Cách xem tướng các ngón tay trong bàn tay –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Vầng trán là biểu thị cho trí tuệ và có thể nói lên tính cách, vận số của bạn. Dưới đây là một số tướng trán điển hình.
Tướng trán trên hình là tướng trán đạt tiêu chuẩn theo nhân tướng học. Đây là tướng trán của hầu hết các nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn, nhà doanh nghiệp… Tuy nhiên đàn ông có tướng trán này thì tốt; đàn bà có tướng trán này thành công trong sự nghiệp, nhưng thường có cuộc sống hôn nhân không mấy hạnh phúc, vợ chồng thường lục đục và dễ dẫn tới ly hôn.

Tướng trán ở hình trên là tướng trán đẹp, vầng trán tuy không cao nhưng có bề ngang rộng. Những người có trán này thường thành đạt trong sự nghiệp, nhưng mức độ thành công của họ không lớn, chỉ nhỏ lẻ.

Trán như hình trên là trán có hình vòng cung, đây là dạng trán tiêu chuẩn dành cho nữ giới. Những người có trán này thường dịu dàng, thông mình, hiểu lòng người, biết cách cư xử. Nam giới có trán này tính tình sẽ lương thiện, hiền lành nhưng không có chí tiến thủ và thiếu khả năng sáng tạo.

Vầng trán như hình trên tạo thành hình chữ M. Đây được gọi là vầng trán của nghệ sĩ. Những người có trán này có khả năng sáng tạo cao, vì thế, họ có thể thành công trong nhiều ngành nghề. Tuy nhiên, họ hơi bảo thủ, cố chấp vì thế không phải lúc nào họ cũng đạt được thành công.
Nếu trán chữ M kết hợp thêm phần xương trán gồ lên nổi rõ thì sẽ đạt thành tựu lớn trong sự nghiệp, ngược lại thì mọi việc chỉ đạt ở mức độ bình thường.

Trán như hình trên thoạt nhìn hơi giống trán chữ M, nhưng thực tế chỉ có phần giữa chân tóc hơi lồi ra một chút, được gọi là trán mỹ nhân tiêm. Những người có trán này rất hiếu thắng, tò mò và mưu mẹo, họ thường đi xa quê hương để lập nghiệp.

Trán như hình trên có nửa bên trên hơi ngả ra sau, tạo thành hình gần giống hình bậc thang so với nửa bên dưới. Dạng trán này thường thuộc về người không thông minh, tình cảm hời hợt, sự nghiệp không thuận lợi, khó gặt hái được thành công lớn.

![]() |
| Dù ít hay nhiều thì nên dùng hoa thật |
![]() |
| Hãy trưng bày hoa quả còn tươi ngon |
![]() |
| Cành vàng lá ngọc là nơi các vong bám vào |
![]() |
| Không nên để vàng mã trên ban thờ suốt cả năm |
| ► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Bày mâm ngũ quả ngày Tết sao cho đẹp?
Đây là điển cố thứ Bốn mốt trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Đổng Trác Thu Lã Bố (còn gọi là Đổng Trác Thu Phục Lã Bố). Quẻ Quan Thế Âm Đổng Trác Thu Lã Bố có bắt nguồn như sau:
Lã Bố là mãnh tướng thời Tam Quốc, khi còn trẻ dũng cảm, có sức khỏe, làm sai nha ở Tịnh Châu, sau được quan Thứ sử Đình Nguyên ở Kinh Châu chú ý đến, nhận làm con nuôi, đảm nhiệm chức Chủ bạ. Sau đó, Đình Nguyên và Đống Trác nảy sinh sự bất đồng về vấn đề phế truất vua, dẫn đến động chạm binh đao. Lã Bố dẫn quân ra chiến đấu, nhờ dũng cảm thiện chiến nên nhanh chóng chiến thắng, Đống Trác dẫn quân bỏ chạy, buộc phải lui quân hơn ba mươi dặm mớl hạ trại. Vì thế, Đống Trác nhận định Lã Bố là nhân tài hiếm có, bèn sai đồng hương của Lã Bố là Lý Túc đi thuyết khách.
Điểm yếu lớn nhất của Lã Bố khi ở dưới trướng Đình Nguyên là không có địa vị. Trong thời Tam Quốc, Chủ bạ không phải là chức quan chính thức của triều đình, mà là người tham mưu riêng mà các quan viên tự bỏ tiền ra nuôi, đây cũng là nguyên nhân mà Lã Bố bị mọi người cười nhạo là “gia nô”. Bởi vậy, những hứa hẹn mà Đống Trác dành cho Lã Bố có sức cám dỗ rất lớn. Sau khi về dưới trướng Đống Trác, Lã Bố được phong là Kỵ Đô úy Trung Lang tướng Đô Đình Hầu. Ngoài ra, Đống Trác là người hào hiệp, không bao giờ tiếc tiền của, lễ vật gặp mặt ông dành cho Lã Bố là “một nghìn lượng vàng, mấy chục hạt minh châu, một chiếc đai bằng vàng”, lại thêm con ngựa quý Hãn huyết (loài ngựa quý có mò hôi đỏ như máu) có thể “ngày đi ngàn dặm, đêm đi tám trăm dặm” rất nối tiếng, tức giống ngựa xích thố.
Vì thế, Lã Bố “vác đao lẻn vào, chém một nhát rơi đầu Đinh Nguyên”, rồi quy thuận Đống Trác, được Đống Trác nhận làm con nuôi, rất được Đống Trác yêu mến và tín nhiệm.
Đống Trác biết rằng mình đã gây nên quá nhiều thù oán, thường lo lắng bị người khác ngầm hãm hại, vì thế dùng Lã Bố làm thị vệ bên cạnh mình. Khi Đống Trác đi đâu vào ban đêm, Lã Bố luôn đi theo không rời. Một lần, Lã Bố không cấn thận đắc tội với Đống Trác, Đống Trác rất tức giận, tiện tay rút thanh đao ném về phía Lã Bố, may sao Lã Bố nhanh tay nhanh mắt, mới may mắn tránh được. Lã Bố lập tức tạ tộl xin lỗi Đống Trác, Đống Trác mới không truy cứu nữa. Nhưng từ đó, Lã Bố bắt đầu ôm hận trong lòng.
Một lần, do ngẫu nhiên, Đống Trác đã chú ý đến một tỳ nữ của Lã Bố, để tư thông với cô ta, Đống Trác mượn cớ tách Lã Bố ra, cho hắn đi phòng vệ Trung Các. Sau khi Lã Bố biết được thông tin này, lại càng khắc sâu thêm mối thù hận với Đống Trác. Sau khi nghe lén được thông tin quan Tư đồ Vương Doãn muốn mưu hại Đổng Trác, liền chủ động tố cáo những tội trạng của Đống Trác với phía Vương Doãn. Vương Doãn cho Lã Bố biết kế hoạch giết Đống Trác, lại yêu cầu Lã Bố làm nội ứng. Lúc bắt đầu hành động, Lã Bố vì có danh nghĩa cha con với Đống Trác nên vẫn còn do dự, Vương Doãn mới khuyên rằng: “Ngươi họ Lã, hắn họ Đống, không phải là cốt nhục thân thích. Huống chi Đống Trác hiện nay là quốc tặc mà ai ai bắt được cũng sẽ giết, lẽ nào ngươi vẫn nhận hắn làm cha sao? Lúc hắn ném thanh đao về phía ngươi, có coi ngươi là con không?” Dưới sự thuyết phục của Vương Doãn, cuối cùng Lã Bố cũng đồng ý.
Tất cả đã chuẩn bị xong xuôi, gặp đúng dịp hoàng đế bị bệnh nặng mới khỏi, các đại thần văn võ trong triều đình đều tập hợp ở điện Vị Ương, chúc mừng thiên tử long thể bình phục. Lã Bố mượn cơ hội này, sắp xếp bọn Kỵ Đô úy Lý Túc dẫn theo hơn mười thân binh, cải trang thành vệ sĩ, nấp ở hai bên cửa bên của cung điện. Đống Trác vừa đến cửa, liền bị bọn Lý Túc tập kích bất ngờ. Đống Trác hoảng sợ, vội vàng cầu cứu Lã Bố, Lã Bố y phục chỉnh tề ngồi cao chễm chệ, nói lớn: “Bọn ta vâng chiếu giết kẻ loạn thần tặc tử, ngươi chết cũng không hết tội!” Đống Trác trong cơn tuyệt vọng, dù cố gắng phản kháng, nhưng cũng không thế cứu vãn được sự việc, bị giết ngay tại chỗ, xử tội tru di tam tộc.
Quẻ Quan Thế Âm Đổng Trác Thu Lã Bố là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 41 !
Quẻ này là tượng nhận giặc làm con.
Những việc mong cầu cần nhận rõ chân thực, đề phòng giả mạo
Vũ khúc là Tài tinh, kỵ nhất lạc Không vong hoặc đồng cung với Địa kiếp, Địa không, chủ về bần cùng, phá tài.
Vũ khúc kỵ hóa kỵ, chủ về tiền bạc lưu chuyển không thông, dẫn đến sự nghiệp thất bại.
Vũ khúc ưa đồng cung với Tham lang, Hỏa tinh, Linh tinh, nhất định phát tài.
Vũ khúc, Dương nhẫn đồng cung chủ về vì tiền tài mà phải động đến dao kiếm.
Trong tử vi Vũ khúc không ưa Hỏa tinh, Linh tinh, nhưng Vũ khúc, Tham lang đồng cung thì ưa có Hỏa tinh, Linh tinh đồng cung, nếu tọa cung Điền trạch, cung Tài bạch sẽ phát tài nhanh chóng.
- Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Sửu có Tham lang Hỏa(linh) đồng cung là mệnh nhanh phát tài
- Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Quan lộc tại Tỵ- Hợi đồng cung với Phá Quân là mệnh thất bại phá sản và nợ nần
- Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Mùi có Tham lang đồng cung dễ dính đến pháp luật tù tội
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)

Dựng vợ, gả chồng xưa nay vẫn là một việc vô cùng trong đại trong cuộc đời mỗi con người. Vì quan hệ hôn nhân sẽ xây dựng nên một gia đình nhỏ, một gia đình lại là một tế bào của xã hội, nghĩa là gia đình là một cơ sở kinh tế - văn hóa. Bởi vậy, tế bào (cơ sở kinh tế - văn hóa nhỏ) này có lành mạnh, ổn định, phát triển tốt thì xã hội mới thịnh vượng, tiến bộ và văn minh.
Xây dựng gia đình, được chính thức diễn ra khi đăng ký kết hôn trước pháp luật (ý nghĩa pháp lý), đối với làng xóm cộng đồng thì việc xây dựng gia đình được bắt đầu từ khi hai bên gia đình tổ chức hôn lễ cho đôi vợ chồng trẻ, trước sự chứng kiến của anh em, họ hàng, làng xóm, bạn bè… Ngày nay, tự do trong hôn nhân, nên nam nữ được tự do tìm hiểu, yêu đương và quyết định đi tới hôn nhân. Theo quan niệm dân gian người ta thường xem tuổi hôn phối của hai vợ chồng có được hòa hợp hay không? Nhưng quan trọng hơn nữa là việc lựa chọn thời điểm kết hôn, chọn ngày tốt kết hôn.
Về thời gian kết hôn trước tiên người ta xem xét năm tổ chức lễ cưới đó có phạm Kim lâu không. Cách tính Kim lâu trong tuổi kết hôn dựa vào số tuổi âm của người con gái (tức là tuổi năm sinh + 1 tuổi trong bào thai, mà dân gian hay gọi là tuổi mụ). Lấy số tuổi âm của cô dâu tương lai đem chia cho 9, nếu phép chia dư các số 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu, người ta có thể hoãn hôn lễ, hoặc dùng phép tắc nào đó để hóa giải những bất lợi.
Về tháng tổ chức hôn lễ thông thường ở nước ta nhiều người tiến hành vào thời điểm cuối năm. Bởi vậy, nên các bạn trẻ thường đùa nhau: Khi nào cưới vợ? Người kia sẽ trả lời: Cuối năm nhưng chưa biết năm nào!
Xem bói tình yêu hai vợ chồng để xem hai bạn có hợp nhau hai không nhé.
Theo sách Phong tục dân gian của Lý Kiến Thành thì có 5 tháng này người ta ít tổ chức hôn lễ:
Sau khi định tháng tổ chức, việc chọn ngày lành tháng tốt, giờ tốt cho hỷ sự cũng hết sức quan trọng. Tuy nhiên, có một số những yếu lĩnh như sau.
+ Ngày Hắc đạo: Thiên hình, Chu tước, Bạch hổ, Câu trần, Thiên lao, Nguyên vũ
+ Ngày có Nhị thập bát tú xấu: Sao Cương, Đê, Tâm, Ngưu, Thất, Nữ, Hư, Nguy, Khuê, Mão, Chủy, Quỷ, Liễu, Tinh, Dực
+ Ngày có Lục diệu xấu: Lưu niên, Xích khẩu, Không vong
+ Ngày có các sao xấu cho việc hôn lễ:
+ Tránh các ngày Tam nương, Nguyệt kỵ: 3, 5, 7, 14, 18, 22, 23, 27
+ Ngày Hoàng đạo: Thanh long, Minh đường, Kim đường, Kim quỹ, Tư mệnh, Ngọc đường
+ Nên tiến hành hôn lễ vào các ngày đại minh cát nhật: Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Đinh Sửu, Kỷ Mẹo, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Đinh Hợi, Nhâm Thìn, Ất Mùi, Nhâm Dần, Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Bính Thìn, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu.
+ Nên chọn cưới gả vào những ngày có các sao tốt như sau:
Bất tương, Yếu yên, Tục thế, Ích hậu, Phổ hộ, Thiên hỷ
+ Nên chọn những ngày có nhị thập bát tú cát lợi:
Sao Giác, Phòng, Vĩ, Cơ, Đẩu, Thất, Bích, Lâu, Vị, Tất, Sâm, Tỉnh, Trương, Chẩn
Như vậy, để tránh hết các tổ hợp xấu và hướng tới nhiều yếu tố cát lợi thì thật là hiếm và gần như khó có ngày nào hoàn hảo như vậy. Tuy nhiên, vạn vật trong tự nhiên không thể không có khiếm khuyết. Trong quá trình chọn lựa, buộc người chọn phải có sự phân biệt, cân đong, đo đếm, so sánh, xem xét về tương quan tốt xấu một cách chi ly, cầm lên đặt xuống coi nặng nhẹ như thế nào.
Cũng có quan điểm, năm tốt không bằng tháng tốt, tháng tốt không bằng ngày tốt, ngày tốt không bằng giờ tốt. Giờ đón dâu, tổ chức hôn lễ thường nhằm vào các giờ và ngày Hoàng đạo trong ngày sẽ gặp may mắn và cát lợi.
Hải Triều
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa: một chữ "thụ" là trao cho, một chữ "thụ" là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!

Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.
Theo dacsanvungque.net
Sử gia Trần Thọ bình về Lưu Bị trong "Tam Quốc Chí" - "Tiên chủ là người khoan hồng đức độ, tri nhân đãi sĩ, có phong phạm của Cao Tổ, là bậc anh hùng".
Hoàng đế khai quốc Thục Hán Lưu Bị được đánh giá là có nhiều điểm tương đồng với Hán Cao Tổ Lưu Bang - "Không ham đọc sách, thích chó ngựa, âm nhạc, y phục đẹp... ít nói, đối đãi tốt với hạ nhân, hỷ nộ không lộ ra ngoài".
Giống với tổ tiên của mình, Lưu Bị đánh trận thường xuyên thất bại và cũng từng bỏ chạy "quên cả vợ con". Người kế vị Lưu Thiền thực tế không phải là con trưởng của Bị.
Nhờ sự kiên trì theo đuổi sự nghiệp, cuối cùng Lưu Bị cũng xây dựng thành công đế quốc Thục Hán. Thời điểm lên ngôi, Bị đã 61 tuổi, lớn hơn Lưu Bang lúc đăng cơ 6 tuổi.
Lưu Bang khởi binh năm 47 tuổi, mất 7 năm để thành đại nghiệp. Lưu Bị "xuất thế" năm 23 tuổi, mất tới 38 năm để ngồi lên ngai vàng Thục Hán.
Lưu Bị là nhân vật điển hình của mô hình "tay trắng khởi nghiệp", và điều duy nhất ông vượt trội so với Lưu Bang chính là sự trọng vọng hiền tài.
Ban đầu, Lưu Bị đi theo Hiệu úy Trâu Tịnh trấn áp giặc Hoàng Cân lập được chiến công, được phong làm Huyện úy An Hỷ (tương tương phó chủ tịch huyện). Từ đây, Bị mới bắt đầu sự nghiệp chinh chiến.
Từ khi mất chức do vụ Trương Phi "dùng roi đánh quan đốc bưu", Lưu Bị cùng nhóm quân của mình liên tục vùng vẫy trong nhiều năm thất bại, thậm chí "không có nổi miếng đất cắm dùi".
Mặc dù giành được một số thắng lợi nhỏ như trảm Sái Dương ở Nhữ Nam, đả bại Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm ở Bác Vọng, nhưng chỉ đến khi tham gia liên minh với Tôn Quyền, Lưu Bị mới được "đổi đời".
Chiến thắng mấu chốt tại Xích Bích của liên quân Tôn - Lưu đã triệt để thay đổi cán cân giữa các lực lượng quân sự lúc bấy giờ.
Nhờ thực hiện phương châm "long trung đối" của Gia Cát Lượng, thế lực của Lưu Bị đã quật khởi mạnh mẽ tại Ích Châu và một phần Kinh Châu, phát triển thành đối trọng với 2 nhà Tào, Tôn.
Lưu Bị chỉ có năng lực quân sự trung bình, nhưng lại được đánh giá là sáng suốt trong cách dùng người.
Năm Kiến An thứ 24 (219), Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, giành được Hán Trung - "yết hầu" của Ích Châu, khiến Tào Tháo "vỡ mộng" Tây chinh.
Giai đoạn này, tình thế được cho là "như trong mơ" với Thục Hán, khi Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu phát động các chiến dịch Tương Dương, Phàn Thành "nhấn chìm 7 quân, trảm Bàng Đức, hàng phục Vu Cấm, đánh cho Tào Tháo suýt phải rời đô".
Tuy nhiên, cục diện bất ngờ thay đổi khi "đồng minh" Tôn Quyền quay sang bắt tay Tào Ngụy.
Tướng Đông Ngô Lữ Mông với chiến dịch tập kích kinh điển "bạch y độ giang" khiến Quan Vũ không kịp trở tay và để mất Giang Lăng, Công An (thuộc Kinh Châu). Bản thân Quan Vũ cũng thiệt mạng.
2 năm sau, Lưu Bị xưng đế và "Đông Sơn tái khởi", nhưng Bị thảm bại ở Di Lăng. Bị đau khổ thất chí, qua đời tại thành Bạch Đế.
Tình thế Thục quốc thời điểm Lưu Bị băng hà, ngoài có Ngụy, Ngô áp biên, bên trong lại vướng cuộc tạo phản Nam Trung của Thái thú Hán Gia Hoàng Nguyên, Thái thú Tang Ca Chu Bao, Ung Khai ở Ích Châu...
Bên cạnh đó, sau thất bại của Lưu Bị, quân đội Thục Hán bị tổn thất nghiêm trọng. Nhà Thục ví như ngọn đèn trước gió, đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Lúc này, nhân vật đứng ra chèo lái con thuyền sắp đắm Thục Hán chính là "thiên cổ đệ nhất hiền tướng" Gia Cát Lượng.
Phó thác cô nhi ở thành Bạch Đế
Mối quan hệ giữa Lưu Bị và Khổng Minh luôn được nhận định là "điển phạm của quan hệ quân thần".
Sử liệu Trung Quốc ghi nhận, đến nay cũng chỉ có Lưu Bị và Gia Cát Lượng mới đạt được đến mức độ thân cận "như cá với nước".
Mặc dù vậy, giữa Bị và Khổng Minh vẫn tồn tại những khúc mắc khó tháo gỡ.
Gia Cát Lượng chủ trương "liên Ngô kháng Tào", phản đối Lưu Bị tuyên chiến với Đông Ngô. Bị bắt Khổng Minh ở lại Thành Đô, mà Gia Cát Lượng cũng không thể không ở.
Thời điểm đó, Thục Hán nhân tài ít ỏi, Quan - Trương tử chiến không lâu, Phượng Sồ Bàng Thống, Pháp Chính mất sớm.
Gia Cát Lượng buộc phải "bám trụ" Thành Đô như một quyết sách chiến lược, bên cạnh giám hộ Lưu Thiện, ông phải "trấn an quốc gia, úy lạo bách tính, cung ứng quân nhu".
Nếu Lượng cũng theo Lưu Bị xuất sư thì có thể cục diện Tam Quốc đã chuyển biến lớn, bởi Lưu Bị nổi danh là "thường bại tướng quân".
Một nhân vật năng lực quân sự trung bình như Tào Phi cũng chỉ ra được chiến lược "bài binh Thục doanh 700 dặm" của Lưu Bị tất bại.
Bị xem thường thống soái trẻ tuổi Lục Tốn của Đông Ngô, dẫn đến thảm bại và chạy về thành Bạch Đế, Vĩnh An.
Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng ở thành Bạch Đế.
Năm Chương Vũ thứ 2 (222, Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị), Bị triệu Thái thú Lý Nghiêm đến thành Bạch Đế, phong làm Thượng thư.
Tháng 2/223, Lưu Bị triệu gấp Khổng Minh tới Vĩnh An. Tháng 4 cùng năm, Bị đem con trai phó thác cho Gia Cát Lượng, gọi là "thác cô".
"Thác cô" là hiện tượng chính trị quan trọng mà lịch sử cổ đại Trung Quốc không thể tránh khỏi, thường phát sinh trong những tình huống như vua mất sớm, tân vương còn nhỏ.
Nhà nghiên cứu Nho học đời Hán Khổng An Quốc nói - "Mệnh lệnh lúc lâm chung của vua gọi là Cố mệnh". Từ đó, các vị đại thần được vua phó thác trách nhiệm trước lúc băng hà, gọi là "Cố mệnh đại thần".
Đối tượng "phó thác" mà vua lựa chọn thường phải đáp ứng được các yêu cầu như lòng trung thành sâu sắc, có năng lực, danh vọng cao, quan hệ quân thần đủ độ mật thiết.
Như vậy, có thể thấy rõ Gia Cát Lượng là sự lựa chọn hàng đầu của Lưu Bị.
Về việc Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sách "Tam Quốc Chí" đã có ghi chép.
"Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" viết - "Tiên Chủ bệnh nặng, 'thác cô' cho Thừa tướng Lượng. Thượng thư Lý Nghiêm làm phó".
"Tam Quốc Chí - Gia Cát Lượng truyện" có đoạn - "Tiên chủ bệnh nặng ở Vĩnh An, triệu Lượng tới phó thác hậu sự - 'Tiên sinh tài cao gấp 10 Tào Phi, tất sẽ an định quốc gia, thành đại sự.
Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá. Nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi'."
Lưu Bị cũng để lại di chiếu dặn dò Lưu Thiện rằng - "Phải học theo Thừa tướng, coi Thừa tướng như cha".
Lý Nghiêm, "nhân vật số 2" triều Thục Hán sau khi Lưu Bị mất.
Bị qua đời, Khổng Minh và Lý Nghiêm làm theo di chiếu. Nghiêm làm Trung đô hộ, thống lĩnh quân sự trong ngoài, trấn thủ Vĩnh An.
Sau này, Lưu Thiện thực tế trở thành vị vua bất tài, trị quốc vô năng, không đánh đã hàng.
Các nhà nghiên cứu hiện đại bình luận, việc Lưu Bị sắp xếp để Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm cùng phò trợ hậu chủ Lưu Thiện cũng là "một phen hao tâm tốn sức".
Khổng Minh được đánh giá là đại biểu đáng tin cậy của "hội người cao tuổi Kinh Tương", trong khi nhân vật số 2 Lý Nghiêm dù là nhân sĩ Kinh Châu, nhưng vốn là thuộc hạ của Lưu Chương, đại diện "quyền lực mới" trong triều Thục Hán.
Thực tế, Lưu Bị sử dụng Lý Nghiêm để làm đối trọng quyền lực với Gia Cát Lượng.
Xét về phương diện "chọn mặt gửi vàng", Lưu Bị được công nhận là đã hoàn toàn sáng suốt.
Ngụy Minh Đế Tào Duệ (con Tào Phi) đem con trai Tào Phương phó thác cho cặp Tư Mã Ý - Tào Sảng, hay Tôn Quyền đem Tôn Lượng gửi gắm cho đám Gia Cát Khác, đều dẫn đến kết cục là những trận tắm máu.
Giữa Khổng Minh và Lý Nghiêm cũng không tránh khỏi phát sinh những tranh chấp quyền lợi, như việc Nghiêm xin cắt 5 quận phía đông Ích Châu ra làm Ba Châu không được đồng ý, hay Nghiêm phạm sai lầm và bị Lượng cách chức.
Về sau, Lý Nghiêm bị Khổng Minh thanh trừng.
Tuy nhiên, xét về tổng thể, Khổng Minh vẫn được xem là hoàn thành xuất sắc sứ mệnh "thác cô", nhờ đó "để lại tiếng thơm ngàn đời".
Việc Lưu Thiện bất tài, đầu hàng nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm là chuyện của nhiều năm sau này, khi Khổng Minh đã qua đời.
Dù Lưu Thiện là hoàng đế vô năng, nhưng những nỗ lực của Gia Cát Lượng đối với triều Thục Hán đã được ghi nhận.
Bí ẩn "thác cô"
Câu nói "nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi" đã gây tranh cãi lớn trong lịch sử Trung Quốc.
Ngày nay, có nhiều luồng quan điểm giải thích ngụ ý câu nói "nhạy cảm" của Bị.
Thứ nhất là quan điểm cho rằng Lưu Bị "nói lời thật lòng". Tác giả Trần Thọ của "Tam Quốc Chí" cũng tán thành với nhận định này.
Trần Thọ bình luận rất tích cực trong "Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" rằng - "Đem quốc gia phó thác cho Gia Cát Lượng, không cần đắn đo".
Quan điểm thứ hai là thuyết âm mưu. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Lưu Bị buộc phải "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sóng vẫn ôm lòng nghi kỵ, cho nên mới nói ra lời như vậy để buộc Lượng phải tỏ rõ lòng trung.
Thứ ba, cách nói "tự phế đi" không đồng nghĩa với "tự mình thay thế".
Luồng quan điểm này cho rằng, Lưu Bị muốn chỉ ra, nếu Lưu Thiện bất tài thì Khổng Minh có thể lựa chọn 1 trong 2 người con khác của Bị để lập làm vua.
Lưu Bị chỉ... nói đùa?
Hiện nay, có thêm luồng quan điểm thứ tư cho rằng bản thân câu nói của Lưu Bị... không có ý nghĩa thực chất mà chỉ là nói theo "mô hình chung".
Trên thực tế, câu nói có đại ý như trên không phải hiếm gặp. Trong 6 vụ "thác cô" thời Tam Quốc, có ít nhất 3 lần đoạn "văn mẫu" trên đã được xuất hiện.
Bên cạnh Lưu Bị, một trường hợp khác là Tôn Sách "thác cô" Trương Chiêu - "Nếu Trọng Mưu (Tôn Quyền) kém tài, tiên sinh hãy tự phế đi" - theo "Ngô lịch".
Vụ "thác cô" thứ 3 được biết tới là Lưu Biểu ủy thác Lưu Bị - "Nếu con ta bất tài, để chư tướng lang bạt, thì sau khi ta chết, khanh hãy thu lại Kinh Châu" - theo "Ngụy thư".
Mối quan hệ thực giữa Lưu Bị - Khổng Minh vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.
Lưu Bị 2 lần làm "người trong cuộc" của giao kèo ủy thác, lần đầu là nhận phó thác, lần sau là người ủy thác.
Lời của Lưu Biểu thậm chí còn mang ý tứ vô cùng rõ ràng. Các học giả hiện đại cho rằng, Biểu chắc chắn đã có tác động đến tư tưởng của Lưu Bị, thậm chí là ảnh hưởng trực tiếp đến di chúc của Lưu Bị, gián tiếp ảnh hưởng tới lịch sử Tam Quốc.
Việc những phát ngôn khác nhau nhưng mang ý nghĩa tương đồng xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh lịch sử thời Tam Quốc, cho thấy câu nói "Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá" nhìn bề ngoài giống một vấn đề lựa chọn, song thực tế đáp án chỉ có một.
Bên cạnh đó, một điểm ngày càng được nhiều người nhìn nhận, đó là không tồn tại khả năng Lưu Bị thực lòng nhường vị cho Gia Cát Lượng.
Trong lịch sử, trừ giai đoạn sơ khai thời Nghiêu - Thuấn - Vũ, tại Trung Quốc chưa từng xuất hiện trường hợp một vị vua nào "tự nguyện" nhường giang sơn của mình cho người khác họ.
Cho dù Lưu Bị được đánh giá là nhân đức, trọng hiền tài, và Khổng Minh cũng được ông tin cậy tuyệt đối, thì khả năng Lưu Bị "thoát" khỏi quan niệm chung của thời đại là rất nhỏ.
Về phía Gia Cát Lượng, nhiều ý kiến cho rằng ông "thề nguyện tận trung" với Lưu Bị xuất phát từ lòng trung thành thực sự. Cho dù không có lời nói "ẩn ý" của Bị, tin rằng Khổng Minh vẫn sẽ "cúc cung tận tụy" phò trợ Lưu Thiện.
Nếu nói rằng lời của Lưu Bị nhằm tạo áp lực lên Gia Cát Lượng, thì nhìn lại thực tế lịch sử, chỉ có thể nói rằng Khổng Minh đã hết sức nỗ lực để hoàn thành trọng nhiệm.
Nhà phê bình văn học đời Thanh Mao Tông Cương cũng từng bình luận - "Lời tiên chủ lệnh Khổng Minh phế chúa, nếu thật thì sao, giả thì thế nào?
Đáp: Nếu là thật, thì là thật. Nếu là giả, thì là giả".
Quả thực, một lời nói của Lưu Bị đã khiến người đọc Tam Quốc "lạc lối" suốt 2.000 năm qua.
Theo Trí Thức Trẻ
Trong thuật ngữ phong thủy thì bắp cải phong thủy còn được gọi là “rau phong thủy” có tác dụng “chiêu” tài lộc, may mắn cho mọi thành viên trong gia đình và là chiếc túi càn khôn sinh tài sinh lộc, hoạnh phát…

Trong phong thủy, bắp cải được ví như chiếc túi dùng để chứa tiền tài, “của cải”. Và khi tiền đã vào chiếc túi này thì sẽ sinh sôi nảy nở “cuồn cuộn” không ngừng.

Bắp cải giúp mang lại may mắn, thu hút tài lộc rất hiệu quả nên thường được đặt ở vị trí trang trọng, tốt nhất nên chọn vị trí thuộc cung tài lộc của gia chủ.

Ngoài cung tài lộc của gia đình, bạn có thể treo tranh bắp cải trong phòng khách hoặc trong phòng ăn cũng có thể tụ khí tốt cho gia đình.
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem |
Vượt qua thất tình với lời Phật dạy về nhân duyên
Đền Liễu Hạnh Công Chúa tọa lạc tọa xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ Đèo Ngang dọc theo quốc lộ 1A đi về hướng Nam khoảng 2km, rẽ trái theo con đường mòn gần 500m, ta sẽ tới đền Liễu Hạnh công chúa.
Đền nằm dưới chân núi Đèo Ngang, ở một khu đất khá bằng phẳng, sát đường thiên lý Bắc – Nam trước đây, phía sau đền là dãy Hoành Sơn, ngay trước mặt là hồ nước ngọt của xã Quảng Đông, mặt đền quay hướng Nam cũng là hướng biển.
Việc coi trọng phụ nữ, coi trọng vai trò người mẹ, người vợ ở nước ta, một truyền thống tốt đẹp và có sức sống mãnh liệt của văn hóa dân gian. Chính là cơ sở chính trị và xã hội, cơ sở tinh thần và tâm linh, đã hình thành và phát triển tục thờ nữ thần, tục thờ các bà mẹ, các Mẫu, một tục có từ thời Văn Lang, Âu Lạc và còn truyền lại cho đến ngày nay, chính là tục thờ thần của người Việt cổ.
Đền Liễu Hạnh Công Chúa ở Đèo Ngang có diện tích khoảng 335m2. Từ đường thiên lý Bắc – Nam đi vào, lần lượt qua cổng đền, bức bình phong, cổng Tam quan, hai trụ đầu lân trước điện thờ, đền Tiền, đền Hậu.
Kiến trúc của đền là một công trình kiến trúc tuy nhỏ, được xây dựng bằng đá, gạch, vôi nhưng vẫn mang truyền thống mỹ quan Á Đông và bảo lưu được bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này được thể hiện qua kết cấu cổng tam quan được bố trí một cách đối xứng, cân đối và hài hòa, sự cân xứng và đăng đối, hài hòa ở đây là nói lên sự trung chính, ngay thẳng và cũng là ước mơ của con người. Mặt khác, lối cấu trúc cân xứng, đăng đối và hài Hòa đó còn tạo ra vẽ đẹp cho kiến trúc, nghệ thuật và thể hiện sự trang nghiêm của cả công trình kiến trúc đền.
Nhìn tổng quan, chúng ta có thể thấy được sự tài hoa về kỹ thuật xây dựng, về hội họa, tài ghép sành sứ của con người ở đây. Chủ đề trang trí với đền thường gắn liền với những quan niệm, tư tưởng và những ước mơ hoài vọng tốt đẹp của xã hội phong kiến Việt Nam nói riêng và cư dân văn minh nông nghiệp lúa nước phương Đông nói chung. Đó là các hình tượng như Tứ Linh (long, lân, quy, phụng), tứ thủ (cầm, kỳ, thi, họa), tứ quý (tùng, trúc, mai, sen) và nhiều biểu tượng cúc hóa long, mai hóa long, tùng hóa long…Đặc biệt, nhìn vào bố cục kiến trúc của đền được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao theo một trục dọc, cân đối và đăng đối, chính bố cục này đã làm thêm phần trang nghiêm của đền Liễu Hạnh công chúa.
Đền Liễu Hạnh Công Chúa ở Đèo Ngang nằm trong cụm di tích – danh thắng Đèo Ngang (Hoành Sơn Quan, lũy Hoàn Vương, đình Vĩnh Sơn, Hòn La…). Đây là cụm di tích còn tiềm ẩn nhiều khả năng trong việc phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Bình.
Lễ hội Đền Liễu Hạnh Công Chúa ở Quảng Bình là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và mang sắc thái văn hóa của từng địa phương. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày (từ mồng 1 tháng 3 đến mồng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm) tại thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch.
Lễ hội đền Liễu Hạnh Công Chúa ở tỉnh ta vừa có tính chất chung của lễ hội cổ truyền Việt Nam, ở đó người ta tiến hành các nghi lễ và các sinh hoạt văn hóa mang tính phong tục, thể hiện một ý thức xã hội hướng về cội nguồn mà trong đó người Mẹ là một biểu tượng, ý thức yêu nước, gắn bó với dân tộc, ý thức về một đời sống thường nhật với các nhu cầu về sức khỏe, tài lộc.
Đền Liễu Hạnh Công Chúa như một minh chứng cho sự tích Liễu Hạnh công chúa ở Đèo Ngang, trong truyền thuyết dân gian có từ lâu đời đã trở thành một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng đối với nhân dân Quảng Bình nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Vì vậy, di tích đền Liễu Hạnh công chúa, xét về quy mô, phong cách và vị trí của nó trong lịch sử phát triển của dòng tín ngưỡng dân gian Việt rất xứng đáng để chúng ta trân trọng, bảo tồn.
Nãi: Nhanh trí, số đào hoa, phú quý, tuy nhiên lại khắc bạn đời, khắc con cái. Trung niên thành công, cuối đời nhiều lo nghĩ.
![]() |
| Đặt tên bắt đầu bằng chữ cái N để cầu may mắn |
Nam: Số kết hôn muộn sẽ đại cát, trung niên sống bình dị, cuối đời gặp nhiều may mắn, hưởng phúc trọn vẹn.
Nga: Lòng tự tôn cao, trọng nghĩa khí, xuất ngoại sẽ cát tường, trung niên đề phòng tai ương, cuối đời hưởng phúc.
Ngâm: Ôn hòa, hiền hậu, kiên trì lập nghiệp, số thành công, phát tài, phát lộc.
Ngạn: Là người nề nếp, được hưởng danh lợi vẹn toàn, đường quan vận rộng mở, thành công.
Nghệ: Có tài năng, trí tuệ, tính ôn hòa, đức hạnh, trung niên cát tường, cuối đời thịnh vượng, có số xuất ngoại.
Nghênh: Cuộc đời bôn ba vất vả hoặc ưu tư, lo lắng, cuối đời hưởng phúc từ con cái.
Nghị: Học thức uyên thâm, số thanh nhàn, phú quý. Nếu xuất ngoại sẽ gặt hái được thành công.
Nghĩa: Là người tài trí, lanh lợi, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng hưởng phúc.
Nghiêm: Trí dũng song toàn, trung hậu, lương thiện, có số làm quan, thành đạt, thịnh vượng, phú quý.
Nghiên: Người có tài, số kỵ xe cộ, sông nước, sát bạn đời, khắc con cái. Trung niên có thể gặp lắm tai ương, cuối đời cát tường.
Ngọ: Phúc lộc vẹn toàn, gia cảnh tốt, trung niên bôn ba, cuối đời cát tường.
Ngô: Trí dũng song toàn, trắc trở trong tình duyên. Trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Ngoại: Khắc bạn đời, khắc con cái, có số 2 vợ, xuất ngoại được tài lộc. Trung niên vất vả, cuối đời hạnh phúc.
Ngoạn: Thuở nhỏ vất vả, trung niên thành công, hưng vượng. Nếu xuất ngoại sẽ được cát tường.
Ngọc: Thanh tú, tài năng, lý trí, đường quan lộ rộng mở, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.
Ngư: Là người tài giỏi, tính cách ôn hòa, hiền hậu, số được hưởng phúc lộc song toàn, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Ngũ: Trời sinh vốn thông minh, trung niên thành công rộng mở, an hưởng phú quý nhưng cuối đời lo nghĩ nhiều.
Ngưỡng: Thông minh, có tài giao tiếp. Trung niên thành công, phát tài phát lộc, con cháu ăn nên làm ra.
Ngưu: Số vinh hoa phú quý, con cháu ăn nên làm ra. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc.
Nguyên: Gia cảnh tốt, vinh hoa phú quý, có quý nhân phù trợ, phúc thọ, hưng gia, số có vợ hiền, con ngoan.
Nguyệt: Khắc bạn đời, hiếm muộn con cái, thân thể suy nhược, kết hôn muộn. Trung niên vất vả, cuối đời phát tài, phát lộc, cuộc đời bình dị.
Nhã: Thân nhàn hạ nhưng tâm đau khổ, vất vả nhưng không thành công. Khắc bạn đời, khắc con cái, không may mắn trong tình yêu, cuối đời mới được hưởng phúc.
Nha: Thanh tú, đa tài, nhanh trí, cuộc đời bình dị. Trung niên thành công, cát tường, cuối đời lo nghĩ nhiều.
Nhạc: Thanh nhàn, phú quý, cả đời phúc lộc song toàn, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Nhâm: Học thức uyên thâm, có số làm quan. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, gia cảnh tốt.
Nhậm: Thông minh tài trí, có số làm quan, khắc vợ, khắc con, trung niên vất vả, cuối đời hưởng vinh hoa, phú quý.
Nhạn: Số có 2 vợ, đi xa sẽ được thành công, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời cát tường.
Nhân: Là người tuấn tú, ôn hòa, hiền hậu, gia cảnh thịnh vượng, có số thành công, phú quý.
Nhàn: Số không may mắn, cả đời khốn khổ, đoản thọ.
Nhẫn: Số vất vả, lắm bệnh tật, khó đạt được thành công.
Nhật: Trí dũng song toàn, có số vinh hoa phú quý nhưng lại khắc cha mẹ, khắc bạn đời, khắc con cái.
Nhất: Công chính, liêm minh, có số thanh nhàn, phú quý. Trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, có 2 con thì được hưởng phúc.
Nhi: Đa tài, thanh tú, có số xuất ngoại được hưởng phú quý, trung niên thành công, phát tài phát lộc,
Nhị: Kỵ xe cộ, kỵ sông nước, gặp nhiều tai ương, thân thể suy nhược, lắm bệnh tật, trung niên vất vả nhưng về già hạnh phúc.
Nhĩ: Thuở nhỏ vất vả, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời hưởng phúc.
Nhiễm: Có tài, nhanh trí, số thanh nhàn yên ổn, tuy nhiên tuổi trung niên dễ mắc bệnh.
Nhiên: Bản tính thông minh, số thanh nhàn, phú quý, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, gia cảnh tốt.
Nho: Đa tài, công chính liêm minh, số phú quý, hưng vượng, gia cảnh tốt, đường quan lộ rộng mở.
Như: Thông minh, lý trí, ôn hòa, số gặp nhiều trắc trở trong chuyện tình cảm. Trung niên gặp tai ương, dáng vẻ thanh tú nhưng đoản mệnh.
Nhữ: Số thanh nhàn. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, vinh hoa phú quý. Nếu xuất ngoại sẽ được hưởng lộc.
Nhu: Xuất ngoại sẽ cát tường, phúc lộc song toàn, trung niên thành công, hưng vượng, cuối đời hưởng phúc.
Nhuệ: Là người lanh lợi, tình duyên không thuận lợi, trung niên gặp nhiều vất vả, cuối đời cát tường.
Nhung: Đa tài, đa cảm, tính tình quyết đoán, cuộc đời gặp phải nhiều tai ương, cuối đời tuy sống yên ổn nhưng vẫn vất vả.
Nhụy: Thanh tú, hoạt bát, tình duyên khó thành. Nếu là phụ nữ thì bạc mệnh, đoản thọ, cuối đời bất hạnh, phải tái giá hoặc ở góa.
Ni: Mọi việc khó theo ý nguyện, trung niên ưu tư vất vả, cuối đời cát tường.
Ninh: Kết hôn muộn thì đại cát, cuộc đời thanh nhàn, đa tài, cuối đời cát tường.
Nô: Đa sầu, đa cảm, kỵ xe cộ, tránh sông nước. Nên kết hôn muộn, cuối đời cát tường.
Nội: Ôn hòa, hiền hậu, được quý nhân phù trợ, gia cảnh tốt, trung niên thành công rộng mở.
Nông: Đa tài, nhanh trí, gặp trắc trở trong tình duyên. Trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời cát tường.
Nữ: Là người thanh tú, khôn khéo, gia cảnh tốt, nhưng số cô độc, cuối đời lo nghĩ nhiều.
Nương: Ôn hòa, hiền hậu, chịu thương, chịu khó, cần kiệm trong cuộc sống gia đình, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
Thời xưa, cô gái càng trẻ tuổi thì càng xinh đẹp và được chú ý, nhưng ngày nay, khi nữ quyền lên ngôi, những cô gái giỏi giang, bản lĩnh và trưởng thành mới chính là tiêu điểm. Vì thế, 4 chòm sao nữ thu hút dưới đây càng lớn tuổi lại càng mặn mà, khiến người khác giới phải rung động.
![]() |
![]() |
Hội Quỳnh
Thời gian: tổ chức vào ngày 27 tháng 12 âm lịch.
Địa điểm: xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tổ các dòng họ có công lập làng: Hồ, Nguyễn, Hoàng, Dương, Phan, Phạm.
Nội dung: Mở đầu lễ hội là rước thần về đình, tế lễ. Phần hội có trò chơi cướp cầu giỏ, đấu vật, đánh đu.
![]() |
A. Bạn sinh ngày 21
B. Bạn sinh ngày 3, 12, 19, 30
C. Bạn sinh ngày 2, 7, 9, 11, 18, 20, 27, 29
D. Bạn sinh ngày 4, 6, 13, 16, 22, 24, 26, 28, 31
E. Bạn sinh ngày 1, 5, 8, 10, 14, 15, 17, 23, 25
Maruko (theo Sohu)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
án khí tiêu cực. Ví dụ, có thể để cây trồng trong nhà, đặt phía trước góc nhọn và dùng khăn trải bàn để làm dịu các cạnh của bàn.

Tương tự, tranh ảnh và tác phẩm nghệ thuật về những vật trông giống như mũi tên bí mật có thể gây hại; vì thế, hãy để ý kỳ- tranh ảnh treo ở các khu vực chính trong nhà. Các dạng mũi tên bí mật này rất dễ hóa giải: chỉ cần lấy xuống hoặc treo ở chỗ mà chúng không gây hại.
Xà rầm lộ là nguồn sát khí trong nhà, tạo ra áp lực với vật phía dưới. Xà rầm đơn bên trên khu vực chính, như giường, ghế đi-văng hay bàn ăn là một vấn đề phong thủy tiềm tàng vốn có thể hóa giải. Nhiều rầm nhò cách đều nhau, nằm dọc theo chiều dài căn phòng ít nghiêm trọng hơn vì áp lực xuống dưới được phân tán đều hơn.
Hãy tự bảo vệ khỏi sát khí trong nhà bằng vải, thực vật, quá cầu pha lê có cạnh hay chuông gió
Trong trường hợp này, cách hóa giải tốt nhất và thường dễ nhất là dịch chuyển đồ đạc tránh nằm thẳng dưới xà rầm. Nếu không thể, hãy bổ sung vật gì đó nhằm nâng năng lượng dưới rầm nhà một cách tượng trung để làm dịu áp lực của nó. Một số lựa chọn:
Nếu bạn quyết định dùng sáo tre thì hãy nhớ treo sáo ở góc sao cho các đầu cao hơn chia vào nhau. Nếu xác định được đầu tre nào già hơn, hãy treo sáo với phần to, già hơn của sáo ở dưới và miệng sáo ở trên; nếu không xác định được đầu nào già hơn, hãy treo sáo sao cho miệng sáo nằm ở dưới.
Các thiết bị điện – vốn mang lại nhiều thuận tiện cho cuộc sống hiện đại – gây ra một dạng sát khí hiện đại: tần suất điện từ. Đầu giường không được kê ở chỗ có hộp cầu chì hay thiết bị điện lớn – như tủ lạnh hay bếp nấu – ở mặt kia của bức tường đó.
Hãy đảm bảo là những nơi mà bạn thường xuyên sử dụng – ví dụ như bàn làm việc – không chịu ảnh hưởng của tần suất điện từ mạnh. Ngủ là thời điểm dễ bị nguy hiểm nhất vì đó là thời điểm cơ thể tự hồi phục và tái tạo tế bào, tuy vậy, cũng sẽ là sáng suốt nếu thận trọng ngay cả khi thức.
![]() |
| Ảnh minh họa |
An
An Bang, Anh Phúc, An Quốc, An Hòa, An Khang, An Dân, An Ninh, An Bình, An Thuận, An Hồng.
Anh
Anh Tài, Anh Đạt, Anh Phát, Anh Quang, Anh Hào, Anh Hoa, Anh Kiệt, Anh Vũ, Anh Tông, Anh Nghị, Anh Huân, Anh Diệu
Cảnh
Cảnh Quốc, Cảnh Luân, Cảnh Vũ, Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghệ, Cảnh Nghĩa, Cảnh Vĩ
![]() |
| Đặt tên hay và ý nghĩa cho con ngay từ khi con yêu còn trong bụng mẹ |
Hòa
Hòa Lượng, Hòa An, Hòa Phong, Hòa Quang, Hòa Bình, Hòa Thuận, Hòa Thông, Hòa Đồng, Hòa Nhã, Hòa Nghi, Hòa Ngọc, Họa Nhuận, Hòa Chính, Hòa Chí, Hòa Hợp
Hồng (theo nghĩa to lớn)
Hồng Bảo, Hồng Bá, Hồng Tài, Hồng Đạt, Hồng Đức, Hồng Phi, Hồng Phong, Hồng Quang, Hồng Văn, Hồng Hy, Hồng Ngôn, Hồng Lôi, Hồng Vân, Hồng Chí, Hồng Hiên
Hưng
Hưng An, Hưng Bang, Hưng Đức, Hưng Phát, Hưng Quốc, Hưng Bình, Hưng Khánh, Hưng Thành, Hưng Kiệt
Học
Học Hải, Học Lâm, Học Dân, Học Danh, Học Văn, Học Nghĩa
Khải
Khải An, Khải Định, Khải Phong, Khải Ca, Khải Cảnh, Khải Khang, Khải Thành, Khải Đức, Khải Kiện, Khải Thắng, Khải BÌnh, Khải Thuận, Khải Tề
![]() |
Mậu (tươi đẹp, tươi tốt)
Mậu Tài, Mậu Đức, Mậu Học
Mẫn
Mẫn (nhanh nhẹn, sáng suốt)
Mẫn Tài, Mẫn Đạt, Mẫn Học, Mẫn Tri, Mẫn Thành, Mẫu Đức, Mẫn Huy, Mẫu Kiệt, Mẫn Tuấn
Kiến
Kiến An, Kiến Bản, Kiến Hoa, Kiến Đức, Kiến Minh, Kiến Thụ, Kiến Đồng, Kiến Nghiệp, Kiến Nguyên, Kiến Chương, Kiến Trung, Kiến Minh
Nhuệ
Nhuệ Phong, Nhuệ Tiến, Nhuệ Lập, Nhuệ Tinh, Nhuệ Lợi, Nhuệ Tư, Nhuệ Chí, Nhuệ Tài, Nhuệ Thành, Nhuệ Đức, Nhuệ Quảng, Nhuệ Minh, Nhuệ Thức
Ngọc
Ngọc Thành, Ngọc Long, Ngọc Sơn, Ngọc Thạch, Ngọc Thư, Ngọc Thụ, Ngọc Vũ
Phi
Phi Bạch, Phi Quang, Phi Hồng, Phi Hổ, Phi Long, Phi Loan, Phi Trường, Phi Tinh, Phi Anh, Phi Vũ
Quang
Quang Hoa, Quang Huy, Quang Lâm, Quang Minh, Quang Hy, Quang Dự (Dự - khen ngợi)
Tân
Tân Bạch, Tân Hồng, Bân Bính (Bân – mộc mạc; Bính – sáng tỏ), Tân Hải (Tân - bến nước)
Tài
Tài Thiện, Tài Anh, Tài Tuấn
Thành
Thành Hòa, Thành Cung, Thành Hoa, Thành Long, Thành Nhân, Thành Song, Thành Văn, Thành Châu
Thừa
Thừa An (Thừa – đón nhận, nhận lấy); Thừa Đức, Thừa Ân, Thừa Phúc, Thừa Cơ, Thừa Bình, Thừa Vọng, Thừa Nghiệp, Thừa Vận, Thừa Chí
Tuấn
Tuấn Tài, Tuấn Trì, Tuấn Đạt, Tuấn Mỹ, Tuấn Lực, Tuấn Danh, Tuấn Minh, Tuấn Dân, Tuấn Mỹ, Tuấn Kiệt, Tuấn Hào, Tuấn Phong, Tuấn Phát, Tuấn Nhân, Tuấn Hùng, Tuấn Anh, Tuấn Ngữ, Tuấn Hy
Vĩnh
Vĩnh Xuân, Vĩnh An, Vĩnh Phong, Vĩnh Trường, Vĩnh Phúc, Vĩnh Niên, Vĩnh Khang, Vĩnh Niên, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thọ, Vĩnh Tân, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trinh
Theo Qiming
Hướng bếp tuổi Nhâm Tuất 1982:

– Năm sinh dương lịch: 1982
– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tuất
– Quẻ mệnh: Ly Hoả
– Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

![]() |
| (Ảnh minh họa) |
Không chỉ với công việc mà cả trong cuộc sống thường ngày, họ đều rất cẩn thận. Đây cũng là người có đầu óc tổ chức rất tốt và khả năng nắm bắt sự việc nhanh nhạy. Nhờ khả năng này, họ đạt được thành công trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, sự cẩn thận, cầu kỳ quá mức lại khiến họ trở nên bảo thủ và chậm tiến.
Họ có những phẩm chất tốt đẹp, tư tưởng kiên định và là 1 người người coi trọng đời sống tâm linh, tín ngưỡng. Họ không thích dựa dẫm vào người khác trong bất kỳ việc gì nên đôi lúc có thể trở nên tự tư.Người này thích công việc điều tra nghiên cứu cũng như thích sự chính xác và tỉ mỉ. Điều đó 1 phần xuất phát từ bản tính cẩn thận của họ. Đôi khi, họ có thể tin tưởng thái quá vào những lời đồn đại và có thể "đọc hiểu" được hết những suy nghĩ của người khác. Họ cần cố gắng để điều chỉnh cách ăn nói của mình tốt hơn, tránh vướng vào chuyện rắc rối không đáng có.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Đây là điển cố thứ Bốn ba trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Hành Giả Đắc Đạo (còn gọi là Hành Giả Thành Đạo). Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo có bắt nguồn từ tác phẩm “Tây du ký”. “Hành Giả” tức là Tôn Ngộ Không.
Một hôm, sư tổ lên ngồi trên đàn cao, triệu tập các tiên, giảng giải đạo lớn. Tôn Ngộ Không đứng nghe bên cạnh, thích thú đến nỗi vò đầu bứt tai, mặt mày hớn hở, hoa chân múa tay. Sư tổ bước xuống đài cao, tay cầm cái thước, gõ vào đầu Ngộ Không ba cái, rồi chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, bỏ lại mọi người mà đi.
Buổi tối hôm đó, khoảng chừng giờ Tý, Hầu Vương nhẹ nhàng trở dậy, mặc quần áo, lén mở cửa trước, trốn mọi người đi ra ngoài, ngẩng đầu quan sát, đúng vào lúc canh ba. Hắn theo con đường cũ đi đến bên ngoài cửa sau, thấy cánh cửa đó chỉ khép hờ. Ngộ Không vui mừng nói: “Lão sư phụ quả nhiên có ý truyền đạo cho ta, vì vậy mới mở cửa!” Bèn lập tức lách người đi vào trong cửa, đến dưới giường của sư tố. Thấy sư tố nằm co người, quay vào phía trong mà ngủ. Ngộ Không không dám làm kinh động, liền quỳ ở trước giường. Một lát sau, sư tổ Bồ Đề tỉnh dậy, tự mình lấm bấm rằng: “Khó thay! Khó thay! Khó thay! Đạo thật huyền diệu, chớ coi kim đan là tầm thường. Không gặp chí nhân truyền diệu quyết, miệng khô lưỡi đắng chỉ bàn suông!” Ngộ Không lớn tiếng đáp: “Sư phụ, đệ tử quỳ ở đây đã lâu!”
Sư tổ nghe thấy giọng nói của Ngộ Không, lập tức khoác áo, ngồi xuống nói: “Con khỉ này! Ngươi không ở bên đó ngủ lại đến chỗ ta làm gì?” Ngộ Không nói: “Hôm qua trước đàn, sư phụ đã đồng ý với mọi người, dặn đệ tử vào lúc canh ba, đi vào theo cửa sau để truyền đạo cho đệ tử, vì vậy mới to gan đến lạy dưới giường sư phụ!”
Sư tổ nghe vậy, rất vui, thầm nghĩ rằng: “Tên này quả nhiên là do trời đất sinh ra! Nếu không như vậy, làm sao mà giải được câu đố của ta?” Ngộ Không nói: “Lúc này không có Lục Nhĩ, chỉ có một mình đệ tử, xin sư phụ đại xá từ bi, truyền dạy cho đệ tử đạo trường sinh, đệ tử mãi mãi không quên ơn!” Sư tố nói: “Nay ngươi có duyên, ta cũng thấy vui. Nếu đã hiểu được ấn ý của ta, ngươi hãy lại gần đây, chú ý lắng nghe cho kỹ, ta sẽ truyền cho ngươi đạo trường sinh kỳ diệu!” Ngộ Không khấu đầu tạ ơn, cung kính lắng nghe, quỳ ở dưới giường. Lúc này căn nguyên đã tỏ, Ngộ Không tâm tư nhanh nhạy, ghi nhớ kỹ lời dạy của thầy, quỳ lạy tạ ơn sư tổ, rồi lập tức đi ra cửa sau.
Đã qua ba năm, sư tố lại lên bảo tọa, thuyết pháp cho mọi người, nói đến những ẩn dụ trong công án, bàn về ngoại tượng bề ngoài. Ngộ Không khấu đầu lạy mà nói: “Xin hãy truyền cho đệ tử thuật tránh được tam tai, sẽ không dám quên ơn!” Sư tổ nói: “Điều này không khó, nhưng vì nhà ngươi và những người khác không giống nhau, cho nên không thể truyền được!” Ngộ Không nói: “Con cũng đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, cũng có cửu khiếu tứ chi, lục phủ ngũ tạng, sao lại cho rằng con không giống người?”
Sư tổ đáp: “Ngươi tuy giống người, nhưng so với con người lại thiếu phần má!” Thì ra con khỉ đó mặt gãy, má hóp và môi nhọn. Ngộ Không đưa tay sờ lên mặt, cười nói rằng: “Sư phụ chớ băn khoăn! Con tuy thiếu cái má, nhưng lại nhiều hơn con người cái túi má, cũng có thể sánh với nhau được!” Sư tố nói: “Thôi được, ngươi muốn học loại nào? Có một loại là Thiên canh số, gồm ba sáu phép biến hóa, có một loại là Địa sát số, gòm bảy mươi hai phép biến hóa!” Ngộ Không nói: “Đệ tử muốn biết nhiều hơn, xin cho học phép biến hóa Địa sát!” Sư tố nói: “Nếu đã như vậy, hãy lại đây, ta truyền cho ngươi khẩu quyết!” Bèn ghé tai truyền lời, truyền cho các diệu pháp. Hầu Vương một khiếu đã thông thì trăm khiếu thông, lập tức học thuộc khẩu quyết, tự mình tu luyện, cả bảy mươi hai phép biến hóa đều học thành công.
Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo là quẻ thẻ Thượng Cát trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 43 !
Quẻ này là tượng trời đất giao hòa.
Những việc mong càu hết sức tốt đẹp, không có nguy hiểm.
Ngón cái thẳng mảnh mai
Những cô nàng có ngón cái dài, thường thông minh, suy nghĩ cẩn thận. Họ làm việc đâu vào đấy, có tinh thần trách nhiệm cao, không đừng đặt ra mục tiêu trong cuộc sống, không bao giờ hài lòng với thực tại. Những người này thường rất chú trọng sự nghiệp, nếu chọn buôn bán, họ sẽ thuận buồm xuôi gió, phất tài phất lộc trong thời gian ngắn.
![]() |
Ngón trỏ dài hơn ngón vô danh (ngón nhẫn)
Con gái có ngón trỏ dài hơn ngón vô danh, thường sở hữu vẻ ngoài đơn thuần, kỳ thực rất thông minh lanh lợi, suy nghĩ thực tế. Họ làm việc nhanh nhẹn, quả quyết, không lưỡng lự, tài năng hơn người nên chắc chắn sẽ có cuộc sống đầy đủ mỹ mãn.
Ngón út dài hơn ngón cái
Những cô nàng có ngón út dài hơn ngón cái, cả đời liên tiếp gặp vận may. Không chỉ vậy, tài lộc của họ cũng rất ổn, vận đào hoa tốt, được nhiều đối tượng khác giới theo đuổi. Sau khi kết hôn, họ thường được chồng yêu chiều, cưng nựng, cuộc sống đại cát đại lợi, không phải lo lắng gì cả.
Ngón giữa dài hẳn lên
Ngón giữa đại diện cho sự nghiệp. Con gái có ngón giữa dài, cả đời tài lộc không ngừng mở rộng. Hơn nữa họ tính cách hài hòa, dễ gần, làm việc chăm chỉ. Bất luận làm gì, đều có thể trở thành nhân vật quan trọng. Không những thế, họ còn có số vượng phu - lấy được chồng giàu, ngày càng sung sướng, hạnh phúc.
Anh Anh (theo Meiguoshenpo)
Xem thêm: Khi nào hạnh phúc gõ cửa trái tim bạn
hay mắc phải đó là bố trí bàn làm việc đối diện với cửa ra vào. Bài viết này sẽ giúp bạn hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào mà không cần phải thay đổi vị trí bàn làm việc của mình.

Hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào
Trong văn hóa của người Việt cũng như văn hóa của phương Đông thì phong thủy luôn rất được coi trọng. Dường như trong việc bày trí nội thất thì mọi người vẫn luôn xem phong thủy là yếu tố đầu tiên cần xem xét.
Tuy nhiên bên cạnh những hướng tốt, những thế hợp với phong thủy thì vô tình hoặc là không có sự lựa chọn nào khác chúng ta thường vi phạm một số nguyên tắc cấm kị của phong thủy. Điều đó đã mang đến không ít sự phiền hà cho gia chủ. Và một lỗi mà nhiều người hay mắc phải đó là bố trí bàn làm việc đối diện với cửa ra vào. Bài viết này sẽ giúp bạn hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào mà không cần phải thay đổi vị trí bàn làm việc của mình.
Vậy trong phong thủy việc hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào có tầm quan trọng như thế nào và tại sao phải hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào?
Bàn làm việc đối diện cửa ra vào được xem là mang lại nhiều “sát khí” cho phòng làm việc. Khi bạn ngồi làm việc trên một chiếc bàn đối diện cửa ra vào thì dường như mọi âm thanh ồn ào và hình ảnh hổn tạp đang diễn ra xung quanh đều vô tình lọt vào tầm mắt của bạn. Những thứ đó trong phong thủy được xem là “sát khí”. Và “sát khí” sẽ làm cho bạn mất tập trung, mệt mõi và hiệu quả công việc giảm sút.
Việc thay đổi vị trí bàn làm việc để tránh đối diện cửa ra vào là rất khó vì đôi khi không gian làm việc không cho phép và phòng làm việc đông người thì sẽ rất khó sắp xếp lại từng vị trí bàn làm việc cho mỗi người. Vậy chúng ta chỉ có thể dùng một số thủ thuật nhỏ trong phong thủy để hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào. Trước hết bạn hãy tìm cho mình một chậu cây kiểng để trưng trên bàn làm việc. Bạn không nên tùy tiện chọn bất kì loại cây nào mà hãy chọn những cây có tác dụng làm tăng dương khí như dừa kiểng nhỏ hoặc Trúc Nhật,… Việc thứ hai bạn nên làm nữa là dùng 32 vị thần mộc treo trước mặt hoặc trước cửa phòng để hóa giải. Tuy nhiên việc trấn thuốc như thế cũng rất tế nhị, để người khác không nhìn thấy thì bạn có thể để thuốc trong chậu cây để vừa có thể hóa giải vừa đảm bảo vẻ mỹ quang cho phòng làm việc của bạn.

Hy vọng công việc của bạn sẽ tiến triển một cách thuận lợi khi vấn đề làm thế nào để hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào đã được giải quyết.
Cửa chính của một ngôi nhà được gọi là cửa khí, là vị trí phong thủy duy nhất trong nhà thúc đẩy vượng khí, có ảnh hưỏng rất lớn đến môi trường sống của các thành viên trong đó.
Câu chuyện dưới đây sẽ chứng minh rõ.
Một người đã bày tỏ nỗi lòng chất chứa của mình với một người bạn vốn là một đại sư phong thuỷ: “Con gái thật sự luôn khiến cho người ta phải lo lắng!”.

- “Có chuyện gì sao?”
- “Con bé nhà tôi tối ngày không ở nhà, chỉ lo dạo phố .
- “Cô bé đang yêu sao?”
- “Tôi nghĩ chắc không phải! Tôi cũng không hiểu tại sao con bé vốn rất ngoan, từ sau khi chuyển nhà vào năm trước, càng ngày nó càng ít ở nhà, sáng sớm tinh mơ đã đi, đến tận đêm khuya mới trở về. Nó cứ như là người khác vậy. Liệu có phải tôi đã sống trong ngôi nhà có vấn đề về phong thủy không?
Xét về phong thủy học, muốn giải thích hiện tượng này quả không khó. Câu chuyện tiếp tục như sau:
- “Cô bé là con thứ mấy trong nhà?”
- “Là con gái lớn”.
- “Cửa chính của nhà anh phải chăng mở ở hướng Đông Nam?” Người kia suy nghĩ giây lát, nói: “Ông thật tinh tường! Cửa chính nhà tôi quả đúng ở hướng Đông Nam”.
Đại sư phong thuỷ nọ càng khẳng định suy đoán của mình là chính xác: “Nếu muốn mỗi ngày con gái đều về nhà đúng giờ, không lang thang khắp nơi nữa thì phải chuyển nhà đi nơi khác”.
Người kia nghe xong giật mình, lập tức đưa ra rất nhiều lý do, giải thích vì sao anh ta không thể chuyển nhà lần nữa.
Đại sư phong thuỷ khuyên anh ta: “Không thể chuyển nhà, nhưng con gái đã lớn rồi, nữ giới hướng ngoại, việc này là hiện tượng tất yếu, không cần phải buồn lo vô cớ”.
Nhưng người kia vẫn hỏi đến cùng: “Làm sao ông biêt cửa nhà tôi mở ở hướng Đông Nam?”.
Có thể xoay quanh cửa chính để giải thích vấn đề này. Cửa chính ẩn chứa nguyên lý phong thủy quan trọng, căn cứ vào dịch quái Cửu cung, cửa chính nằm ở hướng nào trong Cửu cung thì hướng đó đại diện cho thành viên tương ứng trong gia đình có tính cách đặc biệt hướng ngoại.
Thế nào được gọi là “hướng ngoại”? Đó là chỉ một người thích đây đó. Đặc trưng lớn nhất là người này có thể cõng rắn cắn gà nhà. Nếu có tiền họ cũng mang tiền đi cho hết bạn bè. Tóm lại, vị trí cửa chính ứng với thành viên nào trong gia đình thì người đó nhất định có tính thích giúp người ngoài chứ không giúp người nhà, suốt ngày ở bên ngoài, không thích ở nhà.
Rất nhiều đôi vợ chồng, người chồng không thích người thường xuyên đi siêu thị. Người chồng nói bình thường người vợ chỉ đi bộ được 3 phút là than phiền, nhưng khi đi dạo trong siêu thị thì đi cả ngày cô ta cũng không cảm thấy mệt.
Người vợ này đại diện cho điều gì? Cửa chính của nhà này thể nằm ở hướng Tây Nam, trong phương vị Cửu cung phi tinh là hướng của nữ chủ nhà, đại diện là người vợ, cửa chính ở hướng Tây Nam, người vợ sẽ thường xuyên đi mua sắm, dạo phố. Cửa ở hướng Tây Bắc thì nam chủ nhân thường xa nhà.
Trong phong thủy, cửa chính ngoài việc ảnh hưỏng đến tính cách của thành viên trong gia đình ra thì còn là cửa khí, là nơi nạp khí của cả nhà, chỉ cần điều chỉnh cửa chính vào vị trí cát lợi của lưu niên là có thể mang đến gia vận tốt.
Giả sử năm 2010, hướng đại lợi ở hướng Nam Bắc, nếu cửa chính cũng ở hướng Nam, Bắc, không những chủ nhà có thể kiếm được nhiều tiền mà do hướng Tây Bắc là hướng đào hoa, đặc biệt chủ nhà có nhiều đào hoa quý nhân.
Năm 2010, hướng Đông và hướng Tây Bắc là tài vị, vì thế nếu mở cửa ở hai hướng này sẽ có nhiều tài lộc. Mở cửa ở hướng Đông tài tinh có thể chiếu sáng, mở cửa ở hướng Tây Bắc, trong nhà có đào hoa quý nhân, ứng nghiệm vào nam chủ nhân, đặc biệt dễ dẫn đến vận đào hoa.
Nếu cửa chính trong nhà mở ở hướng Tây Bắc, năm 2010 năm chủ nhân không những thường xuyên ở bên ngoài, không về nhà, hơn nữa vận đào hoa còn đặc biệt thịnh vượng.
Hướng Bắc đại diện cho thứ nam, tức là người con trai thứ hai. Trong năm này thứ nam có thể kiếm được nhiều tiền, đặc biệt phát tài.
Từ cửa chính có thể biết được thành viên nào trong nhà hướng ngoại, người nào kiếm được tiền, người nào có vận đào hoa. Căn cứ vào sự đi đến của Phi tinh mỗi năm có thế tra được ngay tình trạng của mỗi người trong gia đình.
Năm 2015 phi tinh Tam Bích nhập trung cung, làm sao chủ quản của năm. Tuân theo cách vận hành của Cửu cung phi tinh, ta có Phong thủy trận đồ 2015 như sau

Dựa vào phi tinh đồ năm 2015 này, ta sẽ biết được ảnh hưởng của phong thủy đến ngôi nhà và từng người trong gia đình đang sống dưới ngôi nhà đó. Có thể dựa vào các vật phẩm phong thủy để Kích hoạt sức khỏe, tài lộc và tình duyên 2015 cho những người đang cần.
- Năm 2015, phi tinh Nhất bạch ở phía Đông, phía này đại diện cho con trai cả (trưởng nam) trong gia đình. Trong năm nay con trai cả có nhân duyên tốt đẹp, nếu đến kỳ thi cử có sẽ có nhiều thuận lợi. Ảnh hưởng nhiều nhất là con trai cả từ 31 đến 49 tuổi.
- Phi tinh Nhị hắc tọa ở hướng Đông Nam trong năm nay. Con gái cả (trưởng nữ) sẽ là người chịu ảnh hưởng của phi tinh này, nhất là trong độ tuổi từ 31 đến 49. Nếu cửa chính hoặc nơi đón khí chính nằm ở hướng Đông Nam trong năm 2015 này, sức khỏe sẽ có vấn đề, cần đề phòng cẩn thận, có bệnh liền chủ động chữa trị tức thời. Cũng cần đề phòng hỏa hoạn bắt nguồn từ nơi đây.
- Phi tinh Tam bích tọa ở trung cung, là vị trí tâm của ngôi nhà nên các thành viên trong gia đình năm nay cần tránh các chuyện thị phí bên ngoài, bỏ qua được thì bỏ qua chớ nên tranh chấp kẻo thua thiệt nghiêng về bản thân. Tuy nhiên có điều lợi là những người buôn bán, tài chính hoặc thể thao có thể tận dụng hợp lý khí vận của sao Tam bích để phát đạt.
- Phi tinh Tứ Lục tọa Tây Bắc, nam chủ nhân (người cha, người chủ gia đình) sẽ may mắn trên con đường học thuật, danh tiếng được lên cao nếu làm về văn hóa, văn nghẹ, giả trí. Nếu cửa chính nằm ở hướng Tây Bắc, nam chủ nhân cần chú ý về vấn đề tình duyên, dễ gây họa đào hoa nếu có ý định bên ngoài.
- Phi tinh Ngũ hoàng đóng ở phía Tây, thiếu nữ hoặc con gái út trong nhà sẽ ảnh hưởng nhiều trong năm nay. Dễ gặp tai họa, có chuyện buồn lòng, không được như ý. Có thể dùng một số vật phẩm phong thủy sau để hóa giải tai ương cho người con gái út như: tiền đồng, thạch anh trắng, mã não trắng, tỳ hưu, long quy hoặc kỳ lân. Đặt hoặc treo những vật phẩm phong thủy này ở hướng Tây là được.
- Phi tinh Lục bạch năm 2015 tọa hướng Đông Bắc ngôi nhà. Thiếu năm hoặc con trai út trong nhà thuận lợi về sự nghiệp, nếu làm trong tổ chức đoàn thể, cố gắng phấn đấu để lên chức sẽ thuận lợi. Nếu làm trong cơ quan hành chính thì tài lộc tốt tươi. Để phụ giúp cho việc thăng tiến chức vụ, đặt các vật phẩm phong thủy sau ở hướng Đông Bắc như: Voi hoàng ngọc, voi vàng. Còn trợ giúp cho tài lộc thì sử dụng thạch anh vàng, thạch anh mắt hổ hoặc cây rung tiền.
- Phi tinh Thất xích ở hướng Nam của ngôi nhà. Thứ nữ hoặc con gái thứ trong gia đình chịu nhiều ảnh hưởng nên cần đề phòng bệnh tật, nhất là hô hấp, phổi, phế quan và bệnh tay chân miệng. Nếu có cửa sổ ở hướng này nên đóng kín. Hóa giải bằng cách dùng thạch anh đen, mã não đen, hồ lô ngũ sắc.
- Phi tinh Bát bạch ở hướng Bắc của ngôi nhà. Thứ năm hoặc con trai thứ trong gia đình có thêm danh lợi, phúc lộc trong năm nay. Nếu kích hoạt phong thủy có thể thêm lộc điền trạch như: động thạch anh vàng, nho mã não đỏ, động thạch anh tím. Trong phòng nên cắm thêm hoa hồng, đặt một đôi nến đỏ.
- Phi tinh Cửu tử tọa Tây Nam đại diện cho nữ chủ nhân (người mẹ, người vợ chủ gia đình) được nhiều phần may mắn, vui vẻ, lợi về quan hệ xã hội. Có thể cầu con cái bằng cách kích hoạt vị trí này, đặt vật phẩm phong thủy như quả cầu thạch anh hồng ở hướng Tây Nam này là được.