10 bộ lạc là ẩn số với thế giới hiện đại (phần 1)
1. Bộ lạc Surma
![]() |
![]() |
![]() |
4. Bộ lạc Jackson Whites
![]() |
![]() |
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
1. Bộ lạc Surma
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Có câu: "Họa từ miệng mà ra" quả không sai. Có những người thông minh, nhanh trí nhưng do không điều khiển được lời nói hoặc do bản tính quá bộc trực, nghĩ gì nói nấy mà thường gặp trở ngại, thậm chí là nguy hiểm bởi những lời nói của chính mình. Văn hóa của người Việt cho rằng phải "uốn lưỡi bảy lần trước khi nói" ý chỉ lời ăn tiếng nói như bát nước, khi hắt đi rồi không thể lấy lại được. Phải suy nghĩ cẩn thận, trau truốt trong lời ăn tiếng nói. Thuật xem tướng đã tổng kết được một vài đặc điểm của những người như vậy:
Người có môi bên trái và phải không đều nhau, đặc biệt là phụ nữ rất dễ gây vạ rniệng, tư duy nhanh, thích trêu chọc người khác, thích bông đùa, cạnh khoé, việc gì cũng nhúng tay vào, thể hiện bản thân rất tài giỏi. Thực ra, những người này thường nói mà không suy nghĩ kỹ càng, hay nói lan man thiếu trọng tâm nên mất lòng mọi người. Ngoài ra, bản thân vốn không phải là người giỏi ăn nói, chỉ nghĩ gì nói nấy, nhiều khi không thể diễn đạt được ý thực sự của mình cho người khác hiểu. Hoặc cách nói bộc trực, dù có ý tốt nhưng trong những hoàn cảnh nhất định dễ làm tổn thương đối phương.

Những người có tai "đón gió" rất thích thú với những thông tin vỉa hè, có biệt tài rình rập và phát tán những thông tin về đời tư của người khác. Tai "đón gió" nhin thẳng cũng có thể thấy rõ đường nét của vành tài, vành tai loe ra hướng về phía trước, nhô cao khỏi đầu. Nếu có đôi tai "đón gió" lại thêm đường nét vành tai không rõ ràng, là người dễ xiêu lòng, dễ bị kích động, xúi bẩy.
Mũi ba khúc tức sống mũi nghiêng về bên phải rồi lại vẹo sang bên trái hoặc phải, tạo nên ba khúc rõ ràng.
Xem tướng phụ nữ có hình dạng mũi như vậy thì tính cách hay thay đổi, bất thường, lúc khóc lúc cười, dáng vẻ bất ổn. Người này làm việc không quyết đoán, thường là do dự không dứt khoát, không có chủ kiến, hay chơi xỏ người khác. Nghiêm trọng nhất là gặp khó khăn thì đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, không bao giờ tự nhìn lại bản thân. Đồng thời không chịu nghe người khác góp ý, rất cố chấp, thậm còn nghi ngờ người khác ám hại mình.
Các nhà Nhân tướng học cho rằng, những người phụ nữ có nốt ruồi trên thái dương thì có ham muốn tình dục cao, nếu nốt ruồi nằm tại thái dương bên trái thì nhu cầu tình dục càng cao hơn nữa, về cơ bản là rất khó tiết chế dục vọng của bản thân. Trong chuyện yêu đương sẽ chủ động với người đàn ông hơn.
Những phụ nữ cứng rắn rất ngoan cường, có chí khí mạnh mẽ, ở một mức độ nhất định nào đó thì những điểm này là tốt nhưng nếu quá cố chấp, cực đoan, có thể nổi nóng bất cứ lúc nào, gây ra tai hoạ lớn. Khi tuyển dụng nhân viên, vẫn có thể tuyển chọn những người như vậy, nhưng cần bố trí cho họ một vị trí thích hợp và sửa chữa dần thói cố chấp, cứng nhắc thì họ cũng có thể phát huy được sở trường của mình.
Lông mày đè lên mắt tức là khoảng cách giữa lông mày và mắt rất gần hoặc lông mày mọc rậm, trông giống như che khuất cả mắt.
Xem tướng người phụ nữ có lông mày như trên rất ghê gớm, có khuynh hướng tự hành hạ bản thân hoặc ngược đãi người khác, là một người nguy hiểm. Nguyên nhân là người này rất ngang ngược, luôn muốn tranh vị trí hàng đầu, nhưng bản thân lại không có năng lực nên không hề có khả năng thành công. Họ không có chủ kiến, là người nhu nhược ;khả năng chịu đựng kém, không dám đối diện với thất bại nên dễ có xu hướng tự hành hạ bản thân hoặc ngược đãi người khác để trút giận.
Gò má cao và nhọn tức là nhìn từ chính diện, hai bên gò má nổi hẳn lên, tại Tầm giác da mặt như bị kéo căng.
Nếu người phụ nữ có tướng này thì không tốt, họ thiếu nét dịu dàng, nữ tính không đem lại cảm giác muốn được che chở bảo vệ, mà rât cứng đầu, cô chấp, không biết cách cư xử khéo léo, rất thô lỗ. Bản thân họ luôn cảm thấy bi quan, thường tạo nên những kết cục xấu khiến tâm trạng luôn buồn phiền, làm ảnh hưởng đến người khác. Khi xảy ra vấn đề gì thì thường đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, sợ liên lụy đến bản thân nên vội vàng cắt đứt mọi quan hệ .
Giọng nói chói tai, chua ngoa biểu hiện ở chỗ nói rất nhanh, không có sự ngừng ngắt, giống như chim hót, khiến người nghe cảm thấy khó chịu. Đây rõ ràng không phải giọng nói hay. ở đây chúng tôi chỉ bàn về giọng nói của phụ nữ. Người phụ nữ giọng nói như vậy thường ngốc nghếch, kém hiểu biết, cố chấp, không có bản lĩnh. Khi gặp khó khăn thì không tìm cách giải quyết mà lại chỉ khóc lóc ầm ĩ, gây náo loạn, thậm chí còn chửi bới lung tung, khiến cho người khác rất khó chịu.
Người có tướng mắt hình tam giác là người rất có nhiều mưu tính trong đầu, bản thân khá cực đoan. Những sự việc nhỏ có thể bị họ xé ra to tát, lắm lục sẽ suy nghĩ tiêu cực thái quá mà dẫn đến những hành động làm người khác bị tổn thương.
Phụ nữ có tướng lông mày như vậy rất không tốt, về căn bản là người thích tranh giành không bao giờ chịu khuất phục, chuyện gì cũng có xu hướng cực đoan, dùng mọi cách để được phần hơn, luôn có cách nghĩ "được ăn cả ngã về không", khiến người khác rất khó chịu. Những người phụ nữ như vậy nếu số mệnh không tốt, bị ngược đãi lâu dài thì trong lòng sẽ nảy sinh ý nghĩ phản kháng, bất chấp tất cả để phá quấy thậm chí có thể dẫn đến những hành động cực đoan. Do vậy, khi tiếp xúc với những người này phải cẩn thận, nhất thiết không nên gây khó dễ cho cô ta bởi những người này không từ bất kỳ mưu tính nào. Không nên coi thường cô ta là phụ nữ mà không phòng bị.
Áp lực của cuộc sống, cộng thêm những vấn đề của cá nhân khiến cho ngày càng có nhiều người mắc chứng trầm cảm. Nguyên nhân thì có nhiều, hoặc là do gia đình nghèo khó mà phải mang gánh nặng mưu sinh, hoặc là gặp trắc trở trong chuyện tình cảm phải chịu cảnh cô đơn lẻ bóng; hoặc cũng có người chưa gặp thời vận, bi quan chán chường mà mắc bệnh trầm cảm. Họ thường làm ra vẻ cười nói vui tươi nhưng thật ra trong lòng chất chứa rất nhiều tâm sự. Những tâm sự ấy thể hiện ra thành những nếp nhăn trên mũi, khóe miệng.
Người phụ nữ có nếp nhăn ở khóe miệng là người thường xuyên dùng lý trí đi chê trách bản thân mà lâu ngày hình thành nên tướng diện này; Bởi người phụ nữ như vậy vốn rất kiên cường, rất sĩ diện, không muốn người khác thấy mình yếu đuối, trong lòng rất mềm yếu nhưng luôn tỏ ra là không có chuyện gì, dù có thất bại cũng vẫn như vậy, không hề để ý đến thái độ của người khác.
Cơ nhíu lông mày ở trên trán, vốn không phải sinh ra đã có mà là do làm việc cường độ cao, làm công việc căng thẳng đầu óc, làm công việc bàn giấy trong thời gian dài, cơ phần vai bị mệt mỏi quá độ gây ra.
Cơ nhíu lông mày của phụ nữ quá phát triển thể hiện phần cơ vai của người này thường xuyên bị đau nhức, tê cứng, nên chú ý giữ gìn sức khoẻ.
Đường chân tóc thấp, lẹm, tức khoảng cách giữa tóc và khuôn mặt rất gần, tóc che kín cả thái dương, đồng thời đôi chỗ mọc lẹm xuống trông không gọn gàng. Loại
Tướng phụ nữ vất vả buồn phiền không phải sinh ra đã có mà do thường xuyên lo nghĩ, tính toán mà vẫn ế tắc, không có cách giải quyết tạo thành.
Phụ nữ có nếp nhăn ở đuôi mắt thì tính cách phần lớn là không lạc quan, có nhiều chuyện phải lo toan; Để thoát khỏi số mệnh bất công của tạo hoá, có một cuộc íng tốt đẹp hơn đã phải lao động rất vất vả nên tạo thành tướng diện này.
Những người phụ nữ này thường buồn phiền về số mệnh vất vả nên không chỉ đuôi mắt mà cả khu vực xung quanh mắt, đặc biệt là ở giữa mũi và mắt đều xuất hiện nếp nhăn ngang. Cho nên, những người này nên suy nghĩ thoáng hơn, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sắc đẹp thì số mệnh càng xấu hơn nữa.
Chúng ta thường gọi nếp nhăn ở sống mũi là nếp nhăn "can trường thốn đoạn" dứt gan đứt ruột). Những nếp nhăn này thông thường không nhìn thấy rõ, chỉ có lúc cười mới thấy trên sống mũi xuất hiện các nếp nhăn nhỏ có hình chữ V hoặc nằm ngang.
Nếu những nếp nhăn này lộ rõ thì chứng tỏ người phụ nữ này rất thông minh tài giỏi, hành động nhanh nhẹn, làm việc rất xuất sắc, là tuýp phụ nữ mạnh mẽ.
Nếu những nếp nhăn mờ nhạt cho thấy người phụ nữ này rất dịu dàng. Đây một dạng phúc tướng, đem lại một vẻ dịu dàng hiền hậu, rất dễ thu hút nam giới. Nhưng do kiểu phụ nữ này quá mềm yếu, không biết bản thân muốn gì nên rất động, mù quáng, rất dễ xảy ra chuyện tình tay ba, tay tư. Do vậy, mẫu hình phụ nữ này trông có vẻ rất thông minh, sáng suốt nhưng thực ra lại thường khổ sở vì chuyện tình cảm, phải ở trong tâm trạng bế tắc, cô đơn nên trên mặt mới có nhiều nếp nhăn
Hướng dẫn trình tự lễ tại đình, đền chùa và miếu phủ như sau
– Theo lệ thường, người ta lễ thần Thổ địa, thủ Đền trước, gọi là lễ trình vì đó là lễ cáo Thần linh Thổ Địa nơi mình đến dâng lễ. Người thực hành tín ngưỡng cao lễ Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
– Sau đó người ta sửa sang lễ vật một lần nữa. Mỗi lễ đều được sắp bày ra các mâm và khay chuyên dùng vào việc cúng lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
– Kế đến là đặt lễ vào các ban. Khi dâng lễ phải kính cẩn dùng hai tay dâng lễ vật, đặt cẩn trọng lên bàn thờ. Cần đặt lễ vật lên ban chính trở ra ban ngoài cùng.
– Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban thì mới được thắp hương.
– Khi làm lễ, cần phải lễ từ ban thờ chính đến ban ngoài cùng. Thường lễ ban cuối cùng là ban thờ cô thờ cậu.
– Thắp từ trong ra ngoài
– Ban thờ chính của điện được đặt theo hàng dọc, ở gian giữa được thắp hương trước.
– Các ban thờ hai bên được thắp hương sau khi đã thắp xong hương ban chính ở gian giữa.
– Khi thắp hương cần dùng số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén. Thường thì 3 nén.
– Sau khi hương được châm lửa thì dùng hai tay dâng hương lên ngang trán, vái ba vái rồi dùng cả hai tay kính cẩn cắm hương vào bình trên ban thờ.
– Nếu có sớ tấu trình thì kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên một cái đĩa nhỏ, hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái 3 lần.
– Trước khi khấn thường có thỉnh chuông. Thỉnh ba hồi chuông. Thỉnh chuông xong thì mới khấn lễ.
– Khi tiến hành lễ dâng hương bạn có thể đọc văn khấn, sớ trình trước các ban, hoặc chỉ cần đặt văn khấn, sớ trình lên một cái đĩa nhỏ, rồi đặt vào mâm lễ dângcúng cũng được.
– Khi hoá vàng thì phải hoá văn khấn và sớ trước.
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền, vàng… (đồ mã) đem ra nơi hoá vàng để hoá. Khi hoá tiền, vàng… cần hoá từng lễ một, từ lễ cảu ban thờ chính cho tới cuối cùng là lễ tiền vàng… ở ban thờ Cô thờ cậu.
Hoá tiền vàng xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Hành: ThổLoại: Phúc TinhĐặc Tính: Khoan hòa, nhân hậu, đoan chính, phúc thiện, giải được tai nạn, hung nguy
Phụ tinh. Sao thứ 10 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Luôn đóng trong cùng một cung với sao Thiên Đức.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Mệnh
Tính Tình
thân hình giống hươu, phủ đầy vảy, lông đuôi dài, cuộn sóng, thần thái cực kỳ sinh động.
Hiện trên thị trường có rất nhiều loại kỳ lân với chủng loại phong phú, phong cách tạo hình đa dạng, được chế tạo từ nhiều nguyên liệu như đồng, sứ, ngọc, đá… và cũng mang những chức năng phong thuỷ khác nhau.

Tác dụng của kỳ lân
– Tránh tà, ngăn cản sát khí: Nếu cửa chính bị hành lang trực xung, phạm phải “xuyên tâm sát” hay “thương sát”, có thể dùng một đôi kỳ lân để hóa giải. Trong trường hợp hành lang khá ngắn, sát khí không quá mạnh, chỉ cần sử dụng một kỳ lân đơn. Nhưng nếu hành lang dài mà thẳng, tức sát khí mãnh liệt có thể dùng ba kỳ lân để hóa giải.
– Hóa giải Tam Sát: Phương vị của Tam Sát là khác nhau thùy theo năm hạn. Để hóa giải Tam Sát cần sử dụng ba kỳ lân (tốt nhất là kỳ lân đã được khai quang) đặt ở phương vị Tam Sát, đầu kỳ lân đặt quay về hướng Tam Sát.
– Cải vận, giảm nhẹ tai ương cho gia đình: Kỳ lân là loài vật đặc trưng cho cát tường, nếu đặt kỳ lân trong nhà sẽ có tác dụng trấn trạch trừ tà, tăng phúc lộc cho gia đình, không chỉ giúp gia chủ sự nghiệp hanh thông mà còn xoay chuyển tài vận. Ngoài ra, kỳ lân còn giúp được gia chủ tránh được khí độc gây vận xấu. Kỳ lân dùng trong mục đích cải vận tốt nhất cần được khai quang thì mới phát huy công lực một cách trọn vẹn.
– Hóa giải bất lợi của Bạch Hổ: Đặt một đôi kỳ lân tại vị trí Bạch Hổ trong nhà ở, có thể hóa giải được tính hung của phương Bạch Hổ, bảo vệ người nhà bình yên. Đặc biệt, khi phương Bạch Hổ bị ống khói hoặc vật sắc nhọn xung phải thì kỳ lân đã qua khai quang có thể hóa giải rất hiệu nghiệm.
Ngoài ra, kỳ lân còn có khả năng hóa giải tà khí của các hung tinh trong vận hạn.
Kỳ lân tượng trưng cho sự tốt lành, có thể đặt ở bất kỳ phương nào trong nhà. Kỳ lân đã qua khai quang có khả năng trấn trạch, trừ tà, tăng gia phúc lộc. Kỳ lân lại được tạo hình tinh xảo, có tính thẩm mỹ cao, sẽ là món quà rất ý nghĩa để mừng nhà mới.
![]() |
![]() |
| ► Xem tử vi hàng ngày của bạn cập nhật mới nhất |
Chùa Tản Viên có tên hiệu đầy đủ là “Tản Viên Sơn Quốc Tự“, Đây là một ngôi chùa cổ có từ ngàn xưa. Chùa Tản Viên Sơn tọa lạc trên một vị thế rất đẹp trên núi Ba Vì – Hà Nội gồm nhiều các công trình kiến trúc với các chức năng khác nhau tạo thành một chỉnh thể Phật giáo khá hoàn chỉnh đáp ứng nhu cầu hành lễ của nhân dân khi tìm về cõi tĩnh tại, phật pháp.
Lịch Sử: Trước kia chùa chỉ là một am nhỏ được nhân dân dựng lên để thờ Phật. Dưới thời nhà Lý, ngôi chùa đã được nâng cấp cùng với quần thể di tích Đền Trung, Nhưng sang thời Hậu Lê, ngôi chùa đã xuống cấp và trở thành một phế tích, qua thời nhà Nguyễn cuối thế kỷ 17, ngôi chùa lại được nhân dân chuyển về khu đất mới trước cửa đền Trung. Tới năm 1997, được sự đồng ý của các cấp chính quyền địa phương, phật tử Vương Thị Nhật đã phát tâm kêu gọi công đức để tu sửa lại.
Ngày 2 tháng 6 năm Mậu tý, tức ngày 4 tháng 7 năm 2008 nhà chùa và nhân dân đã làm lễ khởi công – động thổ chuyển ngôi chùa mới trước cửa Đền Trung về vị trí cũ như hiện nay.
Kiến Trúc: Chùa Tản Viên Sơn có kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”; có Tả Vu, Hữu Vu, Tiền Phật, Hậu Tổ, cuối Tăng Đường… và khu Nội Viện, vừa đáp ứng nhu cầu tu học, vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, chắc chắn ngôi chùa sẽ trở thành một “Đại Danh Thắng” không chỉ ở trong nước mà còn mang tầm cỡ Quốc Tế trong tương lai.
Ngôi Đại Hùng Bảo Điện có diện tích 500m2, được xây dựng theo lối kiến trúc “Cổ – Kim kết hợp” chùa được xây cao, thoáng đãng. Bên trong chùa được bày trí 3 pho tượng lớn. Ngự chính điện là Tôn tượng Đức Phật Thích Ca cao 7,88m, đây là Tôn tượng bằng gỗ mít lớn nhất đông nam á hiện nay. Bên tả chính điện là Tôn tượng Bồ Tát Phổ Hiền. Bên hữu chính điện là Tôn tượng Bồ Tát Văn Thù. Cả hai pho tượng này đều được tạc bằng gỗ mít và có chiều cao 3,5m. Hai bên tả và hữu phía trước chùa là Tháp Chuông và Tháp Trống. Lối bài trí, thờ tự như vậy càng làm tôn thêm vẻ uy nghiêm, tráng lệ của ngôi chùa.
Phía trước chính điện là Động Quan Âm thiên tạo. Tương truyền nơi đây chính là nơi mà Bồ Tát Quan Âm đã tu hành và truyền đạo cho Tam vị tối linh thần Tản Viên Sơn Thánh. Phía sau chính điện là hòn non bộ với hình Thần Kim Quy hai đầu bái Phật cầu kinh, một công trình rất đáng để thưởng lãm. Phía sau hòn non bộ là nhà thờ Tổ, Tịnh thất, Trai đường, Nhà trù, Vườn Lâm tỳ ni, Tuyết sơn khổ hạnh lâm, Vườn lộc uyển, Rừng Sa la Song Thọ … tổng diện tích khoảng 1000m2.
Với tổng diện tích quy hoạch khoảng trên 20.000m2 phần kinh phí để kiến thiết, xây dựng là rất lớn, chùa Tản Viên sẽ sớm trở thành một “Đại Tùng Lâm Tu Viện” trong nay mai; là nơi phục vụ tín ngưỡng, nghiên cứu, học tập, tu hành chính pháp cho các tín đồ Phật tử và nhân dân…!
Theo đuổi con gái là một loại nghệ thuật, một bộ môn mà bất cứ chàng trai nào cũng cần phải học tập, tích lũy kinh nghiệm. Từ hai người xa lạ, để trở nên thân quen là rất nhiều nỗ lực, rất nhiều thời gian, còn phải có một chút kĩ xảo nữa. Cùng xem cách tán gái của 12 chòm sao có điểm gì nổi bật, đáng để khen ngợi không nào.
![]() |
Bạch Dương nam là điển hình của chàng trai cá tính mạnh, tùy hứng và cố chấp, dễ rơi vào tình yêu mù quáng. Tuy bên ngoài thành thục nhưng bên trong rất ngây thơ, không hiểu làm thế nào để cô gái vui vẻ, cũng không tính là cao thủ tình trường gì. Phương thức theo đuổi bạn gái của chòm sao nam này rất trực tiếp, rất đơn giản, có bao nhiêu ưu thế bày hết ra bấy nhiêu.
Chàng trai như ánh mặt trời ấm áp sẽ hàng ngày đón cô bạn mà mình thích đi học, mua đồ ăn sáng cho cô ấy, mời cô ấy đi xem trận bóng rổ mà mình thi đấu, có đôi lúc làm cô ấy giận, cô ấy tổn thương thì vụng về dỗ dành. Chân thành và rất nồng nhiệt, những cậu trai Bạch Dương yêu rất dễ thương.
Xem thêm bài viết Đo độ trăng hoa của 12 chòm sao nam
Cách tán gái của 12 chòm sao không ai giống ai, Kim Ngưu là điển hình của tuýp người trầm tĩnh, không thích ồn ào mà theo đuổi người ta. Thích một người là nói lời dịu dàng, quan tâm từng chút một, chăm sóc thật tốt, hàng ngày âm thầm bên cạnh chứ chẳng cần đao to búa lớn hay hô hào, tỏ tình hoành tráng.
Đối với Kim Ngưu, tấm chân tình là quan trọng nhất, nếu đối xử tốt với cô ấy sẽ có ngày lòng mình được đền đáp, hai người tự dưng sẽ ở bên nhau. Nhưng cậu trai ngốc nghếch ơi, ngộ nhỡ cô ấy cũng thẹn thùng như cậu thì ai sẽ là người mở lời trước đây, để lỡ nhau có phải là quá đáng tiếc rồi không.
Chàng trai này thích nhất là rong chơi, có nhiều ý tưởng hay ho nên cô gái nào ở bên cạnh họ sẽ đều cảm nhận được sự mới mẻ, thú vị, cuộc sống không bao giờ nhàm chán, không bao giờ lặp lại. Hết xem phim, xem ca nhạc lại đến đi du lịch, thích đi đâu là đi đó, nhưng lại không trực tiếp xác nhận mối quan hệ.
Giữa hai người tồn tại cảm giác “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, tưởng yêu mà chưa phải yêu, rung động ngọt ngào, không nói thẳng cũng chẳng buông tay. Kiểu quan hệ này khiến con gái mê muội nhưng cũng rất dễ làm chết lòng, cô ấy bỏ đi, chàng trai đào hoa Song Tử đành ngậm ngùi.
![]() |
Nếu chàng trai Cự Giải yêu một cô gái thì cách thức tiến công của họ cũng khá ôn hòa, thường là tìm người đó tán gẫu, cùng làm bạn bè, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống, dần dần sẽ chiếm cứ một góc nhỏ trong trái tim, trong tâm hồn người mà mình để ý.
Đến thời điểm Cự Giải thực sự chắc chắn rằng cô ấy sẽ không cự tuyệt, không từ chối thì tỏ tình, đương nhiên trở thành tình nhân. Cảm tình tốt, hài hòa, có những chuyện thuận theo tự nhiên như nước chảy thành sông, không cần phô trương nhưng hết sức ngọt ngào.
Mặc dù nói trong 12 cung hoàng đạo, Sư Tử nổi tiếng kiêu ngạo nhưng một khi đã thích cô gái nào đó thì họ sẽ cực kì nghiêm túc, dốc sức theo đuổi, trở thành siêu nhân của cô ấy. Công to việc lớn, bất kể khi nào cô ấy cần đều có bạn ở bên, che chở bảo vệ để cô ấy sống thật thoải mái, thật vui vẻ.
Ở bên ngoài hống hách bao nhiêu ở trước mặt người con gái mình yêu Sư Tử chỉ giống như chàng trai si tình, chiều chuộng bạn gái. Cô gái nào mà không xiêu lòng trước tấm chân tình của chàng, muốn trở thành công chúa trong lòng chàng mãi mãi cơ chứ.
Xem thêm bài viết Bật mí bí quyết trói chặt trái tim chàng trai Sư Tử
Cách tán gái của 12 chòm sao chung quy lại đều xuất phát từ tấm lòng, chàng trai Xử Nữ cũng không ngoại lệ. Chàng quan tâm, theo dõi tới cô ấy một cách tỉ mỉm, phỏng đoán tâm lý, lâu lâu gửi tin nhắn, gửi thư tình, thậm chí gửi cả ảnh của mình cho cô nàng cảm giác được sự tồn tại của chàng.
Mà lòng kiên trì của Xử Nữ thì đúng là thiên hạ vô địch, không ai sánh bằng. Buổi tối về muộn có chàng đi sau bảo vệ, ngày mưa có chàng che ô khỏi ướt, ngày nắng có chàng mang nước mang khăn. Chân thành như vậy, chu đáo như vậy làm sao mà ai nỡ từ chối chàng trai Xử Nữ cơ chứ.
![]() |
Thiên Bình khá hiền lành và thuận theo tự nhiên, phong cách chính trực,bình dị gần gũi, theo đuổi con gái cũng rất đơn giản, không màu mè, không khoa trương. Sức hấp dẫn của chàng ấy vốn đã rất mạnh rồi nên chỉ cần nở nụ cười dịu dàng ấm áp thì nắm chắc phần thắng trong tay.
Thiên Bình biết lắng nghe, thường là chỗ dựa vững chắc về tình cảm mà cô gái có thể tìm đến bất cứ lúc nào. Có khó khăn khúc mắc gì cứ tìm đến chàng ấy mà nghe lời khuyên. Một ưu điểm nữa của chòm sao nam này là rất tận tình, mong muốn mỗi cuộc hẹn hò đều thập toàn thập mĩ để bạn gái được vui.
Chòm sao Hổ Cáp trước sau như một, nổi bật trong cách tán gái của 12 chòm sao. Người ta muốn lấy lòng nữ sinh thì dịu dàng ân cần, chàng này lạnh lùng kiêu ngạo, thần thần bí bí, nhưng như thế lại làm cô gái tò mò, càng muốn tiếp cận, càng muốn tìm hiểu sâu hơn.
Anh chàng này chọn cách lắng nghe mọi tâm tư tình cảm, mọi khó khăn sóng gió và an ủi người ấy bằng sự chính xác, tỉ mỉ, giải quyết tình huống chuẩn xác. Vì thế, tình cảm lớn dần lên, không lời hoa mĩ nhưng lại vô cùng chắc chắn, cảm thấy cần có nhau ở cạnh bên.
Chòm sao là cao thủ tình trường như Nhân Mã thì phương thức tán gái nhiều không đếm hết. Với mỗi đối tượng khác nhau họ lại chọn cách thức phù hợp, có lúc tỉ mỉ như Xử Nữ, khi thì nhiệt tình giống Bạch Dương, lúc lại ân cần như Cự Giải, cũng có cả sự tinh tế của Thiên Bình.
Biết dùng lời ngon tiếng ngọt, biết dùng quà tặng lấy lòng lại có chí khí nam nhi, thế thì tán ai chẳng đổ, vô tình ngang qua cũng có nữ sinh chết mê chết mệt ấy chứ. Chính vì vậy mà Mã Mã chẳng bao giờ thiếu bạn gái, càng chẳng bao giờ mất thời gian si mê ai quá lâu.
Ma Kết là chòm sao cao cao tại thượng như kẻ thống trị, muốn người ấy theo đuổi cầu xin người khác thật không dễ. Họ thường quy hoạch mọi chuyện rất rõ ràng, mọi chuyện đều được sắp xếp cụ thể, bao gồm cả chuyện có người yêu, theo đuổi bạn gái, tỏ tình, tán tỉnh.
Tất nhiên Kết Kết cũng có thuer đoạn riêng, cũng chẳng phải quang minh chính đại lắm nhưng lại rất hiệu quả. Ví dụ như, thuê người giả làm côn đồ trêu ghẹo nữ sinh còn mình thì xông ra làm anh hùng xứu mỹ nhân chẳng hạn, đúng là tài năng có hạn nhưng thủ đoạn thì vô biên.
![]() |
Chòm sao Bảo Bình nếu như thích một người, sẽ cùng cô ấy tán gẫu, sau đó chậm rãi đi vào thế giới nội tâm, chăm lo từng chút từng chút một. Chủ cần cô ấy có chuyện gì bạn cũng có thể gánh vác, làm cô ấy bớt lo lắng, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lúc tán tỉnh Bảo bảo đặc biệt lãng mạn, đặc biệt si tình.
Người ta chỉ cần liếc nhìn một cái thôi cũng đủ làm chàng ấy vui vẻ suốt cả ngày, trong lòng chỉ có một người, lẳng lặng trả giá, yên tĩnh hưởng thụ cảm giác tương tư. Nhất định cô gái nào thông minh cũng đều nhận ra tâm ý của Bảo Bình và hồi đáp lại.
Xem thêm bài viết Mặt tối trong tính cách của Bảo Bình dần lộ nguyên hình
Chòm sao Song Ngư có điểm thần bí, thay đổi thất thường, cá tính ôn nhu yên tĩnh, không thích nói chuyện, tình cảm phong phú. Họ trông có dáng vẻ ngây thơ nhưng lại rất biết cách nắm bắt tâm lý của con gái, tinh tế và săn sóc. Trời lạnh đưa khăn quàng cổ, tới bữa mang đồ ăn đến, từng chi tiết nhỏ đều không bỏ sót.
Vừa lãng mạn vừa thực tế, Song Ngư khiến đối phương quen thuộc với sự xuất hiện của mình, lặng lẽ bao phủ sự ấm áp, tinh tế lên cuộc sống của cô ấy để người đó không cách nào thoát ra được, tự nguyện đắm chìm trong tình yêu dịu dàng của chàng.
Thái Vân
![]() |
Xem tử vi tháng 6 âm lịch, tháng Ất Mùi, người tuổi Thìn gặp vận trình bán hung bán cát, hung tinh không có cát tinh không nhiều, chủ vận trình đều liên quan tới Tỷ Kiên sát thần.
Thìn Thổ tương hình Mùi Thổ, nhiều vận không cát lợi. Chính Quan cầm Thiên Ấn ngự ngay đường quan lộc, sự nghiệp có nhiều biến chuyển hi vọng. Thái Tuế Bính Thân giá lâm, mang theo Hồng Loan tinh phò tá, người độc thân tuổi Thìn có quyền nghĩ tới tương lai tươi sáng.
Có điềm bất hòa với người già và trẻ nhỏ, ra đường tránh cự cãi với người lớn, về nhà nên kiềm chế bực dọc với con cái. Ngoài ra, tháng có vận trình cạnh tranh mạnh, hai Thổ song hành phá ra Tài Lộc nhưng chi tiêu cũng không kém phần “long trọng”. Vận tài lộc, người tuổi Thìn nên lấy thủ làm trọng. Sức khỏe có Quan Phù, Bạch Hổ tiềm tàng người này nên thường xuyên kiểm tra định kỳ, luyện tập đề phòng bạo bệnh.
![]() |
Bước vào tháng Ất Mùi, Thổ khí cực vượng tinh thần bạn trở nên yếu hơn bình thường. Làm việc thường xuyên suy tư, nghĩ ngợi việc nọ lấn sang việc kia nên công việc bị trì trệ.
Người tuổi Thìn, theo như quan niệm cổ xưa rồng tượng trưng cho hoàng đế và nam tính, nó đại diện cho quyền lực, vì vậy những người xuất thân từ địa chi này đều mang vận mệnh của tính chất trên. Họ thích luyện tập khổ ải, chiến đấu đơn độc, mong muốn được gánh vác những trọng trách lớn lao. Vậy nên với vận mệnh Ất Mộc lâm Quan Đới tại Thìn, nếu người tuổi Thìn biết cách khắc phục cảm xúc, duy trì tinh thần cầu tiến, biết cách tìm niềm vui trong công việc thì mọi khó khăn đều dễ dàng vượt qua.
Vận trình Thiên Ấn phò trợ Chính Quan nên trong tháng bạn có điềm báo được cất nhắc trong vị trí hoặc vai trò làm việc, sự nghiệp phát triển đầy hi vọng. Quan Đới xuất hiện tại Thìn nên lòng tự tôn của người này quá mạnh mẽ, luôn ủng hộ người khác nhưng lại không chịu để người khác ủng hộ mình nên sẽ dễ dàng chuốc phải thù địch, cần cẩn thận.
| |
| |
Vận trình tài lộc của người tuổi Thìn không được ổn định trong tháng này, quan hệ Thìn Thổ Mùi Thổ song hành, cạnh tranh. Tỷ Kiên nghi kỵ, chuyện kiếm tiền không dễ dàng, có khi còn phải “chia chác” với người khác.
Dù không có hung tinh phá tài khố, nhưng chi tiêu của bạn cũng vượt ngưỡng cho phép. Thổ khí vượng, tính tình hay than vãn khiến đồng nghiệp xung quanh chán ghét, vận trình nhân duyên đi xuống, vận tài lộc vì vậy cũng vạ lây đó.
Quan Đới đại vận thời xưa ngụ ý một đứa trẻ đã trưởng thành, có thể bước đi trên đôi chân mình. Người trẻ tuổi Thìn cần tự mình học cách chi tiêu đồng tiền, không nên dựa dẫm vào bố mẹ. Đại vận cho thấy đã đến lúc bạn đi trên đôi chân của mình. Người có gia đình thì nắm chắc chút tiền tiết kiệm trong tay, sẽ có lúc cần dùng cho sức khỏe.
![]() |
Người tuổi Thìn có tình cảm bột phát như ngọn lửa, nhưng không thể nói họ lợi dụng tình cảm mà chỉ là sự lãng mạn nhạy cảm trong tình yêu mà thôi. Tháng Thổ vượng, người này hay oán trách vô cớ, nhưng khi tức giận thì lại cố chấp, không chịu cảm thông cho người còn lại. Nửa kia nên thấu hiểu cho họ vì thâm tâm họ cũng đang mong mỏi sự tha thứ từ bạn.
Bản mệnh Nữ thì mang tính khí khái của nam nhân họ dễ dàng “sai bảo” chồng mình, đôi khi khiến người chồng khó chịu. Tuy vậy, bản mệnh nữ tuổi Thìn lại rất biết cách chăm sóc gia đình nên sẽ kéo lại được tình cảm của người còn lại.
Năm Bính Thân gặp Mùi Thổ Hồng Loan tinh bay vào cung mệnh, vận đào hoa phơi phới. Người tuổi Thìn độc thân sẽ có lợi hơn, nhân duyên đa dạng, nhiều sự lựa chọn. Người có gia đình thì cảm xúc dễ lay động, tránh “say nắng” người khác bạn nhé.
![]() |
Người tuổi Thìn trong tháng Ất Mùi gặp phải Quan Phù gây rối, sức khỏe chịu ảnh hưởng nhiều. Vì quan hệ với trưởng bối hay vãn bối không được xử lý ổn thỏa nên thường xuyên xảy ra cãi cọ, tinh thần căng thẳng từ công ty về tới nhà.
Bạch Hổ Tinh gieo mầm tai họa, sức khỏe cha mẹ gặp bất lợi. Chuyện mâu thuẫn gia đình nào cũng có, nhưng tỏ thái độ gay gắt với cha mẹ chỉ khiến tinh thần trưởng bối đi xuống, quan hệ thân thuộc căng thẳng. Người tuổi Thìn cần điều chỉnh ngay suy nghĩ, lối hành xử thì mới mong gia trạch an khang.
Nhìn chung, vận trình người tuổi Thìn trong tháng Ất Mùi này hung cát chia nhau. Hành Thổ tự hình, tâm trạng người này bí bách, lại không thể giãi bày cùng ai nên tâm lý có mệt mỏi, chán chường. Đường Quan Lộ được Thiên Ấn hỗ trợ, nếu biết cách gạt bỏ mệt mỏi để chăm chút cho sự nghiệp thì vận thế thiên về cát.
Với những suy nghĩ mới mẻ, người tuổi Thìn có chiều hướng thăng hoa hơn trong công việc. Mặt tài lộc thì Tỷ Kiên nghi kỵ, những thành tích bạn đạt được lại dễ dàng phải phân chia với người khác. Người làm ăn nên xem kỹ các hợp đồng, quan hệ khách hàng, đàm phán sòng phẳng nếu không sẽ mất nhiều lợi ích tới cuối tháng.
| |
| |
| ► Xem bói năm 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
TỬ VI - BÓI DỊCH Arnold Schwarzenegger
(bài viết của Đằng Sơn)
Họ tên: Arnold Schwarzenegger
Ngày sinh: 07/30/1947 (Jul 30, 1947)
Giờ sinh: 04:10 (04:10 AM) MEDT(-1:00)
Nơi sinh: Graz, Austria
TỬ VI: YẾU TỐ PHÚC ĐỨC GIÚP
ARNOLD THẮNG CỬ THỐNG ĐỐC
Tân thống đốc California: Arnold Schwarzenegger!
Trong bài trước "người của thời điểm Arnold Schwarzenegger" đọan cuối nguyên văn như sau:
"Ông Arnold hiện ở trong đại hạn 52-61, vào cung Sửu ở vị Tang Môn xung Thái Tuế là bất lợi, chính tinh thủ đại hạn là Thiên Tướng yếu đuối may được phù tá hết sức mạnh mẽ nhờ tam hợp với cả hai cặp tả Hữu Xương Khúc. Cung Mùi đại diện đối thủ của ông thì hung hãn lắm vì có Tử Phá Long Phượng Hổ Cái Kình Hổ; nhưng Tử Vi thiếu Tả Hữu; Phá Quân cũng chẳng được Không Kiếp tiếp sức; nên rất có thể chỉ là một lọai cọp giấy mà thôi.
"Xét tiểu hạn của ông Arnold ta thấy Thiên Phủ gặp Đại Tiểu Hao; lẽ thường xấu lắm; nhưng Đại Tiểu Hao này đắc địa, ông Arnold lại tự bỏ 12 triệu Mỹ Kim tiền túi ra tranh cử là đã ứng rồi; nhờ đó hai cặp Tả Hữu Xương Khúc có cơ hội phát huy tốt đẹp.
Tóm lại, đây chỉ là cảnh tốt xấu lẫn lộn, sai một ly đi một dặm, khiến phúc đức trở thành yếu tố quyết định. Mệnh Arnold có Không Kiếp hội họp, nô bộc lại có Thiên Phúc đóng nên ông phải làm nhiều việc thiện mới đúng số trời..."
Nay bầu cử đã xong, không còn sợ lộ thiên cơ nữa, chúng ta có thể bình thản nhìn lại xem chiến thắng vĩ đại của tân thống đốc California Arnold trong kỳ bầu cử đặc biệt ngày 7 tháng 10 vừa qua xem có dính líu gì đến số mệnh, đặc biệt là cung nô bộc của ông hay không.
Binh Hình Tướng Ấn tham vọng cao vời.
Trước hết, có vài điểm mà người viết không dám đề ra trong số trước vì sợ phạm tội "lộ thiên cơ" là cung phúc đức (cũng là cung thân) của ông Arnold vô chính diệu có Hỏa Tinh độc thủ, hợp có hai Kỵ (hóa Kỵ của Cự Môn và tự Kỵ của Thái Dương), thêm Hóa Quyền xung chiếu nên hiển nhiên là người có tham vọng lớn. Thêm phúc (tức cung thân) và tài đều có Binh Hình Tứơng Ấn, rất hợp cho việc nắm quyền hành chánh.
Quan lộc ở Tuất thì có Thái Âm miếu thủ, xung chiếu là Thái dương miếu chính là cảnh Nhật Nguyệt tịnh minh; lại hội đủ tứ hóa (Lộc và tự Khoa ở quan, Quyền ở tài, tự Quyền và Khoa ở mệnh, tự Kỵ ở thê). Đó là chưa kể cách Song Lộc (hóa Lộc ở quan, Lộc Tồn ở mệnh), hợp với Hình Tướng Ấn Hồng Hỉ, thật là tốt không thể nói.
Đặc biệt cung thê có Thái Dương tự Kỵ thay vì xấu lại là yếu tố cứu giải bất ngờ vì có Thanh Long cùng cung và Lưu Hà chiếu qua thành cách Thanh Long Lưu Hà Hóa Kỵ; ví như con rồng vẫy vùng ở sông lớn, có sá gì vài trở ngại nhỏ nhoi. Thảo nào khi lời buộc tội ông Arnold sách nhiễu phái nữ vừa lộ ra, bà Maria Shriver tức thì lên tiếng cứu giải cho chồng. Người ta bảo bà là "vũ khí bí mật" trong cuộc chạy đua đến dinh thống đốc của ông Arnold. Không có gì đáng ngạc nhiên là ông Arnold cám ơn vợ mình đầu tiên trong bài diễn văn chiến thắng đêm 7 tháng 10 vừa qua.
Vẫn còn câu hỏi là có đến 10 ngàn người trên thế giới cùng lá số với ông Arnold, tại sao đời của riêng ông lại may mắn ngọai hạn thế?
Thiên Phúc cư nô, thiện tâm hữu phúc!
Thứ năm ngày 2 tháng 10, chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử đặc biệt, trong khi thanh thế của Arnold Schwarzenegger đang lên, bất ngờ báo Los Angeles Times tung ra tin là ông đã sách nhiễu 6 phụ nữ, kể cả sách nhiễu tình dục. Vài ngày sau danh sách này tăng lên thành 15 phụ nữ. Lại có tin là ông Arnold từng coi Hitler là thần tượng. Với người khác, những lời đồn này có thể là ngọn lửa hung tàn, đốt rụi mọi hi vọng thắng cử. Thứ hai ngày 6 tháng 10, nhiều cơ quan truyền thông tin rằng những lời đồn này giúp thống đốc Gray Davis có cơ hội sống còn (không bị cử tri truất phế), và nếu ông Arnold có thắng đi nữa thì tỉ lệ cũng sẽ rất nhỏ.
Nhưng như kết quả ngày 7 tháng 10 vừa qua cho thấy, ông Arnold không những thắng, mà còn thắng với tỷ lệ áp đảo là 49% (so với người về nhì là phó thống đốc Cruz Bustamante 32%), và tổng số 3.74 triệu phiếu mà cử tri bầu cho ông vượt xa số phiếu đương kim thống đốc Gray Davis nhận được trong kỳ bầu cử năm 2002. Lạ lùng hơn nữa, ông được 43% cử tri phái nữ tín nhiệm; chứng tỏ là các bài báo buộc tội ông sách nhiễu phụ nữ chẳng những không hiệu quả, mà hình như còn tạo áp phê ngược.
Đành rằng bà Maria Shriver có tài miệng lưỡi, giỏi biện hộ cho chồng, nhưng bấy nhiêu chưa đủ giải thích cái chiến thắng hết sức huy hòang của ông Arnold. Muốn tìm nguyên nhân xa hơn ta lại phải trở về lá số tử vi của ông. Bị tố cáo sách nhiễu tình dục tức là bị họa dính đến cung nô bộc, ứng với việc cung này có sao Thiên Phúc trấn giữ. Thiên Phúc ở đâu, phương đó có thử thách và phải hi sinh chịu thiệt thì cái tốt đẹp của lá số mới thể hiện ra được.
Thật khó ngờ là một đại tài tử của các phim hung bạo như Arnold Schwarzenegger lại đã liên tục đóng góp rất nhiều cho xã hội trong các công tác từ thiện. Một thí dụ gần đây: Ông là người phát khởi và vận động đề nghị số 49 (proposition 49) đã được cử tri ở Cali thông qua trong kỳ bầu cử năm 2002. Đề nghị này tạo ngân quỹ tiểu bang cho các trường trung học đệ nhất cấp (middle school) để các học sinh có những sinh họat lành mạnh ý nghĩa sau giờ tan học thay vì kết bè tụ đảng.
Một thành tích đáng kể khác của ông là chương trình khuyến khích học hỏi và thể thao nhắm vào các học sinh nghèo trong các khu lao động của các thành phố. Chương trình này cung cấp phương tiện học hỏi và các chương trình thể thao để các em tranh đua trong bầu không khí hợp tác và cảm thông, giảm thiểu xác xuất đi lầm vào con đường tội lỗi. Arnold tham gia từ năm 1991 với vai trò một ủy viên trung ương rồi đóng vai lãnh đạo vài năm sau đó. Dưới sự điều động của ông, chương trình này đã thóat khỏi phạm vi một thành phố và trải rộng khắp tòan quốc, hiện phục vụ khỏang 250 ngàn học sinh nghèo.
Nhưng có lẽ cách hay nhất để ước lượng tầm đóng góp của Arnold Schwarzenegger vào các công tác từ thiện là liệt kê ra vài phần thưởng mà ông đã nhận được từ các tổ chức:
- Năm 1991 và 1997 ông được trung tâm Do Thái Simon Wiesenthal tặng giải "Lãnh đạo tòan quốc" (National Leadership Award) cho các đóng góp của ông vào việc nghiên cứu các cuộc tàn sát người Do Thái dưới thời Đức Quốc Xã.
- Năm 1997 ông nhận được giải "Người thiện nguyện của năm 19997" (Humanitarian of the Year) do ShoWest cấp.
- Năm 2000 ông được giải "phục vụ tuổi trẻ của Cha Flanagan" (Father Flanagan Service to Youth Award) do hội Boys and Girls Town cấp, ghi nhận những đóng góp của ông trong các chương trình thể thao đặc biệt cho các trẻ em giới lao động.
- Năm 2002 ông được giải "thiện nguyện Muhammad Ali" (Muhammad Ali Humanitarian Award).
Ngòai ra ông được cấp ba bằng tiến sĩ danh dự, trong đó hai bằng có tên là "Humane Letters" ghi nhận những đóng góp từ thiện của ông, do trường đại học Wisconsin và đại học Chapman (California) cấp.
Danh sách công dức của ông Arnold còn dài dằng dặc, nhưng bấy nhiêu đủ cho ta thấy rõ rằng ông đã sống rất đúng với đòi hỏi của sao Thiên Phúc ở nô bộc. Có thể ông đã sách nhiễu phụ nữ (vì đây cũng ứng với thử thách của sao Thiên Phúc ở nô), nhưng điểm quan trọng là vì "nhân vô thập tòan", tất cả mọi bài tóan của tử vi đều phải được giải bằng cách cân lường cái tốt và cái xấu. Hẳn nhiên cái tốt của ông Arnold đã trội vượt cái xấu (nếu có), nên có thể hiểu tại sao ông chiến thắng vẻ vang trong cảnh tranh tối tranh sáng của đại hạn 1997-2006 và tiểu hạn năm Quý Mùi rất yếu đuối này.
BÓI DỊCH: ĐẠI THẮNG 7-10 CỦA
ARNOLD SCHWARZENEGGER
Bói dịch là một thể hiện của cái lý "cùng tắc biến" của dịch lý. Nhiều độc giả sẽ cho rằng bói dịch là nhảm nhí không đáng tin. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của người viết, khi gặp chuyện quan trọng mà chúng ta rất quan tâm, lại không thể dùng suy luận để đóan trước kết quả, thì nếu thành tâm gieo quẻ sẽ thấy hết sức ứng nghiệm. Người viết khám phá ra những điều sau đây về bói dịch, xin chia sẻ với quý độc giả:
- Bói dịch chỉ linh nghiệm khi người gieo quẻ hết sức quan tâm đến việc muốn xem (bói chơi cho vui thường không linh nghiệm).
- Muốn tăng phần linh nghiệm người gieo quẻ phải không tiết lộ những kết quả có thể ảnh hưởng đến người khác (thiên cơ bất khả lậu), và không gieo quẻ để trục lợi cho mình (tham lam bất ứng).
- Khi bói dịch cho một cuộc tranh cử, người gieo quẻ phải biết là mình muốn đại diện người nào. Quẻ sẽ ứng với hòan cảnh của người đó.
Diễn trình các quẻ của tân thống đốc Arnold Schwarzenegger:
Bây giờ cuộc bầu cử đặc biệt ngày 7 tháng 10 của tiểu bang California đã là quá khứ, đương kim thống đốc Davis bay chức, Schwarzenegger thắng to và sẽ là thống đốc mới của California; người viết không còn sợ "lộ thiên cơ" nữa nên xin trình bày một số quẻ đã gieo trong những ngày cuối cùng nóng bỏng của cuộc tranh cử không tiền khóang hậu này.
Đêm chủ nhật 5 tháng 10 tình hình hết sức gay cấn. Nhiều cơ quan truyền thông cho rằng vì bị tố cáo sách nhiễu tình dục (Los Angeles Times, ngày 2 tháng 10), Arnold Schwarzenegger đã tuột dốc thảm hại trên bậc thang tín nhiệm của cử tri. Lúc 8:10 giờ tối, người viết gieo một quẻ dịch cho Arnold bằng phương pháp ba đồng tiền, kết quả là quẻ Thiên Trạch Lý (10 trong danh sách các quẻ), động hai hào 1 và 6 thành quẻ Trạch Thủy Khổn (47).
Quẻ Thiên Trạch Lý ý nghĩa là "Giẫm nhầm đuôi cọp. Cọp không cắn người. Hanh thông " nên có thể đóan là ông Arnold trong hòan cảnh nguy hiểm, nhưng sẽ thóat nạn. Tuy nhiên, vì quẻ biến Trạch Thủy Khổn (47) là cảnh hết sức xấu xa cho kẻ tầm thường và là cơ hội cho kẻ phi thường; xem lại hai hào biến là 1 và 6 của quẻ Lý thì thấy 1 không xấu, 6 tốt; phải tạm đóan là tình hình chưa mấy rõ rệt.
Sáng ngày thứ hai 6 tháng 10 tình hình càng nóng bỏng. Vài cơ quan truyền thông đặt câu hỏi trên mạng lưới "Arnold đang trượt té?". Người viết thắc mắc "Phải chăng ông Arnold quả thật đang tuột dốc thảm hại trên bậc thang tín nhiệm của cử tri?". Lúc 11 giờ gieo ra quẻ Lôi Địa Dự (16), không có hào nào biến.
Ý nghĩa nguyên thủy của quẻ Dự là "lợi kiên hầu, hành quân". Đây là cảnh vui mừng, mặc dù ngắn hạn; và rất phù hợp cho chuyện tranh đấu, nên phải đóan là tình hình đã biến chuyển thuận lợi cho ông Arnold. Có lẽ đa số cử tri không mấy tin vào những lời tố cáo là ông đã sách nhiễu phụ nữ và khâm phục Hitler.
Lúc 7 giờ đêm, sau khi nghe vài cơ sở truyền thông khăng khăng là vì xì căng đan của ông Arnold mà ông Gray Davis có cơ hội sống còn, người viết gieo một quẻ nữa cho ông Arnold, lại thấy là Thiên Trạch Lý, nhưng lần này không biến. Theo quẻ bèn đóan là ông Arnold vẫn trong hòan cảnh nguy hiểm, nhưng rồi sẽ được hanh thông (tức là ông Gray Davis khó sống còn).
Lúc 10 giờ sáng ngày thứ ba 7 tháng 10, tức ngày bầu cử; người viết gieo được quẻ Lôi Hỏa Phong (55) động hào 1 và 5, thành quẻ Trạch Sơn Hàm (31). Quẻ Phong ví như cảnh huy hòang của mặt trời giữa trưa hết sức tốt đẹp, hào 1 động có nghĩa "không lầm lỗi", hào 5 động thì tốt lắm, ứng với danh dự. Quẻ biến là Hàm (rung động theo hòan cảnh) cũng tốt quá, vì chứng tỏ là ông Arnold đã tình cờ hoặc cố ý cùng tần số với cử tri. Vì đây là ngày bầu cử, phải đóan là ông Arnold sẽ thắng vẻ vang.
Lúc 8:05 giờ đêm, ngay sau khi cuộc đầu phiếu chấm dứt, mở internet thấy CNN đã đóan ông Arnold đã thắng cử, người viết gieo một quẻ cuối, được quẻ Đại Thiên Thái (11), động hai hào 5 và 6 thành Phong Thiên Tiểu Súc (9).
Quẻ Thái thì là hết sức tốt đẹp nên phải đóan là ông Arnold đã thắng to. Quả nhiên đúng!
Quẻ Thái biến hào 5 thì tốt, nhưng hào 6 lại rất xấu; quẻ biến là Tiểu Súc có nghĩa thành quả khiêm nhượng; nên phải đóan là tối thiểu trong thời gian ngắn hạn, ông Arnold sẽ không làm được chuyện gì đáng kể. Nhưng sự thực đã ứng với diễn biến này rồi, vì ông Gray Davis hiện vẫn nắm quyền; phải cả tháng nữa mới tới phiên ông Arnold.
Những quẻ dịch này chính xác đến độ khiến người viết phải giật mình. Chỉ tiếc là không thể tiết lộ trước được. Nay xin ghi lại để giới nghiên cứu có thêm tài liệu tham khảo.
San Jose 10 tháng 10, 2003
Đằng Sơn
Có thể khẳng định rằng, tâm trạng, tính tình hoàn toàn có thể thay đổi tư thế đi của một người. Khi nhịp đi của người đó nhanh hơn bình thường, chúng ta có thể đoán rằng anh ta đang phấn khởi ; nếu một người đi lang thang thì nhất định anh ta đang bị cú sốc nào đó ; nếu một người đi hai vai rũ xuống, bước đi nặng nề thì khẳng đình trong lòng anh ta cũng đang nặng trĩu.
Vậy bước đi, nhịp đi hoặc tư thế đi cụ thể của một người trong giao tiếp thường ngày đại biểu cho những đặc trưng tính cách và hàm nghĩa tâm lý cụ thể gì ?
* Dáng đi chữ bát: Đi chữ bát tức là khi đi hai gót bàn chân hướng vào hai đầu bàn chân hướng ra thành hình chữ bát. Khi đi tuy dùng lực, nhưng tỏ ra rất vội vàng, nửa thân trên hay lắc sang trái sang phải. Dáng đi này có hàm nghĩa tâm lý và đặc trưng tính cách như sau:
- Tính cách bảo thủ: Nói chung dáng đi chữ bát không đẹp tí nào, nhưng vì họ đã quen đi như thế, điều đó chứng tỏ: trong cuộc sống dù phát sinh sự việc gì họ cũng có thái độ chấp nhận. Họ không dễ dàng thay đổi hành vi của mình.
- Không thích giao tiếp: Về điểm này, hiện nay vẫn chưa có một cách nói chuẩn xác, nhưng nhìn chung loại người này có đầu óc thông minh: làm việc khoa học mà không ồn ào. Có thể vì đầu óc thông minh nhưng tư thế đi không đẹp đã tạo cho họ thích kiểu đi lặng lẽ một mình này
* Dáng đi lắc đảo: Dáng đi lắc đảo tức là bước đi rất tuỳ tiện, nói chung không có quy luật cố định nào. Có lúc họ đút hai tay trong túi, hai vai rụt lại mà đi; có lúc đánh tay thoải mái, ưỡn ngực. Qua bước đi của loại người này ta có thể đoán biết được thế giới nội tâm của họ như sau:
- Tính cách hào phóng: Loại người này có tính cách giống như cách đi của họ, rất hào phóng, không câu nệ tiểu tiết. Xưa nay họ không vì những lời khen, chê của người khác mà thay đổi hành vi của mình. " Đi theo cách của mình, ai nói gì kệ họ" là qui tắc hành động của loại người này.
- Mong muốn cao xa: Người đi kiểu này nói chung rất thông minh. Họ có ý chí tạo dựng sự nghiệp, ước mong cao xa. Nhưng nhược điểm là có lúc quá đề cao vai trò của mình, vì thế mà hay tranh chấp, đặc biệt trong trường hợp họ có lý thì không dễ gì nhường nhịn người khác.
* Đi có tiếng dội: Đi có tiếng dội tức là chân đặt lên đất có tiếng kêu, khi đi ưỡn ngực, bước đi hơi nhanh. Người đi kiểu này có những hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:
- Giàu chí tiến thủ: Loại người này giàu chí tiến thủ. Tính cách giống như bước đi, cho người khác thấy rõ bản thân, họ thường không dấu giếm khuyết điểm của mình. Làm việc gì cũng đều coi trọng kết hợp giữa lý trí và tình cảm.
- Đầu óc tản mạn: Người đi kiểu này, có một số người tinh thần tản mạn. Tuy trong lòng ôm ấp chí lớn, nhưng không chủ động tiến thoái mà thường có thái độ "đã thế thì đành sống thế".
* Dáng đi thẳng: Dáng đi thẳng tức là khi đi chân và tay song song nhau, người không lắc đảo, gây cho người khác cảm giác họ có tác phong nho nhã. Người đi kiểu này có tính cách hướng nội điển hình. Nói chung loại người này nhút nhát, bảo thủ, thiếu ý chí rộng lớn. Điều đáng nói là gặp việc họ thường bình tĩnh, không dễ cáu giận. Cho nên họ giao tiếp tốt với người khác.
* Dáng xung phong: Thông qua tên gọi chúng ta cũng có thể tưởng tượng được dáng đi tiên phong là: bước chân nhanh, không lùi, cho dù chỗ chen chúc đông người hay chỗ yên tĩnh, vắng lặng. Loại người này khẳng định có tính cách nóng vội. Họ thẳng thắn, bộc bạch, thích giao kết bạn bè, ham nói chuyện, tuy nhiên tính cách nóng vội. Điều khiến người khác yên tâm là họ không làm sai lời hẹn.
* Dáng đi song song: Dáng đi song song tức là chân bước chậm, giống như sợ trước mặt có hố sâu bất ngờ. Loại người này tính cách khá nhu nhược. Khi gặp việc thường đo trước đắn sau. Nhưng loại người này có cái tốt là nặng về tình cảm, có thể chọn làm bạn.
* Dáng vừa đi vừa xem: Vừa đi vừa xem tức là dáng đi chậm chạp, thỉnh thoảng nhìn sang phải, ngó sang trái. Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:
- Không có chí lớn: Loại người này điển hình là không có chí lớn. Họ thích sống đơn độc. Đặc điểm nổi bật của họ là không thích giao tiếp bạn bè, hiệu suất công tác thấp.
- Ngưỡng mộ hư vinh: Trong cuộc sống hiện thực, loại người này thường hay ngưỡng mộ những điều xa xôi, không làm việc một cách chắc chắn, thực sự. Tuy họ có tính hiếu kỳ, nhưng đáng tiếc là không có tính kiên nhẫn, thiếu ý chí bền bỉ. Loại người này trong cuộc sống ít thành công.
* Đi treo chân: Đi treo chân tức là đi như nhảy, hầu như gót chân không chạm đất. Người đi kiểu này có đặc trưng hàm nghĩa tâm lý sau:
- Làm việc không chắc chắn: Tính cách loại người này giống như tư thế đi : trôi nổi, không có lực. Làm việc không chắc chắn. Tuy trong cuộc sống họ gặp được dịp tốt nhưng đều bỏ lỡ trong sự vội vàng, cập rập.
- Tính tình không ổn định: Loại người đi như thế thường là người rất thông minh, nhưng ý chí bạc nhược, tính tình không ổn định. Họ thường làm việc đầu voi đuôi chuột một cách không tự giác, vì vậy dễ mất tín nhiệm đối với người khác.
* Dáng đi lay người: Tư thế đi lay động, lắc lư như cây liễu gặp gió, trong mệnh tướng học cổ gọi là "rắn bò". Tư thế đi này có những đặc điểm tính cách sau.
- Hay giả vờ: Người đi như thế hay làm vẻ giả vờ. Họ làm việc nói chung không có tinh thần trách nhiệm.
- Độ tin cậy thấp: Người đi kiểu này phần nhiều gian trá. Cho dù là làm việc hay trong giao tiếp đều gây cho người khác cảm giác khó tin cậy. Làm bạn với loại người này phải rất cẩn thận, nếu không dễ bị thiệt
* Dáng đi lang thang: Dáng đi lang thang tức là bước đi thất thểu, lúc lên trước, lúc như lùi về sau. Loại người này thường là người sôi nổi. Đặc trưng tính cách của họ là ý chí bạc nhược, làm việc cẩu thả, vô ý. Tuy họ an phận giữ mình, nhưng cũng có quy tắc nhất định. Tuy tư tưởng đơn giản, nhưng làm việc cũng thường kín đáo.
* Dáng đi chắp tay sau lưng: Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý sau:
- Tính cách ôn hoà, hơi có thành tích: Loại người này trong sự nghiệp có những thành đạt nhất định. Nói chung tính cách của họ tương đối ôn hoà. Tư thế đi thể hiện lòng họ như cảm thấy tự mãn và thoải mái sau khi đã đạt được thành tích nào đó.
- Thích làm thầy người khác: Người đi theo tư thế này còn có ý thích làm thầy người khác. Vì dáng đi chắp tay sau lưng thường để lại cho người ta ấn tượng là người tự cao tự đại, loại người này quả thực đúng như thế.
* Dạng đi cúi đầu: Đi cúi đầu tức là khi đi đường đầu hơi cúi xuống, chân bước chậm. Người đi kiểu này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:
- Tính cách hướng nội: Loại người này tính cách hướng nội, ngoài đời thường không chủ động, cho nên ít bạn tri âm.
- Suy nghĩ sâu sắc: Loại người này suy nghĩ chu đáo. Tục ngữ có câu: "Ngửa mặt là bà già, cúi đầu là hảo hán", hảo hán đây chính là loại người này. Nói chung họ không muốn nhìn trực diện vào người khác và cũng không muốn người khác nhìn thấu tâm can mình, cho nên họ thường hay cúi đầu.
* Dáng đi vội vàng: Dáng đi vội vàng tức là khi đi đường chân bước vội vàng, bước chân nặng nhưng không loạn nhịp. Người đi như thế có đặc điểm tính cách cởi mở, bụng thẳng miệng nhanh, có tài nǎng lãnh đạo. Nhưng có lúc vì tính tùy tiện của mình mà làm tổn thương đến người khác.
* Dáng đi tự mãn: Dáng đi tự mãn tức là khi đi đường mặt hơi nâng lên, nhịp tay vung vẩy thoải mái, hai chân hơi cứng, bước đi thận trọng. Người có dáng đi như thế có đặc điểm tự cao tự đại điển hình. Dáng đi đó phản ánh chân thật thế giới nội tâm. Họ muốn thông qua cách đi đó để gây ấn tượng sâu sắc cho người khác.
* Dáng đi như vác nặng: Dáng đi như vác nặng có tư thế điển hình sau: hai vai hơi nhô lên, đầu hơi chúi về phía trước, mắt như nhìn xuống chân. Người đi đường như thế có các đặc điểm tính cách, tâm lý sau.
- Tự ý thức về mình sâu sắc: Loại người này tự ý thức mạnh mẽ. Nói chung họ ngưỡng mộ hư vinh. Ngoài đời họ quá tự tin, hay ǎn to nói lớn, dễ mắc lỗi nên thiếu bạn tri âm.
- Cô độc và đau khổ: Người đi đường với tư thế ấy vì không nhìn thẳng vào cuộc đời cho nên cũng không nhìn thẳng vào mình, thường rơi vào hoàn cảnh cô độc và đau khổ.
* Dáng đi còng lưng: Dáng đi còng lưng điển hình là nửa thân trên hơi hướng về phiá trước, để bảo đảm cho mắt nhìn được xa hơn thì phải ngẩng mặt lên. Người có kiểu đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:
- Không có lý tưởng cao xa: Loại người này nói chung không có lý tưởng rộng lớn, đối với tương lai cũng ít hy vọng, đối với chung quanh thiếu nhận thức tỉnh táo.
- Mơ màng, hồ đồ: Loại người này đối với mọi việc chung quanh thường có thái độ bi quan, thất vọng. Làm việc gì cũng không có kế hoạch chu đáo. Họ thường làm theo cảm tính, suốt ngày sống một cách hồ đồ.
* Đi từ từ chậm chạp: Dáng đi từ từ chậm chạp là tư thế đi : miệng hơi mở, hai tay buông thõng, tuy mắt nhìn phía trước nhưng nhãn thần bất định, tỏ ra rất mơ màng. Người đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau.
- Đù đờ như người nộm: Loại người này điển hình là đù đờ không có hồn. Họ thường để lại cho người khác ấn tượng không có sinh khí, thiếu sức sống, đối với mọi việc chung quanh thờ ơ, không quan tâm, đồng thời thiếu khả nǎng ứng phó khi gặp sự biến.
- Có sức mạnh tích tụ: Người đi đường như thế nội tâm tiềm tàng nǎng lượng tích tụ. Có lúc nguồn nǎng lượng này vì một nguyên nhân nào đó mà được giải phóng ra một cách bột phát mạnh mẽ. Nhưng điều không thể hiểu nổi là sau khi bột phát, họ lại trở về trạng thái ban đầu như chưa hề xảy ra việc gì
*Dáng đi điệu đài các: Dáng đi điệu đài các là tư thế đi : hai vai như nhô lên do thở mạnh, nửa thân trên dùng lực gưỡng gạo. Người có dáng đi như thế thường có các đặc điểm tính cách và hàm nghĩa tâm lý sau:
- Bụng dạ hẹp hòi: Khí chất của loại người này thường hẹp hòi, ý chí bạc nhược, muốn sống đơn độc.
- Hư trương thanh thế: Loại người này thường hy vọng dựa vào sức mạnh của người khác hay tập thể để thể hiện mình. Bản thân họ không có bản lĩnh gì đáng kể, nhưng lại muốn núp dưới bóng của người khác mạnh hơn để đạt được mục đích "sói mượn oai hùm".
* Dáng đi quay đầu lại: Điển hình của dáng đi quay đầu lại là lúc đi, không phải quên cái gì, cũng không phải chia tay với người thân, càng không phải như đang tìm một vật gì đó nhưng vẫn thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn. Người có kiểu đi này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:
- Lưu luyến quá khứ: Đặc trưng tính cách của loại người này là thường nhớ lại quá khứ. Vì họ luôn nhớ đến từng kỉ niệm xưa nên đi đường hay quay đầu lại.
- Tính cách cố chấp: Loại người này có tính cách cố chấp. Nói chung họ rất khó tiếp thu sự phê bình và chê trách của người khác.

7 bước là phá, 8 bước là nguy, 9 bước là thành, 10 bước là thu, 11 là khai, 12 bước là bế.
Những bước này cũng có cát, hung. Kiến là nguyên cát, trừ là minh đường, mãn là thiên hình, bình là quyển thiệt (cong lưỡi), định là kim quỷ (tủ bằng vàng), chấp là thiên đức, phá là xung sát, nguy là ngọc đường, thành là tam hợp, thu là tặc kiếp, khai là sinh khí, bế là tai họa. Trong đó kiến, mãn, bình, thu là đen; trừ, nguy, định, chấp là vàng; thành, khai đều có thể dùng được; bế, phá không tương đương.
Những bước này được vận dụng như thế nào? Nếu nhà rộng, không được phạm vào mãn, bình, thu, bế; nếu nhà dài, phải dựa vào trừ, định, chấp, khai; nếu số bước trong nhà hợp với trừ, định, chấp, nguy, khai, kiến thì là may mắn.
Những phân tích về kết cấu nhà chủ yếu nghiêng về nhà ở dân gian.
Đất xây nhà phải trước cao sau thấp, không được sau cao trước thấp; trước hẹp sau rộng là vừa phú vừa quý; trước rộng sau hẹp thì tiền tài ít. Đất có hình tam giác thì quý nhân và tiền tài đều không có. Đất mà bốn mặt đều thiếu hụt thì tuyệt đối không được ở, còn mảnh đất hình vuông thì là cát.
Những người có cằm chẻ có ý nghĩa gì, con gái có cằm chẻ thì làm sao? Theo nhân tướng học thì người hai cằm là người như thế nào? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giải đáp thắc mắc đó giúp bạn.

Xem thêm:
+ Tổng quan về tướng mũi của mỗi người
+ Mắt rồng, mắt phượng mày ngài là như thế nào?
+ Hình dáng đôi mắt nói gì về con người bạn.
+ Xem bói nốt ruồi ảnh hưởng đến tướng mệnh của bạnHiện nay, theo mốt cằm V-line thì cằm chẻ là xấu không giúp khuôn mặt thon gọn mà còn làm mất sự hài hòa. Tuy nhiên, với nhiều người lại quan niệm rằng cằm chẻ là đẹp, giữa vô vàn cô gái có cằm dài và nhọn thì những cô gái cằm chẻ vẫn có nét đẹp riêng của mình. Cằm chẻ đẹp là phải cân đối hài hòa với khuôn mặt, dáng cằm không quá thô cứng mà thon gọn tự nhiên. Cằm chẻ đẹp hay xấu còn phụ thuộc vào sự hài hòa của các bộ phận trên khuôn mặt. Có thể với người này là đẹp, những với thước đo thẩm mỹ của người khác lại là xấu.
Trong tướng số, cằm chẻ có ý nghĩa gì? Những người có cằm chẻ hay người hai cằm là những người nhiệt tình, phóng khoáng và có chí tiến thủ. Về mặt thẩm mỹ họ là người cuốn hút, nhân hậu và tôn lên nét nữ tính của bản thân.
Với những người con trai cằm chẻ thường khá đào hoa, thu hút được người khác giới. Ngoài ra họ cũng là người thích được chú ý, khá mạnh mẽ và thích được người khác khen ngợi hoặc đánh giá cao về bản thân.
Với con gái có cằm chẻ thường là người xinh đẹp và quyến rũ, nếu không bạn cũng rất thu hút được phái nam. Không những thế, với những cô gái có cằm chẻ còn thể hiện mình là một người vừa xinh đẹp lại vừa thông minh, sắc sảo.
Trên đây là những câu trả lời cho các thắc mắc, cằm chẻ có ý nghĩa gì, hay cằm chẻ đẹp hay xấu. Cùng như ý nghĩa về nhân tướng học của cằm chẻ ở con trai và con gái.
Tìm kiếm liên quan: người hai cằm , con gái có cằm chẻ, con trai cằm chẻ, cằm chẻ đẹp hay xấu, cằm chẻ có ý nghĩa gì
![]() |
| Bày trí phòng khách đón Tết |
Sinh hoạt dưỡng sinh
Vào tiết Tiểu Mãn nhiệt độ thường tăng cao, lượng mưa dần tăng, biên độ nhiệt trong ngày lớn. Để đối phó với sự thay đổi thời tiết này, theo phong thủy, sinh hoạt của gia chủ cũng nên thay đổi để phù hợp với thời tiết: ngủ sớm dậy sớm, hít thở không khí trong lành của ngày mới để nạp năng lượng làm việc trong ngày.
Tinh thần dưỡng sinh Sự thay đổi thời tiết khi vào tiết Tiểu Mãn luôn bất thường, điều này khiến nhiều người cảm thấy khó chịu. Khi gặp phải tình huống trên, gia chủ nên điều tiết cảm xúc, giữ tâm trạng thư thái nhằm tránh các bệnh liên quan đến cao huyết áp, đột quỵ. Gia chủ cũng có thể tham gia các hoạt động như: đi bộ, chơi cờ, đọc sách, câu cá, bái Phật, uống trà để thư giãn tinh thần, có ích cho hoạt động dưỡng sinh tinh thần.
Thực phẩm dưỡng sinh
Vạn vật đặc biệt sinh trưởng mạnh mẽ khi vào tiết Tiểu Mãn, đây cũng là lúc cơ thể con người đòi hỏi cần nạp nhiều chất dinh dưỡng. Nhiệt độ tăng lên nên mọi người nên tiêu dùng các thực phẩm thanh đạm, có tác dụng giải nhiệt như: bo bo, đậu xanh, bí đao, mướp, dưa chuột, rau cần, mã thầy, mộc nhĩ, ngó sen, cà rốt, cà chua, dưa hấu, củ từ, cá trích,…Ngoài ra, mọi người cũng nên tránh các thực phẩm nhiều dầu mỡ, gây nóng và các đồ uống lạnh.
Chi Nguyễn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
![]() |
Tuổi Tý
Tháng này tâm tư của người tuổi Tý khá vui vẻ, tình hình sức khỏe có sự cải thiện rõ rệt. Bạn nên chú ý chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý, giảm bớt những cuộc tụ tập ở các quán bar hay vũ trường, nếu không sức khỏe của bạn sẽ xuống cấp nghiêm trọng.
Màu sắc may mắn: màu Cam.
Hướng may mắn: hướng Tây.
Tuổi Sửu
Áp lực tinh thần tháng này khá lớn, bạn nên đi lại hoặc vận động nhiều hơn để tâm trạng thoải mái. Với những người cao tuổi thì việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là điều cần thiết và bắt buộc, giúp phát hiện sớm những bệnh liên quan đến sức khỏe.
Màu sắc may mắn: màu Tím.
Hướng may mắn: hướng Tây Bắc.
Tuổi Dần
Trải qua vài tháng mệt nhọc thì sức khỏe đã đến hồi kiệt quệ. Bạn nên chú ý nghỉ ngơi, vận động vừa sức, tập thể dục rèn luyện sức khỏe. Tuổi Dần cũng nên tìm cho mình liều thuốc phù hợp hơn.
Màu sắc may mắn: màu Đen.
Hướng may mắn: hướng Nam.
Tuổi Mão
Ba tháng bôn ba, bận rộn thì tháng này sức khỏe tuổi Mão lại thường xuyên xả ra vấn đề hơn. Cẩn thận đề phòng bệnh về dạ dày, đường thở… Khi đi du lịch, dã ngoại thì nên đề phòng bị ngã, chấn thương. Việc uống say thâu đêm sẽ khiến sức khỏe của bạn càng nghiêm trọng.
Màu sắc may mắn: màu Vàng.
Hướng may mắn: hướng Bắc.
Tuổi Thìn
Tháng này cần chú ý chế độ làm việc, nghỉ ngơi, thư giãn điều độ, đề phòng bệnh tật tích lũy trong thời gian dài mà bộc phát tức thì. Không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến vận khí khác của bạn nữa.
Màu sắc may mắn: màu Xanh nhạt.
Hướng may mắn: Đông Bắc.
Tuổi Tỵ
Tháng này sao Bệnh Phù lại xuất hiện lần nữa, năm nay lại trải qua quá nhiều biến cố nên thực sự là sức càn lực kiệt. Sức khỏe không được tốt lắm, cần đề phòng các bệnh truyền nhiễm. Đặc biệt chú ý vấn đề liên quan đến đường hô hấp, bệnh gân cốt hay cảm lạnh.
Màu sắc may mắn: Xanh da trời.
Hướng may mắn: Đông Bắc.
Tuổi Ngọ
Sức khỏe tháng này tương đối ổn, hãy duy trì chế độ ăn uống, nghỉ ngơi thường lệ. Cả tháng không xuất hiện vấn đề gì về sức khỏe. Nhưng cuối năm là lúc ăn uống, nhậu nhẹt khá nhiều nên cần chú ý đề phòng việc ăn uống quá độ.
Màu sắc may mắn: màu Xám.
Hướng may mắn: Tây Bắc.
Tuổi Mùi
Sức khỏe tháng này thất thường, lúc tốt lúc xấu. Chú ý vấn đề tâm tư cần tự mình điều chỉnh.Tháng này khi ra ngoài cần chú ý an toàn giao thông, đề phòng việc xảy ra ngoài ý muốn. Những người cao tuổi không nên đi một mình đến những nơi non cao bể rộng.
Màu sắc may mắn: mày Đen.
Hướng may mắn: hướng Tây.
Tuổi Thân
Sức khỏe có sự thay đổi tích cực, nhưng do tái đi tái lại nhiều lần nên đề phòng phát sinh ngoài ý muốn. Đặc biệt cần chú ý người cao tuổi dễ bị ngã. Tháng này phù hợp với những vận động trong nhà hơn là ngoài trời. Nên làm việc nhà nhiều hơn.
Màu sắc may mắn: màu Hồng.
Hướng may mắn: Tây Nam.
Tuổi Dậu
Sức khỏe tháng này có tiến triển tốt, thời gian rảnh nên đi bộ nhiều hơn hoặc đi du lịch. Điều này có lợi rất nhiều cho sức khỏe và tinh thần của bạn. Những bạn muốn có thai trong tháng này nên kết hợp cả tự nhiên và thụ tinh nhân tạo để có được kết quả tốt nhất.
Màu sắc may mắn: Xanh lam.
Hướng may mắn: Tây Bắc.
Tuổi Tuất
Tháng này sức khỏe khá tốt, trẻ nhỏ thì biếng ăn hơn. Nữ giới trưởng thành cần chú ý các bệnh phụ khoa. Người cao tuổir đặc biệt chú ý vấn đề liên quan đến đường tiết niệu, hệ thống tiêu hóa.
Màu sắc may mắn: màu Vàng.
Hướng may mắn: hướng Đông.
Tuổi Hợi
Qua hai tháng điều chỉnh vấn đề tâm lý thì tháng này sức khỏe đã có phần cải thiện đáng kể. Nên ngủ sớm, thức dậy sớm, ăn uống thanh đạm và vận động thường xuyên hơn. Đồng thời cần chú ý vấn đề ăn uống do cuối năm tụ họp, tiệc tùng nhiều.
Màu sắc may mắn: màu Xám.
Hướng may mắn: hướng Đông.
Theo Mai Nguyễn Khampha.vn
Chùa Tự Khánh có tên nôm là chùa Vẽ, chùa Cả, gọi theo địa danh là chùa Đông Ngạc. Chùa tọa lạc tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 10km về phía Đông Bắc.
Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được xây dựng vào đời Hậu Lê. Tấm bia đời Lê Thần Tông (1653-1661) đã ghi công đức của ông Nguyễn Phúc Ninh và bà Trần Thị Ngọc Luân đã hưng công sửa ngôi chùa to lớn. Hai nhân vật trên được chọn là hậu Phật của chùa.
Chùa Tự Khánh có 59 gian, kiến trúc nội tự chữ “Đinh”, ngoại tự chữ “Quốc”. Chùa Tự Khánh với phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 – 19. Chùa có quả chuông đúc năm Diên Hựu thứ 2 (1315). Trong chùa hiện còn có tấm bia có niên đại Thịnh Đức ghi rõ công đức của vợ chồng ông Nguyễn Phúc Ninh, cúng gia tư điền sản để tu bổ, dựng lại chùa, và được dân làng tôn làm Hậu Phật.
Hiện tại, chùa còn 53 tượng đẹp, 1 quả chuông nặng 750kg treo ở gác chuông có niên đại Gia Long 16 (năm 1817) và 2 quả chuông nhỏ hơn cũng được đúc vào thời Nguyễn. Chùa còn 3 bộ cửa võng, nhang án, hoành phi, câu đối được chạm trổ tinh xảo.
Kiến trúc chùa gồm tam quan, gác chuông, nhà vuông với mái chồng diêm, chùa chính, nhà Tổ. Chùa chính có kết cấu hình chữ Đinh gồm: tiền đường 3 gian 2 chái, hậu cung có mái chồng diêm.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa còn giữ được 5 pho tượng được tạo tác công phu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII – XIX và nhiều đồ thờ tự cổ. Chùa được liệt vào danh sách “Chùa có ít tượng nhất” trong bảy cái nhất của chùa Hà Nội.
Chùa Đông Ngạc đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.
Bàn thờ bị xà nhà đè
Theo phong thủy, xà nhà đè bàn thờ thì cơ hội tài lộc khó đến nhà. Vì vậy, khi bàn thờ đặt ở vị trí dưới xà nhà cần biết cách hóa giải, tránh những ảnh hưởng xấu đến nhà bạn.
Trong nhà ở dân gian, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách. Đó là cách xếp đặt quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống.

Với ngôi nhà hiện đại có diện tích và cấu trúc không gian khác xưa, điều kiện sống và quan niệm trong sinh hoạt cũng có nhiều thay đổi. Cách bố trí bàn thờ trở nên đa dạng hơn và cũng có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn. Điều này nhận thấy rõ trong các khu chung cư.
Đặt bàn thờ trong không gian này thường sẽ phạm phải tình trạng bàn thờ dưới xà nhà. Phong thủy tối kỵ xà nhà đè trên giường ngủ, trên đầu nơi người ngồi hoặc nằm… Xà nhà đè bàn thờ thì cơ hội tài lộc khó đến nhà.
Thông thường, nếu tình huống này xảy ra thì tài vận trong nhà khó ổn định. Sức khỏe của các thành viên bị ảnh hưởng xấu (mắc bệnh thần kinh, hoảng loạn…). Toàn gia khó đón được quý nhân phù trợ. Nghỉêm trọng hơn khi sao Thái Tuế chiếu vào, người trong nhà sẽ gặp tai nạn khôn lường.
Vì thế, khi bàn thờ bị xà nhà đè, nên lắp trần giả để hóa giải. Nếu trần giả quá thấp, gia chủ có thể làm tủ thờ để cải thiện tình trạng. Phong thủy đại kỵ mua bàn thờ đóng sẵn. Vì nó không có hiệu quả cho việc hóa giải này.
“Phòng tắm ngắm phòng thờ”
Theo nguyên tắc bố trí cát hung trong nhà ở thì khu vệ sinh nên đặt vào các hướng xấu, các hướng bất lợi về khí hậu đồng thời đảm bảo hợp lý về hệ thống kỹ thuật. Hung gặp hung hóa cát, đặt khu vệ sinh -vào vị trí xấu sẽ họp hơn là đặt vào vị trí tốt. Đây chính là sự phân biệt rạch ròi và ưu tiên các khu nào nằm về vùng nào. Nếu các chức năng cơ bản (cửa chính, bếp, phòng khách, phòng ngủ, bàn thờ…) được đặt ở các vùng tốt rồi thì dĩ nhiên các vị trí còn lại có thể bố trí phòng vệ sinh và các chức năng phụ khác như nhà kho, chỗ giặt phơi.
Có thể đóng một tủ kệ nhỏ hoặc làm thêm vách kính, vách gỗ, vách thạch cao để ngăn bên hông không gian phòng sinh hoạt – tủ thờ. Khi đó từ cửa phòng tắm sẽ mở ra một hành lang đi lại cùng với cửa ra vào hai phòng ngủ. Cách này giúp phân chia không gian rõ rệt hơn, cũng là để giảm bớt cảm giác từ ngoài phòng thờ nhìn vào thấy thiết bị vệ sinh trong phòng tắm.
Nếu trên thực tế chưa xây và ốp lát, gắn thiết bị cho phòng tắm này thì có thể bố trí lại bằng cách sắp xếp nội thất phòng tắm sao cho có thể chuyển cửa của phòng tắm sang vị trí khác nhằm tạo nên một khoảng sảnh đệm khoảng 1m2 trước khi bước vào hay bước ra khỏi phòng tắm, cũng là giảm bớt cảm giác “thông nhau” giữa hai không gian.
Bàn thờ ở trên hoặc dưới nhà vệ sinh
Hiện nay, ở các đô thị có rất nhiều nhà cao tầng và gian thờ thường đặt trên tầng thượng. Cần chú ý không để bàn thờ mà ở tầng dưới có nhà vệ sinh, uế khí của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thờ cúng gia tiên, gây nên nhiều điều xấu cho gia chủ. Gặp trường hợp trên cần di chuyển bàn thờ ra vị trí khác hoặc đóng nhà vệ sinh lại không sử dụng nữa.
Cách tính trùng tang
Từ xa xưa, dựa trên dịch lý, cổ nhân đã xây dựng cách tính (xác định) trùng tang. Người xưa cho rằng đối với người quá cố khi chết phải xem tình trạng ra đi có được "yên ổn" hay không? Có gì oan khuất hay không, được thể hiện qua 3 nhóm biểu hiện trạng thái vong linh của người đã khuất, đó là:
1. Nhập mộ: Yên ổn, đúng số, không có điều gì băn khoăn, oan ức... đóng ở các cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI.
2. Trùng tang: Chết thiêng, chết oan, còn vương vấn ở trần gian đóng ở các cung DẦN - THÂN - TỴ - HỢI.
3. Thiên Di: Có ảnh hưởng xấu đến người thân đang còn sống ở các cung TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU.
Theo sách "Tam Giáo Chính Hội": Nam nhất thập khởi Dần thuận liên tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến, Niên hạ sinh nguyệt, Nguyệt hạ sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý - Ngọ - Mão - Dậu Thiên di. Dần - Thân - Tỵ - Hợi Trùng tang. Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Nhập mộ cát dã. Cụ thể như sau:
Cách tính: Phải tính cả năm, tháng, ngày, giờ (niên, nguyệt, nhật, thời). Người quá cố phải được ít nhất 1 nhập mộ mới có thể xem là giờ ổn. Nếu được càng nhiều nhập mộ càng tốt (nhiều nhất là 4 nhập mộ).
Niên (năm): Người quá cố là nam, khởi từ cung Dần, đi theo chiều thuận kim đồng hồ. Gọi cung Dần là 10 tuổi, cung Mão là 20 tuổi, cung Thìn là 30 tuổi... cứ thế mỗi cung là 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ người quá cố, rồi cứ tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến hết số tuổi người quá cố. Người quá cố là nữ, khởi từ cung THÂN, đi theo chiều ngược kim đồng hồ. Gọi cung Thân là 10 tuổi, cung Mùi là 20 tuổi... cứ thế mỗi cung 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của người quá cố, rồi tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của người quá cố. Nếu số đó trùng vào các cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI thì được niên nhập mộ, nếu các cung DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị trùng tang, vào các cung TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nam thì cung Dần là 1 tuổi, cung Mão là 2 tuổi, cung Thìn là 3 tuổi... cho đến tuổi mất của người quá cố. Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nữ thì cung Thân là 1 tuổi, cung Mùi là 2 tuổi, cung Ngọ là 3 tuổi.. cho đến tuổi mất của người quá cố.
Nguyệt (tháng): Tháng giêng tiếp ngay vào sau cung tuổi. Thí dụ: Tuổi dừng ở cung Ngọ thì tháng giêng ở cung Mùi (đối với nam) và tháng giêng ở cung Tỵ (đối với nữ) cứ thế mỗi tháng tiếp 1 cung cho đến tháng mất của người quá cố.
Nếu vào THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI thì được nhập mộ; Nếu vào DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị trùng tang. Nếu gặp TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
Nhật (ngày): Ngày mùng 1 tiếp vào ngay sau cung tháng, cứ thế tiếp mỗi ngày 1 cung cho tới ngày người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
Thời (giờ): Giờ Tý tiếp ngay sau cung ngày và mỗi cung là 1 giờ cho đến giờ người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
Nói chung được 1 nhập mộ trở lên là yên tâm, vì "nhất mộ sát tam trùng" (một nhập mộ xoá được 3 trùng tang). Hoặc được 2 thiên di thì cũng không lo vì "nhị thiên di sát nhất trùng" (2 thiên di xoá được 1 trùng tang). Nếu không có nhập mộ nào thì phải xem ngày mất của người quá cố có phạm vào tam sa sát hay không? Theo người xưa và sách vở ghi chép lại thì: Trùng tang Ngày là nặng nhất. Trùng tang Tháng là nặng nhì. Trùng tang Giờ là nặng thứ ba. Trùng tang Năm là nhẹ nhất.
Quan niệm cổ về trùng tang
Nếu căn cứ vào phép tính trùng tang như trên thì cả nam và nữ những người chết vào các tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31, 34, 37, 40, 43, 46, 49, 52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88, 91... sẽ rơi vào trùng tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ can - chi thì những người có tuổi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một trong các năm TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì rơi vào trùng tang; Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào một trong các năm DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì rơi vào trùng tang; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một trong các năm THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI có nghĩa là chết vào các năm "xung (tứ hình xung) sẽ bị TRÙNG TANG.
Dưới góc độ của Dịch lý, trên cơ sở học thuyết Âm - Dương và Ngũ hành: Đồng khí (đồng cực) thì đẩy nhau, khác khí (khác cực) thì hút nhau. Tương sinh thì tốt, tương khắc thì xấu, đồng hành thì tị hoà. Vậy thì người chết vào những năm xung (tứ hình xung) thì rất xấu nên bị TRÙNG TANG. Ví dụ: Người tuổi Mão (thuộc Mộc, ở phương Đông) chết năm Dậu (thuộc Kim ở phương Tây) sẽ bị trùng tang vì Kim khắc Mộc, Tây đối lập với Đông; Hoặc người tuổi Ngọ (ở phương Nam thuộc Hoả) chết năm Tý (ở phương Bắc, thuộc Thuỷ) sẽ bị TRÙNG TANG vì Thuỷ khắc Hoả, Bắc với Nam đối lập... Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Như vậy, việc xác định trùng tang là dựa trên nguyên lý của dịch với học thuyết Âm dương - Ngũ hành chứ không phải sự mê tín, tuỳ tiện.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc, có tác dụng hóa giải tai ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa (chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh).
Sao Tử vi ưa gặp Tả phù, Hữu bật đồng cung phò tá; Thiên tướng và Văn xương làm tùy tùng; Thiên khôi, Thiên việt truyền lệnh, Thái dương, Thái âm phân chức. Nếu đồng cung với những cát tinh trên hoặc tọa tại cung Tam phương Tứ chính hội chiếu lẫn nhau sẽ tạo thành cách cục tốt. Tử vi tọa thủ cung Thân hoặc cung Mệnh, chủ về có phong độ, có khí chất, cá tính đôn hậu, cương trực cung kính.

Tuy nhiên thưòng tâm địa khá hẹp hòi, dễ tin ngưòi khác mà làm điều trái đạo lý, bảo thủ cô chấp, dễ bị kích động. Không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung chủ về mệnh cô độc, phải tự mình làm mọi việc, do đó thường vất vả, ít có thời gian nghỉ ngơi. Cao ngạo, trọng hư vinh, thích quyền quý, học nhiều không tinh thâm, dễ phạm đào hoa. Tử vi tọa Mệnh, nếu không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung, đại hạn, tiểu hạn đến Thiên hình hoặc Địa kiếp dễ xuất gia, học đạo.
- Người có sao Tử vi đóng tại Ngọ nên kinh doanh bất động sản,tránh kinh doanh ngành chăn nuôi trồng trọt
- Người có sao Tử vi đóng tại Dậu có sao Tham lang Thiên hình đồng cung nên theo ngành công an hay quân đội
- Người có sao Tử vi đóng tại Thìn Tuất lại có sao Thiên tướng đồng cung thường có chí khó thành, gặp chuyện tình cảm lận đận,phạm đào hoa thì cả tình duyên sự nghiệp đều trắc trở, muôn sự khó thành
- Người có sao Tử vi đóng tại Tỵ Hợi có Thất sát đồng cung là người thích phiêu bạt giang hồ ,lãng tử
- Người có sao Tử vi đóng tại Sửu Mùi có Phá quân đồng cung là người dễ tin người hay bị lừa gạt..
- Người nữ có sao Tử vi đóng tại Hợi có Thất sát đồng cung nên làm thư ký cho chồng hoặc trợ lý cho chồng.
Hành: Thổ
Loại: Văn Tinh, Quý Tinh
Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, quý hiển
Tên gọi tắt thường gặp: Cáo
Là một phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Thai Phụ và Phong Cáo. Gọi tắt là bộ Thai Cáo
Tự đắc kiêu hãnh, tự phụ.
Háo danh, hay khoe khoang.
Chuộng hình thức bề ngoài.
Lợi ích cho việc thi cử, cầu danh vì sao này chủ về bằng sắc, huy chương, công danh.
Với ba ý nghĩa đầu, Phong Cáo giống nghĩa với Hóa Quyền, nhưng có lẽ không mạnh bằng Hóa Quyền vì Quyền đắc địa chỉ uy lực thực sự hơn là danh tiếng bề ngoài. Nếu đi đôi, nhất định ý nghĩa phải mạnh hơn, đặc biệt là có Quốc Ấn đi kèm.
Phong Cáo, Thai Phụ đi chung mới đủ mạnh, và nhất định là đi cùng với cát tinh càng khác.
Phong Cáo, Phụ, Xương Khúc, Khoa Quyền hay.
Phong Cáo, Phụ, Âm Dương sáng sủa hoặc.
Phong Cáo Phụ, Tướng Ấn: Rất quí hiển, được trọng dụng, có huy chương, tưởng lục.
Phong Cáo, Ấn, Thai Phụ: Được ban cấp điền sản ăn lộc, hay khẩn hoang
Phong Cáo Khi Vào Các Hạn
Cũng có nghĩa như đắc tài, đắc danh, được tiếng khen, có huy chương.
Phong cáo và Thai Phụ:
Thai Phụ Phong Cáo có tác dụng vào mệnh số giống như Tả Phụ, Hữu Bật. Có Tả Hữu còn thêm Thai Phong càng đắc lực. Nhưng chỉ Thai Phong thôi mà thiếu Tả Hữu thì Thai Phong là hư sức bề ngoài có khi còn thành dương dương tự đắc và vô dụng.
Thai Phụ cũng hay khi gặp Khôi Việt, Xương Khúc, Hóa Khoa trợ lực cho chuyện thi cử, cũng hợp cả với Tử Vi, Thái Dương Thiên Lương.Thai Phụ gặp các sao thuộc phú cách thì đỡ giàu bẩn. Thai Phụ Phong Cáo đi với các đào hoa tinh tạo ảnh hưởng làm dáng làm điệu.
Sách Phi Tinh Đẩu Số viết: Thai Phụ thuộc dương thổ là sao đài các, Phong Cáo thuộc âm thổ là sao hư trương
Hai sao này tuyệt đối phải dựa vào những sao khác, đứng chơ vơ là hết tồn tại.
1. Hội Chùa Hàm Long (Chùa Chèm)
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Đức Phật và Lý Ông Trọng (người có công trị thủy Sông Hồng, đi sứ giúp vua Tần đánh giặc hung Nô năm 221 trước công nguyên).
Nội dung: mở đầu hội chùa Hàm Long là lễ rước văn, lễ phát tấu cúng Phật nhằm mục đích cầu siêu cho đức Thánh Chèm và phu nhân.
2. Hội Làng Bồ Sao
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tới ngày 16 tháng 5 âm lịch
Địa điểm: xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Đông Hải Đại Vương.
Nội dung: dân đóng các vai người đi cày, người đi bừa, người quăng mạ... Ngày 16/5 lễ rước mạ lên kiệu đến đền Đuống, mâm mạ được đặt lên bàn thờ lễ thần, sau đó đem ra cấy.
|
| (Ảnh minh họa) |
Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, đối với những người đang trầm luân trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể tình cảm và bổn phận ấy bằng những việc làm cụ thể, nhân dịp thưa hỏi của Ngài Mục kiền Liên.
NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương)
Cúng Hương
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
Kỳ Nguyện
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)
Tán Thán Phật
Ðấng Pháp Vương Vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.
(Xá 3 xá rồi xướng lạy)
Ðảnh Lễ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)
(Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):
Tán Lư Hương
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)
Chú Ðại Bi
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Khai Kinh Kệ
Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.
Tâm Kinh
Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Bài Tán Thán Phật A Di Ðà
Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
Sám Vu Lan
Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Sám Mục Liên
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
Hồi Hướng
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng
Chú thích:
(1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
Phẫu thuật thẩm mỹ theo tử vi để cải thiện vận thế![]() |
| => Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc |