Tướng số phụ nữ giàu sang |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nốt ruồi phú quý vượng phu |
Nốt ruồi vinh hoa phú quý |
Nốt ruồi gia đình hạnh phúc |
Nốt ruồi tích lũy nhiều tiền tài |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Các chòm sao sẽ dùng thủ đoạn gì để báo thù? Khi có một điều gì đó không phải xảy ra với các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo, thì những chòm sao này sẽ tìm cách trả thù, trả đũa đối phương. Tuy nhiên họ dùng thủ đoạn gì để báo thù? Cự Giải âm thầm lôi kéo bạn bè xung quanh của đối thủ, sau đó tiến hành cô lập họ, khiến họ rơi vào trận chiến không có chiến hữu. Liệu có phải như thế không? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thông tin củ thể nhé!
Nội dung
Cách báo thù của Bạch Dương giống như trẻ con vậy. Khi bị ức hiếp, tuy rất tức giận nhưng họ không biết phải làm thế nào. Thế nhưng, họ sẽ ghi sâu mối thù đó, đợi đến lúc đối phương gặp nạn, họ lớn tiếng chê cười.
Cách báo thù này có vẻ không được quang minh chính đại cho lắm. Nhưng một người đầu óc đơn giản, không giỏi trong việc báo thù như Kim Ngưu chỉ nghĩ ra được cách này mà thôi.
Song Tử sẽ tìm một nơi công khai, nơi mà đối phương vô cùng quan tâm đến hình tượng của bản thân, sau đó xông lên mắng một trận cho hả tức. Mặc dù cách làm này không được hay cho lắm, nhưng quả nhiên có thể xả được cơn tức.
Cự Giải sẽ âm thầm lôi kéo bạn bè xung quanh đối thủ, sau đó tiến hành cô lập họ, khiến họ rơi vào trận chiến không chiến hữu. Đây quả nhiên là phong cách của Cự Giải.
Sư Tử sẽ ở phía sau quan sát nhất cử nhất động của đối phương. Đến giây phút quyết định, họ sẽ cho đối phương một nhát dao, khiến đối phương không kịp trở tay. Đúng là đòn trước mặt dễ đánh, đòn sau lưng khó phòng.
Xử Nữ báo thù bằng cách đánh vào tâm lý đối phương. Họ cho rằng không có cách báo thù nào hiệu quả hơn việc khiến đối phương cảm thấy mình vô cùng thất bại.
Cách báo thù của Thiên Bình là liên tục ngáng chân đối phương. Họ sẽ gây ra chướng ngại vật trên từng bước đường của họ, khiến họ không thể đề phòng nổi. Thật đáng thương cho những ai là kẻ thù của Thiên Bình.
Cách báo thù này là “động thủ”. Bò Cạp không cần quan tâm đến việc bày mưu tính kế hay chờ đợi gì cả, họ sẽ ra tay luôn bằng cách cho đối phương một cái bạt tai hoặc cào cấu, khiến đối phương bị thương.
Nếu đắc tội với Nhân Mã thì hãy chuẩn bị tâm lý cả cuộc đời này bạn sẽ bị họ dày vò. Nhân Mã thật sự sẽ luôn nhắm vào bạn, khiến bạn phải làm những trò dở khóc dở cười, vô cùng mất mặt.
Phần lớn thời gian trong cuộc đời, Ma Kết dùng để phân tích chuyện tình cảm. Chuyện gì họ cũng bắt đầu suy nghĩ từ góc độ tình cảm, ngay cả việc báo thù. Nếu tự mình có thể làm được thì họ ra tay cướp người yêu của đối phương. Còn không, cho dù phải thuê người khác họ cũng nhất định phải làm việc đó.
Sau khi bị phật ý, Bảo Bình sẽ chẳng nói chẳng rằng bắt đầu lên kế hoạch báo thù. Có lúc họ sẽ trả thù ngay hoặc dùng một khoảng thời gian rất dài để lên kế hoạch, sau đó bắt đầu báo thù, huỷ hoại cả đời của người họ căm ghét.
Mặc dù chúng ta không mê tín, nhưng nghe thấy cách làm này vẫn phải sởn gai ốc. Cách làm ma quái này chưa chắc đã gây ảnh hưởng gì tới đối phương, nhưng Song Ngư vẫn cho rằng nó có tác dụng.
Ảnh minh họa |
Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch qúa nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mỗi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mỗi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn – Khôn – Cấn – Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:
– Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
– Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
– Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
– Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
– Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
– Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
– Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
– Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.
Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mỗi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mỗi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn.
Tọa độ của 24 hướng trên la bàn
Chính Hướng và Kiêm Hướng
Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướng và kiêm Hướng? Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mỗi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ. Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.
Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 dịp khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát mà thôi.
Tam nguyên long
Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.
Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:
– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).
Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mỗi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa, Thiên và Nhân, theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.
– Thí dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng ẤT 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.
Đạo Phật từ khởi nguyên cho tới bây giờ luôn tồn tại hai giới tu hành, đó là giới xuất gia và giới tại gia. Người tu xuất gia cũng gọi là xuất gia đầu Phật. Xuất gia – là đến chốn hông nhà.
Chữ “nhà”, là nhà ở cửa người thế tục. Người thế tục nào bỏ nhà ở của mình để đến ở nhà của Như Lai, là chùa để giữ gìn mạng mạch Phật pháp trường tồn và phát triển được, gọi là người trụ trì. Trụ, nghĩa ở; còn: Trì, nghĩa là giữ, giữ gìn. Thế nên Trụ Trì là ý nghĩa cao cả trong câu: Trụ Pháp Vương gia – Trì như Lai Tạng. Người tu xuất gia là người lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm, khoác y Phật, đưa Phật Pháp vào lời nói, là người trưởng tử của Như Lai, tuyên dương giáo pháp làm lợi ích cho đời; bởi giáo pháp nhà Phật là giáo pháp bất ly thế gian để giác ngộ thế gian (chữ Hán biểu thị bằng câu: Phật pháp bất ly thế gian giác).
Cho nên tu xuất gia mà dân gian gọi là tu chùa là lối tu cao tuột, hơn hẳn các lối tu khác.
Người tu tại gia là người thực hiện các pháp tu ngay tại nơi ở, nơi sinh sống của mình cùng với gia đình (tại gia là tại nhà). Người tu tại gia gọi là Ưu bà tắc; là giới nữ gọi là Ưu bà di. Cũng có thể gọi chung là phật tử, tức con của đức Phật Thích Ca, và chính đức Phật đã chế định và khai mở đường lối tu này khi Ngài còn tại thế.
Lịch sử Phật giáo ghi nhận người tu tại gia đầu tiên là một nhà triệu phú ở gần thành Ba-la-nại, khi ông ta đi tìm người con trai của mình tên là Yasa đã bỏ nhà ra đi vì chán cảnh sống thế gian tầm thường, vô vị. Ông đã tìm được người con trai của mình tại Vườn Nai, con trai ông đang nghe Phật thuyết pháp.
Đến nơi, được nghe pháp, nhà triệu phú nọ cũng bị thuyết phục bởi những lời giảng của đức Phật về Tứ Đế và Bát Chính đạo. Thế rồi thể theo lời cầu xin của nhà triệu phú, đức Phật đã cho ông được quy y, trở thành người đệ tử tại gia đầu tiên. Nhà triệu phú nọ đã hoan hỷ trở lại nhà mình, tiếp tục công việc làm ăn, buôn bán. Còn người con trai của ông là Yasa thì được Phật cho xuất gia.
Từ mẫu hình của người tu tại gia đầu tiên từ thời đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ ấy, thì các pháp tu này vẫn còn nguyên giá trị. Đó là, người phát nguyện tu tại gia nhất thiết phải được nhà chùa chấp thuận và làm lễ Quy y Tam bảo cho.
Trong buổi lễ ấy, nhà chùa có thể đặt Pháp danh (tên đạo) cho người được Quy y. Sau buổi lễ người phật tử đó được trở lại nhà ở, gia đình của mình và làm ăn, sinh sống bình thường trong công đồng dân cư và tự giác thực hiện những điều đã phát nguyện trước Tam Bảo trong buổi lễ Quy y.
Để phát huy trách nhiệm của người phật tử tu tại gia, trước hết phải quan niệm sâu sắc lời Phật dạy qua kinh sách và những lời giảng Pháp của các thầy với các khóa học dành cho người tu tại gia; và không chỉ học hiểu mà còn biết kiến giải đúng nghĩa các thuật ngữ Phật học phổ thông như Tam Bảo, vô ngã, tứ vô lượng tâm, Phật tính v..v…Thực hành Bát chính đạo, sống có giá trị và ý nghĩa hướng thiện để đời sống của mình có giá trị và ý nghĩa, trở thành tấm gương sống đẹp, thực hành đời sống đạo đức, tâm linh, đồng thời Phật tử tu tại gia phải có tình thần hộ trì hoằng dương Chính Pháp, lợi lạc chúng sinh. Bên cạnh đó, người phật tử tu tại gia nếu có điều kiện sẵn sàng thực hành Pháp thí và Vô úy thí – tức là trao truyền kiến thức tu tập và bảo vệ che chở, đem niềm vui, hạnh phúc tới cho người khác, góp phần làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau trên cuộc đời, trong xã hội.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam từng truyền tụng câu thơ cửa miệng về “sự tu” thật sâu sắc:
Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
Chớ hiểu lầm về sự sắp xếp thứ tự.. nơi tu trong câu lục bát này. Bởi vì: Tu tại gia được xếp “thứ nhất” ấy chỉ là bước đầu tiên trong việc thâm nhập và khai mở tri kiến Phật, chưa phải là lối tu cao tuột của người xuất gia mà trong bài viết này đã đề cập, đã Kiến giải và mặc dù vậy, ngay từ buổi đầu tiên chế định ra đường lối tu này; sau lời truyền Pháp, đức Phật đã hoan hỷ, tuyên dương với đại chúng về bốn niềm vui chính đáng của người Phật tử tu tại gia.
Đó là:
1. Niềm vui có của cải: Là do lao động chuyên cần bằng mồ hôi và những việc làm chính đáng của mình trong kinh doanh, làm khoa học kỹ thuật, hoặc lao động phổ thông. Sống lành mạnh, có đạo đức nghề nghiệp. được cộng đồng và pháp luật thừa nhận.
2. Niềm vui được giàu có: Được giàu có là do lao động siêng năng, lại khéo léo sắp xếp công việc hợp lý, có kế hoạch vì thế tạo ra những lợi nhuận ngày một cao. Khi thụ hưởng giàu sang mà vẫn không quên làm việc lành.
3. Niềm vui không có nợ nần: Là do có nghị lực kiềm chế. Thực hành “thiểu dục tri túc”, ít ham muốn, tự biết đủ. Không cờ bạc, rượu chè, giữ ngũ Giới… cho nên không có nợ nần, sống tự tại
4. Niềm vui không bị chê trách: Là do các hành động của thân – khẩu – ý luôn thanh tịnh, không có điều gì đáng chê trách cho nên cuộc sống luôn thảnh thơi, tri thức thăng hoa, tâm thường hoan hỷ.
Trong bốn niềm vui của người tu tại gia, thì niềm vui thứ tư được đức Phật tán dương nhất; Ngài cho rằng: niềm vui không bị chê trách là niềm vui ưu việt hơn cả.
Ở nước ta, trong giới tu tại gia – các cư sĩ, phật tử ở thời nào cũng rất đông đảo. Họ là những thường dân, là thương gia giàu có, nhà khoa học, những nghệ sỹ tài năng và có cả những danh tướng, quân vương… nơi thế tục nhưng hết thảy những việc làm của họ đều xứng danh là các Hộ pháp ở thế gian còn nhiều những khổ đau này.
Trong đó có những ngọn đuốc thiền sáng chói rất đáng tự hào, như nhà Trần (1225 – 1400) có Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung – vị thiền sư lại là một cư sỹ tại gia, một nhà tư tưởng, nhà quân sự và cũng là một nhà thơ. Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám (1897 – 1969) cũng là một cư sỹ tại gia mẫu mực, làm nhiều phật sự lớn như dịch Kinh Phật, mở các trường Phật học đào tạo tăng tài trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đầu những năm 30 thế kỷ 20.
Vậy là may mắn cho tôi và hết thảy những ai đó chưa hội đủ duyên lành để được làm người tu xuất gia, thì cũng chớ bỏ lỡ cơ hội Quy y Tam bảo, làm người tu tại gia, thực hiện các hạnh lành mà thụ hưởng bốn niềm vui mà đức Phật đã hoan hỷ chỉ bày.
Nam mô Công đức lâm Bồ Tát Ma ha tát!
Chùa Xuân Lan tọa lạc tại thôn Trung, xã Hải Xuân, huyện Hải Ninh, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nơi đây được trụ trì bởi Đại Đức Thích Minh Hạnh.
Cũng như nhiều ngôi chùa khác trên khắp Việt Nam, tại Chùa Xuân Lan cũng có nhiều lễ hội diễn ra. Đông đúc và nhộn nhịp hơn cả là vào mùa xuân hàng năm, bắt đầu bằng lễ dựng nêu từ ngày 25 tháng Chạp âm lịch, kết thúc bằng lễ hạ nêu ngày 28 tháng Giêng âm lịch. Những ngày này thu hút đông đảo du khách thập phương đến cũng bái và chơi hội.
Chùa Xuân Lan còn có tên gọi khác là : “Linh Quang cổ tự”. Chùa nằm trên một gò đất cao nhìn về hướng Nam, phía trước Chùa là một hồ nước hình bán nguyệt và một nhánh của dòng sông Ka long chảy uốn khúc trước cửa Chùa và chảy thẳng ra Mũi Ngọc.
Không ai rõ là chùa được xây dựng khi nào. Điều đặc biệt là đến nay chùa còn lưu giữ được một số tượng Phật rất lớn (trong đó có 5 pho tượng thời Lê). Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được một số mảng chạm khắc gỗ với những đường nét tinh vi sắc sảo mang phong cách thời Lê.
Tương truyền, chùa được xây dựng trên trán con rồng và mắt rồng là ao trước cửa chùa. Đây là mảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Dòng sông Ca Long bắt nguồn từ Trung Quốc chảy thẳng vào cửa chùa rồi ngưng lại uốn khúc ở đó để tụ lại nguồn khí thiêng nơi địa đầu của Tổ quốc. Bởi thế mà từ lâu, ngôi chùa đã đi sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây một điều gì đó rất linh thiêng và gắn bó.
Trước kia các bậc thềm trong lối vào chùa được ghép bằng các khối đá xanh, trải qua thời gian và chiến tranh, nên đã bị huỷ hoại phần nào. Hiện tại các bậc thềm này được làm xen kẽ với gạch nung. Tiếp theo là sân chùa được lát bằng một lớp vữa xi măng, xung quanh bó gạch tạo nên một không gian thoáng mát trước cửa chùa.
Chùa Xuân Lan có kiến trúc kiểu chữ đinh, toà tiền đường gồm 5 gian bịt đốc, nối liền với hậu cung 3 gian 2 chái tạo thành. Phía trước hai bên chùa là nhà Tổ và nhà Mẫu. Ngoài ra, chùa còn có nhiều kiến trúc phụ khác như: nhà sắp lễ, bếp, giếng… Hầu hết các công trình được xây dựng bằng một loại gạch xanh hết sức đặc biệt.
Chùa chủ yếu được xây dựng bằng các cấu kiện đá xanh. Các bậc lên chùa bằng đá xanh, các cột, xà ngang bằng đá. Và đặc biệt chùa vẫn còn lưu giữ một pho tượng đá. Chất liệu đá làm nên những cấu kiện này là những phiến đá có kích cỡ lớn, được đem từ núi Tổ Chim – đảo đá lớn nằm ở phía ngoài phường Trà Cổ, giáp biên giới Việt Trung.
Những nét chạm khắc ở các cấu kiện này hết sức tinh xảo, các mộng đá, gỗ được ghép vào nhau rất khít, tạo thế vững chãi, bền chắc cho ngôi chùa.
Ngoài nghệ thuật kiến trúc đá, chùa Xuân Lan còn lưu giữ được những mảng chạm khắc gỗ có giá trị. Đặc biệt là các mảng chạm khắc ở vì kèo, đầu dư, đầu bảy, bức cốn… được các nghệ nhân thời trước chạm trổ kênh bong với những hình long, ly, quy, phượng và các hoa văn khác với những đường nét tinh vi, sắc sảo và mềm mại, mang vẻ đẹp thâm nghiêm cả về tạo hình và tâm linh.
Chùa Xuân Lan là nơi có nền Phật giáo lâu đời, mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Chùa là di tích lịch sử văn hoá có giá trị, là “cột mốc văn hoá đường biên” nơi địa đầu của Tổ quốc.
(Ảnh minh họa) |
Những tu sĩ phong thủy ở Singapore thường đặt 1 chiếc gương tròn bằng đồng trong căn phòng có năng lượng xấu. Gương đồng này được tăng cường bằng mật chú (mantra, những câu chú linh thiêng lặp đi lặp lại) trước khi đặt vào phòng có năng lượng xấu.
Tất cả rung động xấu sẽ bị hút vào gương và bị khử đi. Gương nên phản chiếu vùng sáng hơn là vùng tối; vùng không gian sạch hơn là vùng không gian bẩn; các bức tường hơn là ô cửa và hành lang dài.
Nếu bạn treo gương lên tường, hãy nhìn vào gương từ mọi góc cạnh để chắc chắn nó phản chiếu vùng không gian tốt.
Nếu thấy gương phản chiếu những điềm xấu như vùng không gian u tối, dơ bẩn, nhiều đồ lặt vặt thì hãy dọn dẹp vùng ngay; hoặc che phủ tấm gương để nó không phản chiếu những năng lượng xấu.
Gương nên phản chiếu những hình ảnh tươi đẹp như bãi cỏ, bông hoa, bồn nước trước cửa để mang lại năng lượng tươi mới của thiên nhiên.
(Theo Sắp xếp nhà cửa theo phong thủy)
a sự tương đồng với khí trường tự nhiên hoặc thích hợp với môi trường của khí trường nơi con người sinh tồn, mà môi trường loại này phái làm cho con người cảm thấy hài lòng vừa ý, khoẻ mạnh thoải mái, gia đình hưng vượng.
1. Nhà ở phải sạch sẽ, nếu không dễ sinh sự chẳng lành.
Cụ thể cần chú ý những điểu sau:
– Đất làm nhà không chọn nơi đã từng là bãi tha ma, trạm giết mổ, bãi than hoặc bãi rác, những nơi này đều là môi trường thu hút vi khuẩn đến sinh sống, ảnh hưởng đến sức khoẻ người trong nhà.
– Đồ vật trên nền đất chưa được thu dọn gọn sạch để thích hợp cho sử dụng làm nền nhà. Người ta thường chú trọng đến môi trường ăn uống, không thích ngồi ăn ở nơi có đồ vật bừa bãi, nếu không thu dọn gọn gàng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý người sử dụng.
– Kị đất bồi không sạch. Đất sử dụng bồi thêm cho nền nhà nếu chứa rác hoặc là đất lấy từ bãi tha ma là không sạch.
– Đất bồi ven sông ẩm ướt khí nặng, dễ sinh ruồi muỗi gây bệnh truyền nhiễm, nước dùng có khi cũng bị ô nhiễm.
– Nơi đã từng xảy ra hung sát hoặc tai hoạ lớn thì cần phải tránh, nếu không sau này dễ ảnh hưởng, sinh chuyện không tốt.
2. Chú trọng trung tâm nhà
Nếu như giữa nhà có giếng trời, quyền uy của chủ nhà không dễ được người khác tôn trọng. Vị trí trung tâm nhà nếu có hình thế của một giếng trời sẽ làm cho chủ nhà mất đi trọng tâm, như vậy thì khó có thể ngưng tụ được quyền uy.
Trong nhà không được đặt la bô ở vị trí trung tâm. Ví trí trung tâm nhà giống như trái tim của một con người, không được để bất kỳ vật gì nghi là ô uế ở đó. Nhưng nếu ở vị trí này đã có phòng vệ sinh thì cũng hết sức tránh đặt la bô vào đúng điếm trung tâm.
3. Ngoại hình sát của nhà ở
Về phương diện ngoại hình, các học giả phong thuỷ truyền thống thường đặc biệt nhấn mạnh mấy vấn đề như sau:
– Mớ cửa ra không nên có núi chắn gần trước mặt. Vì nếu núi chắn quá gần nhà sẽ dễ gây áp lực tâm lý, luôn có cảm giác gặp trở ngại.
– Địa thế không nên quá cao, nếu không sẽ chiêu thu phong sát, cô linh, kị nhất là tựa vào sườn núi. Những tình huống này là tránh thế gió và không khí lạnh, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ, mà nhà tựa lưng vào vách núi rất dễ xảy ra sự cố nguy hiểm.
– Bên ngoài nhà không nên có vùng trũng hoặc cửa sông. Ở nơi như vậy dễ phạm thuỷ hoạn, điều kiện vệ sinh lại không tốt.
– Nền đất không bằng phẳng, gọn gàng, vuông vắn, ví dụ như đất hình tam giác hoặc đất khuyết góc. Gọi là an thân mới lập mệnh, nếu như nền móng không ổn định thì chân đứng sao có thể vững dược.
– Cửa chính của nhà kị đối diện với chỗ đường giao nhau. Nếu không dễ gây mất đoàn kết trong gia đình, trong nhà mọi người nghi kị bất hoà.
– Lộ xung ngã ba đường, dễ xảy ra tai hoạ vô cớ, gặp nạn đâm xe hại thân. Nhưng nếu người kinh doanh buôn bán thì ở vị trí này lại thích dụng, tuy nhiên phái có biện pháp hoá giải xung sát, phải phối hợp với các điều kiện môi trường khác.
– Nhà ở kị đối diên với khe tiếp giáp giữa hai toà nhà. Nằm ở vị trí chiếu thẳng với khe tiếp giáp giữa hai toà nhà sẽ có phong thế mạnh, ánh hưởng đến sự an toàn của nhà.
– Đối diện thẳng dọc sống nhà hoặc góc tường bên ngoài nhà khác. Nếu như vậy sẽ ảnh hưởng đến bình ổn tâm lý.
– Trước cửa có gạch đá phế thải, rác vứt thành đống. Mở cửa ra nhìn thây ngay cảnh lộn xộn, ô tạp, trong lòng cảm thây buồn phiền.
– Trước cửa có lều đổ nát. Theo phong thuỷ thì đây là tổn đinh sát, ảnh hưởng của nó giống như trước nhà có đống rác thải, sẽ gây cảm giác thất bại.
– Kị nơi miếu tự và nha môn. Đâv là những nơi thường có âm khí hoặc hung án, đều là những hình ảnh không tốt lành gì.
– Nhà có nhiều song sắt nghiêm mật như nhà tù. Nhiều người vì để phòng chống kẻ trộm nên thường bố trí chăn song sắt ở những nơi như cửa sổ, mái nhà, tuy vì mục dích chống trộm nhưng cần phải tránh dùng sơn màu đỏ để sơn cho các thanh chắn song, nếu không sẽ phạm phải tù ngục sát.
4. Phối trí trong nhà
– Cửa: Cửa là chỗ ra vào nhà, cũng là nơi thu nạp khí, rất quan trọng, mọi hung cát, phúc hoạ đều quyết định ở đó. Cửa không được nghiêng lệch, cao thấp lộn xộn, cầu thang không được trực xung với cửa, giữa cửa và nhà phải có sự hài hoà, phải có cả cửa trước cửa sau, phòng dùng chung tốt nhất phía sau phải lưu thông khí tốt.
– Bếp: Bước vào cứa nhìn ngay thây bếp hoặc lối đi vào cửa chiếu thẳng vào bếp là xâu, bếp đun đối diện với nhà vệ sinh hoặc bị xà nhà chiếu thẳng vào cùng là những điều cấm kị.
– Nhà vệ sinh: Bước vào cửa gặp nhà vệ sinh, nhà vệ sinh đối diện với cửa nhà đều là những bố cục không tốt.
– Phòng ngủ: Cửa nhà tránh trực xung với phòng ngu, giường không được kê thẳng dưới xà nhà, cầu thang không nên bố trí chỗ có giường, ga trải giường khổng để có gương chiếu vào.
Cùng tìm hiểu ý nghĩa của 50 tên dành cho các bé trong năm 2016 này nhé.
Các tên theo vần từ A – N
1. THIÊN ÂN – Con là ân huệ từ trời cao
2. GIA BẢO – Của để dành của bố mẹ đấy
3. THÀNH CÔNG – Mong con luôn đạt được mục đích
4. TRUNG DŨNG – Con là chàng trai dũng cảm và trung thành
5. THÁI DƯƠNG – Vầng mặt trời của bố mẹ
6. HẢI ĐĂNG – Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm
7. THÀNH ĐẠT – Mong con làm nên sự nghiệp
8. THÔNG ĐẠT – Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời
9. PHÚC ĐIỀN – Mong con luôn làm điều thiện
10. TÀI ĐỨC – Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn
11. MẠNH HÙNG – Người đàn ông vạm vỡ
12. CHẤN HƯNG – Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn
13. BẢO KHÁNH – Con là chiếc chuông quý giá
14. KHANG KIỆN – Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh
15. ĐĂNG KHOA – Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé
16. TUẤN KIỆT – Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ
17. THANH LIÊM – Con hãy sống trong sạch
18. HIỀN MINH – Mong con là người tài đức và sáng suốt
19. THIỆN NGÔN – Hãy nói những lời chân thật nhé con
20. THỤ NHÂN – Trồng người
21. MINH NHẬT – Con hãy là một mặt trời
22. NHÂN NGHĨA – Hãy biết yêu thương người khác nhé con
23. TRỌNG NGHĨA – Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời
24. TRUNG NGHĨA – Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy
25. KHÔI NGUYÊN – Mong con luôn đỗ đầu.
Các tên theo vần từ N – V
26. HẠO NHIÊN – Hãy sống ngay thẳng, chính trực
27. PHƯƠNG PHI – Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp
28. THANH PHONG – Hãy là ngọn gió mát con nhé
29. HỮU PHƯỚC – Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn
30. MINH QUÂN – Con sẽ luôn anh minh và công bằng
31. ĐÔNG QUÂN – Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân
32. SƠN QUÂN – Vị minh quân của núi rừng
33. TÙNG QUÂN – Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người
34. ÁI QUỐC – Hãy yêu đất nước mình
35. THÁI SƠN – Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao
36. TRƯỜNG SƠN – Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước
37. THIỆN TÂM – Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng
38. THẠCH TÙNG – Hãy sống vững chãi như cây thông đá
39. AN TƯỜNG – Con sẽ sống an nhàn, vui sướng
40. ANH THÁI – Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn
41. THANH THẾ – Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm
42. CHIẾN THẮNG – Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng
43. TOÀN THẮNG – Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống
44. MINH TRIẾT – Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế
45. ĐÌNH TRUNG – Con là điểm tựa của bố mẹ
46. KIẾN VĂN – Con là người có học thức và kinh nghiệm
47. NHÂN VĂN – Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa
48. KHÔI VĨ – Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ
49. QUANG VINH – Cuộc đời của con sẽ rực rỡ,
50. UY VŨ – Con có sức mạnh và uy tín.
Những ngày đầu tiên của năm mới mọi người đều muốn đi chùa dâng hương lễ Phật để thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng gia hộ cho bản thân, người thân và gia đình mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hoà thuận, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc.
Đi chùa lễ Phật đầu năm là một phong tục tốt đẹp, dĩ nhiên rồi. Dù đi làm ăn ở đâu xa, tết trở về làng mình, thắp nén nhang trước mộ tổ tiên, viếng thăm ngôi chùa làng nhỏ bé, nhưng gần gũi và thiêng liêng. Chùa làng không phải chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là chỗ để mỗi con người lắng lại lòng mình với những ý nghĩ tốt lành.
Tuy nhiên, việc sửa soạn đi lễ chùa, hoặc sắm lễ vật để đi lễ chùa, người đi lễ cần phải biết những quy định căn bản của nhà chùa mà người hành lễ phải tuân thủ là:
– Điều đầu tiên bạn cần ghi nhớ khi bước vào nhà chính của chùa là nên bước vào từ cửa bên, không bước vào cửa chính giữa; đồng thời không dẫm lên bậu cửa, phải bước qua bậu cửa, nếu không sẽ phạm tội bất kính. Cửa chính nhà chùa từ xưa đến nay chỉ Đức Phật, Ngọc đế, Quốc vương một nước mới được ra vào. Vì thế nhiều ngôi chùa ngày thường không mở cửa chính.
– Vào chùa, nên dùng Phật danh “A di đà Phật” thay tên gọi để mở lời chào trụ trì và tăng ni trong chùa. Khi ra về cũng nên dùng câu này để bái biệt, công đức mang lại vô lượng, cho cả người vãn cảnh và nhà chùa.
– Khi đi lễ chùa bạn nên thắp hương tại đỉnh đặt bên ngoài, hạn chế thắp hương bên trong chùa, vì có thể gây ảnh hưởng đến tượng Phật, pháp khí. Chỉ cắm 1 nén hương vào bát hương, nếu bát hương có hương rồi không cần cắm tiếp. Không cắm hương tùy tiện vào tay tượng, gốc cây, hay đồ lễ…
– Không nên chụp ảnh, quay phim tùy tiện trong chùa.
– Không đứng lễ hoặc quỳ chính giữa Phật đường lễ Phật vì đó là vị trí tối cao của trụ trì. Chỉ đứng lễ hoặc quỳ chếch sang bên một chút.
– Không tự ý lấy sử dụng hoặc mang bất kỳ loại đồ đạc gì của nhà chùa về làm của riêng. Theo nhiều kinh sách và quan niệm truyền thống, những hành vi như vậy gọi là “đạo dụng thập phương thường trụ” (trộm dùng đồ lễ của chúng sinh cúng dàng). Phạm giới luật này khi chết sẽ bị giam vào địa ngục, chịu khổ vô kể. Phật điển ghi rõ, “nhân nhỏ, quả lớn”, thành tâm cúng dàng, lễ dù nhỏ nhưng phúc báo lớn lao; trộm của chùa, vật tuy sơ sài nhưng quả báo không gánh hết.
– Vào Phật đường và Tam Bảo không nên đi giầy dép, nhai trầu, hút thuốc. Tam bảo là nơi tôn nghiêm, có giới hương, định hương, chân hương, đòi hỏi phải trì giới để di dưỡng thanh tịnh, tuyệt đối không gây ồn ào, hỗn tạp.
– Không nên ngắm tượng Phật như một tác phẩm nghệ thuật, trước tượng Phật nên cung kính nghiêm trang, không nhìn ngang ngó dọc, khệnh khạng trước Tam Bảo. Nếu muốn chiêm ngưỡng tượng Phật, nên đứng từ ngoài để quan sát.
– Không chạy qua chạy lại, nói chuyện, bình phẩm, ngồi hoặc nằm trong Phật đường. Không tùy tiện hắt hơi sổ mũi, khạc nhổ… quanh khu vực Phật điện, Tam Bảo.
– Khi vào Phật đường, đi vòng quanh tượng Phật và khu vực Tam Bảo, lưu ý đi từ phải sang trái, niệm tên Phật “A di đà phật” sẽ được hưởng 5 điều phúc đức: Hậu sinh đoan chính, đẹp; lời ăn tiếng nói rõ ràng dễ nghe; hóa sinh thăng thiên; có thể được sinh ra trong gia đình quyền quý; siêu sinh đạo Niết Bàn.
– Sử dụng đồ của chùa, như ăn uống, thụ lộc, nên lưu công đức, dù ít hay nhiều. Không nên coi đó là của chùa, trụ trì cho thì nhận mà không bố thí chút công đức, vì nếu làm vậy sẽ phạm tội “luân đạo thực quả báo” là căn nguyên rơi vào địa ngục.
– Không để trẻ em chạy loạn Tam bảo, nghịch ngợm các đồ tế khí, sờ mó tượng phật…
– Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật.
– Khi bước đi không nên cắt ngang qua mặt những người đang quỳ lạy.
– Muốn làm lễ thì không nên quỳ phía sau những người đang đứng thắp hương. Tùy vào từng môn phái, có thể đứng/quỳ khi làm lễ nhưng cần phải lên trước.
– Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi, chè… Không được sắm sửa lễ mặn như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò, chả…
– Hoa tươi lễ Phật thường là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, hoa hồng, hoa cúc…Tuyệt đối không dùng các loại hoa tạp, hoa dại.
– Quả chín dâng lên ban thờ tốt nhất là các loại quả như chuối, thanh long, nho, bưởi, táo, hồng, đu đủ, hồng xiêm…
– Tuyệt đối không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính điện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh. Việc sắm sửa lễ mặn (như gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Đức Ông (vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa), Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ mà thôi.
– Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật, Bồ Tát tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chủ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông. Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện, mà nên bỏ vào hòm công đức.
– Tại chùa, không để tiền thật lẫn tiền âm phủ lên ban thờ hay mâm lễ. Tại đình, đền có thể đặt tiền âm phủ nhưng không nên đặt tiền thật.
– Rượu, bia, thuốc lá không đặt được trên ban thờ Phật nhưng có thể đặt trên ban thờ Thánh.
– Không nên mang theo mũ áo, khăn, túi xách, gậy gộc, bao tay… vào tam bảo bái Phật. Lỡ đặt những đồ đạc như vậy trên bàn, trên chiếu hoặc trong góc tam bảo để bái Phật thì mọi công quả tu dưỡng bấy lâu đều tiêu tán. Đi lễ chùa, tốt nhất không mang theo những đồ tùy thân khi vào tam bảo.
– Khi vào chùa cần mặc quần áo dài, kín cổ, giản dị, sạch sẽ, đặc biệt không mặc váy ngắn, quần cộc, áo hở lườn hở nách… Nhiều người khi lễ Phật, thậm chí nhiều vị trí nhạy cảm phơi hết ra ngoài, vừa phạm giới uế tạp Phật đường, vừa phạm giới bất kính, khẳng định công quả tiêu tán hết, quả báo vô cùng.
Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Vào đình, đền bạn có thể cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm…
Tất cả tiền thật đều nên đặt vào hòm công đức chính. Không nên đi “rải” tiền trên tất cả ban thờ hoặc đặt vào tay tượng. Một lưu ý quan trọng là thay vì đặt tiền vào hòm công đức chính giữa, bạn nên đặt tiền vào hòm công đức nằm lệch bởi hòm công đức đặt chính giữa.
– Không lấy cành lộc mang về đặt lên ban thờ nhà mình. Cành lộc chứa nhiều trường khí âm, bất lợi cho gia tiên, thần linh tại gia.
– Có thể lấy lộc là bánh kẹo, bao diêm, bật lửa nhưng đều không mang về đặt lên ban thờ.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………………………………
Ngụ tại ……………………………………………..Cùng cả gia đình thân tới cửa Chùa …………………trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài. Chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh nhà Chùa.
Thiết nghĩ: Chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện!
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………………………………
Ngụ tại ………………………………………………Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
– Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.
– Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.
– Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.
– Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
– Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được ………………………………(công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai qua nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khỏe, trên dưới thuận hòa an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ……………….
Ngụ tại ………………………….
Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa. Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, hạnh phúc an lạc ………… (tài lộc, cửa nhà)
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Nam mô Đại từ, Đại bi Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thùy từ chứng giám.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là …………………
Ngụ tại ……………………………
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen hồng.
Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Cẩn nguyện
► ## cung cấp thông tin Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Theo thuyết Nhất Nguyên, năng lượng khi phát sinh tạo ra đồng thời 2 dạng vật chất: Vật chất Dương & vật chất Âm. Căn cứ vào thuyết này, luồng suy nghĩ của con người khi phát sinh, luôn tạo ra đồng thời 2 dạng thức tồn tại chứ không phải là 1. Ta tạm gọi chúng là : Luồng Suy Nghĩ Dương & Luồng Suy Nghĩ Âm. Chúng là 1 cặp.
Phân Tâm Học đã làm rõ sự hiện diện đồng thời của cả hai luồng nhận thức trong hoạt động của bộ não của con người: Ý Thức & Vô Thức (Có khi còn gọi là Tiềm thức) Chúng là 1 cặp.
Theo nguyên lý Âm Dương, Dương thể hiện tính Hữu Hình, Âm thể hiện tính Vô Hình. Vậy ta có : Luồng Suy Nghĩ Dương là Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình & Luồng Suy Nghĩ Âm là Luồng Suy Nghĩ Vô Hình. Ta thấy, chúng chỉ khác Ý Thức & Vô Thức ở cái tên.
Con người suy nghĩ, trình bày ra thành lời. Lời nói được thể hiện bằng chữ viết. Như vậy, chữ viết là một dạng ký tự dùng để mã hoá suy nghĩ của con người. Tức là chữ viết chứa đựng thông tin suy nghĩ của con người. Thông tin này chứa đựng Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình (Ý Thức _ Suy nghĩ của con người được thể hiện trực tiếp trên văn bản) Còn Luồng Suy Nghĩ Vô Hình (Tiềm thức) nó có hiện diện trong chữ viết ?
Đã có một cách tính toán rất ư lạ lùng ở môn Chu Dịch Dự Đoán Học ! Bằng việc phân số lượng chữ & số lượng ký tự có trong văn bản (text), phương pháp này đã tìm ra được một dạng thông tin khác nằm ẩn trong các văn bản (text) Tôi lấy một số ví dụ :
1. Người Việt chúng ta khi tỏ tình thường nói :
a. “Anh yêu em” có phân lượng ký tự là 3/ 5, tương ứng với hình thái Hoả Phong Đỉnh. Hình thái này mô tả sự Kết hợp.
b. “Anh thương em” có phân lượng ký tự 3/8, tương ứng với hình thái Hoả Địa Tấn. Hình thái này mô tả sự Dấn bước, Bước tới, Tiến tới (Không có lùi) Câu tỏ tình này thường thấy ở miền trung & miền Nam. Rõ ràng cá tính của con người sống trong khu vực này ảnh hưởng rõ nét lên câu tỏ tình.
Ngược lại, nếu :
a. “Em yêu anh” mang hình thái Trạch Thuỷ Khốn. Quả là Khốn thật cho cô gái nào mở lời trước chàng trai với câu tỏ tình này! Có vẻ như người Việt chúng ta không có thói quen dành cho các cô gái mở lời trước với câu tỏ tình này.
b. “Em thương anh” mang hình thái Trạch Thiên Quải. Hình thái này mô tả sự Quyết liệt. Kể cũng lạ ! Trong thực tế, ở miền Nam (hay miền Trung) câu này lại dễ chấp nhận hơn “Em yêu anh” Nhưng hãy để ý : Cô gái khi mở lời câu này thì tình yêu của họ với người con trai là quyết liệt lắm. Để họ quên là điều rất khó. Và có muốn trốn họ đi tu cũng không dễ.
2. “Wò ai Nìa”, “Anh yêu em” Wò & Nìa là từ trung tính. Trong tiếng Hoa phổ thông, câu này được dùng chung cho cả 2 phái (như tiếng Anh) Đứng về phương diện ngôn ngữ học điều này là đúng, nhưng khi phát âm “ Wò ai Nìa” có vẻ như âm “ Wò” ở đàn ông dễ phát âm hơn so với phái nữ _ Chữ “Tôi” phát âm theo tiếng Hoa phổ thông mang đậm nét cái uy lực của người phát âm. Trong thực tế, câu tỏ tình này phù hợp cho cánh đàn ông Trung Quốc hơn so với phái nữ.
Tính số nét, ta có phân lượng ký tự 7/20, tương ứng với hình thái Sơn Lôi Di. Hình thái này mô tả sự Nâng đỡ, chở che. Thông tin nằm ẩn trong câu tỏ tình này phản ánh thật đúng với phong tục, tập quán văn hoá của đất nước mang nguồn gốc Nho Giáo (Trọng nam khinh nữ)
3. “I love you” mang hình thái Thiên Sơn Độn. Thật lý thú khi kiến giải hình thái này! Về phương diện ngôn ngữ học, nền văn hoá con người phương Tây sử dụng ngôn ngữ mang tính “Tĩnh” khác với người phương Đông dùng ngôn ngữ “Động”. “Vắt giò lên cổ mà chạy”, người Anh-Mỹ chỉ có thể hiểu đây là một động tác làm xiếc chứ không thể hiểu như chúng ta, có nghĩa là chạy rất nhanh. Trong ngôn ngữ giao tiếp, người Anh-Mỹ cũng bộc lộ sự rõ ràng & chính xác trong câu nói, khác với ngôn từ nhiều ẩn ý của người Phương Đông. Hình thái Thiên Sơn Độn mô tả rất rõ cử chỉ mời gọi dứt khoát :” Em (anh) hãy từ bỏ tất cả để đi theo anh (em) !” Độn có nghĩa là Lánh đi. Ở các nước có nền văn hoá gốc Anglo-saxon, cô gái lập gia đình phải đổi họ theo họ của chồng. Và họ cũng không có tập quán làm dâu hay giúp đỡ cha mẹ, anh em bên chồng như chúng ta. Vì thế, khi chàng trai “Yes” cho câu “I love you” của cô gái thì điều đó có nghĩa là dù sống trong ngôi nhà của gia đình anh, tôi sẽ là một thành viên thể hiện trách nhiệm chung trong ngôi nhà đó, chứ không hề có chuyện tôi phải thực hiện vai trò làm việc giúp đỡ “Không công” cho gia đình bên chồng. Ở họ rất rõ ràng !
Ta thấy rằng cùng một cách biểu lộ tình cảm, nhưng khác nhau ký hiệu (ngôn ngữ) là ẩn chứa dưới lời nói ấy là những thông tin khác nhau (tôi tạm gọi là thông tin chìm). Phải chăng thông tin chìm là ngôn ngữ vô thức? Ở trên ta xét câu tỏ tình theo nghĩa người bày tỏ nói trọn câu. Trên thực tế, cách biểu lộ câu tỏ tình cũng khác nhau, có khi nói trọn câu “Anh yêu em” có khi câu tỏ tình bị ngắt từ hoặc không trọn câu, ví dụ: “Anh thương....”, “Em thương...” Trong các trường hợp này các thông tin chìm ấy cũng khác nhau. Chu Dịch Dự Đoán Học còn đi xa hơn khi cho rằng cùng câu nói ấy nhưng ở những thời điểm khác nhau sẽ cho kết quả thông tin chìm khác nhau. Vấn đề này tôi sẽ bàn sâu hơn vào dịp khác.
Để kết luận, tôi ghi nhận rằng: Lời nói, ngoài ý nghĩ được trình bày trực tiếp trên nó, còn tồn tại một thông tin chìm nằm trong nó. Để xác định thông tin chìm đó có phải là Luồng Suy Nghĩ Vô Hình (Vô Thức hay tiềm thức) tôi nghĩ rằng cần phải có cách lý giải khác hợp lý hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Ảnh minh họa |
Núi này thường sinh huyệt chân long, vị trí ở bên trái minh đường trước mộ nên gọi là “Tả Phụ”.
Núi Tả Phụ thường nằm bên cạnh núi Vũ Khúc, nó có khá nhiều điểm giống với núi này. Núi cao như chuông úp là núi Vũ Khúc, núi thấp bên cạnh là núi Tả Phụ.
Núi Tả Phụ nhỏ nhắn, tròn đầy là địa thế đẹp. Nếu núi kéo dài thành dáng bình phong lại càng tốt. Núi Tả Phụ có càng nhiều núi hộ vệ thì long mạch rất tốt.
Nếu núi Tả Phụ liên tiếp như tường thành, có thể bao bọc hết huyệt mộ thì long thế lớn kết huyệt quý. Trường hợp là cát tinh (núi cát) kết huyệt không có núi Tả Phụ bảo vệ, chứng tỏ long mạch chưa lập. Nếu kết huyệt cũng không quý. Trong “Hám Long Kinh” có viết: “Núi Tham Lang, núi Cự Môn không có núi Tả Phụ, núi Hữu Bật hộ vệ thì không giữ được long mạch”.
Núi Tả Phụ thuộc hành Kim. Bản thân núi không cát cũng không hung. Vậy nên kết hợp với cát tinh thì cát, kết hợp với hung tinh thì hung. Dương trạch cũng vậy.
Theo Bí ẩn thời vận
Văn khấn Thổ công và các vị thần linh bản địa vào ngày mùng 1 đầu tháng và ngày rằm hàng tháng.
Lễ cúng vào ngày Mồng Một (lễ Sóc) và lễ cúng vào chiều tối ngày Rằm (lễ Vọng) thường là lễ chay: Hương, loa, trầu cau, quả, tiền vàng. Ngoài lễ chay cũng có thể cúng thêm lễ mặn vào ngày này gồm: Rượu, thịt gà luộc, các món mặn.
Sắm lễ ngày mồng một và ngày rằm chủ yếu là thành tâm kính lễ, cầu xin lễ vật có thể rất giản dị: hương, hoa, lá trầu, quả cau, chén nước.
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
– Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Tín chủ là……………………
Ngụ tại………………………
Hôm nay là ngày… tháng…năm…
Tín chủ con thành tâm sắm sửa hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm kính mời: ngày Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn thần, ngài Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Cúi xin các Ngày thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Bản mệnh Phật là vị Phật độ mệnh của riêng từng con giáp, không chỉ bảo hộ bình an mà còn khai quang cát tường, mang tới sự may mắn và tốt lành. Cùng xem tuổi Tý thờ Phật nào, thỉnh bản mệnh Phật nào là phù hợp nhất nhé. Trong cuộc sống bất luận làm gì cũng không biết trước được kết quả. Con người cầu khẩn tới thần phật đều hi vọng cầu được ước thấy, nhanh chóng được phù hộ độ trì để hoàn thành tâm nguyện của bản thân. Bất cứ con giáp nào cũng có một vị Phật dõi theo, không thể thấy được bằng mắt thường nhưng cảm nhận được bằng tâm linh, che chở và hướng con người tới những giá trị chân – thiện – mỹ đích thức. Vậy người tuổi Tý thờ Phật nào là phù hợp nhất? Đó là Thiên Thủ Quan Âm Bồ Tát.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
- Năm Tý là các năm: 1936, 1948,1960, 1972, 1984, 1996, 2008, 2020...
- Năm Thân là các năm: 1920, 1932, 1944, 1956, 1968, 1980, 1992, 2004, 2016...
- Năm Thìn là các năm: 1940, 1952, 1964, 1976, 1988, 2000, 2012...
Người tuổi Thìn và người tuổi Thân
Tam hợp của người tuổi Thìn: Khi tuổi Thân và tuổi Thìn có sự phối hợp thì những quyết tâm của họ không gì có thể phá vỡ. Kế hoạch lớn lao của Thìn tìm được sự nhiệt tình trợ giúp của Thân - vốn đầy tham vọng. Khi gặp khó khăn, Thân mưu trí sẽ tìm ra giải pháp để vượt qua. Thìn thán phục sự mưu trí của Thân, trong khi Thân ngưỡng mộ sức mạnh và lòng dũng cảm của Thìn. Đây là 1 cặp không thể xem thường, nhất là với sự tương đồng trong tính cách khiến họ phối hợp với nhau rất ăn ý.
Người tuổi Thìn và người tuổi Tý
Năng lượng sung mãn của Thìn khi được kết hợp với tài khéo léo xoay sở của Tý sẽ khiến cặp đôi này tăng cường một cách hiệu quả sức mạnh và khả năng của nhau. Tý ngưỡng mộ và bị thu hút bởi tính năng động của Thìn. Ngược lại, Thìn cũng đầy hồ hởi và nhiệt tình khi được bảo vệ cho Tý. Cả 2 đều tôn trọng lẫn nhau.
Người tuổi Thìn thường để tâm đến những việc có tầm vóc lớn lao, trong khi người tuổi Tý thông minh, tài trí lại không hề bỏ qua những chi tiết dù là vụn vặt. Tý và Thìn hợp trở nên rất đẹp đôi và đầy ấn tượng.
Tý thuộc hành Thủy, Thìn thuộc hành Thổ. Thổ khắc Thủy, nhưng cả 2 đều tạo dưỡng chất cho cỏ cây sinh sôi, phát triển. Trong mối quan hệ này, Thìn và Tý đều vui với vai trò của mình và biết đưa lại lợi ích cho nhau.
(Theo Phong thủy trong tình yêu)
(Ảnh minh họa) |
Mỗi máy tính khi sử dụng còn cần có thêm 1 con chuột. Con chuột này đại diện cho yếu tố Thủy (vật duy nhất thuộc Thủy của máy tính).
Người cần Thủy nhất thiết không được sử dụng loại chuột vi tính phản quang. Vì chuột phản quang sẽ khiến Thủy duy nhất ở máy tính "bốc hơi". Người thiếu Hỏa sử dụng chuột phản quang liên tục nhấp nháy có thể làm tăng tính Hỏa. Hỏa thêm Hỏa không ổn.
Người kỵ Hỏa nhưng lại phải thường xuyên sử dụng máy tính thì nên đặt 1 cốc nước ở bên cạnh máy tính hoặc treo tranh có nội dung về nước, băng tuyết... để giảm nhẹ tính Hỏa.
Khi máy tính hoạt động thì mặt bàn cũng quyết định thuộc tính ngũ hành của nó. Người cần Kim thì mặt bàn cần chứa yếu tố tượng trưng cho núi tuyết. Người cần Thủy thì mặt bàn nên có màu sắc và hình ảnh của nước. Người cần Mộc thì có thể dán cỏ cây, hoa lá lên mặt bàn hoặc bày chậu cây cảnh. Người cần Hỏa thì mặt bàn nên có màu lửa. Người cần Thổ thì mặt bàn nên có màu sắc và hình ảnh của sa mạc.
Khi thiết lập mật khẩu cho máy tính cũng cần dựa vào ngũ hành. Người cần Mộc có thể chọn số 1 và 2 (1 - Giáp Mộc, 2 - Ất Mộc); người cần Hỏa chọn số 3 và 4 (3 - Bính Hỏa, 4 - Đinh Hỏa); người cần Thổ chọn số 5 và 6 (5 - Mậu Thổ, 6 - Kỷ Thổ); người cần Kim chọn số 7 và 8 (7 - Canh Kim, 8 - Tân Kim); người cần Thủy chọn số 9 và 0 (9 - Nhâm Thủy, 0 - Quý Thủy).
(Theo Phong thủy rước lộc vào nhà)
Trong phong thủy, vấn đề môi trường là một vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu. Môi trường được xem là đối tượng nghiên cứu chính trong khoa học phong thủy. Cùng với lý khí (hệ thống lý luận âm dương, ngũ hành, dịch lý…), môi trường hình thể là một phần không thể tách rời.
Sau thời kỳ bùng nổ dân số, quá trình phát triển công nghiệp, hóa chất bảo vệ thực vật…Và hậu quả tất yếu của những quá trình này là ô nhiễm môi trường. Trong đó môi trường nước bị ô nhiễm nặng nề và gây ra những hậu quả đáng sợ nhất.
Phong thủy có những thuật ngữ như sau “Sơn hoàn thủy bão” tức là núi bao bọc, che chắn, bảo vệ, nước uốn lượn, quanh co hữu tình. Hoặc “Tọa sơn, kiến thủy” tức là dựa lưng vào thế núi vững chắc, quay mặt về phía nguồn nước, sông suối…Tuy nhiên, cũng có một yêu cầu tiên quyết, bắt buộc ở đây chính là vấn đề núi phải hùng vĩ, cây cối xanh tươi, chim muông quy tụ, nước thì nhất định phải trong, như vậy mới đảm bảo sức khỏe con người, đinh tài lưỡng đắc.
Trường hợp nhà gần nguồn nước bị ô nhiễm xảy ra rất nhiều những hệ lụy liên quan từ nó, ảnh hưởng xấu đến nhiều vấn đề, đặc biệt là sức khỏe con người. Nhà gần ao hồ ô nhiễm dễ gây bệnh sinh lý giới tính cho phụ nữ, tình trạng vi khuẩn tràn lan dễ bùng phát các dịch như đau mắt đỏ, đau mắt hột, bệnh tiêu hóa, bệnh da liễu… Và đứng về góc độc học thuật rất khó vượng đinh, phát tài. Điển hình như tại các phương vị có tổ hợp phi tinh 1 – 4 đáng lý ra sẽ xuất hiện anh tài, giỏi về văn chương, đỗ đạt khoa cử, hiển vinh…Thế nhưng nếu tại phương vị này địa hình không cát lợi, có nước bẩn thì nó đã bị phá cách biến dạng đi nhiều. Cụ thể như sau, nhà xuất hiện người có tài nhưng thi cử lận đận, công danh trì trệ, xuất hiện hủ nho, mọt sách, trí thức bảo thủ, tổ hợp nhất tứ còn có đặc điểm là đào hoa, ướt át, lãng mạn, nên tại phương vị ấy có nước bị ô nhiễm tất trong nhà ấy sẽ xuất hiện những chuyện đào hoa, trăng gió, thiếu đoan chính, đứng đắn…
Cải thiện môi trường, hóa giải sát khí, đem lại một môi trường trong lành, một trường khí cát lợi cho sức khỏe và vận thế sự nghiệp luôn là cái đích hướng tới của học thuật chân chính. Đối với những môi trường nước bị ô nhiễm như vậy phong thủy học gọi là thủy sát, uế khí sát. Có nhiều phương pháp để hóa giải bất lợi trên, nếu dụng tâm quan sát ắt sẽ có cách xử lý thỏa đáng. Những biện pháp thường được nhắc tới và áp dụng đó là che hình thông khí, nghĩa là trồng một hàng cây, tạo nên một bức chắn sinh học, hóa giải những sát khí do thủy sát gây ra.
Tuy nhiên, phương pháp này chưa triệt để, vì chưa loại trừ tận gốc nguy cơ. Chưa góp phần cải thiện môi trường. Những biện pháp công nghệ được đưa ra đó là sử dụng hóa chất như vôi bột, phèn chua, sử dụng vi sinh vật khử nước, thanh lọc tạp chất…Có một loại sinh vật mà không nhiều người quan tâm lắm, nhưng nó đem lại hiệu quả thật đáng ngạc nhiên đó là bèo lục bình. Muốn xử lý, mâu thuẫn phải tìm ra nguyên nhân mâu thuẫn, nước đó do đâu mà ô nhiễm, sau khi loại bỏ nguồn gây ô nhiễm thì thực hiện công cuộc cải thiện. Theo các nghiên cứu khoa học, bèo lục bình có khả năng lọc nước, phân giải rất nhiều các chất độc như kim loại nặng, khử các chất cyanua, phenol. “Thí nghiệm chứng tỏ rằng 1ha mặt nước thả bèo tây, trong 24 giờ nó hút được 34kg Na, 22kg Ca, 17 kg P, 4kg Mn, 2,1kg Phenol, 89g Hg, 104g Al, 297g kền, 321g Stronti,... Nó còn có khả năng hút và tích lũy kẽm rất mạnh. Thí nghiệm thả bèo tây trong một chậu nước bẩn chứa 10mg kẽm/1 lít, trong 38 ngày lượng kẽm tích lũy trong cơ thể nó cao hơn thực vật thông thường 133%.” (Thông số khoa học này được khai thác và trích dẫn tại Khoahoc.tv). Theo Blogtiengviet. Net của giáo sư Nguyễn Lân Dũng cũng chứng minh và khẳng định giá trị phân giải chất độc hại, cải thiện môi trường nước của loại thực vật này.
Căn cứ vào những điều trên chúng ta có thể thấy được rằng: “rẻ như bèo” nhưng thực ra không phải vậy. Tại những khu vực bị ô nhiễm nước có thể dùng nó cải tạo môi trường, thay đổi cảnh quan, khắc phục những bất lợi cho sức khỏe và vận thế của con người. Và một phương pháp bình thường giản dị, không mấy tốn kém tại những căn nhà, có đặc điểm như trên. Chân lý lớn lao thường là những điều giản dị. Khoa học phong thủy có những điều cần có sự uyên bác, minh mẫn thông tuệ, nắm được âm dương, ngũ hành, dịch lý, thiên thể, quá trình biến hóa sinh vượng…Thế nhưng có những điều vô cùng đơn giản, dễ hiểu, rất thiết thực với cuộc sống hiện tại. “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” (người nhân thích núi, người trí thích nước). Một cách đề xuất nho nhỏ như trên để cải thiện môi trường, hóa giải sát khí phong thủy, tuy nhỏ nhưng hiệu quả không chắc là nhỏ.
Hải Triều
Phòng tắm nên đặt ở hướng xấu, dữ, tránh đặt đè lên hướng lành.
Phong thủy phòng tắm đã trở thành một phần quan trọng trong phong thủy nhà ở hiện đại. Bản chất của không gian này là không sạch sẽ, vì vậy nếu đặt ở hướng lành sẽ ảnh hưởng không tốt tới các sao lành, vận may của đất ở. Ngược lại, công trình phụ đặt đè lên hướng dữ, lấy độc trị độc sẽ biến dữ thành lành.
Phòng tắm hợp phong thủy sẽ đem lại sức khỏe thậm chí vận may cho gia chủ
Vị trí khu phụ (nhà tắm, toilet) trong nhà và vị trí xí bệt (nơi đại tiện) trong khu phụ nên đặt ở các cung Hoạ Hại, Tuyệt Mệnh, Lục Sát, Ngũ Quỷ.
Trong trường hợp nhà đã xây, không thay đổi được vị trí nhà vệ sinh, có thể thay đổi vị trí của xí bệt tránh khỏi các hướng xấu kể trên. Dưới đây là một cẩm nang ngắn giúp bạn có thể xây một phòng tắm hay toilet hợp phong thuỷ hơn:
– Không nên đặt khu phụ ở trung tâm căn nhà
– Không nên cải tạo khu phụ thành phòng ngủ
– Vị trí đặt khu phụ nên ở chỗ khuất, tránh nhìn thẳng từ cửa vào
– Luôn duy trì khu phụ sạch sẽ và có không khí lưu thông
– Khu phụ không nên đặt gần khu vực thờ cúng
– Khu phụ tránh đặt gần bếp, vì Thủy khắc Hỏa
– Hướng bồn cầu không được cùng hướng nhà (cửa chính)
– Nếu nhà có hành lang dài, tuyệt đối không để khu phụ ở cuối hành lang mà nên để ở hai bên
– Không nên để khu phụ ở trong phòng ngủ, hay thẳng trên đầu phòng ngủ
– Nền khu phụ nên thấp hơn nền phòng ngủ, nếu không sẽ khiến phòng ngủ ẩm thấp, sinh các bệnh nội tiết
– Khu phụ không được làm hai cửa, nếu không tài lộc vào sẽ chảy đi hết
– Khu phụ không nên quá bé, gây tù hãm, thiếu sinh khí, cũng không nên quá to, tạo cảm giác bất an.
Lưu ý cuối cùng là khu phụ gồm nhà vệ sinh hay phòng tắm nên toạ hung, hướng cát, nghĩa là đặt ở cung xấu và hướng về hướng tốt. Điều này sẽ mang lại vượng phúc cho gia đình.
Đầu tháng kiêng ngày 3 và ngày 7.
Giữa tháng kiêng ngày 13 và 18.
Cuối tháng kiêng các ngày 22 và 27.
Bài thơ ngày “Tam nương”
Mồng ba, ngày bảy tránh xa
Mười ba, mười tám đến là không hay
Hai hai, hai bảy tiếp ngày
“Tam nương” tương sát họa tai khôn lường
Khởi công vạn sự bất thường
Làm nhà, cưới hỏi tuyệt đường cháu con
Chăn nuôi: gia súc hao mòn
Cửa nhà tan nát, vàng son phai mờ
Hao tài nếm cảnh bơ vơ
Đi sông đi biển bến bờ là đâu!
BỔ, phong, nhận chức thảm sầu,
Ra đi biền biệt buồn đau nhớ nhà.
Cùng xem những nhân cách cao quý của những vị quan thanh liêm trong lịch sử đã đối đãi với việc hối lộ như thế nào. Hối lộ không chỉ là một chủ đề “gây nhức nhối” trong xã hội ngày nay, “hối lộ” cũng từng là một hành vi đã có từ thời cổ xưa. Trong lịch sử có rất nhiều bậc quan lại, tướng lĩnh nhận thức rõ ràng được sự nguy hại của hành vi này và có những cách ứng xử đang để học tập.
Công Tôn Nghi là tể tướng thời chiến quốc Lỗ Mục Công. Ông đặc biệt thích ăn cá. Vì vậy, nhiều người khi đến tìm ông để bàn việc thường rất hay mang cá hối lộ đến theo. Nhưng họ đều bị Công Tôn Nghi một mực từ chối.
Một người học trò của ông không hiểu nên đã hỏi: “Thưa thầy! Thầy từ trước đến nay đặc biệt thích ăn cá, vậy tại sao thầy lại luôn cự tuyệt cá mà người khác mang tặng?”
Công Tôn Nghi đáp: “Ăn mấy con cá thì tất nhiên không có vấn đề gì. Nhưng nếu như ta nhận cá của người khác mang đến tặng thì tất sẽ phải nhân nhượng cho họ. Như thế là làm trái với luật pháp, sau cùng cũng sẽ bị cách chức tước vị. Đến lúc đó, ta còn muốn ăn cá thì thử hỏi những người này có còn mang cá đến tặng ta không? Bây giờ, ta không nhận cá của người khác thì tự mình vẫn có thể thường xuyên mua được cá về ăn. Chẳng phải thế sao?”
Công Tôn Nghi thèm cá mà lại không nhận cá, quả thực là rất sáng suốt! Nếu như người khác tặng cá mà lại không chối từ, thì hậu quả chắc chắn sẽ như lời ông nói, chẳng những tước vị của ông bị tước bỏ mà ngay cả cá cũng sẽ không có mà ăn.
Có một số người xưa đã thông qua lời nói khéo léo để chối từ việc người khác hối lộ mình. Trong “Tả truyện” có ghi chép lại rằng, vào năm Tống Tương Công 15, có một người đã nhận được miếng ngọc trắng không tì vết liền mang đến tặng cho đại phu Tử Hãn. Tử Hãn nói: “Miếng ngọc là bảo bối của ngươi, “không tham” là bảo bối của ta. Nếu như ta nhận bảo bối của ngươi thì hai ta đều bị mất bảo bối rồi. Ngươi hãy cầm đi đi!”
Vào ngày mừng thọ 60 tuổi của Bao Thanh Thiên, ông kiên quyết không nhận lễ vật mà bất kỳ ai mang đến tặng. Ông thật không ngờ người đầu tiên đến chúc mừng và tặng lễ vật hối lộ cho ông lại chính là Hoàng đế đương triều Tống Nhân Tông. Trên thiếp, Thái giám có ghi bốn câu có ý là:
“Đức cao vọng trọng nhất phẩm khanh
Ngày đêm vất vả giống Ngụy chinh
Hôm nay Hoàng Thượng đem lễ tặng
Cự lễ ngoài cửa lễ bất thông”.
Bao Thanh Thiên sau khi đọc bốn câu thơ xong, ông liền hồi đáp bằng bốn câu có ý là:
“Thiết diện vô tư lòng son trung
Làm quan tối kỵ nhắc tới công
Vất vả vốn là phần nội sự
Cự lễ vi khai mở liêm khiết phong”.
Bao Thanh Thiên đã dùng thơ để cự tuyệt lễ vật hối lộ, vừa thể hiện được sự liêm chính, khéo léo của mình lại nhận được sự khen ngợi của Hoàng Thượng cũng như sự kính trọng của quan tướng trong triều.
Vào năm vua Càn Long đời nhà Thanh, ở Hà Nam có vị tuần phủ Diệp Tồn Nhân, làm quan trong mấy thập kỷ đều giữ được đức tính thanh liêm. Thời điểm ông cáo lão về quê sinh sống, quan lại đã mang tiền đến tặng ông nhưng lại lên thuyền muộn hơn so với ông. Mãi tới lúc trăng đã sáng, ông đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền đi tới. Hóa ra là đám thuộc hạ đem lễ vật của những vị quan lại kia tới tặng ông làm quà cáo biệt. Diệp Tồn Nhân bèn lấy giấy bút ra và viết mấy câu thơ có ngụ ý: “Ánh trăng theo tiếng gió lúc nửa đêm, thuyền nhỏ đưa tiễn cố chậm chạp. Cảm quân tình trọng còn quân tặng, không sợ người biết sợ mình biết”. Viết xong mấy câu này, ông liền gửi họ và trả lại toàn bộ lễ vật không lấy một món nào.
Còn rất nhiều những câu chuyện kể về việc đối đãi với vấn đề “hối lộ” của các bậc quan lại, tướng lĩnh ngày xưa. Chúng ta có thể thấy rằng, họ đều dùng nhiều cách khác nhau để khéo léo khước từ những lễ vật đó.
Phương pháp của họ vừa bảo trì được nhân cách cao quý lại vừa làm hài lòng những người mang tặng. Sở dĩ họ có thể làm được điều này là nhờ có tầm nhìn xa trông rộng, thấu hiểu đạo lý cũng như lẽ “được, mất” trong cuộc đời.
P/S: việc hóa giải cho những bạn đã nên duyên vợ chồng thì có thể hóa giải bằng đường con cái, BOI.VN không đi sâu vào vấn đề này
Tuổi Bính Tý nam mạng đại kỵ kết hôn với nữ tuổi dưới đây:
1. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Đinh Sửu, Chồng vợ đồng 1 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
2. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Kỷ Mẹo(hay còn gọi là Kỷ Mão), Chồng lớn hơn vợ 3 tuổi ở đời với nhau phạm (Tuyệt Mạng)
3. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Quí Mùi, Chồng lớn hơn vợ 7 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
4. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Kỷ Sửu, Chồng lớn hơn vợ 13 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
5. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Tân Mẹo , Chồng lớn hơn vợ 15 tuổi ở đời với nhau phạm (Tuyệt Mạng)
6. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Tân Mùi, Vợ lớn hơn chồng 5 tuổi, ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
Tuổi Bính Tý nam mạng kỵ cưới vợ năm 17, 21, 23, 29, 33, 35, 41 tuổi. Gái tuổi này kỵ có chồng năm 15, 21, 26, 27, 33, 38, 39 tuổi.
Những năm tuổi trên đây kỵ kết hôn, luận việc hôn nhân không thành.
Tuổi này trai hay gái sinh nhằm tháng 1, tháng 7 Âm Lịch hay xảy việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày chót khó nên đôi.
XIN LƯU Ý
Tuổi Bính Tý nam mạng muốn biết mình sinh vào tháng nào thì tốt? Trai tuổi Bính Tý sanh tháng 1, 8, 2, 4, 9, 3 và tháng 12 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ.
Gái tuổi Ất Hợi sanh tháng 1, 4, 2 và tháng 5 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng.Còn sanh nhằm tháng 3 và tháng 6 số khắc con, khó sanh và khó nuôi.
Tuổi Bính Tý nên kết hôn với những tuổi dưới đây:
1. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI BÍNH TÝ(Chồng vợ đồng một tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý, vợ chồng làm ăn thường gặp cảnh tốn hao, phải trải qua nhiều phen thành bại rồi lâu sau mới dễ làm ăn, hào tài trung bình, hào con đa số, vật dụng trong nhà đủ dùng.
Tánh người vợ chân hay đi, lời nói hay thắc mắc, bản thân có tiểu tật, tánh lạt long, tay làm có tài cũng hay hao phá tài, số vợ chồng cũng thế, tánh tình vợ chồng cũng có phần hạp.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài hay luân chuyển.
2. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU DẦN
(Chồng lớn hơn vợ 2 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng có chút ít quyền tước để làm ăn, cầu lo hay nói việc chi đều thông suốt, hào tài ấm no, hào con trung bình, vật dụng trong nhà sắp đặt đủ no.
Tánh người vợ thông minh và kỹ lưỡng ăn nói với đời lanh lẹ, bản thân hay có tiểu bệnh, ý tình vợ chồng c ũng đặng hòa hạp, chung ở đặng c ảnh ấm êm.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng trung bình, không chi đáng kỵ
3. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU DẦN
(Chồng lớn hơn vợ 4 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, phải chịu cảnh thiếu nghèo, làm có tiền hay khiến điều hao tốn, hào tài đủ no, hào con đông đủ, vật dụng trong nhà khiếm dụng.
Tánh người vợ hay lo tính, khó tánh, có duyên vui vẻ, bản thân hay có bệnh nhỏ, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung sống với nhau cần năng chung đặng ấm no.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên bền chí và kiên cố.
4. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi TÂN TỴ
(Chồng lớn hơn vợ 5 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng như có phước hưởng giàu, còn thiểu phước thì đặng khá, trong ngoài sắp đặt đều yên thuận, hào tài tương vượng, hào con thiểu số, có số nuôi
con nuôi, vật dụng trong nhà sắp đặt có thứ tự.
Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, ý tình vợ chồng hòa hạp, ở với nhau làm ăn đặng tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, không chi đáng kỵ
5. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM NGỌ
(Chồng lớn hơn vợ 6 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, sống trong cảnh thiếu nghèo một thời gian, qua hạn làm ăn mớitốt, hào tài đủ dùng, hào con rất ít, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ rộng rãi, ưa trồng tỉa, trong mình có tiểu tật, số khó giữ tiền tài, số vợ chồng cũng thế, tánh ình vợ chồng hay xung khắc, tâm ý bất đồng, nên kiên nhẫn làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về tánh ý nên nhẫn nại, về hào
tài hay luân chuyển.
6. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi GIÁP THÂN
(Chồng lớn hơn vợ 8 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng làm ăn đặng thông suốt, ra đường ăn nói hay cầu lo việc chi thường có quí nhân giúp đỡ, hào tài ấm no, hào con thiểu số, có số nuôi con nuôi, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ lanh lẹ, chân hay đi, bản thân có tiểu tật, tay làm có tài cũng hay hao tài, số vợ chồng cũng thế, ý tình vợ chồng hòa thuận, chung sống làm ăn đặng ấm no.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng trung bình, nên kiên cố và chung
lo.
7. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi ẤT DẬU
(Chồng lớn hơn vợ 9 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ chồng đặng có danh giá hoặc có chức phận thêm tốt, nhiều người hay mến thương, hào tài ấm no, hào con đủ dùng, vật dụng trong nhà khiếm dụng.
Tánh người vợ hay rầu lo, không đặng vui vẻ cho lắm, tánh lanh lẹ, chân hay đi, trong mình có tiểu bệnh, tánh tình vợ chồng cũng có phần hòa hạp, nên thương lẫn chung lo làm ăn đặng.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, nên vui vẻ và chung lo với nhau.
Tinh duyên người tuổi Bính Tý với vợ lệch hơn 10 tuổi:
1. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi
(Chồng lớn h ơn vợ 10 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no qua ngày, hào con đa số.
Tánh người vợ hay đi nhiều, tánh sáng, hay lo tính, lời nói ít thua ai, tay làm có tài cũng hay hao tài, ý tình vợ chồng ít đặng hòa hạp, chung sống với nhau khá kiên cố mới đủ no.
2. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi ĐINH HỢI
(Chồng lớn hơn vợ 11 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con đa số.
Tánh người vợ có duyên, vui vẻ, hay hòa thuận với đời, bản thân có bệnh nhỏ, có số tạo giữ tiền, ở với nhau vợ chồng h òa thu ận, nên chung lo làm ăn tốt.
3. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI M ẬU T Ý
(Chồng lớn hơn vợ 14 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài ấm no, hào con đa số.
Tánh người vợ tánh sáng, vui vẻ có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, miệng hay rầy nói, ý tình vợ chồng hòa hạp, việc làm ăn đặng ấm êm.
4. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM THÌN
(Chồng lớn hơn vợ 16 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no qua ngày, hào con trung bình.
Tánh người vợ hay giao thiệp, tánh sáng, lanh lẹ, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa thuận, khá cần năng mới đủ no.
5. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI QU Í T Ỵ
(Chồng l ớn h ơn vợ 17 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số.
Tánh người vợ tánh sáng, vui vẻ, có duyên, hay giao thiệp, hay có tiểu bệnh, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung sống đồng lo làm ăn đặng nên.
6. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI GIÁP NGỌ
(Chồng lớn hơn vợ 18 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài bình thường, hào con trung bình.
Tánh người vợ chân hay đi nhiều, bôn ba, tánh sáng, lanh lẹ, lời nói hay thắc mắc, ý tình vợ chồng hay xung khắc, khá nhẫn nại làm ăn mới tốt.
7. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI ẤT H ỢI
(Vợ lớn hơn chồng 1 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng làm ăn buổi đầu bình thường đến sau mới tốt, trong ngoài sắp đặt yên thuận, hào tài ấm no, hào con thiểu số, vật dụng trong nhà sắp đặt đều đủ.
Tánh người vợ hiền, có duyên, tánh sáng, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, miệng hay rầy nói, tánh tình vợ chồng cũng đặng hòa hạp, ở với nhau làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, không chi đáng kỵ
8. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi GIÁP TUẤT
(Vợ lớn hơn chồng 2 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, thường gặp cảnh thiếu nghèo, qua hạn mới đậu t ài, hào tài đủ dùng, hào con trung bình, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ có duyên, vui vẻ, hay giao thiệp tình bạn, lòng hay lo tính, trong mình hay có bệnh nhỏ, ý tình vợ chồng hòa hạp, chung sống với nhau cần năng làm ăn đặng nên.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên cố làm ăn
đặng.
9. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi QUÍ D ẬU
(Vợ lớn hơn chồng 3 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ chồng đặng nhi ều người mến thương, có chức phận thêm tốt, hào tài trung bình, hào con đa số, vật dụng trong nhà sắp đặt v ẻ vang.
Tánh người vợ thông minh, có duyên, vui vẻ, có số tạo giữ tiền tài, tánh tình vợ chồng không đặng hòa hạp cho lắm, nên thương lẫn nhau làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, v ề tánh ý nên nhẫn nại.
ĐOÁN PHỤ THÊM
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM THÂN
(Vợ lớn hơn chồng 4 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài đủ dùng, hào con đông đủ.
Tánh người vợ lời tiếng nóng nảy, chân hay đi, hay giao thiệp, tánh lanh lẹ, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa hạp, việc làm ăn nên kiên cố mới đặng ấm no.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi CANH NGỌ
(Vợ lớn hơn chồng 6 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số.
Tánh người vợ ở với nhau làm ăn bôn ba, tánh cộc, chân hay đi, hay giao thiệp, hay lo tính, ý tình vợ chồng hay xung khắc, khá kiên nhẫn làm ăn mới đặng.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi KỶ TỴ
(Vợ lớn hơn chồng 7 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no, hào con thiểu số.
Tánh người vợ tánh hiền, thông minh, và kỹ lưỡng, chân hay đi, bản thân có tiểu tật, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung ở với nhau làm ăn mớinên nhà.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU THÌN
(Vợ lớn hơn chồng 8 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài đủ no qua ng ày, hào con đa số.
Tánh người vợ can đảm, tánh cộc, chân hay đi nhiều, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa hạp, phải cần năng chung lo làm ăn mới đủ no.
Thời Bắc thuộc, Thanh Hóa được gọi là Cửu Chân, sau này gọi là Ái Châu. Đến thời nhà Lý, Ái Châu mới được đổi tên thành phủ Thanh Hoa, tên gọi này tồn tại đến triều Nguyễn. Do kiêng tên húy của bà Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên Thanh Hoa được đổi gọi là Thanh Hóa.
Thanh Hóa là tỉnh lỵ của tứ sơn: Bỉm Sơn - Nghi Sơn - Sầm Sơn - Lam Sơn. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú viết: “Thanh Hoa… các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường…”.
Từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng - nhà Nguyễn - vào năm 1945, nhiều dòng họ vua, chúa đều khởi nguồn, phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra. Đặc biệt, đất Thanh Hóa đã sinh ra hai vị hoàng đế - anh hùng dân tộc: Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15.
Thanh Hóa là nơi phát tích của 4 triều đại phong kiến: Tiền Lê, Hậu Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn và hai dòng chúa là Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Theo Thánh Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện: “Ngũ tinh cách tú triều nguyên/Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn/Thổ tinh kết huyệt trung ương/Ấy đất sinh thánh, sinh vương đời đời. Địa danh Lam Sơn thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) có hai nơi “tụ khí tàng phong”, nguyên khí hun đúc, đảm bảo đủ các tiêu chí trên. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “Đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định dời nhà đến ở đấy”.
Tổ nhà Lê dời về đất Lam Sơn chỉ 3 năm đã tạo sản nghiệp lớn. Họ Lê làm trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi.
Cuốn sách đầu tiên đề cập đến ngôi đất phát dưới chân núi Lam Sơn chính là sách “Lam Sơn thực lục”. Sách ban đầu do Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sai soạn và tự viết lời tựa, trong đó có câu: “Trẫm gặp đời nhiều hoạn nạn, mở nước, dựng nền, càng thấy khó khăn! May mà Trời cho, dân theo, gây nên được công nghiệp, ấy thực là nhờ ở các bậc Tổ tông tích lũy mãi nhân đức, mà đi tới cả! Trẫm nghĩ về chuyện đó mãi bèn chép vào sách, gọi là Lam Sơn thực lục (Sách ghi chuyện thực núi Lam) cốt là để trọng nghĩa đầu gốc. Và cũng để kể rõ sự nghiệp gian nan của Trẫm, truyền bảo lại cho con cháu vậy”.
Theo sách "Lam Sơn thực lục”, nhà họ Lê còn được một nhân vật kỳ bí là nhà sư cho biết một huyệt đất phát vương ở động Chiêu Nghi, cũng thuộc vùng Lam Sơn. Lê Lợi sau đó đã quyết định đem di cốt của thân phụ mình chôn ở đó, nhờ vậy mà sau này mới phát tích, trở thành đế vương.
Long mạch đế vương ở Lam Sơn
“Lam Sơn thực lục” viết: “Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng: - Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn! Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng: - Sư già đã đi xa rồi.
Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ Lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thì thấy một cái thẻ tre, đề chữ, dịch nghĩa là: “Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới ... tiếc thay!”. Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng: - Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!
Nhà vua quỳ xuống thưa rằng: - Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho? Nhà sư nói: - Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.
Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy”.
Chuyện kể rằng mặc dù chôn di cốt vào ngôi đất phát đế vương ấy được Lê Lợi giữ bí mật nhưng giặc Minh vẫn biết được. Chúng đê hèn cho quân đến xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi đào lấy hài cốt linh xa cha của Lê Lợi mang về treo sau một chiếc thuyền đậu giữa dòng sông để dụ Lê Lợi ra hàng, hẹn rằng nếu đến quy thuận sẽ trọng thưởng và ban quan tước lớn.
Lê Lợi sai các thân thuộc của mình gồm 14 người đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt linh xa đem về cho chủ tướng, Lê Lợi bí mật đem chôn cất ở động Chiêu Nghi như cũ.
Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi. Tuy không liên tục, quyền bính có lúc bị ngắt quãng nhưng trước sau, xét về danh nghĩa nhà Hậu Lê là triều đại có nhiều đời vua nhất, truyền ngôi lâu dài nhất so với các triều đại trước và sau đó.
Bí ẩn vùng đất “Rồng không chân”
Các phù thủy phương Bắc nhận thấy hình thế đắc địa của vùng đất Thanh Hóa, lo sợ nơi đây sẽ xuất hiện những bậc đế vương làm thất bại tham vọng bá chủ của chúng nên đã trấn yểm, tìm mọi cách phá bỏ phong thủy xứ Thanh.
Dãy núi Đông Sơn - Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi đất, núi đá nhấp nhô như một bức tường thành hình con rồng đồ sộ. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa hình đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng (tên chữ Long Hạm). Ở đó có động Long Quang (mắt rồng). Thông ra phía sau động có một hang nhỏ là hang mắt Rồng. Trên vòm hang mắt Rồng có một lỗ ăn thông lên trên. Mỗi khi mưa, nước màu gạch cua chảy xuống, người xưa bảo đó là nước mắt rồng. Bên phải vòm hang có một mũi đá nhô ra gọi là đỉnh Long Tỵ (mũi rồng). Mạch đá ngoằn ngoèo chạy sát chân núi rồng rồi ăn ngầm xuống dòng sông Mã tới ngọn Châu Phong là bến Hàm Rồng.
Non nước Hàm Rồng dưới bàn tay xếp đặt của tạo hóa, đã tạo nên những hình thù kỳ dị, độc đáo và đa dạng, có người ví như một “Hạ Long trên bộ”. Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi con Voi...
Hàm Rồng được phát hiện như một cõi thần tiên từ lâu qua thư tịch cổ. Sách “Đại Nam nhất thống chí”của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi “A núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”. Dưới các triều đại phong kiến, Hàm Rồng bao giờ cũng là vị trí trọng yếu của xứ Thanh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập.
Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất “chu tước bi khốc” (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất “bạch hổ hàm thi” (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc “xương long vô túc”(rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Truyền thuyết cho rằng khi cưỡi diều giấy bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Cao Biền nói rằng địa thế này là hung địa “xương long vô túc”, không phải rồng không chân mà là con rồng què chân, không phải đất cực quý rồi bỏ đi. Nhưng thực tế không phải vậy. Sau đó, Cao Biền đã âm thầm quay trở lại, mang theo hài cốt cha y để táng vào huyệt Hàm Rồng (mả táng hàm rồng) mong sau này có thể phát đế vương. Song dù nhiều lần Cao Biền cho mả cha vào, bộ xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận. Biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý nên y rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương rồi tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh rào rào làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán hết. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu.
Cuộc chiến phong thủy “độc nhất vô nhị”
Theo mật lệnh của vua Đường, Cao Biền sau khi xem, phát hiện và trấn yểm các kiểu đất kết, đất phát, long mạch của nước Nam đã viết “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” tấu lên nhà vua. Cao Biền trấn yểm Thanh Hóa vào thế kỷ IX thất bại. Hơn 500 năm khi giặc Minh xâm lược nước ta, một phong thủy sư nổi danh của Trung Quốc là Hoàng Phúc cũng sai người đục núi, lấp sông để hòng trấn yểm các huyệt mạch đế vương, hình thành một cuộc chiến phong thủy có một không hai trong lịch sử nước Việt.
Hoàng Phúc xuất thân Tiến sĩ, mang chức Thượng Thư, giữ việc Bố chính và Án Sát trong chiến dịch cai trị đồng hóa Việt Nam. Trong 20 năm thuộc nhà Minh (vào khoảng 1407-1427), Hoàng Phúc bắt khắp nơi lập đền miếu thờ bách thần, thổ thần, sơn thần, thần sông, thần gió... bên cạnh văn miếu. Lập Tăng cương ty và Đạo kỳ ty để truyền bá đạo Phật và Lão cùng với đạo Nho...
Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”.
Hoàng Phúc khi sang đất Việt đã mang theo cuốn “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” để làm bản đồ nghiên cứu địa hình, địa vật nước ta. Thời xưa, sách địa lý là một tài liệu quân sự quan trọng, ghi rõ hình thể sông, núi, đồi, gò, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết... nên Hoàng Phúc đã tới những tới những linh địa mà Cao Biền ghi nhận. Hoàng Phúc đã xem xét và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại nhưng y cũng đã thất bại.
Bình luận về việc này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không?”.
Việc phá hủy long mạch tốt, huyệt đất hay của các phù thủy phương Bắc cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi xứ Thanh vẫn đời đời sinh nhân tài hào kiệt.
Nhiều vị vua ở các triều đại phong kiến của Việt Nam và Trung Quốc sau khi chết vẫn thường để lại một số mộ giả, còn mộ thật được chôn ở một nơi khác, kín đáo và bí mật. Từ lâu khu Vĩnh Lăng ở Thanh Hóa được xem là nơi yên nghỉ của vua Lê Thái Tổ. Thế nhưng phát hiện khảo cổ học cho thấy nơi đó chỉ là mộ giả. Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, một người nông dân đi vào khu rừng bạt ngàn cạnh Vĩnh Lăng đã vô tình tìm thấy một phiến đá phẳng. Lật hòn đá lên thấy có khắc dòng chữ “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”, nghĩa là:“Hòn đá mốc ở phía Tây của Vĩnh Lăng”. Lần theo cột đá mốc phía Tây, các nhà khảo cổ đã tìm được cột mốc các phía Đông, Nam, Bắc của khu lăng mộ nhà vua. Điều đặc biệt là riêng khu cột mốc phía Tây, nơi đặt phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt” đất có màu lạ, cây to không mọc được. Các nhà khảo cổ đã đào sâu xuống đất nơi đặt phiến đá. Thật bất ngờ, những nhát cuốc đã làm lộ ra một chiếc quách tam hợp. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu, các nhà khảo cổ học đã kết luận: Chiếc quách tam hợp tìm thấy chính là mộ thật của vua Lê Lợi. Lần giở lại lịch sử, mới hay, một học giả người Pháp sau khi bỏ nhiều thời gian và công sức, cuối cùng cũng đã tìm được mộ thật của vua Lê Lợi dưới phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”.
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.
Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.
Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.
Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:
Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh
Bình sinh tác sự quả thông minh
Chí cao khí đại vô nam nữ
Bất miễn hình phu lịch khổ tân
(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)
Thất Sát cô tinh Tham tú phùng
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí
Nữ mệnh đắc thử tính bất lương
Chi hảo cô phòng vi tì thiếp
(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)
Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm sảo dung
Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ
Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông
(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.
Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)
Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.
Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu
Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc
Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.
Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:
- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân
(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)
- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư
(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)
- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương
(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)
- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật
(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)
- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)
- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong
(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)
- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân
(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)
- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong
(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)
- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn
(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)
- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong
(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)
- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ
(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)
- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai
(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)
- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)
- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân
(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)
- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)
- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư
(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)
- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)
- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân
Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành
(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)
- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn
(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)
- Mấy người thủy ách, hỏa tai
Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham
(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)
- Dần Thân Sát Kị trùng gia
Thương chiêu đá mạ thật là gian truân
(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)
- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ
Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không
- Sát phùng Phù Hổ hay đâu
Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung
- Sát tinh chiếu ở cung Đoài
Vì người tham của Phật đài họa toa
(Câu này không rõ nghĩa lắm)
- Ngôi cao chức trọng công hầu
Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung
- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát
Tính cang kiên tài cán đảm đương
Được thêm Kỷ Ất sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen
- Sát Kình ở tại Ngọ cung
Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế
Bậc anh hùng địa vị thênh thênh
- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi
Sát Phá Tham lại hội Văn Xương
Ấy là góa bụa đáng thương
Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình
- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân
(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)
- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân
(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)
- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương
(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)
- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết
(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)
- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược
(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)
- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá
Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi
Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì
- Thìn Tuất Thất Sát xem qua
Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên