Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đêm xuân tình hội Trám

Hội Trám được người dân xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ bảo tồn từ bao đời nay với đặc trưng riêng. Trước kia, hội Trám hay trò Trám đã có lúc bị gián đoạn vì
Đêm xuân tình hội Trám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chiến tranh nhưng đã được người dân nơi đây “tìm lại” từ năm 1993.

Đông đảo người dân tham gia lễ hội

Theo phong tục, trong đêm lễ mật vào đúng 12 giờ đêm ngày 11 tháng 1 âm lịch, cụ từ sẽ mang 2 linh vật của hội Trám (được cất kỹ trong hòm gỗ) là nõ và nường, được làm bằng gốc tre già, tượng trưng cho việc sinh sản của con người, giao cho đôi vợ chồng đã được làng chọn lựa thực hiện nghi lễ trang trọng nhất của lễ hội.

Không phải ai cũng được nhìn thấy hai linh vật của hội Trám

Theo tiếng hô của cụ từ “Linh tinh tình phộc” 3 lần thì đôi vợ chồng nọ cũng phải 3 lần đâm 2 linh vật vào nhau sao cho vừa khít, không được phép trượt, vang lên những tiếng “phộc” đầy hình tượng. Năm nào mà tiếng kêu vang to, nghi lễ thực hiện không lần nào bị trượt thì năm đó, làng sẽ làm ăn phát đạt, con cháu đề huề…

Theo tục xưa, sau khi 2 linh vật được "gặp nhau" trong lễ mật, trai gái trong làng phải chạy quanh ngôi miếu 3 vòng, vừa chạy vừa hô "linh tinh tình phộc"

Theo tục lệ xa xưa, sau khi làm lễ mật, trai gái trong làng được tự do “tháo khoán” với nhau, không bị ngăn cấm để có thể tìm cho mình một người bạn tình trăm năm  (ở Tứ Xã hiện vẫn còn những cụ được sinh ra trong những đêm “tháo khoán” rộn ràng này). Tuy nhiên, tục lệ này đã không còn phù hợp với xã hội ngày nay, đành rằng trong đêm này, các cụ cũng không cấm con cháu tìm hiểu lẫn nhau.

(Theo Dân Trí)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đêm xuân tình hội Trám

Bạn có phải là người tự tin?

Bạn hãy xòe bàn tay và xem ngón út của bạn cao hay thấp so với đốt trên cùng của ngón áp út nhé!
Bạn có phải là người tự tin?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ban-co-phai-la-nguoi-tu-tin
Số 1 Số 2

Mộc Lan (theo Lol)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có phải là người tự tin?

Phòng khách và nguyên tắc "bất biến" trong phong thủy

Khi thiết kế không gian sống, cụ thể là căn phòng khách trong gia đình, ngoài kết cấu, bố cục, cách trang trí… bạn còn phải quan tâm đến yếu tố phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những nguyên tắc phong thủy cần lưu ý khi thiết kế phòng khách:

Không trang trí bằng vật có đầu sắc nhọn
 
Điều này được coi là điểm tối kỵ trong phong thủy phòng khách bởi thể hiện sự hiểm nguy và tính bạo lực của chủ nhà. Với những phòng khách phạm phải sai lầm này, chủ nhân và các thành viên trong gia đình thường dễ bất đồng quan điểm cũng như dễ sinh ra những hành động bạo lực.

Không nên trang trí hoặc treo trên tường những vật có điểm sắc nhọn như kiếm, sừng các loại động vật… Ngoài ra khi chọn đồ nội thất trong phòng bạn cũng nên lưu ý điều này, ngay cả một chiếc đèn cũng không là trường hợp ngoại lệ.

Không treo những bức tranh hung tàn

Những bức tranh bạo lực như cảnh chém giết, đánh nhau hoặc hình ảnh những con mãnh thú như hổ, sư tử, báo, đại bàng, rồng, gấu cũng không nên lựa chọn treo ở phòng khách bởi thể hiện bạo lực và làm mất không khí đầm ấm của căn phòng.

Bạn có thể lựa chọn những bức tranh có ý nghĩa hơn về cuộc sống no đủ, môi trường xung quanh, những vị lãnh tụ vĩ đại… để trang trí trên tường.

Đừng làm rối phòng khách bằng cách trang trí không có ý tưởng

Điều này cũng là một trong những kiêng kị bạn cần tránh khi trang trí phòng khách. Một phòng khách gồm có quá nhiều đồ đạc, quá nhiều tranh ảnh sẽ khiến không gian phòng khách bị phá vỡ. Tương tự, những vật dụng vô ích sẽ làm giảm giá trị các không gian sống.

Bạn nên lập trình ý tưởng rõ ràng trước khi lên kế hoạch trang trí cho phòng khách, đừng nên biến phòng khách thành phòng để đồ hay đúng nghĩa hơn là nhà kho.

Thiếu ánh sáng
 
Ánh sáng có vai trò đặc biệt quan trọng trong không gian sống trong nhà, với phòng khách cũng vậy. Cần biết cách bố trí và thiết kế các cửa sổ giúp phòng khách không bị yếm khí và thiếu ánh sáng.

Không ít người sai lầm khi đặt quá nhiều chậu cây cảnh trên cửa sổ của phòng khách. Đây là lỗi phổ biến trong quan niệm phong thủy của người phương Đông bởi sẽ ảnh hưởng lượng ánh sáng thiên nhiên tận dụng cho nhà.

Vị trí

Theo các chuyên gia phong thủy, phòng khách nên được bố trí, sắp đặt là căn phòng đầu tiên của ngôi nhà và ở vị trí gần nhất với cổng ra vào. Điều này giúp khách tới chơi nhà có thể đi thẳng đến phòng khách sau khi bước vào từ cổng mà không phải đi qua những căn phòng khác trước.

Ngoài ra, phòng khách còn phải là nơi có thể hấp thu được nhiều không khí và ánh sáng tự nhiên nhất. Đây là cách giúp các thành viên trong gia đình bạn luôn khỏe mạnh, dồi dào sức khỏe và không ốm đau.

Thiết kế
 
Phòng khách có thể hấp thụ được nhiều không khí và ánh sáng nhất cũng như tạo được vòng luân chuyển không khí, vì thế nên thiết kế phòng khách theo hình vuông hoặc hình chữ nhật thay vì những hình thù khác.

(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng khách và nguyên tắc "bất biến" trong phong thủy

Mặc theo ngũ hành, thuận lợi hanh thông

Phong thủy không phải là thứ cao siêu xa vời mà được ứng dụng ngay trong cuộc sống đời thường. Ăn mặc thuận theo ngũ hành sẽ giúp chủ nhân thuận lợi, hanh
Mặc theo ngũ hành, thuận lợi hanh thông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thông hơn trong cuộc sống. 

Mac theo ngu hanh, thuan loi hanh thong hinh anh
 
Người mệnh Mộc cần được Thủy sinh trợ để phát triển tươi tốt nên sử dụng trang phục nhiều màu đen, tím sẫm. Những họa tiết thì mềm mại, có nhiều đường cong. Tóc cũng nên để dài với một cặp kính đen và mắt kính tròn thì hợp. Giày nên chọn loại có mũi tròn.
 
Người mệnh Hỏa do Mộc sinh Hỏa nên cần sử dụng trang phục tươi trẻ, nhiều gam màu xanh với những họa tiết kẻ sọc, dài thẳng. Một cặp kính có gọng hay mắt kính màu xanh là lựa chọn của bạn. Giày nên chọn loại mũi hơi dài.
 
Người mệnh Thổ do Hỏa sinh Thổ nên trang phục có gam màu nóng ấm như đỏ, hồng, da cam rất may mắn. Họa tiết nên chọn là zigzag, hình nhọn. Khi mua kính chọn màu hồng, đỏ, mắt kính hình tam giác hoặc tương tự. Người mệnh này phù hợp với tóc ngắn theo phong cách trẻ trung. Đi giày mũi nhọn hơi hướng lên.
 
Người mệnh Kim chọn trang phục mang màu sắc thuộc Kim như nâu, vàng, ghi, họa tiết kẻ ô vuông. Kính mắt chọn loại mắt vuông, màu trắng hoặc nâu, đi giày mũi vuông.
 
Người mệnh Thủy có Kim sinh Thủy nên mặc màu trắng, sáng với họa tiết chấm tròn, hoa văn tròn, nhỏ thì hợp ngũ hành. Kính đeo loại mắt tròn hoặc bầu dục, có gọng trắng, vàng. Giày dép đi có mũi bầu dục.    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mặc theo ngũ hành, thuận lợi hanh thông

Bói tuổi kết hôn muộn qua tướng tay

Bói tuổi kết hôn qua tướng tay có thể cho ta biết những người có tuổi kết hôn chậm hơn những người khác. Điều này xuất phá chủ yếu từ nguyên nhân về tâm lý
Bói tuổi kết hôn muộn qua tướng tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng đó là câu nói rất có lý trong tình yêu. Để biết mình biết ta cũng cần phải xem tuổi kết hôn một cách chính xác mới có thể đưa ra quyết định đúng đắn.

Nhân tướng học có thể bói tuổi kết hôn qua các biểu hiện của tướng tay như các đường chỉ tay, độ mềm mại của tay, các cử động của ngón tay qua đó có thể xác định được những người kết hôn muộn.

1. Đường Tình cảm hiện lên hình bậc thang

Những người có Đường Tình cảm hiện lên hình bậc thang biểu thị phương diện tình cảm có chủ kiến nên khi chọn người bạn đời thường không suy nghĩ kín kẽ, chỉ là dựa vào tình cảm nhất thời mà quyết định, đôi khi dễ bị lừa dối trong tình yêu, cộng thêm tính ỷ lại của bản thân lại khá cao, những người này sẽ nhẹ dạ cả tin vào những lời ngon ngọt của đối phương, cho nên thường bị những lời nói dối đánh lừa, không nhìn được hết chân tướng sự việc.

Nếu chỉ tay bạn có đặc điểm này, hãy bình tĩnh và sáng suốt. Dừng lại một chút, nghĩ kỹ một chút, chất vấn bản thân thêm. Nếu những câu hỏi, những suy nghĩ mà bạn vượt qua được, chí ít tình cảm của bạn với người ấy là chân thành.

2. Ngón Cái mềm có thể cong gập ra sau

Khi bói tình yêu người có ngón tay Cái mềm, có thể cong gập ra sau được cho thấy tình cảm của người này hỷ nộ vô thường, có biểu hiện gọi là tình cảm hóa. Nhưng bởi coi trọng chuyện quan hệ tình cảm, dường như là muốn đối phương toàn tâm toàn ý chăm sóc mình nên dễ bị đối phương lừa dối, cuối cùng rơi vào cảnh thương tâm, buồn bã, ân hận. Nếu bị phụ bạc một lần, họ sẽ vô cùng thận trọng khi yêu người khác nên tuổi kết hôn thường hay muộn màng.

Nếu bạn là người tình cảm hóa yêu thương, hãy nhớ rằng, tình yêu tuy một những vẫn là hai. Hai ở đây là hai người chung một tình yêu. Con người vẫn cần phải có không gian riêng, vẫn cần có những sở thích, vẫn cần có những đam mê khác. Nếu bạn chỉ muốn người ta toàn tâm toàn ý, lúc nào cũng nghĩ tới bạn, điều đó sẽ mang lại cho đối phương cảm giác ngột ngạt, bứt bối. Theo phản xạ, sẽ có xu hướng lánh xa bạn thêm. Có câu: “lạt mềm buộc chặt”, hãy khéo léo trong tình yêu!

3. Đầu ngón út mềm yếu, vô lực

Người có Đầu ngón út mềm vô lực cho thấy vận thế tình cảm không tốt, thường xuyên gặp phải những kẻ bạc tình, dẫn tối nhiều tổn hại, nhưng chính vì không biết nhìn xa trông rộng cho nên đối với những cám dỗ của họ hầu như là không thể kháng cự lại được, một khi đã rơi vào bẫy của đối phương thì cuối cùng chỉ còn tay trắng.

Bởi vậy, nếu bạn rơi vào trường hợp này, hãy lùi một bước mà trời cao biển rộng. Hãy nghĩ về tương lai, nghĩ về những mơ ước trong tình yêu của bạn, xem những ngọt ngào hiện tại bạn đang có, có thật sự là tình yêu không. Cả hai phía nhé. Dừng lại một chút giúp bạn không bị tình cảm chi phối hoàn toàn phán xét của mình. Ít nhất, hãy một lần để lý trí lên tiếng.

4. Đường Trí tuệ quá ngắn

Đường Trí tuệ quá ngắn (như hình 1) cho thấy tình cảm dễ bị kích động, đời sống tình cảm hầu như xuất hiện rất nhiều vấn đề, cộng thêm thiên tính thuần nhất không phòng bị người khác, cho nên người này dễ bị người bạn đời cho vào mộng mị mà không hề hay biết đối phương sớm đã trở mặt với mình, cho tới khi chân tướng sự việc đã quá rõ ràng.

Hãy khôn ngoan trong tình yêu. Điều này không có nghĩa là bạn tính toán, làm lợi, hay chạy theo tình cảm mù quáng. Khôn ngoan ở đây là bạn sáng suốt trong vấn đề tình cảm của hai người. Hãy để bản thân bạn ở thế chủ động. Bạn có hiểu người yêu của mình không. Bạn có thể khéo léo làm cho anh ấy bị “sức hút” của bạn không thoát ra được không.

5. Đường Tình cảm phân nhánh song song

Những người có Đường Tình cảm phân nhánh song song (như hình 2) biểu thị là người rất coi trọng tình cảm, không muốn bị người khác ép buộc, thường vui vẻ đáp ứng yêu cầu của người khác, có khuynh hướng là người chín chắn, về mặt tình cảm, họ thiếu khả năng nhìn thấu sự việc, dù đã biết đối phương có hành vi quay lưng lại với mình cũng sẽ sẵn sàng tha thứ cho mọi hành động của đối phương.

Nếu gặp được người yêu thương mình thật sự, bạn sẽ thật hạnh phúc vì hai người đều trân trọng tình cảm của nhau. Nhưng nếu gặp thất bại ngay lần đầu, thường sẽ bị tổn thương sâu sắc. E dè trong mối tình mới nên khi bói tuổi kết hôn cũng thường được kết luận là chậm hơn.

Cần lưu ý là 5 trường hợp trên không phải nhất nhất là kết hôn muộn. Mà là bởi tính cách từ những đặc điểm của tướng tay dễ dẫn đến tình trạng như vậy mà thôi!

(theo Tử vi số mệnh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tuổi kết hôn muộn qua tướng tay

Hướng bếp hợp người sinh năm 1954 Giáp Ngọ –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1954: - Năm sinh dương lịch: 1954 - Năm sinh âm lịch: Giáp Ngọ - Quẻ mệnh: Khảm Thủy - Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1954:

tu-bep-dien-dai_1

– Năm sinh dương lịch: 1954

– Năm sinh âm lịch: Giáp Ngọ

– Quẻ mệnh: Khảm Thủy

– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch 

– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1954 Giáp Ngọ –

Những kiêng kỵ trong thiết kế phòng lớn cho cửa hàng –

Lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc Kiến trúc lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc thuộc Tốn, ngũ hành thuộc Mộc, mùa đông gió Đông Bắc về sẽ tràn vào, không thuận lợi. Thiết kế cho phòng lớn độ rộng hẹp phải thích hợp. Lưng phía Tây, mặ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc

Kiến trúc lưng hướng Đông Nam, hướng về phía Tây Bắc thuộc Tốn, ngũ hành thuộc Mộc, mùa đông gió Đông Bắc về sẽ tràn vào, không thuận lợi. Thiết kế cho phòng lớn độ rộng hẹp phải thích hợp.

Lưng phía Tây, mặt phía Đông

Kiến trúc lưng phía Tây, mặt phía Đông thuộc Đoài, ngũ hành thuộc Kim, hệ âm Kim. Nếu chủ cửa hàng là phụ nữ, thì phòng lớn quá sáng sủa, buôn bán thuận lợi. Nếu người phụ trách là nam giới thì sẽ hại dương khí trong phòng, ảnh hưởng đến sức khỏe, tài vận.

Lưng phía Đông Bắc, mặt hướng Tây Nam

phong-lon-cua-hang

Kiến trúc lưng phía Tây Bắc, mặt hướng Đông Nam thuộc Cấn, ngũ hành thuộc Thổ. Tính chất của Thổ có phần rộng rãi sinh sôi vạn vật. Vì thế khi bố trí căn phòng phải tạo cảm giác to lớn rộng rãi, trồng cây xung quanh. Ngược lại, nếu bố trí căn nhà chật chội, bí bách sẽ gây cho khách hàng cảm giác không muốn ở lại lâu, từ đó buôn bán dần dần yếu kém.

Lưng phía Bắc, mặt hướng Nam

Kiến trúc này thuộc Khảm, ngũ hành thuộc Thủy. Tính chất của Thủy có lọi cho độ trầm, sâu, nuôi dưỡnng vận khí và lưu gió tụ khí. Vì thế bố trí căn phòng nên tạo cảm giác thân trầm không lộ liễu. Ngược lại, nếu nước nông lộ đáy, mùa đông đến gió bắc tràn vào làm cho khí tụ tản mát, có nghĩa khách hàng không muốn ở lại.

Lưng phía Đông, mặt hướng Tây

Kiến trúc này thuộc Chấn, ngũ hành thuộc Mộc. Tính chất của Mộc là sâu sắc, vững chãi, đàng hoàng. Vì thế khi bố trí căn phòng lớn phải lấy vững chãi, đoàng hoàng làm nền, tạo cảm giác cao lớn, có chiều sâu. Ngược lại, nếu rộng mà nông, có nghĩa dương khí không đủ, âm khí thịnh sẽ không có lợi cho kinh doanh.

Lưng phía Tây Nam, mặt hướng Đông Bắc

Kiến trúc này thuộc Khôn, ngũ hành thuộc Thổ. Nó giống như căn phòng lưng Đông Bắc mặt hướng Tây Nam. Cấu trúc của căn phòng phải rộng, trồng cây tạo cảm giác to lớn. Ngược lại, nếu quá chột chội sẽ có hiện tượng kinh doanh giảm, sự nghiệp tiêu tan.

Lưng Tây Bắc, mặt hướng Đông Nam

Kiến trúc này thuộc Càn, ngũ hành thuộc Kim. Tính chất của Kim có lợi cho sáng sủa, kỵ nơi tăm tối không đủ ánh sáng. Vì thế khi thiết kế phòng lớn phải sử dụng nhiều đèn chiếu sáng khắp nơi rực rỡ, tạo cảm giác sang trọng, hào hoa.

Lưng phía Nam, mặt hướng Bắc

Kiến trúc này thuộc Li, ngũ hành thuộc Hòa. Thiết kế phòng lớn phải áp dụng hệ thống màu sắc trầm, tạo cảm giáo mạnh mẽ mà trang nghiêm. Nếu màu sắc nhạt, lửa không phát huy, chủ nhà dễ phạm quan tư hoặc gặp hỏa hoạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ trong thiết kế phòng lớn cho cửa hàng –

Tại sao phải giữ cho vị trí hai bên trái phải cân bằng? –

Bên trái là Thanh Long, đại diện cho cương dương, nam tính. Vị trí Thanh Long tráng vượng đại diện cho quý nhân giúp đỡ và có sức mạnh trấn áp. Trong thần linh tứ phương, căn cứ vào thuyết pháp của “Sơn Hải kinh” : “Nam phương chúc dung, thú thân nhâ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên trái là Thanh Long, đại diện cho cương dương, nam tính. Vị trí Thanh Long tráng vượng đại diện cho quý nhân giúp đỡ và có sức mạnh trấn áp.

Trong thần linh tứ phương, căn cứ vào thuyết pháp của “Sơn Hải kinh” : “Nam phương chúc dung, thú thân nhân diện, thừa lưỡng long”; “Tây phương nhục thu, tả nhĩ hữu xà, thừa lưỡng long”; “Đông phương hữu câu mang, thân ô nhân diện, thừa lưỡng long”; “Bắc phương ngẫu cương, hắc thân thủ túc, thừa lưỡng long”.

p65

Điều vô cùng hay ở chỗ, tất cả rồng trong “Sơn Hải kinh” đều dùng để cưỡi, còn những loại cùng họ với rắn thì đều bị tóm, bị diễu hoặc bị buộc xung quanh cổ. Từ đó cho thấy hai loài được phân biệt khác nhau. Chu Tước, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ đại diện cho 28 vì tinh tú trong tứ phương. Long (rồng) là 7 ngôi sao ở phía Đông: sao Giác, sao Cang, sao Đê, sao Phòng, sao Tâm, sao Vĩ, sao Ki. Hình dáng của 7 ngôi sao này rất giống hình rồng. Còn từ triết tự của chúng ta cũng có thể nhận ra: Giác là sừng của rồng, cang là cổ, đê là sống lưng, phòng là vai, tâm là tim, vĩ là đuôi, ki là phẫn cuối của đuôi.

Bên phải là Bạch Hổ, đại diện cho âm nhu, nữ tính. Vị trí Bạch Hổ tráng vượng, đại diện cho sức mạnh của âm nhu. Trong tứ linh thú của Trung Quốc, có một con mãnh thú thường xuyên được bàn luận ngang hàng với Thanh Long đó là Bạch Hổ. Hổ đứng đầu trong hàng mãnh thú, trong truyền thuyết uy lực của nó có thể hàng phục được yêu ma quỷ quái, điều đó khiến nó trở thành thần thú trong phong thuỷ, luôn xuất hiện cùng với Thanh Long. “Vân tòng Long, phong tòng Hổ”, chúng trở thành một đôi thu phục yêu ma quỷ quái tốt nhất. Vì thế, Bạch Hổ được phong là Chiến thần, Sát phạt thần. Bạch Hổ có nhiều kiểu thần lực như tránh tà, cầu phúc,
trừng ác dương thiện, phát tài phát phúc, hỉ kết lương duyên. Là một trong bốn tứ linh nên Bạch Hổ cũng do các vì tinh tú biến thành. Bảy ngôi sao nằm ở phía Tây đại diện cho Bạch Hổ là: sao Khuê, sao Lâu, sao Vị, sao Ngang, sao Hoa, sao Tứ, sao Tham. Phía Tây ngũ hành thuộc Kim, màu trắng. Cho nên căn cứ vào ngũ hành, phía trước Hổ thêm chữ “Bạch” nên gọi là Bạch Hổ.

Nếu căn nhà chếch phải hoặc chếch trái nhiều quá thì tạo nên thế Thanh Long ngắn – Bạch Hổ dài hoặc Bạch Hổ ngắn – Thanh Long dài. Điều đó chứng tỏ sức mạnh âm dương không điều hoà, quyền lực nam nữ mạnh yếu không giống nhau. Thanh Long quá vượng ắt sẽ khiến tính nam mạnh mẽ, đi theo khuynh hướng chủ nghĩa nam giới, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng. Bạch Hổ quá vượng đại diện cho tai hoạ thị phi . Thanh Long, Bạch Hổ phải cân bằng, hài hoà thì mới có bầu không khí sinh vượng, tức là phong thuỷ khi đó mới tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao phải giữ cho vị trí hai bên trái phải cân bằng? –

Tướng người vợ tốt –

Người ta thường nói: “Đằng sau sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ”. Sự hậu thuẫn của người vợ có khi chỉ là những khích lệ tinh thần nhưng lại có ý nghĩa rất lớn, giúp chồng vững tin, vượt qua khó khăn, hướng đến thành
Tướng người vợ tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người vợ tốt –

Các cuộc tranh cử và khoa tử vi

Bài viết của tác giả Ân Quang về chủ đề: các cuộc tranh cử và khoa tử vi. Mời quý các bạn tham khảo!
Các cuộc tranh cử và khoa tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Ân Quang

Không hiếm gì trường hợp ứng cử viên được vị cố vấn Tử Vi cho biết là sẽ thắng cử, nhưng rồi lại thất cử.

Không hiếm gì trường hợp người dự cuộc đấu thầu được vị cố vấn về Tử Vi cho biết là sẽ trúng thầu, nhưng rồi lại thất bại.

Nhân những trường hợp ấy, chúng tôi thấy cần phải làm sáng tỏ công dụng của Tử Vi, rồi mới có thể định rõ giá trị của khoa này.

Xin lấy cuộc tranh cử Tổng Thống tại Mỹ làm thí dụ cho dễ hiểu. Trong cuộc bầu cử ấy có hai ứng cử viên, tạm đặt tên là Ông A và Ông B.

Nhìn vào lá số của Ông A, thấy nhiều sao tốt, nhiều cách tốt ở các cung Mệnh, Quan, Đại, Tiểu hạn v.v… liền đoán là Ông A sẽ đắc cử.

Nói rằng Ông A sẽ thành công, tức là nói rằng Ông B sẽ thất bại.

Nhìn vào lá số của Ông A, rồi cho thế là đủ đoán rằng Ông B sẽ thất bại. Còn gì phi lý hơn! Vì lỡ Ông B có những cách tốt hơn ở cung Mệnh, Quan, Đại, Tiểu hạn… thì sao!

Chỉ nhìn vào lá số Ông A thấy có nhiều cách tốt, đoán là Ông A thắng, may mà vận số Ông B kém, Ông A được thắng thật sự, thì đây quả là trường hợp “Phúc Chủ Lộc Thầy”, “Thánh cho ăn Lộc”.

Chúng tôi có một người bạn đến than thở rằng:

“Tôi cũng biết tính Tử vi lõm bõm. Cũng đã vấn kế thầy… rồi mới đi đấu thầu mà vẫn thất bại. Có Tả Hữu Song Lộc mà vẫn hụt. Nhờ anh xem hộ có vị sao nào phá?”

Tôi liền đáp:

“Tôi không cần xét đến vị sao nào phá hay không phá. Anh có Tả Hữu Song Lộc thì mặc anh, lỡ đối thủ của anh lại có Tả Hữu, Song Lộc, Khôi Việt, Quang Quý, Đại tiểu hạn của người ta đều phát cả thì sao?” Anh nào có phải thiên thần, là sứ giả của Thượng Đế mà mong rằng đi đến đâu vạn vật xung quanh cũng phải chuyển mình cho ăn khớp với lá số của anh, dù cho năm nay có Lộc, không Lộc này sẽ có Lộc khác.

Vì sao lại có trường hợp nhìn lá số của người này để đoán rằng người kia sẽ thất bại.

Đó là vì cái Ngã Chấp, lấy cái Tiểu Ngã làm trung tâm, làm cái trục của vũ trụ. Tưởng chừng như cả vũ trụ này đều phải xoay quanh cái Tiểu Ngã.

Vì một sự ngộ nhận, một quan niệm sai lầm như vậy mà đã xảy ra không biết bao nhiêu trường hợp, nhìn vào lá số của người chồng rồi đoán là người vợ chết, xem lá số của người con rồi quả quyết người cha qua đời. Rốt cuộc thân quyến của các đương số vẫn sống.

Vận số của một người này chỉ tạo nên một ảnh hưởng tương quan, tương đối hoặc tương trợ cho một người khác trong thân quyến. Cũng còn tùy thuộc thêm nơi vận số của người kia, mà sự tốt xấu có thể tăng hay giảm.

Căn cứ vào lá số của người nà, để luận về sự thành bại; sống chết của người kia chỉ là luận tương đối. Còn cần phải xét thêm về số hoặc nét Tướng của đối thủ, hoặc của người liên hệ trong thân quyến mà luận thêm.

Tử Vi là Tử Vi Lý Số, một môn Lý Học – Luận về Tử vi là luận theo Lý chứ nào phải để tìm một đáp số toán học thuần túy.

Cái Tên Tử Vi Lý Số dài dòng quá (có lẽ) nên các học giả Tử Vi về sau đã rút gọn lại, còn là Tử Vi – Lâu ngày thành thói quen và người hậu học đã bỏ rơi chữ Lý Số, cũng như bỏ rơi cái quan niệm Lý Học. Rồi vì những khát vọng riêng, muốn đi tìm một đáp số toán học tuyệt đối, đã cố gán ghép cho Tử Vi một giá trị toán học thuần túy.

Tử Vi nào có phải chỉ là một môn toán học giản dị chỉ nhằm mục đích duy nhất là cho biết kết quả thành hay bại, sống hay chết, chỉ để coi cho đỡ nôn nao, sốt ruột, dùng khoa ấy như một liều thuôc an thần.
Chỉ vì khát vọng riêng, muốn dùng Tử vi để tìm một đáp số toán học, mà nhiều người nghiên cứu đã quá nặng tinh thần công thức các bộ sao này, cùng các bộ sao khác. Sao X, cộng với sao Y, thì ra đáp số gì, sao Y cộng với sao Z, thì ra đáp số nào. Và cái quan niệm Lý Số, Lý Học đã hoàn toàn bị bỏ quên.

Trong mọi cuộc tương tranh, như tranh cử, đấu thầu… Không có cá nhân nào là trung tâm của vũ trụ:

Căn cứ vào lá số của Ông A, để luận rằng Ông B sẽ phải thất bại là làm một cuộc phiêu lưu, thiếu ý thức sáng suốt.

Nhìn vào lá số của ông A dù cho thấy rằng có nhiều vị sao, nhiều cách tốt thì cũng chỉ nên luận là có nhiều triển vọng vậy thôi.

Nếu chỉ đoán được thế thôi, thì Tử Vi cao quý ở chỗ nào?

Dịch Lý, cũng như Tử Vi Lý Số nhằm mục đích giúp học giả đưa cái nhìn về Thiên Lý (chứ không phải nhìn vào Tiểu Ngã để luận xem nên hành động như thế nào. Nên cương, nên nhu, nên đề phòng về những phương diện nào, nên hành động một mình hoặc là không nên đương đầu một mình mà cần kết hợp, đứng chung liên danh hoặc hùn vốn với người khác thì có lợi hơn, v.v… hoặc nếu tung hoành một mình thì có thể tổn hại, v.v… Những cách tính Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời, nào phải chỉ có một mục đích để thỏa mãn tính tò mò, rồi tiêu cực, thụ động chờ thời, mà còn là để luận về những “khí vận” của Tháng, Ngày, Giờ xem nên hành động như thế nào. Khởi công hoặc gặp sự việc gì lạ đưa đến thì cũng nhìn vào Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời để luận tính chất khí vận ấy ra sao, rồi lại cũng căn cứ vào Lý Học mà liệu đường phản ứng.

Chính là vì cái mục đích xử thế theo thiên lý, mục đích cao quý của Tử Vi Lý Số, mà người nghiên cứu cần có những quan niệm về Âm Dương Ngũ Hành và cần thấu triệt ý nghĩa tên các vị sao để suy luận cho được rộng rãi, chứ không phải chỉ loanh quanh với công thức những bộ sao này, công thức bộ sao nọ v.v… Nếu Tử Vi chỉ là công thức những bộ sao thì người xưa đã không dại gì mà đặt tên sao thế này, tên vị sao nọ cho phiền toái, cứ đưa ra những dấu hiệu, những mẫu tự, hoặc dùng một cách đánh dấu giản dị nào đó cũng được.

Vì không thấu triệt ý nghĩa tên các vị sao để liệu đường chế hóa cho nên hậu học Tử Vi không thể sánh bằng tiền bối Tử Vi. Thí dụ như một ngàn năm trước đây, nói đến Thanh Long, Long Trì, Bạch Hổ, thì một người có trình độ trí thức trung bình tại Trung Hoa cũng có một quan niệm quá rõ rệt, thừa sức diễn tả, hiểu đến tận cùng những ý nghĩa của Thanh Long, Bạch Hổ. Ngày nay, với bao nhiêu bút mực diễn tả chúng ta cũng chỉ có một ý niệm tương đối về Thanh Long, Bạch Hổ, có khi lại còn có những cảm quan hơi khác nhau. Thật chẳng khác nào, một ngàn năm sau này có dùng phấn trắng vẽ lên bảng đen, hình ảnh một cái khăn đóng, áo thụng, thì cả thầy giáo lẫn trò đều không hình dung hết được cái khăn, cái áo ấy ra sao, và có lẽ cũng chẳng ai thưởng thức cái vẻ đẹp ấy. Cả cái cảm quan của họ một ngàn năm sau này cũng khác với chúng ta ngày nay.

Ấy là chưa kể đến tên các vị sao khác như Trực Phù, Phi Liêm, Bát Tọa, Dương Nhận v.v… mà nhiều sách, nhiều người chỉ nói vắn tắt là chủ việc này chủ việc nọ, thì còn nói gì đến việc chế hóa các bộ sao, cân nhắc hành xử theo Thiên Lý…

Còn một điểm nữa cần xét đến, lá số của mỗi cá nhân chỉ có ảnh hưởng rất tương đối trong tập thể xã hội, cùng thì một cung Điền Trạch rất tốt mà ở quốc gia này người ta có thể có rất nhiều ruộng đất, ở quốc gia khác, chế độ khác may ra chỉ có một cái nhà riêng để ở, rồi đương số cũng cho như thế là giàu có lớn.

Quanh đi quẩn lại, cũng chỉ có ngần ấy năm, tháng, ngày giờ sinh mà ở các thế hệ trước rất nhiều người lập gia đình khi đại hạn đi đến cung Huynh, cung Phụ Mẫu, thế hệ này thì phần nhiều lập gia đình khi đại hạn đến cung Phu Thê, cung Phúc Đức. Biết đâu vào thế hệ sau này, phần nhiều lại lập gia đình khi đại hạn đi đến cung Tử Tức, Điền Trạch.

Không có cá nhân nào tách rời khỏi vũ trụ, và cũng chẳng có lá số Tử Vi nào tách khỏi thực tế của cuộc đời.

Có khi xuất ngoại đi hàng vạn cây số thì được, mà đi vài trăm cây số sang một quốc gia lân cận lại không được vì hai quốc gia ấy đang ở trong vòng thù nghịch. Có ông sao nào trong lá số rồi cũng không đi được.

Không riêng gì ở Tây Tạng mới có những cuộc kết hôn lạ đời, mà ngay ở Việt Nam ta, tại một vào bộ lạc thiểu số vẫn có tục em rể phải lấy chị dâu nếu người anh ruột của mình qua đời. Đối với họ, như thế là sự thông thường, thì chúng tôi thiển nghĩ rằng không nên áp dụng những bộ sao, những cách đoán về loạn luân cho họ. Đối với họ, nếu người em rể không chịu lấy chị dâu, mà lại đi lấy người khác thì mới là loạn luân. Biết đâu chừng lúc ấy các bộ sao loạn luân mới ứng với họ.

Lại như những năm xưa, chiến cuộc lan tràn khắp nơi, chẳng ai học hành thi cử được. Dù có văn tinh, khoa giáp tinh trong vận số của mình thì may ra cũng chỉ tự học thêm mà thôi, chứ có thi cử gì được.

Tử Vi cũng như Bói Dịch, là Lý Học, chứ không phải Toán Học. Phương pháp của những khoa ấy là quy nạp để rồi diễn dịch, chứ không phải chỉ là áp dụng một số công thức để rồi vũ đoán ngay một đáp số.

Muốn diễn dịch thì cần hiểu rõ tên gọi các vị sao, làm sáng tỏ ý nghĩa các yếu tố trong khoa ấy, như “Cục” là cái gì, v.v… rồi sau mới có thể luận xa hơn được. Nếu không hiểu rõ tên gọi, nếu không có quan niệm rõ rệt về các yếu tố trong khoa Tử Vi, chỉ hiểu mơ hồ, rồi vội vã thông qua, cho thế là đủ thì sẽ bị lạc hướng, loay hoay với các công thức. Dù cho có thu thập được nhiều công thức nhất, thì trước sau cũng chỉ có 518.400 lá số Tử Vi mà thôi. Nếu không diễn dịch, nếu không xét đến những yếu tố gia đình, gia tộc, xã hội, những yếu tố tương quan, tương đối, tương trợ xung quanh một cá nhân thì làm sao luận giải được hàng vạn hàng triệu sắc thái khác nhau của cuộc đời.

Nói đến diễn dịch thì phải dựa vào thực tế của cuộc đời mà diễn dịch.

Bói thì phải biết bói sờ, bói ngửi, bói nghe (xin xem lại bài phỏng vấn Thầy Kim).

Luận về một quẻ độn “Trường Mộc Đoản Thiết” thì cũng phải dựa vào yếu tố thời tiết, mùa nào, để đoán xem là vật dụng gì, cái mai hay cái quốc (đã có giai thoại)

Người ta nhờ mình đoán về các việc xuất ngoại thì cũng phải xem là xuất ngoại đi đâu. Chứ vội tính ngay ông sao này, vị sao nọ, rồi nói rằng đi được. Người ta hỏi rằng đi sang cái quốc gia thù nghịch bên cạnh đây có được không, lúc ấy người nghiên cứu ăn nói thế nào?

Nói đến Lý Số, Lý Học thì phải nhìn vào thực trạng của xã hội, nhìn vào những yếu tố tương quan của gia đình, gia tộc, quốc gia, v.v… để làm khởi điểm cho sự diễn dịch, lý giải.

Diễn dịch, lý giải mà không xét đến những yếu tố tương quan trong thực tế thì rất dễ rơi vào vòng viển vông, phi lý.

Nhìn vào lá số của Ông A, để luận rằng ông B sẽ thất bại hoặc chỉ nhìn riêng vào lá số của người này, rồi quyết đoán về sự sống chết của người kia, thì thật là phản khoa học.

Nếu có gặp may mà đoán đúng chăng nữa thì cũng chỉ là chuyện “Phúc Chủ Lộc Thầy”, “Thánh cho ăn Lộc” mà thôi.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các cuộc tranh cử và khoa tử vi

Văn khấn Quán Thế Âm Bồ Tát ở Chùa

Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hầu hết người Việt Nam đều ngưỡng mộ Đức Quán Âm Bồ-tát. Trong các chùa ở thành thị cũng như thôn quê ở đâu cũng có tôn thờ hình tượng của Ngài, người ta còn thờ riêng ở nhà nữa. Nhiều người chưa biết gì nhiều giáo lý của đạo Phật, nhưng họ vẫn kính mộ Đức Quán Thế Âm Bồ-tát một cách thuần thành. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể. Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Khi vào chùa cần soạn lễ và văn khấn như thế nào?

van-khan-quan-the-am-bo-tat

1. Lưu ý khi sắm lễ 

- Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè… không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả…

- Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Thánh, Mẫu và chỉ dâng ở đó mà thôi. Tuyệt đối không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính diện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh. Lễ mặn (nhưng thường chỉ đơn giản: gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) cũng thường được đặt tại ban thờ hay điện thờ (nếu xây riêng) của Đức Ông - Vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa.

- Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chủ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông.

- Tiền giấy âm phủ hay hàng mã kiêng đặt ở ban thờ Phật, Bồ Tát. Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện, mà nên bỏ vào hòm công đức.

- Hoa tươi lễ Phật là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu… không dùng các loại hoa tạp, hoa dại…

2. Thứ tự hành lễ ở Chùa cần theo thứ tự như sau:

1. Đặt lễ vật: Thắp hương và làm lễ ban thờ Đức Ông trước.

2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang.

3. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.

4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu)

5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tuỳ tâm công đức.

3. Văn khấn Quán Thế Âm Bồ Tát ở Chùa

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Nam mô Đại từ, Đại bi Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thùy từ chứng giám.

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là .....................
Ngụ tại .................................

Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen hồng.

Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.

Cẩn nguyện


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Quán Thế Âm Bồ Tát ở Chùa

Động tác nhỏ thường ngày 'bán đứng' tính cách chủ nhân

Bảo thủ, không bao giờ chịu nhận lỗi là tính cách điển hình của những người rung chân. Bên cạnh đó, họ cũng khá vui tính, hài hước, và sống giản dị, chân thành.
Động tác nhỏ thường ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Lấy tay nghịch tóc

Bạn vui buồn thất thường, dễ đa sầu đa cảm, hay trầm trọng hóa vấn đề. Khi người khác ở bên bạn, họ luôn phải thận trọng trong từng lời nói, vì sợ bạn phật lòng, không vừa ý.

2. Để tay lên miệng

Bạn rất để tâm tới việc người khác nghĩ gì về mình, luôn cho rằng có ai đó đang nhìn mình, sống nhạy cảm với thế giới xung quanh.

3. Nghịch đồ phụ kiện

Bạn hay suy tư, làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điểm yếu của bạn là dễ chán, không kiên trì nên nhiều khi bỏ dở giữa chừng.

dong-tac-nho-thuong-ngay-ban-dung-tinh-cach-chu-nhan

4. Khoanh tay

Bạn có xu hướng sống nội tâm, không thích thể hiện tình cảm và có chút thiếu tự tin, luôn trong tư thế phòng thủ. Bên cạnh đó, bạn còn được biết đến là người có suy nghĩ độc đáo, logic và lập trường vững chắc.

5. Vừa nói vừa cười

Bạn đi đến đâu, mang tới tiếng cười và sự vẻ đến đó. Bất cứ ai ở bên bạn đều cảm thấy yên bình, dễ chịu. Có thể nói, bạn thuộc tuýp người thích mang niềm vui tới cho mọi người, nhưng lại ngại chia sẻ chuyện riêng tư của mình cho người khác.

6. Luôn phải dựa vào vật gì đó

Bạn bề ngoài mạnh mẽ, cứng rắn, luôn tỏ ra vô tư, vui vẻ. Thực chất, nội tâm bạn rất sâu sắc, nhạy cảm và hay dỗi.

7. Rung chân

Maruko


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Động tác nhỏ thường ngày 'bán đứng' tính cách chủ nhân

Kiêng kỵ trong nhà đặt hai bếp –

Hiện tượng: Trong nhà nếu đặt hai bếp (bếp ga), ngoài việc ảnh hưởng đến sự đoàn kết của các thành viên trong gia đình ra, còn có thể làm phát sinh những sự việc ngoài ý muốn. Phương pháp hóa giải: Không có cách nào khác là nhanh chóng bỏ đi một bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Trong nhà nếu đặt hai bếp (bếp ga), ngoài việc ảnh hưởng đến sự đoàn kết của các thành viên trong gia đình ra, còn có thể làm phát sinh những sự việc ngoài ý muốn.

20130510164042-image002

Phương pháp hóa giải: Không có cách nào khác là nhanh chóng bỏ đi một bếp để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ trong nhà đặt hai bếp –

Sự kỳ lạ của đá thạch anh –

Thạch anh là một loại đá. Đá thạch anh rất phổ biến trong tự nhiên. Có thể bạn không tin, nhưng nếu tình cờ bạn nhặt được 1 viên sỏi, khả năng rất cao là bạn đang cầm trong tay một viên thạch anh. Sỏi này thực chất là thạch anh bị rớt xuống sông suối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thạch anh là một loại đá. Đá thạch anh rất phổ biến trong tự nhiên. Có thể bạn không tin, nhưng nếu tình cờ bạn nhặt được 1 viên sỏi, khả năng rất cao là bạn đang cầm trong tay một viên thạch anh. Sỏi này thực chất là thạch anh bị rớt xuống sông suối, bị nước bào mòn theo thời gian nên tròn nhẵn bề mặt. Còn thạch anh dạng tinh thể tự nhiên thì khó có khả năng tình cờ bắt gặp, mà phải chịu khó trèo đèo lội suối băng rừng tìm kiếm mới có. Tuy nhiên đá thạch anh có gì đặc biệt? hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về sự kỳ lạ của đá thạch anh nhé!

Nội dung

  • 1 Nguồn gốc của đá thạch anh
  • 2 Điều thần bí của đá thạch anh
    • 2.1 Viên đá màu nhiệm
    • 2.2 Nhà tiên tri nổi tiếng
    • 2.3 Những phỏng đoán chính xác
  • 3 Sự kỳ lạ của đá thạch anh
    • 3.1 Tiếp cận chân lý

Nguồn gốc của đá thạch anh

Thạch anh (silic điôxít, SiO2) hay còn gọi là thủy ngọc là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện silic – oxy (SiO4), trong đó mỗi oxy chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.

Thạch anh là khoáng vật rất phổ biến trong tự nhiên và là thành phần của rất nhiều loại đá và khoáng sản quặng. Thạch anh thường gặp ở dạng thành phần chính của nhiều loại đá magma axit xâm nhập và phun trào ở dạng hạnh nhân như mã não và onix, một số đá trầm tích cơ học như cát kết thạch anh, đá biến chất từ các loại đá trên như quartzit. Trong các quá trình biến chất thạch anh hình thành do sự khử nước của các đá trầm tích chứa opal để thành tạo ngọc bích. Trong các quá trình ngoại sinh thạch anh và conxedon thành tạo do sự khử nước và tái kết tinh của keo silic. Ngoài ra còn gặp các tinh thể lớn của thạch anh trong các hỗng pegmatit cộng sinh với fenspat, muscovit, topaz, beryl, tuamalin và một số khoáng vật khác, và là khoáng vật phổ biến trong các khoáng sàng nhiệt dịch.

Điều thần bí của đá thạch anh

Viên đá màu nhiệm

Từ thời xa xưa, thạch anh (quarta) đã được coi là một thứ đá màu nhiệm. Thạch anh được gọi là băng tinh, không tan thành nước, trông trong suốt như pha lê, có một đặc tính đáng chú ý: Nó bao giờ cũng mát lạnh khi ta cầm lên tay. Bởi vậy từ xưa, để kiểm tra xem là đồ thật hay đồ giả, thợ kim hoàn thường áp nó vào má xem có lạnh không.

Hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX việc dùng viên đá thạch anh để bói đã trở thành “mốt” thực thụ ở nước Anh. Đối với một số người nhiệt tình, việc bói này đã mang lại kết quả mỹ mãn và do đó đã trở thành một nghề ăn nên làm ra và rất nổi tiếng. Một trong những thầy bói lừng danh như vậy ở đầu thế kỷ XX là một người Anh tên là Fon Burg. Một loạt vụ việc rắc rối mà Fon Burg khám phá ra nhờ viên đá thạch anh đã làm cho tên ông ta nổi như cồn.

Nhà tiên tri nổi tiếng

Vào những năm 1940 ở Mỹ xuất hiện một nhà nữ tiên tri nổi tiếng tên là Jane Dickson (nguyên họ là Pinkert). Ngay từ lúc mới 5 tuổi, Jane đã biểu diễn cho người thân xem khả năng tiên đoán siêu phàm của mình: em đã tiên đoán những sự kiện tương lai, các món quà mà khách đem đến, cái chết của những người thân thích…

Năm lên 8 tuổi, cô bé đã nhận được một món quà có tính chất định đoạt toàn bộ số phận sau này của em. Sự kiện đáng nhớ này xảy ra trong ngôi nhà của một bà thầy bói người Digan nổi tiếng mà mẹ cô dẫn cô đến để “tư vấn”. Công việc đầu tiên của bà Digan là xem bàn tay của cô bé: “Cô con gái của bà sẽ trở thành một nhà tiên tri vĩ đại”. Sau đó bà ta đưa cho cô bé viên đá thạch anh: “Cháu nhìn thấy gì trong viên đá này?”. Jane chăm chú nhìn vào giữa viên đá và bắt đầu miêu tả một địa điểm chưa hề quen biết: một dải bờ hoang dã lởm chởm đá, sóng biển nhấp nhô… “Đấy là quê hương của ta. Ta tặng cháu viên đá này” bà thầy bói Digan nói. Viên đá thạch anh đã lọt vào đúng địa chỉ cần thiết.

Những phỏng đoán chính xác

Chí ít, Jane đã hai lần tư vấn cho Tổng thống Mỹ Roosevelt. Trong cuộc gặp lần thứ nhất vào tháng 11/1944, Roosevelt (bị liệt hai chân phải ngồi trong xe đẩy) hỏi: “Xin cô hãy nói thẳng cho tôi biết liệu tôi còn sống được bao lâu nữa để kết thúc công việc đã bắt đầu?”. Jane không thể né tránh câu trả lời: “Nửa năm nữa, thưa ngài tổng thống, mà có thể thậm chí còn ít hơn”. Sau cuộc gặp đó được 5 tháng, ngày 12/4/1945, đúng như điều Jane tiên đoán, Roosevelt đã từ trần.

Cuối năm 1956, Jane đã tiên đoán rằng sau chừng 7 năm nữa người kế nhiệm đương kim thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru (1889-1964) sẽ là một người mà tên tuổi họ được bắt đầu bằng chữ “S”. Lần này viên đá thạch anh cũng bộc lộ khả năng màu nhiệm của nó: tháng 6/1964 sau khi Nehru qua đời, Lal Bahadur Shatri đã trở thành Thủ tướng Ấn Độ.

Dickson cũng có thể thông báo về số phận của một số người. Chẳng hạn bà đã tiên đoán một cách chính xác tương lai của người nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng Ronald Reagan mà sau này trở thành vị Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981-1989). Năm 1964, Dickson đã dự báo rằng người Nga sẽ là người đầu tiên đưa con tàu vũ trụ lên mặt trăng, rằng trước năm 2000 bức tường Berlin sẽ bị phá đổ, còn ở La Mã sẽ có vụ ám sát Đức giáo hoàng.

Đặc biệt, Dickson nhìn thấy rất rõ những tấm thảm kịch trong tương lai. Chẳng hạn bà đã báo trước trận động đất năm 1964 ở Aliasca, đã tiên đoán cái chết của J.F.Dales, cái chết của nữ minh tinh Marilyn Monroe, của thủ lĩnh da đen Martin Luther King, của thượng nghị sĩ Robert Kenedy. Bà cũng khuyên can nữ nghệ sĩ Lombard không nên đi máy bay, nhưng Lombard đã coi thường lời cảnh báo tận tình và đã bỏ mạng trong một tai nạn phi cơ.

Danh tiếng trên quy mô thế giới đã đến với Dickson sau vụ ám sát John Kenedy (1917-1963). Sự kiện bi thảm này đã được bà tiên đoán ngay từ năm 1956, khi mà không ai ngờ rằng 5 năm sau vị chính khách ít người biết đến đó sẽ trở thành Tổng thống Mỹ. Song Jane Dickson không chỉ miêu tả cho một nhà báo Mỹ thấy ngoại hình của vị Tổng thống Hoa Kỳ tương lai (mái tóc dày màu hạt dẻ và đôi mắt xanh) mà còn nói rằng kẻ giết ông ta là một người có cái tên bắt đầu bằng chữ “O” hoặc chữ “Q”.

Sự kỳ lạ của đá thạch anh

Tháng 12/1966, Jane đã làm cho thế giới sửng sốt bằng một lời tiên tri mới: Bà đã báo cho vợ của người phụ trách bộ phận điều khiển các chuyến bay vũ trụ có người lái biết rằng cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bay lên mặt trăng. Bà đã cho biết những gì mình nhìn thấy như sau: “Trên sàn quả tên lửa có một cái gì đó rất lạ – nó mỏng trông giống như lá kim loại, nếu có một dụng cụ nào đó rơi vào nó hoặc có ai đó lấy gót giày giẫm lên thì ắt sẽ xảy ra tai họa. Ở phía dưới sàn tôi nhìn thấy một cuộn dây điện rối tung. Cái chết đang đe dọa các nhà du hành vũ trụ. Tôi cảm thấy rằng linh hồn của họ đang lìa khỏi xác nóng hổi trong những cuộn khói…”

Hỡi ôi, và cả lần này lời tiên đoán cũng rất chính xác. Một tháng sau, ngày 27/1/1967 trong khi tập luyện trong con tàu vũ trụ “Apollon – 1”, 3 nhà du hành vũ trụ Mỹ đã bị thiêu sống. Đó là Virgil Prisom, Edward Wait và Roger Chaffi. Sự cố chập mạch của dây điện ở bên dưới ghế ngồi của Chaffi trong môi trường chứa ôxy nguyên chất lập tức bùng lên thành một ngọn lửa hung hãn. Lời nói cuối cùng mà các nhân viên điều hành vô tuyến điện nghe được là tiếng kêu hấp hối của Roger Chaffi, một thành viên trẻ nhất của phi hành đoàn: “Chúng tôi đang bị thiêu sống! Hãy đưa chúng tôi ra khỏi đây!”. Sau 14 giây, một đám khói bao trùm lên buồng điều khiển và con tàu “Apollon” bị nổ tung vì cháy…

Tiếp cận chân lý

Dickson đã nhiều lần nói rằng sự tiên đoán đến với bà bằng những con đường khác nhau. Đôi khi là do tiếp xúc với một đồ vật mà một người nào đó chạm vào. Đôi khi đó là do nguồn tin “từ trên cao”. Nhưng đặc biệt Jane rất coi việc nhìn vào viên đá thạch anh của mình. Bà cho rằng bằng cách khác thì khó mà có được một “bức tranh” chi tiết. Jane Dickson mất ngày 25/1/1997 và đã mang theo sang thế giới bên kia sự bí ẩn đối với các nhà khoa học.

Sự quan tâm đến những hình ảnh hiện ra trên viên đá thạch anh vào những năm gần đây lại dấy lên mạnh mẽ. Điều đó trước hết có liên quan với sự triển khai các công trình nghiên cứu về những khả năng tâm lý của con người. Một loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và các bác sĩ tâm lý nổi tiếng của Mỹ tiến hành, cho thấy rằng những hình ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không là phải là bịa đặt. Những sự việc và những hiện tượng mà các nhà khoa học thâu nhận được trong những cuộc thí nghiệm với những con người cụ thể càng củng cố thêm quan điểm cho rằng thạch anh hay băng tinh có một số tính năng thông tin đặc biệt mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự kỳ lạ của đá thạch anh –

Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

Chùa Phúc Thắng tọa lạc tại Huyện Vũ Thư, Tỉnh Thái Bình nay còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị rất lớn về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật
Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Phúc Thắng còn có tên gọi khác là Chùa Hội Tương truyền, vào thế kỉ IX sau công nguyên, một nhà phong thủy nổi tiếng kiêm trinh sát lành nghề về địa lí, kinh tế, quân sự đã đến làm kinh lược sứ An Nam đó là Cao Biền.

Suốt thời gian nhậm chức ông ta đi khắp các châu, quận xem xét ghi vẽ các thế đất, các kiểu đất. Sau đó, ông ra tay yểm triệt với hy vọng để đất An Nam không phát đế vương và không sinh ra được những con người kiệt xuất… Trong danh sách đó của Cao Biền có vùng đất Chiểu Lãng – Ba Đậu với dòng chữ nhấn mạnh bên cạnh: Địa phát khôi khoa (Đất phát khôi khoa).

Trung tâm chính của vùng đất Chiểu Lãng – Ba Đậu ấy chính là làng Lạng (xã Song Lãng, thuộc huyện Thư Trì cũ và Vũ Thư nay) và Cao Biền có dùng hết phép yểm triệt hay không mà đất đây vẫn phát nhiều người hiền tài đến thế. Đó là Trần Củng Uyên – đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn 1496 triều Lê Thánh Tông, Đỗ Lí Khiêm – đỗ Trạng nguyên khoa Kỉ Mùi 1499…Và đặc biệt đã xuất hiện một danh nhân văn hoá với tư cách là một nhà Thiền học có nhiều ảnh hưởng đến giáo phái Hoàng Giang ở Việt Nam đó là Đỗ Đô – đó là vị thiền sư được tôn thờ trong Chùa Phúc Thắng, làng Lạng, xã Song Lãng, huyện Vũ Thư , tỉnh Thái Bình.

Căn cứ vào những những dấu tích và hiện vật còn lưu lại trong chùa, những gia phả của những dòng họ lớn trong xã…có thể khẳng định chùa Phúc Thắng có từ thời Lí nơi thờ Đỗ Đô.

Theo ngọc phả Từ Thượng và truyền thuyết dân gian Đỗ Đô tức Đỗ Sinh Công sinh ngày 9 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (1042) tức là năm Minh Đạo thứ nhất triều Lý Thái Tông. Thuở nhỏ, mặc dù con nhà nghèo nhưng Ngài rất chăm học, học rất giỏi. Ông nằm trong số rất ít người đã đi du học và thi đỗ khoa Bạch Liên ở Trung Quốc.

Đỗ Đô bình sinh luôn có ý thức mở mang việc học cho quê hương. Có thể xem ông là người thầy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp học hành thi cử của làng Lạng. Đỗ Đô là bạn đồng đạo của Không Lộ và Đạo Hạnh. Ông được các phái đạo thuật thời bấy giờ suy tôn là Giáo chủ phái Hoàng Giang. Vừa có tài lại có đức nên Đỗ Đô được vua Lý Thánh Tông rất tin yêu, trọng dụng, phái thảo đường mà vua Lý Thánh Tông sáng lập ra đã truyền được 5 đời (với 17 vị thiền sư), Đỗ Đô thuộc đời thứ 3 tổ thứ 11 đứng sau Không Lộ thiền sư và Lí Anh Tông.

Với tài cao, đức rộng nên Đỗ Đô được vua Lý Thánh Tông rất tin yêu, kính trọng ban cho chức tăng quan đứng đầu hàng tăng sư, ban đạo hiệu Đạt mạn thiền sư không gọi tên để tỏ lòng kính trọng.

Ông có nhiều công lao đóng góp cho dân chúng trong làng, xã, huyện, tỉnh. Thương dân tình đói khổ khó khăn ông đã xin miễn thuế khoá tạp dịch cho dân, ngày ngày khuyên dân chăm việc nông tang, sửa bỏ thói hư tật xấu, sửa sang đường sá, góp công sức đắp đê sông Hoàng (khúc sông chảy qua địa phận Thư Trì cũ). Chính vì vậy mà Thái Bình – Song Lãng luôn được mùa no đủ.

Ông là người rất giỏi về y thuật tận tình chăm sóc cứu chữa chúng sinh. Ngay cả vua Lý Thánh Tông cũng đã được ông cứu chữa. Ngài còn tính được số mệnh nhà vua để vua sớm liệu việc triều chính.

Tháng Giêng năm Canh Tí (1071) vua Lí băng hà có di chiếu vời Thượng sư về triều giúp việc chính sự vì thái tử Càn Đức nối ngôi còn nhỏ quá. Sau khi thiền sư qua đời với những công lao đóng góp của Ngài, nên vua Lí đã cho dân làng lập đền thờ thiền sư trên nền hành cung hiện nay để dân Ngoại Lãng và du khách bốn mùa hương khói.

Chùa Phúc Thắng
Song Lãng – Chùa Phúc Thắng

Hiện nay, Chùa Phúc Thắng còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị rất lớn về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật như Cồng – được đúc vào năm Quí Dậu (1693) tức năm Chính Hoà thứ 14 đời vua Lê Hy Tông do cụ Nguyễn Chí Công vị thượng tổ họ Nguyễn cúng, được sử dụng vào đêm giao thừa (người trông nom đền được quyền đánh 3 hồi cồng – với ý niệm dùng để truyền tải, truyền đạt lòng dân trăm họ đến với thần linh mong được thần linh che chở và cũng là để báo cho nhân dân lên đền lễ thánh lấy lộc rồi về xông nhà, tiếng cồng còn là hiệu lệnh báo lễ rước kiệu bắt đầu), “cột tịnh truỳ” làm bằng gỗ trầm hương (là một cái chày thanh tịnh đường kính 15cm, dài 0m80 đầu chày ở phía dưới hơi thắt, trổ hoa sen đặt trên một giá đỡ) được dùng làm linh khí cầu chúc cho quốc thái dân an. Ngoài ra trong chùa còn lưu giữ nhiều binh khí thời Lí.

Trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc chống thực dân Pháp chùa Phúc Thắng là căn cứ nuôi dấu, che chở cho cán bộ, du kích…Toàn bộ cụm di tích gồm trang miếu Thái Bảo Đỗ Vinh Công (tức Đỗ Đô), đền Thượng nơi thờ cúng thượng sư khi Ngài hoá thạch Tượng Tháp nơi thờ bà Đỗ Thị Doanh người góp nhiều công của xây dựng chùa, nhà thờ Tổ. Tất cả được thiết kế theo kiểu chữ Vương. Để tưởng nhớ tới công lao của vị thiền sư này cứ 2 năm hội được tổ chức một lần, Lễ hội được mở từ ngày mồng 6 đến 11 tháng giêng âm lịch. Trong lễ hội có rước kiệu thánh, lễ phật, cúng khoa, khai bát trí thực và thông hành tịnh truỳ và nhiều trò chơi dân gian khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phúc Thắng - Thái Bình

Fung La - cô nàng nấm lùn dũng cảm

Cô nàng nấm lùn Fung La đã làm mưa làm gió tại Vietnam's Next Top Model 2016, tính cách mạnh mẽ của Song Tử đã khiến cô giành được chiếc vé vào chung kết.
Fung La - cô nàng nấm lùn dũng cảm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cô nàng nấm lùn Fung La đã làm mưa làm gió tại Vietnam's Next Top Model 2016, tính cách mạnh mẽ của Song Tử đã khiến cô giành được chiếc vé vào chung kết một cách thuyết phục.


Fung La - co nang nam lun dung cam hinh anh
 
Mặc dù chiều cao của cô nàng Song Tử Fung La vô cùng khiêm tốn, chỉ có 1m54 nhưng tài năng và đam mê của cô lại khiến tất cả ban giám khảo và khán giả đều phải thán phục. 
 
Sự kết hợp giữa mặt trời Song Tử hoạt bát, năng động với mặt trăng Ma Kết khôn ngoan, khéo léo đã mang đến cho La Thanh tính cách vô cùng đặc biệt. Song Tử là một trong những cung hoàng đạo sáng tạo, phá cách, luôn luôn theo đuổi tìm tòi những điều mới mẻ.
 

Hiện đại, cá tính
 

Thanh Thanh luôn biến hóa đa dạng, không giới hạn bản thân trong hình mẫu nhất định nào. Ngay trong vòng sơ tuyển của Vietnam's Next Top Model cô đã chinh phục ban giám khảo bằng khả năng tạo dáng linh hoạt, thay đổi phù hợp để khoe được những điểm mạnh cơ thể.
 
Khả năng sáng tạo, biến đổi phong phú được La Thanh phát huy tối đa trong suốt cuộc thi. Ngược dòng lại trước khi tham gia Nest Top Model, Thanh Thanh cũng đã là một cái tên nổi trội trong làng thời trang.

Fung La - co nang nam lun dung cam hinh anh
 
Dù sở hữu vóng dáng nhỏ bé nhưng phong cách ăn mặc cá tính, độc đáo khác biệt khiến Thanh Thanh được nhiều người biết đến. Song Tử tuy rất tài năng nhưng có điểm yếu là ham chơi, không bền chí.  

Biểu cảm hút hồn
 

Bên cạnh đó, mặt trăng Ma Kết tham vọng, khôn khéo đã giúp Fung La rất nhiều. Nếu không có sự kiên trì, ý chí nghị lực phi thường do mặt trăng Ma Kết đem lại, Thanh Thanh cũng không thể có được sự bứt phá trong sự nghiệp.
 
Trước khi nổi tiếng, Thanh Thanh có ngoại hình bình thường, thậm chí có nhiều điểm hạn chế về hình thể nhưng theo thời gian cô đã biết thay đổi cách trang điểm, ăn mặc để tôn lên những điểm mạnh của mình.
 
Sự kết hợp giữa mặt trời Song Tử và mặt trăng Ma Kết còn tạo nên một La Thanh Thanh vô cùng can đảm, không biết sợ trước bất cứ thử thách nào. Vietnam's Next Top Model mùa thứ 6 với tiêu chí 'Phá bỏ mọi giới hạn' là một cuộc chiến vô cùng cam go và khốc liệt giữa các thí sinh.
 
Các thử thách được đẩy lên cao hơn và khó hơn. Các thí sinh có thể bị loại ngay nếu không hoàn thành phần thi chụp hình. Dưới áp lực gắt gao nhưng Thanh Thanh vẫn chưa bao giờ nản chí. Cô thực hiện các phần thi với thái độ tự tin và bình tĩnh tuyệt vời.
 
Fung La - co nang nam lun dung cam hinh anh
 

Đa dạng trong cách thể hiện
 

Phong cách thể hiện đa dạng đã giúp Thanh Thanh có được những bức ảnh đẹp nhất. Trong tập gần đây nhất cô đã là người đầu tiên giành được chiếc vé vào chung kết. Thanh Thanh tự tin sải chân trên sàn catwalk, thậm chí cô còn nhún nhảy theo điệu nhạc khiến khán giá hoàn toàn bị mê hoặc.
 
Thanh Thanh được rất nhiều khán giả yêu mến tuy nhiên cũng có rất nhiều thí sinh cho rằng Thanh Thanh quá hiếu thắng và kênh kiệu. Thùy Trâm đã từng tố La Thanh xấu tính, giả tạo.
 
Với sao Kim ở Bạch Dương và sao Hỏa ở Sư Tử, La Thanh đúng là có phần hơi hiếu thắng. Bạch Dương, Sư Tử đều là những cung hoàng đạo có ý chí chiến đấu cao, không ngại thử thách và khá thẳng tính nên đôi khi sẽ không được lòng mọi người.
 
La Thanh sở hữu gương mặt lai ấn tượng quyến rũ cùng khả năng catwalk đầy cảm xúc nên con đường đến với đỉnh vinh quang của cô rất gần.
 
Tuy nhiên chiều cao 1m54 vẫn là rào cản rất lớn để La Thanh đoạt giải quán quân. Với sự sáng tạo của mặt trời Song Tử, ý chí kiên cường, tham vọng của mặt trăng Ma Kết nung nấu trong lòng can đảm, không sợ hãi thứ gì của sao Kim Bạch Dương và sao Hỏa Sư Tử thì dù chiến thắng hay không, La Thanh chắc chắn còn đạt được nhiều thành công hơn nữa trong làng giải trí Việt thời gian tới.

ST.
Đừng dại chọc vào 3 chòm sao khó tính nhất tháng 11 Giải mã sức hút của chàng trai Bạch Dương - Harry Lu Khám phá tính cách và sự nghiệp của bộ ba Bộ Bộ Kinh Tâm phiên bản Hàn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Fung La - cô nàng nấm lùn dũng cảm

Các lễ hội ngày 27 tháng 1 Âm Lịch - Hội Rước Voi (Đào Xá)

Hội Rước Voi (Đào Xá) được tổ chức vào ngày 27 tới ngày 29 tháng giêng âm lịch tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 27 tháng 1 Âm Lịch - Hội Rước Voi (Đào Xá)

Các lễ hội ngày 27 tháng 1 Âm Lịch - Hội Rước Voi (Đào Xá)

Hội Rước Voi (Đào Xá)

Thời gian: tổ chức vào ngày 27 tới ngày 29 tháng giêng âm lịch.

Địa điểm: xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Hùng Hải Vương - em thứ 19 của vua Hùng.

Nội dung: Tương truyền vào thời Hùng Vương dựng nước, Hùng Hải được anh là Vua Hùng cử đến cái quản vùng Tam Giang (nơi giáp 3 con sông: sông Đà, sông Hồng, sông Bứa) gồm địa phận Đào Xá, Hưng Hóa và Thọ Sơn. Hùng Hải lấy Trang Hoa đã lâu mà chưa có con. Ngày 28 tháng giêng năm ấy hai ông bà cùng đi thuyền du xuân từ Thọ Sơn sang Đào Xá dựng lều nghỉ ở đây một đêm sau về Trang Hoa thụ thai, tròn 1 năm sinh được ba người con trai là: Đạt Công Long Vương, Mãn Công Long Vương, Uyên Công Long Vương. Các con vừa cất tiếng khóc chào đời thì Trang Hoa hóa thân. Hùng Hải ở lại dạy dân trị thủy làm ăn và nuôi dạy các con khôn lớn rồi ông giao miền đất này cho 3 người con cai quản còn mình về trông nom vùng sông Nhị (địa phận tỉnh Hải Dương) ngày nay. Vua Hùng thấy ông là người có công lớn đã ban thưởng cho 2 thớt voi chiến làm phương tiện đi lại. Trước khi chia tay về sông Nhị, ông đã dẫn đôi voi về làm lệ tạ 3 lần. Cuộc tiễn đưa vua Hùng Hải ra đi đầy quyến luyến và cảm động.

Sau này nhân dân Đào Xá đã tôn ông làm thành hoàng của làng, lập đình thờ tại đây, hàng năm tổ chức tế lễ, mở hội rước voi truyền thống.

Lễ hội gồm 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ tiến hành rước voi, hương án, long báu, bài vị, hòm sắc và tế Thành Hoàng. Phần hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, cướp gà, lấy nước, dã gạo, kéo lửa, nấu cơm thi... Hình ảnh đôi voi rước trong ngày hội đã trở thành tâm điểm đi vào tiềm thức của mỗi người dân nơi đây, vì vậy mọi người vẫn quen gọi hội đình Đào Xá là hội rước voi Đào Xá. Để ngày hội voi mãi là ấn tượng đẹp đẽ của mọi người, hàng năm cứ đến thán 10 âm lịch các cụ cao niên trong xã lại tuyển người khéo tay đan lát ra đình đan voi, may áo, khâu bành, dựng lầu voi và cử 8 người đến 10 thanh niên khỏe mạnh có tầm vóc ngang nhau vào đội rước voi luyện tập.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 27 tháng 1 Âm Lịch - Hội Rước Voi (Đào Xá)

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, tu vi Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận

Việc đeo nhẫn ngón nào cũng ảnh hưởng tới tài vận của bạn!

Bạn hay đeo nhẫn ở ngón tay nào? Bạn có biết ý nghĩa đeo nhẫn của mỗi ngón tay? Hãy cùng xem chiếc nhẫn khi đeo vào các ngón tay khác nhau sẽ có ý nghĩa khác biệt như thế nào nhé.

Đeo nhẫn ngón cái tượng trưng cho hành Mộc

Ngón cái là yếu tố quan trọng nhất của bàn tay. Một mình ngón cái đóng vai trò như một bên cọng kìm, giúp chúng ta cầm nắm được mọi vật thật chắc. Ngón cái biểu trưng cho sức mạnh. Cũng vì thế mà nhẫn phù hợp với “ngón tay sức mạnh” thường là nhẫn to, trông khỏe khoắn và hầm hố nhất.

Đôi khi bạn phải chịu đựng một nỗi buồn thầm kín, giận ai đó mà không thể nói ra, hoặc bạn bị thất vọng về ai hay việc gì, bạn nên đeo nhẫn ở ngón cái. Nó sẽ giúp bạn tăng thêm năng lượng để giải quyết việc gì đó thật quyết đoán và trí tuệ.

Đeo nhẫn ngón trỏ tượng trưng cho hành Hỏa

Khi đeo nhẫn ngón trỏ, thường bạn sẽ thấy tự tin và tham vọng hơn. Đeo nhẫn ngón trỏ cũng là một cách chứng minh bạn là người có năng lực giải quyết mọi việc.

Nếu bạn muốn mở rộng công việc làm ăn, thay đổi gì đó để tiếp tục phát huy thêm tiềm năng thì bạn nên đeo nhẫn ở ngón trỏ, bởi năng lượng mà sao hỏa đem lại là cực kì lớn.

Đeo nhẫn ở ngón này còn giúp cho bạn luôn lạc quan, tự hào về bản thân, mạnh mẽ về ý chí, có nhiều tham vọng về quyền lực và luôn tiến lên phía trước mà không có gì ngăn cản nổi.

Nếu một người đeo nhẫn trong một thời gian dài, nhẫn đeo bị chặt mà họ vô tính không để ý thì đó là người tiêu xài quá độ đến không thể kìm hãm được. Lúc đó nên chuyển nhẫn sang ngón khác, xem boi vì đeo lâu và chặt như thế khó mà giữ tiền bạc với mình lâu dài và những sự vui chơi giải trí đôi khi là quá độ.

Đeo nhẫn ngón giữa tượng trưng cho hành Thổ

Ngón giữa cũng là ngón dài nhất, nó như biểu tượng của một kỉ lục cao để chúng ta cố gắng phấn đấu vươn tới.

Nếu bạn muốn mọi việc được kiểm soát tốt và bản thân làm việc có kỷ luật thì bạn nên đeo nhẫn ở ngón giữa, vì sao Thổ liên quan nhiều đến sự kiên nhẫn, tính kiên định và tính kỷ luật cao. Những đức tính này rất tốt để bạn luôn tập trung hoàn thành công việc một cách tốt đẹp.

Tuy nhiên, nếu bạn đang gặp chuyện nặng nề bế tắc, không có hướng giải quyết thì đeo nhẫn ở ngón giữa sẽ làm cho mọi việc càng khó khăn hơn.

Đeo nhẫn ngón giữa đồng nghĩa với việc bạn đang cố gắng làm một việc gì đó. Cố gắng thi đỗ đại học, hay cố gắng cưa cẩm một cô nàng.

Đeo nhẫn ngón áp út tượng trưng cho hành Kim

Ngón áp út là ngón được phân bố thần kinh nhiều nhất và theo y học thì ngón áp út có mạch máu chạy thẳng lên động mạnh của tim. Minh chứng cho việc đó là khi đi viện, các bác sĩ thường lấy kim chọc thẳng vào đầu ngón áp út để chích lấy máu xét nghiệm. Cũng chính vì thế nên ngón áp út là ngón biểu tượng cho tình yêu, tượng trưng cho sự trọn vẹn, vĩnh hằng.

Người cổ đại La Mã tin rằng, các tĩnh mạch trong ngón tay thứ 4 dẫn trực tiếp đến tim, đây được gọi là “các tĩnh mạch tình yêu”, nhưng khi khoa học phát triển thì người ta không còn công nhận cách gọi này nữa.

Thường thì mọi người đeo nhẫn ở ngón áp út bên bàn tay trái, vì họ cho rằng tay trái gần tim và tránh bất tiện trong công việc hằng ngày: viết, bắt tay…

Nhẫn cho ngón áp út thường là nhẫn đôi, nhẫn cưới. Hãy thận trọng trong việc đeo nhẫn ngón này vì khi bạn chưa có “ý chung nhân” mà đeo nhẫn ngón áp út thì đi ra ngoài thì không có chàng nào “hỏi thăm” bạn đâu.

Đeo nhẫn ngón út tượng trưng cho hành Thủy

Cân bằng với ngón tay sức mạnh (ngón cái) là ngón út. Ngón út – ngón của yếu đuối mong manh nhưng không thể thiếu được. Ngón út tượng trưng cho sự giao tiếp và bản năng giới tính. Nhiều người mơ hồ về khả năng giới tính của mình, hay họ có sự nhầm lẫn về giới tính, họ thường đeo nhẫn ở ngón út.

Đeo nhẫn ở ngón út sẽ hỗ trợ bạn tích cực trong lĩnh vực nghệ thuật. Đeo nhẫn ngón út có thể là bạn đang mang một lời hứa: không yêu ai, hay không kết hôn,.. đeo nhẫn ngón út cũng là cách mà các bạn trẻ chứng minh cho trinh tiết của mình.

Đôi khi đeo nhẫn ở ngón út để chứng tỏ họ đang cố gắng tăng cường nhận được năng lượng từ sao Thủy để giúp họ phát triển khả năng giao tiếp cũng như để chứng tỏ họ thực sự là một người giỏi về giao tế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nhìn ngón tay đeo nhẫn để đoán biết tài vận - Xem bói - Xem Tử Vi

Luận dụng thần

Một bài viết về luận dụng thần của tác giả Hoàng Đại Lục. Mời các bạn cùng đọc.
Luận dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là "thần" có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn "Tứ trụ bác quan" do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn "Tường luận dụng thần" có nói: "Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành " Một chữ sai, toàn bàn sai hết". Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn "Tứ trụ bác quan" rằng: "Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay... Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v... vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ "Bát tự chân quyết khởi thị lục" là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài "Nghiên cứu hỷ dụng thần" đã cảm khái nói: "Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá."

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà "nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá"! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v..., muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn "Tế phê chung thân tường giải" đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của "Kim Bất Hoán" (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v... hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như "Diễn cầm phu thê - tử nữ biểu".

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: "Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa". Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong "Kim Điếu Thùng" thì nói: "Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được." Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tý Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tý, địa chi Thân Tý Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: " Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh". Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc "Lữ thị bát tự mệnh lý" là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: "Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?"

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển "Uyên Hải Tử Bình", "Tam Mệnh Thông Hội" và "Thần Phong Thông Khảo", không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như "Uyên Hải Tử Bình" v.v... lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại "dụng thần" có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn "Uyên Hải Tử Bình" sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn "Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học" rằng: "Dụng thần là linh hồn của bát tự", "Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v...". Thế nhưng cổ nhân trong "Tứ Ngôn Độc Bộ" lại chỉ ra rằng: "Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng". Ý của "Hà sầu tổn dụng" chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong "Nguyệt Đàm Phú" cũng nói: " Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí". Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong "Tích Thiên Tủy" nói: "Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. "Cùng Thông Bảo Giám - Tam xuân Giáp mộc luận" nói: "Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay". Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong "Tam Mệnh Thông Hội". Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong "Tử Bình Chân Thuyên" viết: "Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã". Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên" lại chỉ rõ: "Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng". Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. "Ngũ Ngôn Độc Bộ" lại nói: "Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần". Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong "Bảo Pháp - Quyển nhị" cũng nói: " Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín". Chú ý nhé, ở đây nói "Thủ cách bất định" chứ không nói "Thủ dụng bất chuẩn" nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của "Tinh Vi Thiên" nói: "Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa". Ở đây chỉ cường điệu "Chuyên luận cách cục" chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói "Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín"? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ "khả dụng" này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách". Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng "dụng thần quá nhiều", dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu " dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi" và "ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)", thế mới xuất hiện cách cục câu "Khí Ấn tựuTài", "Khí Quan tựu Thực" v.v... Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên "Ngũ Ngôn Độc Bộ" mới nói " Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng", là bởi vì "Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng" ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong "Thần Phong Thông Khảo" tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có "Bệnh dược thuyết" trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói "Dược" chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện "Dược thần" mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: "Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã". Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước "Dụng Tài", sau đó mới nói "Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược" hay sao? Câu sau "Như dụng Thực Thần Thương Quan", cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là "Tướng thần" mà "Tử Bình Chân Thuyên" đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong "Tích Thiên Tủy" để phản bác lại, Nhậm nói: "Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng...". Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn "Tích Thiên Tủy" và các sách cổ điển như "Uyên Hải Tử Bình" là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn "Tích Thiên Tủy" đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn "Tích Thiên Tủy": "Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kỵ, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng". (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kỵ của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", "Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách" trong "Tử Bình Chân Thuyên". Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này ("Tích Thiên Tủy" luận cách không kỹ càng bằng "Tử Bình Chân Thuyên"), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương "Bát cách" lại nói rằng: "Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn..., không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được". Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích "Tích Thiên Tủy" mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương "Thể dụng" của "Tích Thiên Tủy" nguyên chú thích nói rằng: "...nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành "Khí Ấn tựu Tài" cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của "Cùng Thông Bảo Giám" nói "Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay". Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: "Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!". Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: "Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn "Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)". Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú "Tích Thiên Tủy" nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là "Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét", dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học --- DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước......

Lão Tử nói rất hay, "Ngũ sắc khiến người ta mù". Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng "Tử Bình Chân Thuyên", hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý "Uyên Hải Tử Bình", "Thần Phong Thông Khảo", "Tam Mệnh Thông Hội", "Tử Bình Chân Thuyên" và "Tứ Ngôn Độc Bộ". Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như " Tứ Ngôn Độc Bộ", "Ngũ Ngôn Độc Bộ" và "Nguyệt Đàm Phú" v.v..., nhưng ông không hề biết tý gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Durobi dịch

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất...

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách".

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: " Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục".

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: "Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan".

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: " Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận dụng thần

Sông thần, núi thánh tạo nên đế chế Thành Cát Tư Hãn

Vào thế kỷ 13, trên lục địa Á – Âu từng xuất hiện 1 đoàn kỵ binh mà chỉ nghe tên nó cũng đủ cho người ta phải khiếp sợ.Thủ lĩnh của đội quân ấy là Thành Cát Tư
Sông thần, núi thánh tạo nên đế chế Thành Cát Tư Hãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào thế kỷ 13, trên lục địa Á – Âu từng xuất hiện 1 đoàn kỵ binh mà chỉ nghe tên nó cũng đủ cho người ta phải khiếp sợ.Thủ lĩnh của đội quân ấy là Thành Cát Tư Hãn, ông vua khai quốc của triều đại nhà Nguyên, đồng thời cũng là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ rộng lớn trải dài từ châu Á sang châu Âu. Vậy điều gì đã khiến một thủ lĩnh bộ lạc ở vùng thảo nguyên xa xôi trở thành vị hoàng đế của cả một đế chế? 

Song than, nui thanh tao nen de che Thanh Cat Tu Han hinh anh
 
Hồ Bối Gia Nhĩ sinh thành vương khí Thành Cát Tư Hãn sinh ra tại bộ lạc Khất Nhan, một bộ tộc Mông Cổ sinh sống ở phía Tây Bắc của Trung Quốc, nay là khu vực Hồ Bối Gia Nhĩ. Hiện tại hồ Bối Gia Nhĩ thuộc lãnh thổ của Nga, tuy nhiên, thời cổ đại, nó do một số dân tộc ở phía Bắc của Trung Quốc khống chế.   Tới khi tộc Mông Cổ phát triển mạnh mẽ, hồ Bối Gia Nhĩ trở thành Long Hưng thủy thành của người Mông Cổ.   Sở dĩ gọi là thủy thành bởi vì nó là thành trì được xây dựng trên hình thế của các nguồn nước như sông, hồ hoặc biển. Tác dụng chính của thủy thành chính là tạo nên ranh giới của nước.   Quan niệm phong thủy cho rằng, nếu như nước có ranh giới thì long khí sẽ không bị phân tán, ngược lại, sẽ là nơi sinh khí tích tụ, tất sẽ trở thành một nơi đất lành về phong thủy.   Nếu như là nước biển thì lấy chỗ nước triều dâng cao nhất chính là nơi đại cát (tốt nhất). Còn nếu như là nước sông thì lấy việc uốn khúc quanh co của dòng chảy là nơi đại cát.   Nếu như là nước suối thì lấy chỗ dòng chảy khoan thai, chậm rãi làm nơi đại cát.   Nếu là hồ thì lấy nơi mặt nước tĩnh lặng, mặt hồ giống như một tấm gương lớn là nơi đại cát. Tất nhiên ở đây chỉ mới nói tới cái thế của nước, ngoài ra nó còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người.   Các hồ nước ở hồ Bối Gia Nhĩ rất rộng lớn, vì vậy, xét về thế của nguồn nước thì có thể khẳng định nơi đây là 1 mảnh đất cực tốt về mặt phong thủy mà khó nơi nào có thể tìm thấy được.   Hơn nữa, những hồ nước ở hồ Bối Gia Nhĩ cũng là những hồ nước sâu nhất từng được phát hiện từ trước tới nay, sâu tới mức không thể nhìn thấy đáy.   Chính “thủy thành” này đã đem lại sự may mắn đặc biệt cho tộc người Mông Cổ. Ngoài ra, hồ Bối Gia Nhĩ không chỉ là 1 tòa “thủy thành” rộng lớn mà còn tĩnh lặng như đại dương rộng lớn của tự nhiên.   Bối Gia Nhĩ, trong tiếng của người Mông Cổ có nghĩa là “đại dương của tự nhiên”.   Các nhà phong thủy cho rằng, sự hưng- suy, phúc- họa của con người đều có liên quan tới vị trí địa lý. Hồ Bối Gia Nhĩ với địa thế của nó đã tạo nên một vùng đất có phong thủy cực tốt, tất yếu sẽ sản sinh “chân long thiên tử”.   Sự bảo hộ của núi Thánh Hồ Bối Gia Nhĩ đã nuôi dưỡng khí vương giả của gia tộc Thiết Mộc Chân, tuy nhiên, nó không thể bảo vệ gia tộc Thiết Mộc Chân đến vạn đời. Khi thời đại của Hải Đô đã trở thành quá khứ, gia tộc của Thiết Mộc Chân buộc phải tìm tới một nơi định cư khác, và họ đã tới núi Bất Nhi Hãn.   Khi linh khí của Bối Gia Nhĩ hợp nhất với sự hùng tráng của núi Bất Nhi Hãn thì cũng là thời điểm “chân long” xuất thế đã gần kề. Nếu như Bối Gia Nhĩ giúp gia tộc Thiết Mộc Chân hình thành vương khí thì chính núi Bất Nhi Hãn đảm trách việc bảo hộ vương khí này.   Đã rất nhiều lần Bất Nhĩ Hãn cứu gia tộc Thiết Mộc Chân thoát khỏi hiểm nguy, chờ tới ngày “chân mệnh thiên tử” chào đời.   Theo sách “Mật sử Mông Cổ” ghi chép thì khi tổ tiên của Thiết Mộc Chân di cư tới khu vực núi Bất Nhi Hãn thì phát hiện ra rằng, ngọn núi này cao hơn bất cứ ngọn núi nào khác trong vùng.   Họ cho rằng đây là ngọn núi cao nhất thế giới, không có ngọn núi nào cao hơn do vậy mới gọi nó là Hãn Sơn (hãn nghĩa là ít có, hiếm có).   Bất Nhi Hãn Sơn tức là ngọn núi Đại Khẳng Đắc ở Mông Cổ ngày nay. Khu vực Đại Khẳng Đắc là nơi sinh thành của rất nhiều con sông ở Trung Á.   Ngoại trừ sông Onon, sông Kherlen và sông Tuul đều bắt nguồn từ khu vực này. Chính vì vậy, nơi đây còn có tên gọi là “nơi đầu nguồn của 3 con sông”.
 
Đây là khu vực cây cối xanh tươi, đất đai màu mỡ, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Mông Cổ.
 
Thời cổ đại, bất Nhi Hãn Sơn được gọi là Lang Cư Tư Sơn, là nơi cư ngụ chính của Lang Tộc. Địa thế của ngọn núi này rất hùng tráng, khí thế bất phàm, lưng dựa vào nhiều dãy núi, phía trước lại rộng rãi, có sông chảy qua, Bạch Hổ, Thanh Long bao quanh huyện chính ở 2 bên phải trái.   Theo miêu tả của sách Sơn Kinh về hướng của long mạch thì đây chính là nơi giao nhau của phần đuôi Đoái Long ở phía Bắc Hoa Hạ và Chấn Long ở phía Đông Hoa Hạ. Vì thế, đây là nơi hội tụ được đặc tính của cả 2 long mạch này.   Nếu như một ngày nào đó “chân long” xuất hiện, thì chắc chắn người đó sẽ làm nên sự nghiệp “kinh thiên động địa”. Bất Nhi Hãn Sơn là nơi chôn cất của cha ruột Thành Cát Tư Hãn. Theo quan niệm phong thủy truyền thống, tổ tiên được chôn đúng long huyệt thì đời sau nhất định sẽ xuất hiện thiên tử.
 
Vì thế, việc Thành Cát Tư Hãn trở thành ông vua khai quốc triều Nguyên, hoàng đế của Đế chế Mông Cổ chắc chắn có liên quan tới việc chôn cất cha mình.   Sách “Sơn Kinh” còn nói rằng, mỗi 1 dãy núi ở đây đều là nơi người ta phải tranh chấp. Mỗi dãy núi dường như kéo dài bất tận, kéo dài tới tận vùng sa mạc ở phía Bắc, khí thế rất mạnh mẽ.   Quả thực, trong suốt cuộc đời của Thành Cát Tư Hãn, ông đã tham gia rất nhiều cuộc chiến và không ít lần được chính ngọn núi này bảo vệ, thoát khỏi những cơn nguy hiểm.
 
Đó có lẽ là lý do mà cho đến tận cuối đời, Thành Cát Tư Hãn vẫn rất thích ngọn núi này. Mỗi khi có sự việc lớn, Thành Cát Tư Hãn đều vào núi này làm lễ để nhờ núi Thánh chỉ cho mình cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
 
 ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sông thần, núi thánh tạo nên đế chế Thành Cát Tư Hãn

Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

+ Điều kiện về tính chất: – lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự s...
Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

+ Điều kiện về tính chất:       lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ...       phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình.       ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.
+ Điều kiện về sao:       nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ...       phải có sao đa phu, đa thê       phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang       phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo
+ Điều kiện về cung:       sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc.       sao tình dục phải có ở cung Phu Thê       sao tình dục phải có ở cung Nô, Di       nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó       cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ
+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh:       lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không       nếp sống đương số có sa đọa hay không;       cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.
+ Những dè dặt cần thiết:       sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng;       lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử;       gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt;       gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.
g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân. Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có:       cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung;       cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm;       cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc;       cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ;       cung Tử có những sao chỉ con dị bào;       lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau;       cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở);       cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số;       có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di;       thiếu sao giải mạnh và nhiều
Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:
- Những bộ sao của Tử Vi: Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu: Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ. Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
- Những bộ sao của Liêm Trinh: Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo. Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên. Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù. Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Đồng: Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly. Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ. Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
- Những bộ sao của Vũ Khúc: Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly. Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
- Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm: Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở. Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên. Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Cơ: Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng. Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
- Những bộ sao của Tham Lang: Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời. Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
- Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
- Những bộ sao của Thiên Tướng: Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át. Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
- Những bộ sao của Thất Sát: Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly. Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
- Những bộ sao của Phá Quân: Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình. Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình. Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.
- Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.
- Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.
- Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên  có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.
- Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.
- Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...
h. Trường hợp tử biệt:       cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh;       cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ;       số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên;       những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người;       có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên;       có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.
i. Tình trạng án mạng trong gia đạo:       một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng.       cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình;       xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ...       xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ...       xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó;       sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;
      cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận Cách Cục Sao Ngoại Tình Trong Tử Vi

Mơ thấy nón: Phiền phức sẽ chóng qua –

Nón đội trên đầu giúp con người giữ ấm, tránh nắng, che mưa v.v, hay làm vật trang sức. Dù là nam hay nữ, nếu mơ thấy nón, những lo lắng và phiền phức sẽ nhanh chóng qua đi. Nếu mơ thấy nón đã cũ sờn nhơ bẩn, dự báo sẽ có trở ngại nhỏ trong chuyện là
Mơ thấy nón: Phiền phức sẽ chóng qua –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nón: Phiền phức sẽ chóng qua –

Người đàn ông chiều vợ có đặc điểm gì trên khuôn mặt?

Những anh chàng môi mỏng, nhân trung sâu và dài thường hết lòng vì vợ con.
Người đàn ông chiều vợ có đặc điểm gì trên khuôn mặt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài các yếu tố như môi trường sống, trình độ giáo dục... thì theo nhân tướng học, nếu người đàn ông của bạn có các đặc điểm sau đây trên khuôn mặt, vợ họ sẽ rất được cưng chiều, theo Sina.

1. Đàn ông môi mỏng thường biết vào bếp

dan-ong-co-dac-diem-gi-tren-khuon-mat-thi-chieu-vo-nhat

Ảnh minh: Soompi.

Sẵn sàng vào bếp và biết nấu ăn là điều kiện tiên quyết của người đàn ông hiện đại. Người có đôi môi mỏng đều ở cả trên và dưới thường thuộc trường phái "đầu bếp giỏi". Tuy nhiên, nếu môi quá mỏng thì chàng lại có tính tình khá lạnh nhạt. 

2. Đàn ông có chân mày hình "bát tự" hoặc chân mày rũ xuống

dan-ong-co-dac-diem-gi-tren-khuon-mat-thi-chieu-vo-nhat-1
 

Kiểu nam giới này được chia làm 2 loại:

- Đầu lông mày bình thường, cuối lông mày chia thành hai nhánh. Một nhánh hếch lên và sợi lông mày cũng có chiều hơi hướng lên; nhánh thứ hai rẽ xuống, chiều lông mày cũng hơi hướng xuống.

- Đầu lông mày cao, thân lông mày thấp dần, đuôi lông mày gần ngang với đuôi mắt. Cả hai lông mày phải và trái hợp với nhau thành hai nhánh trông như hai nhánh chữ bát (八).

Đây là kiểu người khá ôn hòa, ít khi tức giận, bất luận trong vấn đề nào đó bạn đúng hay sai thì người đầu tiên nói lời xin lỗi thường là chàng. Đồng thời, chàng cũng không có quan niệm về con số cho nên tiền kiếm được đều giao cho vợ quản lý, thậm chí để bạn nắm quyền kinh tế trong gia đình.

3. Đàn ông có mắt phải to hơn mắt trái

Đây là người đàn ông "sợ vợ" cho nên thường nhún nhường nửa kia. Tuy tính tình có hơi ủy mị và yếu đuối nhưng chàng thật sự yêu thương vợ bằng cả tấm lòng, lúc nào cũng muốn vợ vui và giữ hòa khí gia đình nên thường sẵn sàng chịu thiệt. 

4. Đàn ông có nhân trung sâu và dài, cằm đầy đặn

dan-ong-co-dac-diem-gi-tren-khuon-mat-thi-chieu-vo-nhat-2

Các kiểu nhân trung.

Nhân khí của chàng rất tốt, là người rộng lượng và yên ổn, vận thế con cái cũng được hưởng phúc đức. Chàng thường có một trái tim cởi mở, sức khỏe tốt, khả năng chăn gối cũng luôn khiến "nửa kia" hài lòng. 

5. Đàn ông có luân quách không lồi

Luân quách (là vành trong và ngoài của tai) không quá lồi lõm, xương xẩu cho thấy đây là người đàn ông dễ chịu, không thích so đo. Chàng thích ở nhà và xem trọng cuộc sống gia đình.

6. Đàn ông mũi nhỏ như củ tỏi

dan-ong-co-dac-diem-gi-tren-khuon-mat-thi-chieu-vo-nhat-3

Mũi hình củ tỏi.

Đặc điểm này cho thấy chàng rất nỗ lực làm việc, biết kiếm tiền nhưng sẵn sàng tiêu tiền vì vợ. Bản thân chàng tiết kiệm nhưng lại rất hào phóng với những người thân trong gia đình.

7. Đàn ông mí mắt nhiều tầng hoặc có nốt ruồi ở bọng mắt

Đây là người đàn ông đặc biệt rất yêu vợ thương con. Vì những thành viên trong gia đình, chàng sẵn sàng hy sinh và phấn đấu hết mình để đem lại cuộc sống tốt nhất.

8. Đàn ông có hai gò má đầy đặn, xương cân đối

Chàng rất có trách nhiệm và biết gánh vác gia đình, luôn là người cho đi nhiều hơn và cũng rất biết hâm nóng tình cảm vợ chồng.

VnExpress


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người đàn ông chiều vợ có đặc điểm gì trên khuôn mặt?

Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB: Những người này luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức để chăm lo cho người thân và gia đình.
Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tý nhóm máu O luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức để chăm lo cho người thân và gia đình.


 

tuoi ty (1)
 
Trong tình yêu, ngay từ những buổi hẹn họ đầu tiên, người tuổi Tý nhóm máu AB luôn chú ý quan sát đến sở thích, thói quen của đối phương để gây bất ngờ, tạo ấn tượng cho những lần gặp gỡ tiếp theo.

Nếu như đối phương cảm nhận được đồng thời đưa ra những tín hiệu phản hồi tốt đẹp thì tình cảm giữa họ sẽ tiến triển tốt đẹp. Nhưng nếu không thuận lợi như mong muốn, họ dễ rơi vào trạng thái thất vọng thậm chí dễ nổi cáu, nóng giận với người xung quanh và ngay cả đối tượng mà họ đang theo đuổi. Nếu "một nửa" của họ là người nóng nảy, vội vàng thì tình yêu của họ sẽ không tránh khỏi những xung đột, cãi vã. Bởi vậy, khi tìm được "một nửa" của mình, họ phải biết kiềm chế và kiên trì theo đuổi trong thời gian dài thì mới có hạnh phúc vẹn toàn như ý.

Cả nam giới và nữ giới tuổi này đều rất biết chia sẻ và gánh vác công việc nhà. Vì với họ, gia đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Để cuộc sống luôn được “cơm lành canh ngọt”, người tuổi Tý thuộc nhóm máu AB nên kết hôn với những người hiền lành, chu đáo và biết cảm thông. 

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Người tuổi Tý nhóm máu AB: Hài hước, chủ động nhưng lại rất bảo thủ Giải mã số đào hoa của người tuổi Tý

 
(Theo 12 con giáp về tình yêu, hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây - Hà Nội.
Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây – Hà Nội. Phủ Tây Hồ được coi là một trong những ngôi đền linh thiêng để cầu tài lộc mỗi dịp đầu xuân năm mới.

Lịch Sử: Phủ thờ Bà chúa Liễu Hạnh – một trong những đại diện đạo Mẫu ở Việt Nam là một trong tứ bất tử của Việt (Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh). Tục truyền rằng: bà là Quỳnh Hoa – con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu.

Người tiên nữ ấy đã ngang dọc một trời giúp dân an cư lập nghiệp, diệt trừ ma quái, trừng phạt tham quan. Đến triều Nguyễn bà được nhà vua phong “mẫu nghi thiên hạ”, là một trong bốn vị thần “Tứ bất tử” của Việt Nam.

Cũng theo truyền thuyết, Phủ Tây Hồ là nơi hội ngộ lần thứ hai của công chúa Liễu Hạnh và trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Trong lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên chúa. Tâm đầu ý hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền mãi. Tiên chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm. Cái xuất xứ ly kỳ của phủ Tây Hồ là thế.

Kiến Trúc: Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối… Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).

Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.

phủ tây hồ
Tượng thờ

Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa ngày 13 tháng 2 năm1996. Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được công nhận là “cây di sản Việt Nam”, và ở kề bên phủ còn có đền Kim Ngưu thờ Trâu Vàng theo truyền thuyết.

Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục –

Người ta coi phong thủy thể hiện ở năm màu là trắng, đen, đỏ, vàng và xanh. Năm màu – ngũ sắc này là những yếu tố cơ bản của vũ trụ và có thể được ứng dụng trong cuộc sống. Cùng khám phá kiến thức phong thủy và xem ý nghĩa phong thủy đối với màu sắc
Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta coi phong thủy thể hiện ở năm màu là trắng, đen, đỏ, vàng và xanh. Năm màu – ngũ sắc này là những yếu tố cơ bản của vũ trụ và có thể được ứng dụng trong cuộc sống. Cùng khám phá kiến thức phong thủy và xem ý nghĩa phong thủy đối với màu sắc trang phục bạn thường mặc nhé!

Dưới đây là ý nghĩa của các màu sắc trang phục mang lại vận may theo phong thủy.

Màu xanh

## thấy rằng màu xanh là màu của sinh sôi, phát triển. Vì thế, nó là màu sắc lí tưởng cho trang phục nếu người vận nó làm nghề giáo viên, hoặc những ngành nghề đòi hỏi kĩ năng chuyên môn. Màu xanh cũng thể hiện một con người tích cực, luôn hướng đến cái mới mẻ, không theo lối mòn.

ibqR5yxklE0IcK Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Màu vàng

Màu vàng rực rỡ là niềm vui hân hoan, màu vàng nhẹ lại là sự ổn định và vững chắc. Mặc quần áo màu vàng khi muốn thể hiện sự rõ ràng, sáng sủa, cũng là màu trang phục lí tưởng cho những quyết định mang tính thắng bại. Tránh mặc màu này mỗi khi bạn cảm thấy mệt mỏi.

iBSVH6zplMgan Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Màu đỏ

Đây là màu sắc lí tưởng để thu hút sự chú ý. Hãy mặc trang phục màu đỏ nếu đi tới cuộc thử giọng, thể hiện tác phẩm nghệ thuật hay muốn trở thành một phần không thể thiếu trong đám đông. Cần tránh mặc màu này khi trong lòng bạn đang bực bội, bồn chồn.

iHs54cNKskvqL Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Màu đen

Màu đen gợi cảm giác huyền bí, sâu kín và có quyền lực ghê gớm. Bạn nên mang trang phục màu này khi muốn trở thành người chỉ huy uy quyền hoặc thể hiện sự bí ẩn. Tuy nhiên hãy tránh xa màu đen nếu bạn đang bị mọi người hoài nghi về động cơ, hay khi bạn muốn được đối xử công bằng.

iv9zCS9s0q2x Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Màu trắng

Không gì mang lại cảm giác tin tưởng, tín nhiệm như màu trắng. Hãy lựa chọn trang phục trắng khi bạn muốn sự xuất hiện của mình thực sự tỉ mỉ, cẩn trọng, hiệu quả và hoàn hảo. Tránh màu này khi bạn muốn tạo dựng hình ảnh khoan hòa, dễ chịu. Màu trắng cũng là màu thúc đẩy những âu lo, vì thế, hãy cẩn thận khi lựa chọn màu sắc này cho mỗi khi tâm trạng bất ổn

ifa02Z6zUnyAj Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Màu ánh kim

Theo như ## thấy thì những màu ánh kim như vàng, đồng, bạc gợi cảm hứng của sự sáng tạo. Không gì tốt hơn màu này nếu người mặc đang bận rộn với dự án mang tính nghệ thuật. Màu ánh kim dễ gợi cho người khác sự bình phẩm, vì thế hãy tránh mang trang phục màu này nếu bạn dễ nhạy cảm, hay bị tổn thương.

Ngoài màu sắc, ứng dụng kiến thức phong thủy vào thời trang, người ta còn nói tới Trí. Trí là năng lượng tỏa ra từ con người và tác động tới xung quanh. Trí có ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và cảm giác.

Nó cũng chỉ lối dẫn đường trong sự tương tác giữa một cá nhân với thế giới xung quanh. Người ta tin rằng, Trí được quyết định bởi một phần màu sắc trang phục, đặc biệt là chất liệu, màu và kiểu dáng. Những chất liệu lí tưởng thường là cotton, lụa, lanh, len và da. Điều quan trọng cần lưu ý, đó là trang phục len và da không nên bó sát cũng như không nên tiếp xúc trực tiếp với da.

ibr6v6k8HTYsM9 Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục

Âm và dương

Da, len và lụa đều xuất phát từ nguồn gốc động vật, được cho là mang đặc tính dương, thể hiện sự năng động. Nếu muốn tìm tới năng lượng âm thay thế, bạn có thể sử dụng cotton và lanh (xuất phát từ thực vật). Những chất liệu âm này sẽ giúp bạn dễ dàng hơn trong giao tiếp, khơi gợi tính sáng tạo và độ nhạy cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của màu sắc trang phục –

Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Vị trí đầu bảng thuộc về tuổi Tý, tiếp theo là tuổi Dần, Thìn, Tỵ và Hợi.
Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Tý

Người tuổi Tý giỏi xã giao nhưng lại khá ích kỷ, luôn coi bản thân mình là nhất, mọi người hoặc những thứ khác chỉ là điều thứ yếu.

tuoi-ty-6087-1400021785.jpg

Hơn thế, người tuổi này rất giỏi "diễn xuất", trước mặt mọi người ra vẻ là anh hùng hiệp nghĩa, nếu không động chạm đến lợi ích cá nhân thì sẵn sàng giúp đỡ người khác. Để biết được con người thật của tuổi Tý, chỉ có căn cứ vào những thời khắc thực sự quan trọng, bản tính của họ sẽ lộ rõ như ban ngày mà thôi.

Á quân: Tuổi Dần

Người tuổi Dần thường cho rằng sinh mạng bản thân mới là điều đáng quý nhất, vì thế yêu bản thân mình là điều tất nhiên, không có gì phải che giấu. Vậy nên, họ hiếm khi biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ mà chỉ quan tâm đến cảm xúc của mình thế nào mà thôi.

tuoi-dan-6294-1400021786.jpg

Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Dần không biết yêu hay quý trọng người khác. Họ sẽ dành tình cảm chân thành của mình cho người mình yêu, chỉ có điều, tình cảm ấy cũng chỉ đứng sau tình yêu bản thân của họ.

No3: Tuổi Thìn

Vốn tính kiêu ngạo, luôn nghĩ rằng bản thân mình là độc nhất vô nhị trên cõi đời này, nên việc yêu bản thân mình đối với người tuổi Thìn là điều tất nhiên.

tuoi-thin-8665-1400021786.jpg

Ngoài ra, người tuổi này có bộ não thông minh, con mắt tinh tường và khả năng xử lý tình huống nhạy bén. Họ thường coi đó là điểm đáng tự hào và kiêu ngạo trước mặt mọi người.

No4: Tuổi Tỵ

Trong 12 con giáp, người tuổi Tỵ thường mang lại cảm giác bí ẩn, khó tính và khó gần cho mọi người. Họ rất chăm chút cho bản thân, sống có phần hơi ích kỷ và có thể lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình miễn sao không làm tổn hại đến lợi ích của họ.

tuoi-ti-7656-1400021786.jpg

Người tuổi Tỵ thích cảm giác độc quyền sở hữu thứ gì đó, không muốn phải "đụng hàng" với bất kỳ ai. Họ thường đưa ra lý do để giải thích cho việc chỉ yêu bản thân mình, đó là phải biết yêu chính mình thì mới có tư cách để yêu người khác.

No5: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi tính tình điềm tĩnh, hài hòa, thích làm việc nhẹ nhàng vì khá lười nhác. Với họ, việc ăn uống, ngủ nghỉ là vấn đề quan tâm hàng đầu, vì có như vậy mới đảm bảo sức khỏe và quý trọng bản thân cũng như cuộc sống của chính mình.

47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-6775-1598

Ấn tượng để lại trong mắt mọi người là tuổi Hợi theo chủ nghĩa vật chất, chứ thế giới nội tâm và tinh thần khá nông cạn, không nhạy bén hay sâu sắc. Vậy nên, khi nghe thấy lời nói xấu hoặc chê bai, họ vẫn có thể mỉm cười, lạc quan nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ qua hết.

Mr.Bull

64364e9325c34654b43ed043349ae9-3979-7142

Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd