Một bài viết về Tử Vi vấn đáp trích ở phần phụ luc cuốn Tử Vi Chỉ Nam do Cam Vũ viết. Đây là bài viết rất hay giải đáp các câu hỏi mà người học tử vi thường hay thắc mắc, cần lời giải đáp.
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo
Trích từ phần "Tử vi vấn đáp" của tác giả Cam Vũ, cuối bản điện tử cuốn Tử Vi Chỉ Nam tác giả Song An - Đỗ Văn Lưu
Dưới đây là một số các kinh nghiệm Tử Vi được góp nhặt từ các bậc tiền bối, được trình bày dưới hình thức Tử Vi vấn đáp.
1. Tôi thấy sách nói: Kình Dương Tý Ngọ, Mão, Dậu phi yểu triết tắc nhi hình thương hoặc Kình Dương cư Ngọ là mã đầu đời kiếm trấn ngư biên cương nhưng rồi cũng chết bất đắc kỳ tử, mà nay lại thấy có người phát công danh lại trường thọ, không chết ở hạn ấy nghĩa là sao? Trường hợp lá số Dương Nam Bính Dần tháng 12 giờ Hợi ngày 05?
Trong mọi trường hợp phải để ý đến ngũ hành và cát tinh phù trợ, ở trường hợp này người ấy phát công danh to ở đại hạn cung Ngọ mà bản mệnh vững vàng vì hạn đến tam hợp Thái Tuế, có Long Phương Cái Hổ, mệnh Hỏa có Liêm Trinh Hỏa đồng hành nhập hạn mà Mệnh Thân lại có tam hóa. Ðại hạn của Tử Phủ Vũ Tướng thì hỏi sao mà không phú quý, hành của mệnh và hành sao nhập hạn khắc KÌNH DƯƠNG hành Kim. Thiên Phủ ở Dần chiếu lên giải tính hung ác của Kình Ðà.
2. Thế nào là Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt?
Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tuyệt là 5 yếu tố thuộc về sinh trưởng thu tàn của ngũ hành.
Nguyên tắc: Khi ta xét đến 1 hành, nếu có nguyên nhân nào làm cho hành ấy Vượng, hành được sinh là Tướng, hành sinh ra hành chánh là Hưu, hành khắc hành chánh là Tù và hành bị khắc là Tuyệt, tóm lại bảng tóm tắt sau:
Thí dụ: năm nay là Tân Dậu thuộc hành Mộc, thời Mộc Vượng, Hỏa Tướng, Thủy Hưu, Kim Tù, Thổ Tuyệt có lợi cho những ai hành Hỏa, Mộc, bất lợi cho 3 hành Thủy, Thổ, Kim.
Hay chi tiết hơn người ta xét đến khí của 4 mùa, mùa Xuân thuộc Mộc thời mộc vượng, mùa Hạ thuộc Hỏa thì hỏa vượng, mùa Thu thuộc Kim thì kim vượng, mùa Đông thuộc Thủy thì thủy vượng và giao mùa thuộc Thổ thì Thổ vượng. Năm yếu tố này được áp dụng trong Bốc Dịch và Y Học nhiều.
3. Sách xưa nói “sinh phùng bại đại phát đã hư hoa là sao”?
Ý muốn nói rằng Cung Mệnh, hay Thân cư ở nơi bại địa thì cuộc đời sẽ long đong vất vả, nếu có gặp được hạn tốt thì cũng chỉ phát như bông hoa bị vùi dập giông tố mà thôi. Khi mệnh lâm bại địa cần phải có cát tinh đắc địa hội chiếu hay Tuần Triệt án ngữ, nếu Ðại hạn lâm vào bại địa thì cũng một thời khốn khó. Căn cứ vào bảng dưới đây:
Bản mệnh Cung: mệnh, thân, hay cung hạn
Thí dụ: lá số Cụ Phạm Văn Toán (trang 33 sách Tử Vi Chỉ Nam của cụ Song An Đỗ Văn Lưu), tuổi Giáp Thìn là hỏa mệnh, cung mệnh là cung Dần là vượng địa, nên cuộc đời tuy có gặp khó khăn (tuần án ngữ) nhưng vẫn vượt qua được cả để tiến đến thành công.
4. Khi xem số Tử Vi làm thế nào để biết được người ấy bị lừa hay đi lừa người khác?
Tính chất cố hữu của Không, Kiếp là thị kỷ phi nhân (chỉ biết mình mà chẳng nghĩ tới người), tính điêu ngoa gian giảo tham lam của một số chính tim hãm địa như Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc nếu đứng chung với thế Thiên Không đắc Tả Hữu thì thật là mẫu người bán dối của người bồ tát, của mình lạt buộc. Nếu đứng chung với thế Thái Tuế là người lầm lạc, nên có tài mà bị đời lãng quên, nếu đứng chung với thế Tang Điếu, hay Trực phù - Thiếu âm - Long đức thì là người hay bị người khác qua mặt, lừa gạt, nếu ở hạn cũng luận như vậy.
5. Có người nói Mã ở Hợi là CÙNG ÐỒ MÃ, lại có sách xưa nói mã ở Hợi là Ô TRUY mã. Như vậy có mâu thuẫn không? Thế nào gọi là cùng đồ mã?
Gọi Thiên Mã ở Hợi là Ô Truy Mã là đúng, vì mã đó là Thủy Mã, rất tốt với người mệnh Thủy, đa tài mẫn cán, tháo vát và nghị lực rất mạnh. Còn gọi Mã ở Hợi là Cùng Đồ Mã thì cũng không sai, chỉ đúng 1 phần thôi. Chỉ khi nào có sao Tuyệt đồng cung với Thiên Mã ở Hợi, chỉ sự ngựa tuyệt lộ cùng đường chạy nên gọi là Cùng Đồ Mã, vì lấy cái lý sao Tuyệt là sao cuối của bộ Trường Sinh, Tuyệt lại hành Thổ khắc Mã Thủy.
6. Thế nào gọi là cách tuyệt sứ phùng sinh?
Khi Cung Mệnh an tại cung tuyệt địa, nhưng lại có chính tinh đắc địa cho hành của bản mệnh ví như người đang hấp hối lại được thần dược cứu sống.
7. Tại sao gọi là HẠN TAM TAI?
Hạn tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi, không phải cứ đến năm tam tai là có tai họa nhưng hễ cứ đến những năm tam tai thì sẽ gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra, nếu các yếu tố trong lá số thật tốt thì cũng làm giảm bớt, gây khó khăn bực mình, nếu trong hạn của lá số xấu thì sẽ bị xấu thêm, khó mà tránh được tai ương họa hại.
- Tuổi Dần, Ngọ, Tuất thì 03 năm tam tai là Thân, Dậu, Tuất.
- Tuổi Thân, Tý, Thìn, thì 03 năm tam tai là Dần, Mão, Thìn.
- Tuổi Tỵ, Dậu Sửu thì 03 năm tam tai là Hợi, Tý, Sửu.
- Tuổi Hợi, Mão, Mùi, thì 03 năm tam tai là Tỵ, Ngọ, Mùi.
8. Khi lấy số Tử Vi nếu gặp tháng nhuận thì tính thế nào?
Có người tính từ 15 tháng sau coi như tháng trước và 16 tháng sau (tháng nhuận) được coi như tháng sau, nhưng do bởi lý: nếu đã nhuận (giống nhau) tức là thời điểm không đổi thì 2 tháng nhuận đều tính giống nhau.
Thí dụ: sinh ngày 20 tháng 5 nhuận, ta vẫn cứ tính như ngày 20 tháng 5 thường mà thôi.
9. Người muốn giỏi về Tử Vi cần phải làm sao?
Muốn đoánTử Vi giỏi cần phải có 4 điều kiện sau:
- TRÍ NHỚ: Tử Vi là một môn toán học phức tạp nên rất cần trí nhớ.
- SUY LUẬN: phải thuộc tính chất để suy luận tính chế hóa thiện, hung của các sao, đặc biệt là sự chế hóa xung khắc, yếu tố tiêu trưởng của Âm Dương Ngũ Hành.
- TRỰC GIÁC: cần phải có trực giác bén nhậy để giúp ích cho sự suy luận.
- KINH NGHIỆM: cuối cùng là phải thực hành nhiều để đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết và suy luận ra những nguyên tắc về giải đoán cho phong phú.
10. Thế nào gọi là hạn Trúc La?
Hạn Trúc La là hạn SÁT PHÁ LIÊM THAM ở cung Mão, cung Mão thuộc hành Mộc quẻ Chấn, là tượng cho sấm sét, nên còn gọi là Mộc áp lôi kinh, nếu có các sao Kình, Hư, Tuế, Khách nữa thì chết, số Hạng Võ sinh năm Ðinh Mão, tháng 8 ngày 12 giờ Mão có cách này.
13. Ảnh hưởng của Tuần, Triệt là như thế nào?
Khi đoán số Tử Vi, đến cung nào có Tuần, Triệt trấn đóng, án ngữ bản cung thì nên thận trọng vì tính chất phức tạp của Tuần, Triệt.
- Triệt: còn gọi là Triệt lộ không vong, hay gọi tắt là Triệt không, thuộc hành Kim đới Thủy, có nghĩa là chém đứt phân lìa ra.
- Tuần: còn gọi là Tuần trung không vong, thuộc Hỏa đới Mộc, gọi tắt là Tuần không, có nghĩa là bao lại, bao vây, không cho phát huy khả năng.
Do tính chất hoàn không nên Tuần không, Triệt không hợp với Thiên không, Ðịa không gọi là Tứ không sẽ làm mất hết hiệu lực của các tính đẩu nằm trong phạm vi của nó, nhưng không có nghĩa là ngược lại, nghĩa là Tuần Triệt chỉ có tính chất làm mất cái tốt hoặc tiêu tan sự hung ác của ác sát tinh chứ không thể biến tốt thành xấu hay biến xấu thành tốt được.
Vị trí đắc địa của Tuần Triệt là ở cung Kim và cung Hỏa, khi “Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa” hai hành Kim khi va chạm sẽ gây nên tiếng vang, hai hành Hỏa hợp lại sẽ bùng to lớn mãnh liệt, nên người mệnh vô chính diệu, có bản mệnh đồng hành với Triệt, Tuần mệnh cư ở Ngọ hay Dậu (thế cung Ngọ là ly chính Hỏa, cung Dậu là đoài chính Kim) thì được nổi tiếng lẫy lừng và phú quý.
Về đặc tính của Tuần, Triệt trên lá số, sách xưa có các câu phú:
- Tam phương xung sát hạnh nhất triệt nhi khả bằng.
- Tứ chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá.
nghĩa là khi bản cung và các cung hợp phương gặp ác sát chi tinh, các hung tinh thủ chiếu, nhưng chỉ cần 1 sao Triệt cũng đủ làm cho bình yên. Khi bản cung được các cát tinh bội chiếu nhưng nếu chỉ gập 1 sao Không (Tuần hay Triệt) cũng đủ để phá mất ý nghĩa tốt đẹp đi.
- Không vong định yếu đắc dụng. Nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.
Tuần, Triệt cũng có chỗ đắc dụng khi nằm đúng vị trí thì lại thật là cần thiết vô cùng. Khi Mệnh ở cung Bại Ðịa hay Tuyệt Ðịa, thì Tuần Triệt ở đây lại phù trì cho các sao hãm địa lại trở nên vượng, bản mệnh từ mong manh lại trở nên vững vàng.
Trường hợp này đặc biệt hơn còn kỳ dư các cung khác, Tuần Triệt được ví như bộ thắng của chiếc xe vậy.
Về ảnh hưởng của Tuần, Triệt cụ Việt Viêm Tử có phổ biến định lý:
- Dương hành tam thất: người Dương chịu ảnh hưởng cung dương 7 phần.
- Âm qui nhị bát: người Âm chịu ảnh hưởng cung âm 8 phần.
Nhưng theo thiển nghĩ và kinh nghiệm áp dụng thì thấy rằng đối với Dương nam, Âm nữ là ở những tuổi thuận lý âm dương thì ảnh hưởng theo chiều thuận cho nên định lý Dương hành tam thất phải được dùng cho Dương nam Âm nữ.
Thí dụ: người Dương nam canh Dần, có Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nếu khởi theo chiều thuận thì đến cung Ngọ sẽ gặp Tuần, Triệt đương đầu, và ở cung Mùi thì Tuần, Triệt nằm sau lưng nên chỉ vuốt đuôi mà thôi. Ðối với tuổi Âm nam Dương Nữ, là ở những tuổi nghịch lý Âm Dương, nên chịu ảnh hưởng theo chiều nghịch cho nên định lý Âm qui nhị bát phải được áp dụng cho Âm nam Dương nữ.
Thí dụ: người Dương nữ canh Dần, Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nhưng vì là Dương Nữ cho nên ảnh hưởng theo chiều nghịch ( kim đồng hồ) vậy ở cung Mùi lại gặp Tuần Triệt đương đầu, mà với cung ngọ thì Tuần, Triệt lại chỉ là vuốt đuôi mà thôi.
- Tam thập niên tiền quan Triệt.
- Tam thập niên hậu khán Tuần.
Nghĩa là sao Triệt ảnh hưởng mạnh vào tuổi chưa lập thân (30 năm đầu)
Sao Tuần ảnh hưởng mạnh vào tuổi từ khi lập thân cho đến hết cuộc đời. Sở dĩ các cụ xưa dùng chữ tam thập niên tiền và tam thập niên hậu vì các cụ quan niệm là tuổi lập thân từ 30 trở ra, và cho đến 60 là hết vì nhân sinh thất thập cổ lai hi, đời người trung bình chỉ 60 thôi còn từ 70 trở ra là ngoại lệ.
14. Tại sao Triệt lại chỉ ảnh hưởng vào tiền vận 30 năm đầu, còn Tuần lại ảnh hưởng suốt cuộc đời?
Triệt Lộ Không Vọng được tính căn cứ vào Hang Thiên Can của năm sinh. Trở lại nguồn gốc vạn vật theo Hà Ðồ Lạc Thủ của Kinh Dịch, thì từ thuở hư không tức Thái Cực sinh trời rồi mới tới đất (Thiên nhất sinh thủy, Ðịa lục thành chi…) cho nên hàng can chính là cái cội rể của con người. Xét theo cuộc đời, thời gian thì hàng can phải là phần trước, có nửa đời trước thì mới có nửa đời sau, cái sau sinh ra bởi cái trước.
Tuần Trung Không Vong được tính theo can chi của năm sinh năm trong giáp nào tức là gồm cả thiên can và địa chi, thuộc giáp nào trong lục thập hoa giáp (Hội), mà can chi là 2 yếu tố căn bản để tạo nên tuổi của con người, nên Tuần sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời của con người.
15. Người có Tuần hay Triệt tại Mệnh, Thân thì sao?
- Người có Tuần, Triệt án ngữ tại mệnh thì cuộc đời vất vả, làm việc gì cũng phải hai ba lần mới thành công, khi tai mệnh, thì thiếu niên tân khổ; nếu ở thân thì vất vả nhiều, chung thân bất như ý.
- Nếu mệnh Tuần thân triệt hay ngược lại, thì cung mệnh hay thân lại rất cần vô chính diêu thì mới mong mát mặt với đời. Ðặc biệt khi mệnh hoặc thân có Tuần hoặc Triệt thì mọi sự lại hành thông.
16. Thế nào được gọi là lá số vô chính diệu?
Một lá số được gọi là vô chính diệu khi cung mệnh không có chính tinh chiếm đóng. Hoặc có chính tinh nhưng không được hưởng, nghĩa là chính tinh thủy mệnh không sinh hay đồng hành với bản mệnh.
Thí dụ: người tuổi Canh Tý là thổ mệnh, mệnh cư ở Hợi, có thiên đồng thủ mệnh, như thế là khắc với chính tinh, nên không hưởng mà không hưởng thì được coi như vô chính diệu.
Khi gặp lá số không có chính tinh thì phải lấy sao đồng hành với bản mệnh ở thế tam hợp cung mệnh phải khắc thắng được hành tam hợp của xung chiếu.
Thí dụ: mệnh cư ở cung Thân vô chính diệu, vậy phải tìm chính tinh đồng hành ở 2 cung tam hợp là Tỵ và Thìn, và lấy được ở cung Dần chiếu sang vì Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Dần, Ngọ, Tuất là hỏa cung trong trường hợp này nếu mệnh ở cung dần thì dùng được 2 cung tam hợp là Ngọ và Tuất. Còn các sao ở cung thân thì không hưởng được, trái lại còn nguy hại nữa là khác nếu có nhiều sao xấu.
17. Lá số vô chính hiệu thế nào thì tốt?
Gồm các trường hợp sau:
- Mệnh vô chính diêu đắc tam không nhi phú quý khá kỹ. Phải là mệnh Hỏa, được 1 không thủ và 2 không chiếu (các sao Không gồm có Tuần Không, Triệt Không Thiên Không, Ðịa Không), trường hợp này được côngthành danh toại.
- Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa: mệnh vô chính diệu có hung tính đắc địa đồng hành bản mệnh như Kình, Ðà, Linh, Hỏa, Khốc, Hư, Tang, Hổ nhưng phải mệnh Kim hay Hỏa Mới hợp. Trường hợp này phải xa lánh Tuần, Triệt.
- Trung tinh đắc cách hội chiếu: Khôi, Việt, Xương Khúc, Thai Tọa, Tam Hóa... nhưng cũng phải không gặp Tuần Triệt cản thì mới được phúc lộc. Còn kỳ dư tất cả các trường hợp khác đều là mộng ảo hoàng lương, phi yếu tắc bần, tất cả chỉ là phá cách, không tốt.
Nhưng bất cứ trường hợp nào thì ngừơi có lá số vô chính diệu vẫn là người thông minh, khôn ngoan và có đặc tính, trước một vấn đề cần giải quyết dứt khoát thì thường hay đắn đo, do dự.
18. Khi đoán hạn phải để ý đến yếu tố nào?
Khi giải đoán đến đại hạn hay tiểu hạn thì phải lưu ý đến những điểm sau:
- Phân biệt Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh để tìm ảnh hưởng vào nửa sau hay nửa trước của hạn, nếu gặp Tuần, Triệt thì ngược lại.
- Mệnh phải được cung nhập hạn sinh hay đồng hành với bản Mệnh.
- Chính tinh nhập hạn đồng hành hay sinh cho bản mệnh.
- Trường hợp cung hạn khắc bản mệnh thì cần phải có chính tinh sinh mệnh là cách tuyệt sứ phùng sinh.
- Xem hung tinh có đồng hành với bản mệnh hay với can của năm sinh hay không? Hung tinh không hại người đồng hành với nó, hay hành nó sinh. Thí dụ: Hỏa, Linh, không hại người mệnh Hỏa, hay Thổ mà chỉ hại ngưởi Thủy, Kim và Mộc.
Nếu được mệnh mà không đựơc can, hay ngược lại thì cũng lôi thôi. Thí dụ: tuổi Bính Dần đến hạn gặp Hỏa, Linh thì không việc gì Bính thuộc hỏa mà Bính Dần cũng thuộc Hỏa.
- Người có cung nhập hạn khắc mệnh lại gặp Kình, Hình, Không, Kiếp, thì sẽ chết trong hạn đó.
- Người mệnh Mộc hay có can Giáp, Ất, tối kỵ hạn gặp Kình, Hình.
- Người có Mệnh Hỏa, hay có hàng can Bính, Ðinh tối kỵ hạn gặp Hỏa Ky.
- Người có Mệnh Kim hay có hàng can Canh, Tân tối kỵ hạn gặp Hỏa, Linh.
Ba hành trên nếu gặp sao Kỵ khắc nhập hạn, sẽ gặp tai nạn, thương tổn lôi thôi.
19. Muốn xem nguyệt hạn thì phải làm sao?
Khi đoán đến nguyệt hạn tức là đoán đến chi tiết phải để ý đến nguyên tắc sau:
Cách cuộc của mệnh thân chi phối dài hạn (gia tăng hay xung phá, cách cuộc của đại hạn chi phối tiểu hạn, cách cuộc của tiểu hạn chi phối nguyệt hạn.
Ðặc biệt phải lưu ý đến can chi ngũ hành của nguyệt hạn, phối hợp với can chi và ngũ hành của bản mệnh và các sao cùng cung nhập hàm ra sao mà linh động chế hóa.
Có nhiều cách tính nguyệt hạn nhưng cách thông dụng nhất là khởi từ cung tiểu hạn là tháng 1 tính thuận đến tháng sinh rồi từ đó là giờ tý tính nghịch đến giờ sinh dừng lại cung nào thì đó là tháng 1 cứ thế theo chiều thuận mỗi cung 1 tháng cho đến tháng 12.
Cách tính can chi của tháng như sau:
- Giáp, Kỷ Bính tác chủ
- Ất, Canh, Mậu vi đấu
- Bính, Tân, Canh dần khỏi.
- Ðinh, Nhâm, Nhâm dần cầu
- Mậu Quí tiên khởi Giáp.
- Cung Dần nguyệt thuận lưu.
Nghĩa là: Năm thuộc can giáp hay can kỷ, thí dụ như năm kỷ mùi hay giáp thân thì tháng giêng là tháng bính dần, rồi đến tháng 2 là tháng đinh mão….cứ thế mà thuận đến tháng 12:
- Năm thuộc can Ất, Canh, tháng giêng là mậu dần.
- Năm thuộc can Bính, Tân tháng giêng là canh dần.
- Năm thuộc can Ðinh, Nhâm tháng giêng là nhâm dần.
- Năm thuộc can Mậu, Quí tháng giêng là giáp dần.
Nghĩa là bất cứ năm nào tháng giêng cũng là tháng dần, còn hàng can thì thay đổi theo hàng can của năm. Rồi cứ thế theo can chi mà luận xuống. Thí dụ năm nay là năm Tân Dậu. Vậy tháng 1 là tháng canh dần rồi tháng 2 là tân mão, tháng 3 là nhâm thìn tháng 4 là quí Tỵ, tháng 5 là giáp ngọ, tháng 6 là Ất Mão, tháng 7 là Bính Thân, tháng 8 là Ðinh Dậu, tháng 9 là Mậu Tuất, tháng 10 là Kỷ Hợi, tháng 11 là canh tý, tháng 12 là Tân Sửu.
Thí dụ: trong lá số Hoàng Ðế – trang 197 sách Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu - năm 25 tuổi là năm Giáp Ngọ.
Bây giờ muốn tìm nguyệt hạn tháng 3 năm giáp ngọ xem ở cung nào.
- Năm Giáp Ngọ tiểu hạn ở cung Thìn.
- Kể từ cung Thìn là tháng giêng thuận đến tháng sinh (nếu sinh tháng 1 thì kể từ ở đó), rồi kể từ giờ tý nghichh đến giờ sinh là giờ thân, đến cung thân là cung nguyệt hạn.
- Vì năm giáp cho nên tháng 1 là tháng bính dần, tháng 3 là Mậu Thìn.
Vậy lưu nguyệt hạn tháng 3 là tháng mậu thìn ở cung thân.
Khi giải đoán thì xem can chi nguyệt hạn có xung phá với can chi bản mệnh không? Ngũ hành của nguyệt hạn lại khắc hay sinh cho ngũ hành bản mệnh? Rồi xem đến các sao trong cung nguyệt hạn có hợp bộ, phò tá cho tiểu hạn không? Hay bị xung phá, thí dụ: tiểu hạn có Lộc tồn, đến nguyệt hạn gặp Phá Quân, Ðại Hao, hay Không Kiếp là bị phá vậy, cứ căn bản mà chế hóa cho tinh tường thì ra được đáp số.
Khi đoán tiểu hạn hàng năm, làm thế nào để biết sự việc sẽ xảy ra cho chính đường số hay cho các đối tượng liên hệ như cha mẹ, anh em, vợ con….?
- Trước hết, khi tiểu hạn nhập cung nào thì cung ấy phải được lưu ý nhiều.
- Cung xung chiếu được kể là quan trọng thứ nhì, nếu hành cung tiểu hạn khắc thắng được hành cung xung chiếu, thì sự việc xảy ra. (Tốt lành hay hung dữ tùy theo sao) đến 80% là đối tượng thuộc cung đối chiếu với cung tiểu hạn. Thí dụ: người canh dần, dương nam, mệnh lập tại dần, lưu hạn năm mùi ở cung dậu là cung ách, cung dậu (ách ) khắc cung phụ mẫu ở mão, vậy những việc quan trọng sẽ xảy ra cho phụ mẫu vào năm mùi hay năm nay tân dậu, lưu tiểu hạn ở cung Tử tức tại cung Hội, xung chiếu khắc cung điền ở tỵ, vậy sự việc xảy ra năm nay xảy đến là điền trạch nhiều hơn (đổi chỗ ở ) rồi đến năm 1982 là năm Tuất, tiểu hạn đến cung thê, xung chiếu khắc quan lộc, nên sự việc liên quan đến Công Danh.
Xin được nhắc lại khi đoán hạn phải lưu ý:
- Nếu là đại hạn thì phải lưu ý đến hành tam hợp trước, rồi đến cung nhập hạn, rồi đến sao.
- Nếu là tiểu hay nguyệt hạn phải lưu ý đến can chi và ngũ hành của năm nay tháng muốn xem rồi đến hành của cung hạn, rồi đến sao của cung hạn.
- Dù bất cứ trường hợp nào cũng phải để ý đến hành của sao nhập hạn với hành của bản mệnh, xem sinh khắc thế nào, rồi đến vị trí miếu hãm của sao rồi cũng đi tìm xem hợp bộ hay xung phá, rồi căn cứ vào tính chất của sao để cho ra lời giải đáp.
21. Sao Thiên Mã có những tính chất gì?
Hành của thiên mã sẽ tùy theo cung, thiên mã ở cung nào sẽ mang hành ở cung đó. Thí dụ Mã ở thân là kim mã.
Dù ở bất cứ vị trí nào nếu thiên mã đồng hành hay sinh hành bản mệnh cũng rất tốt đa tài mẫn cán. Các cách tốt đẹp của thiên mã gồm có:
- Thiên mã đồng cung Lộc tồn: chủ phúc lộc.
- Thiên mã, Phượng các: cứu giải mọi tai nạn.
- Mã ngộ Khốc Khách: uy danh, oai vệ.
- Mã ngộ Lưu Hà: cứu giải tai nạn.
- Mã ngộ Trường sinh: thanh vân đắc lộ chủ về sự thăng tiến công danh.
Thiên Mã rất kỵ gặp các sao sau:
- Tuần, Triệt.
- Kình, Ðà
- Thiên Hình
- Không, Kiếp.
Nếu gặp chỉ gây ngăn trở công việc, nếu bản mệnh không vững thì thường tốn, tai nạn thương tật tay chân.
Riêng trường hợp thiên mã chỉ gặp 1 sao tuần, thì bên cạnh sau cái rủi sẽ có cái may, vì tuần chỉ như cái cầu ngăn cản để cho thiên mã phục rồi nhảy sang cung khác chứ không bị trảm như Triệt, Kình, Hình, Ðà. Mã còn là phương tiện di chuyển, mà cho phù hợp với lẽ biến dịch thì ngày nay chính là chiếc xe ta đang đi vậy. Như thế hành của bản mệnh và của thiên mã hay chiếc xe cũng nói lên ý nghĩa sau:
- Hành của Thiên mã đồng hành với bản mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng, xe màu vàng vì màu vàng thuộc thổ sẽ cảm thấy thoải mái với phương tiện di chuyển của mình.
- Hành của Thiên mã sinh hành của mệnh. Thí dụ: tuổi canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu đó vì màu đỏ thuộc hỏa sinh thổ, gây ích lợi cho bản mệnh.
- Hành của thiệp mã khắc hành của mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu xanh thuộc mộc khắc thổ, gây bất lợi cho bản mệnh.
- Hành của mệnh sinh hành Thiên mã. Thí dụ: tuổi canh Tý mệnh Thổ sử dụng xe màu trắng, vất vả vì xe cộ, có thể là dù xe mới, sửa cái nọ theo ý của mình, và có khi là cứ hay hư hỏng lung tung khiến mình nhọc sức với nó.
- Hành của mệnh khắc hành Thiên Mã. Thí dụ: canh Tý mệnh thổ sử dụng xe màu đen hay nâu thuộc thủy bị thổ khắc, dễ hư hỏng, dễ gây tai nạn, nhưng bản thân không việc gì.
22. Muốn biết tổng quát đặc tính một người qua chính tinh thì căn cứ vào đâu?
- Bộ: Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì bản tính hiền và hiếu thảo.
- Bộ: Nhật Nguyệt thì thông minh mà tình cảm lai láng.
- Bộ: Sát Phá Tham thì nóng nảy mà dâm dục
- Các Lục Sát Tình thì tính khí hỉ nộ bất thường, lúc vui lúc giận không định trước được.
23. Muốn xem số phái nữ khi nào bị tai nạn về "trinh tiết" khi căn cứ thế nào?
- Trước hết bất cứ là lá số phụ nữ nào khi cung quan lộc hay cung Thân có Tuần hay Triệt, bất luận về yếu sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái trước khi về nhà chồng.
- Các lá số phụ nữ có các sao thuộc về dâm tinh thủ mệnh như Tham Lang, Thai, Ðào Riêu, Cự Ky. Xương, Khúc, Cái Mộc, thì trong trừơng hợp này không coi là 1 tai họa, mà còn được họ coi là tự nhiên, 1 nhu cầu hay 1 sở thích, không đặt vấn đề luân lý đạo đức.
- Trường hợp được coi là tai họa khi ở mệnh hay hạn có các sao: Thai, phục gặp Kiếp, Không, chỉ sự bạo hành, cưỡng bức. Kinh nghiêm cho thấy hầu hết các lá số bị tai nạn tập thể do hải tặc Thái Lan đều thấy có Ðào Hồng gặp Hình Riêu Không Kiếp, Cự Môn và Hóa Kỵ, hay Tham lang hóa Kỵ chủ sự tình ngang trái mà sự thiệt thòi về phần phái nữ. Thai, Hình, Tang, Hổ: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, nghĩa là người con gái sau khi bị bạo hành sẽ bị giết chết. Ý nghĩa của sao Thai khi đi chung với các sao dâm dục khác còn mang ý nghĩa có thai của phụ nữ.
24. Những sao nào không có lợi cho việc hôn nhân?
Khi tọa thư hoặc hội chiếu vào cung phu thê thì các sao ngăn trở làm cho gia đạo bất hòa gồm có:
- Hóa Kỵ: chỉ về cái lưỡi, khích bác chê bai.
- Cự Môn: chủ về cái mồm.
- Thiên Không: cuộc hôn nhân bất thành.
- Thiên Hình: gay go và hay gặp trở ngại bất ngờ.
- Khốc Hư Tang Hổ: chỉ cần gặp 1 trong 4 sao này cũng đã thấy có sự khó khăn.
Ngoài ra còn phải kể đến các sao như Thất Sát, Phá Quân, Cô Thần, Quả Tú, Tuần Triệt, nhất là cung thế có thiên mã gặp tuần, triệt là số vợ bỏ.
Tuần Triệt ngộ mã
Hành thê vi vợ bỏ
Chồng đào tỵ tha hương.
25. Tại sao có lá số Mã ngộ Khốc khách mà lại nghèo, công danh thất bại?
Mã là Ngựa, Khốc Khách là tiếng nhạc ngựa đeo, khi ngựa chạy thì nhạc rung mà phát ra tiếng, như ng ngựa có no thì mới chạy được ví như xe của ta ngày nay phải có nhiên liệu cho xe ta phải cótiền, một chiếc xe hết xăng, mà trong túi ta lại không có lấy 1 xu, thì chiếc xe lúc ấy trở thành vô dụng.
Bởi vậy muốn được hưởng Mã ngộ khốc khách cho đúng cách thì tam hợp với khốc khách Mã phải có Lộc tồn, tùy theo ở mệnh hay ở hạn, mã sẽ được hưởng lâu dài hay ngắn hạn.
Mã Khốc Khách mà không có Lộc Tồn là tiếng rên của ngựa chết đói.
26. Muốn biết về hình thương bệnh tật của 1 người thì căn cứ vào yếu tố nào?
- Trước hết nên căn cứ vào mục các sao biểu tượng cho các phần trong cơ thể.
- Sau đó tùy ở cung mệnh, cung hạn, cung ách, phối hợp với các sao lục sát tinh Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp mà luận.
Thí dụ: một người ở cung ách có kình dương ngộ Riêu Y, Cô Quả, Ðào Hồng, Kình Dương chủ bộ phận sinh dục, Cô Quả chỉ một mình, Đào Riêu chỉ sự dâm dục, như thế là người ấy sẽ mắc tật dâm dục kín. Nếu cung mệnh không có những sao cứu giải như Nguyệt Đức, sao lý trí mạnh như Thiên Hình, Thái Tuế - thông thường theo kinh nghiệm thì:
- Bộ Sát Phá Tham và bộ Lục Sát, Thiên Hình hay gây ra các tai nạn về ngoại thương.
- Bộ Nhật Nguyệt gặp Hình, Kỵ, Đà, Kình, Hỏa, Linh gây các bệnh thuộc về mắt và hệ tim mạch, có Nhật, Nguyệt thủ mệnh thì ngoài các đặc tính tốt lành, nhưng bao giờ cũng bị yếu, thần kinh dễ nhạy bén, hay dễ căng thẳng.
- Bộ Cự Kỵ Thái Tuế thì hay gây vạ miệng.
- Bộ Từ Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Ðồng Lương hay gây bệnh nội thương.
- Hỏa Linh gặp Hao hay mệnh có Hao giáp Hỏa Linh thì bị nghiện, thường là ma túy.
27. Tại sao hầu hết các sách và kinh nghiệm cho thấy hạn Ðào Hồng Hỉ khi đắc tài danh có tình duyên, lợi cho thi cử mà khi người già hạn gặp đào hồng thì lại nguy đến tính mạng?
Nhớ lại cách xếp đặt của các tinh đẩu: Ðào hoa luôn luôn cứ ở tứ chính tức là 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu và phối hợp với Thiên Không, Lưu hà, Kiếp Sát, gọi là Thiên Hà Địa Sát.
Thí dụ: người tuổi canh Tý thì Ðào Hoa ở Dậu Thiên Không ở Sửu, Kiếp Sát ở Tỵ, một Kiếp Sát cũng đủ làm mưa làm gió; ở một số tuổi lại gặp cả Lưu Hà. Người còn trẻ thì các sao còn vượng với bản thân, Đào Hồng chính là trợ tinh cho các sao tốt nên công thành danh toại. Nhưng người già, sức tàn lực kém, ví như bông hoa đào tàn úa lung lay trước gió, thần lưỡi hái là kiếp sát chỉ ra tay nhẹ cũng đủ hồn qui tiên cảnh.
Lấy trường hợp điển hình:
a. Số cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) chết năm Ất Mão 1967. Lưu hạn năm Mão ở cung Dậu có Đào Hoa ở chính cung có Thiên Không, Kiếp Sát ở Tỵ.
b. Lá số Ngọc Hân công chúa sinh năm canh Dần 1770 chết năm 1803 ở cung Mùi có Đào Hoa, Thiên Không ở mão, Kiếp Sát ở hợi.
28. Tại sao ở trên đời thấy có nhiều cảnh, con người lại phải chết đang lúc công danh, tiền bạc, tình duyên lên, danh tiếng lẫy lừng?
Trong phú Tử Vi có câu: Hung tinh đắc địa phát dã như lôi. Cát tinh nhập miếu trầm trầm sự nghiệp.
Bản tính của các cát tinh cư nơi miếu địa đều chủ phúc lộc nhưng sự nghiệp cứ từng bước phát dần dần, còn tính chất của các hung, Sát Phá Liêm Tham và bộ lục sát Kình, Đà, Hỏa, Linh Không Kiếp, nếu đắc địa sẽ phát rất nhanh, những tính chất của hung tinh, là bạo phát cho nên thực tế, hầu hết giới nhà binh nhưng người được thăng cấp quá nhanh, các cấp chỉ huy quá trẻ đều được lên bàn thờ sớm.
29. Theo như kinh nghiệm cụ Thiên Lương cho biết, người nào đến hạn Thái Tuế thì nếu đang tai nạn cũng được khởi đều được công thành danh toại. Nhất là ở những người có mệnh ở thế tam hợp Thái Tuế, đáo đại hạn cũng vào cung tam hợp Thái Tuế, thì cũng có danh ở đời nhưng tôi, thấy có người đang ở hạn Thái Tuế mà lại chết là sao?
Có người đáo vận tam hợp tuổi (tam hợp Thái Tuế ) mà vẫn chết vì gặp quá nhiều sao hung ác, lại khắc hành bản mệnh nên phải chết.
Nhưng theo quy luật người ấy chưa hưởng hết hạn Thái Tuế mà đã phải chết nên dường như sự bù trừ vô hình đã dành cho họ được lưu danh với hậu thế, hầu hết cái chết của những người đang ở vào thời kỳ đại hạn nằm trong tam hợp tuổi đều có cái chết đặc biệt mà người đương thời và thời sau đều biết đến nhớ tiếc.
Thí dụ:
- Ðức Khổng Tử tuổi Canh Tuất chết ở đại hạn cung Ngọ (73).
- Hạng Võ tuổi Ðinh Mão chết ở đại hạn cung Mão (32).
Một số phần nội dung bài viết đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số
(lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó căn cứu vào lời gợi ý giải đoán để tự tìm hiểu bản thân và tìm ra một cách ứng xử phù hợp với cuộc đời.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)