Trong các phần trước, bạn đọc dễ tìm thấy các nguyên lý và qui tắc về cách định cách cung Thân và Mệnh trong lá số Tử vi.
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo
Trong các phần trước, bạn đọc dễ tìm thấy các nguyên lý và qui tắc về cách định cách cung Thân và Mệnh trong lá số Tử vi. Trước khi sang phần luận đoán, xin tóm lược lại các điều nói trên để làm tiêu chí cho mọi phép đoán sau này.
Tóm lược:
1. Do sự phát triển tuần tự của bào thai theo nguyệt kỳ và nhật ký mà Giờ Sanh là một yếu tố quan trọng để xác định vận số.
2. Cung Thân là phương vị qui chiếu trong vũ trụ hữu hình, giúp ta định rõ Ảnh hưởng của vũ trụ hình vào số mệnh con người.
3. Cung Mệnh là vị trí qui chiếu trong thế giới siêu hình giúp ta định rõ phương cách ảnh hưởng của vũ trụ siêu hình và số mệnh.
Nhờ các lý thuyết được trình bày ở trên đây, chúng ta sẽ phân định ảnh hưởng của các chính tinh vào các phi tinh đối với Thân và Mệnh trong khi luận đoán số Tử Vi. Để bạn đọc có thể theo dõi đầy đủ mọi khía cạnh cuả phép đoán Thân và Mệnh, chúng tôi tuần tự trình bày thành ba mục, vừa là ba phép đoán theo ba quan niệm khác nhau, vừa là ba giai đoạn tiệm tiến từ chi tiết đến tổng quát.
A. Luận đoán riếng biệt các phần Thân và Mệnh
Dựa theo phần số 2 tóm lược lý thuyết, cung Thân là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu các ảnh hưởng cảm ứng của Vũ trụ vô hình. Thế cho nên ta dùng cung Thân để luận định về vóc dáng, sức khỏe, bệnh khí và tánh tình con người.
Theo kinh nghiệm và cũng theo yếu quyết tính vận căn bản của của môn phái Vô cực. Thêm chịu ảnh hưởng cảm ứng của hệ thống Thái Tuế là hậu thiên khí vận tuần hoàn và của hệ thống chính tinh: Tử vi, Liêm Trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ (các trường hợp ngoại lệ sẽ được nói đến trong các bài khảo luận về tinh vận)
Tử vi ảnh hưởng trực tiếp vào Thân thì người ta sẽ có sắc da xám đen hay tía.Nếu lại nhị hợp với Thiên cơ thì mặt xanh, uống rượu không say và tính tình thâm trầm sâu sắc.
Liêm Trinh thủ Thân thì tính khắc khỏ và chịu đựng, lại dễ thành ngoan cố và cương nghị nhưng dễ bị câu thúc thân thể hoặc tù đày.
Thiên Đồng đóng ở cung Thân thì được khỏe mạnh, sắc mặt trẻ trung, nếu lại nhị hợp với Vũ Khúc thì sanh ra đã có nốt ruồi kín, thích mạo hiểm, chân tay khéo léo.
Vũ Khúc thủ thân thì có nhiều nốt ruồi, dễ mắc bệnh nan y (ung thư) tính tình vui vẻ, ham đỏ đen, thích nghệ thuật.
Thái Dương đóng ở cung Thân thì rất mạnh khỏe nhưng dễ có bệnh do vượng khí gây ra như mờ mắt, nhức đầu suốt đời khó chũa. Tính tình nóng nảy, uống rượu dễ say.
Thiên Cơ tọa thủ cung Thân dễ bị bệnh phong, rất linh mẫn, sớm hiểu đời, ưa tính toán lợi hại.
Ngoài các chính tinh này, còn có bộ Thái Tuế là vòng hậu thiên khí vận ảnh hưởng vào Thân rất mạnh mẽ.
Khác với cung Thân, cung Mệnh là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu ảnh hưởng cảm ứng của vũ trụ siêu hình. Cho nên người ta căn cứ vào cung Mệnh để đoán về tâm hồn, tình cảm, tài nghệ, học nghiệp và sự thành tựu công danh.
Cung Mệnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các Bộ Chính Tinh: Tử Vi, Thiên Phủ, bộ Lộc Tồn và hầu hết các phi tinh khác. Bạn đọc có thể tìm thấy dễ dàng trong bất kỳ tại liệu nào về Tử Vi những phép luận đoán riêng cho cung Mệnh.
B. Luận đoán tương đối Thân và Mệnh
Một khi đã xét qua Thân và Mệnh riêng biệt thì người ta có thể xét sự liên hệ tương đối của Thân và Mệnh. Phần trình bày sau đây sẽ giúp bạn đọc theo dõi phép toán tương đối (Không quan trọng).
1. Người nào sinh nhằm giờ Tí và Ngọ hoặc Mão và Dậu ắt phải có Thân cư Mệnh, hoặc Thân cư Thiên Di. Đa số những người này đều lập sự nghiệp nhờ thời vận và mệnh vận. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC THỜI VẬN
2. Những người nào sanh nhằm các giờ Thìn, Tuất và Sửu, Mùi ắt phải có Thân cư Phúc Đức và Thân cư Tài Bạch. Đa số được tạo tựu công danh nhờ phúc ấm mồ mả tổ tiên. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC PHÚC VẬN
3. Những người nào sanh nhằm vào các giờ Dần, Thân và Tị, Hợi ắt phải có Thân cư Quan Lộc và Thân cư Thê Thiếp (hoặc Phu Quân). Đa số những người này được tạo tự sự nghiệp nhờ vào Tài Trí và học thuật hay nghề nghiệp. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC NGHIỆP VẬN.
ĐẮC PHÚC VẬN thì được biền bỉ lâu dài, được xem là tốt hơn cả. ĐẮC THỜI VẬN thì được nhanh chóng nhưng chỉ thích ứng cho thời vận đột biến mà thôi. ĐẮC NGHIỆP VẬN thì phải bôn ba, thăng trầm, lao tâm khổ trí mới tạo được sự nghiệp.
C. Phép luận đoán chú trọng một phần
Các phần luận đoán trên, riêng biệt Thân và Mệnh, chỉ được xem là căn bản khởi đầu mà thôi. Vì lẽ rằng cách luận giải riêng biệt ấy sẽ không đưa tới một kết luận đơn thuần cho số mệnh của một người. Bởi thế, ta cần phải biết lựa chọn một phần Thân hoặc Mệnh mà thôi để đạt đến kết thúc của việc đoán số Tử Vi.
Muốn được như thế, cần phải lý giải vấn đề theo một quan điểm rõ rệt. Ở đây soạn giả đưa ra cách giải quyết vấn đề theo quan điểm của Giải lý Thái Cực Tuần Hoàn. Điều này đã được trình bày đại cương và tổng quát trong bài trước, số mệnh của một tập thể dự phần quyết định trong số mệnh của cá nhân. Chính vì lẽ này mà khoa đoán số Tử Vi cần phải được tham bác với khoa xem Tướng, xem Tượng (điềm-tượng), Địa lý và Dương cơ, Âm phần, thì sự giải đoán mới hợp lý và hiệu nghiệm tốt đẹp. Các khoa này được coi như là bổ túc cho khoa Tử Vi, Khí Vận, nhờ các phép chiêm đoán điềm triệu này ta mới có thể nhận định sự tốt xấu của vận mệnh chung của một tập thể. Giả thuyết rằng điều này đã được nghiệm biết xong, ta hãy xét đến phần phải chú trọng: Thân hay Mệnh.
Có tất cả bốn trường hợp mà ta phải xem xét đến để lần lượt trình bày sau đây.
Trường hợp 1: Thân và Mệnh sáng
Trong trường hợp này, lý đoán chung là tốt đẹp. Nhưng vẫn còn nhiều điểm phải cửu xét đến, vì lẽ theo đạo lý Vô Toàn (thiên đạo học) mặc dù Thân và Mệnh đều được tốt đẹp và sáng sủa, con người vẫn không thể được hoàn hảo về mọi bề. Vậy chúng ta phải căn cứ vào đâu để đoán quyết sự bất toàn. Để đáp ứng, sau đây là phép nghiệm đoán theo lý thuyết của Thái Cực Môn.
Trường hợp Thân và Mệnh đều sáng tốt, nếu sự nghiệm xét các điềm tượng cho thấy rằng cái tập thể của cá nhân này đang diễn tiến trên một ‘Thái Cực tiến trình’ thì chính sự phát khởi tốt đẹp của Mệnh vị mới bao gồm được các vẻ sáng chói của Thái Cực tiến trình vậy. Còn lại những nét bất toàn phần lớn sẽ ảnh hưởng vào Thân. Đây là trường hợp đã xảy ra cho các vị Nguyên thủ quốc gia, các tay kiệt xuất của nhân quần, tuy công danh được hiển phát tột bực và Thân Mệnh đều sáng tốt, thế mà tóc phải sớm bạc, lại thường mang các tâm bệnh hoặc các chứng nan y (như bệnh tim, ung thư v.v.v)
Có người thì đoản thọ, mà phải chết dự như bị tai nạn thảm khốc hoặc bị ám sát.
Đó chính là bất toàn đạo đã hãm vào Thân vậy. Kết luận cho trường hợp này: ‘Mệnh toàn, Thân bất toàn’.
Trường hợp ngược lại, Thân Mệnh đều sáng tốt nhưng lại gặp phải đại vận hạn của tập thể quán ám như trong hồi Thái cực toàn qui hay Thái Cực Thoái trào. Ở đây Mệnh tốt mà trở thành không tốt vì các nét sáng của cung Mệnh thật là không phương pháp hay đến tột đỉnh, ta thường gọi là ‘Sinh bất phùng thời’. Trong trường hợp này ta có thể luận rằng ‘Mệnh bất như Thân và cá nhân này tuy không được tột bậc hiển vinh, nhưng cũng được một đời phong lưu phúc thọ nhờ Thân vậy’
Trường hợp 2: Mệnh sáng mà Thân xấu
Cũng theo thuyết lý của Thái Cực tuần hoàn, người ta chiêm nghiệm vận mệnh của tập thể trước khi luận đoán số hạn cho cá nhân.
Nếu tập thể đang ở trong Thái Cực tiến trình mà tính tượng của cá nhân cũng đang trong lúc doanh phong (khí tượng đang đầy) thì chắc chắn phải được hưởng mọi điều tốt đẹp của cung Mệnh. Chẳng những thế, theo đạo lý Vô Nhất, không phải chỉ một mình Mệnh vận tốt đẹp mà thôi, chính Thân cũng được hưởng cái doanh khí của Mệnh vậy.
Đối với trường hợp này, thể tất cung Mệnh là quan hệ nhất, hiển nhiên là ‘Thân dữ Mệnh đồng’ hay Thân phải theo Mệnh vậy.
Trái lại Mệnh sáng mà Thân xấu lại gặp hồi Thái cực thoái trào hay quốc gia dân tộc đến hồi mạt vận, dù ảnh hưởng của Mệnh có tạo nên một lúc hanh thông, thì cộng nghiệp cũng như tang hải phù vân, bể dâu mây nổi mà thôi.Chẳng những thế đạo lý Vô nhất còn được quyết đoán rằng: Thân xấu lại còn kéo theo Mệnh xấu. Bởi vậy, ta kết luận cho trường hợp này là ‘Thân át phù vân chi Mệnh’.
Trường hợp 3: Mệnh xấu mà Thân tốt
Nếu gặp được vận hạn của tập thể quốc gia dân tộc đến hồi tốt đẹp hay chuyển vận trên một tiến trình, thì ít ra Thân tốt cũng giúp cho cá nhân qua được những cơn Bĩ Cực để còn toàn tiết mà hưởng được hồi Thái Lai. Đây là nhờ Thân tốt mà mệnh cũng tốt theo, vì vậy ta chú trọng đến Thân hơn Mệnh. Phần lớn cách này, hậu vận chẳng bao giờ xấu.
Cũng trong trường hợp này, nếu tập thể đang đến hồi suy bại, thoái hóa,thì cho Thân có tốt đẹp đến đâu cũng không kéo được Mệnh vận. Như thế Mệnh được xem là qua trọng vậy.
Trường hợp 4: Mệnh xấu Thân cũng xấu
Khi gặp trường hợp này, đa số người luận đoán số Tử Vi thường cho rằng, Mệnh vận cố cùng, chỉ còn tìm lời an ủi cho số phận (của thân chủ).
Thật ra đạo trời không đóng cửa đối với một ai bao giờ, đạo Vô Cùng sẽ mở cửa khác vậy.
Khi gặp vận hạn của thập thể đang hồi sáng sủa tốt đẹp thì Mệnh vận của cá nhân dù có xấu đên đâu vẫn chẳng bao giờ đến chỗ cố cùng. Chúng ta hẳn đồng ý rằng ở tại các nước mà mệnh vận đang tốt đẹp, dân tộc phú cường thì chẳng có ai là đến mức cố cùng, hạng người thấp kém nhất trong xã hôi ấy hẳn là ‘chẳng được phú quí nhưng vẫn được một đời sống bình ổn và dễ thở. Lúc bấy giờ người ta chỉ còn lo ngại cho ‘Thân bất thương toàn’ mà thôi. Nói như vậy trong trường hợp này cung THÂN ĐÁNG ĐƯỢC CHÚ TRỌNG hơn cả.
Cũng thuộc vào trường hợp này, Thân Mệnh cố cùng nếu lại gặp hồi mạt vận của tập thể đang trên đà tán vong thì quả thật là Thân không còn phương giải cứu. Tuy nhiên đất trời dễ có đạo Vô Cùng mà cũng có dành sẵn một con đường, ít nhất là một con đường giải phóng cho mệnh vận.Trong trường hợp này, chúng ta PHẢI CHÚ TRỌNG ĐẾN CUNG MỆNH, những cách cứu giải của phi tinh hội chiếu cho cung này: đặc biệt nhất là phép CỨU GIẢI của THÁI CỰC ở trung đạo tứ môn.
Đến đây là kết thúc phần luận đoán về Thân Mệnh, mà trong khuôn khổ của bài này, soạn giả chú trọng đến thuyết ý và phương pháp nhiều hơn là chi tiết luận giải theo tinh vận.
Tổng kết: Đạo lý và khoa học số mệnh
Cùng bạn đọc thân mến, chắc quí vị cũng đã nhận thấy, qua các phần trình bày trên đây, rằng chúng tôi đã trình tự các phép luận về Thân mệnh mặc dù phải gò bó trong khuôn khổ hình thức, vẫn luôn luôn không rời xa đạo lý, nhất là Thiên đạo. Chúng tôi tự xét thấy có trách vụ phải bàn thêm về điều này.
Khoa đoán số mệnh phải được xây dựng trên căn bản lý thuyết mà chủ yếu là:
Con người có số mệnh tiền định có nghĩa là phải tuân theo luật định của thiên nhiên. Như thế tìm hiểu được các định luật của thiên nhiên (tạo hóa, đất trời, vạn vật) người ta có thể biết được số mệnh. Đây hẳn là tiền đồ của khoa học về số mệnh, nếu có thể gọi là khoa học. Hơn nữa dù thế nào thì khoa học cũng không thể xa rời đạo lý nếu không muốn nói rằng số bắt nguồn từ đạo lý. Ngoài ra, trở lại lý thuyết tiền định, nếu ta quan niệm một cách cứng nhắc, thì số mệnh của con người là bất di bất dịch, không thay đổi được vậy chẳng hóa ra mọi cố gắng của con người hướng đến Chân lý đều là vô ích cả hay sao?
Câu trả lời là : không. Vì lẽ Thiên đạo vốn là vô thường và vô duy, vô nhất thì số mệnh của mọi vật cũng không phải là không thể đổi thay. Tuy nhiên, việc dời đổi số mệnh không phải dễ dàng. Cần phải biết đến học thuật của đaọ, dồng hóa được ĐẠO VỚI TÂM thì mới hiểu được là DI TÂM DỊCH MỆNH. Nói cách khác thiên đạo vẫn luôn luôn dành sẵn một CÁNH CỬA TỰ DO, và CÁI TÂM là có thể thoát ra ngoài lẽ thường. TÂM chính là chìa khóa để mở cánh cửa này.
Một khi con người biết DI TÂM KHỞI NGHIỆP thì tâm nghiệp TÙY DUYÊN MÀ TẠO PHÚC và cảm ứng vào số mệnh. Tâm đạo là cánh cửa tự do trong Thiên đạo vậy.
Để kết luận cho bài này, chúng tôi kính mời bạn đọc cùng thưởng thức hai câu tiêu đề của đạo gia học thuật:
‘Thân mệnh tổng giai hư
Duy Tâm chân tự tại’
trích ( KHHB 13 )
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)