Tướng người cổ dài –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Biệt danh |
Thiên việt | Nam Đẩu (trợ tinh) | Âm hỏa | Âm quý | Sinh ban đêm quý | Ngọc đường quý nhân |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Việt là âm thủy, là trợ tinh thứ hai trong chòm sao Nam Đẩu, hóa khí là âm quý, tức người sinh vào năm âm hoặc sinh ban đêm sẽ có quý khí, còn gọi là Ngọc Đường Qúy Nhân.
Sao Thiên Việt cũng là một trong lục cát tinh, tương tự như sao Thiên Khôi, cũng là một sao quý nhân, quý nhân ở đây không phải là người hiển quý, mà là những người có thể giúp đỡ, chỉ bảo người khác trong những thời điểm thích hợp.
Cũng tương tự như sao Hữu Bật, sao Thiên Việt cũng có tính đào hoa, nên thường gặp những quý nhân khác giới, hơn nữa, thường nảy sinh tình cảm với vị quý nhân này. Qúy nhân của sao Thiên Việt phù trợ cũng phần nhiều rất tự nhiên không lộ rõ, gián tiếp, bất ngờ và ngầm ẩn.
Bất kể sao nào gặp sao Thiên Việt, chỉ cần không gặp thêm sát tinh, đều thường được quý nhân giúp đỡ, mọi việc đều hết sức thuận lợi. Nhưng sau năm 40 tuổi, sao Thiên Việt dần dần mất đi sức mạnh của quý nhân, ngược lại còn dễ dẫn đến trở ngại và phiền toái. Nếu lại đồng cung với sao Hồng Loan thì thường biến thành đào hoa hồ đồ, phần nhiều trong lúc thiếu tỉnh táo để xảy những rắc rối về tình cảm với người khác giới. Chỉ có những chính tinh cấp 1 miếu vượng hoặc cát tinh có lực mới có thể thức tỉnh được đào hoa hồ đồ.
Đây là điển cố thứ Mười ba trong quẻ Quan Âm, mang tên La Thông Bái Sư (còn gọi là La Thông Nhận Thầy). Quẻ Quan Âm La Thông Bái Sư có bắt nguồn như sau:
Trong chính sử nhà Tùy, Đường, không nhắc đến La Thành và La Thông, họ chỉ là những nhân vật trong tiểu thuyết, tuồng kịch. Tích truyện “La Thông bái sư” có nguồn gốc từ tiếu thuyết chương hồi “La Thông tảo bắc”.
Khi Đường Thái Tông bị vây khốn ở cửa ải Mộc Dương, đã sai Trình Giảo Kim quay về điều động quân cứu vỉện, cho các công tử tập ấm các phủ thi thố ở võ trường đế giành chức nguyên soái, đem quân đi cứu giải.
La Thông là con trai của La Thành, mới mười bảy tuổi, là một bậc anh hùng, La Thông thấy Tần Hoài Ngọc đánh thắng Tô Lân, đang định giành ấn tướng soái, liền gọi lớn: “Này anh họ Tần, hãy để lại chức nguyên soái cho tiểu đệ đi!”
Tần Hoài Ngọc cười nói: “Người anh em, anh đây nhiều tuổi hơn nên làm nguyên soái; ngươi còn trẻ tuổi thì hiếu cái gì?”
La Thông nói: “Này anh, người anh em này tuy tuổi còn trẻ, nhưng thuật đánh thương lại tài giỏi hơn anh, còn như điểm ba quân, phân đội ngũ, nắm binh quyền, phép dùng binh, người anh em này đều thông thạo, đương nhiên là có thể làm nguyên soái!
Tần Hoài Ngọc bèn nói: “Đừng nói nhiều nữa, hãy phi ngựa qua đây, đấu võ với ta, nếu thắng được chiếc thương của ta, ta sẽ nhường cho ngươi!”
La Thông nâng cây thương Mai Hoa lên, lao thẳng về phía Tần Hoài Ngọc, Tần Hoài Ngọc vội đưa thương đỡ lại. Hai người đấu với nhau suốt bốn hiệp, thương pháp của Tãn Hoài Ngọc tuy tinh thâm, nhưng cuối cùng vẫn kém họ La mấy phần, chỉ còn cách nói lớn: “Người anh em, ta xin nhường cho ngươi!” La Thông vui vẻ nói lớn: “Các anh em, còn ai không phục hãy đến đây tỉ thí. Nếu không có ai bước ra, tiểu đệ sẽ lấy ấn nguyên soái.”
Nói mấy lần không thấy ai đáp lại. La Thông bèn tiến lên nói lớn: “Lão bá phụ, cháu muổn mang ấn nguyên soái.”
Ông lão bèn lệnh cho gia tướng đem áo mũ đến chỉnh trang cho La Thông, treo ấn nguyên ngóài ngay tại chỗ. Thái tử Lý Trị đích thân mời ba chén rượu, nói rằng: “Chúc ngự đệ thống tĩnh quân đội ra đi, trên đường đánh đâu thắng đấy, mã đáo thành công, cứu được phụ vương trở về, nếu thắng lợi khải hoàn, ngự đệ sẽ có công lao rất lớn.” La Thông tạ ơn vâng lệnh.
La Thông nhận chức nguyên soái, dẫn quân về phía bắc cứu giá. Quân đội đến cửa ải Bạch Ngân thì gặp trở ngại, may nhờ có âm hồn của ông nội là La Nghệ và cha là La Thành giúp đỡ, mới có thể thắng địch qua được cửa ải. Tiếp đó, khi tấn công sông Kim Linh, thua trận bị truy kích, nhờ có người em trai La Nhân đuối kịp, giết được Phiên tướng. La Nhân giao chiến với công chúa Đậu Nùng, bị công chúa dùng phi kiếm giết chết. La Thông trả thù cho em, nhưng bại trận. Công chúa yêu thích tài mạo của La Thông, ép La Thông kết hôn giữa trận tiền. La Thông không chịu, vì thế công chúa nghĩ cách nhờ Trình Giảo Kim làm mối. Trình Giảo Kim vì muốn hai nước hòa hảo, chấm dứt chiến tranh, nên hết sức tác thành, La Thông vì oán hận chưa tan, nhất quyết không nghe theo. Sau đó La Thông gặp Tô Định Phương đi tuần thành, giở đủ mọi thủ đoạn, La Thông đánh giết khắp bốn cửa, kiệt sức bị vây, may được công chúa cứu sống.
La Thông vào thành gặp vua, tấu với vua về nỗi oan của cha mình, Đường Thái Tông bèn xử tử Tô Định Phương. Trình Giảo Kim tấu về việc kết hôn ờ trận tiền của La Thông, Đường Thái Tông sal ông đến doanh trại quân Phiên làm mối. Trong đêm động phòng, La Thông khiến cho công chúa Đậu Nùng nhục nhã mà tự vẫn. Đường Thái Tông rất giận dữ, hạ chỉ không cho La Thông được lấy vợ nữa, lại đem công chúa Đậu Nùng chôn cất dưới chân núi Kỳ Lân. Sau đó, do Trình Giảo Kim không nhẫn tâm ngồi nhìn nhà họ La tuyệt hậu, bèn cầu xin Đường Thái Tông, đem người con gái ngốc nghếch của sử Đại Nại gả cho La Thông.
Đường Thái Tông nghĩ đến La Thông từng lập công lớn, nên cũng đồng ý. Ngày đón dâu, khi kiệu hoa đi qua trước phần mộ của công chúa Đậu Nùng dưới chân núi Kỳ Lân, âm hồn của công chúa Đậu Nùng nhờ sự giúp đỡ của Diêm Vương đã được gửi vào thân thể người con gái họ sử, khiến cho cô gái đó có được dung mạo và trí tuệ của Đậu Nùng khi còn sống. Khi kiệu hoa tiến vào La phủ, nhà họ La đang buôn phiền vì cưới phải một cô gái ngốc nghếch, không ngờ người bước xuống kiệu hoa lại là một tân nương giống y như công chúa Đậu Nùng. Gia đình họ La thấy vậy, ai ai cũng vui mừng, Trình Giảo Kim cũng mừng vui khôn xiết.
Câu hỏi:
Đầu năm mới đi chùa, bạn cầu mong mọi sự như ý trong năm Ất Mùi. Nếu rút một quẻ đại cát đại lợi và treo nó lên một cây ở chùa, bạn sẽ chọn cây nào?
A. Cây vừa tầm với.
B. Cây thấp.
C. Cây càng cao càng tốt.
Đáp án:
A | B | C |
Mr. Bull (theo MGSP)
Những kiêng kị khi đặt bàn thờ
Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ. Do đó, khi đặt bàn thờ, bạn phải tránh các điều kiêng kỵ sau:
Bàn thờ đặt ở nơi thanh tịnh và tôn nghiêm
- Không đặt bàn thờ sát nhà tắm. Bởi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm.
- Không đặt bàn thờ ở lối đi lại. Nếu đặt ở lối đi lại ồn ào sẽ làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ cúng. Như vậy, gia đình sẽ ít có may mắn và tài lộc.
- Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ:hướng Đông Bắc, hướng Tây Nam. (Không đặt bàn thờ hướng Đông Bắc nhìn Tây Nam hoặc ngược lại).
- Không đặt bàn thờ ở hướng Đông, Đông Nam nhìn hướng Tây.
- Không đặt bàn thờ trên nóc tủ.
- Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ.
- Bàn thờ Thần và Phật có thể để chung, song không nên để bát hương sát nhau.
- Bàn thờ tổ tiên không nên đặt ở trung tâm nhà, vì sợ hung. Thay vào đó, bàn thờ Phật có thể đặt ở trung tâm nhà.
- Bàn thờ tổ tiên và bàn thờ Phật không nên đặt đối nhau trong 1 gian phòng.
- Không nên treo ảnh người quá cố cao hơn bàn thờ
Bàn thờ phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp nhang. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bàn thờ hướng trực tiếp ra cửa chính. Tượng thần thánh hoặc vật thể thiêng liêng phải đặt trên bàn kệ cao. Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
Vị trí lập phòng thờ - tủ thờ hợp phong thủy
Từ tâm thức đến cách thức bài trí nhà cửa, người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng luôn đặt nơi thờ cúng tại vị trí trang trọng nhất.Trong nhà ở dân gian, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách, là một xếp đặt quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống vốn có hàng hiên và sân vườn bao bọc chung quanh.
Trong phong thủy, bàn thờ cần phải "tọa cát hướng cát" tức là nằm ở vị trí tốt và nhìn ra hướng tốt so với tuổi của gia chủ. Phía sau bàn thờ cần phải là tường vững chãi, không được dựa vào tường kính hoặc cửa sổ... Việc đặt bàn thờ đối diện cửa ra vào nếu thỏa mãn về phương vị và hướng thì là một cách bố trí tốt về phong thủy.
Trong giải pháp thiết kế kiến trúc dành cho những căn nhà phố hiện nay, kiến trúc sư thường bố trí bàn thờ đặt trong một phòng riêng, tầng trên cùng của ngôi nhà (tầng trên cùng thường là tầng thượng - tầng tum gồm: phòng thờ, phòng giặt + sân phơi). Vị trí này không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng… mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.
Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, phía trên bàn thờ là nóc nhà và bầu trời, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên… để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên.
Đối với bàn thờ thần tài và ông địa, nên đặt ngay tại lối vào chính và ở dưới đất vì việc thắp nhang, nhất là nhang thơm, có tác dụng xua đuổi không khí ẩm ướt, côn trùng vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối (là khoảng thời gian chuyển tiếp Âm Dương, ánh sáng nhá nhem, vi khuẩn nhiều và độ ẩm tăng), đồng thời theo tín ngưỡng dân gian thì làm như như vậy sẽ “nghinh tiếp thần tài” được trực tiếp hơn.
Bàn thờ Thiên hầu như để lộ thiên hoàn toàn, có thể đơn giản là một bệ đá, đến cầu kỳ hơn là một trang thờ có mái. Sân thượng hoặc ban công trước là nơi phù hợp đặt bàn Thiên, cũng là một điểm thắp nhang để xua đuổi âm khí, tạo thêm nét ấm áp cho sinh hoạt trong ngôi nhà Việt.
Thiết kế tủ thờ - bàn thờ phù hợp
Trong phòng thờ, hệ thống tủ - bàn thờ phải có quy mô và hình thức tương xứng để tạo nên sự trang nghiêm cho không gian đặc biệt này.
Kích thước tủ thờ không nên quá to gây cảm giác hoành tráng nhưng cũng không nên “lọt thỏm”, nhỏ bé trong phòng. Nếu bàn thờ được đặt tại các không gian khác như phòng sinh hoạt chung, phòng khách… thì tủ thờ cần được thiết kế phù hợp về tỉ lệ với kích thước phòng và tương quan với các đồ nội thất khác.
Một góc thờ cúng trang trọng mang hơi hướng truyền thống
Ở những không gian này, tủ, bàn thờ nên được thiết kế đơn giản, tránh cầu kỳ lạc lõng hay gây cảm giác nặng nề e sợ. Bàn thờ phải tạo được sự tôn nghiêm nhưng vẫn phải mang lại cảm giác gần gũi với các thành viên trong gia đình và các sinh hoạt chung khác.
Vật liệu và màu sắc của tủ - bàn thờ cúng cũng phải phù hợp, nên sử dụng các màu trầm, tổt nhất là màu gỗ nâu sậm. Các chi tiết kiến trúc - nội thất (lát sàn, trần, chiếu sáng…), các vật dụng, đồ thờ (bát nhang, đèn nến, lọ hoa…) nên bày theo lối cân đối.
Ở các căn hộ chung cư, trong trường hợp tủ thờ để ở phòng chức năng nào đó hay không gian chung, thì có thể dùng hình thức tủ thờ kết hợp với tủ trang trí, tủ ngăn phòng, tủ bày đồ lưu niệm…
Một số điều cần lưu ý trong phong thủy phòng thờ
Khi thiết kế hay bài trí, sắp đặt cho không gian thờ cúng bạn phải lưu ý tránh đặt bàn thờ gần luồng hút gió mạnh, gây “động” và có thể thổi tàn lửa nhang ra chỗ khác gây cháy. Mặt bàn thờ nên đặt một tấm kính để đảm bảo an toàn tránh lửa bén. Tuyệt đối không được đặt bàn thờ bên dưới phòng vệ sinh, phòng trẻ em chơi đùa… làm giảm tính tôn nghiêm.
Không gian đặt bàn thờ phải đủ thông thoáng. Không nên đặt bàn thờ cao quá gây khó khăn cho việc thờ cúng, cũng không nên đặt thấp quá thiếu trang nghiêm. Trong các trường hợp bàn thờ treo hay tủ thờ cao, phải đảm bảo khoảng cách tới trần không quá gần, tránh quẩn khói và gây ám vàng trần. Để khắc phục trường hợp này, bạn có thể gắn một tấm kính phía trên trần.
Ánh sáng trong phòng thờ và trên bàn thờ không nên sử dụng ánh sáng trắng mà nên sử dụng ánh sáng vàng, có cảm giác ấm cúng; nguồn sáng gián tiếp, tránh gây chói. Bạn có thể dùng đèn hắt tường, những bóng đèn nhót, đèn thờ… Bố trí chiếu sáng nên đăng đối theo 2 bên bàn thờ; kiểu dáng, chất liệu của đèn cũng cần phù hợp với tủ thờ và không gian chung, tránh quá màu mè, lòe loẹt…
(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Xã hội hiện đại, nhịp sống bận rộn khiến con người rất khó dừng lại để xem xét về tình trạng sức khỏe của mình. Như vậy khó có thể biết được những mầm bệnh đang tiềm ân bên trong cơ thể, sức khỏe ngày một xấu đi, làm mất đi cơ hội điều trị tốt nhất, hậu quả cũng không thể lường hết được. Hãy quan sát và giải mũ tình trạng sức khỏe hiện ra trên tay bạn. Nên nhớ những đường vân này là dấu hiệu của bách bệnh.
Người có sức sống dồi dào, vận hành khí huyết bên trong cơ thể nhu nhuận sẽ xuất hiện dấu hiệu tốt trên tay. Bàn tay mà đường chỉ rõ nét, rộng, dày sẽ khiến cho khí huyết lưu thông khắp cơ thể, là người có sức khỏe dồi dào.
Xem chỉ tay, bàn tay dày, rộng
Người có chỉ tay như vậy là người khỏe mạnh, thể lực dồi dào. Có thể vận động tiêu hao năng lượng hoặc lao động với cường độ cao.
Xem chỉ tay, gò Kim tinh nổi cao
Trên bàn tay bạn mà có gò Kim tinh nổi cao thì cho thấy bạn là người thế lực dồi dào, giàu sức sống. Khá tự tin về thể lực. Tính tình hồn hậu, là người ôn hòa nhưng đôi khi lại khá cương nghị.
Chỉ tay, đường chính dài mà rõ nét
Đây là người giàu sức sống, nếu giữa đường bị cong, đứt nối liên tiếp thì ảnh hưởng không lớn bằng đường vân đảo.
Cổ tay có ba đường song song
Người có bàn tay này khỏe mạnh, giàu sức sống.
Đường Sinh mệnh rõ mà cong
Là người có sức khỏe dồi dào, thề lực và sức sống tràn trề, vì vậy nên tăng cường vận động giải phóng tinh lực.
Xem chỉ tay, đường vân nhỏ nát
Không câu nệ tiểu tiết, không bi quan hoặc buồn bã. Thường xét vấn đề trước khi thực hiện nhưng có chút chậm chạp.
Chúng ta thường quen với ngày sinh dương lịch chứ không mấy chú ý đến ngày sinh âm lịch. Song bói ngày sinh âm lịch sẽ tiết lộ rất nhiều bí mật mà bạn chưa hề biết. Cùng khám phá ngay nhé.
Xem bói cực chuẩn theo ngày sinh âm lịch (1 - 5 âm lịch) Xem bói đơn giản chỉ bằng ngày sinh âm lịch (6 – 10 âm lịch)
Trước tiên, nếu bạn chưa biết ngày sinh âm lịch của mình là gì, bạn có thể sử dụng công cụ Đổi ngày âm dương trên trang Lịch ngày tốt để chuyển đổi nhé.
1.Những nghề liên quan đến văn học:
a. Các sao liên quan tới nghề dạy học:
Nói giỏi:
Lưu Hà: Chỉ sự lưu loát của ngôn ngữ, sự phong phú của tư tưởng, sự ngăn nắp của bố cục, sự linh mẫn của lý luận, sự hấp dẫn của nội dung ...
Thái Tuế: Chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý.
Tâú Thư: Chỉ sự khôn khéo trong ngôn ngữ, sự thanh nhã của ý tưởng, sự mềm mỏng của cách trình bày và hiệu lực thuyết phục sâu sắc.
Hóa Khoa: chỉ sự thông thái của tư tưởng, sự cao kiến của học thức, sự khúc chiết của cách trình bày.
Thiên Hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư tưởng và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận.
Học giỏi: Văn Xương, Văn Khúc, Văn Tinh - Thiên Khôi, ThiênViệt, Hóa Khoa - Thái Dương, Thái Âm sáng sủa- Cự Môn, Thiên Cơ ở Mão, Dậu - Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn,Tuất - Long Trì, Phượng Các, Bác Sỹ.
Hai năng khiếu nói giỏi và học giỏi là căn bản cho nhiều nghề khác nữa như chính trị gia, thương thuyết gia, sĩ quan tâm lý chiến, cán bộ dân vận, ứng cử viên tranh cử, cổ động viên, quảng cáo, môi giới, hòa giải. Điều cần lưu ý là xem số giáo sư, nên để tâm nhiều hơn vào cung Nô, vì đa số thày giáo giỏi có cung Nô rất tốt.
b. Các sao liên quan tới ngành luật:
Thái Tuế, Quan Phù, Quan Phủ: Thái Tuế bao giờ cũng tham chiếu với Quan Phù còn Quan Phủ lại đồng nghĩa với Quan Phù. Bộ sao này điển hình cho ngành luật, mọi chuyện liên quan đến luật pháp từ kiện tụng, tù ngục, điều tra, thưa gửi, khiếu nại, bắt bớ đến truy tố, xét xử, bênh vực, tranh chấp ...
Thiên Hình: Cũng chỉ nghề luật, đặc biệt là tư cách bị cáo, bị án, bị điều tra, bị gọi làm nhân chứng ... Trong trường hợp hành nghề luật thì ý nghĩa tích cực ưu thắng: đương sự chuyên xử, truy bắt, bỏ tù, kết án kẻ khác. Trong một lá số tốt, Thiên Hình có nghĩa làm luật, cầm luật.
Cự Môn, Hóa Kỵ: Chỉ sự đa nghi, cạnh tranh trước pháp luật, vừa chỉ các vấn đề liên hệ đến luật pháp, từ việc nghiên cứu luật pháp, học luật pháp cho đến dạy luật pháp và hành xử luật pháp. Tư cách nạn nhân của một vụ tranh chấp trước pháp luật cũng được bao hàm, nhất là khi gặp vị trí hãm địa và không hành nghề luật chính tông.
c. Các sao liên quan tới nghề Chính Trị:
Phục Binh: Chỉ thủ đoạn, chỉ sự rắp tâm mưu hại kẻ khác, đồng thời cũng có nghĩa là mình mưu hại bằng thủ đoạn. Có Thái Tuế đi kèm thì càng rõ nghĩa. Đương sự phải chịu nhiều búa rìu của dư luận, đồng thời cũng sử dụng lại dư luận để đập lại đối thủ hay địch thủ. Những năng khiếu đi liền với Phục Binh tất phải có, từ sự lừa lọc, gài bẫy cho đến việc đánh úp, bôi nhọ, thanh lọc, kiềm chế, bế tỏa, ngăn trở, chèn ép, chụp mũ ...
Thiên Không: Gần như đồng nghĩa với Phục Binh, chỉ tư chất lưu manh của hành động, mánh khóe, xảo thuật ứng dụng để loại trừ đối thủ hoặc để tự vệ, chống đỡ phản đòn của họ cũng bằng các thủ đoạn đó.
Bạch Hổ - Thiên Khốc,Thiên Hư đắc địa: Bạch Hổ chỉ xu hướng hoạt động chính trị của phái nam, đồng thời chỉ sự hùng biện, sự khích động, sự lôi cuốn thiên hạ bằng ngôn ngữ có tâm huyết, có khí phách, có tác dụng xách động, có dụng tâm cổ võ tranh đấu. Thiên Khốc, Thiên Hư cũng đồng nghĩa. Nếu được đắc địa thì xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ đắc dụng và có hiệu quả. Nếu hãm địa thì có khuynh hướng sai ngoa, xuyên tạc nhiều hơn, tuy không hẳn có nghĩa thất bại.
Ngoài ra, nghề chính trị đòi hỏi cung Nô tốt hoặc là có nhiều sao chỉ nhân lực trợ giúp. Có như thế, chính trị gia mới có tập đoàn ủng hộ và dân chúng hậu thuẫn, giúp cho sự tiến đạt và thành công dễ dàng và bền vững.
d. Các bộ sao về nghề nhà văn:
Thiên Tướng: Chỉ cây bút, chỉ con người thấy sự bất bình không nhịn được, phải cải người, sửa đời. Tuy nhiên, phải có thêm sao khác để đủ diễn tả tư cách viết văn.
Tấu Thư, Đà La, Ân Quang, Thiên Quý: Tấu Thư là giấy, Đà La là mực, Ân Quang Thiên Quý là bài vở. Ngoài ra, Tấu Thư còn chỉ sự sắc bén, tế nhị của lời văn, ngòi bút. Ân Quang, Thiên Quý chỉ sự tha thiết, hoài bão cải tạo con người cho tốt thêm.
Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Khoa: Chỉ ngành và nghề dịch thuật vì Khoa chỉ học vấn đi với Tả, Hữu có nghĩa là biết nhiều ngoại ngữ. Tả Hữu có thể đi với Văn Xương, Văn Khúc hay Văn Tinh ... để chỉ nghề dịch, người thông ngôn.
2.Những nghề liên quan đến kinh, thương:
a. Nghề thương mại: hầu hết đều có đặc tính chung là liên quan đến tiền bạc, sự tham lam, óc tính toán và tài tháo vát:
+Tính tham do các sao dưới đây mô tả:
Tham Lang: Điển hình cho con buôn, có óc kinh doanh và hám lợi vì thế đi với bất cứ tài tinh nào đều có nghĩa kiếm lời bằng hình thái này nọ, đặc biệt là trục lợi trong thương trường. ở thế đắc địa, tính hám lợi thường gặp may mắn, dễ làm giàu, nhất là từ 30 tuổi về sau. Người có Tham đắc địa dám mưu sự lớn lao, đầu tư vào các lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế, có óc mạo hiểm táo bạo. ở thế hãm địa như Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi, lòng tham càng dữ dội hơn khả dĩ đi đến chỗ thất tín, bất nhân. Đây là thế của gian thương đầu cơ, tích trữ, lũng đoạn kinh tế, không quan tâm đến đạo đức xã hội, dù là tối thiểu.
Phá Quân hãm địa: Ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Phá Quân vô cùng hám lợi. Riêng ở Tỵ, Hợi đi với Vũ Khúc sự tham tiền này đi tới chỗ bất lương. Duy cách này thường gặp phá sản, khánh tận hoặc buôn bán khổ nhọc ở phương xa.
Óc tính toán và mưu trí trong thương trường được mô tả bởi những bộ sao sau:
- Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão, Dậu
- Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung
- Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung
- Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung ở Ngọ
những bộ sao này không nặng tính tham mà thiên về mưu trí, sự tinh xảo trong nghề buôn, sự hiểu biết rõ ràng thương trường, tài buôn bán. Hầu hết là phúc tinh cho nên việc thương mại tương đối lương thiện. Ngoài ra, tất cả các sao nói lên trí thông minh đều ứng dụng được trong doanh thương.
Thiên Mã, Lộc Tồn: Mã chỉ sự tháo vát, lanh lợi, đa tài, tinh thần xông pha, lăn lóc - các đức tính rất cần thiết cho nghiệp vụ thương mại. Vì thế, Mã đi với bất cứ tài tinh nào cũng đều đắc lợi và có ý nghĩa buôn bán, nhất là khi tọa thủ ở cung Tài hay cung Thân, Mệnh, Quan. Riêng ở Hợi thì phải cực nhọc mới kiếm lời được. Tốt nhất là ở Dần, Tỵ rồi mới đến Thân. Vì Mã chỉ sự lưu động cho nên các nghề buôn của sao này liên hệ đến ngành vận tải, đường bộ hay đường hàng không hoặc là các ngành môi giới, giao thiệp lưu động, nghiên cứu thị trường ở nhiều nơi. Lộc Tồn đồng nghĩa với Thiên Mã, nhưng không có ý nghĩa lưu động. Cả hai kết hợp thì rất đặc sắc cho việc buôn.
Tinh thần cạnh tranh cũng là đức tính thương mại. Những sao liên hệ gồm có: Quan Phù, Quan Phủ -Phục Binh, Hóa Kỵ: chỉ óc thi đua, cạnh tranh thường đi đôi với mưu mẹo, lừa gạt, nói dối. Hóa Kỵ vừa có nghĩa đó kỵ, sợ người khác hơn mình, vừa có nghĩa miệng lưỡi, môi miếng. Phục Binh là sao thủ đoạn. Cả bốn sao đều đắc dụng cho doanh thương, duy phương cách cạnh tranh không mấy gì ngay thẳng, thường đưa đến sự mưu hại lẫn nhau một cách ngấm ngầm.
Vấn đề tiền bạc: phải có nhiều sao tài hội tụ vào cung Quan, Tài, Mệnh, Thân.
b. Các sao liên quan tới nghề kỹ nghệ:
Hạng công nhân kỹ nghệ có các sao và bộ sao sau miêu tả: Phá Quân ở Dần, Thân,Thìn, Tuất - Thất Sát, Kình Dương - Vũ Khúc,Phá Quân đồng cung -Liêm Trinh, Tham Lang đồngcung - Thiên Cơ, ThiênHình, Kiếp Sát - KìnhDương, Hỏa hay Linh Tinh- Liêm Trinh, Phá Quânđồng cung. Những bộ sao trên không đắc địa, gần như có nghĩa bần hàn, cực khổ, thích hợp cho hạng công nhân.
Đối với hạng chủ nhân, chuyên viên, kỹ sư, tư bản hoạt động trong ngành kỹ nghệ, họ phải có sao học vấn cao hoặc là những bộ sao trên nhưng sáng sủa nhờ Tuần, Triệt hay ở vị trí đắc địa, đồng thời cũng phải có những bộ sao của nghề thương mại. Trong ngành kỹ nghệ nói riêng có hai sao dưới đây đáng lưu ý:
Thiên Cơ: chỉ tất cả các loại máy móc lớn nhỏ của ngành kỹ nghệ, chỉ sự tinh xảo trong nghề nghiệp. Hai ý nghĩa này ghép lại chỉ người chuyên môn về máy móc. Đắc địa thì là kỹ sư, hãm thì là thợ máy.Thiên Cơ, Hỏa Tinh hayLinh Tinh:chỉ máy hay lò luyện sắt thép, nấu quặng, hoặc máy tạo hơi nóng, máy sấy, máy phát điện.Thiên Cơ, Thái Âm hayThiếu Dương, Thiếu Âmchỉ máy điện và tất cả máy móc sử dụng điện, cũng có thể là máy điện tử.Thiên Cơ, Thiên Mã chỉ máy xe các loại hay phi cơ, tàu thủy.
Thiên Hình: chỉ dao, kéo hay cơ khí, nói chung các sản phẩm kỹ nghệ bằng kim khí.
3. Những nghề liên quan đến khoa học và ứng dụng:
a. Nghề điện: Thái Dương, Thái Âm -Thiếu Dương, Thiếu Âm -Hỏa Tinh, Linh Tinh
b. Nghề nha: Tuế Pháchỉ bộ răng.Thiên HìnhhayKiếp Sátchỉ sự mổ xẻ, chắp vá.Tấu ThưhayHồng Loanchỉ khéo tay, tinh xảo.
c. Nghề dược: Thiên Ychỉ thuốc men.Hóa Kỵ chỉ các dung dịch, hóa chất bào chế.
d. Nghề y:
+ Về mặt cứu độ:
Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ sự làm việc nghĩa. Người có cách này có thiên tính, hay giúp đỡ kẻ khác, có khuynh hướng xã hội rất cao, hay làm phúc, tạo phúc và có cơ hội tích phúc. Đây là bộ sao cần thiết cho y sĩ.
Thiên Tướng: biểu tượng cho vị cứu tinh của nhân loại, mang lại công bình, hạnh phúc cho nhân thế trong tinh thần cứu nhân độ thế.
Thiên Y: trực tiếp nói về y học. Người có Thiên Y tính sạch sẽ, vệ sinh và có năng khiếu về thuốc men. Ngoài ra, Thiên Y cũng có nghĩa cứu giải bệnh tật và có nghĩa hay dùng thuốc khi có bệnh.
Những sao trên cần đóng ở cung Mệnh, Thân hay Quan mới có điều kiện cứu độ của một y sĩ, mới có triển vọng hành nghề. Nếu đóng ở Tài thì y sĩ này có xu hướng lý tài, trục lợi, bóc lột bệnh nhân mặc dù ở cung đó, tài lộc sẽ được dồi dào hơn ở vị trí khác.
Ngoài ra, còn có những sao trợ y: Ân Quang, Thiên Quý -Thiên Quan, Thiên Phúc -Tả Phù, Hữu Bật. Ân Quang, Thiên Quý chỉ cái phúc do Trời ban cho. Đi với bộ sao bác sỹ, ông này sẽ được nổi tiếng nhờ mát tay, nhờ hên may, được linh thiêng phù trợ, soi sáng dẫn dắt trong vấn đề trị liệu. Đồng thời, Quang Quý cũng nói lên tinh thần vị tha cao độ của một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, yêu nghề, tin nơi nghề và được nghề đãi ngộ xứng đáng, lấy việc cứu người làm lẽ sống cao cả, ít quan tâm đến khía cạnh tiền bạc của nghề thuốc. Thiên Quan, Thiên Phúc nói lên xu hướng xã hội của y sĩ. Với 4 sao này, y sĩ hay bố thí, cứu người không lấy tiền, làm việc với sự tận tâm và vị tha nhờ đó mà được nổi danh. Tả Phù, Hữu Bật trong cách y sĩ cũng có nhiều ý nghĩa cứu độ làm phúc nhưng thông thường, hai sao này nặng ý nghĩa đắc thời, có sự nghiệp y dược lớn, cụ thể như có bệnh viện riêng, được bác sỹ, y tá trợ giúp.
Thiên Giải, Địa Giải, GiảiThần: có hiệu lực hóa giải bệnh tật. Người có bệnh gặp ba sao này thì mau hết bệnh vì gặp thầy, gặp thuốc còn y sĩ có ba sao này thì cứu mạng và chữa trị rất công hiệu cho bệnh nhân.
+ Về năng khiếu chuyên khoa:
Những chuyên khoa có tính kỹ thuật do những sao dưới đây biểu diễn:
Thái Âm, Thái Dương: bác sỹ chiếu điện hay chụp hình hoặc là sử dụng các phương pháp chữa trị băng điện, bằng quang tuyến hay tia phóng xạ.
Thiếu Âm, Thiếu Dương: tương tự như trên nhưng yếu tố âm dương cực nhỏ cho nên đồng hóa với điện tử.
Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sỹ giải phẫu, chắp vá, thay thế bộ phận thiên nhiên bằng bộ phận nhân tạo.
Những chuyên khoa trong cơ thể bao gồm các ngành đặc biệt dưới đây:
Thái Âm, Thái Dương: hai mắt và là bộ thần kinh đồng thời cũng là tâm linh con người.
Tuế Phá: chỉ bộ răng - bác sĩ nha khoa
Phượng Các, Long Trì, Phá Toái: bác sĩ Tai-Mũi-Họng
Mộc Dục, Thai hay Đào Hoa, Hồng Loan: bác sỹ phụ khoa, sản khoa.
Hỷ Thần: chuyên về trĩ
Thiên Riêu, Kình Dương: chuyên khoa sinh dục nam
Bạch Hổ, Địa Kiếp: bệnh ung thư
Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sĩ châm cứu
Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái: chuyên khoa thẩm mỹ, chuyên sửa sắc đẹp
Thiên Mã hay Kình Dương, Đà La: ngành chỉnh hình.
Nếu không có chuyên khoa mà có Hóa Kỵ thì là bác sĩ trị liệu tổng quát.
Nếu có thêm Thái Tuế, Lưu Hà, Hóa Khoa, Văn Xương, Văn Khúc thì có dạy và sáng tác về y khoa. Nếu có thêm Khôi, Việt thì trong ngành chuyên môn, đương số rất nổi danh.
e. Ngành kiến trúc:
Long Trì, Phượng Các -Thái Âm: Long, Phượng chỉ nhà cửa và cảnh trí trong nhà, trong vườn. Thái Âm chỉ bất động sản.
Tấu Thư, Hồng Loan: chỉ hoa tay hay năng khiếu mỹ thuật, mỹ nghệ nói chung, thích hợp cho người vẽ kiểu nhà, kiểu lăng tẩm, dinh thự.
4.Những nghề liên quan đếnnghệ thuật: bất luận nghề nào cũng phải cóTấu ThưhoặcHồng LoanhoặcThiên Cơ. Nếu không, đó chỉ là một sự hiểu biết hay sở thích chứ không phải nghề.
a. Nghề nhạc: phải có đủ 3 sao: Tấu Thư (chỉ sự linh mẫn, tế nhị và cả ngón cần thiết),Hóa Lộc(nghệ thuật, sự sành điệu, biết chơi, biết thưởng thức, biết ứng dụng) vàPhượng Các(lỗ tai hay thính giác). Với 3 sao này, đương số sẽ là nhạc sĩ, sống về âm nhạc hoặc là chuyên viên âm thanh trong kịch trường hoặc phim trường. Nếu có thêm sao khoa giáp thì đương số sẽ là giáo sư âm nhạc hay nhà khảo cứu về âm nhạc, âm thanh.
b. Nghề họa: NgoàiTấu ThưhoặcThiên Cơ, đương số phải có saoHồng Loanchỉ hoa tay. Nếu có thêmLong Trì, Phượng Cáccũng được.
c. Nghề nữ công: Ngoài Tấu Thư, Hồng Loan hayThiên Cơ,phải cóKiếp SáthayThiên Hình(thêu, may, cắt và vẽ kiểu áo thời trang, chế mốt thời trang ...)
d. Nghề nấu ăn: NgoàiHóa Lộc, Tấu Thư, HồngLoancòn phải có Long Trì hayHóa Kỵ và Thiên Trù.
e. Nghề kịch: các sao của nghề nhạc, nghề họa đều có thể ứng dụng cho nghề kịch. Nếu có thêmĐào Hoa, Vũ Khúc, ThiênHỷ, Hỷ Thầnthì càng hay. Nghề kịch chỉ hiển vinh nếu các sao đắc địa và có thêmVăn Xương, Văn KhúchayThái Âm sáng sủa.Nếu có thêmThiên Khôi, Thiên Việtthì xuất chúng.
f. Nghề ca: ngoài các sao của nghề kịch, phải cóPhá ToáihayPhượng Các.
g. Nghề vũ: có sao của nghề kịch là đủ. Nếu có thêmThiên Mãthì rõ ràng hơn nhưng phải có saoHoa Cái(làm dáng, sự quyến rũ bằng điệu bộ kiểu cách).
Khỏe, không phải là nhấc lên Mạnh, mà là để xuống Nhẹ
Kính, không phải là đối với Trên, mà là đối xử với Dưới
Ðẹp, không phải là hút Người Vào, mà là giữ người Ở Lại
Xấu, không phải tại Gương Mặt, mà ở tại Cách Sống
Khéo, không phải tạo điều To, mà là làm điều Nhỏ
Hay, không phải là Ngạc Nhiên, mà là sự suy ngẫm Thú Vị
Buồn, không phải do Bên Ngoài, mà vì ẩn ở Bên Trong.
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.
Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.
Theo thiển ý chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xenm được.
Nhằm giải đáp những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây, chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như "Vạn niên lịch", "Ngọc hạp kỷ yếu", "Chư gia tuyển trạch nhật", "Đổng công trạch nhật","Vạn bảo toàn thư" đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha khí tượng và một số bài viết của các nhà khoa học để làm nhiệm vụ biên khảo, dẫn giải tiếp bài viết của Phan Kế Bính.
Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu vào chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách này chưa thể đáp ứng.
Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau:
Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:
- Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này chiếu thì làm việc gì cũng tốt.
Ngoài ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành (cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã (xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...
Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:
Thiên đức: Tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão. (1)
Nguyệt đức: Hợi, tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tị, thìn, mão, dần, sửu, tý.
Thiên giải: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Thiên hỷ: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Thiên quí: Dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, ngọ, tý, mùi, sửu.
Tam hợp: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Sinh khí: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi.
Thiên thành: Mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, mùi, sửu, mão, tị.
Thiên quan: Tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân.
Lộc mã: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Phúc sinh: Dậu, mão, tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, nùi, dần, thân.
Giải thần: Thân, thân, tuất, tuất, tý, tý, dần, dần, thìn, thìn, ngọ, ngọ.
Thiên ân: Tuất, sửu, dần, tị, dậu, mão, tý, ngọ, thân, thìn, thân, mùi.
--------------------------------------------
Có nghĩa là: Sao thiên đức chiếu vào những ngày tị của tháng giêng, ngày mùi của tháng hai, ngày dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như vậy.
Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).
Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).
Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:
Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất.
Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu.
Đại hao, tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn.
Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn.
Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu.
Địa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi.
Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ.
Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi.
Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn.
Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân.
Thổ kỵ, vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu.
Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão.
Trùng tang: Giáp, ất, mậu, bính, đinh, kỷ, canh, tân, kỷ, nhân, quý, mậu.
Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu.
Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu).
Tính theo ngày tiết: 4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)
Mỗi năm có 4 ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4 ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngày).
Tính theo ngày trực:
- Trong 12 ngày trực có 6 ngày tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thành (9), trực khai (11), 3 ngày thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12).
Tính theo nhị thập bát tú:
- Trong 28 ngày có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.
àm cho xe cộ đi lại dễ dàng, dòng chảy của xe vô cùng nhộn nhịp, thuận tiện, đáng nhẽ phải là địa điểm bán hàng lý tưởng.
Nhưng thực tế không phải cửa hàng nào nhìn ra vòng tròn đó cũng có thể tài vận thông tứ hải. Có những cửa hàng lượng khách ra vào rất ít, thường xuyên bị thay đổi chủ nguyên nhân do cửa hàng đối diện với vòng tròn. Bởi vì xét về mặt phong thủy dương trạch, nhà nào nằm ở đường vòng cung của đường tròn, nếu dùng để ở thì người trong nhà đó có tính cố chấp, gàn bướng, tiền tài tiêu tán phải đi tha hương.
Còn nếu là công ty cửa hàng thì tỷ lệ biến động công nhân rất cao, mố quan hệ giữa người với người không hòa thuận, lãnh đạo kinh doanh gặp khó khăn. Tác giả đã từng chứng kiến rất nhiều công ty vì chuyển đến loại nhà như vậy mà làm ăn không thuận lợi, thậm chí thất bại, cuối cùng phải dời đi nơi khác.
Vì vậy cách tốt nhất khi thiết kế quy hoạch kiến trúc phải đặt yếu tố phong thủy vào đó, cho dù là dáng vẻ bề ngoài, bố cục bên trong, vị trí của căn nhà đều phải nghiên cứu tỉ mỉ. Khi thiết kế, có thể dựa theo tam nguyên chân khí, lựa chọn vị trí vượng sơn vượng thủy, đổng thời giảm ảnh hưởng của đường gấp có vòng tròn một cách thấp nhất, dùng bồn nước nhỏ. trổng cây hoặc xây tường bao để hóa giải.
1. Kiến; 2. Trừ; 3. Mãn; 4. Bình; 5. Định; 6. Chấp; 7. Phá; 8. Nguy; 9. Thành; 10. Thu; 11. Khai; 12. Bế.
Nhị thập khách |
Thời kỳ đầu, 12 trực dùng để chỉ tên 12 tháng âm lịch. Về sau 12 trực được chuyển hóa, dùng để chỉ ngày tốt, ngày xấu.
Theo sự vận hành của sao tốt và sao xấu thì có một số sao vận hành tương ứng với ngày trực: sao Nguyệt Phá trùng với trực Phá, sao Thiên Hỷ trùng với trực Thành...
Trong 12 trực nói trên, Trừ, Định, Nguy, Khai là Tứ Hộ Thần tức là thần cát lợi. Chấp, Kiến là thần nửa hung nửa cát. Bế, Mãn, Bình, Phá, Thành, Thu là thần hung.
Lịch sử kỷ niên của Trung Quốc có từ lâu đời và họ lấy thứ tự của 12 chi để tính tháng, được gọi là Nguyệt Kiến. Ví dụ, tháng 1 kiến Dần, tháng 2 kiến Mão... lần lượt quay vòng đến hết 12 tháng.
Theo Bàn về lịch vạn niên
Xem bói đơn giản chỉ bằng ngày sinh âm lịch (6 – 10 âm lịch) Ngày sinh có ý nghĩa vô cùng đặc biệt đối với mỗi người. Đó không chỉ là thời điểm mà chúng ta sinh ra, là ngày mà ta nhớ về công ơn mẹ cha sinh thành dưỡng dục mà đặc biệt hơn, ngày sinh còn quyết định tính cách và vận mệnh cuộc đời. Thông thường, chúng ta hay chú ý đến ngày sinh dương lịch chứ không mấy khi để tâm ngày sinh âm lịch của mình là gì. Nhưng theo tử vi, ngày sinh âm lịch lại có tính chính xác cao hơn rất nhiều để đoán định về vận mệnh cuộc đời. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ giúp các bạn xem bói ngày sinh âm lịch để biết rõ hơn về tương lai, vận thế của mình nhé. Trước tiên, nếu bạn chưa biết ngày sinh âm lịch của mình là gì, bạn có thể sử dụng công cụ Đổi ngày âm dương trên trang Lịch ngày tốt để chuyển đổi nhé.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Câu chuyện thứ nhất
Có một thanh niên trẻ tuổi hỏi vị thiền sư:
“Thưa ngài, có người nói tôi là thiên tài nhưng cũng có người lại mắng tôi là đồ đại ngốc, vậy theo thiền sư tôi là thế nào?“
Thiền sư hỏi lại người thanh niên:
“Vậy ngươi đối đãi như thế nào với chính bản thân mình?“
Người thanh niên nghe xong câu hỏi cảm thấy mờ mịt…
“Ví dụ 1kg gạo, nếu ở trong con mắt người đầu bếp nó sẽ là mấy bát cơm, nếu ở trong con mắt của thợ làm bánh thì nó sẽ là mấy chiếc bánh nướng, trong con mắt của người nấu rượu thì nó lại là rượu, nhưng gạo vẫn chính là gạo đấy thôi! Cũng giống như vậy, ngươi vẫn là ngươi, có được bao nhiêu tiền đồ là do tự ngươi đối đãi với bản thân mình như thế nào.” Người thanh niên nghe xong cảm thấy thông hiểu, rộng mở…
Câu chuyện thứ hai
Một thanh niên hỏi một vị cao nhân:
“Làm thế nào để trở thành một người vui vẻ và đem lại niềm vui cho người khác?“
Vị cao nhân vui vẻ trả lời:
“Có bốn loại cảnh giới, ngươi có thể lĩnh hội điều tuyệt vời trong đó."
Đầu tiên là: “Phải coi mình là người khác” – đây là “vô ngã”.
Thứ hai là: “Phải coi người khác là chính mình” – đây là “từ bi”.
Thứ ba là: “Phải coi người khác là bản thân họ” – đây là “trí tuệ”.
Cuối cùng là: “Phải coi mình chính là mình” – đây là “tự tại”.”
Câu chuyện thứ ba
Một vị thiền sư nọ có một đệ tử rất hay phàn nàn. Một hôm vị thiền sư đem một thìa muối đổ vào trong một cốc nước và bảo đệ tử này uống.
Đệ tử nói: Mặn đến phát khổ như vậy con làm sao uống được?
Vị thiền sư không nói gì, lại đem thìa muối đổ xuống một hồ nước và bảo đệ tử của mình uống.
Đệ tử sau khi uống một ngụm liền nói: Thưa thầy nước vẫn ngọt ạ!
Vị thiền sư bấy giờ mới nói: “Những thống khổ trong cuộc đời giống như muối, độ mặn độ nhạt của nó là do vật chứa đựng nó mà ra. Con nguyện làm một cốc nước hay muốn làm một hồ nước đây?“
Vị đệ tử hiểu ra và từ đó giảm bớt tính phàn nàn đi rất nhiều, luốn mở rộng lòng và đón nhận mọi điều trong cuộc sống.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 56 được xây dựng trên điển cố: An Lộc Sơn mưu phản trong cuộc loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử nhà Đường.
Quẻ này trung bình, quẻ thuộc cung Sửu. Ý quẻ nói rằng những việc mưu cầu thì nên nhẫn nại chờ đợi thời cơ đến hẵng hành động. Bắt tay thực hiện ngay lúc này thì uổng phí công sức, chi bằng giữ nguyên hiện trạng, chờ đợi quý nhân phù trợ xuất hiện thì hãy tiếp tục liệu tính, như vậy mới tốt đẹp.
An Lộc Sơn (703 – 757), người Doanh Châu sống vào đời Đường. Cha của An Lộc Sơn là người dân tộc Hồ, họ Khang, mẹ là người dân tộc Đột Quyết, tên ban đầu là A Lạc Sơn (còn có tên là Yết Lạc Sơn), có nghĩa là “chiến đấu”. An Lộc Sơn khi nhỏ đã mất cha, theo mẹ ờ với người Đột Quyết. Sau đó mẹ của An Lộc Sơn tái giá với An Diên Yến, anh trai của tướng quân dân tộc Đột Quyết An Ba Chú, vì thế An Lộc Sơn mới mang họ An, tên là Lộc Sơn.
Năm mười ba tuổi, An Lộc Sơn gia nhập quân đội, chưa đến bốn năm, đã làm đến chức Bình Lư tướng quân. Năm bốn mươi tuổi, ông một bước thăng lên Bình Lư quân Tiết độ sứ, là một trong những chức thống soái quân sự cao nhất canh giữ biên cương lúc bấy giờ.
Sau khi An Lộc Sơn được làm Tiết độ sứ, đã ra sức tìm kiếm các loài chim thú quý hiếm, trân châu ngọc quý, đưa đến cung đình lấy lòng Đường Huyền Tông. Đường Huyền Tông cho rằng An Lộc Sơn có lòng trung với mình, nên phong cho Lộc Sơn làm Quận vương, cho xây dinh phủ tráng lệ cho An Lộc Sơn ờ Trường An. Sau khi An Lộc Sơn chuyển vào Vương phủ, Đường Huyền Tông còn cho người đến uống rượu nghe nhạc cùng An Lộc Sơn, để Dương Quý Phi nhận An Lộc Sơn làm con.
Sau khi Tể tướng Lý Lâm Phủ bị bệnh qua đời, người anh cùng họ của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung nhờ vào thế lực của ngoại thích đã được nhận chức Tể tướng. Dương Quốc Trung vốn là tên vô lại, An Lộc Sơn coi thường Dương Quốc Trung, Dương Quốc Trung cũng rất căm ghét An Lộc Sơn, giữa hai người đã phát sinh mâu thuẫn, Dương Quốc Trung nhiều lần nói với Đường Huyền Tông rằng An Lộc Sơn có ý đò làm phản, nhưng Đường Huyền Tông không tin.
Tháng mười năm 755, An Lộc Sơn đã chuẩn bị xong xuôi, quyết định tạo phản. Lúc này, vừa hay có một quan viên từ Trường An đến Lạc Dương. An Lộc Sơn làm giả chiếu thư của Đường Huyền Tông từ Trường An gửi đến, triệu tập các tướng sĩ tuyên bố rằng: “Đã nhận được mật lệnh của hoàng thượng, muốn ta lập tức đem quân vào kinh diệt Dương Quốc Trung” Và như vậy, mười lăm vạn bộ binh và kỵ binh đã xuất phát từ vùng Bình Nguyên ở Hà Bắc, như một cơn lốc cuồn cuộn tiến về, trống chiêng vang dậy. Một dải Trung Nguyên đã hơn một trăm năm không có chiến tranh, dân chúng đã mấy đời không nhìn thấy cảnh chém giết, nên quan viên ờ ven đường người thì bỏ chạy, người thì đầu hàng.
Phản quân của An Lộc Sơn tiến thẳng theo hướng nam, hầu nhừ không gặp phải sự kháng cự nào.
Chẳng bao lâu, phản quân đã vượt sông Hoàng Hà, chiếm tĩnh Lạc Dương. Sau khi Đồng Quan thất thủ, Đường Huyền Tông vội vàng chạy về Thành Đô. An Lộc Sơn liền tự xưng vương, đổi tên nước là “Yên”.
An Lộc Sơn vốn có bệnh ở mắt, từ khi khởi binh đến lúc này, thị lực dần dần giảm sút, sau cùng hai mắt bị mù. Lại thêm mắc chứng ung nhọt, nên tính tình ngày càng tàn bạo, với những người hầu hạ bên cạnh, chỉ cần hơi phật ý, không bị đánh đập cũng bị mắng chửi. Chỉ cần có một chút sai sót, liền bị giết ngay. Sau khi An Lộc Sơn xưng đế, những chuyện các tướng tĩnh bàn bạc, đều được Nghiêm Trang truyền đạt lại. Nghiêm Trang tuy được trọng dụng, nhưng cũng thường xuyên bị An Lộc Sơn đánh đập. Hoạn quan Lý Trư Nhi thường hầu hạ y phục cho An Lộc Sơn là người bị đánh nhiều nhất, nên vô cùng bất mãn. Đoàn thị được An Lộc Sơn sủng áỉ, sinh được một người con trai, tên là “Khánh Ân”, rất được yêu mến, An Lộc Sơn luôn muốn cho Khánh Ân thay thế vị trí của thái tử An Khánh Tự. An Khánh Tự cũng lo mình bị phế truất. Vì thế, Nghiêm Trang và An Khánh Tự, Lý Trư Nhi liên kết với nhau, mưu hại An Lộc Sơn.
Đêm ngày mùng năm tháng giêng năm Chí Đức thứ 2 (tức năm 757), ba người bí mật lẻn vào phòng ngủ của An Lộc Sơn. Lý Trư Nhi tay cầm cây đao lớn lao thẳng vào trong màn, nhằm trúng bụng của An Lộc Sơn đang nằm trên giường đâm mạnh một nhát, kết thúc cuộc đời của An Lộc Sơn.
Bếp là một trong ba không gian quan trong trong kết cấu không gian một căn nhà và có ảnh hưởng tới vấn đề sức khỏe – hành phúc gia đình – tài lộc. Do đó, để giúp bạn có được hướng bếp phong thủy chúng tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm chọn hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia. Trong đó, có 3 vấn đề các bạn cần quan tâm trong phong thủy hướng bếp là:
Thứ nhất, hướng nhà bếp, phòng bếp
Thứ hai, hướng đặt bếp theo phong thủy
Thứ ba, bố chí không gian bếp với đồ dùng theo phong thủy
1. Chọn hướng nhà bếp theo phong thủy
Xem hướng nhà bếp theo phong thủy trong không gian tổng thể căn nhà của bạn chính là cửa vào bếp. Phụ thuộc vào các phòng trong căn nhà của bạn mà cửa nhà bếp cần phải sắp xếp sao cho hợp lý và đảm bảo được yêu cầu về phong thủy, tốt lành cho chủ nhà.
Chọn xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia
3. Chú ý cần tránh để bếp có phong thủy tốt
Ngoài việc xem phong thủy hướng nhà bếp và đặt bếp thì cũng cần chú đến việc bài trí không gian bếp và tránh cách xếp đặt các dụng cụ không phù hợp, ảnh hưởng xấu tới phong thủy bao gồm:
Tránh các góc nhọn chiếu góc vào khu vực nấu vì có thể làm mất đi sự hòa thuận trong gia đình và tránh các xà ngang trên bếp cũng không tốt cho nữ gia chủ, sức khỏe của gia đình
Không nên đặt bếp quay về hướng bắc (hướng thủy vượng) và bàn nấu ăn ở trên rãnh, mương, đường nước chảy, tránh đặt vị trí thấp, không cao ráo và đủ ánh sáng hoặc xô lệch bàn nấu ăn.
Tránh cửa nhà vệ sinh nhìn thẳng vào bếp, cửa ra vào trước vì đây là nơi ố khí và trực diện với đường đi nên dễ bị tác động. Đồng thời, không đặt bếp ngược hướng nhà tức là người nấu quay lưng về hướng cửa nhà chính hoặc cửa chính nhìn, đâm thẳng vào bếp. Và không để không không quá rộng phía sau vị trí đặt bếp mà cần có điểm tựa vững chắc.
Kiêng nhà bếp đối diện hoặc sát với cửa phòng ngủ hay giường ngủ vì có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, dễ sinh bệnh đối với người trong phòng ngủ. Kiêng mặt trời chiếu xiên buổi chiều hoặc góc nhọn chiếu thẳng vào bếp vì theo phong thủy học bếp hướng tây nếu bị mặt trời chiếu xiên từ hướng chính tây vào sẽ mang lại điều không tốt về sức khỏe cho mọi người trong gia đình.
Mặt khác, bếp thuộc hỏa, hỏa vốn kỵ nước,nước và lửa không dung hòa, vì vậy lửa không nên để gần nước quá. Nếu như bếp đặt trên đường nước là không thích hợp. Tránh đặt các dụng cụ có sự xung khắc giữa nước và lửa như: đặt tủ lạnh đối diện hoặc quá gần bếp nấu hoặc tử lạnh/máy giặt/chậu rửa ở hai bên và bếp nấu ở giữa…
Trên đây là một số lưu ý về xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia mà bạn nên tham khảo khi xây dựng, thiết kế, bố trí, sắp xếp một căn bếp hợp phong thủy.
Bài viết của giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Một thân chủ gặp việc chẳng lành, hoặc gặp việc phân vân khó giải quyết, tìm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngày, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số là dựa theo nét mặt và câu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. Thân chủ dễ tính vội cho là thần thánh.
Sự thực thân chủ muốn biết thầy có học đến trình độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng này câu hỏi. Nếu đoán đúng 3 câu là tạm được. Nếu sai 3 câu là chưa học đến trình độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thân chủ 30 tuổi hỏi:
- Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
- Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
- Học tới đâu?
- Lập gia đình năm nào? Đã có mấy còn? Những năm nào có con?
- Chồng là người thế nào? Làm nghề gì?
Tùy theo câu trả lời của thầy sẽ biết thầy có là người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mình chưa học đến trình độ sơ đẳng của khoa Tử vi. Mà chỉ tìm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử và Trung quốc sử về khoa này. Những thư tịch mà tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh là những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đây. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương Đài bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trình bầy ra đây để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh này còn dám viết sách lịch Tử vi vào đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
I. Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Căn cứ vào bộ Tử vi Đại toàn do các văn thần nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796) vào niên hiệu Càn Long thứ 41, bài tựa có chép:…”Bọn thần vâng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau Tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toàn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thì khoa Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vào cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh và đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau này ông được tôn là Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhà Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh và Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mà Hi Di tiên sinh biết trước sau này hai người con của Tống Thái Hậu làm vua:
…”Cuối đời Hậu Châu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ và Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn và Khuông Nghĩa) vào hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thì gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
- Bà phúc đức lắm hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
- Ngài nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đây. Ngài có gì cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
- Sau này hai con bà đều làm vua bà thiếu gì dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn này của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi, để lấy 10 lượng vàng mà tiêu.
Thái hậu đồng ý vì nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đâu?
Bà xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vào chiếc đũa bỏ vào ống đũa làm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, và nói rằng núi này Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho là bậc kỳ tài, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ và văn thần võ tướng được ngài tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoàng tộc đều được học khoa này, mỗi đời thêm vào các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mà dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II- Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra làm ba rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa này tại Trung Hoa không phổ thông và tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
Sau đây chúng tôi xin lược trình qua sự xuất hiện của các phái.
1- Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoàng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoàng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống mà gọi phái này.
Sau đây là một vài câu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ là Trịnh ân ra trấn cõi ngoài. Ngài xem số thấy Trịnh âN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh ân Thiên Tướng, Tướng quân thủ mệnh tại Tý. Mà năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, Ngài xuống chiếu gọi Trịnh ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh ân về kinh thì xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vì cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mà rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh ân là một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên là Đào Tam Xuân, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam Xuân vây hãm kinh đô, không cách thoát. Hoàng đệ là Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
- Số của Hoàng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mà giết mất Trịnh ân. Bây giờ bị vây, tôi xem số của Đào Tam Xuân, Vũ khúc, Phá quân thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung Tài Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đây không ai có thể thắng nàng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nàng là khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoàng huynh. Muốn lầm cho êm truyện này, phải tuân theo điều kiện sau: Tam Xuân có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tình nhẹ dạ. Theo Tử vi thì chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quân, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quân. Tôi xin đề cử Cao Hoài Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư và Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục Đào Tam Xuân.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoài Đức thuyết phục Đào tam Xuân rút binh. Về sau con cháu Trịnh ân phò nhà Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quân Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đình tranh luận liên tiếp mấy ngày không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
- Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trì tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn là chết. Nếu cử Đăng đi thì qua năm lại phải cử người khác.
- Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có Hình, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhân uy vũ trấn, động”. Nghĩa là: Thiên hình, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó là cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. Vì vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhà Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2- Phái Hà Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao nữa thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa Tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy lâu ngày phái này bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi âm Dương chính nghĩa nam tông.
3- Phái âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phía này có khuyết điểm là quá chú ý vào âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử vi là Thiên văn. Đầu đời Mih một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ Tử vi âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý tự Thanh đem quân đốt phá Bắc kinh, thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
4- Bộ Tử vi Đại toàn
- Niên hiệu Càn Long thứ 38 nhà Thanh, nhà Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều làm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ Duân, là việc trong viện Tử khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử vi Đại toàn, gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa Tử vi tại VN, là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5- Khoa Tử vi Trung hoa ngày nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngày nay lại không thịnh hành và được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trình bày trong một bài sau.
KHHB số 74G1
► Mời các bạn: Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com |
Những người có tên hay và đặc biệt có khả năng thành công trong cuộc sống cao hơn những người có tên thông thường. Làm thế nào để con mình có một cái tên thật hay?
Mỗi đứa trẻ lúc chuẩn bị chào đời, điều mà cha mẹ quan tâm chính là việc đặt cho con mình một cái tên. Xưa nay quan niệm về tên gọi thường đơn giản chỉ để gọi. Nay xã hội phát triển, tên gọi mỗi người ít nhiều có ảnh hưởng đến cuộc sống của người đó ở một góc độ nhất định. Để có một cái tên đẹp và nhiều hàm ý cũng cần những tiêu chí khác nhau.
Ý nghĩa và quan niệm về tên người
Chức năng quan trọng nhất của tên người là để xác định, phân biệt phần “danh” giữa người với người. Mỗi người là một cá thể độc lập trong cả cộng đồng. Do vậy, tên gọi chính là sự phân biệt cơ bản, phổ thông nhất của từng cá nhân trong cả một tập thể, cộng đồng người. Tuy nhiên, tên gọi (họ và tên) chỉ là dấu hiệu phổ thông để phân biệt người này với người khác chứ không phải người có tên như thế nào thì bản tính thế ấy, ví dụ cùng tên Minh Đức nhưng không phải ai cũng là người lương thiện. Nếu cả mười người tên Minh Đức đều tốt thì cũng có cấp độ khác nhau. Sự khác nhau đó còn biểu hiện ở hình dáng, sức khoẻ, trình độ nghệ nghiệp… Cho nên, những hàm ý khác ngoài chức năng phân biệt chỉ là theo quan niệm duy tâm trong dân gian, hay của chính người đặt tên đó.
Trước kia ông cha ta thường khi sinh con ra nếu là trai thì gọi luôn là thằng cu, cái đĩ, gái… nhiều thì cu lớn, cu bé, đĩ lớn, đĩ bé… Bởi vì những tên gọi đó xấu xí, dễ lẫn lộn với những đứa trẻ khác mà không sợ bị tà mà dòm ngó, theo về quấy nhiễu. Rồi khi lớn lên cứ tiện những từ vần miệng là đặt như Bưởi, Bòng, Na, Lựu… Nhưng ngày nay không còn ai tin vào điều đó nữa. Việc đặt tên cho con cũng là thể hiện nguyện ước con mình sau này thành đạt, khỏe mạnh, có ý chí… Vì thế tên do cha mẹ đặt còn chất chứa trong đó bao niềm hy vọng, thiện cảm dành cho những đứa con mình. Một cái tên đẹp cả về ngữ nghĩa, hàm chứa được ý nguyện của cha mẹ chính là thứ mọi người mong muốn.
Thế nào được gọi là tên hay?
Trong phạm vi bài này không thể đưa hết ra được những tiêu chí để đánh giá cho một cái tên hay. Chỉ xin trao đổi những nguyên tắc và phương pháp phổ thông, dễ áp dụng trong đời sống hiện nay. Về cấu trúc tên của người Việt xưa nay gồm: họ – tên đệm – tên chính. Nhưng theo xu thế hiện nay và trong phạm vi bài này xin gọi luôn tên đệm và tên chính là một.
Đầu tiên là tên phải có ý nghĩa, ý nghĩa đó phụ thuộc vào động cơ, ý tưởng của cha mẹ đứa trẻ. Khi giao tiếp với ai đó việc đầu tiên người ta quan tâm đến chính là tên gọi của nhau. Do đó tên gọi sẽ là đại diện tiêu biểu của một người. Một cái tên đẹp như Tuấn Hưng, Thuỳ Dung, Kiều Anh… sẽ gây được thiện cảm ban đầu cho người khác. Vì thế khi đặt tên cho con cha mẹ cần phải chú ý đến điều đó. Như trên đã nói, con cái luôn là niềm hy vọng của cha mẹ, khi đặt tên cho con cũng nên chọn tên có ý nghĩa gửi gắm những lời chúc nguyện tốt đẹp mong con sẽ khoẻ mạnh, bình an, hạnh phúc và thành đạt. Nói chung, dù vì động cơ nào thì tên người phải có nội hàm cụ thể, đó chính là thể hiện được ý nghĩa của tên gọi. Nếu cái tên vô nghĩa hoặc nghĩa xấu thì sau này con cái sẽ không thích, có thể chúng sẽ tự đổi tên khác cho phù hợp.
Điểm quan trọng thứ hai là khi đặt tên cần chú ý đến ngữ âm. Tên gọi hay ngoài việc đảm bảo ý nghĩa còn phải dễ đọc, dễ nhớ và điều này còn tuỳ thuộc vào quy luật phát âm của dân tộc mình. Thường thì tên gọi có hai âm tiết, nếu âm tiết trước là thanh bằng (các chữ có dấu huyền hoặc không dấu) thì âm tiết sau nên dùng thanh trắc (các chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng) và ngược lại. Hoặc cũng có thể dùng thanh bằng cho cả hai âm tiết, ví dụ Thuỳ Linh, Thuỳ Trang… Còn khi kết hợp thanh trắc cho cả hai âm tiết cần chú ý sao cho tên nghe không quá nặng, khó đọc, ví dụ: Phú Quý, Tuấn Nguyễn… Đặc biệt con gái thì hạn chế dùng hai âm tiết là hai thanh trắc, nghe nặng nề và thiếu nữ tính, lại khó nhớ. Tên đẹp và hay nên dùng một bằng một trắc. Nếu kết hợp hài hoà con bạn sẽ có tên vừa hay, âm đọc nhẹ nhàng và có ý nghĩa dễ được thể hiện hơn.
Ngoài ra, khi đặt tên cũng cần phải chú ý đến phong tục tập quán của từng dân tộc, của đất nước, dùng từ chuẩn mực, tránh những từ đa nghĩa trong đó có nghĩa xấu. Người Việt Nam không bao giờ lấy tên những thánh thần có ý nghĩa thiêng liêng để đặt cho con. Vì như thế sẽ phạm đến uy linh của thần thánh. Trong khi người phương Tây rất thích đặt tên cho con theo các vị thần thánh. Họ cho rằng như thế con cái sẽ gặp may mắn và được che chở. Người Việt cũng không lấy tên ông bà, cụ kị đặt tên cho con cái vì như vậy là phạm huý, thiếu tôn trọng bề trên. Trong khi người phương Tây lấy tên ông bà đặt lại cho con cháu để thể hiện sự tôn kính với bề trên, để lưu giữ tình cảm sâu nặng của mình với thế hệ trước. Đặc biệt tên của các vị lãnh tụ, những người đã trở thành niềm tự hào dân tộc, là biểu tượng quốc gia cũng không được lấy để đặt tên cho con mình.
Tình yêu là thứ vừa mạnh mẽ vừa yếu ớt, vừa ngọt ngào vừa đắng cay. Vì thế, không thể chỉ tận hưởng tình yêu mà còn phải chăm chút, giữ gìn cho nó. 6 vật phẩm phong thủy tình yêu dưới đây sẽ giúp bạn điều này.
=> Đọc thêm: Thế giới tâm linh huyền bí bốn phương |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi |