Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lóng tay thứ hai nói gì?

Lóng thứ 2 của ngón cái cho biết trí tuệ của cá nhân. Nếu lóng này dài và to, chủ nhân của nó là người thông minh, đầu
Lóng tay thứ hai nói gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lóng thứ 2 (lóng giữa) là đốt giữa của ngón tay.

Vị trí các lóng tay

- Lóng thứ 2 của ngón cái

Lóng này cho biết trí tuệ của cá nhân. Nếu lóng này dài và to, chủ nhân của nó là người thông minh, đầu óc sáng suốt, học rộng, hiểu cao, biết cân nhắc lợi hại và cẩn thận trong hành động.

Lóng này dài và nhỏ, họ cũng là người thông minh nhưng nhẹ dạ, cả tin. Lóng này ngắn và to, họ là người hay đắn đo, do dự, thiếu tính quyết đoán. 

- Lóng thứ 2 của ngón trỏ

Lóng này to và dài hơn lóng thứ 1, người này sùng bái danh hiệu, chức tước, địa vị, thích được người khác tôn vinh. Nó dài và to hơn lóng thứ 3, người này ưa hình thức, ham của cải, vật chất. Nó dài và nhỏ hơn lóng thứ 3, người này gặp nhiều trắc trở trong tình yêu.  

- Lóng thứ 2 của ngón giữa

Nếu lóng này dài và lớn hơn lóng thứ 1, chủ nhân là người rất giỏi trong việc trồng trọt và chăn nuôi, say mê công việc đồng áng, thích cuộc sống nơi thôn dã, ghét chốn đô thị, phồn hoa. Họ sẽ gặt hái được nhiều thành công nếu làm các nghề liên quan đến nông nghiệp. 

Nếu lóng này dài và lớn hơn lóng thứ 3, họ là người mộ đạo, là tín đồ trung thành của tôn giáo. Nếu dài và nhỏ hơn lóng thứ 3, người này khá mê tín, có niềm tin vào sức mạnh của thần thánh.

- Lóng thứ 2 của ngón áp út (ngón đeo nhẫn)

Lóng này dài và to hơn lóng thứ 1, chủ nhân là người có năng khiếu nghệ thuật và dễ trở thành người nổi tiếng nếu đi theo ngành này. Nếu lóng thứ 2 dài và nhỏ hơn lóng thứ 1, họ không thích hợp với ngành nghệ thuật. Lóng này dài và lớn hơn lóng thứ 3, người này cũng dễ gặt hái được thành công trên con đường nghệ thuật.

- Lóng thứ 2 của ngón út

Lóng này dài và to hơn lóng thứ 1, chủ nhân là người rất thông minh. Nếu lóng này dài và nhỏ hơn lóng thứ 1, họ là người giàu lòng bác ái. Nó dài và lớn hơn lóng thứ 3, người này rất giỏi kiếm tiền. Lóng dài và nhỏ hơn lóng thứ 3, người này dễ gặt hái được nhiều thành công nếu đi theo con đường kinh doanh.

(Theo Luatsudongnama)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lóng tay thứ hai nói gì?

Tại sao ngày 23 tháng Chạp lại tôn vinh bếp lửa?

Bếp lửa là cội nguồn của sự ấm áp yêu thương, nơi nuôi sống cả gia đình và nơi thắp lên ngọn lửa của sự sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tục cổ truyền của người Việt, Táo quân gồm hai ông và một bà, tượng trưng là 3 cỗ "đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa.

Táo quân cũng còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ nơi gia đình mình cư ngụ và thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp.

Vị Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu ông Trời rất trọng thể.

Vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân sẽ cưỡi cá chép lên Thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Ngọc Hoàng Thượng đế. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.

Do đó, từ xa xưa, người dân Việt đã ngưỡng mộ lòng chung thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hi vọng Táo Quân sẽ giúp họ giữ “bếp lửa” trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc.

 

Bếp lửa là nguồn sống, nơi nuôi dưỡng tâm hồn. Ảnh: Đ. Tuỳ

Ni sư Thích Diệu Ngân - Phó trưởng Ban trị sự GHPG Thành phố Hải Dương, trụ trì chùa Linh Sơn Vạn Phúc cho rằng: "Theo quan niệm của nhà Phật, việc tôn vinh bếp lửa trong ngày 23 tháng Chạp là tôn vinh những vị Thần đã có công giúp chăm lo cho gia đình trong năm".

Việc tôn vinh này tuỳ thuộc vào tâm hướng Phật của mọi người, không có một quy định nào cụ thể cả. Tuy nhiên, đây là một nét đẹp văn hoá dân gian và từ trước đến nay dân ta vẫn thực hiện.

Nhà sử học Tăng Bá Hoành (Nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương) khẳng định: "Bếp lửa có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người từ thời tiền sử, không có lửa con người không tiến bộ được. Không có lửa chúng ta không nấu chín được thức ăn để nuôi sống chính bản thân và giúp ta tồn tại".

Cho nên lửa gắn liền với bếp, bếp gắp liền với sự tích ông Công, ông Táo. Dù cách gọi có khác nhau thì vai trò của bếp lửa đối với gia đình người Việt là rất quan trọng. Ở nước Đức, bếp lửa là nguồn sống, có ý nghĩa tương tự như Tổ quốc.

 tai sao ngay 23 thang chap lai ton vinh bep lua? - 1

Kính trọng các vị Thần tức là chúng ta tôn trọng bếp lửa. Ảnh: Đ. Tuỳ

Để quan trọng hoá bếp lửa thì phải có ông Thần giữ bếp - Táo quân. Có nhiều truyền thuyết xung quanh vấn đề này, nhưng thực chất là tôn vinh cái bếp, nhờ bếp lửa mà chúng ta sống.

Khi tưởng tượng chúng ta không tìm ra lửa thì thì cuộc sống sẽ thế nào. Nếu như đợt rét lịch sử gần 40 năm vừa rồi mà không có lửa có lẽ chúng ta không thể tồn tại .

Cuối năm ông Táo coi bếp đi báo với Thiên đình tất cả những việc làm xấu tốt trong gia đình. Vì trong cái bếp có gì các vị Thần biết hết. Từ đó trở thành một thứ tín ngưỡng không khác gì là thờ Thần tài trong truyền thuyết.

Cũng theo nhà sử học Tăng Bá Hoành, khi tôn trọng bếp lửa, tức là chúng ta tôn trọng các vị Thần của gia đình. Vì vậy, chúng ta phải thắp hương và thả cá chép.Thắp hương là biểu hiện cho sự kính trọng. Khi thắp hương như một sự thông báo việc gia đình tôn thờ các vị Thần.

Người đời nghĩ rằng khi làm như vậy người quá cố sẽ nghe thấy để về chứng dám, thể hiện sự trong sáng kính trọng thiêng liêng nhất.

Do vậy, dù chúng ta sống bất cứ ở hoàn cảnh nào, thời kỳ nào thì việc tôn vinh bếp lửa trong ngày 23 tháng Chạp là việc nên làm của mỗi người và mỗi gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao ngày 23 tháng Chạp lại tôn vinh bếp lửa?

Giáp Tý mệnh gì –

Người sinh 1984, Giáp Tý, có Ngũ hành năm sinh là Hải Trung Kim, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung ĐOÀI, hành KIM, hướng Tây, quái số 7, sao Thất Xích, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nam, Tây). Đeo đá màu Vàng,
Giáp Tý mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giáp Tý mệnh gì –

Xem tướng phụ nữ khắc chồng - Phụ nữ thế nào thì khắc chồng ?

Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn.
Xem tướng phụ nữ khắc chồng - Phụ nữ thế nào thì khắc chồng ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của phụ nữ đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa.

Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ. Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng phụ nữ khắc chồng:

- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .

- Mắt lớn lồi (nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn). Lông mày thưa vàng và ngắn .

- Mày thô, mắt có sát khí

- Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi

- Phần sống mũi nổi gân máu

- Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên

- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe

- Trán vuông, mày lớn cao và đậm

- Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ

- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm

- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu

- Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết

- Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống .

- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau

- Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu) .

- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng

- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn (đây nói phụ nữ ở trung niên trở lại)

- Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi

- Tác có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc

- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn (thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu)

- Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .

- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại (nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn)

- Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre

- Xương che lỗ tai (mạng môn cốt) nổi cao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ khắc chồng - Phụ nữ thế nào thì khắc chồng ?

Tướng phụ nữ đẹp |

Phụ nữ có 1 số đặc điểm dưới đây được xem là tướng tốt. Các nhà nhân tướng học gọi đó là “cửu thiên” hay “cửu mỹ tướng”. - Đầu tròn, trán phẳng phiu, tròn trịa chủ về gia đình có hạnh phúc. - Xương lẳn, da hồng hào vượng về đường con cái. - Môi hồng
Tướng phụ nữ đẹp |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ đẹp |

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, tu vi Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?

Ai cũng muốn tìm được một người bạn đời tri kỷ hoàn hảo, người sẽ chia sẻ mọi ngọt bùi cay đắng cùng bạn suốt đời. Nhưng liệu người đàn ông bạn đang hẹn hò có phải là người đó hay không, liệu bạn đã yêu đúng người hay nhầm người đây?

Cùng 12 cung hoàng đạo điểm danh số đào hoa năm 2016 dưới đây nhé và hãy tận dụng cơ hội làm những việc đó ngay đi nhé.

Kim Ngưu

Sự chân thành, chung thủy và đáng tin cậy của chòm sao đào hoa năm 2016 – Kim Ngưu sẽ được đền đáp xứng đáng. Những đức tính tốt đẹp cộng với vận may giúp Ngưu chan đạt được bước tiến vững chắc về mặt tình cảm.

Người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường

Người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường

Bói tình yêu thấy người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường, người còn lẻ bóng khẳng định sẽ tìm thấy ý trung nhân. Nhân cơ hội này, hãy tích cực gặp gỡ bạn bè và thử chút phiêu lưu với những đối tượng mà trước nay chưa từng nghĩ tới đi Kim Ngưu nhé, biết đâu kết quả lại vượt ngoài mong đợi.

Song Ngư

Nội tâm của Song Ngư vốn cô đơn và nhạy cảm, luôn khao khát tình yêu chân thành, lãng mạn, cùng nhau vượt qua sóng gió để tới được bến bờ hạnh phúc. Coi ngày tốt năm 2016, thần tình yêu gõ cửa nhà Song Ngư, mang tới cho họ nhiều niềm vui hơn trong tình cảmn

 

Hải Vương tinh nhập cung tình yêu, là quý nhân của Song Ngư, thúc đẩy họ mạnh dạn hơn trong các mối quan hệ xã giao. Cũng chính quý nhân này là cầu nối, giới thiệu đối tượng tốt cho Ngư nhi.

Những chòm sao nhóm Nước là đối tượng hòa hợp nhất với Song Ngư trong năm 2016, gặp gỡ nhau nhất định sẽ hạnh phúc.

Cự Giải

Tình yêu của Cự Giải năm 2016 hứa hẹn sẽ rất rực rỡ, không chỉ tình cảm mặn nồng mà còn thấu hiểu, hòa hợp với nhau. Tới giữa năm, Cự Giải thay đổi theo hướng tích cực, cởi mở hơn, xuất hiện tự tin trước đám đông, trở thành tâm điểm chú ý, vạn người say mê.

 

Đây là thời điểm mấu chốt, đừng để sự rụt rè của mình thắng thế, mạnh dạn tiến lên nắm lấy hạnh phúc của bản thân Cự Giải nhé. Đôi khi chủ động một chút cũng có sức hấp dẫn lắm đấy.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Xem phong thủy cho từng mệnh - Phong thủy - Xem Tử Vi

Xem phong thủy cho từng mệnh, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem phong thủy cho từng mệnh, tu vi Xem phong thủy cho từng mệnh, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem phong thủy cho từng mệnh

Gia chủ mệnh kim nên sử dụng tông màu sáng và những sắc ánh kim vì màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh. Tránh những màu kiêng kỵ như màu hồng, màu đỏ, màu tím.

Nếu bạn quan tâm đến những nguyên tắc về phong thủy của người Trung Quốc thời xưa, trước tiên bạn phải hiểu phong thủy là gì?

Phong thủy tức là nước và gió, là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của địa lý đến đời sống hoạ phúc con người. Là sự ảnh hưởng của hướng gió, khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Phong thủy có vai trò rất to lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận…

Có nhiều nguyên tắc để lựa chọn màu sắc cho nhà ở thuận theo phong thủy, ví dụ phối màu theo mệnh gia chủ, theo hướng nhà hoặc theo nguyên lý Ngũ hành tương sinh, tương khắc.

Theo nguyên lý ngũ hành, môi trường gồm 5 yếu tố kim (kim loại), mộc (cây cỏ), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất) và mỗi yếu tố đều có màu sắc đặc trưng. Kim gồm màu sáng và những sắc ánh kim; Mộc có màu xanh, màu lục; Thủy gồm màu xanh biển sẫm, màu đen; Hỏa có màu đỏ, màu tím; Thổ gồm màu nâu, vàng, cam…

Tính tương sinh của ngũ hành gồm Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tính tương khắc của ngũ hành là Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

Tương sinh, tương khắc hài hòa, hợp lý sẽ mang lại sự cân bằng trong phong thủy cũng như trong cảm nhận thông thường của chúng ta theo thuật phong thuy .

Hành Kim:

Gia chủ mệnh Kim nên sử dụng tông màu sáng và những sắc ánh kim vì màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh. Ngoài ra nên kết hợp với các tông màu nâu, màu vàng trong trang trí như sơn tường, màu sắc nội thất.. vì đây là những màu sắc sinh vượng (Hoàng Thổ sinh Kim). Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn cho gia chủ. Tuy nhiên gia chủ phải tránh những màu sắc kiêng kỵ như màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng Hỏa khắc Kim).

Hành Mộc:

Gia chủ mệnh Mộc nên sử dụng tông màu xanh, ngoài ra kết hợp với tông màu đen, xanh biển sẫm (nước đen sinh Mộc). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu trắng và sắc ánh kim (Trắng bạch kim khắc Mộc).  Màu xanh là màu sở hữu của bản mệnh mộc. Xanh có nhiều sắc độ, từ cốm nhạt đến xanh lá đậm, tạo một cảm giác mát mẻ và gần gũi với thiên nhiên nhất trong các màu.

Trời mùa hè nóng nực, sơn màu xanh là một trong những cách để giữ sự thoáng đãng trong căn nhà của bạn. Màu xanh còn gợi sự bình yên và êm ả của tâm hồn. Bạn có thể ngắm nhìn những căn phòng màu xanh bên dưới.

Hành Thủy:

Màu đen hoặc xanh dương (Thủy) và xanh lá cây (Mộc) thì chỉ nên dùng để điểm xuyết như khung ảnh, vật dụng trang trí. Nguyên tắc này giúp cho mọi người hiểu được rằng vạn vật đều chứa cả Ngũ hành với một hành nổi trội hơn, không nhất gia chủ mạng Thủy thì cả nhà đều phải màu xanh hay màu đen theo hành Thủy. Gia chủ có mạng Thủy trang trí màu trắng hoặc thiên về màu trắng nhiều hơn (Kim sinh Thủy).

Cũng tương tự như vậy, gia chủ mệnh Thủy nên sử dụng tông màu đen, màu xanh biển sẫm, ngoài ra kết hợp với các tông màu trắng và những sắc ánh kim (Trắng bạch kim sinh Thủy). Gia chủ nên tránh dùng những màu sắc kiêng kỵ như màu vàng đất, màu nâu (Hoàng thổ khắc Thủy).

Hành Hỏa:

Gia chủ mệnh Hỏa nên sử dụng tông màu đỏ, hồng, tím, ngoài ra kết hợp với các màu xanh (Thanh mộc sinh Hỏa). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen khắc Hỏa).

Người thuộc mệnh Hỏa thường mang đến cho cuộc sống sự sôi động và hào hứng. Màu sắc bản mệnh của những người mệnh Hỏa là màu hồng, màu đỏ, tím. Những căn phòng của người mệnh Hỏa luôn tràn đầy sức sống và ấn tượng mạnh mẽ đối với những người khác.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu đỏ, màu hồng, màu tím ngoài ra kết hợp với các màu xanh (Thanh mộc sinh Hỏa) – là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.

Hành Thổ:

Ghủ nhà nên sử dụng tông màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng hoả sinh Thổ) là màu đại diện cho hành Hỏa, rất tốt cho người hành Thổ. Màu xanh là màu sắc kiêng kỵ mà gia chủ nên tránh dùng (Thanh mộc khắc Thổ).

Sự mạnh mẽ và hài hoà của yếu tố Thổ trong nhà sẽ giúp tạo ra sự chắc chắn, giàu sinh lực và sự bảo vệ cho tất cả các mối quan hệ của bạn.

xem phong thuy, phong thuy cho tung menh, coi phong thuy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phong thủy cho từng mệnh - Phong thủy - Xem Tử Vi

18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

Kết hợp bí quyết phong thủy hài hòa trong cách sắp xếp và trang trí văn phòng giúp bạn đạt được thành công dễ dàng và nhanh chóng hơn.
18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Vì chúng ta dành rất nhiều thời gian ở văn phòng, điều quan trọng là phải kết hợp những bí quyết phong thủy hài hòa trong cách sắp xếp và trang trí. Dưới đây là một số ý tưởng để hoàn thiện nơi làm việc sao cho thuận phong thủy, nhanh chóng đạt được thành công hơn:

1. Khi lựa chọn văn phòng, bạn nên chọn một không gian càng xa phòng ngủ càng tốt. Phòng làm việc với một lối đi riêng bên ngoài là lý tưởng nhất, mặc dù nó không phải luôn luôn là một lựa chọn thực tế.

2. Không ngồi ở vị trí tạo thành đường thẳng trực tiếp với cửa. Trường hợp này khiến bạn phải đón nhận sự tấn công của nguồn năng lượng tiêu cực. Thay vào đó, chuyển ghế ngồi của bạn sang vị trí khác để tránh năng lượng tiêu cực đi qua cơ thể.

3. Trang trí một chậu cây xanh tươi tốt, khỏe mạnh và cao lớn trong khu vực làm việc. Nó không chỉ giúp tăng cường năng lượng tốt khi bạn làm việc, mà còn giúp hấp thụ năng lượng tiêu cực và phá hoại xung quanh. Một cây xanh mềm mại với phần gốc rộng, chắc chắn là lựa chọn tuyệt vời.

4. Bố trí bàn làm việc ở vị trí tránh xa cửa và lưng của bạn không đối diện với cửa. Theo phong thủy, đây được gọi là vị trí chỉ huy, có khả năng thu hút năng lượng mạnh mẽ và thành công hơn đến với khu vực làm việc của bạn. Luôn ghi nhớ rằng bạn phải ngồi ở vị trí nhận được sự thành công chứ không phải quay lưng lại với nó.

5. Nếu lưng của bạn buộc phải quay về phía cửa khi ngồi vào bàn làm việc, bạn có thể giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực bằng cách nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của cửa. Hãy treo gương hoặc bất kỳ đồ vật phản chiếu nào xung quanh bàn làm việc để bạn có thể nhìn thấy mọi chuyện diễn ra sau lưng.

18 goi y bai tri van phong de cong viec thanh cong hinh anh
Trồng cây xanh trong văn phòng để thanh lọc không khí

6. Tránh kê bàn làm việc của bạn trực diện với bàn làm việc của người khác. Lý do, đây là tình huống phong thủy xấu, mời gọi năng lượng tiêu cực bao gồm gia tăng sự căng thẳng, đối đầu trong công việc. Lưu ý này đặc biệt quan trọng với ai dùng chung văn phòng với nhiều người.

7. Nếu có thể, kê bàn ở nơi mà bạn không đối diện với với một bức tường. Nếu không thể, cố gắng làm cho bức tường trở nên “vô hình” bằng một số thủ thuật nhỏ như treo tranh ảnh, dán giấy dán tường…

8. Lấp đầy góc tường phía sau bàn làm việc. Mục đích là để tái tạo lại cảm giác về một ngọn núi (phong thủy hỗ trợ) để cung cấp năng lượng hỗ trợ cho tâm trí và cơ thể bạn.

9. Tạo ra một điểm nhấn trong phòng làm việc. Điều này rất quan trọng trong việc thiết kế thành công cho bất kỳ không gian nào, bao gồm cả phòng làm việc. Trường hợp không có điểm nhấn, năng lượng của toàn bộ không gian sẽ bị phân tán ở nhiều hướng, không thể hỗ trợ tốt cho bạn.

10. Góc đầu tiên bạn nhìn thấy khi bước vào phòng làm việc phải được lấp đầy bằng một yếu tố cao, mạnh mẽ. Ví dụ, bộ khung ảnh theo chiều dọc sẽ mang đến năng lượng tốt.

11. Tối ưu hóa ánh sáng tự nhiên sẵn có khi làm việc trong văn phòng. Nếu có cửa sổ, để trần hoặc kéo kín rèm cửa hoàn toàn trong suốt ngày làm việc. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của ánh sáng tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài lòng với công việc của bạn.

12. Đèn huỳnh quang không bao giờ là ý tưởng tốt đẹp cho nơi làm việc. Nếu không có lựa chọn nào khác, cân nhắc việc đặt một chiếc đèn bàn nhỏ (sử dụng bóng đèn LED, Halogen…) trên bàn làm việc để cung cấp đủ ánh sáng, đồng thời tạo ra bầu không khí thoải mái, dồi dào năng lượng.

13. Trồng 1 – 2 cây xanh thanh lọc không khí. Văn phòng nổi tiếng là có mức từ trường điện cao phát ra từ các thiết bị điện làm ô nhiễm không khí. Cây xanh thanh lọc không khí sẽ giúp gia tăng lượng khí oxy cung cấp cho não bộ cũng như làm mới lại tổng thể bầu không khí, giữ cho năng lượng tích cực luôn ở mức cao nhất có thể.

14. Luôn giữ nơi làm việc sạch sẽ và ngăn nắp. Sự lộn xộn sẽ phá hoại năng lượng và động lực của bạn. Trong khi đó, một không gian sạch sẽ và có tổ chức tiếp thêm sức mạnh, nhiệt huyết để bạn làm việc hiệu quả hơn.

15. Chọn lựa tranh ảnh nghệ thuật để treo trong phòng làm việc một cách cẩn thận. Bạn nên chọn tranh ảnh thể hiện được năng lượng của những khoảnh khắc hạnh phúc, sôi động và có màu sắc đẹp, gợi cảm hứng cho người xem.

16. Nếu nơi làm việc của bạn có nhiều hơn 1 cánh cửa, không nên mở tất cả cùng một lúc. Điều này tuân theo nguyên tắc phong thủy để giữ tiền bạc, của cải đi vào không bị thất thoát ra ngoài qua một cánh cửa khác.

17. Trường hợp công việc của bạn đòi hỏi rất nhiều sự sáng tạo, bố trí máy tính ở hướng Bắc hoặc hướng Tây. Có thể đặt máy tính ở hướng Đông Nam nếu mục tiêu của bạn có thu nhập cao.

18. Đừng quên kết hợp yếu tố âm – dương trong không gian làm việc. Cân bằng màu sắc sáng và tối, bề mặt mềm và cứng, kết cấu mịn và thô. Nó giúp tạo ra sự yên tĩnh, có tổ chức, cởi mở và nhất là tối đa hóa những nỗ lực của bạn.

 Theo Tuviglobal


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Mơ thấy thợ làm đồ đồng: Nên biết lượng sức mình –

Làm đồ đồng là một công việc đòi hỏi tính nghệ thuật cao, phải mất nhiều trí lực và sức lực mới có thể thành công. Mơ thấy hình ảnh người thợ làm đồ đồng dự báo sức lao động của người nằm mơ sẽ mang đến những lợi ích nhỏ. Tuy nhiên, điều đó sẽ chẳng
Mơ thấy thợ làm đồ đồng: Nên biết lượng sức mình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thợ làm đồ đồng: Nên biết lượng sức mình –

Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Chùa Dư Hàng (tên chữ là Phúc Lâm tự), So với nhiều ngôi chùa thờ phật ở Hải Phòng, chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh
Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

. Cho đến nay ngôi chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng phật cổ có giá trị, tạo hình chuẩn xác. Chùa Dư Hàng nay  thuộc địa bàn phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Chùa Dư Hàng có nguồn gốc từ thời Tiền Lê (980-1009). Cuối thời vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp, khai sáng giáo lý nhà Phật. Đến thời Trần (1225-1400), các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông sáng lập ở Yên Tử Sơn, đã có mối quan hệ với bản chùa Dư Hàng.

Từ xưa đến nay, chùa Dư Hàng vẫn truyền lệ kỷ niệm sinh nhật vị sư tổ đệ nhất “Đền ngự giác hoàng tinh tuệ thiền sư” tức vua Trần Nhân Tông vào ngày 02/11 âm lịch. Vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái vào ngày 3/11 Âm lịch. Đến đời vua Lê Gia Tông (1672), sư cụ Nguyễn Đình Sách (tự là Chân Huyền) đã xuất hiện tiền để tậu ruộng đất, làm chùa to rộng, có đủ gác chuông, nhà thờ tổ, nhà tăng… Từ đó trở đi, dù phải trải qua bao thăng trầm lịch sử, ngôi chùa đã được thế hệ hoà thượng, tăng ni, tín đồ phật tử sở tại chung sức, chung lòng sửa sang chùa ngày thêm khang trang, đẹp đẽ.

Chùa Dư Hàng có kiến trúc bề thế, khuôn viên hoàn chỉnh, gồm toà phật điện 7 gian, gác chuông cao 3 tầng, mái công vút, quả chuông đồng cỡ lớn, chữ đề: “ Phúc Lâm tự chung”, nghĩa là chuông chùa Phúc Lâm.

Tại toà Phật điện, hiện còn lưu giữ nhiều pho tượng phật cổ có giá trị, tạo hình chuẩn xác như bộ Tam thế, toà Cửu long – Thích ca sơ sinh, hộ thiện, trừ ác, bộ tượng “ Phật điện minh vương”… Gian tiền đường của toà phật điện được trang trí bằng nhiều mảng chạm khắc nổi trên cửa võng, nhiều mảng đề tài quen thuộc: mai điểu, ngũ phúc, rồng mây… thể hiện ước muốn của muôn dân cho “mưa thuận, gió hoà, cỏ cây tươi tốt”, hộp hình khắc gỗ mô tả cảnh thầy trò Đường tăng trên đường sang Tây Trúc thỉnh kinh.

Hiện nay, chùa Hàng còn bảo lưu nhiều di vật qúy giá như chuông, khánh, đỉnh đồng, đồ trang trí mỹ thuật bằng gốm sứ, đá xanh, bộ kinh sách “A hàm” cổ được lưu truyền từ nhiều đời sư trụ trì. Tại khu vườn tháp tĩnh mịch, rợp mát bóng cây cổ thụ xanh tươi, ngoài nhóm mộ tháp các vị sư tổ đã viên tịch tại bản chùa còn có mộ tháp chứa xá lỵ các vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tháp sư cụ Chân Huyền và nhiều vị hoà thượng đã từng trụ trì tại ngôi chùa Dư Hàng.

Gác chuông - Chùa Dư Hàng - Hải Phòng
Gác chuông – Chùa Dư Hàng – Hải Phòng

Trong suốt những năm kháng chiến, chùa Dư Hàng đã mở rộng cửa thiền, nuôi quân. Có nhiều vị tu hành ở chù đã hăng hái tòng quân cứu nước, tiêu biểu có cố hoà thượng Đinh Quang Lạc đã được Chính phủ trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Chùa Dư Hàng được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 1986.

Hoà cùng với công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân, chùa Dư Hàng luôn là địa chỉ du lịch tham quan của nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế. Bản chùa thường xuyên toả hương sắc trong công việc từ thiện xã hội, giúp đỡ cộng đồng vượt qua khó khăn bão lụt, thiên tai, góp phần xoá đói giảm nghèo…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Tổng hợp những câu nói hay về cuộc sống gia đình ý nghĩa nhất với những câu danh ngôn, câu nói hay, câu nói châm biếm về gia đình, vợ chồng hay nhất
Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu nói hay về cuộc sống gia đình ý nghĩa nhất với những câu danh ngôn, câu nói hay, câu nói châm biếm về gia đình, vợ chồng hay nhất. Vậy bạn hãy cùng xem và cười cùng chúng tôi với những câu nói hay về cuộc sống gia đình nhé!

Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

1. Khi móng tay dài, chúng ta cắt móng tay chứ không cắt ngón tay. Cũng tương tự, khi hiểu nhầm phát sinh, hãy cắt bớt cái tôi chứ đừng cắt đứt mối quan hệ.

——–

2. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên được.

———

3. Bạn bè là những người hiếm hoi hỏi han bạn và rồi chờ để nghe câu trả lời.

———

4. Cho dù chúng ta đã thay đổi và đều tìm được chỗ của mình trên thế giới này, chúng ta đều biết khi lệ rơi và nụ cười lan tỏa trên gương mặt, chúng ta sẽ đến với nhau, vì dù thế giới điên cuồng này có đưa ta đến đâu, không gì sẽ thay đổi tới mức chúng ta không còn là bạn nữa.

———

5. Hạnh phúc chỉ được cảm nhận khi ai đó thực sự trải qua đau khổ. Đau khổ không chỉ là niềm đau, sự phiền muộn mà còn là một cách nhìn mới mẻ hơn vào cuộc sống.

6. Kẻ khốn cùng nhất trên thế giới này không phải là người không một đồng xu dính túi, mà là kẻ không có nổi một ước mơ.

7. Câu hỏi không phải là liệu bạn có sẵn sàng hy sinh vì bạn mình không, mà là bạn có người bạn nào đáng để mình hy sinh không?

8. Thật đau đớn khi yêu ai đó và không nhận lại được tình yêu. Nhưng còn đau đớn hơn là yêu mà không bao giờ đủ can đảm để thổ lộ tình cảm của mình với đối phương.

9. Nếu tôi có một ngôi sao cho mỗi lần bạn khiến tôi cười, tôi sẽ có cả bầu trời đêm trong lòng bàn tay.

10. Nếu hạnh phúc có thể mua, cái giá của nó chẳng mấy ai trả được.

11. Mơ mộng về con người mà bạn muốn được giống là lãng phí con người thực chất của bạn.

12. Tình bạn giống như sức khỏe tốt, giá trị của nó ít được nhận ra cho tới khi nó đã bị đánh mất.

13. Người ta nói tình yêu quan trọng hơn tiền bạc, nhưng bạn đã bao giờ thử thanh toán hóa đơn với một cái ôm chưa?

14. Bạn từng sợ rằng nếu bạn không bạn hoàn hảo, bạn sẽ không được thương yêu… giờ bạn sẽ hiểu rằng trừ phi bạn không hoàn hảo, nếu không bạn sẽ chẳng thể yêu thương.

15. Chúng ta yêu thương không phải bởi tìm được người hoàn hảo, mà bởi học được cách nhìn người không hoàn hảo một cách hoàn hảo.

16. Lòng tốt không chỉ là hành động. Nó là thái độ, biểu cảm, cái nhìn, sự tiếp xúc. Nó là mọi thứ làm người khác ấm lòng.

17. Nếu bạn muốn biến những ước mơ của mình thành hiện thực, điều đầu tiên mà bạn cần phải làm là thức dậy.

18. Hãy khắc mục đích vào bê tông và viết kế hoạch lên trên cát.

19. Đến một lúc nào đó bạn sẽ nhận ra mình không còn thật sự quan tâm rồi tương lai sẽ trở thành một người như thế nào, mà quan trọng là bạn có đang sống một cuộc sống mà bạn là chính mình không.

20. Đôi khi tình bạn có nghĩa là làm chủ nghệ thuật xác định đúng thời điểm. Có thời điểm cho sự im lặng. Có thời điểm cần buông tay và để bạn mình lao vào vận mệnh của chính họ. Và có thời điểm để chuẩn bị nhặt lên những mảnh vỡ sau khi tất cả đã kết thúc.

21. Nếu bạn thấy một người bạn không có nụ cười, hãy lấy nụ cười của mình cho người đó.

22. Ngày hôm qua chỉ là cảnh mộng, và ngày mai chỉ là một giấc mơ. Nhưng ngày hôm nay sống tốt sẽ khiến mỗi ngày qua là giấc mơ hạnh phúc, và mỗi ngày mai là giấc mơ hy vọng.

23. Triết lí từ trà
Cuộc sống có lúc thuận lợi, có khi trắc trở. Những người biết thưởng thức sẽ cảm nhận được vị ngọt của hạnh phúc vươn lên sau mỗi thất bại đắng cay.

24. Mỗi khi vấp ngã, tôi thường tự nhủ bản thân hãy nhanh chóng đứng dậy và đi tiếp. Vì chỉ có bước đi mới có thể đến đích, cùng lắm chỉ là thêm vài lần vấp ngã để lại đứng lên. Còn nếu nằm đó, tất cả những gì tôi nhận được, chỉ có thể là những tiếng xầm xì.

25. Cách tốt nhất để thành công trong đời là hành động theo lời khuyên mà ta trao cho người khác.

26. Sống phải biết mình là ai

Đừng vì lòng sĩ diện mà làm khổ cha mẹ
Đừng vì giàu sang và khinh kẻ nghèo hèn
Đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm
Đừng coi mình khôn ngoan mà lừa lọc dối trá
Sông có lúc người có khúc

Gieo nhân nào thì sau này sẽ gặp quả đó

27. Mục tiêu của khoa học là tạo nên cái bẫy chuột tốt hơn. Mục tiêu của tự nhiên là tạo nên con chuột tốt hơn.

28. Bạn không thất bại, bạn chỉ đang từng bước xây dựng nên thế cờ để chiến thắng mà thôi.

29. Tôi không tỏ ra mình biết tình yêu là gì với tất cả mọi người, nhưng tôi có thể nói với bạn tình yêu là gì đối với tôi; tình yêu là biết tất cả về một người mà vẫn muốn ở bên người đó hơn bất cứ ai khác; tình yêu là tin tưởng một người để nói với người đó tất cả về bản thân mình, kể cả những điều có thể khiến bạn xấu hổ; tình yêu là cảm thấy thoải mái và an toàn với một người, nhưng vẫn thấy bủn rủn chân tay khi người đó bước vào phòng và cười với bạn.

30. Một ngày nào đó, có người sẽ bước vào cuộc đời bạn và cho bạn nhận ra tại sao tình yêu không thể đến với bất kì ai khác.

31. Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn người khác ở bên ngoài, mà để xem ai đủ quan tâm phá vỡ chúng.

32. Để trở thành một ngôi sao, bạn phải tự tỏa ánh sáng của riêng mình, đi theo con đường của riêng mình, và đừng lo lắng về bóng tối, bởi đó là khi sao sáng nhất.

33. Đôi khi bạn cần trải nghiệm mọi thứ để có thể học hỏi. Cuộc đời không phải điều bạn có thể dễ dàng tìm ra cách sống, vì vậy hãy đón nhận đời như những gì đến với bạn.
Khóc…
Cười…
Khờ dại…
Và đừng bỏ lỡ những cơ hội mà đời trao cho bạn bởi những điều quan trọng nhất không phải là “Vật chất”. Luôn luôn chính là những “Con người” khiến cho cuộc đời bạn đáng sống.

34. Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi những người yêu ta và những người không chịu yêu ta.

35. Chúng ta đều đi những con đường khác nhau trong đời, nhưng dù chúng ta đi tới đâu, chúng ta cũng mang theo mình một phần của nhau.

36. Một người bạn là người mà ta có thể trút ra tất cả trái tim mình, trái tim đầy tro trấu, biết rằng những bàn tay dịu dàng nhất sẽ cầm lấy nó và sàng lọc, giữ lại những gì đáng giữ, và với hơi thở của lòng tốt, thổi đi tất cả những phần đáng để cuốn đi.

37. Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình!

38. Thế giới này rộng lớn là thế, đi đến cùng trời cuối đất cũng không gặp được em, nhưng đồng thời thế giới cũng quá ư là nhỏ bé, gặp ai, cũng thấy giống em.

Trên đây là một số những câu nói hay về cuộc sống gia đình, những câu châm ngôn, những câu nói bất hủ hay ý nghĩa nhất về cuộc sống gia đình. Vậy bạn hãy đọc và cảm nhận nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về cuộc sống gia đình

Top 3 con giáp là chuyên gia 'super-soi'

Bản tính tự lập của người tuổi Dậu, sự thông minh của người tuổi Tý và tính hiếu thắng của người tuổi Thân khiến họ trở thành chuyên gia soi trong mọi hoàn cảnh.
Top 3 con giáp là chuyên gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 Tuổi Dậu

Ngay tử nhỏ, người tuổi Dậu đã được "huấn luyện" sống tự lập, từ việc học hành, làm việc cho đến chuyện tình cảm. Do vậy, bản tính của con giáp này rất mạnh mẽ và thẳng thắn, bộc trực. Họ thường thích làm những gì mình đặt ra, miễn sao để đạt được mục tiêu thay vì phải gò bó trong một khuôn phép cứng nhắc nào đó.

Dau-4927-1416972813.jpg

Từ những thói quen ấy, người tuổi Dậu chúa ghét sự giả tạo khiến cuộc sống đảo lộn hay phải toan tính quá nhiều. Kết quả là, khi nhận thấy tín hiệu "diễn kịch" của ai đó, họ sẽ "soi" rất kỹ, thậm chí "bới lông tìm vết" những điều nhỏ nhặt để lật tẩy bộ mặt thật của đối phương.

No.2 Tuổi Tý

Con giáp này rất lanh lợi tới mức có thể đọc được những suy nghĩ của người xung quanh. Đôi khi họ áp dụng trí thông minh của mình theo chiều hướng khá tiêu cực như tính toán rất chi li, dự đoán xem mọi người sẽ làm gì để "thừa nước đục thả câu" sao cho mang lại lợi ích cho bản thân.

Ty-6688-1416972814.jpg

Do vậy, nhất cử nhất động của mọi người đều được con giáp này chú ý và đặc biệt ghi nhớ. Có thể sau này họ gặt hái được nhiều thành công, nhưng vì tính cách ấy mà đời sống tâm lý của người Tuổi Tý hầu như không thanh thản. 

No.3 Tuổi Thân

Tính hiếu thắng của người tuổi Thân là nguồn cơ cho sở thích "super - soi" của họ. Con giáp này không thể chịu đựng được cảm giác thua thiệt người khác. Để tránh rơi vào tình trạng này, họ luôn trong tình trạng căng như dây đàn để "soi" xem đối phương có nhược điểm gì.

Than-9480-1416972814.jpg

Ngoài ra, người tuổi Thân rất thích tranh luận cho “ra ngô ra khoai” để mọi người tâm phục họ. Nhằm đạt được miêu tiêu ấy, con giáp này luôn đặt ra tiêu chí phải nắm bắt tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ bất của bất kỳ sự việc nào. Có như vậy, họ mới giành thế chủ độ và nắm chắc phần thắng.

Mr.Bull (theo DXYZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp là chuyên gia 'super-soi'

Âm khí quá nặng, làm sao để loại bỏ?

Mất cân bằng âm dương trong nhà sẽ khiến vận đen thường xuyên đeo đuổi. Làm thế nào để hóa giải những ngôi nhà âm nặng hơn dương?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vạn vật đất trời cùng tồn tại trên trái đất này tự thân đều có tương sinh, tương khắc. Vậy nên chúng ta thường thấy nhắc đến Âm Dương là lẽ đó. Bởi con người là thể thống nhất giữa Âm và Dương theo quan niệm phong thủy. Vậy nên ở một nơi âm khí quá nặng trong một thời gian dài ắt con người sẽ chịu những ảnh hưởng không mong muốn, mà ta hay quen gọi là“âm thịnh dương suy”. Dễ khiến con người ta chịu những rủi ro triền miên, sức khỏe suy giảm, dễ tan gia bại sản hay gặp phải những chuyện không may. Vậy âm khí nặng rốt cuộc là như  thế nào? Làm sao để chúng ta có thể hóa giải nó?

1. Ánh sáng không đủ

Có những ngôi nhà mà phòng khách tuyệt nhiên không có cái cánh cửa nào, hay cả phòng khách và phòng ngủ đều ở hướng Bắc. Điều đó khiến ngôi nhà thiếu hụt nguồn ánh sáng mặt trời, Dương khí suy giảm, cảm giác như đang ở một nơi lạnh lẽo.

2. Cây cối quá nhiều

Thảm thực vật bản thân chúng có tác dụng khá nhiều trong phong thủy như chúng ta thường thấy. Thế nhưng nếu trồng quá nhiều cây cối thì khó tránh khỏi âm khí nặng nề cho căn nhà, và sau cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe.

3. Môi trường xung quanh quá nhiều âm khí:

Ví dụ như một ngôi nhà cao tầng nằm ngay trước mặt thì tất nhiên là nhà chúng ta chẳng có chút ánh sáng nào cả. Ví như những ngôi nhà gần nghĩa trang hay bệnh viện …Tất cả những điều đó đều được coi là ở trong môi trường Âm khí nặng hay thiếu Dương khí.

Vậy thì cách nào phổ biến để có thể hóa giải được điều đó?

Lắp hệ thống đèn chiếu sáng rộng, thời gian chiếu sáng dài

Trong nhà dùng những bóng đèn có sức chiếu sáng rộng, thời gian bật đèn dài. Đặc biệt là trong các ngày mùng 1, rằm thì nên để đèn sáng lâu hơn bình thường, điều này giúp tăng Dương khí cho ngôi nhà, căn phòng.

Thay giấy dán tường, màu sơn mới

Chọn giấy dán tường hoặc màu sơn có gam màu ấm để tăng thêm sự ấm áp cho căn nhà của bạn. Tuyệt nhiên cũng làm giảm Âm khí rõ rệt và ngôi nhà cũng ấm cúng hơn nhiều.

Thường xuyên mời bạn bè đến chơi

Một bầu không khí tràn ngập tiếng cười nói, vui đùa thì cũng làm tăng Dương khí lên khá nhiều. Một ngôi nhà lạnh tanh, không chút tiếng người thì tự nhiên cho ta cảm giác vắng lặng, lạnh lẽo. Vậy nên đừng ngần ngại mời bạn bè đến nhà chơi, không gian vui vẻ sẽ mang đến nhiều thay đổi cho ngôi nhà của bạn đấy.

Thường xuyên nấu ăn

Âm khí nặng thì khí thái con người cũng không thể tốt. Trong đó việc thường xuyên nhóm bếp nấu ăn hay không cũng là một nhân tố quan trọng. Thường xuyên nấu ăn khiến khí thế thay đổi, ngôi nhà cũng trở nên ấm áp hơn.

Thường xuyên vệ sinh

Việc quét dọn, lau chùi, vệ sinh nhà cửa thường xuyên cũng đồng nghĩa với việc bạn dọn dẹp hết những Âm khí trong nhà đi. Đặc biệt là với nhà vệ sinh, đồ dùng trong phòng ngủ… những nơi kín đáo, việc dọn dẹp giúp thổi bay những tà khí, và âm khí cũng giảm xuống mức tối đa.

Theo Mai Nguyễn Khampha.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Âm khí quá nặng, làm sao để loại bỏ?

CHỌN NGÀY TỐT KHAI TRƯƠNG ĐẦU NĂM

Chọn ngày tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xưa nay mỗi độ tết đến xuân về, tất cả mọi người từ sỹ, nông, công, thương, nam, phụ, lão, ấu đều tạm dừng công việc thường nhật của mình lại để nghỉ ngơi, đón một cái Tết cổ truyền trong niềm vui đoàn tụ sum họp, ấm áp bên người thân. Sau mấy ngày tết thì mọi hoạt động của con người được trở lại như bình thường.

Chính bởi lẽ đó ngày đầu tiên trong năm mới sau kỳ nghỉ tết là một ngày hết sức quan trọng. Nó đặc biệt trở nên quan trọng đối với những người kinh doanh buôn bán. Vì khi chọn được ngày tốt sẽ cát lợi vô cùng hứa hẹn một năm buôn may bán đắt, thu được nhiều lợi nhuận, vạn sự hanh thông, may mắn cát lợi vô cùng.

Đầu năm Bính Thân mạn đàm về ngày tốt đối với khai trương. Trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc phân tích tỉ mỷ thì thấy được có ba ngày dưới đây rất tốt đối với việc khai trương.

Cách chọn ngày tốt khai trương đầu năm

  • Ngày 10/ 02/ 2016 dương lịch (Tức là ngày Nhâm Tuất  mùng 3 Tết, Bính Thân)

+ Thứ nhất ngày này là Tư mệnh Hoàng đạo cát lợi cho mọi việc.

+ Thứ hai xét theo phương pháp tính ngày theo Lục diệu của Gia Cát Khổng Minh thì ngày này là ngày Tốc hỷ, là một ngày cát lợi báo hiệu niềm vui nhanh chóng bất ngờ sẽ tới, nếu khai trương việc buôn bán thì thật may mắn cát lợi, báo hiệu sự đông khách và thu được nhiều tài lộc.

+ Thứ ba về nhị thập bát tú ngày này thuộc sao Sâm. Sao Sâm vốn là một cát tú, thích hợp để tiến hành nhiều công việc. Vào ngày Tuất sao Sâm đăng viên, ánh sáng chói ngời nên lại càng may mắn hanh thông hơn.

+ Thứ tư: Ngày mùng 3 tết Nguyên đán năm nay thuộc trực Thành, biểu tượng của thành công, vinh xương. Ngày này lại có các cát tinh như: Thiên quý, Nguyệt không, Thiên đức hợp, Hoàng ân, Tam hợp, Thiên quan hội tụ nên đặc biệt may mắn.

+ Thứ năm: Ngày này tuy là ngày Tam nương, nhưng trong quá trình nghiên cứu chúng ta đã hiểu rõ bản chất về ngày Tam nương vốn được xuất hiện từ tín ngưỡng của Trung Quốc và không có cơ sở khoa học để phân định việc cát hung. Chưa kể nó được hàng loạt các yếu tố cát lợi trên hợp sức nâng đỡ và nhuyễn hóa nên không thể coi là ngày xấu được.

  • Ngày 12/ 02/ 2016 dương lịch (Tức là ngày Giáp Tý 05/ 01/ 2016 Âm lịch)

+ Thứ nhất ngày này là ngày Thanh long Hoàng đạo tốt đối với mọi việc.

+ Thứ hai về Lục diệu ngày này là ngày Tiểu cát, mưu sự thuận lợi, lại được âm phúc che chở độ trì.

+ Thứ ba: Về nhị thập bát tú ngày này là ngày sao Quỷ. Sao Quỷ là một hung tú. Thuộc Kim thần thất sát nhưng vào ngày Tý sao Quỷ đăng viên, ánh sáng rực rỡ vô cùng, tạo ra phản vi kỳ cách, biến hung thành cát. Buôn bán, thừa kế tước phong, phó nhậm đều cát lợi.

+ Thứ tư: Ngày 05/ 01/ 2016 thuộc trực Khai, ý nghĩa là khai mở, tốt đối với mọi việc nhất là đối với việc khai trương. Ngày này lại có cát tinh như: Thiên quý, Mẫu thương, Ích hậu, Sinh khí, Đại hồng sa, Thanh long.

+ Thứ năm: Theo quan niệm dân gian ngày Giáp Tý là một trong những ngày đại lợi về khai trương.

Tuy ngày này là ngày Nguyệt kỵ nhưng quá nhiều tổ hợp cát lợi chiếm ưu thế, ánh sáng mạnh mẽ, bóng tối bị đẩy lui, không còn phải e ngại điều.

Cách chọn ngày tốt khai trương đầu năm

  • Ngày 24/ 02/ 2016 dương lịch (Tức ngày Bính Tý 17/ 01/ 2016 âm lịch)

+ Thứ nhất: Ngày này là ngày Thanh long Hoàng đạo. Đại cát, đại lợi về mọi mặt.

+ Thứ hai về Lục diệu ngày này là ngày Tiểu cát, mưu sự gặp nhiều thuận lợi, thường được âm phúc độ trì.

+ Thứ ba: Về nhị thập bát tú ngày 17/ 01/ 2016 là ngày sao Cơ. Sao Cơ là một cát tú, khi tạo tác, động thổ, khai trương đều hưng vượng về điền sản.

+ Thứ tư: Ngày này thuộc trực Khai trong thập nhị trực. Trực khai tốt với nhiều việc, đặc biệt là việc khai trương. Có các cát diệu như sau: Nguyệt ân, Sinh khí, Ích hậu, Mẫu thương, Đại hồng sa, Thanh long.

+ Thứ năm: Ngày này thuộc ngày tốt đối với việc khai trương theo quan niệm dân gian. Ngoài ra ngày này còn là ngày Bất tương đại lợi cho việc cưới hỏi, hôn sự.

Trên cơ sở phân tích một vài ngày đầu năm cho thấy có ba ngày trên rất tốt đối với việc khai trương. Vì vậy, quý bạn nên tham khảo để chọn lựa ngày tốt để khai trương cửa hàng. Chúc các quý bạn một năm mới an khang thịnh vượng, phát tài, hanh thông, phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn.

Cách chọn ngày tốt khai trương đầu năm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CHỌN NGÀY TỐT KHAI TRƯƠNG ĐẦU NĂM

3 con giáp dẫn đầu danh sách vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4

Nếu tháng 3 trôi qua trong lặng lẽ, ảm đạm thì tháng 4 lại hứa hẹn nhiều niềm vui, sự may mắn bất ngờ ở mọi phương diện cho những con giáp dưới đây vì vận khí thăng cấp bất ngờ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Tuổi Sửu

Trong tháng 3, vận khí của người tuổi Sửu cũng không hẳn là kém sắc. Chỉ có điều, vẫn còn bạn chưa thể thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, chưa thể bứt phá để giành được những thắng lợi to lớn cả trong sự nghiệp lẫn tình cảm.

Bước sang tháng 4, người cầm tinh con Trâu sẽ nhanh chóng thổi bay mọi ưu phiền, xóa tan bầu không khí ảm đạm, chất chứa quá nhiều suy tư hay lo lắng. Để từ đó nỗ lực phấn đấu vươn lên, tự mình thúc đẩy vận khí tốt đẹp, kéo theo nhiều may mắn và thành công.

Có thể nói, đây là một trong những con giáp vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4. Làm việc gì, dù lớn hay nhỏ đều hanh thông, thuận lợi. Tình cảm dạt dào, tiền bạc rủng rỉnh, trăm sự đều cát lành.

Top 3 con giap van khi thang cap bat ngo trong thang 4 hinh anh
 
2. Tuổi Dậu

Nếu trong tháng 3, người tuổi Dậu cảm thấy buồn chán vì sức khỏe có phần giảm sút nghiêm trọng, bước vào tháng 4, thời điểm mà “xuân ấm áp, hoa nở rộ”, mọi việc đều chuyển biến theo chiều hướng tích cực.

Nhân những ngày nghỉ lễ, con giáp này có thể lên lịch trình cho một chuyến du lịch xa, vừa giải tỏa stress, lại giúp tinh thần thêm phấn chấn, sức khỏe cũng được cải thiện rõ ràng.

Bên cạnh đó, người tuổi Dậu cũng đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác về tài chính. Nhìn chung, cả chính tài và thứ tài đều bình ổn. Bạn hoàn toàn yên tâm tận hưởng cuộc sống với nhiều sắc màu thú vị.

Top 3 con giap van khi thang cap bat ngo trong thang 4 hinh anh 2
 
3. Tuổi Mão

Vận khí của người tuổi Mão có sự chuyển biến rất rõ ràng, chỉ cần nhìn biểu hiện nét mặt tươi như hoa của bạn cũng đủ biết điều đó.

Người tuổi Mão có tâm lý “chào xuân” khá nhẹ nhàng, thậm chí có chút lười nhác, không tập trung để hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Nhưng bước sang tháng 4, mọi sự biến đổi, nhịp sống khá nhanh và gấp gáp của con giáp này lại quay trở về như trước.

Guồng quay công việc, cộng thêm những cung bậc cảm xúc trong tình cảm khiến bạn không còn thời giờ để mà lười nhác nữa.

Chính vì thế, bầu không khí ảm đạm, có vẻ như thiếu sức sống trong tháng vừa qua sẽ kết thúc. Thay vào đó, những chú Mèo lại tinh ranh, xông xáo và hài hước như xưa.

Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp dẫn đầu danh sách vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4

Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi, khi nông nổi hoặc khi đã chín chắn.
Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu. 

  Tuổi Tý   Xem bói thời gian tìm thấy tình yêu đích thực của 12 con giáp, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những người cầm tinh con Chuột có thể gặp được tình yêu đích thực của đời mình ở độ tuổi 20. Bởi vì tính cách họ phóng khoáng, đi đâu cũng trở thành tâm điểm chú ý, ắt có nhiều vệ tinh vây xung quanh.   Tuy nhiên, nếu quyết định kết hôn, hai bạn sẽ mâu thuẫn và tranh chấp khá nhiều vì vẫn còn khá trẻ, tính cách còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung. Nhưng nếu hai bạn dành thời gian hiểu nhau, đừng vội vàng hấp tấp, tình yêu ngày càng gắn bó bền chặt.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Sửu   Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu.    Tuổi Dần   Thời gian người tuổi Dần có thể gặp được tình yêu đích thực sẽ rơi vào khoảng từ 15 đến 35 tuổi. Điều trăn trở lớn nhất của con giáp này chính là tình yêu đến hoặc là quá sớm hoặc là quá muộn, cảm giác như không kịp nắm bắt, chưa đủ chín chắn để chủ động nắm giữ hạnh phúc trong tầm tay.   Tuổi Mão   Vốn sống hướng nội và coi trọng tình cảm, người tuổi Mão sẽ sớm tìm được nửa kia ưng ý từ độ tuổi 17 đến 27, thậm chí đây cũng là bến đỗ vô cùng yên ổn.   
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thìn   Từ khoảng năm 18 đến 25 tuổi, người cầm tinh con Rồng có nhiều cơ hội gặp được đối tượng ưng ý, hơn thế bạn còn dành tình yêu cuồng nhiệt, si mê cho đối phương.   Tuổi trẻ đôi mươi tuổi Thìn còn khá mơ hồ với tình yêu, khi trưởng thành rồi sẽ biết khống chế cảm xúc để tình yêu đơm hoa kết trái, đôi lứa gắn bó với nhau hơn cả keo.   Tuổi Tỵ   Để gặp được người yêu mến chân thành, người tuổi Tỵ phải sống khoảng 19 năm trong cuộc đời. Độ tuổi từ 19 đến 38 là khoảng thời gian bạn rất dễ tìm được nửa kia đích thực.    Vốn thuộc tuýp nhạy cảm và tinh thế, con giáp này không dễ dàng tin tưởng yêu thương một ai đó. Bởi vậy, họ cần rất nhiều thời gian để bản thân chắc chắn trong tình yêu, hạnh phúc thường đến muộn.   Top 3 con giáp có cuộc sống ngày càng tốt đẹp Cặp đôi hoàn hảo trong 12 con giáp làm nên đại nghiệp Top 3 con giáp sau 1 đêm trở thành triệu phú
Tuổi Ngọ
  Vì tôn sùng chủ nghĩa tự do, ham theo đuổi những điều mới lạ, nên người tuổi Ngọ tìm được tình yêu đích thực khá muộn, khoảng từ 25 đến 42 tuổi.    Một phần do tuổi Ngọ đi quá nhiều, từng trải, yêu cầu càng cao, muốn có được một người xứng đáng nên phải mất khá nhiều thời gian kiếm tìm.   Tuổi Mùi   Tương tự tuổi Ngọ, những ai cầm tinh con Dê sẽ đón hạnh phúc hôn nhân khá muộn. Mãi cho tới tận 27 hoặc 33 tuổi bạn mới có thể tìm được đối tượng phù hợp.   Thời “trẻ trâu” nông nổi, tuổi Mùi rất dễ rung động, nhưng cảm xúc của họ chỉ thực sự sâu sắc khi bước vào độ tuổi lớn hơn, theo đó tình yêu cũng bền vững hơn nhiều.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thân   Hoạt bát, hồn nhiên là thế, người tuổi Thân sẽ đón đầu tình yêu đích thực của mình vào độ tuổi 18 hoặc khi đã trưởng thành, 28 tuổi. Với con giáp này, hoặc là sẽ có tình yêu nông nổi của tuổi trẻ thanh xuân rực rỡ, hoặc là khi sự nghiệp đã có bước đi vững vàng, làm cơ sở bền chặt cho tình yêu.   Tuổi Dậu   Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi.    Khi còn quá trẻ dễ rung động, con giáp hồn nhiên chân thật này dễ dàng tin tưởng, họ có lẽ sẽ rung động mà chẳng hề biết đó là yêu. Đến khi 28 tuổi, tình cảm lúc đó có lẽ sẽ ổn định hơn nhiều.   Tuổi Tuất   Khoảng 15 tuổi, người tuổi Tuất đã có những rung động tình yêu đầu đời. Nhưng có lẽ, tình yêu đích thực chỉ thực sự bền chặt và có thể tiến tới hôn nhân khi con giáp này bước sang tuổi 26, khi mà họ trưởng thành cả về tư tưởng lẫn sự nghiệp.   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể tìm thấy nửa kia ưng ý trong khoảng từ 18 đến 35 tuổi. Một khi rơi vào lưới tình, con giáp này vô cùng trung thực và chân thành. Họ rất trân trọng đối phương, không cần lo nghĩ quá nhiều mà sẵn sàng hy sinh chính mình.  
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Ngọc Diệp
 
Những chàng trai ngọt ngào, ấm áp nhất trong 12 con giáp
Sở hữu trái tim ấm áp, cử chỉ ân cần, ngọt ngào, những chàng giáp dưới đây luôn là niềm khao khát phái đẹp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Xem thành công thất bại qua đường vân ngón tay áp út

Một vài dấu hiệu về đường vân trên ngón tay áp út sẽ bật mí tính cách, sự thành bại trong sự nghiệp của mỗi người.
Xem thành công thất bại qua đường vân ngón tay áp út

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Dưới đây là một số đường vân ngón áp út có thể xuất hiện trong cuộc đời của bạn. Tại mỗi thời điểm xuất hiện, bạn có thể nắm bắt cơ hội để có được bước phát triển đột phá hơn trong công việc và cuộc sống.

Xem thanh cong that bai qua duong van ngon tay ap ut hinh anh
Những đường vân có thể xuất hiện trên ngón áp út

1. Đường vân quý nhân

Vân Quý nhân trên ngón tay áp út là một đường vân ngắn song song với khớp nối của đốt thứ nhất và thứ hai. Chủ nhân của đường vân này thường có tính cách ôn hòa, ấm áp, giỏi giao tiếp nên nhân duyên tốt đẹp, dễ có được lòng tin của mọi người.

Do đó, khi làm bất cứ việc gì người này cũng được quý nhân theo sát để tương trợ, biến hung thành cát, dễ dàng gặt hái thành công.

2. Đường vân cẩn thận

Rất dễ nhận biết đường vân cẩn thận trên ngón áp út đó là 2 đường song song có độ dài ngắn khác nhau và nằm ở đốt thứ nhất.

Người có đường vân cẩn thận khá thông minh lanh lợi và chín chắn trong suy nghĩ. Họ rất nghiêm khắc đối với bản thân, luôn muốn hoàn thiện mình trong mọi phương diện của cuộc sống. Người này làm việc gì cũng thận trọng, thực tế, luôn nỗ lực hết mình vì lí tưởng sống.

3. Vân ba đường

Nếu tại vị trí giữa đốt thứ hai và ba của ngón áp út có ba đường vân, đây là dấu hiệu cho thấy trung vận bạn có thể phát tài, sự nghiệp thuận lợi, tình yêu và hôn nhân viên mãn.

4. Đường vân danh lợi

Vân danh lợi có biểu tượng như chữ “thăng”. Chủ nhân của vân danh lợi có đầu óc nhạy bén, linh hoạt, giỏi kinh doanh, kiếm tiền như hái và rất biết cách quản lí tiền bạc. Nhìn chung công danh sự nghiệp của người này thoáng đạt, cuộc sống giàu sang phú quý.

Xem thanh cong that bai qua duong van ngon tay ap ut hinh anh 2
Đường vân danh lợi giúp chủ nhân kiếm tiền như hái

5. Đường vân buồn phiền

Vân buồn phiền là những đường vân ngang dọc cắt nhau ở vị trí đốt thứ ba của ngón tay áp út. Người có đường vân này thường rất nhạy cảm, sống hướng nội, dễ bị chuyện tình cảm vướng bận trong khi không có ai giúp đỡ.

6. Đường vân danh tiếng


Đây là đường vân dọc chạy thẳng và xuyên suốt cả 3 đốt của ngón áp út. Sở hữu đường vân danh tiếng, bạn có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, tiếng tăm dễ bay cao bay xa.

Hơn thế, bạn thuộc tuýp cầu tiến, luôn nỗ lực hết mình để hoàn thiện bản thân trong quá trình theo đuổi khát vọng, vì thế sự nghiệp càng ngày càng thăng tiến.

► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Theo Ione

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem thành công thất bại qua đường vân ngón tay áp út

Bày tượng Phật phạm cấm kị, gia đình gặp họa đủ đường

Các gia đình cần chú ý khi bày tượng Phật trong nhà để tránh phạm húy với thần linh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều các gia đình Việt Nam bày ít nhất một bức tượng Phật trong nhà. Tượng Thần Phật liên quan đến các vấn đề tâm linh nên thường rất được coi trọng. Mỗi gia đình nên chú ý đến cách bày tượng Phật trong nhà để tránh 'gậy ông đập lưng ông', cầu bình an lại mang xui xẻo đến cho cả nhà.

 bay tuong phat pham cam ki, gia dinh gap hoa du duong - 1

Với những người làm việc trong môi trường cạnh tranh, như chính trị gia, doanh nhân,....nếu đặt tượng Phật, đặc biệt là Phật Di Lặc ở nơi làm việc, trong xe hơi hoặc tại nhà sẽ giúp mang lại may mắn và loại bớt sự thù địch. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ cách bày tượng Phật trong nhà.

1. Mua bán tượng Phật

- Trong mỗi gia đình chỉ nên thờ cúng nhiều nhất ba vị Phật trên cùng một bàn. Quá nhiều tượng Phật không những chẳng đem lại bình yên trong tâm hồn mà còn dễ gây phân tâm, bất an trong lòng.

- Tượng Phật không nên mua bán tùy tiện. Nếu tượng Phật trong nhà quá cũ thì không được vứt hay ném vào xó xỉnh mà phải cẩn thận mang lên chùa, miếu hoặc đốt cùng tiền vàng. Hóa cùng vàng mã vào ngày mùng Một hay ngày Rằm là một cách để tiễn Phật quy vị. Sau đó mới nên mua tượng mới thay thế.

- Khi tượng Phật vì một lí do nào đó mà bị nứt, vỡ thì cũng không nên vứt đi tùy tiện. Bạn nên ra chợ mua giấy vàng gói lại và thắp hương tiễn Phật vào các ngày lẻ như một, ba, năm, bảy, chín. Nếu tượng Phật chỉ bị gãy ngón tay hay gãy một chút thì có thể không cần thay thế. Bạn ghép lại mảnh bị vỡ và dùng giấy đỏ cuộc vào gỗ gãy là được.

 bay tuong phat pham cam ki, gia dinh gap hoa du duong - 2

2. Bày tượng Phật trong nhà

Cấm kị cần tránh khi bày tượng Phật

Tượng Phật sau khi mua về phải bài trí ở nơi trang trọng trong nhà. Nếu đặt tượng Phật lung tung, phạm cấm kị sẽ dễ dẫn đến những điều xui rủi cho mọi người trong gia đình.

- Không bày trong tủ kín:

Tượng Phật không phải là đồ vật trang trí trong nhà như búp bê, đá quý, tượng điêu khắc,...mà là một đồ vật gắn liền với tín ngưỡng tâm linh. Hành động cất tượng Phật trong tủ kín được coi là bất kính với Thần Phật. Nếu để tượng Phật trong tủ kính, két bạc sẽ khiến gia đình gặp nhiều chuyện không may, con trẻ dễ ốm đau.

- Không bày trong phòng ngủ:

Phòng ngủ là không gian riêng tư của vợ chồng, con cái. Đặt tượng Phật hay bùa có hình Phật trong phòng ngủ khiến giấc ngủ gia chủ dễ mộng mị. Chất lượng giấc ngủ bị ảnh hưởng sẽ dẫn đến các vấn đề về sức khỏe, tinh thần.

Cách bài trí tượng Phật trong nhà

- Đặt bàn thờ Phật ở vị trí chính giữa nhà hay phòng khách. Nếu nhà có nhiều tầng thì đặt bàn thờ ở tầng trên - tránh ở vị trí chiếu dưới nhà vệ sinh, gầm giường. 

- Nên đặt tượng Phật ở độ cao khoảng 1m và nhìn thẳng ra cửa để khí trường trong nhà toàn bộ đều mang năng lượng tốt. Ngoài ra, bày tượng ở đúng cung Sinh khí của chủ nhà cũng giúp tăng vận may, tài lộc, sức khỏe và thành công.

-  Đặt tranh hoặc tượng Phật ở cung Đông của ngôi nhà hay phòng khách giúp tạo sự hòa thuận cho cả gia đình và hóa giải mọi rắc rối, cãi cọ. Còn khi bày tượng Phật ở cung Đông Nam của phòng khách, phòng lễ tân hoặc của toàn bộ ngôi nhà sẽ giúp gia tăng vận may tài lộc.

 bay tuong phat pham cam ki, gia dinh gap hoa du duong - 3

Cách bày bàn thờ Phật

- Trên bàn thờ Phật ngoài bình hoa, lư hương, chân nến, đĩa quả thì không bày thêm bất cứ tạp phẩm nào khác. Khu vực thờ cúng cũng cần được quét lau sạch sẽ bụi bẩn định kì. 

- Nếu thờ Tam thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kính thì nên đặt thẳng hàng, không được cái cao, cái thấp. Với tượng gỗ, tượng đồng, tượng sành thì cũng vẫn phải để ngang hàng đồng bậc, không nên để tầng trên, cấp dưới.

- Khi đặt tượng Phật trên bàn thờ, dưới chân tượng phải để một đĩa lót giấy đỏ nhằm tỏ lòng thành kính và trang trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày tượng Phật phạm cấm kị, gia đình gặp họa đủ đường

Mẫu người Tỳ Hà Ngọc (Cự Kỵ)

Tâm lý chung của nhiều người khi nghiên cứu về khoa Tử Vi là thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v...
Mẫu người Tỳ Hà Ngọc (Cự Kỵ)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thật ra những cách đơn giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ như Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ bàn đến cũng cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất đặc biệt trong cuộc đời, nếu không muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này đôi khi còn ảnh hưởng sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của đương số. Và trước khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm giống nhau và khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng, chúng ta hãy bàn qua bản chất của mỗi sao trong hai cách này.

Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa thì Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị phi khẩu thiệt mà thôi.

Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.

Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.

Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một điều là khi luận đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây.

Trường hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan sát thêm ở cung Mệnh và các cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu, cung Quan, cung Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái Dương, Tứ Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.

Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như mẫu người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.

Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc biệt. Là mẫu người có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!

Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.

Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Tỳ Hà Ngọc (Cự Kỵ)

Cảm giác khi sắp chết sẽ như thế nào?

Ngoại trừ những cái chết đột ngột, ai cũng phải trải qua quy luật đời người sinh lão bệnh tử. Cảm giác khi sắp chết, bạn sẽ phải trải qua nhiều cảm giác đau khổ
Cảm giác khi sắp chết sẽ như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoại trừ những cái chết đột ngột, ai cũng phải trải qua quy luật đời người sinh lão bệnh tử. Cảm giác khi sắp chết sẽ là những đau khổ tột cùng.

  Cảm giác khi sắp chết sẽ có rất nhiều khổ đau cùng cực, những cảm giác này gây ra bởi những nguyên nhân như sau:   1. Vào lúc địa đại hòa nhập hay tan biến vào trong thủy đại, thân thể trở nên nặng nề và thân không thể tự nương nhờ thân.   2. Vào lúc thủy đại hòa nhập vào trong hỏa đại, miệng và mũi khô khan, ngưng nói bí lời.   3. Vào lúc hỏa đại hòa nhập vào trong phong đại, thân nhiệt biến mất.   4. Vào lúc phong đại hòa nhập vào trong thức đại, bạn chỉ có thể thở ra khò khè và hít vào nấc nghẹn.
Khi sap chet, ban se co cam giac nhu the nao hinh anh
Ảnh minh họa
Vào lúc đó, cảm giác khi sắp chết sẽ như đang bị đè nặng bởi một ngọn núi rất lớn, đang bị sập bẫy trong bóng tối, đang bị buông rơi vào vô tận của hư không. Nếu tâm bạn nghe nhận và niệm được câu Phật hiệu một cách thanh tịnh, toàn thể bầu trời sẽ tự nhiên tươi sáng rực rỡ như một tấm gấm trải rộng. Những bóng tối và sự đè nặng trong tâm tức khắc liền tan biến. Hơn thế nữa, hình tướng của Phật A Di Đà tự nhiên hiện ra ở trong tâm của bạn, cùng với những ánh quang minh sáng diệu vô thượng như trăm nghìn ánh mặt trời chiếu sáng cùng một lúc. Quang minh sáng rực, nhưng minh diệu lạ thường, nó không làm bạn chói mắt khó chịu; ngược lại, nó làm cho bạn tươi tỉnh, sáng suốt và rỗng lặng lạ thường. Tự nhiên bạn không còn cái cảm giác khổ đau gây ra bởi do thân tứ đại của bạn đang phân ly nữa. Đây chính là thành quả của năng lực niệm Phật của bạn (Tự lực) cùng năng lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà (Tha lực).   Vào lúc này tính giác viên minh của bạn sẽ nhắc nhở bạn: Đừng bị tán loạn! Đừng xúc động! Không lâu nữa Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn bạn về cõi Cực Lạc. Bạn phải ráng giữ cho tâm của bạn luôn rỗng lặng, thanh thản và tiếp tục niệm Phật không ngừng, ngay cả khi gặp được Đức Phật A Di Đà xuất hiện. Tại sao vậy? Vì nếu bạn giữ được tâm rỗng lặng như hư không, không xúc động vì vui mừng theo thói tục của thế gian chúng sanh, khi gặp Phật, bạn sẽ sanh về cõi Cực Lạc với phẩm vị rất là cao. Vì ngay lúc này với sự trợ lực của Phật A Di Đà, bạn đã đạt được Niệm Phật Tam Muội hay Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu bạn còn có cái niệm vui mừng xúc động khi gặp Phật, phẩm vị vãng sanh của bạn bị hạ thấp xuống, vì tâm bạn vẫn còn dính mắc vọng niệm của người phàm phu.
Khi sap chet, ban se co cam giac nhu the nao hinh anh
Ảnh minh họa
Khi bạn thấy Phật A Di Đà xuất hiện, bạn cũng đồng thấy vô số Phật, Bồ-tát và Thánh Chúng đồng xuất hiện để nhiếp thọ tiếp dẫn bạn. Hình tướng và dung mạo của các vị Phật ở cõi Tây Phương, cũng giống hệt như Phật A Di Đà. Hình tướng và dung mạo của các Bồ-tát cũng đồng giống hệt như Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, không có tướng sai khác. Bạn cũng được nghe tiếng của thánh chúng niệm Phật vang động cả bầu trời với những âm thanh vi diệu hòa nhã và tùy hỷ.   Nên lưu ý, trước khi gặp Phật, ma chướng (nghiệp chướng) cùng sinh của bạn sẽ loạn động cái tâm của bạn làm cho chánh niệm của bạn bị sụp đổ, bạn muốn niệm Phật cũng rất là khó khăn hay chẳng thể niệm được; nó phát ra những âm thanh chói tai, uy mãnh và làm mê mờ bạn. Ở vào thời điểm này, bạn hãy tuệ tri điều này:   1. Cái cảm giác đang bị đè ép xuống bởi một ngọn núi, không phải là bạn đang bị đè ép xuống bởi một ngọn núi. Đó là khi các đại của bạn đang hòa nhập. Hãy đừng sợ hãi chuyện đó!   2. Cái cảm giác đang bị sập bẫy trong bóng tối, không phải là đang bị sập bẫy trong bóng tối. Đó là khi năm quan năng của bạn đang hoà nhập!   3. Cái cảm giác đang bị buông rơi vào trong vô tận của hư không, không phải là bạn đang bị buông rơi. Đó là tâm của bạn không có cái gì để nương nhờ, bởi thân và tâm của bạn đã ly biệt và hơi thở của bạn đã ngừng lại.   Vậy bạn phải cố gắng nương vào câu Phật hiệu không gián đoạn để tâm của bạn không bị mê mờ bởi những cảm giác hư vọng này. Tất cả những quang cảnh, các hình tướng, các âm thanh, ánh sáng đều là của chính bạn, đều là do tâm của bạn ảnh hiện bởi do nghiệp lực chiêu cảm. Hãy đừng nghi hoặc gì về điều đó.   Nếu bạn cứ cảm thấy nghi hoặc, bạn sẽ bị ném trở vào trong sinh tử luân chuyển. Hãy quyết định sáng tỏ hơn để thấy đó chỉ là chuyện tự diễn-hiện, và nếu bạn nương nhờ an trú vào câu Phật hiệu (nó cũng chính là tính viên minh trong chân không diệu hữu quang minh biến chiếu), trong tính chân không diệu hữu quang minh biến chiếu đó bạn sẽ chứng đạt ba thân – Pháp thân, Báo thân, Ứng Hoá thân – và trở thành giác ngộ. Ngay lúc đó dù nếu bạn có bị ném vào trong sinh tử luân chuyển, bạn cũng sẽ không đi vào đó.   Bạn nên biết rằng A Di Đà Phật chính là vị Phật bảo hộ và cũng là tự tánh hiện hữu của bạn để duy trì tâm bạn với chánh niệm không bị tán loạn. Từ thời điểm này, điều rất quan trọng là ở trạng thái không mong cầu và sợ hãi gì cả, không chấp và thủ đối với tất cả các đối tượng và quan năng của sáu thức, cũng như đối với những dẫn dụ mê đắm, hạnh phúc và sầu muộn. Và từ bây giờ trở đi, nếu bạn đã đạt “tịnh chỉ an định”, bạn sẽ có thể bắt đầu có khả năng đảm lĩnh bản tính ở trong trung hữu và trở thành giác ngộ. Thế nên điểm tối yếu cho sinh mệnh của tuệ mệnh là chấp trì câu hồng danh A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn, không tán loạn từ chính thời điểm này.   Ma chướng cùng sinh là tập khí hiện tại đưa đến vô minh, nghi hoặc và do dự của bạn. Nên vào lúc ở tử địa, bất cứ hiện tượng dễ sợ nào xuất hiện, thí dụ như những âm thanh, những màu sắc và những ánh sáng, hãy đừng bị mê đắm dẫn dụ, hãy đừng nghi hoặc và hãy đừng sợ hãi. Nếu bạn bị rơi vào nghi hoặc dù chỉ một thời điểm, bạn sẽ lang thang trong cõi sinh tử luân chuyển, vì thế nên hãy đạt được “tịnh chỉ an định” hoàn toàn, không thay đổi và không bị chấm dứt bất thình lình.   Ở thời điểm này, những lối dẫn vào tử cung (cửa ngõ tái sinh) hiện ra như những cung điện cõi trời. Hãy đừng bị tham luyến đối với chúng. Hãy tin chắc chắn vào điều nhận biết sáng tỏ thấu suốt đó. Hãy tự tại, không mong cầu và sợ hãi! Vào thời điểm đó, tính giác viên minh trong sáng thấu suốt của chính bạn (tự lực) cùng với quang minh tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực) sẽ là cộng lực cứu độ bạn.   Khi đạt được Pháp thân giống như hư không cho lợi ích chính mình, bạn sẽ thành tựu lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới. Bạn có thể hoá hiện các thứ báo thân và ứng hoá thân làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới, và lúc ấy tâm của bạn sẽ lan tỏa vạn hữu vô tận xứ.   Kết Luận:   Do vì tâm của chúng ta quá xa rời với giác ngộ và tỉnh thức, do vì nghiệp chướng và tội ác của chúng ta quá nhiều đến không thể tính kể, phước báu thì quá nhỏ bé như hạt mè. Do vì tập khí tham, sân, si, mạn, nghi của chúng ta quá nặng nề tạo thành một màn vô minh dầy đặc bao trùm che phủ Như Lai tánh thường chiếu.   Cho nên, ngay trong cuộc sống hiện tại chúng ta phải gặp nhiều ngang trái khổ đau, gặp nhiễm các thứ hồ đồ lộn xộn; cho đến lúc lâm chung, chúng ta không biết nơi nào để đi, chỗ nào để đến, phó mặc cho nghiệp lực dẫn dắt tiếp tục lang thang trôi trong sáu nẻo luân hồi sanh tử.   Nay nhờ chút phước mọn sót lại, chúng ta gặp được pháp môn niệm Phật quảng đại thù thắng của Phật A Di Đà do Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tự trao truyền chỉ dạy. Những người có đại tín thành, đại nguyện lực, tinh tấn dõng mãnh, và thông tuệ, những người luôn nhớ đến thầy của họ là Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, những người luôn tín nhiệm vào Phật A Di Đà, những người thân tâm nỗ lực trong thực hành, những người có tâm an tịnh, và có khả năng buông bỏ các mối quan tâm đối với thế giới này.   Ðây là những người được tất cả các Đức Như Lai đồng thanh khen ngợi; vì họ, ở trong đời trước, đã từng gặp Phật quá khứ quy y, chiêm bái, cúng dường và họ cũng đã từng được Phật thọ ký Bồ Đề.   Những người tin nhận và chân thật tinh tấn tu tập giáo pháp này là những người được thừa hưởng của cải vô tận của các Đức Như Lai trong mười phương ba đời. Tại sao? Vì giáo pháp này đều được tất cả các Đức Như Lai trong mười Phương Thế Giới, mà mỗi Thế Giới lại có vô số vô lượng các Đức Như Lai nhiều như cát của sông Hằng, đồng thanh khen ngợi và tán thán không thể nghĩ bàn, không có sai khác.

►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm

ST.

15 cách tránh tà khí xâm nhập bạn nên biết Âm binh có thực sự đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ? Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cảm giác khi sắp chết sẽ như thế nào?

Tại sao "Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang"?

Chó và mèo là những vật nuôi quen thuộc trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, hai loài này lại hay hục hặc với nhau để có địa vị riêng trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chó và mèo là những loài vật thân thiết nhất với con người từ thuở xa xưa. Chúng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống cũng như tâm linh người Việt. Chẳng thế mà, chúng cùng xuất hiện trong 12 linh vật đại diện cho năm. Tuy nhiên vị trí hai con cũng tách xa nhau. Hai con vật nuôi trong nhà nhưng lại có nhiều khác biệt đến mức dân gian có câu: "ghét nhau như chó với mèo".

 tai sao

Trong sinh hoạt thường ngày, mọi người hiếm khi thấy cảnh hai con vật chung sống hòa bình dưới cùng một mái nhà. Chúng chí chóe, tranh giành thức ăn, chỗ ngủ. Sự yêu quý của con người với chó mèo cũng khác nhau. Mọi người thường hay rỉ tai: 'Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang'. Vậy do đâu có sự phân biệt như vậy?

Tại sao "chó đến nhà thì sang"?

 tai sao

Trong quá trình nuôi dưỡng, chó rất trung thành với chủ. Mọi sự đều nghe theo sự dạy bảo của chủ nhân, chủ cho ăn thì ăn, chủ không có thì nhịn. Thậm chí nhiều chú có có tình đến mức chủ chết đi vẫn nằm phủ phục nhiều năm bên cạnh mộ. Chó dù đi đâu xa lâu ngày vẫn nhớ đường về nhà. Đặc biệt, chó giúp chủ nhà bảo vệ tài sản của mình trước lũ trộm dòm ngó.

Do vậy, chó đến nhà là nhà có thêm người canh nhà, giữ của, biểu hiện của thần giữ của nên sẽ giàu có. Chó đá hay được đặt tại cổng đình chùa, đền miếu, cổng làng, cổng nhà... để cảnh báo kẻ gian, ngăn trừ tà ma...

Hơn nữa, chó có linh cảm rất nhạy. Có không ít trường hợp, khi chủ đi ra ngoài, chó linh cảm thấy điều xấu đã cắn gấu quần giữ chủ lại, hoặc cứu chủ thoát khỏi hiểm nguy. Nhiều cơ quan đã đào tạo chó để có thể cảnh báo trước thiên tai sắp ập đến. Các nguồn sóng lạ, sóng xấu rất dễ bị bắt bởi giác quan của chó. Người xưa thường nói 'khắc khoải như chó cắn ma' là vì vậy.

Tại sao "Mèo vào nhà thì khó"?

 tai sao

Ngược lại với chó, mèo rất hay bỏ nhà đi lang thang. Chúng bỏ đi chơi, tìm bạn đời, đến khi đói bụng mới nhớ ra cần quay về nhà. Có những con mèo ranh ma đến nỗi bỏ đi hoang khi chủ không kịp cho cung cấp. Tập tính của mèo cũng không tình cảm hay thông minh như chó để bảo vệ nhà, giữ của. Chính vì đặc tính thích 'bỏ nhà đi hoang' của mình, mèo đến nhà biểu trưng cho tiền bạc chuẩn bị đội nón ra đi.

Mèo cũng có giác quan thứ sáu nhưng khả năng linh cảm của chúng lại hay báo những tin xấu như trong nhà có người chết hay lang thang ở những bãi hoang, bãi tha ma kiếm ăn. Chính những điều này cũng khiến người ta quan niệm về điềm dữ ở mèo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao "Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang"?

Bạn biết gì về đeo nhẫn hợp Phong thủy?

Khi bạn đeo nhẫn ở một ngón tay nào đó, bạn có biết mình đang tiếp cận với nguồn năng lượng nào, xấu hay tốt không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chiêm tinh học, mỗi ngón tay tương ứng với 1 vì sao mang theo tính bí ẩn riêng của nó. Khi bạn đeo nhẫn ở một ngón tay nào đó, bạn có biết mình đang tiếp cận với nguồn năng lượng nào, xấu hay tốt không?

da-phong-thuy

Từ các câu chuyện về đeo nhẫn phong thủy

Bà Thu, phụ trách kinh doanh công ty thương mại Thanh Hòa ở quận Tân Bình vốn là người chẳng bao giờ tốn tiền sắm trang sức cho mình. Thế nhưng mới đây, người quen gặp bà đều ngạc nhiên khi thấy bà đeo cả bộ nhẫn, lắc, dây chuyền. Bà bảo: “Vì mình có ngày, giờ và cả tháng sinh đều là mạng thổ, thầy phong thủy bảo khi vượng thổ quá, thì dùng kim để hạn chế lại, làm ăn mới tốt”.

Có nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối cách lựa chọn trang sức theo phong thủy.

Theo người phương Tây, có 12 loại đá, thể hiện dưới 12 sắc màu khác nhau ứng với 12 tháng trong năm để mang lại hạnh phúc, may mắn, sức khỏe... cho những người có ngày sinh trong tháng đó. Chẳng hạn, tháng 1 là đá garnet, tháng 2 là thạch anh tím, tháng 3 là aquamarine, tháng 4 là kim cương, tháng 5 là emerald…

Theo người phương Đông chọn những con vật linh như cóc, ngựa, rồng, sư tử... làm biểu trưng cho sự phát đạt, thành công, thăng tiến... Chọn đá quý và bán quý theo phong thủy của phương Đông là lấy các sắc màu đá ứng với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và tùy theo mạng từng người mà chọn theo hướng tương sinh tương khắc.

Quan điểm mới của những người trẻ hiện đại chọn những món trang sức gắn với các truyền thuyết và câu chuyện huyền thoại. Như cỏ bốn lá gắn với câu chuyện kể rằng, có một cậu bé can đảm bước vào rừng sâu, đi mãi qua bao thác ghềnh với một trái tim dũng cảm để tìm được loại cỏ bốn lá (four-leaf clover) – bốn món quà thượng đế ban tặng cho mỗi đứa trẻ khi mới ra đời, là niềm hy vọng, niềm tin, tình yêu và sự may mắn.

Bên cạnh đó, niềm tin của người đeo trang sức theo phong thủy còn biến thể vào những con số. Quy luật phép cộng may mắn thể hiện rõ nhất khi dùng kim cương là chọn các loại hạt kích cỡ có tổng số cộng lại bằng 9 để đem lại sự may mắn, chẳng hạn, dùng kim cương 3,6 li; 4,5 li; 5,4 li; hoặc 7,2 li...

Chính điều này đã tạo nên nghịch lý, là giá kim cương 2,7 li có thể đắt hơn 3,2 hoặc 3,4 li. Người mua sính lễ tuyệt đối tránh những viên kim cương có con số tổng là 4 hoặc 14, vì theo phát âm tiếng Hoa chữ này trùng với âm “tử”– (tức là chết), rất xui xẻo. Nếu dùng làm quà tặng khai trương, tân gia hoặc giới làm ăn lại chuộng con số 8 với hy vọng tiếng Hoa phát âm chữ “bát” trùng với chữ “phát”.

Đã chơi thì theo cho trót

Anh Thuần, giám đốc công ty tư vấn một doanh nghiệp đã phải mất hàng tháng trời cùng với khoản chi phí gần 20 triệu đồng mới “thỉnh” được viên ruby sao màu đỏ tím từ một thầy chuyên coi phong thủy để làm mặt nhẫn đeo vào ngón giữa tay trái nhằm “trấn” giữ tiền bạc không bị hao tổn. Sự khác biệt này nhìn ở bề ngoài không thể thấy được, chỉ biết viên đá có trọng lượng và ánh – sắc tương tự, giá bán ở các tiệm trang sức chỉ chừng 6 – 7 triệu đồng.

Chị Trâm, một giảng viên ngoại ngữ còn phối hợp cả Đông – Tây lẫn quan điểm hiện đại. Cụ thể chị sinh tháng 9 – theo phương Tây hợp với đá Sapphire. Nhưng mạng của chị lại là mạng hỏa, nếu dùng màu xanh dương đặc trưng của Sapphire thì màu xanh này là đặc trưng của mạng thủy – thủy khắc hỏa không hợp với chị. Nên chị chọn Saphia màu cam và vàng.

Hai màu này trên thị trường hiếm có, chị phải vào mạng internet dò tìm, đến nhiều tiệm chuyên bán đá quý mới có. Khi chọn được đá, chị thiết kế kiểu nhẫn đeo vào ngón giữa chứ không đeo ngón áp út vì cho rằng chiếc nhẫn lấp đầy khoảng trống giữa các ngón tay (khi duỗi thẳng năm ngón thì không còn khoảng hở giữa các ngón), sẽ giúp tiền tài vào thì nhiều mà ra sẽ hạn chế.
Bà Hiền, giám đốc công ty vàng bạc đá quý ở chợ Xóm Chiếu, quận 4 đánh giá: “Trước kia chỉ người lớn tuổi mới chọn trang sức theo phong thủy, còn bây giờ giới trẻ cũng theo trào lưu này, có lẽ từ sự phổ biến lan truyền thông tin trên sách báo, mạng internet”.

Bà Mỹ Hạnh, giám đốc công ty trang sức thời trang Zemma bổ sung thêm: “Thông thường người mua trang sức chỉ chọn vàng để làm của, còn bây giờ giới trẻ mua trang sức theo phong thủy để tìm kiếm sự may mắn nên không quá chú trọng đến vàng, họ có thể chọn vàng thấp tuổi, bạc hay kim loại khác, miễn là màu sắc, loại đá và kiểu dáng phù hợp.

Hiện nay, hàng loạt các công ty kinh doanh trang sức đã nắm bắt nhu cầu thị trường, tung ra nhiều bộ sưu tập mới, thiết kế mới với từng tông màu, vàng, xanh lá cây, ngọc trai, xanh dương... theo từng tháng trong năm. Hoặc ở các tiệm vàng khu vực quận 5, quận 6, quận 11… các món trang sức hình hồ lô, cóc kim tiền, đồng tiền, nhẫn đính năm hạt (sanh – lão – bệnh – tử – sanh)… thường xuyên có mặt trong tủ trưng bày.

Với kinh nghiệm gần 30 năm trong nghề kinh doanh vàng bạc đá quý, bà Sương, giám đốc công ty Kim Hoàn Việt cho rằng: “Không chỉ có người buôn bán mới chuộng trang sức theo phong thủy, ngay cả giới trẻ, người đi làm ở các văn phòng, khi chọn trang sức cũng lựa đá, lựa màu theo tháng sinh, theo mạng tuổi…”

Ghi nhận từ các khách hàng, bà Sương cũng cho biết, khách chọn trang sức theo phong thủy để có niềm tin vào công việc sẽ tốt hơn, để tìm sự may mắn, hạnh phúc hơn, chứ không hề cực đoan như kiểu mê tín.

Vậy, thật ra đeo nhẫn có cần tuân theo quy luật Phong thủy nào không?

Ngũ hành của các ngón tay

tay-deo-nhan

Trong Phong thủy, khi đeo nhẫn ở bàn tay phải có nghĩa là bạn đang mong chờ sự giúp đỡ từ năng lượng siêu linh; ngược lại, đeo nhẫn ở bàn tay trái lại mang ý nghĩa bạn đặt hy vọng vào các mối quan hệ giữa người với người.

1. Ngón cái: thuộc Mộc, tượng trưng cho cha mẹ; Tự đứng vững trên đôi chân của mình.
Khi đeo nhẫn ở ngón này, bạn là người độc lập, mạnh mẽ, thách thức bất kỳ trở ngại nào; Có thể bạn sẽ là một Lãnh đạo tốt song sẽ khó tìm một tình cảm chân thành khi cần; Bạn sẽ cô độc trong thế giới của mình, khó thành công trong cuộc sống.

2. Ngón trỏ: thuộc Hỏa; củng cố uy quyền bằng sự độc đáo, sáng tạo.
Đeo nhẫn ở đây khiến bạn trở nên có nhiều tham vọng với năng lực của chính mình. Chân thực, trách nhiệm và phóng khoáng, bạn suy nghĩ mọi thứ theo cách riêng của mình và không ngại khi nói cho người khác về điều đó. Ngón trỏ tượng trưng cho anh chị em ruột.

3. Ngón giữa: thuộc Thổ; Quan hệ ruột thịt và tình bạn là cao quý nhất, giảm hao tài.
Nếu bạn đeo nhẫn ở ngón này, bạn rất quý trọng gia đình và bạn bè, gần như không có khúc mắc gì đối với họ vì bạn đối xử hết lòng. Bạn biết giữ cân bằng trong cuộc sống và khá kín tiếng về đời tư. Tuy nhiên, bạn thường gặp xung đột và rắc rối trong các mối quan hệ khác. Ngón giữa chính là bạn.

4. Ngón đeo nhẫn: thuộc Kim; tăng vận đào hoa, thành công nhờ nhiệt huyết của trái tim
Đeo nhẫn ở ngón này nghĩa là bạn đang đặt hy vọng vào điều mà mình đang khát khao nhất bằng cả con tim; Bạn hăng say thực hiện để đạt mục đích một cách uyển chuyển và khéo léo. Bạn sống nội tâm và cũng mong người khác đối xử với mình bằng sự chân thật. Ngón đeo nhẫn tượng trưng cho người bạn đời của bạn.

5. Ngón út: thuộc Thủy; Nhà ngoại giao tài ba
Khi bạn đeo nhẫn ở đây, bạn có thể thân thiết với mọi người, cho dù đó là ai, thuộc tầng lớp nào. Bạn nhận được sự cảm thông sâu sắc từ mọi người và thành công nhờ lòng yêu mến của họ. Ngón út tượng trưng cho con cái.

Ngũ hành của nhẫn

ngu-hanh-nhan

1. Nhẫn thuộc Kim:
Nhẫn thuộc Kim thường có hình dạng tròn, nhẫn trơn không có mặt lồi lên nạm bằng đá quý. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình tròn có màu vàng, trắng. Nhẫn phải được thiết kế đơn giản với màu trắng hoặc màu vàng và chất liệu thường làm từ vàng tây, bạch kim, bạc. Nhẫn thuộc hành Kim hợp cho những người mạng Thuỷ . Ngũ hành thuộc Kim làm cho tình yêu thêm bền vững, tình nghĩa vợ chồng gắn kết lâu dài, lợi cho sự nghiệp, kinh doanh, buôn bán.
Sự kết hợp giữa kim cương, vàng và bạch kim sẽ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho mỗi chiếc nhẫn này.

2. Nhẫn thuộc Mộc:
Nhan cuoi thuộc Mộc thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, vặn chéo, hoặc cách điệu thành hình chữ nhật, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, hình chữ L, có nạm những viên đá quý màu xanh. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu xanh. Nhẫn thuộc hành Mộc hợp cho những người mạng Hoả. Ngũ hành thuộc Mộc làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho con cái.

3. Nhẫn thuộc Thuỷ:
Nhan cuoi thuộc Thuỷ thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, thân nhẫn mảnh khảnh, có thể có dạng hình chữ S, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, có nạm những viên đá quý màu xanh tím, xanh đen, màu lục hoặc màu đen. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu sẫm. Nhẫn thuộc hành Thủy hợp cho những người mạng Mộc. Ngũ hành thuộc Thuỷ làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho học vấn và sự nghiệp.

4. Nhẫn thuộc Hoả:
Nhan cuoi thuộc Hoả thường có hình dạng nhọn, được cách điệu với những nét nhô cao, thân nhẫn có thể cắt chéo các cạnh, có thể có dạng hình chữ V, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tam giác, đa giác, có nạm những viên đá quý màu hồng, đỏ hoặc màu da cam. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có gam màu đỏ, hồng. Nhẫn thuộc hành Hoả hợp cho những người mạng Thổ. Ngũ hành thuộc Hoả làm cho tình yêu thêm nồng cháy, ấm áp, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, lợi cho danh tiếng.

5. Nhẫn thuộc Thổ:
Nhan cuoi thuộc Thổ thường có hình dạng vuông, được cách điệu với những nét vuông vắn, thân nhẫn có thể làm hình vuông, có thể có dạng hình chữ T, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình vuông, chữ nhật, có nạm những viên đá quý màu vàng. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý có gam màu vàng, xám, màu ghi. Nhẫn thuộc hành Thổ hợp cho những người mạng Kim. Ngũ hành thuộc Thổ làm cho tình yêu thêm bền vững, dài lâu, tình cảm vợ chồng thêm những thuận hoà, lợi cho con cái.
Đôi khi có những cặp vợ chồng tương khắc nhau về bản mệnh, ví dụ người nam sinh năm 1978 tuổi Mậu Ngọ, thuộc mạng Thiên Thượng Hoả, lấy người nữ tuổi Nhâm Tuất (1982) thuộc mạng Thuỷ. Như vậy mệnh nữ Thuỷ khắc mệnh nam Hoả là sự bất lợi. Để hoá giải nên chọn nhẫn cưới thuộc hành Mộc vì Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả sẽ hoá giải được thế tương khắc này.

Các loại đá quý

Người phương ĐÔNG trang sức đá quý theo quan niệm dịch lý của nền văn minh Á ĐÔNG phù hợp với yếu tố sinh khắc trong ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Nghĩa là trắng, xanh, đen ,đỏ ,vàng. Từ đó người ta tin chắc rằng sự sinh khắc trong cung càn khôn vũ trụ phù hợp với việc chọn đá trang sức cho mỗi người theo mệnh.
GS Phan Trường Thị cũng như ông Nguyễn Văn Mỹ (Trung tâm Đá cảnh, gỗ lũa và tranh tượng dân gian Việt Nam) cho rằng, cũng có thể chọn đá đeo dựa vào tháng sinh (Cách suy luận này dựa trên phong tục của nhiều người châu Âu):

Tháng 1: Đá Garnet – Ngọc hồng lựu
Tượng trưng cho tình yêu vợ chồng và lòng chung thủy. Là món quà trang sức hoàn hảo cho quà cưới hoặc đính hôn.
Giúp dẫn đường trong đêm tối, giúp chủ nhân “sáng” hơn hẳn những người khác. Theo người Ai Cập, ngọc hồng lựu còn là thuốc giải vết rắn cắn và ngộ độc thức ăn.

thang 1

Giúp làm tăng sinh lực, tính nhẫn nại, giúp điều hoà nhịp tim và sự tuần hoàn máu.

Tháng 2: Đá Amethyst – Thạch anh tím

thang 2
Đem lại sự tỉnh táo. Thạch anh tím giúp chủ nhân không rơi vào những cơn say rượu lẫn say tình, lại được an toàn khỏi phản bội và lừa dối. Đây còn là thần dược ngăn hói đầu và làm đẹp da.

Tháng 3: Đá Aquamarine – Ngọc xanh biển

thang 3
Tương truyền loài đá này xuất phát từ hòm châu báu của nàng tiên cá, trôi dạt lên bờ từ dưới đáy biển.
Có thể trợ giúp những ai lên đênh trên biển vì thế nó là món quà quý giá đối với các thủy thủ và người hay đi biển. Nằm mơ thấy ngọc xanh biển cho thấy phải kết bạn mới. Ngoài kiến thức và tầm nhìn, người mang ngọc xanh biển còn có được tình yêu và sự trìu mến.

Tháng 4: Diamond – Kim cương

thang 4
Biểu tượng của sức mạnh, lòng can đảm và sự bất khuất. Qua nhiều thế kỷ, nó trở thành món quà tối thượng của tình yêu.

Tháng 5: Đá Emerald – Ngọc lục bảo

Đá Emerald – Ngọc lục bảo
Nữ hoàng của các loại đá. Quý nhất là viên đá màu xanh lá cây thuần khiết hoặc xanh lá hơi ngả xanh dương.
Ngọc lục bảo giúp mài sắc trí tuệ và thị lực. Đi đường dài, chúng giúp bảo vệ chủ nhân khỏi hiểm hoạ. Người mang viên ngọc xanh còn có thể dự đoán được tương lai.

Tháng 6: Pearl – Ngọc trai

Pearl – Ngọc trai
Ngọc trai phương Đông được ví như viên đá của mặt trăng, là biểu tượng của tính khiêm tốn, sự trong trắng và thuần khiết. Chúng còn là hình ảnh của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

Tháng 7: Đá Ruby – Hồng ngọc

Đá Ruby – Hồng ngọc
Hồng ngọc là loại đá rất bền. Độ cứng của nó chỉ đứng sau kim cương.
Lấp lánh thứ ánh sáng từ sao Hoả, Hồng ngọc có thể chữa lành bệnh tật và giảng hoà cho các cặp đang có “chiến tranh”. Tăng khả năng lãnh đạo, đem lại sự phấn khởi, làm con người tự tin hơn.

Tháng 8: Đá Peridot – Ngọc cản lãm

Đá Peridot – Ngọc cản lãm
Dưới ánh đèn, viên đá lấp lánh sắc xanh ngọc lục bảo, vì thế mà được ví là “Ngọc lục bảo của chiều tà”. Trong suốt, có nhiều màu từ xanh vàng đến xanh sáng.
Đá Peridot tượng trưng cho tài hùng biện, thuyết phục. Nó được coi là bùa hộ mệnh và là thần dược chữa viêm xoang. Nếu được cẩn trong vàng, nó còn xua tan nỗi sợ bóng đêm. Peridot mang lại thành công,hoà bình và may mắn cho người sử dụng.

Tháng 9: Đá Sapphire

Đá Sapphire
Có đủ các màu, tuy nhiên không có màu đỏ. Loại đá này cũng rất cứng.
Sapphire được cho là làm tăng lòng chung thủy, sự chân thật và chống lại sự gian trá. Sapphire còn chữa bệnh chảy máu cam, giúp giảm sốt và còn chữa được đau lưng, đau thấp khớp.

Tháng 10: Đá Opal – Đá mắt mèo

Đá Opal – Đá mắt mèo
Tượng trưng cho hy vọng, sự ngây thơ. Thời trung cổ, các cô gái tóc vàng cài đá Opal để giữ màu tóc.

Tháng 11: Đá Citrine – thạch anh vàng

Đá Citrine – thạch anh vàng
Tên gọi Citrine bắt nguồn từ một loại trái cây giống chanh. Đây là một tập hợp thạch anh có màu từ vàng nhạt đến nân vàng.
Người xưa từng mang đá Citrine để đề phòng dịch bệnh, xấu xa, cả những ý nghĩ tội lỗi. Nó còn được dùng để chữa những vết rắn cắn và các nọc độc của các loài bò sát khác.

Tháng 12: Đá Topaz xanh dương

Đá Topaz xanh dương
Theo tiếng Hy Lạp, Topaz có nghĩa là “toả sáng”. Topaz có nhiều màu sắc nhưng chỉ có Topaz xanh dương là viên đá của người sinh tháng 12.
Topaz tượng trưng cho thông minh, sắc đẹp, lòng chung thủy và tình bạn chân chính. Topaz đem lại sức mạnh, hạ hoả người nộ khí, khôi phục sự khôn ngoan, chữa lành suyễn, giảm mất ngủ.

Có thể bạn chưa biết về công dụng mạnh mẽ của việc đeo nhẫn.

Ví dụ đơn cử cho trường hợp nữ diễn viên Xa Thi Mạn (Tuổi Mão) hầu tòa trong vụ kiện tụng lái xe hơi gây tai nạn. Đó là ngày 24/02/2003 Mộ khố của Thủy. Trong bát tự, Xa Thi Mạn lại thiếu Thủy và thiếu Mộc, vì vậy ngày hôm đó, cô đã đeo 1 nhẫn vàng (Kim) có đính hột ngọc trai (Thủy) vào ngón tay út (Thủy), mặc 1 bộ quần áo màu đen (Thủy) đến tòa. Chưa biết cô có nhờ ai tư vấn hay không, song kết quả của phiên tòa thì chắc hẳn các bạn đã biết rồi: Xa Thi Mạn không phải ngồi tù.

Cũng như các linh vật Phong Thủy, nhẫn phong thủy cũng “khai quang điểm nhãn” giúp nhẫn Phong thủy tiếp thu tinh hoa trời đất, để có thể phát huy tối đa năng lượng giúp người đeo nhẫn thăng tiến, làm ăn phát đạt, hạnh phúc trọn vẹn, …


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn biết gì về đeo nhẫn hợp Phong thủy?

Những con giáp vận đỏ như son trong tháng 1

Con giáp có vận đỏ như son bao gồm người tuổi Sửu, người tuổi Tý...
Những con giáp vận đỏ như son trong tháng 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không chỉ gặp nhiều may mắn trong công việc, tình yêu của người tuổi Sửu cũng nở hoa kết trái trong tháng 1 này.


No1. Người tuổi Tý

Bước sang tháng đầu tiên của năm 2016, công việc, sự nghiệp của những ai cầm tinh con Chuột vô cùng thuận lợi. Tư tưởng thông suốt, suy nghĩ tích cực giúp bạn nhìn rõ những vấn đề mà trước đó chỉ lờ mờ nắm bắt.

Bên cạnh đó, các mối quan hệ xã giao hài hòa, được cấp trên và đồng nghiệp tín nhiệm, giao phó trọng trách. Khối lượng công việc tuy nhiều, nhưng bạn luôn tìm ra cách để sắp xếp và xử lí một cách khoa học.

Thêm nữa, bạn là một trong những con giáp vận đỏ như son trong tháng này, đặc biệt trong công việc. Hễ bắt tay làm việc gì, việc đó đều gặt hái được kết quả đáng mừng hay chí ít cũng có được thành công bước đầu. Hãy kiên trì theo đuổi mục tiêu tới cùng, ắt bạn sẽ thu được khoản tiền xứng đáng.

Nhung con giap van do nhu son trong thang 1 hinh anh
 
No2. Người tuổi Tỵ

Thời kì “ngủ đông” của những người cầm tinh con Rắn đã qua, tới lúc bạn cần tỉnh táo và chủ động bắt tay làm những công việc yêu thích hay dự định lớn nhỏ cho tương lai.

Bước sang tháng 1, vận trình của bạn hanh thông, gặp khá nhiều may mắn trong công việc và cuộc sống. Hãy nhanh tay nắm bắt cơ hội này để đột phá trong sự nghiệp. Hơn thế, có thể kiếm được khoản tiền kha khá chuẩn bị đón một cái Tết cổ truyền thật “xôm”.

No3. Người tuổi Sửu

Nếu người tuổi Tý chỉ gặp vận đỏ trong công việc, thì người cầm tinh con Trâu lại có được cả vận may về sự nghiệp và tình duyên.

Nhung con giap van do nhu son trong thang 1 hinh anh 2
 
Trong tháng này, nhân duyên tốt, vận đào hoa hưng vượng thúc đẩy các mối quan hệ hài hòa, giúp tình cảm dạt dào, thăng hoa. Đồng thời, công việc cũng thuận buồm xuôi gió, đường quan lộc thênh thang.

Những con giáp có ví tiền “dày cộm” trong tháng 1
Trong tháng cuối cùng của năm Ất Mùi, tài vận của người cầm tinh con Rồng khởi sắc mạnh, lại có Tài tinh chiếu mệnh nên liên tiếp gặp may tiền bạc, hứa hẹn một
No4. Người tuổi Hợi


Càng về những tháng cuối năm Ất Mùi, vận may của người tuổi Hợi lại càng nhiều. Tuy đây chưa phải là lúc vận khí đạt đỉnh điểm nhưng cũng đủ giúp bạn trải qua một tháng với nhiều niềm vui trong công việc và tài lộc.

Người tuổi Hợi nên nhớ “dục tốc bất đạt”, làm việc gì cũng cần kiên nhẫn, chờ đợi thời cơ để gặt hái thành công rực rỡ.

► Xem tử vi hàng ngày của bạn cập nhật mới nhất và liên tục tại Lichngaytot.com

Ngân Hà (Theo MGSP)

Xem thêm video: Bí mật của sự may mắn


 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp vận đỏ như son trong tháng 1

15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam

Tết nguyên đán rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Ngày tết đến người người nhà nhà sum họp vây quần bên nhau. Bên cạnh đó thì những phong tục truyền thống trong những ngày tết việt nam cũng rất quan trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cúng ông Công, ông Táo.
Ngay từ ngày 23 tháng Chạp, các gia đình Việt Nam đã dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp để cúng ông Công, ông Táo, lễ cúng truyền thống phải có cá vàng để tiễn ông về trời, mong ông sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng những điều tốt vì theo quan niệm dân gian đây là ngày mà Ngọc Hoàng sẽ trách phạt hay thưởng gia chủ dựa trên những gì mà ông Táo báo cáo.
 


2. Gói bánh Chưng
Bánh Chưng là món ăn truyền thống, lâu đời của người Việt. Ngay từ những ngày 28, 29 Tết, các gia đình Việt Nam thường gói bánh Chưng để làm quà biếu Tết và để thưởng thức. Ăn bánh Chưng để nhớ về công ơn của tổ tiên, cha mẹ và gợi nhớ đến câu chuyện vua Hùng kén phò mã từ rất lâu đời.
 


3. Hoa Tết

Ngày Tết, người Việt thường mua những cây hoa tượng trưng cho sự may mắn như: đào, mai, quất..để xua đuổi tà ma, cầu cho một năm mới luôn vui vẻ, hạnh phúc, thịnh vượng, viên mãn cho cả gia đình.
 


4. Mâm ngũ quả

Bày mâm ngũ quả cũng là một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của các gia đình Việt. Mâm ngũ quả tượng trưng cho Kim- Mộc- Thủy- Hỏa- Thổ, 5 yếu tố cấu thành nên vũ trụ theo quan niệm của Khổng giáo với nghĩa chung sâu sắc, gắn liền vơi sụ hiếu thảo và mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới.
 


5. Rước vong linh ông bà

Đêm giao thừa, người Việt thường bày biện hoa quả, đồ cúng thành mâm cỗ để dâng lên ông bà, tưởng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của năm cũ, ước mong cho năm mới sắp đến.
 


6. Hái lộc

Hái lộc đầu xuân là một nét đẹp trong ngày Tết truyền thống của người Việt. Người dân Việt Nam thường đi hái lộc vào đêm giao thừa hoặc sáng mồng một để cầu một năm mới luôn may mắn và viên mãn, rước lộc về nhà.
 


7. Xông đất

Xông đất là một phong tục rất quan trọng của người Việt Nam vì họ quan niệm rằng, người xông đất sẽ quyết định cả một năm vui vẻ, phát đạt hay không may mắn của mình. Vì thế, họ thường mời những người có vận may, có tuổi hợp với chủ nhà đến xông đát vì họ tin rằng, người đó sẽ mang may mắn, điềm lành trong suốt cả một năm. Người xông đất phải ăn mặc chỉnh tề, sau đó phải đi hết 1 vòng quanh nhà với hi vọng may mắn sẽ luôn tràn ngập.

8. Chúc Tết

Vào ngày mồng một, người Việt Nam có phong tục đi chúc Tết họ hàng, bạn bè và những người thân quen của mình.
 


9. Mừng tuổi

Ngày Tết, người Việt Nam có phong tục lì xì cho trẻ em. Phong bao lì xì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn, đoàn viên, mong ước hạnh phúc sẽ đến cho năm mới.
 
10. Tống cựu nghinh tân
Những ngày cuối năm, người Việt có phong tục quét dọn nhà cửa sạch sẽ, mua sắm đồ dùng, quần áo mới. Người lớn cũng dặn dò con cháu, trong giây phút chuyển giao sẽ không cãi cọ, không trách phạt hay mắc lỗi. Những người có hiềm khích với nhau cũng xí xóa hết, giây phút năm mới chỉ chúc tụng nhau những gì tốt lành và may mắn.

11. Xuất hành

Ngày mồng một đầu năm, người Việt Nam thường chọn giờ đẹp, hướng đẹp để xuất hành, hi vọng có năm mới may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà.

12. Thăm mộ tổ tiên.

Con cháu thường đi thăm mộ tổ tiên từ khoảng 23 đến 30 tháng chạp, sửa sang, dọn dẹp để bày tỏ lòng hiếu thảo và mời vong linh tổ tiên về với con cháu.

13. Khai bút

Ngày đầu xuân, trẻ em có tục khai bút, treo câu đối đỏ để cầu may mắn và hi vọng tốt lành sẽ đến trong năm mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam

Tướng mũi tổng quan xem bói qua tướng mũi

Xem tướng mũi là xem đầy đủ 4 yếu tố: Sơn căn - quản sự nghiệp; xem Sống mũi - quản tính cách; xem Chuẩn đầu - tiềm lực kinh tế; xem Cánh mũi - có giữ tiền được hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý thức của mỗi người về bản thân, thậm chí cả tính khí, cá tính riêng của mỗi người cũng đều được biểu hiện thông qua hình dạng và màu sắc qua tướng mũi. Trong Nhân tướng  học, mũi là cơ quan có vị trí rất quan trọng để nhận định và phán đoán về một người.

Mũi nằm ở vùng trung tâm của gương mặt, còn được gọi là "đỉnh của Ngũ nhạc". Ngũ nhạc" trên khuôn mặt của mỗi người, ngoài mũi là "đỉnh của Ngũ nhạc", còn có trán là "Bắc nhạc", gò má bên trái là "Đông nhạc", gò má bên phải là "Tây nhạc" và cằm là "Nam nhạc", sống mũi thẳng, thanh tú cho thấy vận thế càng về sau càng tốt và chắc chắn tương lai sẽ trở thành người có quyền thế, địa vị cao trong xã hội, được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý. Tài khố (kho của) tiên thiên của mỗi người được thể hiện ở phần mũi. Vì vậy, có thể nói rằng, hình dạng của mũi sẽ có ảnh huởng trực tiếp đến đời sống vật chất, kinh tế của mỗi người.

sơn căn là gì xem tướng mũi

1. Xem tướng mũi bàn về Sơn căn

Sơn căn là gì? Sơn căn là nơi khởi điểm của mũi, nằm ở giữa hai mắt và trên đường thẳng của sống mũi. Nếu bạn dùng ngón tay, đặt ở chính giữa trán, di chuyển theo đường thẳng đứng đi xuống. Ngay khi vào khu vực giữa 2 đôi mắt, bạn thấy ngón tay bị thụt xuống do đi vào chỗ lõm, di chuyển tiếp lại thấy ngón tay được đưa lên đi vào sống mũi. Chỗ lõm xuống vừa vặn với ngón tay đấy là vị trí của Sơn căn.

Cơ sở của sự nghiệp thường được biểu hiện rõ ràng trên sơn căn của mỗi người. Đồng thời, tình trạng sức khoẻ cũng được thể hiện qua bộ phận này.

Những người có Sơn căn lõm sâu xuống thường không có chí tiến thủ, lười nhác có thái độ tiêu cực trong mọi việc. Sức khoẻ của họ cũng không được tốt, dễ mắc liều bệnh tật. Họ cũng thường không có chủ kiến, chịu nhiều ảnh hưởng từ bạn bè người xung quanh nên thường xuyên bị "dắt mũi", bị lừa gạt hoặc thậm chí lầm đường lạc lối,  nên cần hết sức cố gắng, nỗ lực vươn lên, cố gắng nhiều sẽ gặt hái được nhiều và cũng phải nỗ lực trong thời gian tương đối dài mới có được thành tựu.

Ngược lại, những người có Sơn căn đầy đặn, nhô cao, không có nốt ruồi xấu sẹo, sẽ luôn có chủ kiến, có khả năng phán đoán tương đối tốt, có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp sẽ phát triển tốt. Có cơ sở vững chắc, ổn định, không gặp khó khăn về sức khoẻ nên chắc chắn sự nghiệp của họ cũng sẽ rất hanh thông, thuận lợi.

2. Xem tướng mũi bàn về Sống mũi

Sống mũi thẳng, không gồ ghề và có chiều dài phù hợp với gương mặt được coi là đẹp.

Những người có sống mũi thẳng thường rất lương thiện, trong sáng, hành vi đàng hoàng, quang minh chính đại, mọi người đều muốn được làm quen và kết bạn với họ nên họ sẽ có được những mối quan hệ tốt đẹp, thường có được bạn đời tốt đẹp, sự nghiệp và tài vận đều rất hanh thông, thuận lợi.

Ngược lại, những người có sống mũi lệch, vẹo hoặc gồ ghề thường có tâm địa, suy nghĩ thường không tốt đẹp, lúc nào cũng chỉ muốn tranh giành phần hơn với người khác. 

Độ dài của sống mũi cũng là một trong những căn cứ tham khảo quan trọng trong khi nhìn nhận về một con người.

Những người có sống mũi tương đối dài thường thiếu quyết đoán, làm việc hay chần chừ, do dự nên để lỡ nhiều cơ hội tốt. Lời khuyên dành cho họ là phải cố gắng sửa chữa khuyết điểm, cần tích cực, quyết đoán hơn nữa.

Ngược lại, những người có sống mũi ngắn lại thường hành xử thô lỗ, vụng về và hay nổi nóng, làm bất cứ việc gì cũng muốn hành động nhanh chóng, dùng nhiều tiểu xảo, dám mạo hiểm, khá kiên quyết theo ý kiến bản thân.

xem tướng mũi chuẩn đầu là gì

3.Xem tướng mũi bàn về Chuẩn đầu

Chuẩn đầu là gì? Chuẩn đầu chính là vị trí nhô cao lên rõ rệt nhất trên phần chóp mũi. Đây cũng là một trong những căn cứ tham khảo quan trọng nhất của mũi. Khả năng kinh tế của một người mạnh hay yếu thường được thể hiện qua chuẩn đầu. 

Chuẩn đầu nằm ở phẩn giữa chóp mũi. Những người có chuẩn đầu đẩy đặn thường rất coi trọng tình cảm, thích kết giao bạn bè. Ngoài ra, hình dạng của chuẩn đầu cũng đại diện cho tiểm năng kinh tế mạnh hay yếu. Những người có chuẩn đầu to sẽ có tiềm lực kinh tế tốt, biết cách đẩu tư tiền bạc để sinh lời nên sẽ thu được nhiều thành tựu lỏn, vận thế càng ngày càng tốt đẹp.

Chuẩn đầu to, không có sẹo hay nốt ruồi xấu cho thấy người này rất có tiềm lực về kinh tế. Bằng các kế hoạch đầu tư tài chính khôn ngoan, người này sẽ nhanh chóng tích lũy được nhiêu của cải, vận thế càng ngày càng tốt đẹp hơn.

Ngược lại, những người có chuẩn đầu lõm, bên trên có vết sẹo hoặc nốt ruồi xấu thường không có tiềm lực kinh tế mạnh, thường bị chi phối bởi cảm xúc. Họ dễ thay đổi, hay bị ảnh hưỏng bởi mọi người xung quanh, hay lãng phí tiền bạc một cách tự tiện, lại không biết cách đầu tư khôn ngoan nên sẽ phải "mang công mắc nợ" thậm chí dẫn đến phá sản.

Những người có chuẩn đầu đầy đặn thường rất coi trọng tình cảm, thích kết giao bạn bè và luôn trân trọng người khác, đặc biệt là bạn đời của mình. Họ củng chăm chỉ làm việc và chì kiếm tiền bằng những công việc đàng hoàng, trong sạch

Những người có chuẩn đầu nhọn, rủ xuống bên dưới hoặc khoằm lại như mỏ diều hâu thường có nhiều mưu sâu kế hiểm, luôn thích đấu đá hơn thua với người khác. Với dạng người này, tốt nhất nên tránh càng xa càng tốt, tốt nhất không nên giao du quá thân thiết với họ.

4. Xem tướng mũi bàn về Cánh mũi

Cánh mũi còn gọi là "thương khố", tượng trưng cho nơi cất giữ tiền tài của mỗi người.

Những người có cánh mũi dày và đây đặn thường sẽ không bao giờ phải lo  lắng về chuyện tiền bạc. Đối với họ, "tiền đi rồi sẽ quay trở lại" nên họ thường rất rộng rãi với bạn bè. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng "vung tay quá trán" mà cũng biết tiết kiệm những khi cần thiết.

Những người trên cánh mũi có vết sẹo hoặc nốt ruồi xấu thường rất sùng bái; đồng tiền và luôn thích theo đuổi những giá trị vật chất. Tuy nhiên, họ cũng thường bị bạn bè làm cho liên luỵ bởi những phiên toái không đáng có. Nếu hai cánh hếch lên, có thể nhìn thấy cả lỗ mũi thì những người này sẽ có tính tình vui vẻ.

Khoảng cách tốt nhất giữa hai đầu lông mày là bao nhiêu? Lấy bề rộng của đẩu ngón tay làm thước đo tiêu chuẩn. Khoảng cách tốt nhất giữa hai đầu lông mày là bằng độ rộng của một ngón tay rưỡi. Nếu khoảng cách này bằng hoặc lớn hơn bẽ rộng của hai đầu ngón tay là quá rộng, không tốt. 

cánh mũi trong xem tướng mũi

- Xem tướng mũi đẹp là mũi rộng, sống mũi dài, cánh mũi dày và đầy đặn, cho thấy tài vận vượng phát mạnh mẽ. Ngược lại, tướng mũi xấu bao gồm mũi nhọn, nhồ, sống mũi gầy, cánh mũi nhỏ, đều chủ về vận mệnh không tốt đẹp. 

- Mũi sư tử là dạng mũi có bể ngang rộng và hơi bẻ ra, đáy dặn. Những người có dạng mũi này sẽ rất thông minh, sáng dạ, cuộc sống giàu sang phú quý.

- Sống mũi tuy ngắn nhưng phần đầu mũi và cánh mũi lại bẻ ra rất to và đầy đặn. Những ngưòi có dạng mũi này khi về già sẽ có nhiểu tiền tài, của cải, được hưởng cuộc sống vui vẻ, sung túc. 

- Tướng mũi dài và rộng là người ý chí kiên cường. Những người có mũi dải và rộng thường có ỷ chí rất mạnh mẽ, kiôn cường. Họ cũng có nhiều khả nâng phi phàm trong nhiều lĩnh vực, được mọi người khâm phục, mến mộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mũi tổng quan xem bói qua tướng mũi

'Thầy' đặt tên, con phú quý?

Khi bé còn chưa chào đời, nhiều bậc cha mẹ đã 'săn' thầy để cậy nhờ tìm một cái tên phú quý, cát tường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc

Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, kêu, tránh thô tục, không trúc trắc. Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi.

Tên gọi phải có kiểu chữ đẹp, dễ viết, tạo nên chữ ký đẹp, chân phương.

Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hoà giữa họ và tên, ví dụ Bạch Như Băng khiến người ta có cảm giác trong trắng như băng.

Tên gọi phải có ngụ ý hay: điều quan trọng nhất của việc đặt tên là chọn chữ nghĩa sao cho hay và lịch sự. Vì thế phải căn cứ vào thẩm mỹ, chí hướng, và sở thích để chọn chữ nghĩa.

Điều kiêng kỵ khi đặt tên

Tốt nhất là không đặt tên dở tây dở ta như Mali Hồng Ngọc, Giôn Vũ Mạnh, Miki Lan Hương, Ana Hoài Thu v.v... khi con cái trưởng thành, nếu có dịp tên gọi được xuất hiện trên các báo chí, đài phát thanh truyền hình thì độc giả, thính giả sẽ phải đoán người đó là Tây hay ta.

Khi đặt tên không nên chạy theo thời cuộc chính trị, đặt tên gọi mang mầu sắc chính trị ví dụ trong chiến tranh giải phóng dân tộc có người đặt tên cho con là Giải Phóng, Phản Đế, Kháng Mỹ... hoặc là sau này lại đặt tên là Văn Cách, Hồng Vệ...

Khi đặt tên không nên dùng những từ cầu lợi, ví dụ Phú Quý, Kim Ngân làm cho người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.

Khi đặt tên không nên cuồng tín, nông cạn quá, ví dụ đặt tên là Vô Địch, Vĩnh Phát... Đặt tên gọi tuyệt đối quá, cực đoan quá sẽ làm cho người khác không có ấn tượng tốt.

Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt.

Theo Bách khoa tri thức

Trích từ nguồn: EVA.VN
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Thầy' đặt tên, con phú quý?
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd