Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp

Đặt hướng cửa chính lệch với nguồn năng lượng của gia chủ có thể đem đến họa khôn lường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa là một trong ba vật quan trọng nhất của một ngôi nhà. Cửa của ngôi nhà cũng giống như miệng của một người vậy, miệng dùng để hít thở, còn cửa dùng để lưu thông không khí trong nhà. Trong phong thủy về nhà ở, hướng cửa chính vô cùng quan trọng - nó ảnh hưởng trực tiếp tới lành dữ, họa phúc, phú quý, bần hàn của cả gia đình. Vậy nên, xét từ góc độ phong thủy, cửa phải đặt hướng nào mới là cửa may mắn, cửa phú quý? Chuyên gia phong thủy dựa vào các lí luận về phong thủy, đã tổng kết ra năm loại cửa phú quý.

Tiêu chuẩn cơ bản khi chọn cửa phú quý

Nói một cách đơn giản, tiêu chuẩn cơ bản của cửa phú quý chỉ gồm 4 chữ “âm dương cân bằng”. Vậy thì, làm sao để âm dương cân bằng? Mọi người đều biết, cửa dùng để lưu thông không khí, do đó có thể thấy, thuộc tính của cửa là âm. Do vậy, cửa phòng nên đặt ở vị trí có thuộc tính dương mới có thể phù hợp với luật cân bằng âm dương.

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 1

Chỉ cần chúng ta xác định phương hướng nào thuộc dương để lắp cửa chính, thì đó chính là hướng cửa chính phú quý. 

Xác định hướng cửa phú quý

Nguyên tắc xác định hướng cửa phú quý dựa vào Tiên thiên bát quái đồ. Bởi vì phương hướng mà Tiên thiên bát quái thể hiện là phương hướng căn nguyên, cố hữu.

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 2

Do vậy, xét về nguyên tắc, cửa chính của nhà nên đặt ở vị trí Càn (chính Nam), Chấn (Đông Bắc), Khảm (chính Tây), Cấn (Tây Bắc). Cụ thể có thể phân làm năm loại cửa phú quý như sau:

1. Cửa chính nam

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 3

Cửa chính nam có lợi cho cha mẹ, trưởng bối và gia chủ.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề quân nhân, hành chính, lãnh đạo, giáo dục sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến kim loại, cơ khí, vàng bạc đá quý, chăn nuôi, các ngành nghề truyền thống và nghề nông dễ phát tài.

Chuyên gia phong thủy cũng nhắc nhở mọi người: vị trí cửa chính thông thường không được đặt ở đường trung tuyến của kinh tuyến, bởi vì đây là đường cực quý. Trước đây chỉ có hoàng thất mới có thể dùng đường này. Nếu như năng lượng của nhà và chủ nhà không đủ mà dùng đường này, e là sẽ phản tác dụng.

2. Cửa hướng đông bắc

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 4

Cửa hướng đông bắc có lợi cho con trai và con gái trưởng.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề trợ lý, thợ thủ công, giám đốc, người tu hành, tuần tra, thuế vụ, văn phòng, tài chính sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến thủ công, nghề mộc, giấy, làm vườn, hoa quả và tre trúc dễ phát tài.

3. Cửa chính Tây

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 5

Cửa này có lợi cho con trai và con gái giữa.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề bác sĩ, luật sư, giáo viên, tác giả, văn nhân, nghệ sĩ, nghiên cứu sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến hàng hải, thủy lợi, thủy sản, nghề muối, vận tải, điện tử, dầu mỏ dễ phát tài.

4. Cửa hướng tây bắc

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 6

Loại cửa này có lợi cho con trai và con gái út

Về sự nghiệp: Những người làm nghề học sinh, cảnh vệ, tín đồ, coi ngục, học giả, dịch giả, phê bình sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến rừng núi, danh lam thắng cảnh, bất động sản, đồ trang sức, chế tác ngọc và châu báu sẽ dễ phát tài

5. Cửa kết hợp giữa chính Tây và Tây Bắc.

Hướng cửa chính loại này kết hợp giữa ưu điểm của cửa chính tây và cửa hướng tây bắc, chỉ có điều mức phú quý có phần không được cao như 2 loại cửa trên. Cửa hướng này có lợi cho gia chủ.

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, ngoài cửa đặt ở vị trí kết hợp Khảm (chính Tây) và Cấn (Tây Bắc) mang thuộc tính dương giống nhau ra, các loại cửa kết hợp khác đều không tốt cho tài vận và phú quý của gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp

Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Số phận hay định mệnh luôn là một lĩnh vực bí ẩn, chưa ai có thể giải đáp hay chạm tới. 3 câu chuyện dưới đây phần nào cho thấy sự kì lạ của vòng xoay tạo hóa.
Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Số phận hay định mệnh luôn là một lĩnh vực bí ẩn, chưa ai có thể giải đáp hay chạm tới. 3 câu chuyện dưới đây phần nào cho thấy sự kì lạ của vòng xoay tạo hóa. 


Phai chang dinh menh la co that hinh anh
 
1. Em trai của người ám sát Abraham Lincoln cứu mạng con trai của Lincoln

Edwin Booth đã cứu mạng Robert Todd Lincoln, con trai của Abraham Lincoln, khỏi một tai nạn xe lửa. Robert bị ngã ở một nhà ga xe lửa tại New Jersey, và Booth đã kéo anh lên khỏi đường ray.
 
Không lâu sau sự cố đó, anh trai của Booth, John Wilkes Booth đã ám sát Abraham Lincoln. Tạo hóa quả thật xoay vòng.
 
2. Mark Twain với sao chổi

Sao chổi Halley di chuyển với một quỹ đạo lặp lại với trái đất khoảng mỗi 75 năm. Sao chổi đã tới gần trái đất và xuất hiện trên bầu trời khi văn hào Mark Twain ra đời năm 1835. John H. Lienhard, giáo sư lịch sử tại Đại học Houston, trích dẫn những tiên đoán của Twain:
 
“Tôi đã đến cùng với sao chổi Halley. Nó sẽ trở lại nơi đây, và tôi kỳ vọng sẽ ra đi cùng nó. Thượng Đế toàn năng đã nói, và không còn nghi ngờ gì nữa: Giờ đây có hai sự kiện kỳ dị, chúng đến cùng nhau, chúng phải ra đi cùng nhau”. Tiên đoán của Twain đã trở thành hiện thực, ông qua đời ngày 21/4/1910 khi sao chổi Halley di chuyển tới gần Trái đất lần thứ hai như một định mệnh.

3. Hai anh em song sinh bị tách rời từ nhỏ sống cuộc đời giống hệt nhau

Hai anh em song sinh bị tách rời từ nhỏ và được 2 gia đình khác nhau nhận nuôi nhưng có số phận gần như không khác biệt. Cả hai gia đình, không hề biết nhau, đều đặt tên đứa con nuôi là James. Cả hai cậu bé sau này đều vào làm trong ngành cảnh sát. Cả hai cưới các phụ nữ có tên là Linda, ly dị rồi tái hôn. 
 
Cả hai đều tái hôn với các phụ nữ tên là Betty. Một người đặt tên con trai mình là James Alan, người kia đặt tên con trai là James Allan. Chỉ tới khi gặp nhau họ mới biết những chuyện đó. Câu chuyện của họ được kể lại trên tạp chí People.  
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Theo tinhhoanet

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Phật nói kinh đại báo phụ mẫu trọng ân

Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.

Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:

Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.

Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.

Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.

ÐÂY LÀ LỜI PHẬT

Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.

Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:

Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.

Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :

Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.

Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.

Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.

Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.

Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.

Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.

Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.

Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.

Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.

Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.

Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .

Những gì là mười điều?

  1. Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
  2. Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
  3. Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
  4. Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
  5. Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
  6. Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
  7. Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
  8. Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
  9. Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
  10. Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.

ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC

Bao kiếp, duyên cùng nợ;

Ngày nay, mới vào thai

Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;

Bảy bảy, sáu tinh khai

Thân trọng, như non Thái

Ðộng tĩnh, sợ phong tai

Áo the, đành xốc-xếch,

Gương lược, biếng trang đài.

ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ

Khi gần ngày sanh nở

Nặng nhọc, khổ vô cùng,

Cưu mang, trong mười tháng

Sanh nở, sắp đến ngày

Ðứng ngồi coi nặng nhọc;

Dáng vẻ, tựa ngô ngây,

Sợ hãi lo, cùng lắng;

Tử sanh giờ phút nầy!

ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ

Mẹ ta, khi sanh nở,

Thân thể đều mở toang!

Tâm hồn như mê mẩn,

Máu me chan hòa đầy,

Chờ nghe, thấy con khóc;

Lòng mẹ mừng rỡ thay!

Ðương mừng lại lo đến

Rầu rĩ ruột gan nầy.

ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT

Mẹ ta lòng thành thực,

Thương con chẳng chút ngơi

Nhả ngọt nào có tiếc!

Ăn đắng nói cùng ai?

Yêu dấu như vàng ngọc.

Nâng niu tay chẳng rời

Những mong con ấm no;

Mẹ đói rách cũng vui .

ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP

Tự mình nằm chỗ ướt,

Chỗ ráo để xê con,

Hai vú phòng đói khát;

Hai tay ủ gió sương.

Thâu đêm nằm chẳng ngủ;

Nâng niu tựa ngọc vàng

Những mong con vui vẻ;

Lòng mẹ mới được yên.

ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG

Ðức mẹ dày như đất;

Công cha thẳm tựa trời

Chở che coi bình đẳng;

Cha mẹ cũng thế thôi!

Chẳng quản, câm mù, điếc!

Chẳng hiềm, quắt tay chân!

Bởi vì con ruột thịt,

Trọn đời dạ chẳng khuây.

ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ

Từ biệt, lòng khôn nhẫn;

Sanh ly dạ đáng thương;

Con đi đường xa cách

Mẹ ở chốn tha hương,

Ngày đêm thường tưởng nhớ;

Sớm tối vẩn vấn vương

Như vượn thương con đỏ

Khúc khúc đoạn can trường?

ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP

Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,

Công lao tựa vực trời

Bồng bế cùng nuôi nấng;

Mong sao con ăn chơi

Nhường cơm cùng xẻ áo;

Mẹ đói rách dũng vui!

Khôn lớn tìm đôi lứa

Gây dựng cho nên người

ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON

Công cha cùng đức mẹ

Cao sâu tựa vưc Trời

Mẹ già, hơn trăm tuổi,

Vẫn thương con tám mươi!

Bao giờ ân oán hết?

Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…

hiếu thảo
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.

Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.

Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.

Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!

Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….

Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.

Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !

Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .

Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.

Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .

Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :

  • Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
  • Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.

Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?

Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.

Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.

Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.

Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !

Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :

Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.

Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ

Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.

Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ

Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :

Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.

Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân

Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.

Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.

Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.

Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.

Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.

Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.

Kính lạy chư vị Bồ Tát đã đền ân cha mẹ.

Kính lạy Phật Từ Di mẫu, Kiều Ðàm Di đại Bồ Tát.

Kính lạy Thầy Cưu Ma La Thập dịch kinh này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật nói kinh đại báo phụ mẫu trọng ân

Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông

I - Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG Trong tướng học Á Đông, từ ngữ sắc bao trùm nhiều lãnh vực: a ) Màu da của từng cá nhân Tướng học Á Đông là kết quả tích luỹ các kinh nghiệm thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp dụng được cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể tầm vóc tương tự như người Trung Hoa và cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tập quán và văn hoá Trung Hoa như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam mà thôi.
Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nói chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà, sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong truyện cổ của người Trung Hoa.
Về vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.
b ) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể 
Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau : 
-Màu hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai 
-Màu đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày 
-Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen )
-Màu đỏ của các tia màu mắt ….
c ) Sự đậm lạt của từng loại màu 
Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh, trắng ngà. Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
d ) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần 
Cùng một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa. 
Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành. Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc. 
Sau hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về thành phần cấu tạo ( đối với các loại màu phức tạp ) qua thời gian. Chẳng màu da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám: tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ; cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì.
Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.
II - CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC 
Nói đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc:
- màu đỏ - màu xanh - màu vàng - màu hồng - màu trắng - màu tía - màu đen 
Ba màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng. 
Màu xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại người hình Mộc. 
Màu trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản của người hình Kim. 
Màu đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người hình Thủy. 
Sau cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ. 
a ) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người 
Theo sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt như sau:
-Màu xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã 
-Màu đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai 
-Màu đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc 
-Màu trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh 
-Màu hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn ngoài ý liệu 
-Màu vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn 
Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói “ vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc". 
Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận. 
Nói tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó : 
- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc 
- Tính cách thanh trọc của sắc 
- Hư sắc hay thực sắc 
-Bộ vị xuất hiện 
-Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình tướng ) 
-Phối hợp hay không phối hợp với màu sắc từng mùa
-Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt 
-Đơn thuần hay tạp sắc …
Chẳng hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
Màu đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.
b ) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc 
Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung. 
Ngoài các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là :
1 - Hư sắc và thực sắc 
Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí. 
Trái lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo. 
Trong tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.
2 - Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc 
Bất cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong ba trạng thái trên. 
*Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt. 
*Trệ sắc : Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt). 
Trong tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu. 
Như danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát 
-Kim trệ : Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là đềim báo trước vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải. 
Mộc trễ : Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa .
Thuỷ trệ : Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi. 
-Hỏa trệ : Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc. 
-Thổ trệ : Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
*Hoại sắc: Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương khắc. 

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán

(Trích Lược Tử Vi :Tuổi Mùi,  năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông

Phong thủy nữ tuổi Mậu Ngọ –

Nữ Mậu Ngọ Cung CHẤN Mạng THIÊN THƯỢNG HỎA (lửa trên trời), cùng xem thêm thông tin chi tiêt về Mậu Ngọ và những điều nên tránh trong năm 2014 nhé. Tử vi 2014 tuổi Mậu Ngọ Nữ mạng sinh năm 1918, 1978 và 2038 Nữ Mạng – Mậu Ngọ Sanh năm: 1918, 1978 và
Phong thủy nữ tuổi Mậu Ngọ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nữ tuổi Mậu Ngọ –

Biết đích xác vận mệnh giàu nghèo qua những nếp nhăn

Ngoài tướng mặt, tay, nốt ruồi, vết bớt… nhân tướng học còn nghiên cứu là về nếp nhăn. Qua đó cũng có thể đoán biết được số phận giàu nghèo, sướng khổ của mỗi con người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nhắc tới nếp nhăn, thông thường người ta liên tưởng tới ngay nếp nhăn ở trán. Trán thuộc về khu vực Thượng đình của khuôn mặt, tướng trán tốt sẽ quyết định và ảnh hưởng đến cả cuộc đời mỗi người. Còn Ấn đường thuộc về vùng Trung đình, chủ về trung vận con người. Những nếp nhăn ở hai khu vực này có quan hệ mật thiết với nhau.

Biet dich xac van menh giau ngheo qua tuong nep nhan hinh anh goc
 
  1. Nếp nhăn hình gấp khúc   Nếu trên trán có nếp nhăn hình gấp khúc nhưng lại uốn mềm mại uyển chuyển như con rắn, chứng tỏ bạn thuộc tuýp giỏi kinh doanh, buôn bán, khéo làm ăn, gặp may mắn, được lộc trời ban. Nhưng cuộc đời dễ gặp hoạn nạn, chết bất đắc kì tử.   2. Nếp nhăn hình vầng trăng   Đặc điểm của nếp nhăn này là trông như vầng trăng, hoặc xuôi hoặc ngược. Chủ nhân của tướng nếp nhăn hình vầng trăng xuôi tính tình ôn hòa, quang minh chính trực, cư xử đúng mực nên được lòng mọi người xung quanh. Chính vì có tâm sáng, lối hành xử lương thiện nên tuổi thọ người này khá cao.   Người này hợp làm chính trị, nếu đi đúng đường, có quý nhân trợ giúp, họ sẽ làm đến chức quan to hoặc là tướng lớn trong quân đội.    Còn nếu sở hữu nếp nhăn hình vầng trăng ngược, cuộc đời bạn may mắn, gặp được quý nhân phù trợ, sống trong nhung lụa, giàu sang. Quý cô có số làm mệnh phụ phu nhân, quý ông sẽ có số đại gia.  
Biet dich xac van menh giau ngheo qua tuong nep nhan hinh anh
 
3. Nếp nhăn chạy thẳng giữa trán
  Nếu có nếp nhăn là một vệt dọc thẳng đứng kéo dài từ trên xuống dưới và chỉ ở đúng vùng trán (chấm dứt ở trước khi đến vùng mắt và lông mày), chứng tỏ chủ nhân tính tình bướng bỉnh, cố chấp nhưng rất tài giỏi.   Đàn ông có nếp nhăn này thường công thành danh toại, làm nên đại nghiệp từ ngoài trung vận. Phụ nữ thì trực tính, mạnh, đời sống tình cảm và hôn nhân vì thế cũng sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều.    4. Trên trán có 3 nếp nhăn xiên theo hình thang

Người này sống thọ, cơ thể dẻo dai và cường tráng. Số mệnh cát tường, dù có xảy ra bất cứ tai nạn, nguy khốn kinh hoàng đến mức nào đi chăng nữa, họ vẫn bình an vô sự.   Tuy nhiên, nếu cả 3 nếp nhăn này kéo dài suốt toàn bộ vầng trán thì chủ nhân xung khắc với người thân trong gia đình.   
Biet dich xac van menh giau ngheo qua tuong nep nhan hinh anh 2
 
5. Nếp nhăn hình chữ “X”   Đây được coi là nếp nhăn hung hiểm, ai có nếp nhăn này báo hiệu một cuộc đời thăng trầm, khốn khổ, vào tù ra tội, số mệnh long đong vất vả.   6. Chính giữa Ấn đường có nếp nhăn thẳng đứng   Nếp nhăn này khá ngắn, từ đỉnh lông mày xuống đến gần giữa hai mắt, thẳng đứng và chỉ xuất hiện khi chủ nhân nhăn trán.    Chủ nhân của nếp nhăn này có số mệnh vất vả, không được sống gần và nhờ vả gia đình, người thân. Cuộc sống hôn nhân cũng không hòa hợp, phải bôn ba ở xa mới mong yên ổn.  
7. Nếp nhăn hình chữ “Bát”
  Cuộc đời người có nếp nhăn này rất vất vả, nhưng đổi lại, tuổi thọ của họ rất cao. Đời sống hôn nhân không êm đẹp, nam mệnh khắc vợ, nữ mệnh khắc chồng.   8. Nếp nhăn ngang giữa hai đầu lông mày   Đây là nếp nhăn chủ về thị phi, kiện tụng ở trung vận (khoảng 39, 40 tuổi). Đó là những kiện tụng nhỏ liên quan đến li hôn. Phần thắng vụ kiện này luôn thuộc về người khác, không phải bạn.   Ngoài ra, nếu có nếp nhăn ngang ở vùng Sơn căn (vị trí ở giữa hai phần mắt, vùng dưới Ấn đường và là nơi cao nhất trên sống mũi), số phận bôn ba ngược xuôi, kiếm tiền nhọc nhằn. Năm 36 đến 41 tuổi dễ gặp vận hạn, xui rủi    Ngọc Diệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Biết đích xác vận mệnh giàu nghèo qua những nếp nhăn

Đại Khê Thủy - Nước ở dòng suối lớn

Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Khê Thủy - Nước ở dòng suối lớn

Đại Khê Thủy - Nước ở dòng suối lớn

Tìm hiểu về khái niệm Đại Khê Thủy

Cổ thư biên: Giáp Dần Ất Mão thì Dần là ranh giới Đông Bắc, Mão là chính đi về một hướng nên gọi bằng Đại Khê Thủy

Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con. Bởi thế Đại Khê Thủy thủy khí lượng lớn, biến hóa đến mức gây sợ hãi, tuy không ngấm ngầm nhưng tâm cơ sâu rộng lan tràn ngập lụt

Tuy nhiên lại không được xem như sông ngòi. Thác lũ khi gặp lòng sâu, hoặc hang hốc cũng chảy thành dòng, lấp đầy thành vũng. Bởi thế đôi khi bụng dạ hẹp hòi và tư tâm.

Người nạp âm Đại Khê Thủy nếu là một chiến lược gia tất có cái nhìn rộng rãi bao quát. Nếu Mệnh kém mà nạp âm Đại Khê Thủy lại trở nên con người mơ mộng ước vọng, hoài bão to tát mà thiếu khả năng hành động, vô dụng.

Giáp Dần Ất Mão hai chi đều thuộc Mộc, đều vững mạnh trước hung vận, nhưng Ất Mão ý nhị hơn, mềm dẻo hơn vì cả Ất lẫn Mão đều là âm mộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại Khê Thủy - Nước ở dòng suối lớn

Những người "bất tử" có thật trên đời

Những thi thể không phân hủy, trường tồn với thời gian, được bảo quản nguyên vẹn sau hàng chục, thậm chí hàng trăm năm cho thấy ước mơ “bất tử” luôn tồn tại
Những người "bất tử" có thật trên đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những xác ướp không phân hủy, trường tồn với thời gian, được bảo quản nguyên vẹn sau hàng chục, thậm chí hàng trăm năm cho thấy ước mơ “bất tử” luôn tồn tại trong con người.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
  Eva “Evita” Perón

Nhung nguoi bat tu co that tren doi (phan 1) hinh anh 2
 
Eva Perón là người vợ đầu tiên của Juan Perón – Tổng thống Argentina thời đó, được đông đảo người dân mến mộ và quyết định ướp xác khi bà qua đời.
 
Quy trình ướp xác được thực hiện bởi giáo sư nổi tiếng về giải phẫu – Tiến sĩ Pedro Ana. Quy trình ướp xác gồm: rút hết máu và nước ra khỏi thi thể với glycerin và lưu giữ lại tất cả các cơ quan nội tạng, bao gồm cả não. Quá trình này mất một năm để hoàn thành.   John Torrington

Đôi khi thiên nhiên có thể bảo quản thi thể còn tốt hơn cả kỹ thuật ướp xác của con người. Trường hợp của John Torrington, một cán bộ thám hiểm Bắc Cực, qua đời vì nhiễm độc chì ở tuổi 20 và được chôn cất tại cao nguyên lạnh giá cùng với ba người khác ngay ở trang trại của đoàn thám hiểm.
 
Trong những năm 1980, ngôi mộ của ông được khai quật bởi các nhà khoa học. Khi họ mở quan tài và làm tan khối băng bên trong, họ rất ngạc nhiên, và sợ hãi, bởi thi thể nguyên vẹn như vẫn còn sống.
 
Rosalia Lombardo

Khi Rosalia Lombardo qua đời vào năm 1918 vì bệnh viêm phổi, cha cô – Tướng Lombardo đã tìm đến nhà ướp xác Alfredo Salafia để nhờ bảo quan thi thể của cô.
 
Thi thể Rosalia Lombardo đã được bảo quản bằng một hỗn hợp các hóa chất bao gồm formalin, các muối kẽm, cồn, axit salicylic và glycerin. Và hơn 80 năm qua thi thể cô bé vẫn tươi tắn đáng yêu như đang ngủ một giấc ngủ bình yên.
 
La Doncella

Nhung nguoi bat tu co that tren doi (phan 1) hinh anh 2
 
Hơn 500 năm trước, một bé gái 15 tuổi La Doncella và hai đứa trẻ khác đã bị người Inca đóng băng đến chết trong một nghi lễ tôn giáo. Trong tư thế ngồi bắt chéo chân trên đỉnh núi Llullaillaco, cô đã bị ép dùng thuốc với chicha và coca để chìm sâu vào giấc ngủ thiên thu như nghi lễ hiến sinh cho Chúa trời.
 
Năm 1999, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra 3 thi thể không phân hủy này gần như còn nguyên vẹn hình hài trong dãy núi Andes. Mái tóc cô bé thậm chí vẫn được tết rất công phu như lúc cô qua đời.    Xác ướp ngập nước ở Trung Quốc

Xác ướp của Dai Xin Zhui được xem là xác ướp tốt nhất được tìm thấy, không phải vì ngoại hình mà vì sự bảo toàn đầy đủ các cơ quan trong cơ thể. Không giống như Lenin, cơ quan nội tạng của Dai Xin Zhui hoàn toàn nguyên vẹn, bao gồm cả não. Cũng không giống như xác ướp Evita, các mô của bà vẫn còn mềm mại, chân tay có thể uốn cong lại được. Tình trạng của cơ thể là vô cùng đáng kinh ngạc với một thi thể đã 2.100 tuổi.
 
Dai Xin Zhui là vợ của một Hoàng đế nhà Hán. Bà được chôn cất trong một ngôi mộ lớn, thi thể không phân hủy của bà được ngâm trong một loại chất lỏng bí ẩn mà các nàh khao học vẫn chưa nghiên cứu ra. Chính loại chất lỏng này đã bảo quản xác ướp một cách hoàn hảo đến vậy.

Các xác ướp ở Greenland

Năm 1972, 8 thi thể không phân hủy của người Eskimo được phát hiện trong một ngôi mộ đông lạnh ở Qilakitsoq. Các xác ướp được xác định là một gia đình gồm một đứa trẻ sáu tháng tuổi, một đứa trẻ bốn tuổi và sáu phụ nữ ở những độ tuổi khác nhau. Họ đã chết khoảng 500 năm trước. Đây là những xác ướp lâu đời nhất ở Greenland. Những cái xác này được ướp một cách tự nhiên nhờ nhiệt độ và gió khô trong hang.

Vẻ đẹp của Xiaohe

Năm 2003, các nhà khảo cổ khai quật nghĩa trang Xiaohe Mudi của Trung Quốc và phát hiện ra một xác ướp phụ nữ. Điều đặc biệt là tóc, da và thậm chí cả lông mi của người phụ nữ này được bảo quản rất hoàn hảo, vẻ đẹp của cô dường như còn nguyên vẹn dù đã qua 4 thiên niên kỷ. Chính đặc tính nhiệt độ và không khí hanh khô ở vùng Tân Cương đã tạo ra  thi thể không phân hủy tuyệt đẹp này.
Lạt ma Dashi-Dorzho Itigilov

Nhung nguoi bat tu co that tren doi (phan 2) hinh anh 2
 
Ông là một vị tu sĩ lạt ma Phật giáo người Nga chết vào năm 1927. Thể theo di nguyện của ông, vị lạt ma đã được chôn cất trong tư thế ngồi thiền hoa sen và mặc áo choàng tu hành. Vào năm 1955, các tu sĩ khai quật và phát hiện thi thể hoàn toàn nguyên vẹn.

Ramesses Đại đế


Nhung nguoi bat tu co that tren doi (phan 2) hinh anh 2
 
Ramesses đệ nhị hay Ramesses Đại đế được coi là pharaoh mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất Ai Cập cổ đại. Sau khi chết, Ramesses được chôn cất tại Thung lũng các vị vua trong một ngôi mộ rất lớn. Xác ướp của Ramesses được phát hiện năm 1881 và trong tình trạng hầu như nguyên vẹn. Không giống như các xác ướp khác, trong đó có Tutankhamun, mũi Ramesses còn nguyên vẹn và không hề bị phá hủy. Hiện nay, xác ướp của Ramesses đại đế đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cairo.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những người "bất tử" có thật trên đời

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan những người trẻ cần phải biết

Ngày Vu Lan là ngày gì? Ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan là gì? Đây có lẽ là thắc mắc của khá nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ. Trước tiên, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về nguồn gốc của ngày Vu Lan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong ngày rằm tháng 7 hàng năm, một mùa lễ phật giáo sẽ được tổ chức ở khắp các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Người Nhật Bản gọi đây là ngày Obon, người Trung Quốc gọi đây là ngày Vu Lan Bồn hay Ô Lam Bà Na, người Việt Nam gọi tắt ngày này là ngày Vu Lan, hay Vu Lan báo hiếu. Trong tâm thức của người dân Việt Nam, ngày lễ Vu Lan tức ngày 15 tháng 7 âm lịch từ lâu đã trở thành một ngày quan trọng không thể thiếu bởi nó mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng, cao cả. Chúng ta sẽ cùng Phong thủy số tìm hiểu ý nghĩa ngày lễ Vu Lan ngay sau đây.

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan những người trẻ cần phải biết

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan

Ngày Vu Lan là ngày gì? Ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan là gì? Đây có lẽ là thắc mắc của khá nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ. Trước tiên, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về nguồn gốc của ngày Vu Lan.

1. Nguồn gốc ngày lễ Vu Lan

Vu Lan hay còn gọi là Vu Lan báo hiếu, Vu Lan bồn, có nguồn gốc từ chữ phạn là Ullambana. Theo phật thoại kể lại rằng:

Tôn giả Mục Kiền Liên, người là đệ tử xuất chúng của Đức Phật. Ngày có phật pháp vô biên, nhưng không vì thế mà ngài quên đi người mẹ đã sinh thành ra mình. Mẹ ngài là bà Thanh Đề, đã mất. Sau khi tu được khả năng dùng tuệ nhãng quan sát khắp 4 phương 8 hướng, ngài đã dùng tuệ nhãn để tìm xem người mẹ của mình đang như thế nào. Do khi còn sống, bà Thanh Đề cực kỳ tham lam và độc ác, do đó khi mất, bà bị đày xuống 8 tầng đại ngục, thân thể chỉ còn da bọc xương, ăn không được ăn uống không được uống. Thấy thế Mục Kiền Liên vô cùng thương xót đã dùng phép thần thông đưa cơm xuống cho mẹ.

Nhưng do nghiệp lực quá lớn, tội chưa trả hết, nên khi cầm bát cơm ấy trên tay, nó liền biến thành than đỏ, không thể ăn được, bà Thanh Đề đau khổ 1 phần thì ngài Kiền Liên đau đớn gấp bội phần.

Do quá xót xa, ngài liền cầu cứu đến Đức Phật. Quá cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên, Đức Phật liền chỉ cách rằng “đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, chư phật chư tăng sẽ làm lễ cúng dàng. Ông hãy nhờ các chư phật chư tăng khắp mười phương cầu nguyện cho mẹ thì mới có thể siêu thoát, một mình ông sẽ không thể làm được gì”.

Nghe lời phật dậy, vào đúng ngày rằm tháng 7, tôn giả Mục Kiền Liên liền thỉnh các chư tăng cùng cầu nguyện, cuối cùng không chỉ bà Thanh Đề được siêu thoát mà tất cả các vong linh khác cũng nương vào đó mà được siêu thoát.

Kể từ đó, hàng năm, cứ đến ngày 15/7 âm lịch, phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan tri ân, báo ân đến với ông bà bố mẹ kiếp này cũng như nhiều kiếp khác.

2. Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan

Sau khi tìm hiểu về nguồn gốc của ngày Vu Lan có lẽ phần nào trong chúng ta cũng sẽ thấy được ý nghĩa ngày lễ Vu Lan ở trong đó.

Ngày lễ Vu Lan là dịp nhắc nhở con cháu nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Ngoài ra, ngày lễ Vu Lan còn mang ý nghĩa giáo dục đầy nhân văn, dậy con người ta phải viết từ bi hỉ xả, ăn quả nhớ kẻ trồng cây..

Ngày lễ Vu Lan là ngày báo ân, báo hiếu không chỉ với cha mẹ hiện tiền mà còn cả cha mẹ ở nhiều đời nhiều kiếp khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan những người trẻ cần phải biết

Tìm hiểu về tục gói bánh chưng ngày Tết ở Việt Nam

Ở Việt Nam, việc thờ bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được nhiều bình diện cuộc sống, thể hiện được những quan niệm về vũ trụ - nhân sinh. Cùng tìm hiểu về tục gói bánh chưng vào dịp Tết dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục thờ bánh chưng vào dịp Tết là sự thể hiện nét văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, được nhân dân lưu truyền từ thời Hùng Vương (đời thứ Sáu) cho đến ngày nay, đồng thời giải thích ý nghĩa biểu trưng (khuôn hình) của bánh chưng, bánh giầy (bánh tét, bánh tày) (sẽ được bàn ở phần dưới). Hơn hết, phong tục này còn là sự khẳng định tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.

1. Biểu trưng của vũ trụ - nhân sinh quan

Những ý nghĩa biểu trưng về vũ trụ - nhân sinh quan qua bánh chưng, bánh giầy được thể hiện từ tên gọi, hình thể cho đến nguyên liệu làm nên nó. Trước hết, tìm hiểu bánh chưng với tư cách như một thuật ngữ. Ngỡ tưởng loại bánh này trong quá trình nấu chín, người ta phải luộc lên, nhưng nếu là "luộc" thì có gì đáng bàn. Song gọi là bánh chưng có thể rơi vào trường hợp: trong quá trình nấu bánh, người ta không cho nước tiếp xúc với vật liệu được luộc (tức là bánh), thì ắt có lẽ là hình thức hấp hoặc chưng (nấu cách thuỷ). Bởi vậy, giải thích cho tên gọi bánh chưng theo cách này có vẻ rất hợp lí.


Bánh chưng là loại bánh vuông với hình khối, còn bánh giầy được xem là loại bánh hình trụ tròn. Như vậy, chúng ta thấy rằng bánh chưng, bánh giầy đã là sự biểu trưng về quan niệm vũ trụ. Bánh giầy, tròn và dài biểu trưng cho trời, bánh chưng vuông biểu trưng cho đất, phù hợp với triết lí Trời tròn - Đất vuông của biện chứng Đông Phương nói chung và Việt Nam nói riêng.

Mặt khác, với quan niệm nhân sinh thì đây là một trong những tín ngưỡng phồn thực của người Việt Nam, bánh giầy tượng trưng cho sinh thực khí nam giới (Linga); bánh chưng, tựng trưng cho sinh thực khí nữ giới (Yoni). Tín ngưỡng phồn thực này, mới nghe tưởng như dung tục, nhưng xét cho cùng, nó rất phù hợp với quan niệm của người Việt thời tiền sử. Con người thời đó quá "bé nhỏ", yếu ớt trước thiên nhiên huyền bí.

Người ta thường áp hai bánh chưng, hoặc hai bánh giầy với nhau thành từng đôi một, thể hiện mong ước, quan niệm nhân sinh của con người rằng trong cuộc đời cần có đôi có cặp để sống với nhau đến đầu bạc răng long. Như vậy, chỉ qua hình thức của bánh và cách bày trí nó thôi, cũng đủ cho chúng ta thấy người Việt rất sâu sắc giàu quan niệm về vũ trụ, nhân sinh.

Còn ruột và nhân bánh có hàm ý biểu trưng gì chăng? Nhân bánh được nếp phủ xung quanh và phía ngoài lại được lá bao bọc, tượng trưng cho sự biết ơn công lao cha mẹ sinh thành đã thương yêu con cái mà đùm bọc, chở che, khác nào áo choàng lấy thân vậy!

2.  Bánh chưng - niềm tự hào ẩm thực Việt

Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại: mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,... đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã tạo nên một không khí, không gian rất "Tết"!

Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông thật mĩ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Đó là loại thức ăn vừa độc đáo, vừa gần gũi. Độc đáo ở chỗ: là loại bánh do chính người Việt Nam (Hoàng tử Lang Liêu - đời Hùng Vương thứ 6) sáng tạo nên (theo cách giải thích huyền sử về nguồn gốc bánh chưng). Từ xưa tới nay, bánh chưng, bánh giầy Việt Nam không lẫn, không phỏng theo bất kỳ thứ bánh nào của các quốc gia khác. Nó là loại thức ăn rất gần gũi với người Việt Nam, được làm nên từ những nguyên liệu không đến nỗi hiếm hoi trong dân gian như: gạo nếp, thịt heo, hành, tiêu, đậu xanh, lá dong rừng (hoặc lá chuối, lá tre...), lạt giang...và có khi thêm những nguyên liệu phụ như: quả chùm phù (lúc chín có màu đỏ), quả gấc... để tăng phẩm màu cho nhân bánh thêm đẹp.


Ngẫm ra, phong tục truyền thống thờ cúng và thưởng thức bánh chưng ngày Tết của người Việt Nam thật lắm điều thú vị. Nó vừa mang nét văn hóa tín ngưỡng tâm linh, vừa mang nét văn hóa ẩm thực. Cả hai cùng quyện lẫn vào nhau trong một chỉnh thể cân xứng giữa một bên là vẻ hình thức bề ngoài, một bên là những nguyên liệu bên trong của bánh chưng. Chỉnh thể cân xứng, thống nhất đó được thể hiện bằng "quy trình": gói, thờ cúng và thưởng thức bánh chưng như sự mặc định sở hữu về một trong những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam.

Trong những ngày cuối cùng của tháng Chạp hàng năm, mọi người từ miền xuôi cho tới miền ngược, từ ven biển, đồng bằng cho tới vùng cao, từ nông thôn cho tới thành thị, thậm chí cả những kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đều hòa chung bầu không khí an lành: đón Tết Nguyên đán. Mọi người lại hồ hởi bắt tay vào công việc gói bánh bánh chưng thờ Tết. Nếu những gia đình ở đô thị vì bận công việc, buôn bán, không có thì giờ để gói bánh chưng thì họ lại đặt mua. Thế là "thịt mỡ", "dưa hành", "câu đối đỏ", mai (đào), kẹo, mứt, rượu cùng bánh chưng xanh lại được bày biện lên bàn thờ của nhà nhà trên dải đất hình cong chữ S này trong một nét văn hóa, một nét phong tục truyền thống đặc trưng rất Việt Nam: đón Tết cổ truyền và thờ bánh chưng xanh.

Theo lamsao.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về tục gói bánh chưng ngày Tết ở Việt Nam

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992 - Tuổi thân - Xem Tử Vi

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, Tuổi thân, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, tu vi Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992, tu vi Tuổi thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992

Tử vi tuổi Thân, hôm nay 12 con giáp sẽ cho bạn biết khi tiến hành kết hôn tuổi Nhâm Thân – 1992 lưu ý những điều sau:
  • Trai kỵ cưới vợ năm 16, 22, 28, 34, 40, 46, 52 tuổi.
  • Gái kỵ có chồng năm 16, 22, 28, 34, 40, 46, 52 tuổi.
  • Trai hay gái gặp buồn phiền bất nhân duyên, sinh nhằm tháng 4, tháng 10.
  • Hướng căn duyên : Mùi.
  • Trai có số lưu thê hoặc đa đoan về việc vợ : Sinh tháng 1, 5, 6, 9 và tháng 12
  • Gái cố số lưu phu hoặc trái cảnh: Sinh tháng 1, 10, 2 và tháng 12. Gái có số khắc con, khó sinh và khó nuôi : sinh các tháng 12 và tháng 3.
  • Trai kiêng kỵ cưới gả vào năm Mão, hợp với Can Đinh, Kỵ can Mâu. Hợp các tuổi Tí, Thìn. Kỵ các tuổi Dần – Hợi. Đối với các tuổi khác thì Bình Hòa.
tuoi-ky-ket-hon-tuoi-nham-than-1992

 

1. So duyên theo Phi Cung Tuổi Nhâm Thân 1992

Tuổi Nhâm Thân 1992 mệnh Khôn, phi Cấn 

  • Trai Nhâm Thân – Gái Nhâm Thân ( Cấn/ Đoài) : Phúc Đức
  • Trai Nhâm Thân – Gái Giáp Tuất (Cấn/ Cấn ) : Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Ất Hợi ( Cấn/ Khảm ) : Ngũ Quỷ
  • Trai Nhâm Thân – Gái Bính Tý ( Cấn/ Khôn) : Sinh Khí
  • Trai Nhâm Thân – Gái Đinh Sửu ( Cấn/ Chấn): Du hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Mậu Dần ( Cấn/ Tốn ) : Tuyệt mạng
  • Trai Nhâm Thân – Gái Kỷ Mão ( Cấn/ Cấn ) : Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Gái Canh Thìn ( Cấn/ Càn) : Thiên y
  • Trai Nhâm Thân – Gái Tân Tỵ ( Cấn/ Đoài) : Phúc Đức
  • Trai Nhâm Thân – Gái Nhâm Ngọ ( Cấn/ Cấn ): Quy hồn
  • Trai Nhâm Thân – Quý Mùi ( Cấn / Ly ): Tuyệt mạng
  • Trai Nhâm Thân – Gái Giáp Thân ( Cấn/ Khảm ) : Ngũ Quỷ

2. Những lưu ý và đại kỵ kết hôn theo tiền định của tuổi Nhâm Thân 1992

Trai tuổi Nhâm Thân đại kỵ lấy vợ có tuổi dưới đây

  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Ất Hợi . Chồng hơn vợ 3 tuổi phạm tuyệt mang.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Bính Tý. Chông lớn hơn vợ 4 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Nhâm Ngọ. Chồng lớn hơn vợ 10 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Đinh Hợi. Chồng lớn hơn vợ 15 tuổi phạm Tuyệt Mạng.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Mậu Tý. Chồng lớn hơn vợ 16 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Canh Ngọ. Vợ lớn hơn chồng 2 tuổi phạm Biệt Ly.
  • Chồng tuổi Nhâm Thân vợ tuổi Giáp Tý. Chồng ít hơn vợ 8 tuổi phạm Biệt Ly.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Kỵ Kết hôn tuổi Nhâm Thân 1992 - Tuổi thân - Xem Tử Vi

Mơ thấy gió: May mắn với giấc mơ về cơn gió

Trong giấc mơ thấy gió, gió tượng trưng cho vận may hoặc sự bất định cũng giống như tính chất của gió.
Mơ thấy gió: May mắn với giấc mơ về cơn gió

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong giấc mơ, gió tượng trưng cho vận may hoặc sự bất định cũng giống như tính chất của gió.


May man voi giac mo ve con gio hinh anh
Ảnh minh họa
Giải mã giấc mơ, nếu mơ thấy cơn gió mát nhè nhẹ, ngụ ý bạn là người có đạo nghĩa. Vì vậy, bạn sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.    Một cơn gió xuân ấm áp, trong lành thổi qua trong giấc mơ, báo hiệu bạn sẽ luôn được bình an và sớm thành công trên con đường công danh, sự nghiệp.   Nếu bạn là thương nhân, trong giấc mơ, cơn gió thoang thoảng mang theo hương thơm của hoa cỏ, báo hiệu công việc làm ăn, buôn bán thuận lợi. Bạn hãy tiếp tục đầu tư kinh doanh và thu lợi nhuận nhiều hơn nữa.   Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy cơn gió thổi tràn lan khắp nơi, ám chỉ rằng, bạn đang làm việc không có kế hoạch. Hãy cẩn trọng và nhìn xa trông rộng hơn, nếu không, bạn sẽ khó có được thành công trong sự nghiệp.   Mơ thấy gió thổi bay bụi đất là điềm lành. Bạn sẽ trút bỏ được phiền muộn, đón nhận niềm vui và hướng tới những điều thanh cao, tốt đẹp hơn trong cuộc sống.   Nếu mơ thấy bị gió cuốn là ngụ ý, bạn hãy thay đổi thói quen, nâng cao nhận thức bản thân, tự hoàn thiện mình, mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

Theo Giấc mơ và vận mệnh của con người trong cuộc sống

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gió: May mắn với giấc mơ về cơn gió

Phong thủy tình yêu –

Với một vài thay đổi nhỏ như bổ sung đồ đôi, bỏ đi những biểu tượng tiêu cực, tình yêu sẽ tìm đến với bạn. 1. Bổ sung đồ đôi Nếu bạn muốn bắt đầu một mối quan hệ, đừng để xung quanh mình là hình ảnh của những thứ đơn độc. Tránh đặt một chiếc ghế lẻ l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với một vài thay đổi nhỏ như bổ sung đồ đôi, bỏ đi những biểu tượng tiêu cực, tình yêu sẽ tìm đến với bạn.

1. Bổ sung đồ đôi

dav4-8028-1400554715

Nếu bạn muốn bắt đầu một mối quan hệ, đừng để xung quanh mình là hình ảnh của những thứ đơn độc. Tránh đặt một chiếc ghế lẻ loi trong góc phòng, bức họa gợi tới sự cô đơn. Đó là điều quan trọng để tạo ra năng lượng cho mối quan hệ xung quanh. Vì thế, hãy để đồ đạc xung quanh hay trên giường có đôi có cặp.

2. Trang trí hình ảnh hạnh phúc

Để cải thiện cuộc sống hôn nhân, bạn nên treo những bức hình tươi cười, vui vẻ của vợ chồng hoặc gia đình ở hành lang, nhà bếp và những chỗ hay qua lại. Trong phòng ngủ, chỉ nên treo hình ảnh của vợ chồng hoặc các đôi lứa (nếu bạn chưa kết hôn).

3. Sắp xếp bàn ăn hình tròn

dav1-8194-1400554716

Khi nói đến việc tạo ra tình yêu nhiều hơn, phòng ăn là không gian quan trọng thứ hai sau phòng ngủ. Sắp xếp bàn ăn để mọi người có thể nhìn thấy nhau, đặt ghế đủ cho tất cả mọi người ngay cả khi gia đình không thể ăn cùng nhau mỗi tối.

4. Tạo phòng ngủ ấm cúng

Hãy bắt đầu từ việc đóng kín bất cứ căn phòng liền kề như phòng tắm, phòng làm việc, phòng tập… nếu không có cửa, hãy thay nó bằng rèm. Nên có khu dành riêng ngồi tán gẫu, xếp ghế gần nhau. Khi không gian trở nên lớn hơn, con người sống xa nhau và tình cảm cũng xa rời.

5. Sử dụng màu tươi sáng

dav3-2895-1400554717

Màu sắc rất quan trọng trong phong thủy. Màu hồng là một trong những màu sắc tốt nhất để trang trí phòng ngủ vì nó tượng trưng cho tình yêu, niềm vui, hạnh phúc và lãng mạn. Tránh sử dụng màu sắc thuộc hành thủy như đen, xám, xanh sẫm vì chúng có xu hướng gây ảnh hưởng xấu đến chuyện tình duyên.

6. Loại bỏ biểu tượng tiêu cực

Để giảm căng thẳng và mâu thuẫn trong gia đình cần kiểm tra môi trường xung quanh. Có gia đình treo hai thanh gươm đan chéo nhau phía đầu giường và giữa họ đã xảy ra không ít tranh cãi hay lục đục. Hãy chỉ giữ lại những hình ảnh đẹp, vừa ý, mang lại cảm hứng và nâng cao tinh thần. Bên cạnh đó, hãy loại bỏ tivi, máy tính xách tay, điện thoại hay các thiết bị điện tử ra khỏi giường ngủ. Hãy để phòng ngủ là nơi dành cho đam mê và sự trẻ hóa. Tránh treo những hình ảnh hoặc đồ nội thất liên quan tới người ngoài gia đình trên tường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tình yêu –

Xem tướng mũi phụ nữ biết ngay phận chồng

Phụ nữ lấy chồng như chơi bạc, may hơn khôn. Bạn có biết theo nhân tướng học thì xem tướng mũi phụ nữ sẽ biết trước tương lai gả cho người chồng thế nào không?
Xem tướng mũi phụ nữ biết ngay phận chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ nữ lấy chồng như chơi bạc, may hơn khôn. Bạn có biết theo nhân tướng học thì xem tướng mũi phụ nữ có thể biết trước tương lai sẽ gả cho người chồng thế nào không? Cùng theo dõi với Lịch ngày tốt nhé.   Hôn nhân là một điều thiêng liêng, đặc biệt là đối với phụ nữ. Hai con người về chung sống với nhau, muốn hạnh phúc cần hội tụ rất nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn giản cứ gả vào nhà giàu có là sẽ được hưởng thái bình. Theo nhân tướng học, đường hôn nhân của phụ nữ có hạnh phúc hay không cần xem tướng trán, mắt và xương quai xanh. Nhưng quan trọng nhất, yếu tố quyết định vẫn là tướng mũi.   Trong tướng khuôn mặt, mũi là vị trí thể hiện cái tôi cá nhân. Với nữ giới, mũi được coi là phu tinh, xem tướng sẽ biết phận chồng con sau này ra sao. Thuật tướng số có câu rằng: Sơn niên thọ biên, trượng phu chí đoản. Mũi được chia làm 4 phần, “sơn, niên, thọ” dùng để chỉ sơn căn, niên thượng, thọ thượng, cùng với tỳ chuẩn tạo thành một chiếc mũi hoàn chỉnh. Mũi còn đại diện cho chí tiến thủ, tham vọng, ý chí, nghị lực và thế giới quan của một người nữa.


xem tuong mui phu nu3
 
  Xem tướng mũi phụ nữ có thể biết được người chồng tương lai là người đàn ông như thế nào, qua đó biết được có lấy nhầm chồng không, cuộc sống sau hôn nhân hạnh phúc hay bất hạnh. Tướng mũi phụ nữ còn thể hiện sự nghiệp của người chồng có hanh thông, phát đạt hay không.   Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn những mẹo nhỏ để biết được về hôn nhân, về một nửa của mỗi người qua xem tướng mũi phụ nữ nhé.  

1. Xem tướng mũi phụ nữ: Sống mũi thấp thì chồng sự nghiệp bất ổn

  Sách tướng số nói rằng: Nữ mệnh sống mũi thấp, tướng lão bà bà. Câu đó có nghĩa là người con gái mà mũi thấp thì có khả năng lấy phải người chồng không có ý chí. Chồng không có tài, sự nghiệp không có gì khởi sắc, có thể mắc phải những tật xấu khó bỏ hoặc kém may mắn, làm gì cũng thất bại. Có người chồng như vậy nên người vợ cùng chẳng được sung sướng ngày nào, chẳng mấy mà già xấu như bà lão, suốt ngày phải chăm sóc lũ trẻ, phục dịch bố mẹ già, còn phải đứng ra lo toan kinh tế cho cả gia đình, vô cùng khổ cực.


xem tuong mui phu nu1
 
 

2. Xem tướng mũi phụ nữ: Mũi nhỏ tẹt chồng chẳng có tài

  Nhân tướng học cho rằng, người phụ nữ mà có mũi nhỏ tẹt, mặt to mà mũi nhỏ thì không có phúc nhờ chồng. Đó là vì mũi tượng trưng cho phu tinh, chủ hôn nhân, quyền lực và tài vận. Nếu trời sinh tướng mũi đẹp thì may mắn gả cho người tốt, còn có thể vượng phu ích tử, giúp cho sự nghiệp của chồng ngày càng vượng phát, tài lộc hanh thông.   Nhưng nữ mệnh mũi tẹt nhỏ thì nhiều khả năng lấy phải kẻ bất tài, chẳng có tài cán gì nên sự nghiệp chẳng ra sao, người vợ cũng không giúp được chồng về công danh địa vị. Song nếu mũi quá cao, đầu mũi nhọn thì theo tướng số cũng không tốt. Đầu mũi phải tròn trịa, có thịt đầy đặn, có thế thì Chính Tài mới vượng, chỉ nhờ sức mình cố gắng mà có thể tay trắng làm nên sự nghiệp.  

3. Xem tướng mũi phụ nữ: Mũi cao thẳng, đầy đặn có thể hưởng phúc khí từ chồng

  Theo sách tướng số, người nữ có mũi cao thẳng, đầy đặn là người có phúc hưởng nương nhờ chồng, là số quý nhân. Mũi vừa cao vừa thẳng, đầu mũi đầy đặn, tròn trịa mà vẫn thanh thoát, phần lớn đều là người có quý khí, mang mệnh phu nhân nhà quyền quý, là tướng mặt phụ nữ giúp chồng giàu sang hiển đạt   Cho dù học hành không được tốt, cũng chẳng có tài năng gì nổi bật xuất chúng, nhưng nhờ sự tự tin và can đảm, khéo léo, bản thân người phụ nữ này cũng làm nên sự nghiệp với khá nhiều thành công. 


xem tuong mui phu nu
 
  Người có mũi cao, đầu mũi tròn, sống mũi lại không có nốt ruồi, lỗ mũi không lộ thì chính là phúc tướng, có số vượng phu. Chồng họ đa phần theo nghiệp buôn bán, là nhân tài trong giới kinh doanh, làm ăn phát đạt, quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng.    Người phụ nữ có tướng mũi như vậy thường tâm địa thiện lương, lòng dạ bao dung rộng rãi, quen biết nhiều người, có tài xã giao, lại nhiệt tình giúp đỡ mọi người. Suy nghĩ tinh tế, thấu đáo, lại thông minh hiểu sự đời, có thể giúp cho chồng vượt qua nhiều cửa ải khó khăn. Người nữ có tướng mũi đẹp chẳng những lấy được chồng giỏi giang mà còn có thể giúp chồng vận thế thêm tăng tiến.  

4. Xem tướng mũi phụ nữ: Sống mũi cao, gồ lên là tướng khắc phu

  Người phụ nữ có tướng mũi như đồng bằng mọc lên ngọn núi cao, sống mũi gồ lên thì cá tính rất mạnh, thích độc lập tự do, cái tôi lớn, tự cao tự đại, khinh thường người khác, luôn cho mình là tài giỏi không ai bằng, cũng ích kỉ chỉ nghĩ cho bản thân, không quan tâm đến người khác. Cũng chính vì tính tình như vậy nên họ có ít bạn bè, cũng chẳng có người tri kỉ, có thể phải chịu cảnh cô đơn đến già.   Đây là tướng mũi của người có số mệnh cô độc, nếu xương quai xanh mà lõm sâu xuống thì chuẩn là tướng quả phụ. Phụ nữ có sống mũi gồ, cong thì dù có lấy được chồng, cuộc sống cũng không được như ý, hay gặp phải những chuyện đen đủi.

Mời bạn đọc thêm: Tướng mũi điển hình của phụ nữ khắc chồng.


xem tuong mui phu nu2
 
 

5. Xem tướng mũi phụ nữ: Mũi cao nhọn thì hôn nhân khó bề hạnh phúc

  Phụ nữ mà mũi nhọn thì tính tình khó khăn, hay kén chọn, lòng dạ hẹp hòi. Họ lúc nào cũng tìm ra lỗi lầm của người khác, nhìn đàn ông chỉ thấy khuyết điểm, nhưng chọn tới chọn lui, cuối cùng vẫn vớ phải người chẳng được như ý. Chồng người này không có chí tiến thủ, cả ngày chỉ làm những chuyện không đâu, cho dù vợ có nói chuyện, góp ý hay trách móc thế nào cũng chẳng có bất cứ phản ứng gì, coi mọi chuyện như không.   An An

Sở hữu nét tướng này, chị em cả đời hưởng phú quý Đặc điểm nhận diện mặt phụ nữ lấy chồng đại gia Những nét tướng phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mũi phụ nữ biết ngay phận chồng

Tử vi Ất dậu Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi Ất Dậu là gà gáy báo trời sáng, tính cách lanh lợi, là người giữ chữ tín, thích kết bạn, làm quen, bậc quân tử gặp thì quý, kẻ tiểu nhân gặp thì ghét.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ẤT DẬU: TỈNH TUYỀN THỦY

Trong tử vi Ất Dậu là gà gáy báo trời sáng, tính cách lanh lợi, là người giữ chữ tín, thích kết bạn, làm quen, bậc quân tử gặp thì quý, kẻ tiểu nhân gặp thì ghét. Nên phục vụ trong quân đội hoặc theo nghiệp võ binh.

Tịnh tuyền Thủy là suối nước lạnh thanh khiết, nguồn dài vô tận, nuôi sống muôn dân.

 

Thủy này sinh ỏ Kim mà xuất ở Thủy, cho nên ưa gặp Kim là phúc. Giáp Ngọ Ất Mùi Sa trung Kim mang Thổ tính, ưa gặp nhất; tiếp đến là Canh Tuất, Tân Hơi Thoa xuyến Kim. Có những Kim này không nên lại có Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, bởi vì phạm tương xung.

Thủy Ât Dậu tự bại, cần có Kim để trợ giúp, bởi vì khí ta đã nhược, mượn mẹ nuôi dưỡng. At Sửu Hải trung Kim là tượng dưới núi có suối, cát lợi.

Thủy này không có Mộc không thể xuất, cho nên gặp Mộc đều chủ về cát lợi Duy gặp Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc; Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc thì các trụ khác cần có Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim để gọt vót.

Nhâm Tý, Quý Sửu Tang đô" Mộc; Nhâm Ngọ, Quý Mùi Dương liễu Mộc, vô ích. Gặp Tân Mão Tùng bách Mộc là đại cát. Ất lộc tại Mão, Tân lộc tại Dậu, song lộc thích đạp, chủ về giàu có.

Hỏa gặp Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa gọi là nhập thánh. Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa gọi là hiển chiếu.

Các Thổ lấy Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ; Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ là thượng cát. Bính Tuất, Đinh Hợi ốc thượng Thổ, có thiên môn sinh Thủy cũng đẹp.

Các Thổ khác là vô dụng. Kỵ nhất Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ, Thủy bị Thổ chặn, không thể vượt lên, nếu như có Thủy chảy đi còn được. Cũng ưa Nhâm Tuất, Quý Mùi Đại hải Thủy, gọi là Dẫn phàm nhập thánh cách. Các Thủy khác cũng không làm hại.

Nếu như niên trụ và thời trụ là Thủy, nguyệt trụ và nhật trụ là Mộc, gọi là Thủy nhiễu hoa đê cách, chủ về sang quý.

Các Địa chi của trụ khác có Dậu, phạm hình,  chủ về cố chấp bảo thủ, vợ chồng duyên bạc.

Các Địa chi của trụ khác có Mão, con cái duyên bạc.

Ât quý tại Tý, Địa chi của các trụ khác ưa Tý.

Trong tử vi Ất dậu gặp năm Dậu, năm Mão, trong nhà không yên ổn. Nếu như bản thân không bị thương hại thì người nhà cũng khó được yên ổn.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ. Không nên gặp ngưòi sinh năm Canh, Tân.

Nếu như thời chi có Sửu, nên theo tôn giáo.

Nếu như nhật chi có Sửu, hình khắc 2 bạn đời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Ất dậu Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Tỳ hưu và những công dụng tuyệt vời trong phong thủy

Tỳ hưu trong phong thủy tượng trưng cho tài lộc, công danh và sự may mắn. Cùng tìm hiểu những tác dụng cực kỳ hữu hiệu này của tỳ hưu trong phong thủy nhé !
Tỳ hưu và những công dụng tuyệt vời trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, tỳ hưu tượng trưng cho tài lộc, công danh và sự may mắn. Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu những tác dụng cực kỳ hữu hiệu của tỳ hưu trong phong thủy nhé !


Thuyết minh


Tỳ hưu là loại mãnh thú huyền thoại, trong phong thủy nó tượng trưng cho tài lộc, công danh và sự may mắn. Tương truyền con đực được gọi là tỳ, con cái gọi là hưu, nhưng hiện nay cả con đực và con cái đều được gọi chung bằng cái tên tỳ hưu.

Tỳ hưu, vật phẩm phong thủy mang đến tài lộc, công danh cho gia chủ.


Tác dụng


Tỳ Hưu màu đen thì có tác dụng chiêu tài, phát lộc.

Tỳ Hưu màu trắng thì có tác dụng bảo trợ sức khỏe.

Tỳ Hưu màu xanh thì có tác dụng may mắn trong công danh.


Cách dùng


Ở nhà: Đặt Tỳ Hưu đầu quay ra ngoài với ý nghĩa cầu tài. Và nên đặt tỳ hưu ở các hướng tốt khi đã được khai quang như hướng: Sanh khí, Thiên y, Diên niên, Phục vị để mang lại may mắn cho gia chủ.

Ở văn phòng: Có thể đặt tượng tỳ hưu trên bàn làm việc, chú ý khi đặt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương. Và khi đặt bất cứ vật khí phong thủy nào, điều cần phải nhớ xem ngày giờ tốt để đặt.


Tác dụng trấn nhà để tránh tà khí


Tỳ Hưu còn có tác dụng trấn nhà để tránh tà khí (nhớ phải là Tỳ Hưu một sừng), ta đặt Tỳ Hưu đã được “khai quang” ở các hướng tốt trong nhà như : Sinh khí, Thiên y, Diên niên, Phục vị. Với hướng “sinh khí”, thì Tỳ Hưu có thể làm cho vận mệnh các thành viên trong gia đình chuyển biến tốt, vận mệnh tốt được nâng cao, đuổi tà khí đi và có tác dụng trấn nhà, vì vậy Tỳ Hưu đã trở thành thần bảo vệ cho gia đình, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà của bạn.

Tác dụng hóa giải Ngũ Hoàng Đại Sát


Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giải “Ngũ hoàng đại sát”. Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thủy, khi nó vào nhà thì tác dụng của nó thật vô cùng đáng sợ, mang đến những điều bất lợi cho tất cả các thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.


Lưu ý

Không quay Tỳ Hưu vào gương, vì gương có quang sát, Tỳ Hưu rất kỵ.

Không đặt đối với giường ngủ, vì như thế sẽ không có lợi cho chính mình.

Không sờ vào mắt, miệng, lưỡi, răng của Tỳ Hưu. Nếu không Tỳ Hưu sẽ bị mờ mắt, mòn răng và do vậy sẽ mang được ít vàng bạc châu báu đến cho gia chủ.

Không mang tỳ hưu trong lúc quan hệ nam nữ.

Không đem cho hoặc tặng tỳ hưu cho người khác nếu không tài lộc của mình sẽ chuyển qua họ.

Phụ nữ đến tháng hoặc có thai không được sờ mó tỳ hưu, vì tỳ hưu kỵ huyền sát, quang sát, thai sát.

Không nên thường xuyên lau chùi tỳ hưu.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tỳ hưu và những công dụng tuyệt vời trong phong thủy

Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Tìm hiểu sự tích ông Công ông Táo theo truyền thống. Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp (Âm lịch) các gia đình thường làm cơm cúng Táo quân về trời.
Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tìm hiểu sự tích ông Công ông Táo theo tuyền thống: Ông Công, ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam được xem là vị Thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà.


Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp (Âm lịch) các gia đình thường làm cơm cúng, tiễn đưa Táo quân về trời. Tục lệ này đã có từ xa xưa dựa theo những truyền thuyết được dân gian lưu truyền. Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thần Đất, thần Nhà và thần Bếp. Vì sao ngày 23 tháng Chạp lại cúng Táo quân, cùng tìm hiểu nhé!

  Sự tích ông Công ông Táo kể rằng ngày xưa có hai vợ chồng rất nghèo khổ, người chồng tên là Trọng Cao, người vợ tên là Thị Nhi. Hai người lấy nhau đã lâu mà không có con, chính vì vậy cuộc sống hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi. 
 
Một ngày nọ, vì quá tức giận mà Trọng Cao đánh vợ mình. Giận chồng, Thị Nhi bỏ nhà ra đi và bị một người đàn ông có tên Phạm Lang dùng lời ngon ngọt để quyến rũ, hai người sống như vợ chồng. Một thời gian sau, Trọng Cao hết giận, thấy vợ bỏ đi mãi không về, liền nóng ruột đi tìm khắp nơi nhưng không có tung tích gì. Ông quyết định bỏ nhà, bỏ công ăn việc làm để đi hành khất tìm vợ. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh
Trọng Cao hành khất tới xin nhà giàu - gặp lại Thị Nhi
  Một hôm vì quá đói và mệt, Trọng Cao gõ cửa một nhà giàu để xin ăn thì được bà chủ - chính là Thị Nhi mang cơm ra cho. Hai người bàng hoàng khi nhận ra nhau, tình xưa nghĩa cũ lại ùa về. Thế nhưng, Phạm Lang lại sắp đi làm đồng về, Thị Nhi bèn bảo Trọng Cao trốn vào trong đống rơm ở góc vườn. Vì quá mệt mỏi nên Trọng Cao ngủ thiếp đi không biết gì. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh 2
Phạm Lang đốt rơm vô tình thiêu cháy Trọng Cao
  Thật không may, Phạm Lang về nhà mục đích là để lấy tro mang ra bón ruộng, nên ông bèn châm lửa đốt đống rơm mà Trọng Cao đang say ngủ trong đó. Nhìn thấy người chồng cũ của mình bị chết cháy, Thị Nhi bèn lao vào lửa để chết theo. Phạm Lang vì thương vợ nên cũng lao mình vào đám cháy để cùng chết. 

Cách rút bớt chân bát hương và vệ sinh ban thờ ngày Tết
Vệ sinh bát hương ngày tết là điều nên làm khi tết đến xuân về, chúng ta nên vệ sinh ban thờ vào ngày 23 tháng Chạp.
Cũng có truyền thuyết ông Công ông Táo kể rằng: Một hôm vào ngày lễ, Thị Nhi đang đốt mã hóa vàng ngoài sân thì thấy có người hành khất tới xin ăn. Thị Nhi nhận ra đó chính là Trọng Cao – người chồng cũ của mình, liền động lòng thương và mang gạo ra cho. Phạm Lang có chút nghi ngờ qua cử chỉ  thân mật khác thường của vợ mình và người hành khất. Thị Nhi thấy chồng mình như vậy thì xấu hổ, nói đoạn nhảy luôn vào đống lửa đang đốt mã để tự tử. Trọng Cao và Phạm Lang thấy vậy cũng nhảy vào cùng chết, một người thì cảm tình ân nghĩa, một người vì lòng yêu thương vợ. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh 3
3 người được phong làm Táo Quân
Thượng đế (ông Trời) thấy ba người có nghĩa mới phong cho làm Táo Quân, và phân chia mỗi người một việc: -Phạm Lang là Thổ Công trông lo việc bếp. -Trọng Cao là Thổ Địa trông nom việc nhà. -Thị Nhi là Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa.
 
► Mời các bạn: Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tổng hợp
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân

Các cô nàng còn độc thân nên lưu ý những kiêng kỵ phong thủy sau đây trong bài trí nhà cửa để may mắn hơn trong tình duyên.

Muốn biết vận may và tiền tài của nữ gia chủ chỉ cần nhìn gian bếp. Nếu phòng bếp có cột đè lên kệ bếp sẽ không có lợi cho tiền tài. Nếu vừa mở cửa chính nhìn thấy bếp dễ hao tài. Vì thế khi mua nhà, các cô nàng còn độc thân cần xem kĩ vị trí phòng bếp.

Tài vị (vị trí của tài khí) chính là 2 góc phòng khách đối diện với cửa chính, đây là vị trí phong thủy quan trọng. Nếu bạn là cô nàng độc thân cần quan sát kĩ xem có đủ hai vị trí đó không. Bởi nếu không có đủ tài vị thì căn hộ của bạn không thể tích tụ được tài khí, gây hao tài tốn của liên miên.

Căn hộ dành cho người độc thân thường có diện tích nhỏ nên chỉ cần nhìn lướt qua là có thể bao quát được mọi thứ trong nhà. Phong thủy dành cho căn hộ của người độc thân cũng đơn giản hơn. Nhưng có một điểm quan trọng bạn cần chú ý, phong thuy khi mua nhà hoặc thuê nhà, cần chú ý không nên chọn những căn hộ khi mở cửa chính đã thấy ban công vì cách bố trí như vậy thường không thể giúp bạn tụ tài khí.

Trần nhà hoặc tường nhà nhất định không được ngấm nước. Nếu nhà thuê thì nên đổi phòng khác, nếu nhà mình thì phải gọi người vào sửa lại. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng xấu đến phương diện tình cảm, mà còn ảnh hưởng đến tiền tài của bạn.

Nếu trong nhà có ban thờ thì bên trái là thờ thần linh, bên phải là thờ tổ tiên. Nếu chỗ đặt bài vị của tổ tiên có dây điện, hay dính vào góc trần nhà cũng sẽ không có lợi cho nữ gia chủ.

Trần phòng ngủ không được trang trí quá rườm rà phức tạp, kẻo ảnh hưởng tới phương diện tình cảm của nữ chủ nhà. Trần phòng như vậy dễ khiến người yêu bạn có thiên hướng phân tâm hoặc ngoại tình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

8 loại cây dễ trồng khiến muỗi “kinh sợ”

Những loài cây, loài hoa giúp đuổi muỗi hiệu quả Một số loài cây, loài hoa không chỉ có tác dụng làm đẹp cho không gian ngôi nhà của bạn mà còn có thể phòng chống và xua đuổi muỗi hiệu quả. Thay vì xịt thuốc, đốt hương muỗi và sử dụng các chất hóa học thì bạn có thể trồng các loại cây này để đuổi muỗi mà không gây hại cho sức khỏe của người thân trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cây sả

cây sả

Cây sả là một trong những loại cỏ rất tự nhiên, dễ trồng và khá nhiều tinh dầu. Dầu sả được đặt trong nến và lồng đèn có thể khiến muối phát sợ. Những nghiên cứu cho thấy, tinh dầu sả còn có tác dụng trị muỗi và xua đuổi muỗi tốt hơn gấp nhiều lần thuốc trị muỗi thông thường.

Ngoài được coi là loại thảo mộc phòng chống muỗi, cây sả còn được coi là một loại gia vị thơm ngon cho một số món ăn.

2. Cây húng thơm

cây húng thơm

Cũng được coi là một loại thảo dược vừa có lợi cho sức khỏe con người vừa giúp phòng chống và xua đuổi muỗi. Được biết tinh dầu của cây húng thơm cũng có thể giúp phòng chống muỗi hữu hiệu cho cả gia đình bạn.

3. Cây hương thảo

cây hương thảo

Từ lâu cây hương thảo cũng được coi là một loại thảo dược hấp dẫn và đầy công hiệu với sức khỏe. Ngoài tác dụng có thể nấu ăn được, cây hương thảo còn giúp xua đuổi và phòng chống muỗi.

Tuy cây hương thảo ưa sống và phát triển tốt trong khí hậu nhiệt đới, nhưng khi mùa đông đến, bạn vẫn có thể lấy lá hương thảo và đun nó trong nồi nước để chống muỗi cho cả gia đình.

4. Cúc vạn thọ

cúc vạn thọ

Cúc vạn thọ cũng được coi là một trong những loại cây “khắc tinh” của nhiều loại côn trùng gây hại cho con người. Chúng cũng là một loại cây giúp phòng chống và xua đuổi muỗi cũng như các côn trùng khác có thể tấn công rau quả hoặc loài rệp vừng.

Vì thế, bạn có thể trồng cúc vạn thọ với đủ các loại màu sắc khoe hương vừa giúp sân vườn bạn rạng rỡ vừa phòng chống muỗi.

5. Húng chanh

húng chanh

Húng chanh là loại cây rất dễ trồng, dễ dàng phát triển ngay cả trong bóng râm. Mọi người thường sử dụng húng chanh làm rau thơm, phơi khô làm trà thảo dược và đặc biệt đây cũng là cây có khả năng đuổi muỗi vô cùng tuyệt vời.

6. Cây bạc hà mèo

cây bạc hà mèo

Khi nói đến những loại cây có tác dụng trong việc đuổi muỗi thì không thể bỏ qua bạc hà. Trong thành phần của tinh dầu bạc hà mèo có chứa nepetalactone – một loại hóa chất mà muỗi rất sợ. Vì vậy trồng bạc hà quanh sân và hiên nhà là cách đuổi muỗi đơn giản nhưng hiệu quả gấp chục lần DEET (một loại chất thường có trong các sản phẩm đuổi côn trùng).

7. Cây oải hương

hoa oải hương

Một trong những cách chống muỗi tự nhiên là sử dụng cây hoa oải hương. Không chỉ có sắc tím hút hồn, oải hương còn sở hữu mùi hương quyến rũ và giúp thư giãn thần kinh. Tuy nhiên muỗi lại không hề thích thú với mùi này. Nếu có thể bạn hãy trồng những chậu oải hương quanh nhà hoặc trên cửa sổ. Hoa oải hương được phơi khô còn có thể dùng làm trà thảo dược cũng rất tốt.

8. Cây phong lữ

hoa phong lữ

Hoa phong lữ đẹp và cũng có mùi hương rất quyến rũ, nhưng muỗi và côn trùng lại rất sợ. Bạn có thể trồng những chậu hoa phong lữ trong nhà vừa có tác dụng trang trí, tô điểm cho ngôi nhà mà lại không lo muỗi làm phiền.

Lưu ý: Nếu chẳng may bị muỗi đốt, bạn cũng có thể sử dụng ngay một số loại tinh dầu có trong chúng để thoa lên trên vết muỗi cắn nhằm thoát khỏi tình trạng bị sưng và ngứa ngáy.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 loại cây dễ trồng khiến muỗi “kinh sợ”

Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Thìn –

Tuổi Thìn: Gồm các tuổi sinh năm: 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000. Đối với những người tuổi này họ cần chọn treo tranh nào để hợp phong thủy. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi Thìn nhé! Tranh phong thủy hợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Thìn: Gồm các tuổi sinh năm: 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000. Đối với những người tuổi này họ cần chọn treo tranh nào để hợp phong thủy. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi Thìn nhé!

Tranh phong thủy hợp với người tuổi Thìn

tranh-hoa-mau-don

Tuổi Thìn khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:

a- Hoa mẫu đơn, Rồng xanh hí thuỷ, Hầu vương hiến thuỵ, Bách mã đồ, Nhật xuất thiên sơn, Hồ quang sơn sắc.

b- Hoa mẫu đơn: Kích hoạt nhân duyên với người độc thân và mang đến sự thuận thảo cho các thành viên trong gia đình. Long – Mã tương phối, tinh thần bậc quân tử, trụ cột quốc gia. Tượng quẻ mã thuộc trời, ngũ hành thuộc hoả; đại biểu hưng vượng, thành công nối tiếp, cao quý hơn người, trên dưới trong ngoài phối hợp nhịp nhàng, trật tự quy củ.

c- Nếu là tranh ngựa hoặc hoa, cấm kỵ treo phương Nam, vì sẽ tạo ra “Hoả thiêu thiên môn”, con cái khó dạy, chủ hay đau đầu hoa mắt. Tốt nhất treo phương Đông hoặc phía bên trái của phòng khách (kể từ trong nhà nhìn ra phía trước).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Thìn –

8 cách hóa giải nhà khuyết góc theo quy tắc phong thủy (P2)

Người trong nhà liên tiếp bị bệnh hoặc công việc chưa thuận lợi, nguyên nhân nằm chính ở phong thủy ngôi nhà.
8 cách hóa giải nhà khuyết góc theo quy tắc phong thủy (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người trong nhà liên tiếp bị bệnh hoặc công việc chưa thuận lợi, một số người đổ "tại số", nhưng thực chất, nguyên nhân nằm chính ở phong thủy ngôi nhà, hiện tượng khuyết góc gây ra những tai họa khó lường.

  8 cách hóa giải nhà khuyết góc theo quy tắc phong thủy (P1)
Quy tắc phong thủy nhà ở chuẩn nhất là âm dương hài hòa, thiên nhiên hợp nhất. Căn cứ vào nguyên lý thiên địa có thể suy luận dương trạch tốt

5. Nhà khuyết góc ở hướng Tây có ảnh hưởng xấu tới các bé gái trong nhà, nếu trong nhà không có bé gái thì người mẹ hoặc người bà sẽ phải chịu nhiều vận xui, có thể là bị bệnh nặng hoặc công việc gặp nhiều sóng gió. Hướng Tây lại là ngũ hành Kim, là nơi tích tụ tiền tài, khuyết thiếu thì tài vận rơi rớt. Các bộ phận trên cơ thể người thuộc ngũ hành Kim như miệng, cổ họng, khí quản, phổi, đại tràng, ruột non, nên vấn đề khuyết góc hướng Tây sẽ gây ra bệnh tật ở các bộ phận này. Gia chủ cũng vướng vào chuyện thị phi, kiện tụng, tranh chấp, nghiêm trọng thì bị bệnh phụ khoa. 

8 cach hoa giai nha khuyet goc theo quy tac phong thuy P2 hinh anh
Tượng gà bằng đồng hóa giải nhà khuyết góc hướng Tây
 
Cách hóa giải: Tại khu vực khuyết thiếu này, đặt một bức tượng bằng đồng có hình con gà để hóa giải.
 
6. Nhà khuyết góc hướng Tây Bắc ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người già trong nhà, không tránh được các bệnh như đau đầu, cao huyết áp, tắc mạch máu não, bán thân bất toại, nặng thì thân thể không được nguyên vẹn. Nhà khuyết hướng này không những sức khỏe của người già không tốt mà công việc của người trẻ cũng gặp nhiều bất lợi, tình cảm vợ chồng cũng gặp nhiều mâu thuẫn, sứt mẻ.
 
Cách hóa giải: Tại vị trí này đặt một món đồ chơi hình con chó để hóa giải.
 
7. Hướng Bắc của nhà bị khuyết thiếu thì người chịu ảnh hưởng xấu chính là người đàn ông trong nhà, bệnh tật xuất hiện nhiều ở vùng eo và lưng, bộ phận sinh dục mắc bệnh nặng, đặc biệt là hôn nhân rất khó tốt đẹp. 
 
Cách hóa giải: Gia chủ có thể đặt một bể cá nhỏ tại vị trí này hoặc treo một bức tranh “Thần Chung Quỳ chiêu phúc đồ”. 

 
8 cach hoa giai nha khuyet goc theo quy tac phong thuy P2 hinh anh 2
Tượng "Mục đồng kỵ ngưu" hóa giải nhà khuyết góc Đông Bắc

 
8. Trẻ nhỏ trong nhà sẽ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng xấu từ căn nhà bị khuyết góc Đông Bắc. Trên thực tế, ảnh hưởng này rất lớn và vô cùng xấu, việc học tập giảm sút, sức khỏe suy yếu hoặc chết yểu, sản phụ khó sinh, nặng thì gia đình độc đinh, hiếm muộn, tan cửa nát nhà, mẹ góa con côi. Phía Đông Bắc cũng là quan tinh, nên nếu bị khuyết thì vận đồ của cả gia đình sẽ không thuận. Phụ nữ kết hôn thì phải chịu nhiều khổ cực, ly hôn là việc không thể tránh khỏi.
 
Cách hóa giải: Đặt một bức tượng “ Mục đồng kỵ ngưu” (Cậu bé cưỡi trâu) bằng gốm sứ hoặc những bức tượng nhỏ có hình con trâu để hóa giải. Bạn nên chú ý không dùng bừa bãi vật phẩm hóa giải, nên sử dụng đúng mục đích mong muốn nếu không sẽ phải chịu tác dụng ngược lại, không mong muốn. 
 
Phương Thùy   Năm loại nhà ở khiến gia chủ giảm sút tài vận
Căn nhà tốt cần hòa hợp phong thủy. Năm loại căn nhà dưới đây sẽ không những khiến gia chủ giảm sút tài vận, còn ảnh hưởng đến đường tình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 cách hóa giải nhà khuyết góc theo quy tắc phong thủy (P2)

Sao Quan Phù

Hành: Hỏa Loại: Phù Tinh, Hình Tinh Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén Tên gọi tắt thường gặp: Phù Phụ tinh. 1 tron...
Sao Quan Phù

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Phù Tinh, Hình TinhĐặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén
Tên gọi tắt thường gặp: Phù

Phụ tinh. 1 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

 Ý Nghĩa Quan Phù Ở Cung Mệnh
Tính tình
Đi với sao tốt: 

  • Biết xét đoán, lý luận. Quan Phù thường hội chiếu với Thái Tuế, chỉ mọi sự liên quan đến pháp luật (kiện cáo, thị phi, cãi và biện hộ, bút chiến ...). Đây là hai sao cần thiết cho nghề thẩm phán, luật sư. 
  • Hay giúp đỡ, phù hộ. Quan phù gặp sao tốt thì làm tốt thêm, như trường hợp gặp Xương Khúc Tuế thì lợi ích cho những việc liên quan đến pháp luật (kiện cáo, thị phi, cãi và biện hộ, bút chiến ...).
Đi với sao xấu
  •  Hèn hạ, gian nịnh, phản bội 
  • Ưa trả thù, thích kiện tụng, câu chấp, đố kỵ 
  • Bị oán, bị báo thù, bị kiện, bị phản bội 
  • Có tinh thần ganh đua, cạnh tranh 
Quan Phù là sao cạnh tranh, đố kỵ, nặng tinh thần báo phục, lắm khi sử dụng thủ đoạn để tranh thắng, khơi mào cho sự trả đũa của nạn nhân. Vì vậy, Quan Phù báo hiệu cho nghiệp chướng của việc báo oán, thù dai nếu tọa thủ ở Phúc, Mệnh, Thân.
Các Bộ Sao Xấu
  • Phù, Tuế, Đà, Kỵ: thị phi, kiện cáo, làm mất ăn mất ngủ vì cạnh tranh hơn thiệt; bị tai bay vạ gió.
  • Phù, Hình, Không, Kiếp: bị thù oán, bị mưu sát vì thù
  • Phù, Sát, Hổ, Hình: bị tù, bị vu cáo mang họa
  • Phù, Liêm, Tang, Hổ: bị tù tội, bị kiện cáo, bị tai nạn, tang tóc do sự báo thù, phản bội mà có. 
  • Phù, Phá, Hình: quan tụng, ly dị (nếu ở Phu Thê)
Ý Nghĩa Quan Phù Ở Cung Tài Bạch
  •  Hay bị kiện vì tiền bạc, bị phản bội vì tiền (lường gạt) 
  • Sống vì nghề kiện (luật sư hay hộ giá viên ...) 
  • Ăn cá trên sự thi đua cạnh tranh như cá ngựa, đấu võ ...
Ý Nghĩa Quan Phù Ở Cung Nô Bộc
  • Tôi tớ phản chủ
  • Tôi tớ lấy trộm của chủ 
  • Thường gặp bạn xấu
Ý Nghĩa Quan Phù Ở Cung Quan Lộc
  •  Học luật, hành nghề luật (thẩm phán, trạng sư ...) 
  • Cạnh tranh và hay bị cạnh tranh trong nghề nghiệp
Quan Phù Khi Vào Các Hạn
  • Có kiện tụng, cạnh tranh, cãi vã. Thắng cuộc nếu có Khôi Việt, thất bại nếu ở cung tuyệt

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Quan Phù

Có những loại hình hộ nào không nên áp dụng làm nhà ở? –

Làm thế nào có thể chọn được một căn phòng lý tưởng, trở thành một vấn đề lớn đặt ra trước mắt chúng ta. - Dạng mũi khoan không nên chọn Hộ hình mà có hình dạng răng nhọn một bên, có vào có ra, rất quy tắc hoặc không quy tắc, những loại hộ hình này t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm thế nào có thể chọn được một căn phòng lý tưởng, trở thành một vấn đề lớn đặt ra trước mắt chúng ta.

– Dạng mũi khoan không nên chọn

Hộ hình mà có hình dạng răng nhọn một bên, có vào có ra, rất quy tắc hoặc không quy tắc, những loại hộ hình này trong thực tế có rất nhiều, xin bạn chú ý rằng: Nếu bạn gặp phải những loại này, tốt nhất là không nên lựa chọn. Bởi vì từ mặt lý luận phong thủy, những căn hộ có loại hộ hình này là hung khí, không thích hợp để ở.

PlaschemP

– Dạng dao thái cũng không nên chọn

Hộ hình khi nhìn thấy dạng hình dao thái, giống như dạng mũi khoan ở trên, trong lý luận phong thủy, cũng cho rằng có tướng hung, không nên chọn ở.

– Dạng khẩu súng cũng không nên chọn

Dạng hình giống khẩu súng hoặc mũi súng thì không nên chọn.

– Dạng gấp khúc cũng không nên chọn

Hộ hình không nên gấp khúc, giống như vào mê cung vậy. Nhà ở là nơi chúng ta ở thường xuyên, không nên có những thu kỳ liệt diên (màu sắc kỳ lạ), nhà ở không phải là một quán rượu, không nên có những hình thù kỳ quái.

– Dạng hình hành lang cũng không nên chọn

Hộ hình hoàn toàn là một lối đi lớn, rộng không rộng, dài thì rất dài. không có lợi cho việc giao lưu giữa mọi người với nhau, đối với văn phòng thì cũng không nên.

– Dạng hình một thành hai

Hành lang cát giữa phòng thành hai phần, loại bố cục này không có lợi cho việc điều hòa giao tiếp, dễ dẫn đến thị phi, khiến người ở trong đó cũng cảm thấy tâm tường buồn chán hỗn loạn, nhất là khi sự không thành sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần.

Lối đi trong phòng không thể xuyên khắp cả phòng mà chia phòng thành hai nửa, nếu không thì không có lợi.

– Dạng hình chữ “hồi”.

Hình chữ “hồi” của lối đi hành lang cũng không có lợi cho trạch vận. Do những loại gian phòng này dễ dẫn không khí trong phòng lưu thông tuần hoàn, không thể trực tiếp trao đổi không khí trong lành ở bên ngoài, giống như có sự cách biệt với thế giới bên ngoài, khiến người ta cảm thấy cô lập, đều không có lợi đối với việc thu thập thông tin và chất lượng căn phòng. Bước vào những căn phòng hình chữ “hồi” sẽ có cảm giác không có đường đi vậy.

– Mở cửa sổ trời không nên (một dạng giếng trời bằng kính)

Kiến trúc nếu có diện tích lớn hoặc kiến trúc ba mặt đều không có cách nào lấy ánh mặt trời, rất nhiều nhà kiến trúc thiết kế ra những cửa sổ trời ở giữa trung tâm nhà, điều này là những lỗi sai lầm lớn của các nhà kiến trúc không hiểu biết về phong thủy.

Trong một căn nhà thì tuyệt đối không được đặt cửa sổ trời lấy ánh sáng ở giữa trung tâm của nhà, điều này giống như tim của một người đang banh ra. Chính vì vậy sẽ dẫn đến sức khỏe của mọi người sống trong căn nhà gặp trở ngại, hơn nữa vấn đề sự nghiệp tài vận cũng không tốt.

Vậy nên khi có những bố cục quy hoạch như vậy, chỉ cần tìm cách đậy giếng trời lấy ánh sáng đó lại thì hoàn toàn có thể hoá giải. Nếu mà ba mặt ngôi nhà đều không có cách lấy ánh sáng bên ngoài, thì kiến nghị rằng nên làm một cửa sổ trời ở mé hẹp của căn nhà là tốt nhất, tuy nhiên cửa trời cùng không thể mở rộng quá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có những loại hình hộ nào không nên áp dụng làm nhà ở? –

Phong thủy và trường khí cơ thể

Trong 3 yếu tố: thiên - địa - nhân thì
Phong thủy và trường khí cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 3 yếu tố: thiên - địa - nhân thì "nhân" được coi là trung tâm, tức lấy con người làm chủ thể của vũ trụ. Phong thủy học là bộ môn dùng để tính toán, đo lường mức độ ảnh hưởng của 2 yếu tố "thiên" (đại biểu là gió), "địa" (đại biểu là đất) tác động vào con người và cách ứng xử của con người với chúng. Nói theo ngôn ngữ của thế kỷ 21, thì đó là bộ môn “hoàn cảnh học” và “môi trường học”.

 
Phong thủy học quan niệm, các nhân tố xung quanh tác động vào chúng ta trên mọi phương diện sinh lý, tâm lý, trường khí cơ thể.  

Ngoài ra, hoàn cảnh xung quanh sẽ tác động đến tâm lý chúng ta. Khi bước chân lên cầu thang, chúng ta sẽ cảm thấy thuận chân hơn khi bước chân phải. Nếu là chân trái gây tâm lý không thoải mái (trừ một số người thuận chân trái). Từ đó sẽ tạo ảnh hưởng đến các hành vi của mỗi người. Hoặc khi mỗi ngày bước ra khỏi cửa, ngay lập tức chúng ta nhìn thấy cột điện có hình nhọn sắc, lâu dần nó tạo ra các phản ứng tâm lý tùy theo mỗi người. Có người thì sợ hãi, có người thì cáu kỉnh từ đó hành vi cũng trở nên bất thường.
 
Riêng về vấn đề tác động đến khí trường nhân thể, thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, cũng khó phủ nhận vấn đề này, vì trong thực tiễn: khí công, yoga, châm cứu… đều là có thật.

Theo phong thủy học, mỗi người sinh ra đều hấp thụ và có trường khí chất. Khi cư trú vào vùng khí trường tự nhiên sẽ có sự tác động qua lại mà mắt thường nhìn thấy được. Nếu thích hợp sẽ giúp cơ thể có thêm sức khỏe, tâm lý thoải mái, đầu óc sáng suốt tạo ra nhiều của cải (vượng tài), sinh sản nuôi dạy con cái (vượng đinh). Trái lại, nó sẽ khiến chúng ta mệt mỏi, đầu óc kém thông minh, sức khỏe suy giảm nhanh chóng.

Nếu như cơ thể người được cấu tạo bởi các đường kinh mạch (gồm cả khí mạch theo Đông y và huyết mạch theo Tây y) cùng các cơ quan cơ thể như miệng, mũi, tai, tim… thì căn nhà chúng ta sinh sống cũng như vậy. Nó được cấu tạo nên bởi đường đi lối lại dẫn khí (năng lượng và không khí thở) cùng các cấu trúc chức năng khác như cửa, cửa sổ, bếp, phòng khách, phòng ngủ, khu vệ sinh. Tất cả hợp thành hệ thống hoàn chỉnh tương tác lẫn nhau.

Khi các cơ quan trong cơ thể mất cân bằng thì người sẽ mệt mỏi, bệnh tật ốm đau có thể tử vong. Tương tự, khi các bộ phận hợp thành ngôi nhà không có được kết cấu hợp lý và thuận tiện sẽ tạo ra sai lệch trong khí trường. Căn nhà đó cũng thiếu sức sống thậm chỉ bị coi là nhà chết (tử trạch).

Con người sinh sống không thể tách rời môi trường. Môi trường và con người có tác động qua lại. Phong thủy học chính là bộ môn nghiên cứu về mối quan hệ này.

(Theo Phongthuy)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy và trường khí cơ thể

Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Trong 12 con giáp, không một tuổi nào có được sự trung thành và đáng tin cậy như người tuổi Tuất. Đó là những người luôn đề cao chữ tín, tận tụy với nhiệm vụ
Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được giao và vì vậy mà họ được rất nhiều người tôn trọng, quý mến.

Con duong su nghiep cua nguoi tuoi Tuat hinh anh
Sự nghiệp người tuổi Tuất

Họ thường cư xử với mọi người rất đúng mực, sống chân thành, hết mình vì bạn bè, đồng nghiệp. Sự cần cù và nỗ lực trong công việc của họ được cấp trên đánh giá cao và trọng dụng. Nhờ vậy, con đường sự nghiệp của họ rất thuận buồm xuôi gió.

Trong công việc, họ luôn biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người khác. Điều này giúp họ có thêm nhiều kinh nghiệm cũng như tránh được sai sót không đáng có. Ngoài ra, với lòng chính trực, tinh thần trượng nghĩa, sẵn sàng đấu tranh với mọi bất công, họ có thể gánh vác những công việc khó khăn cho tập thể hay cộng đồng. Nếu biết phát huy ưu điểm trên và không ngừng phấn đấu thì con đường sự nghiệp của họ sẽ luôn rộng mở.

Dù biết lắng nghe nhưng không ít người tuổi Tuất có tinh thần tự lập cũng như khả năng làm việc độc lập rất cao. Chính vì vậy họ có thể đứng vững trên đôi chân của mình bằng ý chí, sức lực và tài năng. Họ ít khi chịu chấp nhận phụ thuộc hay tụt hậu so với người khác.

Người tuổi Tuất vốn không được trời phú cho óc hài hước và cũng ít người trong số họ ưa lãng mạn. Tuy nhiên cuộc sống vui vẻ và giản dị vẫn là điều mà họ luôn mong ước.

Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trungquốc nơi khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về Âm lịch, dù có đang dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiện nay. Thích hay không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên Ðán theo truyền thống dựa vào Âm lịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày "Ta" đi kèm. Riêng đối với người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích chính không phải vì thích coi theo ngày ta, mà nguyên nhân có lẽ là do từ tôn giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v. 

Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!

Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí. 

Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.

Nguồn gốc Lịch số

Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ! 

Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch. 

Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD). 

Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ! 

Phương pháp soạn Âm lịch

Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.

Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa. 

Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác. 

Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.

Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v. 

Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.

Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:

Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .

Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra. 

Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!

Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp. 

Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:


Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao. 

Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay. 

Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!

(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)

Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!

Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn! 

Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.) 

Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau! 

Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.

Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy). 

Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!

Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v 

Những Bí ẩn của khoa Tử vi 

Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!

Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế. 

Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!

Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai! 

Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên! 

Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.

Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh! 

Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.

Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó). 

Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!

Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau: 


Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !

Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.

Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)

Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này. 

Nguyễn Cường

Sacto 1/ 2003


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

9 loại cây cảnh mini để bàn vừa xinh vừa rước tài lộc đến với chủ nhân

9 loại cây cảnh vừa đẹp vừa ý nghĩa dưới đây sẽ góp phần mang lại may mắn, “hút tài lộc” vào không gian sống và làm việc của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể nói, sự hiện diện của cây xanh không chỉ giúp điều hòa không khí, tô điểm nét xanh tươi mới mà còn mang theo ý nghĩa phong thủy, giúp mang lại tài lộc cho gia chủ. Không những thế nếu bạn đang muốn trang trí cho căn phòng nhỏ của mình hoặc F5 bàn làm việc thì những loại cây cảnh dưới đây là lựa chọn vô cùng thích hợp. Mời bạn cùng chúng tôi tham khảo nhé!
1. Kim ngân

Kim ngân là loại cây được đánh giá cao về phong thủy, mang lại may mắn, giàu có cho người sở hữu. Kim ngân thích hợp với khí hậu nóng ẩm, khả năng sinh trưởng mạnh mẽ. Cây to có thể đặt ngoài trời, trước hiên nhà, cây nhỏ trồng trong chậu để đặt trên bàn. Hiện nay, loài cây có cái tên mang ý nghĩa “tiền vàng” này ngày càng được lựa chọn để trang trí nội thất ở nhiều nơi trên thế giới.
    Kim ngân - loại cây “tiền vàng” đem lại may mắn và giàu có.
2. Kim tiền

Cây kim tiền còn có tên gọi khác là Kim phát tài, thuộc loại cây có lá kép. Đặc điểm nổi bật là phần lá xanh thẫm, to khoảng ngón tay cái mọc đối xứng hai bên cọng lá. Các nhánh to khoẻ vươn lên cao, sống tốt cả trong môi trường thiếu ánh sáng và không khí. Kim tiền được xem là loại cây "phú quý" có tác dụng “phát tài phát lộc” nhờ đặc điểm sinh sôi và không ngừng phát triển các nhánh.
  cây cảnh 1

cây cảnh 2
Kim tiền mang ý nghĩa “phát tài” nhờ khả năng sinh trưởng mạnh.

3. Đại đế vương

Đại đế vương là loại cây thuộc họ trầu bà, ưa bóng râm và nơi ẩm. Đúng như tên gọi của mình, cây thể hiện tinh thần đế vương, quyền uy và sức mạnh của người lãnh đạo. Chính vì thế, dân công sở cực kỳ yêu thích loại cây này với mong muốn thăng tiến trong sự nghiệp. Ngoài ra, cây còn có tác dụng xua đuổi tà ma, chướng khí, đem lại cảm giác thư thái cho con người.
    Loại cây thể hiện tinh thần đế vương, quyền uy của người lãnh đạo.
4. Phú quý

Cây phú quý ngày càng được ưa chuộng và trồng làm cây cảnh bởi nó có lá màu xanh viền đỏ hồng rất đẹp mắt. Đây là một giống cây có nguồn gốc từ Indonesia, có khả năng thanh lọc không khí, giảm bớt ô nhiễm khói bụi, giúp không gian sống trong lành hơn. Theo quan niệm phong thủy, cây phú quý còn tượng trưng cho sự may mắn và tốt lành trong cuộc sống.
    Cây phú quý không chỉ thanh lọc không khí mà còn mang lại sự tốt lành.
5. Ngọc ngân

Ngọc ngân không chỉ đẹp ở những phiến lá xanh pha đốm trắng mà còn rất mạnh khỏe bởi bộ rễ vững chắc, mang đến sự hài hòa cho loại cây này. Người ta tin rằng, trưng bày một chậu ngọc ngân trên bàn làm việc hay phòng khách sẽ đem đến nhiều bổng lộc. Hơn nữa, cây rất ưa bóng râm và thích nghi tốt với môi trường máy lạnh trong văn phòng.
    Một chậu ngọc ngân sẽ mang đến cho gia chủ nhiều bổng lộc.
6. Vạn lộc

Theo tên gọi, vạn lộc sẽ là loại cây cảnh mang lại cho gia chủ vô vàn tài lộc. Cây có màu sặc sỡ như đỏ, cam, hồng,… với viền lá màu xanh. Lá cây dày, bóng, nổi gân, mọc thẳng đứng, tán phủ tròn. Từ tên gọi, hình dáng cho đến màu sắc của cây đều vô cùng bắt mắt và tràn đầy năng lượng. Vì thế nên vạn lộc rất sang trọng và có ý nghĩa tốt trong phong thủy.
    Vạn lộc sẽ là loại cây cảnh mang lại cho gia chủ vô vàn tài lộc.
7. Cây may mắn

Cây may mắn được trồng trong chậu sứ nhỏ với lớp cỏ xanh mượt bên dưới, mỗi cây thường có 3 hoặc 5 quả, bao quanh thành hình tròn phần dưới thân tạo nên sự hài hòa, vững chắc. Cây sống tốt trong môi trường có ánh sáng nhẹ, tượng trưng cho sự sung túc, đem đến phúc khí cho ngôi nhà, phòng làm việc,… giúp gia chủ luôn giữ được sự tinh thông, sáng suốt. 
    Cây may mắn với hình dáng bắt mắt, đem lại nhiều phúc khí.
8. Phất lộc

Cây phất lộc (hay còn gọi là cây phất dụ) có sức sống mạnh mẽ, rất dễ chăm sóc. Nó tự sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt nhưng luôn giữ được dáng thẳng, hiên ngang, là một loại cây mang đến năng lượng dồi dào. Phất lộc có nhiều đốt rỗng nên theo phong thủy thì tinh thần của gia chủ cũng theo đó mà dễ lưu thông, tâm hồn được tự do, thăng hoa. 
    Phất lộc - nguồn năng lượng dồi dào, sự thăng hoa cho tinh thần.
9. Đa búp đỏ

Đa búp đỏ (đa cao su, đa dai) có nguồn gốc từ Ấn Độ được du nhập vào Việt Nam và dần trở thành loại cây cảnh được ưa thích để trang trí. Cây có hệ hễ chắc khỏe cộng với khả năng hút bụi và các khí độc như carbon monoxide, hydrogen fluoride,... trong không khí. Đa búp đỏ mang trong mình biểu tượng của sự trường tồn, sức sống dẻo dai, nên có thể che chở, đem lại sự bình an cho gia đình của bạn. 
    Đa búp đỏ là biểu tượng của sự trường tồn và sức sống dẻo dai.   Những chậu cây cảnh "hút tài lộc" trên được bán với giá khoảng từ 200.000 - 350.000 đồng tùy thuộc vào kích thước của cây và chậu trồng. Bạn có thể tìm mua chúng tại các cửa hàng chuyên kinh doanh cây cảnh trang trí nhà, văn phòng hoặc tham khảo trên các trang web bán hàng online uy tín trên toàn quốc.
 Theo Lâm Ngọc 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 loại cây cảnh mini để bàn vừa xinh vừa rước tài lộc đến với chủ nhân

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd