Mơ thấy nói xấu: Xem trọng danh dự bản thân –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: Canh Tý Tân Sửu thì Sửu là chính vị của Thổ, mà Tý là đất vượng của Thủy, Thổ gặp Thủy biến thành bùn cho nên gọi bằng "Bích Thượng Thổ".
Bùn nhuyễn mềm muốn trát thành vách phải tựa vào kèo cột phên, thiếu chỗ tựa khó thành vánh tường. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ phải tựa vào người mà thành sự, làm quản lý, làm kẻ thừa hành tốt, đứng ngôi chủ dễ thất bại.
Tuy nhiên cũng có những loại đất chất dính mạnh phơi nắng trở thành cứng cáp không phải dựa vào kèo cột cũng đứng vững được. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần phải trải nhiều kinh lịch mới hay.
Vách để che gió, chắn mưa cho nên tâm chất thường bao dong. Mệnh nhiều hung sát đa nghi thủ đoạn mà mang nạp âm Bích Thượng Thổ dễ đưa đến sơ hở mà bị hại. Canh Tý, Tý Thủy bị Thổ khắc, khí thế nhược. Tân Sửu, Thổ vào chính vị sức đề kháng cương mãnh.
Nay bàn về trong Tứ trụ có ngang vai, kiếp tài, lộc, kình dương.
Tỉ kiếp gặp nhiều là anh chị em đông đúc.
Tỉ kiếp nhiều mà sinh vượng là anh chị em nhiều, gặp suy là anh chị em ít. Tỉ kiếp đóng ở lộc hoặc gặp quý nhân là anh chị em giàu có đầy đủ ; tỉ kiếp gặp tướng tinh là anh chị em phú quý. Tỉ kiếp gặp thiên đức, nguyệt đức là anh chị em lương thiện, thật thà.
Tỉ kiếp đóng ở trạch mã là anh chị em đi xa.
Tỉ kiếp là dụng thần thì được sự giúp đỡ của anh em.
Ngang vai gặp lộc là anh em có địa vị cao, gia đình hưng vượng.
Tỉ kiếp đóng ở trường sinh là anh chị em khỏe mạnh, tuổi thọ cao.
Thân vượng và có ấn là anh chị em nhiều.
Trụ ngày yếu trụ, trụ tháng ấn vượng lan anh chị em nhiều
Trụ ngày yếu, mà không có tỉ kiếp thì lấy ấn để tính số lượng anh em.
Thân vượng tài yếu là anh chị em nhiều.
Sát vượng ấn phục, ngang vai không có khí là em kính trọng anh , nhưng anh là người bất lực.
Quan vương ấn nhược, tài tinh có khí là anh yêu em nhưng em bất lực.
Trụ tháng gặp quan tinh là anh em quý trọng nhau.
Tháng và ngày tương sinh cho nhau là anh em hoà thuận.
Trụ tháng gặp trường sinh đế vượng là anh chị em rất đông.
Ðối với sinh đôi, sinh vào ngày dương, giờ dương thì anh mạnh hơn em. Sinh ngày âm, giờ âm thì em mạnh hơn anh.
Ðẻ sinh đôi, người mệnh dương sinh sau thì khó nuôi hoặc trước, người mệnh âm sinh trước thì khó nuôi hoặc chết trước.
Thất sát mà vượng, tỉ kiếp nhiều thì anh em đông mà lại đồng tâm.
Ví dụ 1. Càn tạo
Tháng 7 năm 1987 khi giám đốc họ Mạnh của nhà máy mời tôi đoán vận, tôi thấy trong Tứ trụ ba mộc rõ, một mộc ám thì đoán : " Ông ta có 4 anh chị em. Nên là hai nam hai nữ". Ông ta nói : đúng ! Rất chuẩn.
Ví dụ 2. Khôn tạo
Trong thực tiễn do nhu cầu nghiên cứu dự đoán, tôi có ý tiếp cận với người xuất gia tu hành, đặc biệt là người theo đạo Phật, họ không tin vào đoán mệnh. Tôi nói với họ những người tu hành, những võ sư khí công và những người có công năng đặc biệt do theo học võ thuật lâu đời nên phần nhiều đoán giai đoạn trước khi họ đi tu dễ đúng, còn sau khi đã đi tu thì khó đoán đúng. Sở dĩ như vậy là vì mệnh vận của người tốt xâu chủ yếu do khí âm dương ngũ hành gây tác dụng. Những người tu hành trên, công năng đều tốt cho nên có thể tự điều chỉnh hành vi, làm thông các trở ngại của khí, làm cho trường khí trong thân thể luôn ở trạng thai cân bằng, nên sau khi họ đã đi tu thì rất khó đoán đúng.
Có mấy Hoà thượng nghe tôi giảng giải về sự đoán học và vì sao đối với những người có công năng đặc biệt lại khó đoán đúng thì rất tán thành. Và còn đưa ra mấy người nhờ tôi đoán. Khi đó tôi cố ý chọn người tuổi cao, tuổi trẻ, có nam, có nữ để đoán những sự việc trước khi họ xuất gia tu hành.
Người đoán trong ví dụ 2 trên, sinh năm 1970, năm 1982 thì xuất gia. Tôi thấy trong Tứ trụ mậu kỉ thổ và mờ có 8 chữ, lại được hỏa trường sinh sinh ra cho nên đoán : có 8 đến 9 người anh em. Quả nhiên là 9 người. Những nhà tu hành có mặt ở đó đều rất kinh ngạc. Tôi nói với họ : con người có mệnh, Tứ trụ là một môn khoa học chân chính, chỉ cần kỹ thuật đoán cao siêu là có thể đóan đúng.
Ví dụ 3. Càn tạo
Ông Trần Mưu là người lính già, hiện là cán bộ cao cấp. Vì từ bé ông đã được cha mẹ lấy số, cho nên rất tự tin vào dự đoán mệnh vận. Mùa xuân năm 1998, ông biết tôi nghiên cứu về dự đoán học, muốn thử xem trình độ ra sao, nên đã báo cho tôi ngày giờ sinh nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ, trụ năm ngôi cha mẹ gặp đất trường sinh, giáp ất mộc tuy minh, ám chỉ có bốn số nhưng được ngày, giờ hợi tí thủy tương sinh nên anh chị em nhất định nhiều. Do đó đoán : Ông có 6 chị em. Ông ta nói : Ðoán rất đúng, giống tôi đã được đoán hồi nhỏ, có 6 anh em.
Ví dụ 4. Càn tạo
Trong Tứ trụ này canh kim hiện 2 lần lại gặp vượng địa nhưng vì can năm giáp mộc, thiên tài ở tử địa lại bị canh kim khắc, chi năm là ngôi mẹ, giáp hoả gặp 3 lần quá vượng nên nhất đinh là cha mất mẹ đi lấy chồng, do đó đoán : chỉ có hai anh em. Quả đúng thế.
Theo câu nói : " Tỉ kiếp đóng ở trường sinh và vượng địa thì anh chị em nhiều" thì ở Tứ trụ này đáng lẽ anh em nhiều. Nhưng còn phải nhiều, phụ mẫu không thuận hoặc sớm suy htif anh em nhất định ít. Do đó khi dự đoán còn phải kết hợp với các nguyên nhân khác.
Ví dụ 5. Khôn tạo
Trên kia đã nói trong ứng dụng thực tế, số anh em ở các nước Ðông nam Á nên gặp đôi số có trong Tứ trụ. Kinh nghiệm này tôi đã rút ra được không những đối với Hoa kiều mà đối với người nước ngoài ở các nước đó đều đúng. Ví dụ này là một trong những Ví dụ thực tôi đã đoán ở nước ngoài.
Trong Tứ trụ mậu kỉ là anh chị em đã lộ ra và còn ám tàng tất cả 6 người. Nhưng vì trong Tứ trụ thiên tài chính ấn của cha mẹ đều vượng địa. Do đó tôi đoán : một bà mẹ sinh 12 người con. Cô ta nói : Quả đúng thế.
Ví dụ 6. Khôn tạo
Ví dụ này anh chị em có 5 người, 4 người khác trước sau đều đi Canada. Tức chính ứng với câu: "Huynh đệ gặp trạch mã là chủ về tượng anh em đi xa".
Ví dụ 7. Càn tạo
Ðây là Ví dụ đẻ sinh đôi đều là mệnh nam. Người anh trình độ văn hoá cao hơn người em, thông minh hiếu học, thích suy nghĩ nghiên cứu sâu, trong học thuật có ấp ủ hoài bão. Ðã từng viết sách và nổi tiếng sớm. Còn người em thì bình thường. Tuy sinh đôi nhưng người sinh giờ dương, ngày dương là anh mạnh hơn em, nếu sinh ngày âm, giờ âm thì em mới mạnh hơn anh được.
Điều kiện cơ bản của dự đoán là yêu cầu người muốn đoán phải cung cấp chính xác :năm tháng ngày giờ sinh, phải khẳng định chính xác mới dự đoán được . Rất dễ nhầm lẫn là không phân biệt rõ ranh giới ngày hôm trước và ngày hôm sau, nhất là những người ở nông thôn thường chỉ nhớ tối ngày hôm trước, giờ tí hoặc lúc gà gáy lần thứ nhất. Thực tế thì giờ tí đã là ngày hôm sau rồi nhưng quên thêm một ngày. Ngày sinh đã sai là sai toàn bộ vì về bản chất mà nói, đó không còn là Tứ trụ của người đó nữa. Giờ tí là ranh giới giữa ngày hôm trước và ngày hôm sau, mà 23 giờ đã là giờ tí rồi ( tức từ 23 giờ đến trước 1 giờ ). Nhưng người nông dân thường lấy 24 giờ, tức từ không giờ trở đi mới tinh là bắt đầu ngày hôm sau. Do đó cần phải hỏi giờ cho cụ thể. Ngoài ra ở thời điểm cuối giờ lẻ cũng phải hỏi cho rõ, ví dụ trước ba giờ là giờ sửu, sau ba giờ là giờ dần.
Nói chung, cung cấp ngày giờ không tin cậy thì không nên đoán vì thứ nhất là phải đảm bảo đảm tính trách nhiệm cao về lời nói của mình, thứ hai là phải trọng danh dự của mình, ngoài ra cũng nên lưu ý, khi đoán sai, sẽ gây ảnh hưởng xấu cho “Chu dịch ứng dụng”, làm mất lòng tinh.
Sắp xếp Tứ trụ chính xác là nội dung cơ bản của dự đoán. Viết ngày giờ sinh xong, ghi rõ các can tàng trong địa chi. Sau đó căn cứ vào can ngày, xác định mười thần của các thiên can lộ ra và cả các can tàng. Số bắt đầu của đại vận có thể kết hợp tính lúc tra can chi, theo quy tắc đếm thuận hay đếm ngược, cứ ba ngày tính thành một năm để tính các đại vận. Sau khi xếp xong đại vận , ghi mười thần tương ứng với can vận, và cứ mười năm là một đại vận. Cuối cùng theo bảng thần, sát, ghi tên gọi tắt các thần sát lên góc phải phía trên để khi dự đoán có thể nhìn thấy ngay thần, sát gặp lục thần của cung nào, xung khắc ở gần hay xa, mức độ ảnh hưởng của nó. Đồng thời cũng thấy được thần, sát gặp lục thân của cung nào, người đó được hưởng âm phúc của ai hay hung sát sẽ gây tác hại cho ai. Nếu cần phải xếp tiểu vận,lưu niên thì ghi chung xuống phía dưới của đại vận đó để dễ thấy rõ mức độ chúng hình xung khắc hợp với đại vận.
Xếp xong Tứ trụ bắt đầu thẩm tra lại lực lượng vượng suy của các ngũ hành.
Đầu tiên xem ngũ hành của nhật can sinh vào tháng vượng hay nhược để biết nhật can được lệnh hay không. Phân lệnh tháng là trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng đều là nhật can được lệnh tháng.
Tiếp đến xem nhật can trong khi các chi khác là ở vào đất trường sinh, lộc, kình dương hay mộ, kho, có khí có gốc là đắt địa.
Lại xem nhật can trong các thiên can và địa chi có được chính ấn, thiên ấn sinh phù hay không, có ấn tinh là được sinh.
Xem nhật can trong các thiên can khác có ngang vai, kiếp tài để giúp thân không. Có sao tỉ kiếp là được trợ giúp.
Tổng hợp các yếu tố : được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ giúp, tuỳ theo mức độ sinh, khắc, hình hợp xung hại , xa gần để có sự tăng giảm hợp lý. Sau đó lại tổng hợp các yếu tố : quan sát khắc nhật can ; chính tài thiên tài làm hao tổn nhật can ; thực thương làm xì hơi nhật can, tuỳ theo mức độ sinh khắc, hình hợp xung hại, xa gần để tăng giảm. So sánh hai bên, nếu lực sinh phù nhật can càng lớn là thân vượng. Ngược lại lực khắc, xì hơi, làm hao tổn lớn hơn là thân nhược.
Thân vượng nên chọn cái khắc, xì hơi, làm hao tổn thân là dụng thần ; lấy cái sinh thân, giúp thân làm kị thần. Thân nhược thì ngược lại. Cách chọn dụng thần và kị thần là phải căn cứ vào sự chọn lựa hợp lý các tổ hợp của Tứ trụ . Chủ yếu lấy hỉ,kị của tài quan làm chuẩn.
Lấy dụng thần có lực, có tình, kị thần có chế áp, có hoá hay không để xác định giới hạn giàu sang, nghèo hèn, cát hung, thọ yểu, xác định các thứ lớp mà mệnh vận người đoán có thể đạt được.
Lại xét xem dụng thần có đến ngôi hay không, bị khắc hay không, có cứu hay không có cứu để định ra giới hạn giữa các đại vận tốt, xấu và các vận thường, xác định vận tốt nhất, vận xấu nhất, vận bình thường vào các đoạn tuổi nào của người dự đoán.
Trong vận tốt lại cần làm rõ những năm nào tốt nhất, những năm nào tốt vừa phải, năm nào kém hơn ; trong vận xấu cũng cần làm rõ những năm nào xấu nhất, năm nào tạm đỡ và năm nào gặp hung hóa cát, trong vận bình thường, năm nào trắc trở. Tổ hợp của đại vận ở thời kì tốt nhất là tốt đến mức nào, căn cứ vào mười thần thì ứng vào việc gì là chính. Ngược lại tổ hợp của đại vận ở thời kì xấu nhất là xấu đến mức độ nào, ứng vào việc gì là chính. Ưng vào minh hay ứng vào người thân bị khắc, hay đều bị sinh khắc hoặc đều bị xung hợp.
Cuối cùng dự đoán ra nội dung bị sinh khắc hay bị xung hợp . Ví dụ: ngũ hành bị xung hợp hay bị sinh khắc ứng vào bệnh tật hay công tác, lục thân, buôn bán, v.v. mười thần bị xung hợp hay bị sinh khắc ứng vào hôn nhân hay tài vận, quan vận, ốm đau, hay thọ yểu, v.v.. Cũng có sách cùng bàn chung ngũ hành với mười thần. Như khi kiêu thần đoạt thực thần (mười thần sinh khắc xung hợp ), năm đoạt thực thần vừa ứng vào ốm đau, cũng có thể ứng vào công tác, buôn bán, cung mà lục thân ứng vào bị ốm đau, thậm chí ảnh hưởng đến tuổi thọ của mình hoặc người thân.
Như thế là địa chi năm đó tương xung với địa chi trong Tứ trụ , vì thế mà thành kị thần. Tháng tương xung thì mình hoặc là lục thân ứng với cung bị xung nhất định sẽ gặp nạn. Lúc kết thúc dự đoán hoặc trước khi dự đoán nên kết hợp giữa mệnh cục và đại vận, tổng hợp cân bằng các thần, sát để bàn về tính cách của người đến đoán. Căn cứ vào Tứ trụ sinh hóa có tình hay không để đoán người đó là người có tình nghĩa đến đâu. Từ tính hàn ôn thấp táo trong Tứ trụ cũng có thể thấy được đó là người nhiệt tình, hòa hợp với mọi người hay là người lãnh đạm, xa lánh mọi người. Qua Tứ trụ cương nhu, trung chính hay nhu nhược, thiên khô (tức Tứ trụ có nhiều tổ hợp xấu) có thể biết được người đó là quân tử hay tiểu nhân. Cho dù là người đoán hay độc giả đều cần có sự hiểu biết căn bản đối với người được đoán, bao gồm bản thân họ và con cái họ, như thế sẽ có ích cho việc kết bạn, giao thiệp, sẽ gần người tốt, tránh xa kẻ xấu, giúp cho sự lựa chọn và phát triển nghề nghiệp được tốt hoặc tự nhắc mình cảnh giác đúng lúc , hoặc có thái độ đối xử với người được dự đoán cho hợp tình hợp lý.
Trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa
"Bối diện" còn có tên gọi khác là "diện bối", "hướng bối". Nó dùng để chỉ "lưng và mặt long mạch" (tức là chính diện long mạch).
Hình vẽ thừa phong giới thủy 1. Giới thủy; 2. Triều sơn |
Các nhà phong thủy cho rằng, long mạch kết huyệt chỉ cần chú ý đến chính diện, không cần chú ý mặt sau lưng của long mạch. Như vậy, chỉ vị trí này có thể xây nhà hoặc đặt mộ.
Tuy nhiên, long mạch chạy uốn lượn, khi ở hướng Bắc, khi ở hướng Tây, trước mặt sau lưng khó phân biệt. Bởi vậy, các nhà phong thủy căn cứ vào hình dáng núi để xác định diện bối long mạch.
Khi long mạch đang chạy mà dừng lại, mặt phải hướng về phía trước, thủy cũng có thế như vậy, núi bao bọc. Vì thế, lấy dòng nước chảy chậm bao bọc đất làm chính diện. Núi chuyển theo nước, chúng thủy triều tụ là chính diện. Núi cũng thoai thoải, lấy đó làm chính diện, mặt dựng đứng, hiểm trở là lưng.
Điều này cũng được sách Hám Long Kinh nhắc đến: "Nếu mặt phải là rộng và bằng phẳng, nếu là lưng thì là đá dốc dựng đứng. Đặt mộ ở mặt bằng phẳng sẽ có thế sa bao thủy bọc". Nếu mặt nào có cây cối tốt tươi, hình sơn tú lệ chứng tỏ sinh khí tụ. Vì vậy, lấy mặt đầy đặn làm chính diện, mặt khô cháy, u ám làm lưng.
Phân biệt "lưng" và "mặt" là khâu then chốt để điểm huyệt. Nếu xác định sai, đặt huyệt lẫn lộn, không phân biệt được cát hung. Nếu xác định đúng, tầm long đặt huyệt chuẩn, chân long kết huyệt ở chính diện. Táng đất này, gia chủ và hậu thế hưởng vinh hoa, phú quý.
(Theo Bí ẩn thời vận)
Trong tử vi, sao Thiên Phủ được hình tượng hóa từ Khương hoàng hậu - chính thất của vua Trụ Vương. Bà là người hiền hậu, tuy là mẫu nghi thiên hạ nhưng lại biết quan tâm để ý tới kẻ dưới, có hiểu biết và lo nghĩ cho đất nước.
Sau khi Đát Kỷ nhập cung, ngoài những lúc ở trong cung Thọ Tiên, thì phần lớn thời gian trong ngày Đát Kỷ đều cùng Trụ Vương lên lầu Trích Tinh tiệc tùng hưởng lạc. Đát Kỷ đã dùng đủ mọi thủ đoạn để mê hoặc Trụ Vương, khiến cho Trụ Vương ngày đêm ở rịt chốn hậu cung, nề nếp sinh hoạt đảo lộn, không còn biết phân biệt ngày đêm, việc triều chính bỏ bễ. Các đại thần như Tể tướng Thương Dung đều không gặp được Trụ Vương, chỉ biết bó tay đứng nhìn.
Sao Thiên Phủ - Khương Hoàng hậu
Một hôm, khi trời gần sáng, Khương Hoàng hậu vẫn còn thao thức, chợt nghe văng vẳng như có tiếng đàn sáo từ lầu Trích Tinh vẳng lại, bèn khởi giá đến lầu Trích Tinh xem rõ sự tình. Thì ra Đát Kỷ cùng Trụ Vương đang chén tạc chén thù, vui chơi yến ẩm.
Thấy Hoàng hậu xuất hiện, Đát Kỷ cũng đến vấn an. Khương Hoàng hậu thấy Trụ Vương tửu sắc vô độ, liền khuyên rằng: "Thần thiếp nghe nói bậc vua có đạo thì coi thường tiền bạc mà trọng đức hạnh, bỏ lời sàm báng mà xa tửu sắc, đó chính là điều mà nhà vua cần phải lây làm răn!". Nói xong, bà bèn khởi giá hồi cung. Chính vì lẽ đó, mà Đát Kỷ hết sức căm giận Khương Hoàng hậu.
Theo quy tắc trong hậu cung, vào ngày mồng một và mười lăm hàng tháng, các phi tần đều phải đến vấn an Hoàng hậu. Đát Kỷ cũng theo lệ đến thỉnh an. Trước mặt Hoàng phi của cung Tầy, Dương phi của cung Hình Khánh, Khương Hoàng hậu đã mắng Đát Kỷ rằng: "Ngươi mê hoặc hoàng thượng, ngày đêm đắm chìm trong tửu sắc ca vũ, dựng cột đồng, sát hại trung thần, nguy đến xã tắc, nếu không biết hối cải, ta sẽ trừng phạt ngươi theo quy tắc của hậu cung!"
Đát Kỷ lúc đó tuy nén giận lui về, nhưng trong lòng không cam chịu nhục, lập tức vạch ra kế hoạch báo thù để hãm hại Hoàng hậu.
Sau đó, Đát Kỷ đã liên kết với Phí Trọng, mua chuộc một tên thất phu để vu cho Khương Hoàng hậu câu kết với thế lực bên ngoài, âm mưu tạo phản. Chuyện đến tai Trụ Vương, Trụ Vương vốn đã u mê, liền dùng cực hình móc mắt tra tấn Khương Hoàng hậu để bức cung, nhưng Khương Hoàng hậu không chịu nhận. Với sự xúi giục của Đát Kỷ, Trụ Vương ra lệnh đem đốt hai tay Khương hậu. Khương hậu quá đau đớn, phẫn hận mà chết.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Khương Hoàng hậu trăng trối cho hai người con là thái tử Ân Giao và thứ tử Ân Hồng phải báo thù, rửa oan cho bà. Ân Hồng lập tức rút kiếm đâm chết kẻ vu oan hãm hại mẹ mình. Tây cung Hoàng phi thấy kẻ vu oan đã chết, không còn ai để đối chứng, sợ Trụ Vương hãm hại hai hoàng tử, bèn bảo họ trốn đi. Nhưng Đông Bá hầu Khương Hoàng Sở, tức cha của Khương Hoàng hậu, một trong tứ đại chư hầu, khi đó vẫn như ngồi trong trướng, không hề hay biết.
Trong "Phong thần bảng", linh hồn đầu tiên bay đến đài Phong thần Tây Kỳ chính là Khương Hoàng hậu, bà được thụ phong làm sao Thiên Phủ. Sao Thiên Phủ là ngôi sao chủ về của cải và sự giàu có.
Sao Thiên Phủ là dương Thổ, là ngôi sao thứ nhất trong chòm sao Nam Đẩu, khóa khí là lệnh, còn gọi là lộc khố (là kho lộc), là nền tảng căn bản của phú quý, có thể giải trừ tai ách. Lộc khố của sao Thiên Phủ chủ về tiền tài có được từ quan tước, bổng lộc chứ không phải là tiền tài có được do tích lũy hay làm ăn kinh doanh. Nghĩa là lộc khố của Thiên Phủ có lợi cho người làm quan chức.
Thiên Phủ là kho trên trời, đứng đầu các sao trong chòm Nam Đẩu gồm đủ trí tuệ và tài năng, ưa thích chỉ huy người khác chứ không để mình bị chỉ huy. Có năng lực làm lãnh đạo nhưng khá bảo thủ, thuận theo nếp cũ mà làm. Có khả năng phát triển tự nhiên từng bước chậm rãi trong môi trường ổn định nên hợp với mệnh nữ nhiều hơn.
Dân gian có câu: “Mùng 5, 14, 23, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn” ngụ ý nhắc nhở chúng ta không nên làm những việc quan trọng vào các ngày Nguyệt Kỵ. Vậy ngày Nguyệt Kỵ là ngày gì, ngày Nguyệt Kỵ năm 2017 gồm những gì? Hãy cùng ## tìm hiểu vấn đề này.
Theo quan niệm dân gian, ngày Nguyệt Kỵ kiêng khởi sự trọng đại như kết hôn, động thổ, xuất hành... |
Cửu cung phi tinh năm Đinh Dậu 2017 (Cửu cung phi tinh có sự thay đổi vị trí hàng năm) |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nhà bạn có trồng lô hội ở ban công không? Nếu có, hãy đọc ngay bài viết này để biết những tác động phong thủy của việc này đối với gia chủ nhé. Từ lâu, cây lô hội hay còn gọi là cây nha đam đã được biết đến như một loại “thần dược” cho làn da phụ nữ. Ngoài ra, lô hội còn là một vị thuốc quý cho sức khỏe, có tác dụng thanh nhiệt, hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường sức đề kháng, chống mỏi mắt, trị viêm loét dạ dày… Cây lô hội có khả năng thanh lọc không khí, giải phóng oxy, hút các khí có hại cho cơ thế như: cacbondioxit (CO), Andehyde formic, cacbonic, lưu huỳnh oxit. Ngoài ra nó còn có tác dụng hút bụi bẩn, tiêu diệt các loài vi khuẩn trong không khí. Có thể nhiều bạn chưa biết rằng lô hội còn là một loại cây phong thủy, có thể thay đổi phong thủy của không gian chúng ta sinh sống. Cây lô hội được khá nhiều người ưa chuộng làm cây cảnh trong nhà. Với nhiều người thì đó đơn giản là loài cây để làm đẹp nên họ tận dụng không gian ban công để trồng. Cây lô hội khá dễ sống, có thể trồng được bằng lá, cũng không cần chăm sóc kĩ càng.
Dậu - Tý | Dậu - Sửu | Dậu - Dần | Dậu - Mão |
Dậu - Thìn | Dậu - Tỵ | Dậu - Ngọ | Dậu - Mùi |
Dậu - Thân | Dậu - Dậu | Dậu - Tuất | Dậu - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
Bố cục của căn nhà toạ Giáp hướng Canh: Cửa chính của căn nhà nằm ở hướng Nam, phạm phải Nhị Hắc, Ngũ Hoàng sát. Đây là bố cục phá đinh tổn tài. Cố gắng chuyển nhà là cách tốt nhất. Nếu không có điều kiện thì có thể dùng cách sau để tạm thời hoá giải.
Tài vận: Bếp tại hướng Đông là vị trí của thần Tài, vị trí của chậu rửa đối diện với tài vận tương đối có lợi. Nên dùng nhiều chậu rửa để tăng cường tài vận gia nhân. Ngoài ra, hướng Đông Nam của tiểu thái cực và đại thái cực là cát tinh tài vị. Đặt những vật phong thuỷ khai vận chiêu tài như chậu cây cảnh, đồng tiền ngũ đế, rùa đầu rồng ở vị trí này có tác dụng tăng cường tài vận.
Sức khoẻ nhân đinh: Hướng Đông của bếp là vị trí của Đinh thần, thường xuyên nấu nướng tại vị trí này có thể tăng cường gia nhân sức khoẻ vận.
trí kê giường trong phòng ngủ.
Theo quan điểm của phong thủy học thì phòng ngủ nhất định phải tàng phong tụ khí, điều này cũng trùng khớp với nghiên cứu khoa học hiện đại, kết quả nghiên cứu cho thấy rõ trên bề mặt cơ thể người có tồn tại một lớp trường khí, nó được hình thành bởi sự lưu động không ngừng của dòng năng lượng do bản thân cơ thể sinh ra. Khi ngủ, nghỉ, nếu vị trí giường kê thỏa đáng, thì trường khí của cơ thể người và từ trường của trái đất sẽ trùng khớp nhau. Bởi vậy, giường nằm phải được kê ở vị trí yên ổn, sáng sủa nhất và nhìn được bao quát cả gian phòng ngủ.
Khi kê giường trong phòng ngủ phải chú trọng tới những điểm sau đây:
– Giường nằm không được đối diện với cửa ra vào vì: Cửa ra vào là miệng khí và cũng là miệng gió. Giường kê trong phòng nếu đối diện với cửa cũng có nghĩa là đối diện với miệng gió, một người khi đang nằm nghỉ ngơi, các cơ năng của cơ thể cũng được nghỉ ngơi, thần kinh chùng giãn, các lỗ chân lông trên mặt da đều mở rộng, nên lúc này năng lượng của cơ thể người dễ phát tán, đồng thời khả năng chống chọi với những tác động gây nhiễu từ ngoài vào cũng sẽ giảm đi rất nhiều, nếu không may gặp cơn gió độc, mạnh, người ngủ sẽ rất dễ mắc bệnh. Mặt khác, khi ngủ con người sẽ rơi vào trạng thái vô thức, có thể có những hành động rất kỳ quặc, nếu để gường nằm đối diện với cửa sẽ mất hết sự riêng tư mà khi thức con người muôn giấu kín.
Khắc phục trường hợp này bằng cách đặt tấm bình phong che ngăn cách giường và cửa ra vào.
– Kê giường ngủ ngay phía dưới xà ngang, chân cầu thang hoặc trên trần nhà có treo đèn chụp hoặc quạt trần, bạn sẽ có cảm giác phần ngực và đầu của cơ thể bị đè nén, ảnh hưởng tới sức khỏe cả về thể chất và tinh thầnẽ
– Có người cho rằng, để gương hoặc bàn trang điểm trước giường ngủ sẽ tiện cho việc sửa sang sắc đẹp khi ngủ dậy, điều này hoàn toàn không nên làm vì gương có ánh sáng phản xạ, nằm ngủ trước gương sẽ làm cho tinh thần bị suy nhược, ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ.
– Thành giường nên chọn dáng tròn để tránh cạnh nhọn đâm vào đầu.
– Giường ngủ không nên thấp quá, vừa không thông thoáng, vừa tụ khí ẩm, làm đau vùng eo lưng của bạn.
– Nếu giường kê gần cửa sổ thì phải che rèm để tránh bớt nắng.
– Giường kê sát dựa vào vách tường sẽ rất ổn định. Vị trí giường tốt nhất là chọn hướng Nam Bắc vì hướng này thuận theo lực hấp dẫn của từ trường trái đất, nằm ngủ quay đầu phía Bắc hoặc hướng Nam đều có lợi cho sức khỏe, bởi trong hệ thống tuần hoàn máu của cơ thể động mạch chủ và tĩnh mạch lớn là quan trọng nhất, hướng lưu động của nó đồng nhất với phương hướng đầu chân của cơ thể. Cơ thể người khi nằm ngủ dọc theo phương Bắc Nam, làm cho phương hướng tuần hoàn máu của cơ thể trùng hợp với phương tuyến từ lực Nam Bắc của trái đất, như vậy con người dễ bước vào giấc ngủ.
“Cái răng cái tóc là gốc con người” . Từ xưa ông bà ta đã nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của mái tóc, nó nói lên được bản tính của cả một con người nên việc coi bói qua tóc có thể nhận ra được cá tính của một người vô cùng chính xác.
Người có mái tóc dày :
– Hiền hòa, bình dị: Người có tóc dày ngoài đời rất trọng tình nghĩa, tính tình ôn hoà, cư xử trọng nghĩa cử, dễ được mọi người quí mến, kính trọng.
– Thật thà , chất phát: Người có tóc dày có tính cách cởi mở, hoạt bát, tích cực, hiếu động, tuy bề ngoài họ tỏ ra mạnh mẽ, nhưng trong tính cách lại khá yếu mềm, dễ rung động.
– Có tài lãnh đạo: nói đến đâu làm đến đó, có tài lãnh đạo, tuy khéo léo ra mệnh lệnh nhưng tính cách của họ cũng rất đằm thắm, ít lãng mạn mà thiên về hiện thực.
– Nghiêm túc, cẩn thận: Người coi bói nhiều tóc bề ngoài có vẻ là hướng nội, nhưng trên thực tế lại rất mạnh mẽ. Khi mà họ đã cố ý cẩn thận thì cũng rất cố chấp. Tuy tính cách mạnh mẽ, nhưng lại có lòng độ lượng nghiêm túc, và chặt chẽ.
Người coi bói có mái tóc cứng :
Tóc cứng là chỉ tóc cứng, thẳng. Người coi bói có loại tóc này có các đặc điểm tính cách sau.
– Thẳng thắng, cương trực: Người có tóc cứng đối với công việc thường tỷ mỉ, không sợ khô, không sợ mất lòng, thái độ trước sau như một, có một số người rất bảo thủ, thiếu sự linh hoạt cần thiết.
– Cá tính mạnh mẽ: Người có tóc cứng tính cách rất thoải mái, trái phải rõ ràng. Một khi họ đã thích việc gì hoặc vật gì thì nhiệt tình đến cùng. Nói chung người tóc cứng hay cố chấp, bảo thủ, tuy cầu an, vô sự, nhưng trong nội tâm không thỏa hiệp. Đặc biệt là khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn hay bước đường cùng thì tính cách đó lại càng trở nên mạnh mẽ.
– Giàu lòng thông cảm: Người có tóc cứng giàu lòng thông cảm, ôn hoà, chung họ thường nhiệt tình giúp đỡ người khác.
Người coi bói có mái tóc mỏng :
Tóc mỏng là chỉ tóc ít và thưa. Người coi bói có mái tóc như thế thường có những tính cách dưới đây.
– Người không có lập trường: Người coi bói có tóc mỏng về nhiều mặt thường có tính cách hai mặt. Họ không quen nói chuyện trước mặt người khác, hoặc không chủ động tiếp xúc, cũng không muốn người khác đi lại với mình. Đối với bất cứ việc gì đều thiên về thái độ tiêu cực. Tuy bình thường là hướng nội, rất ít bộc lộ chân tướng của mình, nhưng một khi họ không thể kiềm nén nữa thì sự bộc phát đó không ai cản nổi.
– Tự thỏa mãn, không có tham vọng: Người có tóc mỏng cho dù là làm việc hay học tập đều thiếu sự bền bỉ, dẻo dai cần thiết. Mới đạt được một chút thành tích đã thoả mãn.
– Nhạy cảm: Người coi bói có tóc mỏng đối với các sự vật bên ngoài thường rất nhạy cảm, đặc biệt là về mặt tiền tài. Nói chung loại người này thường cầu an vô sự, ít tranh chấp.
Người coi bói có mái tóc thô :
Độ to nhỏ của tóc thường khoảng 0,05 đến 0,15mm. Tóc người bình thường khoảng 0,08 đến 0,09 mm. Người tóc thô thường là trên 0,1mm. Người tóc thô có đặc điểm tính cách sau.
– Độc tài: người bó mái tóc khô là người độc đoán chuyên quyền là mặt làm cho người ta không ưa người tóc thô, vì họ thường tự cao tự đại.
– Tính cách hào phóng: Người có tóc thô tính cách hào phóng, lòng tự trọng cao, vì vậy thường không chịu nghe những lời nói thật của người khác , trong gia đình hay biểu hiện tính cách gia trưởng.
– Không sợ trắc trở: Người có tóc thô làm việc mau chóng, khi gặp trắc trở cũng không nản chí, có thể kịp thời rút kinh nghiệm để quay lại từ đầu.
Người coi bói có mái tóc mịn :
Tóc mịn là chỉ các sợi tóc nhỏ khoảng từ 0,06 đến 0,07mm. Người coi bói có tóc mịn có những đặc tính tính cách dưới đây.
– Tham vọng: Nói chung người coi bói có tóc mịn tham vọng rất nhiều, họ luôn luôn quan tâm tô vẽ cho mình, nhưng lại không muốn lộ mặt ra.
– Tính cách hướng nội: Người tóc mịn thường có tính cách hướng nội, không quen ra lệnh. Khi xử lý vấn đề thường thiếu tính quyết đoán. Một khi đã quyết định thì rất khó thay đổi.
– Thiếu chính kiến: Nói chung người có tóc mịn thường thiếu chính kiến, hay dựa vào người khác, dễ dao động, nếu gặp được người lãnh đạo tốt thì họ có thể phát huy đầy đủ sở trường của mình.
– Tính tình ôn hoà: Người coi bói có tóc mịn tính tình ôn hoà, giàu lòng thông cảm. Ơ’ ngoài đời họ chăm chỉ, thành thực nên dễ được mọi người yêu mến, người hay ảo tưởng, lãng mạn.
Tóc mịn
Người coi bói có mái tóc xoăn :
Tóc xoăn là chỉ tóc xoăn bẩm sinh. Tính cách của người tóc xoăn phụ thuộc vào mức độ xoăn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau. Nhưng xét một cách tổng quát người có tóc xoăn tính cách như sau:
– Tính tình bướng bỉnh: Nói chung người có tóc xoăn tính tình bướng bỉnh, cho dù trong công việc, học tập hay trong giao tiếp họ đều rất khó làm vui lòng người khác, mức độ xoăn càng cao thì tính cách này càng rõ rệt.
– Tự cao, tự đại: Người có tóc xoăn có tật hay tự cao tự đại, họ thích móc máy vào nhược điểm của người khác, lật đi lật lại thất thường, lúc sang trái, lúc lại sang phải, hơn nữa nhiều khi việc nhỏ cũng xé ra to. Thích nói những điều đao to búa lớn hù doạ người.
– Núp lùm: Người có tóc xoăn không hay lên mặt: rất ghét xuất đầu lộ diện, nhưng lại nhiệt tình, sâu sắc với bạn tri âm.
Người coi bói có tóc đen mà thô:
Màu sắc của tóc cũng có quan hệ nhất định với tính cách con người. Người coi bói có tóc đen mà thô có các đặc điểm tính cách dưới đây.
– Tính tình quyết đoán: Loại người này có tính cách khoáng đạt, có dũng khí và có tinh thần dám làm, dám quyết đoán. Đối với những điều mà mình tin tưởng thì quyết tâm thực hiện đến cùng. Nhưng cũng có lúc biểu hiện tính ham đấu đá.
– Có tài lãnh đạo: Nói chung người coi bói có tóc đen và thô thường có tài lãnh đạo. Trong cuộc sống thuộc loại người thành đạt.
– Tánh tinh thất thường: Người coi bói có tóc đen và thô dù nam hay nữ thường có tính lúc nóng lúc lạnh, dễ nổi cáu.
Người coi bói có tóc màu nâu :
Người tóc màu nâu thường tóc đều và mịn. Người coi bói có đặc điểm tính cách sau.
– Tính tình ôn hoà: Đây là loại người thuộc dạng tiêu cực, không thích xuất đầu lộ diện, thường ngày chỉ biết cặm cụi làm việc, tính cách ôn hoà, nên dễ được người khác cảm tình.
– Sống cần kiệm: Nếu là nữ giới, về mặt tiền tài thường tiết kiệm, có thể tận tâm tận lực vì chồng con, cố gắng xây dựng một gia đình hạnh phúc, tốt đẹp.
– Thiếu tính quyết đoán: Nếu là nam giới thì đó là loại người bạc nhược, thiếu tính quyết đoán cần thiết, không thích hợp làm lãnh đạo. Nếu gặp người lãnh đạo tốt thì sẽ thành đạt.
Tóc nâu
Người có ba xoáy :
Xoáy tức là chỉ tóc trên đỉnh đầu tóc xoáy thành một trung tâm. Nói chung mỗi người chỉ có một xoáy, hơn nữa hướng của xoáy thuận chiều kim đồng hồ. Nhưng cũng có người có ba xoáy, hai xoáy hoặc xoáy trước trán và xoáy ngược với chiều kim đồng hồ. Người coi bói có ba xoáy có đặc điểm tính cách sau.
– Làm việc có kế hoạch, chu đáo: Người có ba xoáy có khả năng phản ứng nhanh, có kế hoạch và chu đáo. Họ có năng lực thực tế rất mạnh.
– Lòng tự tin mạnh: Người có ba xoáy lòng tự tin rất mạnh, tính khoáng đạt. Nhưng cũng vì thế mà dễ độc đoán chuyên quyền, có lúc gây ra thất bại không đáng có.
– Độc lập, không chơi với ai: Người có ba xoáy thường không hiểu người khác, cũng không biết động viên lòng nhiệt tình làm việc của người khác. Có lúc thích riêng rẽ.
Người có hai xoáy
Hai xoáy là chỉ người sau đỉnh đầu có hai xoáy. Người có hai xoáy có đặc điểm tính cách như sau.
– Tính cách cứng rắn: Nói chung người có hai xoáy có tố chất dũng cảm, tuy cuộc đời gập ghềnh nhưng cũng không khuất phục được ý chí phấn đấu của họ.
– Vui vẻ, hòa đồng: Tính cách người hai xoáy là cởi mở, có sức sống mạnh mẽ, nói chung thường sống thân ái với người khác.
Người có xoáy trước trán :
Xoáy trước trán là chỉ chân tóc trước trán có xoáy. Người có những đặc điểm tính cách sau.
– Ham tò mò: Người có xoáy trước trán rất thích tò mò, họ có dũng khí và tinh thần khai phá mở đường. nhưng nhược điểm là quá tự tin nên dễ gặp thất bại không đáng có.
– Tình cảm mềm yếu: Người có xoáy trước trán có tình cảm mềm yếu và dễ thương cảm. Nếu chú ý giữ gìn lời nói và việc làm thì cũng dễ thành đạt.
Người có xoáy trái chiều
Chung xoáy thường thuận theo chiều kim đồng hồ, nhưng có người lại ngược chiều kim đồng hồ. Người có đặc điểm tính cách dưới đây :
– Tính tinh lúc nắng lúc mưa: Người có xoáy hướng trái chiều tính khí không ổn định. Cho dù trong công tác hay giao thiệp thường mắc phải tật hay thay đổi ý kiến. Trong công tác họ rất ít khi hoàn thành công việc được một cách trọn vẹn.
– Không có chính kiến: thường phụ hoạ theo người khác, hơn nữa còn hay chia rẽ với người khác, đó chủ yếu là vì tính cách không bình tĩnh gây nên
Tranh Phong Thủy trước đây ít hoặc chưa từng xuất hiện ở Việt Nam, nhưng ở Trung Hoa, cái nôi của nghệ thuật Phong Thủy thì đã rất thịnh hành. Tranh Phong Thủy là một loại tranh được thiết kế đặc biệt cho ngành Phong Thủy. Bởi vì ngoài tác dụng trang trí, nó còn có tác dụng điều hòa sinh khí, mang lại tài lộc, sức khỏe, thịnh vượng cho căn nhà, đồng thời chấn tà khí, xua đuổi những điềm dữ, điềm hung. Sở hữu những bức tranh Phong Thủy trong nhà, gia chủ vừa cảm thấy an tâm để làm ăn, lại có thêm những tác phẩm nghệ thuật giúp ngôi nhà trở nên quyến rũ và hấp dẫn hơn.
Để hỗ trợ cho công việc, không ít doanh nhân đã lựa chọn những vật khí phong thủy - những vật được coi là mang lại tài lộc, thành công cho chủ nhân. Và những vật khí mà doanh nhân lựa chọn thường là chuông gió, con vật linh thiêng, pha lê, thủy tinh, thuyền vàng, rồng, tiền xu, tranh phong thủy, đá quý, Ngê, Kỳ Lân, Rùa, Cây tài cây lộc… Riêng với tranh phong thủy, một biểu tượng chiếm vị trí quan trọng đó là những chú cá. Cá đại diện cho sự giàu sang, phú quý bởi ngay trong tiếng Hán thì cá đã mang ý nghĩa của sự sung túc.
+ Cá chép: Theo quan niệm phương Đông, cá Chép tượng trưng cho sức khỏe và tài lộc. Trong đường quan lộ, cá Chép là biểu tượng của sự thăng tiến, công danh. Treo tranh cá chép ở nhà riêng hay văn phòng sẽ mang tới cho nguồn bạn tài lộc dồi dào. Trong kinh doanh, cá chép còn tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm khi nó thường bơi ngược dòng nước, cộng với đức tính bền bỉ và sự cố gắng dẻo dai, đã có thể vượt Vũ môn để hóa Rồng, nên người ta còn coi cá Chép như một hiện thân của Rồng, con vật linh thiêng cao quý
+ Cá chép Nhật (Koi): giống cá này có màu sắc rất đẹp và đa dạng với những màu đen, đỏ, trắng…cũng được coi là biểu tượng của sự giàu có và thành công. Tranh vẽ loại cá này kết hợp với tiểu cảnh để tạo ra khung cảnh sơn thuỷ hữu tình không những có tác dụng thư giãn cho gia chủ mà còn mang lại nhiều may mắn.
Vị trí gợi ý:
Những bức tranh cá phong thủy được xem là món đồ mang lại may mắn và có thể được sử dụng để đặt trong văn phòng hoặc tại phòng khách nhà bạn.
Các loài cá thường mang lại điềm tốt, và may mắn. Có một số loài cá thường đi thành đôi vậy nên nếu chúng hiện diện trong cuộc sống của bạn nó sẽ mang lại nhiều điều tốt lành cho hôn nhân của bạn cũng như góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho gia chủ.
Nguồn: VietGem (st)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Về cơ bản Phong Thuỷ là một bộ môn khoa học về môi trường sống, là những lời diễn dịch của người Trung Quốc xưa về thế giới tự nhiên với mục đích giúp họ xây dựng nên một hệ thống canh tác hiệu quả. Ngoài ra với ý nghĩa sâu xa hơn, Phong Thuỷ còn chứa dựng những kiến thức, hiểu biết về sự chuyển động của các thiên thể mà người Trung Quốc đã nghiên cứu để xác định đường đi của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, những lý lẽ diễn dịch này càng phức tạp và được ghi chép lại bằng chữ viết và được lưu truyền đến ngày nay.
Ở Trung Quốc, khoa Phong Thuỷ chi phối toàn bộ cuộc sống nhân sinh. Bằng cách thấu hiểu các khái niệm căn bản về Phong Thuỷ, chúng ta có thể chọn ra các mô hình về thiết kế, những hình ảnh và biểu tượng đầy ý nghĩa từ chính nền văn hoá của mỗi dân tộc để hỗ trợ cho đời sống tinh thần của dân tộc đó.
Ngày nay về mặt thực hành, Phong Thuỷ cho chúng ta các lời khuyên về cách kiến tạo ra một môi trường sống thoải mái và tích cực. Những yếu tố bất thường trong đời sống hiện đại đang ngày càng gia tăng sức huỷ hoại và vì vậy ngày càng có nhiều người tìm đén các cách sống khác, mong rằng có thể lấy lại thế quân bình cho đời sống cá nhân và những người thân của họ.
Các kiến thức Phong Thuỷ chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thuỷ là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta. Hiểu biết về Phong Thuỷ có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm văn phòng cũng như các thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đến mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Thuật phong thuỷ không những giúp ta biết được vị trí thuận lợi nhất đối với ta mà còn chỉ cho ta cách bài trí, chọn mầu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thuỷ vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể cho chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng.
Khi hiểu biết nhiều hơn về cuộc sống của mình và bắt đầu có ý thức tích cực thay đổi những nhân tố gây khó chịu cho chúng ta thì cũng đồng thời chúng ta đã bắt đầu hiểu rõ chính bản thân và vai trò của mình trong bối cảnh rộng lớn hơn.
Nguồn: Blogphongthuy
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Ngày 23/12 âm lịch hàng năm được cho là thời điểm không "động" bát hương, nên nhiều gia đình chọn bao sái bát hương (tỉa chân hương), sau đó cắm trụ sắt thật thẳng, vững vào đúng giữa bát hương. Khi việc dọn dẹp ban thờ, khấn vái đã hoàn tất, chủ nhà sẽ thắp hương vòng lên trụ sắt.
Tuy nhiên, một số nhà tâm linh thì cho rằng, bát hương cần tĩnh và nghiêm trang, vì thế không nên tùy tiện cắm các vật dụng linh tinh vào bát hương, điều này có thể sẽ làm “động” bát hương, mang vận không tốt cho chủ nhà...
Phong thủy bàn thờ hợp lý giúp chủ nhà bình an và gặp nhiều vận may. Ảnh minh họa
Theo ông Nguyễn Mạnh Cường (một nhà nghiên cứu đạo Phật thuộc Viện Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng con người), một số nhà tâm linh từng chứng thực chuyện bát hương có liên quan tới cái đầu của chủ nhà. Cụ thể, khi bốc bát hương mà lèn quá chặt, hoặc bát hương bốc tơi nhưng một thời gian sau tro hương sẽ chắc lại, nếu không biết làm tro tơi lên, gia chủ có thể bị đau đầu.
Vì thế, về mặt tâm linh, việc đặt trụ sắt vào bát hương lấy chỗ đốt hương vòng không tốt cho gia chủ. Họ có thể bị những cơn đau đầu bất chợt, không rõ nguyên nhân hành hạ. Chỉ khi bỏ trụ sắt này ra, đầu của gia chủ sẽ nhẹ hẳn.
Các nhà tâm linh cũng cho rằng, một ban thờ nếu có đủ yếu tố ngũ hành thì rất tốt (tức gồm đủ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Tuy vậy, những đồ vật bằng kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, hạc đồng hoặc chân nến… không nên bày biện quá nhiều trên ban thờ.
(Theo Eva)
► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Về cuốn Thần Khê Định Số, tôi đã sử dụng cả phương pháp hối lộ và biên pháp mạnh mới có, và cũng có chút gian manh và một chút duyên cơ nữa. Hồi đó là năm 1925, tuổi tôi mới 14 và tôi thường chép những lá số cho chú tôi là thầy bói Lợn.
Chú tôi có đưa con là Khang, lúc đó nó 12 tuổi. Chúng tôi cùng học tại trường Tuấn Di tại xã sở tại. Do lệnh của cha tôi, tôi thường ra cửa hàng chú bói Lợn viết lá số viết lá số kiếm thêm tiền. Tiền công chép một lá số với lời giải đoán, bằng một tập vở là 10 xu, nhưng 10 xu khi ấy đủ ăn quà sáng 10 ngày. Dĩ nhiên tôi không thích lắm, vì tuổi trẻ là tuổi đánh bi, đánh đáo, bắt chuột đồng, câu cá, chứ không phải ngồi còm cọm viết số tử vi.
cũng không phải là tôi đã nghĩ tới bói toán và số tử vi, để đi tìm những cuốn như Thần Khê Định Số. Cho nên phải nghĩ là có duyên may. Nguyên do là bên cạnh nhà chú tôi, có ông Khóa Soạn, bán thuốc bắc.
Ông Khóa Soạn thèm cuốn Thần Khê Định Số
Ông Khóa Soạn ở sát vách nhà cụ bói Lợn. Ông thường sang bên nhà cụ bói Lợn nhắm rượu.
Nhiều khi, lúc trưa, cụ bói Lợn gọi vọng sang bên cạnh:
_Cụ Soạn ơi! Ngọ rồi, sang đây đưa cay
Ông Soạn sang uống rượu với vài hạt đậu phộng. Cụ bói lợn cười khà khà, khịt mũi và chề môi như cái mỏ vịt ngáp khi trời nắng gắt.
Tôi đã thầm nghĩ: "Cụ này cũng hiểm ra phết". Và không cần phải học bói, tôi cũng đoán được thế nào cụ Lợn cũng sắp sửa nhờ ông Khóa Soạn vừa nhai, vừa đọc các sách bói số để cụ Lợn nghe bao nhiêu điều trong sách.
Là một điều, là các sách dạy bói số, ông Soạn mượn về nhà để đọc, cụ Lợn cho mượn ngay, không cần ông Soạn phải hỏi tới hai câu. Duy có một cuốn ông Khóa Soạn hỏi mượn là không được, có những lần ông Khóa Soạn bỏ tiền mua rượu, đậu phộng, bánh da, cả bún chả, để thiết cụ Lợn và trong bữa rượu, các cụ nói chuyện thành hiền, chuyện bè bạn đối xử với nhau, tương thân, tương trợ đúng vẻ nho gia... Để rồi ông Soạn cất tiếng hỏi mượn xem cuốn sách kia, là rồi cụ lợn cũng chẳng còn tình bạn hay tánh thánh hiền nào, cụ Lợn từ chối phách.
Cuốn sách đặc biệt đó là cuốn Thần Khê Định số.
Cụ Lợn giải thích:
_Cụ thầy tôi đã trao phó cho tôi cuốn sách, trước khi cụ từ trần, cụ đã dặn tôi rằng cuốn Thần Khê Định Số đó là sách đắc truyền do chính Thần Khê Bảng Nhãn Lê Qúy Đôn biên khảo, cụ thầy tôi bảo phải giữ như của gia bảo, không thể cho ai biết.
Cụ Lợn lại nói thêm:
_Cụ thầy tôi là cụ Các, đã dặn kỹ: "chỉ vì các con của tôi không đủ tài sử dụng nên mới trao sách cho trò".
Và cụ Lợn nói một câu giải thích thêm nữa rằng phải khổ công và tốn nhiều tiền biếu tôn sư rồi mới được cuốn sách.
Ông Soạn đành chịu.
Ông Soạn cố đoạt sách
Một bữa, đi qua nhà, tôi thấy ông Soạn nháy mắt và máy tôi vào nhà, ông Soạn đưa tôi vào mãi trong cùng vách rồi ghé tai tôi mà bảo:
_Anh Quang cùng học với thằng Khang phải không?
_Vâng!
_Nghe thằng Khang nói chuyện, nó sợ anh lắm phải không? Vì anh làm trùm ở trường...
Tôi hơi ngượng, vì quả có làm trùm ở trường thật.
Ông soạn móc túi đưa tôi đồng ván 20 xu và bảo:
_Tôi đưa anh tí tiền ăn quà, anh làm thế nào để cho thằng Khang lấy cuốn sách Thần Khê Định Số cho tôi mượn. Tôi sẽ thưởng anh một đồng.
Tôi giúp cụ Soạn ngay. Nhưng mất 10 xu cho thằng Khang cả 5 ngày mà không được, tôi đã định "thụi" nó thì nó nói:
_Để bữa nào thầy tớ say rượu, tớ sẽ lục tráp lấy sách cho mượn. Nhưng anh mượn sách để làm gì.
_Thì tao muốn biết xem sách đó có phải là sách bói gia truyền không?
Ông Soạn tốn thêm 2 đồng nữa để tôi đút lót cho thằng Khang, cuối cùng tôi nắm được cuốn Thần Khê Định Số trong tay, ông Soạn đọc để tôi chép ra quốc ngữ. Tôi ma lanh, viết tháu cho khó đọc và để lấy cớ về nha chép lại, để chép thêm bản nữa cho tôi. Thấy người lớn quý báu sách, tôi cũng a dua, chứ chẳng có mục đích gì cả.
Cụ Khóa Soạn có kể cho tôi nghe về lai lịch cuốn Thần Khê Định Số.
Theo cụ, cuốn Thần Khê Định Số hoàn tất sau cuốn Phú Ma Thị, do chính tay cụ Lê Qúy Đôn tìm hiểu ở cuốn Trần Đoàn đẩu số, công với các kinh nghiệm riêng mà viết thành. Cụ Lê Qúy Đôn viết nên bộ Phú khi tuổi đã lớn, nên sách để lại cho gia đình, không truyền bá ra ngoài.
Sau khi thi đậu liền Tam Nguyên Đại Khoa, cụ Đôn tỏ ra mình có tài mọi bộ môn, nên học đủ thứ. Cụ học và chiêm nghiệm tử vi. thời đó, chúa Trịnh đã phải phán câu "Thiên hạ vô tri, vấn bảng Đôn" nghĩa là "ai có điều gì không biết hỏi cụ Bảng nhân Lê Qúy Đôn" để ca tụng cụ Bảng, và luôn luôn Lê Qúy Đôn đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, kèm chiếc bảng đề năm chữ "vô chi vấn bảng Đôn", đủ tỏ ra ông ta kiêu ngạo tới chừng nào.
Một bữa, ông Lê Qúy Đôn đi kinh lý. Bỗng có cụ già quần nâu áo vải, đứng chắn ngang giữa đường. Toán tiền quân chặn hỏi "cụ kia có việc gì kêu cầu đến quan thượng?" cụ già râu tóc bạc trắng, tuy quần áo lam lũ, nhưng vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt. Cụ nói:
_Lão có việc cần xin hỏi quan Bảng Nhãn.
Bảng Đôn ngồi kiệu đi tới, dõng dạc hỏi:
_Lão có điều chi muốn hỏi?
_Lão tứ cố vô thân ở Tổng có nhà phú hộ ra vế câu đối. Lão muốn nhờ quan Bảng đối cho vì lão đối không được. Quan Bảng có tấm biển "vô chi vấn bảng Đôn" tất là phải biết.
_Câu đối ra như thế nào?
Ông cụ đọc:
_Ba ba mà nấu nồi ba, tam tam như cửu hỏi là chín chưa?
Câu đối ra khá hóc búa và gồm những cuộc chơi chữ Nôm và chữ Hán độc đáo, con ba ba, nồi ba, ba lần ba là chín, chín lại nghĩa là nấu chín.
Bảng Đôn không đối được, bấm ngay quẻ độn. Quẻ độn chỉ ông già là vị Tiên ở núi Tản Viên hiện lên để cảnh cáo cái tánh kiêu ngạo của mình. Bảng Đôn toát mồ hôi, truyền dẹp tấm bảng, tạ lỗi với ông cụ, và từ đó chuyên tâm tìm hiểu về số mạng để tự an ủi về chỗ tài cao mà đỗ thấp của mình (không được đậu Trạng Nguyên).
Sự chuyên tâm của cụ Bảng Đôn còn nhắm vào chỗ giải quyết những cái khó khăn trong việc đoán số, những cái tưởng như phi lý, làm cho khoa tử vi mất đi sự chính xác. Như khi hai người sanh cùng giờ, một người giàu sang, một người nghèo hèn, là tại sao, và làm thế nào đoán cho chính xác được? cụ Bảng Đôn đã tìm hiểu tất cả. Và công trình tìm hiểu của cụ được tập chung lại trong bộ Định Khê Thần Số.
Chúng tôi sẽ thành tâm trình bày những câu phú chính trong Thần Khê Định Số để trình bày với quý bạn đọc, và những câu chuyện liên quan chứng minh rằng Phú Thần Khê Định Số đoán cho chính xác hơn.
Khi đánh giá vấn đề người ta thường sử dụng từ khoa học. Hiện nay người ta thường gắn văn hóa vật chất phương tây với khoa học và kỹ thuật (hình thái được vật chất phương tây với khoa học kỹ thuật, hình thái được vật chất hóa của khoa học) vào làm một. Do đó khoa học bèn trở thành bình phẩm có giá trị cao nhất. Khi người ta muốn đưa một sự việc hay sự vật lên giá trị cao, đáng được tôn trọng nhất thì người ta gắn cho nó cái “ mũ” khoa học, hoặc là đã được “khoa học chứng minh”.
Một số học giả gần đây, tuy ít thì muốn nêu cao tư tưởng tinh hoa của nho gia, nhưng ngược lại cho học thuyết âm dương, ngũ hành là cặn bã. Họ gọi âm dương, ngũ hành – một học thuyết đã từng thống trị trong các lĩnh vực thuật số như thiên văn, ngũ hành, hình pháp (phong thuỷ, tướng thuật), đoán mệnh, y thuật, vọng khí, v.v.. là “mê tín”. Đó rõ ràng là đứng trên quan điểm thể nghiệm thế giới theo văn hóa phương Tây để bình phẩm những hiện tượng của văn hoá Trung Quốc cổ.
Xem qua lịch sử Trung Quốc cận đại, đó là một bộ lịch sử hoặc là với thái độ dùng phương thức truyền thống của Trung Quốc để chống lại, bài xích văn hóa phương Tây, hoặc với thái độ lợi dụng văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc, hoặc với thái độ cam tâm tình nguyện tiếp thu toàn bộ văn hóa phương Tây làm cho lịch sử triệt tiêu lẫn nhau. Từ sau khi văn hóa phương Tây dùng nước thánh, thuốc phiện, pháo hạm mở rộng cánh cửa vào Trung Quốc, người ta bắt đầu so sánh hai nền văn hóa dưới những góc độ khác nhau và cuối cùng rút ra kết luận phổ biến là: phương Tây “tiên tiến” còn Trung Quốc “lạc hậu”. Văn hóa của Trung Quốc chỉ có thể so sánh với một giai đoạn nào đó trong quá khứ của phương Tây. Sự biến đổi các hình thái và thứ lớp của văn hóa phương Tây bèn trở thành mô hình duy nhất, con đường duy nhất để phát triển văn hóa của nhân loại. Họ có những cái mà ta không có như chế đọ “dân chủ”, thể chế chính trị – kinh tế, phương pháp quản lý khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp hiện đại, giáo dục, v..v.. đều là những cái mà chúng ta đang lạc hậu và là những điều kiện đủ để trở thành tiên tiến. Còn cái mà ta có, họ không có thì lại trở thành nguyên nhân lạc hậu của ta, thành nhân tố hạn chế, làm trở ngại có sự tiến lên, thành gánh nặng lịch sử. Từ đó mà vứt bỏ hết “ truyền thống”, dấy lên phong trào tìm kiếm “chân lý” trong văn hóa phương Tây. Người ta hy vọng từ trong “ công nghiệp cứu quốc”, “ khoa học kỹ thuật cứu quốc”, “giáo dục cứu quốc” để tìm được “thuận với trào lưu thế giới”, cho đó là “cứu quốc bảo trọng”. Trong quá trình phá bỏ trật tự cũ, âm dương, ngũ hành bèn trở thành đối tượng bị đả phá đầu tiên, cho dù trên một ý nghĩa nào đó, đấy chỉ là sự phá bỏ hình thái bề ngoài.
Một ví dụ đầy kịch tính nhất là sự thay đổi trong đánh giá về Trung y – một trong những thuật y học cổ đại của Trung Quốc. Trong phong trào văn hoá mới, trung y cũng giống như các phương thuật khác đã từng bị xem là mê tín. Âm dương, ngũ hành là đại bản doanh của mê tính. Kết luận là : “cái chết có liên quan đến sự sống chết của ông cha ta đều là sản phẩm của quan niệm âm dương ngũ hành này”. Với chi phối của cách đánh giá đó, trung y đã từng bị coi là một tai ách. Nhưng về sau, đặc biệt là mấy chục năm gần đây, tình hình này đã có sự thay đổi căn bản. “Mê tín” nhảy vọt thành “khoa học”. Trung y với tư cách là một sự thật, bản thân nó không hề thay đổi, mà thay đổi là sự đánh giá. Ở đây rõ ràng mê tính hay khoa học chẳng qua chỉ là sự đánh giá. Thuật số làm một trong những hình thái quan trọng của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Sau nhà Đường và Ngũ đại, thuập số đoán mệnh được lưu hành hơn 1000 năm, cao nhất là vua cho chí thường dân đều thành tâm tin tưởng. Mấy chục năm lại đây ngược lại bị xem là mê tín. Sở dĩ nói đó chỉ là một sự bình phẩm vì Trung y và thuật đoán mệnh đều cùng một hệ thống, cùng có sắc thái như nhau, thế mà y học thì lại được xem là khoa học. Cho nên “mê tín” là một sự bình phẩm mang thiên kiến.
“Mê tín” và “khoa học” đều chỉ là một tín ngưỡng. Đối với mê tín thường được định nghĩa là: “sự tín ngưỡng thiếu bản chất lý tính, chỉ thuần tín ngưỡng hoặc tập tục”. Vì trước hết nó là một tính ngưỡng, sau nữa là “thiếu bản chất lý tính”. Song trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lập với mê tín là khoa học thì lại chính là được xây dựng trên cơ sở của sự tín ngưỡng. Đó là sự tín ngưỡng đối với “công lý” ( theo Bách khoa toàn thư).
Sistot cho rằng, công lý là nguyên lý thứ nhất không thể chứng minh được. Tất cả mọi khoa học có tính chứng minh đều bắt đầu từ nguyên lý thứ nhất này. Mỗi môn khoa học đều có nguyên lý thứ nhất của nó. Như hình học giải tích – môn biểu hiện rõ nhất “tinh thần lý tính” của Hy lạp là được xây dựng trên một số tiên đề – cái phải tự thừa nhận chứ không chứng minh được.
Cái phải tự thừa nhận mà không thể chứng minh được chính là dựa trên tín ngưỡng. Chỉ có thừa nhận những nguyên lý thứ nhất đó thì loài người mới có thể thu được tri thức. Do đó “ Kinh thánh” tuyên bố “ mầm mống và tinh hoa của tín ngưỡng đều là mở đầu của tri thức”. Bất luận là công lý hay mầm mống tinh hoa của tín ngưỡng đều là sự thể nghiệm, đều là chân lý tự hiểu, không chứng minh. Loại sự thực mà không thể dùng lý tính hoặc logic suy đoán để chứng minh thì đó là sự biểu hiện của tín ngưỡng. Loại tín ngưỡng này không có “bản chất lý tính”.
Khoa học ngày nay được xem là vạn năng, do đó nó cũng là một loại tín ngưỡng. Mọi người , boa gồm cả hàng vạn nhà khoa học đều sùng bái khoa học, thực chất đó là một hành vi tín ngưỡng. Khoa học hiện đại là biểu tượng của vũ trụ cơ học. Trong thế giới thể nghiệm về sự vận động cơ học thì giữa tôi và vật tách rời nhau. Ta là người đứng riêng ra để nghiên cứu, chỉ quan sát, mô phỏng ( ví dụ như thí nghiệm, lập mô hình toán học, v.v.) . Sự vận động của vật chất là một tồn tại khách quan. Dưới sự so sánh, tham chiếu các hiện tượng của vũ trụ cơ học thì thế giới “vạn vật có trong tôi”, khi đó “vạn vật với tôi làm một” tự nhiên bị xem là chủ nghĩa thần bí. Đó chính là hai sự tín ngưỡng khác biệt nhau, do một bên “ khoa học” xem vật tách khỏi tôi và một bên “ mê tín” cho tôi và vạn vật hòa làm một, do cái biểu tượng của hai thế giới thể nghiệm khác nhau tạo nên.
Khoa học hiện đại ngày nay chỉ là sự mô phỏng vũ trụ cơ học. Các môn khoa học hiện đại được các nhà khoa học tín ngưỡng thực chất là sự mô phỏng theo vật lý học, là sự mô phỏng theo các hiện tượng của vũ trụ cơ học. Theo lời sử gia khoa học người Anh - Tapi mà nói: “ Khoa học có thể gọi là những tri thức có đầu có đuôi về các hiện tượng tự nhiên, cũng có thể gọi là sự nghiên cứu lý tính giữa các loại quan niệm diễn đạt các hiện tượng tự nhiên”. Những nghiên cứu này , những kiến thức này đều tiến hành và thu được theo sự chi phối của quan niệm vũ trụ cơ học. Đặc trưng cơ bản nhất của vũ trụ cơ học là sự vận động cơ học về số lượng và khối lượng. Vật lý học bèn trở thành mô hình kinh điển của biểu tượng vũ trụ này, sử gia khoa học người Anh nói: “Những người tự xưng là “nhà khoa học” trong những lĩnh vực này luôn luôn thừa nhận rằng mình đã tuân theo phương pháp kinh nghiệm của vật lý, giam mình trong phòng thí nghiệm vật lý hiện đại, phân tích thế giới qua các con số . Họ không biết rằng phương pháp mà họ cố tuân theo không những không có hiệu quả mà cũng là phương pháp không làm cho vật lý học thành công.” (A.F. Charmosse: “Khoa học thực chất là gì”).
Vật chất và máy móc là các hình thái văn hóa bề mặt, là hình tượng của ý thức, là vật dụng. Bản thân khoa học kỹ thuật và đối tượng của nó đều là vật chất. Khi con người gọi chung chính trị, hệ thống quản lý là khoa học và dùng kỹ thuật để xử lý nó thì nền văn hóa phương Tây với danh nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo, đề cao cái tôi lên hàng đầu, cũng đã đồng thời đem con người đặt ngang với vật chất. Đáng tiếc là loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái , trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái, trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này chứng tỏ xu hướng tìm đến kỹ thuật của nên văn hóa phương Tây. Khoa học ngày nay chẳng qua là một hệ thống trừu tượng của thế giới vật lý. Cho nên nếu cứ khăng khăng tìm kiếm kỹ thuật tức là chỉ lo tìm hình tượng mà không chú ý đến bản chất, như thế tất nhiên sẽ dẫn đến hậu quả bi kịch là chỉ nắm kỹ thuật, bỏ qua đạo lý. Những nhà sáng tạo thuộc thế hệ mới ở phương Tây đã nhạy cảm hơn chúng ta nhiều khi cảm thấy nền văn hóa của họ đang đứng trước những nguy cơ bao gồm cả những hiện tượng bề mặt như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ khủng hỏang năng lượng, vấn đề dân số, v..v. kể cả nguy cơ tín ngưỡng.
Trong khi chúng ta, những người ở khu vực phi văn hóa phương Tây đang cố tìm kiếm kỹ thuật phương Tây thì một số nhà triết học phương Tây đã sớm bắt đầu tìm phương cứu thế từ bên ngoài văn hoá phương Tây. Điều đó chứng tỏ văn hóa phương Tây đang mất dần vị thế thống trị hơn 100 năm nay. Hình thái văn hóa phương Tây là lấy kỹ thuật làm biểu tượng dẫn đầu. Còn các nhân sĩ văn hóa phương Đông của chúng ta khi sử dụng kỹ thuật của phương Tây lại không hiểu được đạo lý của biểu tượng đó, tức là dùng kỹ thuật mà bỏ quên đạo lý. Như thì làm sao mà thoát khỏi được những bế tắc của đám bụi trần do lịch sử tích tụ lại.
Ý rõ, đạo sáng để thể hiện thế giới. Sự khác nhau giữa khoa học hiện đại với “ mê tín dạng Trung Quốc” chỉ là ở chỗ: cái trước thể nghiệm thế giới theo các: con người tách khỏi xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh hòa làm một. Am dương ngũ hành, cái bị gọi là đại bản doanh của mê tín chính là thế giới quan tự nhiên hay triết học tự nhiên của người Trung Quốc cổ đại chứ không phải người ngày nay khiên cưỡng , phụ họa ra. Vì trong sự thể nghiệm của người Trung Quốc cổ đại không có thiên nhiên đối lập với con người, trời đất đối lập với bản thân ta. Am dương, ngũ hành thống triệt trong tất cả mọi thứ nghiệm. Nó là biểu tượng toàn bộ thông tin giữa vũ trụ với cuộc sống con người. Thuật toán mà ngày nay bị xem là “mê tín” , ngày xưa vốn chiếm một vị trí rất cao. Giá trị vị trí của nó còn cao hơn cả khoa học ngày nay, vì không những nó là biểu tượng mà con là mô phongr thế giới thể nghiệm; là mô hình bầu trời ( hay đạo). Ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. Am dương ngũ hành là biểu tượng, trong biểu tượng nó bao gồm cả ý nghĩa; thuật số là kỹ thuật , nhưng trong kỹ thuật đó đã có đạo. Rõ được điều đó tức là ý rõ , đạo sáng. Nền văn hóa chân chính là sự hòa quyện không chỉ giữa biểu tượng với vật thể mà còn là ở ý và đạo. Sự dung hợp nền văn hóa mới không chỉ lấy kỹ thuật làm trọng mà phải là một quá trình “đồng hóa” rộng rãi hơn, to lớn hơn, tinh hoa hơn, sâu sắc hơn trong đó lấy sự thể nghiệm thế giới làm cốt lõi. Hiểu rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa tận cùng của văn hóa Trung Quốc chính là ở chỗ này.
Những câu nói hay nhất về lương tâm mà ý nghĩa. Điều quý giá và thiêng liêng nhất đối với con người là đạo đức, lương tâm. Mình làm điều gì không hổ thẹn với lương tâm chính là điều mà mình thấy vui vẻ với cuộc sống. Và bài viết này đã sưu tầm được những câu nói hay nhất về lương tâm con người. Các bạn cùng đọc và suy ngẫm nhé.
1. Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.
——–
2. Bạn không chỉ phải chịu trách nhiệm với những gì mình nói, mà cả những gì mình không nói.
———
3. Chỉ có hai thứ đáng theo đuổi, nhạc hay và lương tâm trong sạch.
——-
4. Bất kì người nào cũng có lỗi vì đã không làm những điều tốt.
———
5. Lương tâm là tiếng nói của linh hồn; Dục vọng là tiếng nói của cơ thể.
6. Con đường an toàn nhất là không làm gì trái với lương tâm. Với bí mật này, chúng ta có thể hưởng thụ cuộc sống và không sợ chết.
7. Tôi tự do, cho dù xung quanh tôi là những luật lệ gì. Nếu tôi thấy chúng có thể chấp nhận được, tôi chấp nhận chúng; nếu tôi thấy chúng quá khó chịu, tôi phá vỡ chúng. Tôi tự do bởi tôi biết bản thân tôi chịu trách nhiệm trước lương tri mình vì mọi điều tôi làm.
8. Bạn tốt, sách hay và lương tâm ngái ngủ: đó là cuộc sống lí tưởng.
9. Lương tâm là la bàn của con người.
10. Hạnh phúc của một người là kết quả nỗ lực của chính anh ta, một khi anh ta đã biết nguyên liệu cần thiết của hạnh phúc chỉ là một ít can đảm, sự tự chối bỏ ở mức độ nhất định, tình yêu công việc, và trên hết, một lương tâm trong sạch.
11. Lương tâm là người mẹ kế chẳng bao giờ ngừng tới thăm ta.
12. Nhờ ơn Chúa mà ở đất nước chúng ta, ta có ba thứ quý giá không tả nổi: tự do ngôn luận, tự do lương tri, và sự khôn ngoan để không bao giờ dùng đến cả hai.
13. Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng.
14. Thế giới là mưu đồ triền miên chống lại kẻ can trường. Đó là cuộc vật lộn từ xa xưa: một bên là tiếng gào thét của đám đông, và bên kia là tiếng của lương tâm bạn.
15. Lương tâm tội lỗi cần thú tội. Một tác phẩm nghệ thuật chính là một lời thú tội.
16. Giọng con người không bao giờ đi được xa như giọng nói nhỏ bé của lương tri.
17. Có tòa án còn cao hơn tòa án công lý, và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa án khác.
18. Sống thật dễ khi nhắm mắt.
19.Lương tâm của chúng ta không phải là vật chứa của chân lý vĩnh cửu. Nó phát triển cùng với đời sống xã hội của chúng ta, và điều kiện xã hội thay đổi cũng dẫn tới sự thay đổi triệt để về lương tâm.
20. Đừng đợi sự phán xét cuối cùng. Ngày nào nó cũng đến.
21. Lương tâm là giọng nói bên trong cảnh báo chúng ta rằng có thể có ai đó đang nhìn đấy.
22. Ý thức là khi bạn nhận thức được điều gì đó, và lương tâm là khi bạn ước giá mà mình không nhận ra.
23. Khi nào lương tâm của chúng ta sẽ trở nên dịu dàng đến mức chúng ta sẽ hành động để ngăn những nỗi đau khổ của con người thay vì báo thù cho nó?
24. Lương tâm là điều đau đớn khi mọi thứ khác đều có vẻ tốt đẹp.
25. Không gì được phân phối công bằng hơn lương tri: không ai nghĩ mình cần nhiền hơn những gì mình đã sẵn có.
26. Lương tâm của mỗi người là lời nguyền rủa anh ta phải nhận từ các vị thần linh để đạt được quyền mơ ước.
27. Tự do lương tâm gây ra nhiều nguy hiểm hơn chính quyền và sự chuyên quyền.
28. Một lương tâm tội lỗi không bao giờ cảm thấy yên tâm.
29. Công lý là thứ nhất thời và cuối cùng cũng sẽ đi đến kết thúc; nhưng lương tâm là vĩnh cửu và sẽ không bao giờ lụi tàn.
30. Lương tri là Chúa trong mỗi con người.
31. Công lý là lương tâm, không phải lương tâm cá nhân mà là lương tâm của toàn bộ nhân loại. Những ai nhận thức rõ ràng giọng nói của lương tâm chính mình thường cũng nhận ra giọng nói của công lý.
32. Một trái tim không có lương tâm, không còn linh hồn thì không khác gì một cỗ máy. Nó không biết phân biệt tốt xấu, thiện ác.
Không chỉ là nói về lương tâm, mà những câu nói hay về đạo đức con người cũng được chúng tôi sưu tầm và chia sẻ với các bạn độc giả. Một kho tàng những câu nói hay, những câu nói nổi tiếng trên thế giới sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về cuộc sống này.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Đa số những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu O sau khi kết hôn đều có được gia đình ổn định, hạnh phúc. Họ coi trọng gia đình và luôn cố gắng thực hiện tốt vai trò của một người vợ hiền hay một người chồng tốt.
Họ đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo, dạy dỗ con cái. Nhiều khi vì quá khắt khe trong giáo dục con mà không khí gia đình trở nên căng thẳng. Tuy nhiên, từ đây con cái họ có thể tiếp thu và học hỏi thêm được nhiều điều bổ ích, thiết thực từ chính bố mẹ chúng.
Để cuộc hôn nhân như ý, những người tuổi Tuất mang nhóm máu O nên kết hôn với những người có óc hài hước, năng động và có sự đồng cảm. Điều này làm cho mái ấm gia đình thêm hòa thuận, hạnh phúc.
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
1. Treo cành xương rồng trên cửa
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Khoảng rằm tháng 7, một mùa lễ Phật giáo được tổ chức khắp Đông Nam Á. Ở Nhật gọi là lễ Obon. Chữ Bon này tức là Urabon, do Nhật phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana; Trung Quốc phiên âm từ Phạn ra Hán là Vu Lan Bồn hoặc Ô Lam Bà Na; Việt Nam gọi tắt là Vu Lan.
Vu Lan chính là cái chậu (hoặc bồn để đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng chư tăng nhằm cầu siêu cho những vong hồn thoát khỏi nơi địa ngục). Tích xưa kể lại rằng, khi Đức Phật còn ở Dương thế, trong những người theo hầu có ngài Mục Kiền Liên, ông là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông. Một lần, Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục thấy mẹ đang bị Diêm Vương đày làm quỷ đói. Thương mẹ quá, Mục Kiền Liên dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng mẹ, nhưng mỗi khi mẹ Mục Kiền Liên đưa tay ra để nhận cơm của con thì cơm bỗng biến thành lửa không sao ăn được, Mục Kiền Liên đau xót vô cùng.
Ngài bèn cầu xin Đức Phật giúp mình. Đức Phật nghe thấy dạy rằng: cứ vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạn thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng chư tăng, cầu xin uy đức của Người mới có thể cứu rỗi vong nhan khỏi địa ngục tăm tối. Mục Kiền Liên thành tâm làm theo và cứu được mẹ thoát khỏi âm cung. Từ đó về sau, các phật tử theo lời Đức Phật cử hành lễ Vu Lan cầu phá địa ngục cho những vong hồn.
Trong đời sống tinh thần của người Việt, sự tích hay nguồn gốc của Rằm tháng bảy dường như không quan trọng, điều linh thiêng là vào ngày đó, một cái cầu vô hình dường như được bắc giữa hai bờ của thế giới Dương (người sống) và thế giới Âm (người chết). Ngay từ đầu Công nguyên, đạo Phật được ghi nhận là đã có mặt trên đất nước Việt Nam chúng ta. Giáo lý Phật-đà đã sớm được tiếp nhận và từ đó hội nhập vào đời sống văn hóa của người Việt một cách ôn hòa, sâu sắc.
Gần 20 thế kỷ qua, đạo Phật như luôn hòa quyện vào vận mệnh dân tộc và không ngừng khởi sắc tạo cho nền văn hóa Việt Nam một đặc trưng riêng biệt đậm nét dân tộc và Phật giáo. Một trong những ngày lễ lớn của Phật giáo đã sớm chuyển mình thành ngày lễ có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam, đó là ngày lễ Vu Lan.
Lễ Vu Lan mang một ý nghĩ lớn là báo ân cha me, đồng thời còn bao hàm ý nghĩa tìm về cội nguồn, là biết ơn và báo ơn. Tư tưởng ấy hoàn toàn phù hợp với tư duy hiền hậu chất phác của người Việt Nam: "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nếu người Tây Phương tự hào về ngày "Mother"s Day", "Father"s Day"" truyền thống của họ thì người Việt Nam nói chung, cũng có niềm tự hào không kém về ngày lễ Vu Lan của mình.