
12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được Nụ hôn của 12 chòm sao, ai là cao thủ? Bạn thuộc nhóm chòm sao Thống Lĩnh, Kiên Định hay Biến Đổi?
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao đánh nhau vì ai?

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Cùng tìm hiểu khái quát về khái niệm Bình Địa Mộc, Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Tìm hiểu về khái niệm Bình Địa Mộc

Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh

Bất phùng Kim giả bất năng thành

Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại

Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh

Giải thích : Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc), mà còn cần hòa hợp mới thành vật hữu dụng (cưa, búa đẻo gọt cây thành vật để dùng như tủ, bàn, ghế).

Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc gặp nhau thì tốt. Lưỡng Mộc thành Lâm.

Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn, âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để nảy nở.

Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình thường dù được vận hay.

Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.
5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.


1. Song Ngư thích những trải nghiệm mới

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.

Song Ngư được sinh ra để tìm tòi, khám phá. Họ thích du lịch, nhảy dù tự do, đi bộ và trải nghiệm tất cả những hoạt động thú vị trong cuộc sống.

5 dieu can biet khi hen ho voi Song Ngu hinh anh
 
2. Song Ngư thích hoạt động tình nguyện


Bạn có thể bắt gặp cảnh tượng Song Ngư tặng đồ ăn miễn phí cho người vô gia cư và người già nhiều hơn là hình ảnh họ “quẩy” trong vũ trường.

Song Ngư rất giàu tình cảm, thích làm việc thiện, xông xáo trong các hoạt động tình nguyện, luôn tâm niệm rằng “lấy việc giúp người khác làm vui”, sẵn lòng lắng nghe những điều bất hạnh và đưa tay ra cứu giúp người khác. Họ chính là “thần hộ mệnh” của những ai có hoàn cảnh sống khó khăn, bất hạnh.

Tử vi năm 2016 của Song Ngư
2016 sẽ là một năm tuyệt vời của Song Ngư, bạn sẽ có cơ hội phát huy năng lực trong các hoạt động cộng đồng, tất nhiên là với sự giúp đỡ và hợp tác của mọi
3. Song Ngư có thể khá nhạy cảm


Với “gấu” là Song Ngư, bạn không nên hành động hay nói năng một cách quá thẳng thắn, vì rất có thể là họ không thích điều đó. Thật ra, Song Ngư khá nhạy cảm, dễ bị bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Chỉ cần một câu nói vô tình của bạn cũng có thể khiến họ suy nghĩ cả ngày.

Ngoài ra, Song Ngư cũng dễ đồng cảm với hoàn cảnh, cảm xúc của những người xung quanh.

5 dieu can biet khi hen ho voi Song Ngu hinh anh 2
 
4. Đôi khi Song Ngư “lạc” vào thế giới màu hồng

Song Ngư luôn phải đấu tranh tư tưởng với hai thế giới, một là thế giới màu hồng huyền ảo, hai là thế giới thực tại mà họ đang sống. Điểm yếu của Song Ngư chính là mơ mộng, họ nhìn đời qua lăng kính màu hồng.

Do đó, một khi Song Ngư đã quyết tâm muốn thay đổi thế giới của riêng mình, họ luôn tìm ra cách để điều đó có thể xảy ra.

5. Song Ngư không thể chịu được xung đột

Song Ngư chúa sợ những bất hòa, cãi vã xuất hiện trong các mối quan hệ của họ. Họ không muốn vướng vào những cuộc tranh luận nên thường cố gắng tránh xa mọi xung đột dù là nhỏ nhất, thậm chí là nhún nhường để có thể thỏa hiệp với mọi người.

Do đó, khi hẹn hò với một Song Ngư, nếu mâu thuẫn, cãi vã xảy ra, hai bạn nên bình tĩnh và nói chuyện với nhau một cách cởi mở, nhẹ nhàng.

► Xem tử vi 12 cung hoàng đạo được cập nhật liên tục, chuẩn xác tại Lichngaytot.com!

Phùng Hiền (Theo Higherperspectives)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Vì có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp của người tuổi Tỵ thường gặp nhiều may mắn, họ dễ đạt được thành công hơn cả sự mong đợi của bản thân.
Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp người tuổi Tỵ thường gặp nhiều may mắn, họ dễ đạt được thành công hơn cả sự mong đợi của bản thân.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Tuy nhiên, họ lại không giỏi giao tiếp, rất cố chấp, bảo thủ và hay làm mọi việc theo phán ý riêng của mình. Cho dù có lâm vào tình trạng xấu như thế nào thì họ cũng nhất định không chịu nghe theo lời khuyên của những người xung quanh.

Trong con người họ tồn tại hai thái cực, có mục tiêu chí hướng phấn đấu nhưng lại mang tư tưởng hưởng lạc thái quá. Chính vì vậy mà cuối đời họ có thể thành công vang dội nhưng nếu không biết cố gắng thì có thể lâm vào tình cảnh bi đát.

Người tuổi Tỵ biết tính toán, làm việc có kế hoạch và chăm chỉ. Trong 12 con giáp thì rắn bao giờ cũng là loài vật khôn ngoan và thích ứng nhanh với mọi sự thay đổi trong bất cứ môi trường nào.

Nhờ trời ban cho tài vận may mắn nên suốt cuộc đời hầu như họ đều không bị chi phối, lo lắng về chuyện tiền bạc. Tuy nhiên trong chi tiêu, họ sẽ không bao giờ phung phí mà luôn có khoản dự trữ cần thiết.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Hóa giải phong thủy xấu cho nhà vệ sinh –

Toilet là một hệ thống công trình phụ quan trọng trong mỗi ngôi nhà và phong thuỷ toilet cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp, tinh thần của gia chủ... Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng biết cách “hoá giải” phong thuỷ xấu của toilet cũng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Toilet là một hệ thống công trình phụ quan trọng trong mỗi ngôi nhà và phong thuỷ toilet cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp, tinh thần của gia chủ…

toilet

Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng biết cách “hoá giải” phong thuỷ xấu của toilet cũng như những kiêng kị khi thiết kế, sắp đặt và sử dụng nó. Cùng chuyên mục Nhà đẹp tham khảo những thông tin hữu ích dưới đây nhé!

Vài điều kiêng kị khi thiết kế, sắp đặt và sử dụng toilet

– Theo phong thủy, năng lượng và các cơ hội tốt của gia chủ sẽ vào nhà qua cửa chính. Do đó, cửa toilet không được đối diện với cửa lớn vào nhà. Nếu cửa toilet đối diện với cửa chính, thì sinh khí khi đi vào sẽ xộc thẳng vào nơi âm khí nặng nề. Bạn nên nhớ, hãy kiêng mở cửa phòng vệ sinh thẳng với cửa chính, ngoài ý nghĩa giữ gìn thẩm mỹ, che chắn tầm nhìn, điều này còn liên quan đến trục dẫn truyền khí. Thay vì mở cửa, bạn có thể đặt bình phong hoặc tạo vách ngăn che chắn nếu như không thể xoay chuyển cửa được.

– Cửa bếp và toilet phải tránh đối diện nhau. Bởi vì bếp là nơi đun nấu, chế biến đồ ăn thức uống, còn phòng vệ sinh là nơi nuôi dưỡng vi khuẩn và không khí bẩn, nếu cửa đối diện nhau sẽ ảnh hưởng tới vệ sinh, tổn hại sức khỏe.

– Không nên thiết kế phòng vệ sinh ngay trung tâm của ngôi nhà, vì phần trung tâm là nơi trang trọng, đòi hỏi sự cao ráo, sáng sủa, thoáng đãng và trang nghiêm nhất. Nếu đặt phòng vệ sinh tại đây sẽ làm hỏng nội khí, vừa bất lợi cho khu vệ sinh vì rất khó thông thoáng, đồng thời khu vệ sinh cũng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ ngôi nhà.

– Hiện nay, đa số gia đình làm nhập chung cả ba tiện nghi tắm – lavabo – bàn cầu trong một phòng vì những hạn chế về diện tích và kinh phí. Tuy nhiên, tốt hơn cả là bạn nên tách riêng chúng ra nếu có thể, bằng những cách ngăn chia “cứng” như xây tường, làm vách kính, hoặc “mềm” như dùng rèm che, cửa lùa…

– Về lựa chọn màu sắc: Những màu sắc dịu nhẹ sẽ đem lại cảm giác thư giãn, những màu đậm và ấm có thể sử dụng cho phần nền và tường. Hạn chế dùng màu chói lọi hoặc quá tương phản trong khu vệ sinh, bởi vì vì tính thư giãn nhẹ nhàng luôn cần được để ý. Ánh sáng tự nhiên cũng rất quan trọng, bạn có thể thiết kế thêm những chân nến và đèn treo tường để thắp sáng những bức tường và các góc.

– Đừng bao giờ để toilet bẩn, ẩm thấp, bạn cần phải vệ sinh không gian này thường xuyên. Hãy dẹp bỏ những thứ gây bề bộn trong phòng tắm như: Giỏ rác đầy ứ, chai lọ hoặc ống kem đánh răng rỗng, đĩa đựng xà bông không cần thiết, mỹ phẩm, sữa tắm hết hạn sử dụng hoặc không bao giờ dùng đến… Tất cả những thứ này đều có thể tích tụ năng lượng xấu, gây hại cho gia chủ!

– Hệ thống nước phòng tắm phải luôn luôn thông suốt, nếu gặp sự cố thì bạn phải sửa chữa ngay. Tránh tình trạng bồn cầu hay lavabo bị rò rỉ, thất thoát… Điều đó có thể khiến tiền bạc của bạn mất dần bởi nước sinh hoạt cũng chính là nguồn khí trong nhà đấy!

Cách “hoá giải” phong thuỷ xấu của toilet

Theo phong thủy, hướng của toilet trong nhà cũng ảnh hưởng tới vận may của bạn. Dưới đây là những cách chế ngự phong thuỷ xấu của toilet mà chúng tôi muốn bạn tham khảo:

Toilet đặt ở hướng Bắc

Toilet đặt ở khu vực hướng Bắc của ngôi nhà có thể gây ra những mâu thuẫn với sếp và đồng nghiệp tại chỗ làm. Nó còn cản trở con đường thăng tiến trong công việc của bạn. Giải pháp cho trường hợp này là đặt 1 hòn đá lớn trong toilet. Luôn đóng cửa toilet và không được trang trí bằng gạch màu xanh dương hoặc đen.

Toilet đặt ở hướng Nam

Toilet ở khu vực phía Nam của ngôi nhà gây ra những chuyện thị phi. Người sống trong nhà sẽ là nạn nhân của các tin đồn vô căn cứ và của những lời nói xấu có ảnh hưởng đến thanh danh của gia đình. Giải pháp cho vấn đề này là đặt 1 chậu nước và thắp 1 ngọn đèn mờ ở bên trong toilet.

Toilet đặt ở hướng Đông

Toilet ở hướng này sẽ khiến cho những người con trai trong gia đình trở nên khó dạy bảo. Nếu chủ nhân sống trong căn nhà này chưa có con thì cơ hội có con trai sẽ bị triệt tiêu. Sức khỏe của các thành viên trong gia đình cũng bị ảnh hưởng. Giải pháp cho trường hợp này là để đèn sáng trong toilet.

Toilet đặt ở hướng Tây

Toilet ở khu vực phía Tây của ngôi nhà sẽ gây ra những vấn đề về con cái. Nếu bạn chưa có con thì theo phong thủy, vận may về đường con cái sẽ bị ảnh hưởng và cơ hội có con là khó. Giải pháp cho trường hợp này là treo trong toilet 1 bức tranh thuộc hành Thủy như tranh ảnh sông hồ hoặc thác nước.

Toilet đặt ở hướng Tây Nam

Toilet ở khu vực này sẽ ảnh hưởng xấu đến những vấn đề về hôn nhân của con cái trong nhà. Nó cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng. Hãy đặt chậu cây hoặc hoa trong toilet. Không được đặt pha lê hoặc bình gốm sứ ở đây.

Toilet đặt ở hướng Đông Bắc

Toilet đặt ở này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung của con cái, gây khó khăn cho việc học của chúng. Nên đặt 1 chậu cây trong toilet để chế ngự năng lượng xấu phát sinh. Trang trí toilet bằng gạch có màu xanh lá cây.

Toilet đặt ở hướng Đông Nam

Toilet ở khu vực nói trên của ngôi nhà sẽ gây ra tình trạng thất thoát tài chính, làm ăn trì trệ và lợi nhuận kinh doanh giảm sút. Tài chính trong gia đình luôn luôn túng thiếu. Giải pháp là treo chuông gió hình ngôi chùa gồm 5 thanh hoặc 1 con dao cong bên trong toilet. Trang trí toilet bằng gạch màu trắng.

Toilet đặt ở hướng Tây Bắc

Toilet ở khu vực Tây Bắc của ngôi nhà sẽ làm tổn hại ảnh hưởng đến chuỗi vận may trong gia đình. Mọi người trong nhà sẽ thấy khó thăng tiến. Giải pháp là lắp những bóng đèn chiếu sáng và mở đèn ít nhất 3 tiếng mỗi ngày để hóa giải những ảnh hưởng xấu trong toilet


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải phong thủy xấu cho nhà vệ sinh –

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B: Bảo thủ, tự tin

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B phóng khoáng, lạc quan, hiếm khi che giấu cảm xúc bản thân.Họ luôn yêu đời, sẵn sàng bày tỏ quan điểm của mình với mọi người
Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B: Bảo thủ, tự tin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B phóng khoáng, lạc quan, hiếm khi che giấu cảm xúc bản thân. Họ luôn yêu đời, sẵn sàng bày tỏ quan điểm của mình với mọi người, thẳng thắn chính trực, không bao giờ giở trò tiểu nhân hay nói xấu sau lưng người khác.  

Đặc trưng tính cách người tuổi Dần nhóm máu B
 

Đây là người cực kì bảo thủ, song lại rất tự tin vào bản thân. Họ thường có những phát kiến nho nhỏ mà rất có ích, được mọi người đánh giá cao, cũng thường được khen ngợi vì đóng góp đó. Trong công việc, họ không thích những việc nhàm chán, gò bó mà thường có xu hướng lựa chọn những công việc thú vị và sáng tạo. Có thể hơi mạo hiểm nhưng đó là niềm vui đối với con giáp này.
 
Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B phóng khoáng, lạc quan, hiếm khi che giấu cảm xúc bản thân. Họ luôn yêu đời, sẵn sàng bày tỏ quan điểm của mình với mọi người, thẳng thắn chính trực, không bao giờ giở trò tiểu nhân hay nói xấu sau lưng người khác.


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau B Bao thu, tu tin  hinh anh
 
Người này giỏi giao tiếp, cũng rất hay kết giao bạn bè. Họ luôn sẵn lòng chia sẻ niềm vui nỗi buồn với bạn bè. Trong mắt người khác, họ là hình mẫu của sự hoạt bát, vui vẻ, khiến mọi người có cảm tình và không e ngại khi tiếp xúc. 
 
Tuy rằng năng lực, ý chí và khả năng làm việc của người tuổi Dần nhóm máu này không kém hơn người khác, song nhược điểm lớn nhất của họ lại là không giỏi lên kế hoạch. Họ làm việc theo cảm hứng, không có bất cứ kế hoạch nào, cũng thiếu tập trung nên khó giành được thành công. Tuy nhiên nghị lực kiên cường, thất bại cũng không nản lòng là điều đáng quý, giúp họ sau nhiều vấp váp cuối cùng cũng đạt được điều như ý.
 
Là người vui vẻ và giàu cảm xúc, xung quanh người tuổi Dần nhóm máu B không thiếu bạn bè khác giới. Họ cũng có đời sống tình cảm khá phong phú, hiếm khi chỉ quen 1 người mà thường cùng lúc yêu 2 người khác nhau. 
 
Bản thân họ không quá coi trọng việc kết hôn, đối với người này, tình cảm 2 người gắn bó với nhau còn quan trọng hơn bất cứ giấy tờ pháp lý hay hình thức cưới hỏi nào. Nếu yêu ai, họ sẽ thể hiện rõ ràng tình cảm của mình, không ngần ngại bày tỏ tình yêu với đối phương, chẳng màng đến ánh mắt của bất kì ai.
 
Khi xử lý công việc, họ luôn giữ được sự tỉnh táo và lý trí, người tuổi Sửu, tuổi Mão và tuổi Tị là đối tượng hợp tác làm ăn tốt nhất với người tuổi Dần nhóm máu B. Sự kết hợp của họ sẽ giúp cho người này tránh được khuyết điểm thiếu khoa học và kế hoạch khi hành động, định hướng mục tiêu rõ ràng và tránh lãng phí thời gian. Nếu hợp tác lâu dài, chẳng những đôi bên có thể phát huy sở trường của mình 1 cách tốt nhất mà còn rất có lợi cho cuộc sống và sự nghiệp sau này.
 

Ưu điểm người tuổi Dần nhóm máu B
 

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu này phóng khoáng, cương trực, tự tin, dám nghĩ dám làm. Họ không thích che giấu cảm xúc, giả tạo với mọi người. Luôn giữ thái độ lạc quan, tích cực trong cuộc sống.
 
Những người này thích chia sẻ những điều mình ưa thích và những thứ mình thấy có ích với mọi người. Họ rất vô tư và không có bất cứ tâm kế gì, vì thế nên rất phản cảm với những kẻ mưu mô xảo quyệt. 


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau B Bao thu, tu tin  hinh anh
 

Người nhóm máu B cầm tinh con Hổ rất thích kết giao bạn bè. Dù với những người bạn mới quen, họ cũng luôn thân thiện và cởi mở, sẵn sàng chia sẻ những câu chuyện của bản thân mình. Đây cũng chính là lý do họ được rất nhiều người yêu mến và có bè bạn khắp bốn phương. Những người khác giới cũng bị cuốn hút vì tính cách lạc quan và mong muốn kết bạn với bạn không chút ngại ngần.
 
Khi yêu, người này luôn thẳng thắn với tình cảm của mình, không giấu diếm, vô tư bày tỏ tình cảm với đối phương. Tình cảm nồng nhiệt của họ có thể khiến nhiều người e sợ, chẳng thế mà có người nói "mẹ dặn không yêu người tuổi Dần". Về quan điểm hôn nhân, họ không quá đề cao vật chất. Với họ, tình cảm 2 người mới là điều quan trọng nhất, những thứ rườm rà hình thức có thể bỏ qua.
 
Trong công việc, người tuổi Dần nhóm máu B có năng lực, cũng rất khá khi thực hiện, hiệu quả làm việc luôn cao hơn người khác. Thêm nữa, họ có ý chí kiên định, luôn bình tĩnh khi xem xét và giải quyết vấn đề, dù thất bại nhiều lần nhưng vẫn lạc quan, tự tin rằng mình có thể làm được. Luôn giữ thái độ cầu thị và tinh thần ham học hỏi.
 

Nhược điểm người tuổi Dần nhóm máu B
 

Nhược điểm lớn nhất của người này chính là làm việc thiếu khoa học, không có bất cứ kế hoạch nào, họ hoàn toàn làm việc theo cảm tính, chỉ nhìn mục tiêu mà không màng đến bất cứ điều gì. Khi được cấp trên giao phó nhiệm vụ, họ chỉ biết mù quáng phục tùng, hiếm khi có suy nghĩ của riêng mình, không có chính kiến. 


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau B Bao thu, tu tin  hinh anh
 

Khả năng tập trung kém, chỉ cần suy nghĩ ban đầu và hành động hiện tại không khớp với nhau là người tuổi Dần nhóm máu B sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, không tìm được lối ra. Đó cũng là lý do ngăn cản người này đến với thành công.
 
Đây là những người có số rất đào hoa, tình cảm lại phong phú, vì thế mà thường không chung thủy trong tình yêu, sẵn sàng yêu 2 người cùng lúc. Mối quan hệ xã hội quá rộng khiến họ khó tránh khỏi đôi lúc gặp phải bạn xấu.

Khi kết bạn, nên cẩn trọng hơn, tránh kết giao với bạn xấu, ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc. Chung thủy hơn trong tình cảm, bởi những người dễ dãi, chân đạp 2 thuyền tới cuối cùng đều không có kết cục tốt đẹp.
 

Tài lộc người tuổi Dần nhóm máu B
 

Những người trời sinh may mắn, dù không vội vàng tìm kiếm song cơ hội kiếm tiền vẫn tới tận tay. Tuy nhiên, do kém nhạy bén, không có đầu óc kinh doanh nên họ thường bỏ lỡ hoặc không phát hiện ra những cơ hội hiếm có. Tiền bạc đến với họ thường cần quá trình lao động thực sự chứ khó có thể biến họ trở thành tỉ phú chỉ sau 1 đêm.


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau B Bao thu, tu tin  hinh anh
 
Ý chí kiên cường, không nản lòng nhụt chí trước khó khăn là ưu điểm nổi bật trong tính cách người tuổi Dần nhóm máu B. Do đó, dù thất bại hay bỏ lỡ cơ hội, họ vẫn kiên trì rèn luyện và chờ đợi cơ hội phía sau. Chỉ cần nghiêm túc, họ sẽ có nguồn thu ổn định, cuộc sống sung túc, giàu sang.

Theo tử vi tài lộc năm 2017 của người tuổi Dần được Tài Tinh chiếu mệnh, có nhiều cơ hội phát tài. Bên cạnh đó, Thương Quan tinh sinh trợ Chính Tài tinh, bản mệnh dựa vào năng lực và sở trường của chính mình để kiếm nhiều tiền bạc hơn nữa.
 

Tình yêu hôn nhân người tuổi Dần nhóm máu B
 

Tình yêu
 

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu này vốn phóng khoáng, tình cảm lại phong phú nên bạn bè nhiều mà người yêu cũng không chỉ có 1. Họ coi việc yêu cùng lúc vài người là chuyện bình thường và không có gì phải tội lỗi.
 
Trong tình yêu, họ là người nồng nhiệt và dũng cảm. Khi xác định yêu ai, họ sẽ dành toàn bộ tâm sức để chinh phục người đó, sẵn sàng bày tỏ tình cảm trước đám đông như giữa chốn không người. 
 
Đối với họ, việc cưới xin theo hình thức không hề quan trọng, chỉ cần tình cảm tâm đầu ý hợp là họ sẵn sàng sống chung không cần hôn thú. Trong tình yêu hôn nhân người tuổi Dần hợp với tuổi nào? Khi gặp đúng người, tình cảm hòa hợp, người tuổi Dần nhóm máu B sẽ nghĩ đến chuyện dài lâu và lo lắng cho tương lai của 2 người.

Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau B Bao thu, tu tin  hinh anh
 

Hôn nhân
 

Không coi trọng hình thức của việc kết hôn mà đề cao tình cảm 2 người nên người tuổi Dần nhóm máu B thường kết hôn muộn. Họ còn mải mê lựa chọn người phù hợp để tính chuyện trăm năm. Phụ nữ nhóm này cũng rất có thể trở thành mẹ trước khi kết hôn, bởi họ suy nghĩ tình yêu là dâng hiến, không nhất thiết phải có ràng buộc rõ ràng mới có thể đến với nhau.
 
Sau khi kết hôn, họ vẫn có thể bị thu hút và “say nắng trúng gió” với người khác giới khác, không phải bạn đời của mình. Ngoài ra, bạn bè khác giới cũng nhiều nên cuộc sống gia đình của người này có thể gặp nhiều sóng gió vì những mối quan hệ ngoài hôn nhân.
 
Người tuổi Dần nhóm máu B cũng rất mạnh mẽ và nồng nhiệt trong chuyện chăn gối. Họ chủ động và thẳng thắn trong mọi việc, không ngần ngại là người bắt đầu. Tuy nhiên, do có nhiều kinh nghiệm phong phú trong quan hệ tình cảm nên họ thường bị coi là phong lưu hay buông thả.

Mời bạn xem thêm về tình duyên năm 2017 của người tuổi Dần.
 

Lời khuyên dành cho người tuổi Dần nhóm máu B


Khi làm bất cứ việc gì, hãy bỏ thêm thời gian suy nghĩ, xem xét khả năng thành công của việc đó, tìm hiểu xem có những yếu tố nào cản trở. Hãy lập kế hoạch chi tiết, lên từng bước thực hiện để nâng cao hiệu suất làm việc.
Khi kết giao bạn hữu, người nhóm máu này nên lựa chọn kĩ càng. Đặc biệt, trong quan hệ với bạn bè khác giới, không nên quá thân mật để tránh những hiểu lầm không đáng có. Với người đã kết hôn, điều này càng trở nên quan trọng hơn để gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Hãy tập trung sức lực vào phát triển sự nghiệp và chăm sóc gia đình, suy nghĩ nhiều hơn cho nửa kia của mình, tự giác gánh vác nghĩa vụ với gia đình, lấy chính mình làm gương cho con cháu sau này, tạo dựng môi trường phát triển thật tốt cho thế hệ sau. 
 
Hy Vũ

Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Dần Quá thông minh và mạnh mẽ phải chăng là lý do khiến tuổi Dần cao số?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B: Bảo thủ, tự tin

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Xe hồng thập tự vừa đưa xác người chết xuất viện về quê… việc nầy đối với các Bác sĩ thì chẳng là gì! Nhưng với người bình thường vừa đến đây có cảm giác lành lạnh sờ sợ,
Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Oan hồn, hồn ma, ma, cô hồn gọi chung là “ma”:

Bàn đến “ma”, “hồn ma bóng uế” đối với Phật giáo là việc không tưởng! Người Phật giáo cũng không tin là có ma. Phật giáo quan niệm ma là những nghiệp lực, chướng duyên cản trở quá trình tu chứng của người đệ tử đức Phật, như: ma tiền tài, ma danh vọng, ma sắc đẹp, ma ngủ nghỉ, ma ngũ dục… chứ không có vấn đề ma nhác, ma hiện hình cho người đời thấy, ma báo mộng, đưa tin…

Theo từ điển Việt Nam của Thanh Nghị thì hồn ma, oan hồn là bóng hình quái dị của người đã chết mà lắm người tin rằng có thể hiện ra. Như nói “ma da” là ma dưới nước, oan hồn, ma xó, cô hồn. Hồn ma là sự ám ảnh đối với người sống, “hồn ma” là hiện tượng mà mọi người tin là có, hoặc có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và “hồn ma” có thể xuyên qua khe hở, qua cửa, qua tất cả vật thể để đến với người sống, lúc bấy giờ người sống gọi là “ma nhác”. Câu chuyện “ma” là câu chuyện vô cùng hấp dẫn, nói mãi không hết chuyện “ma”. Người sợ “ma” bao nhiêu thì thích nghe nói chuyện “ma” bấy nhiêu… Thật ra “hồn ma” là một hiện tượng “vô thể” đối lập với “hữu thể”!

Như người bệnh mới vừa bị cưa mất khúc chân, người đó vẫn còn cảm giác bên khúc chân bị cưa mất về sự đau đớn, nhức nhối. Sự đau đớn nhức nhối ở khoản không bên khúc chân vừa bị cưa mất gọi là “chân ma”.

Nghe nói có người chết trên giường bệnh trong một bệnh viện lớn, vắng vẻ, xe hồng thập tự vừa đưa xác người chết xuất viện về quê… việc nầy đối với các Bác sĩ thì chẳng là gì! Nhưng với người bình thường vừa đến đây có cảm giác lành lạnh sờ sợ, khi vào bên trong đi ngang các phòng bệnh, nghe chuyền tai nơi đây hôm qua có người chết vừa đem ra khỏi giường… Cái cảm giác có người chết nằm trên giường, hôm qua còn người nằm, hôm nay không còn người nằm, liền nảy sanh sợ chỗ đó gọi là “sợ hồn ma bóng uế”.

Đối với các tôn giáo:

Nói đến ma, hồn ma, oan hồn, mọi người tiến bộ trên hành tinh nghĩ ngay đến tôn giáo, chỉ có những người làm công tác tôn giáo mới hóa giải vấn đề hồn ma. Một số tôn giáo và nền văn hóa dân gian quan niệm, con người gồm thể xác (mang tính chất vật chất) và linh hồn (mang tính chất phi vật chất). Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma”; nhưng nếu các phần phi vật chất đó tương tác với cõi thực của con người theo tình cảm, theo trách nhiệm được giao của các tôn giáo thì lại gọi là “hồn”, “linh hồn”, “thánh”, “thần”, “thiên sứ”.

Theo Phật giáo:

Con người, nói chung là chúng sanh sau khi chết, không có một linh hồn, oan hồn nào tồn tại sau khi thân ngũ uẩn tan rã! Thân chúng sanh gọi là thân ngũ uẩn hay ngũ ấm, gồm có sắc, thọ, tưởng hành và thức: sắc dụ cho máu thịt gân xương v.v… và tâm (thọ, tưởng, hành, thức) dụ cho tâm thức, sự hiểu biết tạo ra nghiệp lực, hình thành một con người.

Có thể hiểu cách khác: thân người gồm có đất, nước, lửa, gió (là máu, thịt, gân, xương), tâm là thức đại, không đại (là sự hiểu biết); sau khi qua đời, đất, nước, lửa, gió được trả về với đất, nước, lửa, gió; thức đại, không đại được trả về với hư không và sau 49 ngày tái sanh theo nghiệp lực đã tạo. Như vậy, không còn gì ở lại thế gian nữa, làm gì có hồn ma hay oan hồn?

Việc cúng cầu siêu cho hương linh người qua đời, ngày kỵ giổ mời ông bà về thọ hưởng là đứng về mặt tín ngưỡng tưởng niệm người quá cố. Tưởng niệm không phải tin rằng có linh hồn tồn tại sau khi chết, tưởng niệm nói lên đạo đức của người con Phật, không quên ân sâu nghĩa nặng của cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ, quá thế nhiều đời, cũng như cha mẹ tại tiền. Tưởng niệm cũng chính là để đáp ân sanh thành dưỡng dục của người con Phật mà thôi, hoặc cúng thí thực cho các “oan hồn” được siêu thoát là vì phát huy lòng từ thiện: người chết còn nghĩ đến huống gì người đói nghèo!

Con người hình dung về hồn ma:

Cho đến nay, hồn ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện hư cấu về hồn ma, nhưng cũng không thể kết luận được có phải hư cấu hay không. Sự bí ẩn của hồn ma xuất phát từ giới hạn tri thức và hiểu biết của con người (nói chung) và các nhà khoa học (nói riêng).

Hồn ma thường được miêu tả là một dạng người, nhưng thông thường là “trắng bạc”, “cái bóng lờ mờ”, “nửa trong suốt”, hay “tựa như sương mù”, “đống đen thùi lùi”. Hồn ma không có cơ thể sống như con người, hoặc chỉ là bộ xương người biết đi. Xã hội của các oan hồn theo nhiều người là “âm phủ” còn chỗ ở của hồn ma là cái mộ (sống cái nhà, thác cái mồ) vì vậy họ xây dựng nhà mồ rất đẹp có nhiều nghĩa địa khang trang như một thành phố. Nhưng hồn ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ nơi có liên quan đến họ khi còn sống.

Ở một số tín ngưỡng dân gian:

Người có “duyên” với hồn ma mới có thể nhìn thấy hồn ma hoặc chỉ những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và tương tác với hồn ma. Nhiều người cho rằng oan hồn (ma) có khả năng biết tất cả những gì người sống nghĩ, có khả năng biết được các việc đã, đang và sắp xảy ra, hoặc có khả năng tác động lên thể xác, lời nói của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc hồn ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, tắm trong nhà tắm nữa đêm, rung cây, xô lệch bàn ghế…

Oan hồn theo nghĩa đen tức là người chết không do từ một nguyên nhân cố định (bệnh chết, già chết) như xe đụng hết, bị lạc đạn chết, bị chết vì nước, lửa, lốc xoáy… gọi là chết oan, chết tức tửi. Người chết không có người cứu, không có người tụng kinh, đưa linh, nên người đời gọi đó là những oan hồn, còn ẩn khuất đâu đây chưa siêu thoát. Cứ nghĩ như thế mãi theo thời gian và cho rằng người chết đó không siêu thoát nên thành “ma đói, ma ngã ba đường cái, ma oán, oan hồn, cô hồn”.

Lời khuyên:

Bạn có thấy những oan hồn, nghe những sinh hoạt của oan hồn, nghe tiếng nước chảy trong bồn tắm, nghe trong người của Bạn có hiện tượng khác, ngầy ngật, ợ ngáp, khó thở… đó là do nghiệp thức của Bạn cảm ứng.

Người đời nói chuyện “hồn ma” vì thấy có “hồn ma”. Khi các Bạn nghĩ đến ma, thấy ma, nói chuyện ma, nghi có ma ở nơi nào đó thì Bạn cảm thấy sợ sệt, nhất là những nơi vắng vẻ… Theo Sư thì hôm nay chúng ta sợ “ma sống” hơn là “ma chết”, “ma xã hội đen” đấy Bạn ạ!

Về đạo đức tâm linh, Bạn niệm thần chú Vãng sanh, thần chú thất Phật diệt tội chân ngôn (Thập chú trong kinh Nhựt Tụng), Bạn chỉ còn thấy đức Phật, Bồ Tát, nên không còn thấy “hồn ma bóng uế” nữa!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật về các oan hồn ở bệnh viện

Xem vận mạng của người có lông mày dài –

Mỗi người đều có vận mệnh riêng của mình. Do đó các đặc điểm bên ngoài cũng không ai giống ai. Bởi mỗi đặc điểm thể hiện số mệnh riêng của người đó. Có rất nhiều người có lông mày dài, họ băn khoăn liệu lông mày dài ấn ý điều gì? ẩn số vận mệnh của b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người đều có vận mệnh riêng của mình. Do đó các đặc điểm bên ngoài cũng không ai giống ai. Bởi mỗi đặc điểm thể hiện số mệnh riêng của người đó. Có rất nhiều người có lông mày dài, họ băn khoăn liệu lông mày dài ấn ý điều gì? ẩn số vận mệnh của bản thân như thế nào? nhiều bạn không biết. Liệu nó tốt hay xấu.

Những người có lông mày dài thường có những đặc điểm về tính cách, vận mạng như thế nào? Bài viết sau sẽ nêu rõ cho các bạn.

Xem vận mạng của người có lông mày dài

Nếu lông mày dài hơn mắt thì có tướng phú quý

Lông mày dài mà cao là tướng có uy quyền phúc lộc

Lông mày dài mà rủ xuống mắt là người đại thọ, sống lâu.

Lông mày dài hơn mắt là người chân thực và có lộc.

Mày cong dài quá mắt, trông óng mượt (óng mượt là có sức sống) nhưng vừa phải (không đậm quá, không thưa quá, không rậm quá) là người thông minh mẫn tuệ nhưng nếu độ dài không đủ (hay ngắn bằng mắt) thì phải có nốt ruồi ở trong lông mày mới đắc cách.

Lông mày dài quá mắt, hướng mọc lông mày xuôi về đuôi mắt, phủ kín xương lông mày (bất kể lông mày nào mà lộ mi cốt đều là tướng hung hãn tướng bất trắc hết), lông mày không được mọc lên trên hoặc mọc xuống dưới thì là người tâm tính trung hậu thông minh khoáng đạt, biết nhiều hiểu rộng. Lông mày mọc quá đậm, quá lên, quá xuống đều là dở, chỉ cần phủ mi cốt là được.

Lông mày mọc dài quá mắt, đuôi mọc vẩy cao lên đầu (có thế bay lên). Nhưng nếu sợi lông mày thô thì là người cuồng phóng (tính phóng khoáng đến mức điên), hào sảng đến mức vô lý ( kiểu như công tử Bạc liêu).

Lông mày mọc dài ra, mọc cao lên phía trán thì phú quý thành đạt.

Lông mày đen (như mực tàu), tươi mịn, sợi dài bóng bẩy, dài bằng hoặc dài quá mắt thì quý hiển và thành danh. Nếu lông mày mọc dài quá đuôi mắt quý hơn là bằng mắt.

Lông mày dài cong tươi mịn đẹp: được hưởng gia vận đẹp, anh chị em vợ con gia đình hạnh phúc.

Lông mày dài bất thường

Các sợi lông mày dài nhất là càng phía đuôi càng dài, sợi lông mày dài, hình thể lông mày có chiều cong xuống gần như trăng. Nếu ở tuổi trung niên mà lông mày có vài sợi bạc thì sẽ thọ.

Trước tuổi trung niên, lông mày đang bình thường, đột ngột có vài sợi lông mày dài bất thường mọc rất dài ra thì chắc chắn sẽ chết non trong vòng 3 năm tới ( đây là điềm báo trước cho những người có lông mày dài bất thường).

Trên đây là những đặc điểm về tướng số vận mạng của những người có lông mày dài. Bạn hãy đọc và xem mình sở hữu kiểu lông mày như thế nào để xem vận mệnh của mình nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem vận mạng của người có lông mày dài –

Các lễ hội diễn ra trong ngày 13 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Vĩnh Ninh

Hội Đình Vĩnh Ninh được tổ chức vào ngày 13 tháng 5 âm lịch, lễ hội tổ chức tại xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thành Trì, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 13 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Vĩnh Ninh

Các lễ hội diễn ra trong ngày 13 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Vĩnh Ninh

Hội Đình Vĩnh Ninh

Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tháng 5 âm lịch.

Địa điểm: xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thành Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nàng Tía - tướng của hai bà Trưng.

Nội dung: Mở đầu hội là lễ cúng tổ, rước thần theo phong tục truyền thống của xưa kia. Tiếp đó là tổ chức diễn cảnh trận giả để nhắc lại chiến công xưa của nàng Tía.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 13 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Vĩnh Ninh

Xem Tử Vi theo ngày tháng năm sinh

Kết quả Thông tin gia chủ cung cấp: - Ngày sinh dương lịch: 01-06-1986 - Ngày sinh âm lịch: 24-4-1986, tức năm Bính Dần, Mệnh Lư Trung Hỏa. - Năm xem: 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


CHUNG: Theo Tử vi 2016, bản mệnh Dần bước vào năm 2016 cần chuẩn bị tâm lí đón tiếp một vận trình vất vả, khó khăn nhất vì rơi vào cục diện Dần Thân tương xung, trong đó vận Phạm Thái Tuế của bản mệnh ảnh hưởng cực lớn. Tuy vậy, vận mệnh tốt đẹp hay không phụ thuộc khá nhiều vào cá tính, sự quyết tâm của từng người bởi có lúc trong năm xung Thái Tuế lại thúc đẩy vận khí cho một số người. Bất luận vận trình của bản mệnh ra sao, có thể tận dụng hỉ sự để đuổi tà. Nếu trong năm nay bạn có 3 việc lớn như thành thân, thêm con cháu hoặc khởi nghiệp thì có thể giảm bớt hung vận từ Thái Tuế. Ngoài ra, trong năm nay có cát tinh đi vào cung mệnh, nếu cố gắng hết sức cũng gặt hái được thành công. Đây có thể coi là một năm lao động cật lực của bản mệnh. 


van trinh nam dan
 

HUNG TINH CHIẾU MỆNH NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Tuế Phá: Đại diện cho mối quan hệ giữa người với người bị phá hoại. Năm nay bản mệnh sẽ đắc tội với những người xung quanh, các mối quan hệ thiếu sự hài hòa, nếu muốn huy động nhân lực sẽ gặp khó khăn.

Đại Hao: Đại diện cho tiền bạc thất thoát, phá sản.

Lan Can: Đại diện cho sóng gió trong công việc, hành sự.

Nguyệt Sát: Chủ nhiều cho bản mệnh nữ. Vì vòng năm xung với Thái Tuế nên tuổi Dần sẽ có nhiều thay đổi về gia trạch, công việc ví dụ như lập nghiệp, di chuyển, nhân khẩu tăng giảm hoặc tính chất công việc sẽ bị thay đổi. Ví dụ, bạn có cơ hội đi công tác xa hay mở rộng thị trường ra nước ngoài. Ngoài ra, vì là năm xung vận nên bạn cần chú ý nhiều tới sức khỏe hoặc vận gia trạch.

CÁT TINH CHIẾU MỆNH NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Nhìn chung, năm nay bản mệnh Dần có nhiều biến động, phải trải qua nhiều sóng gió mà không có sự hỗ trợ của cát tinh. Vậy nên bản thân không cần đặt mục tiêu quá cao, tránh rơi vào tình trạng thất vọng. Ngoài ra, cần phải giữ thái độ khiêm nhường, dung hòa mọi mối quan hệ xã hội để trợ lực cho vận trình. Năm nay không có lợi cho mọi quyết định hệ trọng hoặc mở rộng kinh doanh. Kim Qũy là Tài điêu tinh có thể dự trữ tài phú, thúc đẩy tài lộc, tượng trưng cho phúc quý, là phương tiện cho người quyền cao chức trọng. Người có sao này chiếu rọi thì phúc lộc đủ đầy.



xh dan
 

TỬ VI NĂM 2016 CỤ THỂ CÁC TUỔI DẦN 

Tử vi năm 2016 tuổi Canh Dần - 66 tuổi - Tùng Bách Mộc

Canh Dần có Ngũ hoàng gia nhập cung mệnh, lại gặp Nhị Hắc Trung Cung nên cần chú ý nhiều về mặt sức khỏe. Trong năm Bính Thân này, bản mệnh phải chú ý tới đường tiết niệu, gan tạng. Nên tiết chế tính khí nóng nảy, bớt can thiệp vào cuộc sống của con cháu trong nhà, ra ngoài tham gia các hoạt động công cộng, gặp gỡ bạn bè nói chuyện, hóa giải cảm xúc bản thân. Nếu bản mệnh cảm thấy không thỏa mãn về vấn đề nào đó, không nên tùy ý tức giận, năm Bính Thân Hỏa vượng nên dễ phát hỏa mà sinh họa bệnh.

Vận trình năm 2016 tuổi  Nhâm Dần - 54 tuổi - Kim Bạch Kim

Tuổi Nhâm Dần năm nay vận sinh môn hiển địa gặp đằng tỵ quan cách nên có khả năng đề bạt vào vị trí cao. Nên thường xuyên trao đổi với lãnh đạo về suy nghĩ của mình, cố gắng biểu đạt rõ ràng chính kiến để lãnh đạo thêm hiểu và đánh giá cao khả năng của bản thân. Tuy nhiên đường tài lộc lại kém sắc, theo lẽ thường khi thăng chức thì lương sẽ tăng nhưng năm nay bản mệnh dễ rơi vào tình trạng đầu tư theo phong trào mà không suy nghĩ thấu đáo nên bản thân thường xuyên cảm thấy thiếu thốn, tiền bạc không đủ xài.

Mặt sức khỏe, cần chú ý cân bằng dinh dưỡng và vận động thể thao nhiều hơn giúp gân cốt co giãn. Ngày thường cần phải chú ý vấn đề đi lại, trong trường hợp thời tiết ẩm ướt, không nên ra ngoài tránh hiện tượng trơn trượt.

Vận trình năm 2016 tuổi  Giáp Dần - 42 tuổi - Đại Giản Thủy

Giáp Dần gặp vận khí Thiên Môn, Phù gặp Thanh Long cách nên năm mới này bản mệnh sẽ có tư tưởng mạnh mẽ muốn được xây dựng hay thay đổi sự nghiệp nên công việc không được ổn định. Với tham vọng quá lớn, bản mệnh dễ cảm thấy áp lực trong công việc. Tuy nhiên lại có quý nhân phù trợ, hỗ trợ cho công việc, sự nghiệp thuận lợi.

Năm nay vận đào hoa rất mạnh nên những người tuổi Dần còn độc thân phải chú ý trong sự chọn lựa nửa kia cho mình, đừng để vận đào hoa làm mờ mắt rồi lãng phí thời gian yêu đương vô bổ. Về sức khỏe, bình thường bạn không nên thức khuya, chú ý bảo vệ thị lực. Đặc biệt những người hay tiếp xúc máy tính không được thức quá khuya, chú ý những bệnh về huyết quản.

Vận trình 2016 tuổi  Bính Dần - 30 tuổi - Lư Trung Hoả

Bính Dần gặp vận Địa Môn, Kỳ Thần Hợp Minh cách cục diện nên vạn sự như ý, sự nghiệp tất thăng. Mặt thứ tài cũng khả quan, nhiều chuyện hỉ sự do bạn bè mang tới. Tuy vậy bản mệnh cần chú ý vận trình từng tháng vì một khi vòng tháng qua tiết Xuân Hạ, nhất định không được tham gia các trò đỏ đen, tránh bị thua lỗ nặng nề. Mặt công việc, cần chú ý mối quan hệ với đồng nghiệp nhiều hơn bởi năm nay bạn sẽ vì một chút việc nhỏ mà bị kích động dẫn tới nhiều kết quả không mong muốn. Ngoài ra, năm Bính Thân có lợi cho bản mệnh Dần muốn thăng chức hoặc đi thi lên bằng.

Tử vi năm 2016 tuổi  Mậu Dần - 18 tuổi -Thành Đầu Thổ

Mậu Dần vào năm Bính Thân có Thanh Long nhập lao cách cục diện, đại diện cho vận khí không tốt nên hiệu quả làm việc tương đối thấp. Trong năm sẽ sản sinh nhiều hiện tượng tâm lí phản nghịch, bướng bỉnh nên cần có sự chỉ dẫn kiên nhẫn từ phụ huynh. Thành tích học tập bất ổn, sự khác biệt về điểm số tương đối cao. Trong quá trình học hành hoặc tham gia công việc, bản mệnh đều không thể tập trung tinh thần, nên cần có sự hỗ trợ hiệu quả từ phía cha mẹ. Nhiều khả năng bản mệnh sẽ suy nghĩ về tình cảm nam nữ, tuy vậy không được để chuyện tình cảm nam nữ làm lỡ dở việc học hành.

Vận trình 2016 tuổi  Canh Dần - 6 tuổi - Tùng Bá Mộc

Bạn nhỏ sinh năm Canh Dần bước vào năm 2016 cần cố gắng học hành hơn nữa, có thể thử sức những môn học khác nằm ngoài sở thích của mình để có thể phát triển toàn diện và đa dạng hơn. Năm nay tính tình Canh Dần có chút xáo trộn, tính khí không tốt, thích thể hiện ý kiến cá nhân khiến bạn bè và bạn học cảm thấy khó chịu. Vì thế cha mẹ nên quan tâm nhiều hơn tới nội tâm của trẻ để đưa ra những định hướng đúng đắn. Mặt sức khỏe, cần chú ý những bệnh vặt như: cảm cúm, ho khan, da dẻ mẫn cảm, dị ứng...

su nghiep
 

SỰ NGHIỆP CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Năm 2016 bản mệnh Dần chịu sự ảnh hưởng của cục diện Xung Thái Tuế nên vận thế sự nghiệp biến đổi khôn lường như: sự thay đổi vị trí lãnh đạo trong công ty, điều động nhân sự hay vị trí công việc. Nếu có cơ hội đi công tác, bạn nên nắm bắt vì điều đó rất có lợi cho việc thay đổi vận trình. Vì là một năm tương xung với Bính Thân nên khi ra khỏi nhà bạn cần chú ý tiền bạc và hành lí, tránh bị mất hoặc trộm cắp.

Năm 2016 là một năm rèn luyện cho tuổi Dần về mọi mặt, tuy có những việc đã chuẩn bị từ trước nhưng vẫn không tránh được vấn đề xảy ra hoặc gặp người gây trở ngại. Tuy vậy bản mệnh không được hấp tấp mà gây ra mâu thuẫn khó giải quyết. Khi tiến hành bất cứ việc gì, bản mệnh cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng, kiểm soát tốt cảm xúc, đặc biệt là khi bàn chuyện làm ăn với đối tác.

tai loc
 

TÀI LỘC CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Năm nay, bạn có hung tinh Đại Hao soi chiếu kết hợp với vận trình Xung Thái Tuế đại diện cho sự tổn thất to lớn về mặt tài lộc. Trong năm bản mệnh phát sinh nhiều chi tiêu ngoài ý muốn như sửa chữa đồ đạc trong nhà, xe cộ hoặc mất mát.

Với những người làm kinh doanh, phải cần thận tiền vốn của mình, cố gắng chi tiêu tiết kiệm trong năm. Nếu có điều kiện, nên dùng tiền bạc tích lũy được để mua nhà, cửa hàng hoặc vàng bạc. Bản mệnh nên chủ động đề phòng họa phá tài vì trong năm Thân, bất luận chính tài hay thứ tài đều rất kém, thậm chí có thể hiểu bạn đang bước bên bờ vực thẳm, nên tránh xa cờ bạc xổ số. Năm nay vì tiền bạc mà bản mệnh sẽ phát sinh cạnh tranh mạnh mẽ, đối với công việc hay quan hệ liên quan đến tài chính, tư pháp đều nên cẩn thận, giữ quan hệ hài hòa, tránh vướng vào họa kiện tụng.


suc khoe
 

SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Bản mệnh Dần trong năm Thân gặp cục diện Dần Mộc đối xung, tương khắc với Thân Kim nên những bộ phận trong lục phủ ngũ tạng như gan thuộc Mộc, phổi thuộc Kim dễ bị ảnh hưởng. Gan dễ sinh hỏa khiến tính khí bản mệnh hấp tấp nóng vội không thể khống chế bản thân. Mà gan bốc hỏa thì phổi sẽ bị thương khiến hệ thống hô hấp gặp trở ngại. Những người trước đây có bệnh viêm xoang mãn tính càng phải chú ý bảo vệ cho mình. Ngoài ra cũng nên chú ý nhiều đến đôi chân, việc đi lại xa xôi và thường xuyên sẽ khiến bàn chân hoặc mắt cá chân dễ bị thương tổn. Bên cạnh đó, khi tham gia giao thông cần biệt cảnh giác với tình trạng mặt đường xấu, tránh tai nạn bất ngờ. 


tinh cam
 

TÌNH CẢM CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Mặt tình cảm trong năm Bính Thân của người tuổi Dần dễ dàng gặp phải trắc trở thậm chí ảnh hưởng sâu sắc tới tinh thần của bạn. Vì năm xung hạn với Thái Tuế, những ai đang thầm thương trộm nhớ đối phương không nên bày tỏ công khai tình cảm vì tỉ lệ bị từ chối tương đối cao. Với những người có kế hoạch kết hôn trong năm, nên nhanh chóng nhờ hỉ sự tương trợ đẩy lui mức ảnh hưởng từ vòng Thái Tuế. Trong quá trình chuẩn bị cho hôn lễ nên đề phòng tiểu nhân phá đám, hoặc bản mệnh có thể dùng phương pháp “xa thơm gần thối”, dành cho nhau khoảng cách nhất định để cả hai có không gian suy nghĩ, tự mình phát triển sự nghiệp hoặc sở thích riêng tư. 


nhan duyen
 

NHÂN DUYÊN CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Theo Tử vi 2016, mặt quan hệ xã hội của người tuổi Dần trong năm nay cũng có thể coi là một trong những con giáp hưng thịnh nhất, bạn dễ dàng được đồng nghiệp hoặc thượng cấp giúp đỡ và đánh giá cao, mặt sự nghiệp vì thế cũng có sự tiến triển. Dù mối quan hệ cá nhân tốt những bản mệnh vẫn phải lưu ý những tranh chấp đơn giản về lời ăn tiếng nói hàng ngày đối với đồng nghiệp, nó dễ dàng đẩy bạn vào tình trạng xung đột với lãnh đạo trên phương diện công việc. Lời khuyên dành cho bạn đó là đừng đắc tội với đồng nghiệp hay lãnh đạo nếu không sự nghiệp chắc chắn bất lợi.


tinh van
 

TINH VẬN CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

Chịu ảnh hưởng bất lợi từ vòng Thái Tuế, hướng chính Nam trở thành phương vị cực hung của người tuổi Dần trong năm nay. Nên dù là phương vị phòng ngủ hay phương vị bàn làm việc bạn cũng nên tránh hướng chính Nam. Bản mệnh cần lưu ý những ảnh hưởng của hướng này đối với vận trình, sắp xếp phương vị bàn làm việc hay giường ngủ cũng phải tìm chính xác vị trí tài lộc thì mới giúp đỡ vận trình của bạn hưng thịnh.


TỬ VI 12  THÁNG CỦA NGƯỜI TUỔI DẦN NĂM 2016

vt thang 1
 
Tháng đầu tiên trong năm 2016, bản mệnh Dần chính thức bước vào năm hạn xung Thái Tuế, vì vậy nên chuẩn bị kĩ tinh thần và vật chất tránh thất thoát nghiêm trọng. Tháng này có nhiều cơ hội tốt xuất hiện nhưng lại gặp ám tàng Phá Hao nên nhất định bạn không được kích động, tránh xa cờ bạc dưới bất kì hình thức nào như đánh bạc đầu xuân, đầu tư mà gây tổn thất về chính tài. Nếu công việc gặp trắc trở cần hết sức nhẫn nhịn phân tích đường tới lui, cái được cái mất thì mới an toàn mà qua hết tháng. Nếu bạn tuổi Dần nào có kế hoạch lập nghiệp mới, chỉ cần củng cố thêm nền tảng cơ bản, người xưa có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Về mặt tình cảm, nhân duyên khá tốt, người độc thân có nhiều cơ hội gặp gỡ bạn khác giới.


vt thang 2
 
Tháng Hai âm lịch, toàn thể vận trình của bản mệnh khá hiền hòa, công việc như ý, tài lộc ổn định chỉ cần học cách hài lòng với chính mình, không quá kén chọn, đây có thể coi như một tháng vui vẻ bình yên. Vào giữa tháng công việc và gia đình khiến bạn khá bận rộn, một mặt phải làm việc quá giờ lại thêm thường xuyên tụ họp gặp gỡ bạn bè khiến việc ăn uống mất cân bằng dễ gặp các vấn đề về tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày. Tốt nhất bản mệnh nên biết chăm sóc sức khỏe bản thân, cố gắng bổ sung chất bổ, nghỉ ngơi nhiều hơn nữa thì mới tránh được nguy cơ bệnh tật.


vt thang 3
 
Tháng 3 âm lịch, bản mệnh bị Ngũ Quan và Phi Phù chiếu mệnh nên mặt công việc và con người đều rắc rối. Trong tháng bạn nên cẩn thận khi xử lý hợp đồng, văn bản tránh những lỗi nhỏ nhặt, đồng thời đề phòng bị người khác lợi dụng hoặc gặp tiểu nhân chơi xấu khi đang làm việc. Với các mối quan hệ xã hội, nên thường xuyên tu tâm dưỡng tính, phụng sự luật pháp tránh những rắc rối đường quan lộc. Tháng này người nhà hoặc công việc, chỗ ở của bạn sẽ có biến động, nếu có thể hãy giúp đỡ mọi người hết mình. Mặt sức khỏe không được tốt vì thường xuyên "hoạt động về đêm", không đảm bảo chất lượng giấc ngủ.

vt thang 4
 
Tháng này bản mệnh gặp Tiểu Hao và Lục Hại nên phải chú ý mặt chi tiêu tiền bạc, không nên vì vận tài lộc tốt đẹp từ tháng trước mà tháng này bạn thoải mái chi tiêu hơn. Mặt tình cảm, với người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn nên đề phòng vận đào hoa trong tháng, cố gắng không gây tổn thương cho nửa kia. Chú ý vận trình tình cảm cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp và tài lộc trong tháng này.


vt thang 5
 
Tháng Ngọ Dần tam hợp cục diện, lại thêm cát tinh Kim Qũy chiếu rọi nên mọi khó khăn mặt công việc trong nhiều tháng trước sẽ được giải toả trong tháng này. Với những người làm kinh doanh, làm đại diện nếu gặp cơ hội đàm phán làm ăn hay kế hoạch buôn bán tốt cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tỉ lệ thành công trong công việc của bạn rất lớn, lợi nhuận khả quan thúc đẩy đường chính tài khởi sắc. Ngoài ra, trong tháng có cát tinh đi vào cung mệnh nên đường tài lộc của bản mệnh khá ổn định, tuy vậy bạn vẫn nằm trong vòng kiểm soát của Thái Tuế nên cần kìm chế lòng tham của bản thân, tránh bị người khác lợi dụng.


vt thang 6
 
Bước vào tháng 6 âm lịch này vận trình tuổi Dần có sự thay đổi tích cực. Tháng trước bạn gặp bất hòa với đồng nghiệp, tháng này quý nhân sẽ giúp bạn hòa giải, xóa bỏ mâu thuẫn. Vì vậy mà công việc của bạn sẽ tự nhiên thuận lợi. Trong tháng lại gặp Thiên Hỉ tinh nên mọi mặt đều phát triển thuận buồm xuôi gió, khiến tinh thần bản mệnh thêm thoải mái, dễ chịu. Người chưa kết hôn cần chú ý những người bạn mới xuất hiện xung quanh mình, biết đâu bạn sẽ gặp được ý trung nhân của mình. 


vt thang 7
 
Tử vi năm 2016 cho thấy, tháng gặp Dần Thân tương xung lại thêm tương xung Thái Tuế hung tinh tụ hội, có thể nói vận trình tuổi Dần tháng này bất ổn, đáng lo ngại. Con đường đi phía trước đầy gập gềnh nên bạn cần suy nghĩ kĩ càng trước khi hành động, làm việc nên chú ý nhiều vào chuyên môn, tránh bàn chuyện phiếm, lo chuyện bao đồng. Nguyệt Lệnh đe dọa khiến đường chính tài nguy hại, mặt sức khỏe cũng không khả quan, dễ mắc nhiều bệnh vặt. Ngoài ra, bản mệnh cũng nên quan tâm tới người lớn và con trẻ trong nhà, chú ý an toàn ngay cả trong nhà cũng như khi đi ra ngoài.


vt thang 8
 
Có thể nói trong tháng này bản mệnh gặp nhiều hỉ tinh và hung tinh kết giao nhất trong năm đó là Thiên Hỉ và Phúc Tinh cùng Thiên Ách và Giảo Sát. Những người làm các công việc giữ gìn an ninh trật tự như như bảo vệ, hải quan, cứu hỏa, cảnh sát… sẽ là những bản mệnh bận rộn nhất. Mặc dù bạn gặp vận xung Thái Tuế nhưng nhờ có Thiên Hỉ tinh che chở mà sẽ có cơ hội thăng chức, cần nắm bắt tốt thời cơ, nỗ lực hết mình để thành công. Lưu ý, những hung tinh nói trên chủ về việc mâu thuẫn với đồng nghiệp hoặc cấp trên, nên bản mệnh có nguy cơ bị đuổi việc.


vt thang 9
 
Tháng bạn gặp nhiều bất lợi như tiểu nhân, thị phi, đồn đại vì vậy nên người tuổi Dần phải bảo vệ bản thân trước tránh rơi vào vòng xoáy dư luận. Khi xử lí mọi việc cần khiêm tốn nhún nhường, tập trung vào việc là chính. Tháng có Cô Quả tinh đi vào cung mệnh nên bản mệnh nữ có nhiều bất lợi về mặt tình cảm, tuy nhiên chỉ cần có lòng tin nơi nửa kia và chính mình thì mọi phiền não sẽ đi qua. Trong tháng Mậu Tuất này có nhiều biến động lớn như di chuyển nhiều, chuyển nhà hoặc phải tu sửa. Bạn có thể tận dụng cơ hội này thay đổi không gian sống, cải thiện và nâng cấp vận khí. Mặt sức khỏe, nếu gặp bệnh về da hoặc vai có thể tìm tới thuốc nam.


vt thang 10
 
Tháng có vận Thái Tuế đã đi qua gần 1 năm lại thêm Nguyệt Lệnh hợp với bản mệnh Dần nên bạn cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong công việc. Tháng gặp Lộc Huân và Long Đức tinh nên những người theo công việc tài chính sẽ phát triển rất thành, thu về khoản thu nhập lớn. Người làm bất động sản, bảo hiểm, công việc rất thuận lợi, doanh thu tăng gấp đôi, tiền bạc dồi dào. Mặt tình cảm, bản mệnh được tương hợp hữu tình, những người đang yêu càng thêm gắn bó, mặn nồng. Người độc thân có cơ hội gặp ý trung nhân. Tuy nhiên, do Nguyệt Lệnh phạm vào Vong Thần nên bạn cần giảm bớt các buổi gặp gỡ, tụ tập ăn uống mà cần tăng cường nghỉ ngơi, chú ý đến các vấn đề về dạ dày.


vt thang 11
 
Bước vào tháng gần cuối năm Bính Thân, bản mệnh Dần gặp Kiếp Sát và Phệ Ma nên vận trình có kém hơn so với những tháng trước, đây được coi như "bài kiểm tra cuối năm" dành cho bạn. Mặt công việc, bạn sẽ phải làm việc nhiều hơn, mặc dù vất vả nhưng nên kiểm soát tốt cảm xúc, tránh sự hiểu nhầm của đồng nghiệp sẽ phát sinh điều khó lường trước.

Mặt tài lộc, cần phải chú ý đề phòng mất mát. Người đang làm chủ chú ý vấn đề dùng người, nhận kẻ xấu làm việc sẽ gây tổn thất lớn về tiền bạc. Mặt tình cảm không thuận lợi, người đã kết hôn dễ xảy ra chiến tranh lạnh, các cặp đôi đang yêu cũng khó tránh việc cãi vã, mâu thuẫn. Mặt gia trạch, cần chú ý người nhà ở xa có bệnh cũ tái phát hoặc một vài bất hòa trong gia đình, nên nhớ gia đình hòa thuận thì vạn sự như ý.


vt thang 12
 
Theo Tử vi 2016, tháng cuối cùng trong năm, bản mệnh gặp cục hình xung nên vận trình lại khấp khểnh khó lường. Mặt công việc, bản mệnh cần chú ý nhiều đến sổ sách, số liệu, tránh lơ là sẽ phạm sai lầm và gây nhiều khó khăn trong công việc. Chuyện tình cảm có chút sóng gió, nhưng nếu bạn dành thời gian, tâm tư và tinh thần để bù đắp những tổn thương đã xảy ra, mối quan hệ đôi bên sẽ tiến thêm bước mới. Bước sang năm mới chính là thời gian tốt nhất để gắn kết mối lương duyên này. Mặt sức khỏe, bạn dễ gặp nhiều bệnh về tinh thần như căng thẳng phiền não, lại cộng thêm tam hình gặp xung, Kiếm Phong tinh trực diện Nguyệt Lệnh nên càng phải chú ý đề phòng bệnh tật và vấn đề đi lại.


HÓA GIẢI

Bước vào năm phạm Thái Tuế nên bản mệnh Dần có thể dùng túi thơm Quản Trung hóa Thái Tuế để hóa giải vận hạn. Ngoài bản thân, nếu có thể, bạn nên thỉnh những đồ vật cát tường để bảo vệ người nhà hoặc bạn bè thân thiết, giúp bản thân và mọi người cùng nhau trải qua một năm Bính Thân bình an.

Bạn có thể đeo ngọc bội Kim Quyền Trấn Bảo để bảo vệ sự bình an cho bản thân. Ngọc này là một con Kim Khuyển uy mãnh, đầu hướng về phía Đông tọa trấn nguyên bảo. Kim Khuyển thông kim quyền, chủ quản vận mệnh của người tuổi Dần. Khuyển được coi là một trong những cát thú trong truyền thuyết, có Kim Khuyển lâm môn thì như hỉ sự vào nhà, chủ hưng vượng gia nghiệp, trấn trạch đuổi tà giúp bản mệng một năm bình an, gia tăng tài lộc. Bản mệnh còn có thể sử dụng vòng cổ Tam Hợp Liên Hoa phối hợp với ngọc bội để vững mạnh vận trình phát huy uy lực, chuẩn bị thêm vòng tay Bát Phương Lục Thánh, Thái Ất Trợ Dần để hóa sát cầu quý nhân.


BẢN MỆNH PHẬT


phat dan 1
 
Hư Không Tạng Bồ Tát là Phật bản mệnh của người tuổi Dần, ngài đại diện cho sự thành thật, phúc lộc. Bất hư bất không là thần tài của Phật giới, khi đeo bản mệnh Phật này tài lộc dồi dào, tài lộ hanh thông, lại còn sinh tài tụ tài được quý nhân bát phương tương trợ, xa rời tiểu nhân, nhân tài chiêu vượng.

Hư Không Tạng Bồ Tát ở tại hai Bộ Kim Thai. Bên trong Kim Cương Giới Mạn Trà La cũng là Kim Cương Bảo Bồ Tát, là một Tôn trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, có vị trí thứ ba tại phương Nam của cái Đàn hình vuông ở Ngoại Viện.

Kinh Hư Không Tạng có nói rằng: “Nếu có người muốn được Trí Tuệ, muốn được Đại Gia kính yêu, muốn được tiếng ca hay tốt, muốn được vị trí của Đế Vương với trăm Quan, muốn được mọi loại tài sản với quyến thuộc mỹ mãn, đồng thời ngay sau khi thực hành điều tốt lành (hành thiện) thì nổi tiếng trong Thiên Hạ… nên thường xuyên niệm danh tự của Tôn này, nhất định đạt được như nguyện”.

Hình tượng của Hư Không Tạng Bồ Tát: “Đầu đội mão năm Phật, gập cong cánh tay phải cầm cây kiếm, cây kiếm có lửa sáng; tay trái để ở eo nắm quyền cầm hoa sen, trên hoa sen có vật báu như viên ngọc. Hư Không Tạng Bồ Tát có thân màu trắng, ngồi trên hoa sen xanh”.

Hư Không Tạng Bồ Tát có Bí Hiệu là Khố Tàng Kim Cương, ý nghĩa là ngài hay ghi trụ hết thảy kho tàng, nắm hết thảy Đông Tây đều ghi tại mặt bên trong của Não Hải (bộ óc hoặc tư tưởng) là một vị Bồ Tát rất có Trí Tuệ.

Hư Không Tạng Bồ Tát thường trụ tại Thế Giới Hương Tích, Trí Tuệ đấy sâu rộng như hư không, cho nên gọi là Hư Không Tạng.

Hư Không Tạng Bồ Tát kiêm đủ hai môn Đại Bí Mật của Phước Đức và Trí Tuệ, xuất xứ từ Kinh Hư Không Tạng, phẩm Hư Không Tạng của Kinh Đại Tập, Kinh Bát Đại Bồ Tát Mạn Trà La… tu tập Hư Không Tạng Bồ Tát Pháp có thể được mọi nhóm Trí Tuệ, Ký Ức (ghi nhớ), công danh….
Nguồn: Tạng kinh phật giáo. boi tu vi van trinh nam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem Tử Vi theo ngày tháng năm sinh

Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Không khó để các quý cô có thể quan sát được dấu hiệu bàn tay đàn ông phú quý, đối tượng mà bạn có thể trao thân gửi phận suốt cuộc đời.
Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không khó để các quý cô có thể quan sát được dấu hiệu phú quý trên bàn tay đàn ông, đối tượng mà bạn có thể trao thân gửi phận suốt cuộc đời.



1. Ngón tay giữa dài

Đàn ông sở hữu tướng tay mà ngón tay giữa khá dài (so với các ngón tay còn lại), chứng tỏ có khát khao lớn về quyền lực cũng như cuộc sống giàu sang, phú quý. Mục tiêu lý tưởng trong cuộc đời họ chính là có được cuộc sống đại phú đại quý, vang danh thiên hạ.

Ước muốn đó hoàn toàn có thể trở thành sự thật khi trong người họ sẵn có chí tiến thủ, lòng quyết tâm cao độ và sức kiên trì dẻo dai. Phong cách làm việc của họ phóng khoáng, không câu lệ tiểu tiết, lại quyết đoán và tự tin, không vì cái lợi nhỏ nhặt trước mắt mà mù quáng, bỏ lỡ cơ hội lâu phát triển lâu dài.

Quyết định trao gửi cuộc đời cho người đàn ông này là hoàn toàn đúng đắn. Cuộc sống sau hôn nhân khá hài hòa, hạnh phúc. Bạn chỉ cần lo tốt chuyện con cái, cách đối nhân xử thế trong gia đình, còn những việc khác là do chàng gánh vác hết.

Nhin ban tay dan ong phu quy de trao gui cuoc doi hinh anh
 
2. Các ngón tay khít nhau


Khi để xòe bàn tay một cách tự nhiên, quan sát thấy các ngón tay khít nhau, dường như không có khe hở là những dấu hiệu cho thấy chủ nhân có khả năng kiếm tiền và giữ tiền rất tốt.

Nói như vậy không có nghĩa là người này ki bo, ích kỷ. Họ chi tiêu có kế hoạch rõ ràng, chỉ xuất tiền cho việc đáng dùng tới, chứ không tiêu xài hoang phí, bừa bãi.

Nhìn chung tài vận của người này khá tốt. Cuộc sống không phú thì quý, không phải chịu gánh nặng hay áp lực về kinh tế. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận biết của bàn tay đàn ông phú quý, các nàng có thể yên tâm trao thân gửi phận.

3. Bàn tay nhiều vân Tiền tài

Vị trí vân Tiền tài nằm ở phần giữa gốc ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn. Tại đó, số lượng đường vân này càng nhiều, vân đậm, rõ nét thì tài lộc càng vượng, tiêu tiền cả đời không hết, cuộc sống đại phú đại quý. Họ sẽ là chỗ dựa tinh thần và vật chất vững vàng cho nửa kia.

Nhin ban tay dan ong phu quy de trao gui cuoc doi hinh anh 2
 
4. Lòng bàn tay nhiều đường vân Tài khố


Khi những đường vân trong lòng bàn tay giao nhau, tạo thành hình vuông hay hình tam giác, người ta gọi đó là vân Tài khố (những hình khép kín như kho tiền của). Dù là nam hay nữ giới, sở hữu nhiều đường vân này trong tay thì tiền tài dồi dào, gặp nhiều may mắn về phương diện tiền bạc, vật chất, khả năng phát tài cao.

5. Lòng bàn tay dày dặn


Lòng bàn tay dày mang ý tài vận và sự nghiệp có nền tảng vững bền. Dù là trong cuộc sống hay công việc, người này đều quyết tâm cao độ, lúc nào cũng tràn đầy nhiệt huyết, muốn cống hiến năng lực thực thụ để khẳng định bản thân trước mọi người xung quanh.

Ngoài ra, người này sở hữu trí tuệ minh mẫn, tư duy linh hoạt, cộng thêm sức kiên trì bền bỉ, nên làm đâu thành đó, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý khi về trung vận.

Nam con giáp dễ sinh hư khi có nhiều tiền
Ông cha ta thường nói: đàn ông lắm tiền sinh hư, đàn bà hư thì có tiền.Liệu bạn có phải là con giáp nam dễ sinh hư khi có tiền?
6. Gò Thái Dương nhô lên


Vị trí gò Thái Dương chính là ở gốc ngón tay đeo nhẫn. Nếu gò này nhô lên cao, chứng tỏ khả năng kiếm tiền của bạn rất giỏi. Công việc thuận lợi, thường xuyên được nhận tiền thưởng. Tài vận tốt, không ít lần nhặt được tiền rơi.

Nhưng trên hết, ý thức tích lũy tiền bạc của bạn là quan trọng hơn cả. Thay vì làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, bạn biết cách chi tiêu có kế hoạch, lại biết lo xa nên hiếm khi rơi vào tình trạng trắng tay hay phải vay mượn bạn bè.

Ngọc Điệp

Xem thêm video: Muốn được tất cả, hãy học cách buông bỏ


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Hồ nước nhỏ trong vườn làm dịu mát không khí ngày hè

Khi bài trí cảnh quan trong vườn nhà, nước là yếu tố không thể thiếu. Ngoài những chiếc bể bơi xinh xắn, sẽ thật bình yên và thú vị khi bạn tạo nên những dòng suối nhỏ, ao nước róc rách cho khu vườn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xét về phong thủy, một khoảng ao nhỏ trong vườn rất cần thiết để tăng thêm năng lượng sống cho không gian ngôi nhà và mang lại bầu không khí tự nhiên. Nó được coi như một thứ "trang sức" tô đậm nét cho nét duyên dáng cho vườn nhà. Một chiếc ao, một khe nước nhỏ trong sân vườn còn mang đến những điều tốt đẹp và sự an lành cho mái ấm của bạn.

Ngoài ra, việc có mặt nước sẽ giúp điều hòa làm mát mẻ bầu không khí hơn, đặc biệt vào mùa hè khi thời tiết nắng nóng.

Không quá khó để thiết kế một ao nhỏ trong khu vườn. Với mỗi không gian nhà ở, sẽ có một kiểu mẫu phù hợp nhất. Dưới đây là một số hình ảnh gợi ý dành cho bạn.


 

(Theo CafeF)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hồ nước nhỏ trong vườn làm dịu mát không khí ngày hè

Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có. - Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém. 2. Về giầu hay nghèo. Giầu h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

coi-boi-khuon-mat

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có.
– Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém.

2. Về giầu hay nghèo.
Giầu hay nghèo thể hiện ở mũi. Mũi mà đầy, thẳng sáng, đầu mũi tròn đẹp, láng mượt thì không thể không giầu có. Mà không thiên lệch thì giầu có lâu dài.
– Nếu mũi cong keo gầy khô, sắc xám xỉn, thiên vẹo thì nghèo hèn. Mũi quặp nhọn thì phá sản.
– Nếu mũi hếch ngửa lộ lỗ mũi thì không thể giầu mà không có ăn là chắc chắn.

3. Về tình thân sơ.
Tình thân là cha mẹ, anh em, họ hàng. Nó được thể hiện ở hai hàng lông mày.
– Nếu dài mượt thì đông anh em mà tình cảm thân thiện, cha mẹ song toàn, đức độ. Họ hàng đông đúc.
– Nếu hai lông mày ngắn, thưa (tức cung La hầu và Kế đô) khô héo thì ít anh em, cha mẹ kém.
– Lông mày dài quá mắt thì anh em họ hàng bình yên, sum họp vui vầy.
– Lông mày mà xoắn xoáy thì anh em bất hòa.
– Lông mày giao nhau thưa vuông thì xấu: ít anh em.
– Lông mày ngắn mà xẻ thì anh em không yên vui.

4. Về hạnh phúc vợ chồng, đôi lứa.
Hạnh phúc lứa đôi lệ thuộc hai phía nhưng nếu tướng số đã có thì cả hai giới lấy nhau sẽ trùng hợp để thể hiện cuộc sống lứa đôi có hạnh phúc hay không.
– Nếu gian môn (ở gần lỗ tai ngang dái tai) còn gọi là Quan Ngũ vĩ mà sáng tươi không ngấn vằn thì vợ chồng đoan chính, thủy chung.
– Nếu gian môn ù sưng, đen, tôi, vằn ngấn thì bất hạnh, gian dâm.

5. Về con cái.
Xem con cái nhìn vào Quan Luỵ Trường (dưới con mắt) còn gọi là ngọ tằm (nổi cao dưới mắt như con tằm dâu ngủ).
– Nếu sáng tươi đầy cao thì con cái làm ăn khá giầu sang, danh giá.
– Nếu nơi đó sâu lõm, tối đen thì con cái bi lụy, khốn khó.
– Nếu sắc khí hồng hào tươi mượt sinh con quý tử (giầu sang vinh hiển).

6. Về nhà đất.
Nhìn vào đôi mắt ta biết người có nhà đất ruộng vườn.
– Đôi mắt thanh tú mượt có nhà hoặc đất đai nhiều.
– Mi mắt khô thô thì nhà tổ phụ để cho cũng tan mất.
– Mắt tròn nhỏ, mắt to không lộ thì cửa nhà đầy đủ.
– Mắt bé híp thì vô gia, điền địa kém.

7. Về chức tước.
Nhìn thấy hai cung Nhật giác và Nguyệt giác (phía trên hai hàng lông mày phía trán).
– Nếu cao đầy sáng sủa ngay thẳng: Tài ba, tước vị.
– Nếu có ngấn đứt đoạn thì lận đận công danh; nếu ở đó lại bằng hay hõm sâu là thường dân.

8. Về phúc đức.
Trên khuôn mặt của con người đều thể hiện những nét đặc trưng phúc hậu hay hiểm ác.
– Gương mặt vuông vức, mặt trái xoan: thể hiện nét hiền từ, phúc hậu. Người có nhân đức, nhìn dễ mến, dễ gần.
– Gương mặt chuột (mặt choắt vuốt nhọn), mặt như mặt ngựa (mặt hẹp dài quá khổ) đôi mắt lúng liếng, lé (nhìn nghiêng ngó dọc): Người hiểm độc, mưu sâu hay lừa thầy phản bạn.

9. Về di trú.
Trong cuộc sống không mấy ai ở nguyên một nơi. Họ hoặc dời quê quán đi nơi khác, hoặc đi đây đi đó… Nhiều người suốt đời nay đây mai đó, không nhà cửa, bôn ba thì có người giầu nhưng cũng có người tay không vẫn hoàn tay không… Tất cả thể hiện ở cung “Thiên thương” hay “Thiên ri” nằm cuối đuôi lông mày khoảng giữa với tóc mai:
– Nếu sáng sủa, đầy đặn thì đi xa có lợi, rời quê sinh sống thì tốt, có nhà cao cửa rộng được người quý trọng.
– Nếu nổi cao như bờm ngựa thì sang trọng có danh giá, đi lại bốn phương.
– Nếu thấp hãm đen thì đi xa bất lợi, vô gia cư.
– Nếu liền lông mày với tóc mai thì tha phương cầu thực.

10. Về tật bệnh.
Con người phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Đó là lẽ thường tình. Nhưng quá trình sống thì ai mà chẳng một đôi lần bệnh. Có người mang tật nguyền rất sớm. Có người mắc bệnh mạn tính, bệnh hiểm nghèo…
Bệnh tật tai ách đều được thể hiện trên gương mặt về biểu tượng. Đó thuộc “bất biến” và thuộc “duy biến”. Còn “thường biến” là thuộc y biểu (biểu hiện về mặt y-lý). Về mặt biểu tướng thì bệnh tật thể hiện ở Sơn căn. (Cuông mũi giáp chân mày).
– Nếu nơi ấy sáng láng đầy đặn thì ít bệnh tật oái oăm.
– Mũi dọc dừa thì ít bệnh hiểm nghèo.
– Mũi không cao không thấp thì ít bệnh tật.
– Sơn căn có đường “gân xanh” vắt ngang (thường thấy ở trẻ) thì bé hay ốm quặt quẹo, nuôi nấng, vất vả. Về mặt y-biểu thì khi có bệnh sắc khí Sơn căn biến đổi trước rồi sắc khí mặt thay đổi sau.
Ví dụ: Sơn căn đỏ chót bị bệch nội tiết (rõ nhất ở khu đầu chóp mũi).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

Lý giải vận mệnh và tính tuổi xung theo Lục Thập Hoa Giáp

Trong tử vi, Lục thập hoa giáp được biết tới như một trong những cách lý giải vận mệnh con người tương đối đơn giản, dễ xem nên khá phổ biến và được nhiều
Lý giải vận mệnh và tính tuổi xung theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi, Lục Thập Hoa Giáp được biết tới như một trong những cách lý giải vận mệnh con người tương đối đơn giản, dễ xem nên khá phổ biến và được nhiều người sử dụng.


Bắt nguồn từ 10 Thiên Can và 12 Địa Chi sẽ cho ra 6 chu kỳ hàng Can kết hợp với 5 chu kỳ hàng Chi, tạo thành một vòng quay 60 được gọi là Lục Thập Hoa Giáp. Bắt đầu từ Giáp Tý rồi đến Ất Sửu,… cuối cùng là Quý Hợi sẽ kết thúc một vòng Hoa Giáp.  
 
Mỗi 10 năm thì chữ Giáp lại được lặp lại đầu tiên: Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần. Trong Lục Thập Hoa Giáp, ngũ hành được chi làm 30 tổ Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ và cứ 2 năm một tổ. 
 
Ngũ hành nạp âm dùng để phân rõ tính chất khác nhau của từng hành, ví như Hải Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Sa Trung Kim,... đều là hành Kim nhưng lại mang tính chất khác nhau. Và phải thông qua ngũ hành nạp âm mới định rõ được đặc điểm của từng mệnh. Từ đó mà rút ra các ưu điểm, nhược điểm của từng mệnh, gợi ý đường đi nước bước trong đời.
 
Nạp âm Lục Thập Hoa Giáp giải nghĩa ít nhiều về vận mệnh của mỗi tuổi, thường xem về các điểm chính của đời người như cha mẹ, công danh, gia sự và đưa ra một số gợi ý khi chọn bạn đời, chọn người làm ăn.
 
Dưới đây là bảng tính Lục Thập Hoa Giáp và các tuổi xung khắc để bạn đọc tham khảo.
 

S

Ngày tháng năm

Ngũ hành

Tuổi xung khắc

1

Giáp Tý

Vàng trong biển (Kim)

Mậu Ngọ, Nhâm Ngọ, Canh Dần, Canh Thân

2

t Sửu

 - 

Kỷ Mùi, Quí Mùi, Tân Mão, Tân Dậu

3

Bính Dần

Lửa trong lò (Hoả)

Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn

4

Ðinh Mão

 -

t Dậu, Quí Dậu, Quí Tị, Quí Hợi

5

Mậu Thìn

Gỗ trong rừng (Mộc)

Canh Tuất, Bính Tuất

6

Kỷ Tị

 -

Tân Hợi, Đinh Hợi

7

Canh Ngọ

Ðất ven đường (Thổ)

Nhâm Tý, Bính Tý, Giáp Thân, Giáp Dần

8

Tân Mùi

Quí sửu, Đinh Sửu, Ất Dậu, Ất Mão

9

Nhâm Thân

Sắt đầu kiếm (Kim)

Bính Dần, Canh Dần, Bính Thân

10

Quí Dậu

 -

Ðinh Mão, Tân Mão, Đinh Dậu

11

Giáp Tuất

Lửa trên đỉnh núi (Hoả)

Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất

12

t Hợi

Quí Tị, Tân Tị, Tân Hợi

13

Bính Tý

Nước dưới lạch (Thuỷ)

Canh Ngọ, Mậu Ngọ

14

Ðinh Sửu

 -

Tân Mùi, Kỷ Mùi

15

Mậu Dần

Ðất đầu thành (Thổ)

Canh Thân, Giáp Thân

16

Kỷ Mão

 -

Tân Dậu, Ất Dậu

17

Canh Thìn

Kim bạch lạp (Kim)

Giáp Tuất, Mậu Tuất, Giáp Thìn

18

Tân Tị

 -

t Hợi, Kỷ Hợi, Ất Tị

19

Nhâm Ngọ

Gỗ dương liễu (Mộc)

Giáp Tý, Canh Tý, Bính Tuất, Bính Thìn

20

Quí Mùi

t Sửu, Tân Sửu, Đinh Hợi, Đinh Tị

21

Giáp Thân

Nước trong khe (Thuỷ)

Mậu Dần, Bính Dần, Canh Ngọ, Canh Tý

22

t Dậu

 -

Kỷ Mão, Đinh Mão, Tân Mùi, Tân Sửu

23

Bính Tuất

Ðất trên mái nhà (Thổ)

Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý

24

Ðinh Hợi

Kỷ Tị, Quí Tị, Quí Mùi, Quí Sửu

25

Mậu Tý

Lửa trong chớp (Hoả )

Bính Ngọ, Giáp Ngọ

26

Kỷ Sửu

Ðinh Mùi, Ất Mùi

27

Canh Dần

Gỗ tùng Bách (Mộc)

Nhâm Thân, Mậu Thân, Giáp Tý, Giáp Ngọ

28

Tân Mão

 -

Quí Dậu, Kỷ Dậu, Ất Sửu, Ất Mùi

29

Nhâm Thìn

Nước giữa dòng (Thuỷ)

Bính Tuất, Giáp Tuất, Bính Dần

30

Quí Tị

Ðinh Hợi, Ất Hợi, Đinh Mão

31

Giáp Ngọ

Vàng trong cát (Kim)

Mậu Tý, Nhâm Tý, Canh Dần, Nhâm Dần

32

t Mùi

 -

Kỷ Sửu, Quí Sửu, Tân Mão, Tân Dậu

33

Bính Thân

Lửa chân núi (Hoả)

Giáp Dần, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn

34

Ðinh Dậu

 -

t Mão, Quí Mão, Quí Tị, Quí Hợi

35

Mậu Tuất

Gỗ đồng bằng (Mộc)

Canh Thìn, Bính Thìn

36

Kỷ Hợi

Tân Tị, Đinh Tị.

37

Canh Tý

Ðất trên vách (Thổ)

Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Thân, Giáp Dần

38

Tân Sửu

 -

Quí Mùi, Đinh Mùi, Ất Dậu, Ất Mão

39

Nhâm Dần

Bạch kim (Kim)

Canh Thân, Bính Thân, Bính Dần

40

Quí Mão

 -

Tân Dậu, Đinh Dậu, Đinh Mão

41

Giáp Thìn

Lửa đèn (Hoả)

Nhâm Tuất, Canh Tuất, Canh Thìn

42

t Tị

 -

Quí Hợi, Tân Hợi, Tân Tị

43

Bính Ngọ

Nước trên trời (thuỷ)

Mậu Tý, Canh Tý

44

Ðinh Mùi

Kỷ Sửu, Tân Sửu

45

Mậu Thân

Ðất vườn rộng (Thổ)

Canh Dần, Giáp Dần

46

Kỷ Dậu

Tân Mão, Ất Mão

47

Canh Tuất

Vàng trang sức (Kim)

Giáp Thìn, Mậu Thìn, Giáp Tuất

48

Tân Hợi

 -

t Tị, Kỷ Tị, Ất Hợi

49

Nhâm Tý

Gỗ dâu (Mộc)

Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Tuất, Bính Thìn

50

Quí Sửu

t Mùi, Tân Mùi, Đinh Hợi, Đinh Tỵ

51

Giáp Dần

Nước giữa khe lớn (Thuỷ)

Mậu Thân, Bính Thân, Canh Ngọ, Canh Tý

52

t Mão

 -

Kỷ Dậu, Đinh Dậu, Tân Mùi, Tân Sửu

53

Bính Thìn

Ðất trong cát (Thổ)

Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý

54

Ðinh Tị

Kỷ Hợi, Quí Hợi, Quí Sửu, Quí Mùi

55

Mậu Ngọ

Lửa trên trời (Hoả)

Bính Tý, Giáp Tý

56

Kỷ Mùi

Ðinh Sửu, Ất Sửu

57

Canh Thân

Gỗ thạch Lựu (Mộc)

Nhâm Dần, Mậu Dần, Giáp Tý, Giáp Ngọ

58

Tân Dậu

Quí Mão, Kỷ Mão, Ất Sửu, Ất Mùi

59

Nhâm Tuất

Nước giữa biển (Thuỷ)

Bính Thìn, Giáp Thìn, Bính Thân, Bính DDần

60

Quí Hợi

 -

Ðinh Tị, Ất Tị, Đinh Mão, Đinh Dậu

► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Theo Tử vi toàn tập
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải vận mệnh và tính tuổi xung theo Lục Thập Hoa Giáp

Đền Tiên La - Thái Bình

Đền Tiên La là ngôi đền thờ Bát Nàn Tướng Quân - Đền Tiên La xứng đáng là một ngôi đền cổ với những nét đẹp riêng có vùng quê Thái Bình.
Đền Tiên La - Thái Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Tiên La là ngôi đền thờ Bát Nàn Tướng Quân (tướng quân phá nạn cho dân, có nơi gọi là “bát nạn” hay “bát não”) Vũ Thị Thục (sinh năm 17, mất năm 43)[1], một nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định. Ngôi đền là một nét kiến trúc đặc sắc tại tỉnh Thái Bình.

Ngôi đền tọa lạc trên một diện tích khoảng 4000m² tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô to lớn, đẹp lộng lẫy cả về địa thế và vóc dáng , bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền.

Tòa điện bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ công phu với các nội dung có tích kinh điển như “Long – Lân – Quy – Phụng” đan xen với “Thông – Trúc – Cúc – Mai”.

Tòa điện trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều làm bằng đá như hệ thống cột, xà, kèo… Tất cả đều được chạm trổ công phu tạo nên cho nơi này toát lên vẻ đẹp hoàn mỹ hiếm nơi nào có được.

Ngoài ra, đền Tiên La còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí quý giá có giá trị thẩm mỹ cao có niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá, minh chuông đều có giá trị lịch sử quý giá.

Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân, được tổ chức vào các ngày 15 đến 17 tháng 3 âm lịch. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự hội ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ ngày 10 đến 20 tháng 3 âm lịch. Chính hội là ngày 17, trùng ngày hy sinh của bà tướng là ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43). Hội có trò chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử, đặc biệt là phần rước kiệu và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, trọi gà, thổi sáo trúc.Ngoài ra, vào dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận cũng đến biểu diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc.

den tien la
Sân Đền Tiên La

Đền Tiên La xứng đáng là một ngôi đền cổ với những nét đẹp riêng có vùng quê Thái Bình. Với những giá trị lịch sử và vị trí cũng như với lối kiến trúc độc đáo, đền Tiên La chắc chắn sẽ là một điểm dừng chân hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Tiên La - Thái Bình

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd