Không chỉ khéo tay, con giáp này còn rất hoạt bát, biết tận dụng mọi cơ hội để mang lại lợi ích cho bản thân. Vào thời điểm cuối năm với nhiều dịp lễ lớn như Giáng sinh, Tết, cơ may kiếm tiền sẽ liên tiếp xuất hiện và người tuổi Hợi sẽ không bỏ lỡ.
Có thể họ sẽ thu về rất nhiều lợi nhuận từ công việc kinh doanh đồ hand-made phát lộc của mình dịp cuối năm. Tài ăn nói khéo léo sẽ giúp họ bán sản phẩm dễ dàng hơn. Mặt khác, sự tính toán tỉ mỉ tới từng “cái kim, sợi chỉ” sẽ hỗ trợ đắc lực họ trong việc buôn bán không thua lỗ.
No2: Tuổi Mão
Là con giáp không thường xuyên gặp may mắn trong cuộc sống, nhưng người tuổi Mão rất nỗ lực để vượt lên hoàn cảnh khó khăn, mang lại cuộc sống sung túc. Điều này có thể suy ra họ sẽ nắm bắt bất kỳ công việc gì nhàn hạ nhất, nhưng kiếm được thật nhiều tiền trong dịp cuối năm, chào đón năm 2015.
Sự kiên trì sẽ giúp họ bám trụ được với công việc làm thêm đòi hỏi mất nhiều thời gian, thậm chí làm đêm như giao hàng hay bán quần áo, hoa quả. Người tuổi Mão nghĩ rằng, nếu họ cố gắng 200% sức lực trong dịp này, thì đầu năm mới sẽ có hầu bao rủng rỉnh hơn, hứa hẹn trong năm tới sẽ không phải lo lắng nhiều về tài chính.
No3: Tuổi Thân
Nếu tuổi Mão dựa vào lòng kiên trì, sự nỗ lực, tuổi Hợi kiếm tiền bằng sự khéo léo, thì người tuổi Thân lại có nhiều cơ hội sở hữu thu nhập “khủng” nhờ vào sự sáng tạo, làm những gì mà chưa ai từng làm trước đó.
Họ sẽ nghĩ ra được hình thức kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó đặc trưng cho dịp cuối năm để kiếm tiền. Số vốn bỏ ra sẽ rất ít, trong khi con giáp này lại thu về siêu lợi nhuận. Nói cách khác, đây là thời điểm tốt nhất để người tuổi Thân “bán chất xám” của mình.
Mỗi cung mệnh khác nhau trong ngũ hành tương hợp với một màu sắc nhất định và xung khắc với các màu còn lại. Do đó, việc bố trí màu sắc trong phòng ngủ có ý
nghĩa rất quan trọng tới vận mệnh và tài lộc của chủ nhân căn phòng.
Nắm bắt được điều này, bạn có thể lựa chọn được màu sắc hợp với ngũ hành của mình, giúp bản thân và gia đình thêm hưng vượng.
Nghĩa là nếu bạn thuộc mệnh Mộc trong ngũ hành, thì phòng ngủ nên sơn màu xanh (màu lục nhạt) là chính, vì màu xanh là bản sắc của Mộc. Còn nếu bạn thuộc mệnh Hỏa trong ngũ hành, phòng ngủ nên là màu hồng (màu hồng nhạt) là chính vì màu hồng là bản sắc của Hoả…
Người mệnh Mộc hợp với màu xanh
Do đó, màu trong phòng ngủ phải được phối một cách hài hòa, tương sinh, tương hợp với môi trường xung quanh, tâm lý tình cảm và quan trọng là phải hợp với trạch mệnh của chủ nhân căn phòng đó.Theo các quy tắc trong phong thủy, mỗi một mệnh trong ngũ hành đều có màu sắc tiêu biểu độc đáo khác nhau. Màu xanh tượng trưng mộc, đỏ tượng trưng cho hỏa, vàng tượng trưng cho thổ, trắng tượng trưng cho kim và màu đen tượng trưng cho thủy.
Không chỉ liên quan đến mệnh trong ngũ hành, màu sắc và phương vị phòng ngủ cũng nên phù hợp với nhau theo cách sau: Phòng ngủ hướng Đông, Đông Nam nên chọn màu xanh lục, xanh lam là chính; hướng Nam nên chọn màu vàng; hướng Tây chọn màu trắng, hồng phấn, vàng nhạt, hướng Bắc chọn màu vàng nhạt, hồng phấn, đỏ nhạt; hướng Tây Bắc chọn màu trắng, vàng, xanh lá cọ; hướng Đông Bắc chọn màu vàng nhạt, màu nâu đỏ và hướng Tây Nam chọn màu vàng, màu lá cọ…
Ngoài việc lựa chọn phù hợp với cung mệnh, màu sắc của phòng ngủ cũng cần được điều hòa để giảm bớt sắc độ, tránh quá sặc sỡ hay u ám.
Phòng ngủ hướng Tây Bắc thì nên chọn màu vàng
Theo thuật phong thủy, phòng ngủ sơn màu sắc sặc sỡ như đỏ đậm, da cam, nõn chuối hay phối quá nhiều màu với nhau… sẽ khiến tinh thần người ở trong phòng luôn bị kích động, căng thẳng. Về lâu dài, người này sẽ bị suy sụp tinh thần, sinh ra tâm lý bực dọc, nóng nảy. Ngược lại, nếu phòng ngủ có màu sắc u ám, nặng nề sẽ khiến tinh thần chủ nhân căn phòng trầm cảm, u uất…
Do đó, khi thiết kế phòng ngủ, các màu như đỏ tươi, cam, màu quá kích thích mắt hay các màu đen, tro xám quá nặng nề… cần phải tránh dùng. Một số màu thường được mọi người lựa chọn cho phòng ngủ như phớt hồng, vàng chanh, màu lục nhạt, lam nhạt, màu vàng marông…
Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng và vị trí hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống của bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn giúp mang lại sự giàu có, thịnh vượng và rất tốt cho đường tình duyên của gia chủ.
Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng và vị trí hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống của bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn giúp mang lại sự giàu có, thịnh vượng và rất tốt cho đường tình duyên của gia chủ.
Đặt bình hoa ở vị trí đào hoa (đào hoa vị) rất tốt cho đường tình duyên
Theo phong thủy, đào hoa vị là một huyệt đạo mà nếu được tác động sẽ làm tăng vận khí đào hoa của người sống trong ngôi nhà đó. Đặt bình hoa ở đúng vị trí đào hoa của mỗi người sẽ rất tốt đối với chuyện tình duyên của gia chủ:
Bình hoa cần được đặt ở vị trí đào hoa, vị trí này được xác định theo tuổi. Cụ thể:
- Đối với tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa nằm ở hướng chính Đông, do vậy nên đặt bình hoa ở hướng chính Đông.
- Đối với tuổi Thân, Tí, Thìn: nên đặt bình hoa ở hướng chính Tây.
- Đối với tuổi Tị, Dậu, Sửu: nên đặt bình hoa ở hướng chính Nam.
- Đối với tuổi Hợi, Mão, Mùi: nên đặt bình hoa ở hướng chính Bắc.
Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo màu sắc thì cần tìm màu chủ đạo của bình hoa, cụ thể:
- Đào hoa ở hướng chính Đông thì nên đặt bình hoa màu xanh lục.
- Đào hoa ở hướng Tây thì đặt bình hoa màu vàng kim (vàng óng), màu trắng.
- Đào hoa ở hướng Nam nên đặt bình hoa màu đỏ, tím, cam.
- Đào hoa ở hướng Bắc nên đặt bình hoa màu đen, xám.
Theo phong thủy, bình cắm hoa tốt nhất nên được làm bằng chất liệu gốm hoặc sứ. Bình hoa bằng sứ nên đặt ở hướng Đông Bắc hoặc Tây Nam, còn bình hoa làm bằng thuỷ tinh thì nên đặt ở phía Bắc căn phòng hay ngôi nhà. Hình dạng bình hoa cũng là vấn đề rất quan trọng, bình hoa có hình dạng khác nhau thì nên đặt ở các hướng khác nhau. Các loại bình hoa hình cầu nên đặt ở hướng Bắc hoặc Tây Bắc, hình nón thì nên đặt ở phía Nam.
Phòng ngủ là nơi tốt nhất để đặt bình hoa. Trong nhà, bạn có thể đặt nhiều bình ở những hướng tốt khác nhau. Nếu bình làm bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ thì bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là hướng Tây Nam. Tuy nhiên, nếu không có điều kiện, bạn đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình làm bằng kim loại thì nên đặt ở góc Tây hoặc góc Tây Bắc.
Đối với phái mạnh, dù đã cao tuổi hay còn thanh niên, nếu muốn thu hút sự chú ý của phái nữ thì có thể đặt một bình hoa với vài cành hoa tươi ở vị trí bên phải cửa ra vào.
Tuy nhiên, gia chủ cũng cần thận trọng và lưu ý khi đặt bình hoa trong nhà. Cụ thể:
- Không được để bình hoa rỗng trong nhà, nếu không sẽ khiến chồng hoặc vợ ngoại tình
- Cần thường xuyên thay nước hoặc bổ sung nước cho bình hoa, để nước trong bình bị hao hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tài sản trong gia đình
- Nên hạn chế cắm hoa khô/hoa giả bởi sẽ làm căn nhà không có sức sống, gây nên một số trở ngại. Nếu đặt bình hoa khô/hoa giả thì phải để một lọ nước hoa ở bên cạnh.
- Hoa úa, tàn thì cần phải bỏ/thay ngay, để lâu ngày sẽ phá hỏng bầu không khí trong gia đình.
- Không gian xung quanh nơi đặt bình hoa phải đảm bảo sạch sẽ, gọn gàng.
(Theo Gia đình & Xã hội Online) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Có nhiều đứa trẻ ban ngày chơi ngoan nhưng đến đêm lại rất quấy khóc như có người đánh. Dân gian gọi là khóc Dạ Đề. Áp dụng mẹo phong thủy dỗ trẻ khóc Dạ Đề
Những đứa trẻ khóc Dạ Đề ban ngày rất ngoan, ăn uống tốt, nhưng cứ đêm xuống là khóc to và không ngủ, cũng có những bé cả ngày hay khóc và rất khó nuôi, thậm chí lên cơn co giật. Hiện tượng trẻ khóc đêm xảy ra ở những bé mới sinh cho đến tận 2 tuổi. Và khi trẻ khóc đêm nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe của bé cũng như mọi người trong gia đình.
Trẻ mắc chứng khóc Dạ Đề khi sinh phạm giờ Dạ Đề như sau:
Mùa Đông sinh vào giờ Mão (từ 5h – 7h sáng) Mùa Xuân sinh vào giờ Ngọ (từ 11h – 13h trưa) Mùa Hạ sinh vào giờ Dậu (từ 17h -19h tối) Mùa Thu sinh vào giờ Tí (từ 23h – 1h đêm) Có 3 cách dỗ trẻ khóc Dạ Đề rất hiệu quả: Cách 1: Lấy xác con ve sầu chấm vào miệng và chân (trai thì 7 lần, gái thì 9 lần) sau đó sao chín ròn rồi pha nước cho bé uống. Cách 2: Lấy cỏ mọc qua thành giếng đào mang về dấu người mẹ đặt xuống bên dưới giường. Cách 3: Lấy 2 tờ giấy màu hồng có tẩm hương thơm để vào áo của bé (2 ngày) sau đó mang ra phun ít nước và chờ cho khô thì viết 2 chữ to kín giấy ” Điệp An” và tẩm tiếp hương thơm. Xé làm 4 mành/ 1 tờ, mỗi mẹ con 1 nửa để vào người (1 ngày) sau đó đốt lấy tro bôi vào má, vào gót chân và ngực của bé.ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Hầu hết, các bùa chú ban đầu được tạo ra với mục đích tốt đẹp là cầu an, giúp an tâm, gia đình yên ổn, ngoài ra nhiều người còn sử dụng bùa chú để trừ tà, chữa bệnh phá bùa yếm đổi.
Từ ngàn xưa, khái niệm bùa chú đã xuất hiện trong những sách kinh sách của nhiều tôn giáo khác nhau. Hầu hết, các bùa chú ban đầu được tạo ra với mục đích tốt đẹp là cầu an, giúp an tâm, gia đình yên ổn, ngoài ra nhiều người còn sử dụng bùa chú để trừ tà, chữa bệnh phá bùa yếm đổi.
Dưới đây, Phongthuyso giới thiệu tới bạn những khái niệm về bùa chú và các loại bùa chú?
Theo đó thì thư và yểm là hai khái niệm tâm linh siêu nhiên, đó là nghi thức điều động một năng lực siêu nhiêu vào việc hãm hại người bằng bùa chú.
Thư có tác dụng gây bệnh tật, hành xác nếu trầm trọng có thể gây mất mạng.
Yểm thì có tác dụng hủy hoại đường công danh sự nghiệp của đối thủ khiến cho họ làm ăn thua lỗ, gia đình ly tán. Thư và yểm được thực hiện trên căn bản là sử dụng những quyền lực vô hình của bùa và chú, chúng chỉ khác nhau ở nghi thức.
Một là bùa yểm có 3 bộ phận quan trọng là: Phù đầu, phù đảm, phù khước cùng phối hợp với chú ngữ và chỉ pháp để sử dụng. Trong đó “Phù đầu” là chỉ đầu lá bùa, “Phù đảm” là chỉ gan lá bùa, “Phù khước” là chỉ chân lá bùa.
Nếu muốn thư người nào thì thầy phù thủy sẽ dùng những đồ vật cá nhân của người đso để là phép cso thể là quần áo hay các vật dùng hàng ngày nhưng phổ biến nhất là tóc hoặc móng tay của đối tượng. Thầy phù thủy sẽ thực hiện đọc thần chú hàng ngày để trù yểm vào những món đồ khiến nạn nhân đau đớn khổ sở. Cũng có những nơi dùng hình ảnh hay những hình nộm viết tên và tuổi của đối tượng, sau khi tiêm phép và chú nguyện thì thầy phù thủy dùng vật nhọn như mũi kim đâm vào bức ảnh hay hình nộm để hành hạ người đó. Hễ dùng vật nhọn đâm vào nơi nào thì đối tượng sẽ đau đớn nơi đó dù khoảng cách giữa họ cách xa cả ngàn dặm.
Trong khi “thư” thì không cần phải gặp trực tiếp đối tượng thì “yểm” lại cần thưc hiện một cách trực tiếp hơn. Đây có thể là khuyết điểm lớn nhất của phương pháp này. Sau khi thầy đã têm phép thì phải đến tận nơi để yểm và an vị lá bùa. Nếu lá bùa càng gần với nạn nhân thì tác dụng lên nạn nhân càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Thật ra, thư yểm là một bộ môn siêu hình đã xuất hiện từ lâu trong dân gian ở khắc nơi trên thế giới, mỗi nơi lại có một biến thể khác nhau. Với những tông phái huyền bí thì môn này không có gì xa lạ, mà việc giải trừ thư yểm được xem như một phương tiện làm đạo, giúp đỡ người khác. Theo nguồn gốc của thư yểm thì bộ môn này thường được truyền bá trong những bộ lạc hay sắc tộc thiểu số, sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh.
Xui xẻo qua đi, điều tốt sẽ lần lượt kéo đến. Trong những năm qua, một số con giáp gặp nhiều khó khăn, phạm nhiều lỗi, nhưng 3 năm tới đây sẽ là thời điểm rất tốt. Sau đây là 3 con giáp may mắn ba năm tới.
Hạng 3: Tuổi Mùi
Người tuổi Mùi trong 3 năm tới luôn gặp thuận lợi và may mắn, tin vui lần lượt kéo đến. Các việc như: kết hôn, thăng chức, tăng lương, đạt được mục tiêu, thực hiện lý tưởng,…sẽ không khó để thấy ở mệnh trụ năm Mùi trong 3 năm tới. Lỗi phong thủy khiến nỗi cô đơn đeo bám gia chủ Con người luôn vấp phải sự hạn chế từ ảnh hưởng môi trường xung quanh. Theo các chuyên gia, sự tồn tại của một số lỗi phong thủy sẽ khiến nỗi Hạng 2: Tuổi Hợi
Từ năm 2016 đến năm 2018, đây là ba năm vô cùng quan trọng đối với người tuổi Hợi, họ phải đưa ra nhiều quyết định ảnh hưởng đến gia đình, sự nghiệp, công danh. Điều may mắn là vận khí của họ trong ba năm này thật sự là không tồi, từ năm 2016 đã bắt đầu bằng những điều thuận lợi và trong ba năm tiếp theo sự việc tốt đẹp sẽ diễn ra và nối đuôi nhau mà đến.Hạng 1: Tuổi Tỵ
Mệnh trụ năm Tỵ trong 3 năm tới vô cùng may mắn. Những người tuổi Tỵ còn độc thân rất có cơ hội kết hôn trong 3 năm tới, nếu có ý định khởi nghiệp thì cũng dễ dàng đạt được thành công. Đây là thời điểm họ nhận được không chỉ là tiền tài mà còn danh tiếng và địa vị. Vậy nên, con giáp này nên nắm bắt thời điểm 3 năm tới để hoàn thành các dự định của bản thân.
=> Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com
Chi Nguyễn Xem Clip để thu nạp kiến thức về Số phận rủi may
Độc giả "Tam Quốc diễn nghĩa" biết đến Quan Vũ là danh tướng lẫy lừng của Thục Hán, song sử liệu Trung Quốc cho thấy tiểu thuyết đã không thể hiện đúng năng lực thực tế của ông.
Sức chiến đấu mạnh mẽ của Quan Vân Trường là điều đã được cả lịch sử và tín ngưỡng Trung Quốc ghi nhận.
Tuy vậy, năng lực thực của ông trong lịch sử có khác biệt rất lớn so với những thông tin được chuyển tải trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác giả triều Minh La Quán Trung.
"Tam Quốc diễn nghĩa" hồi 25 có đoạn tả Quan Vũ chém Nhan Lương - "Quan Công nhảy lên ngựa, cầm Thanh Long Đao phi xuống núi, xông thẳng vào thế trận của địch.
Quân Hà Bắc bị rẽ đôi như sóng nước. Quan Công xông thẳng vào Nhan Lương.
Nhan Lương thấy Quan Công lao tới, đang định cất tiếng hỏi thì ngựa Xích Thố đã tới trước mắt.
Nhan Lương không kịp trở tay, bị Vân Trường vung đao đâm ngã xuống ngựa, cắt lấy thủ cấp treo lên cương ngựa.
Quan Công thu đao rút về, như vào chỗ không người".
Màn Quan Vũ trảm Nhan Lương trong "Tam Quốc diễn nghĩa" được đánh giá là giống như một trận "lôi đài tỷ võ dân gian" hơn là một trận chiến.
Các tướng chủ yếu so tài võ nghệ, đao pháp, thương pháp, thậm chí là dùng chiêu "xa luân chiến" để đánh Nhan Lương.
Phía quân Tào Tháo lần lượt cử ra Tống Hiến và Ngụy Tục - các cựu tướng của Lữ Bố. Hiến và Tục bị Lương diệt xong, lại đến Từ Hoảng.
Từ Hoảng là dũng tướng, mà cũng chỉ đánh với Nhan Lương 20 hiệp đã thua chạy.
Cuối cùng mới đến Quan Vân Trường ra trận "tỏa sáng", một đao chém bay đầu Lương.
Quan Vân Trường chém đầu Nhan Lương giữa vạn quân "như vào chỗ không người".
Sức mạnh thực của Quan Vũ?
Cả trận Bạch Mã giữa hai quân Tào Tháo - Viên Thiệu trong "Tam Quốc diễn nghĩa" được mô tả thành các trận đơn đấu của chư tướng, chứ không thể hiện được sắc thái quân sự.
Trong khi đó, "Tam Quốc Chí - Thục thư - Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện" của sử gia Trần Thọ cũng ghi lại sự kiện Quan Công chém Nhan Lương.
"(Quan) Vũ thấy (Nhan) Lương, bèn thúc ngựa đâm Lương giữa vạn quân, chém đầu Lương.
Chư tướng của (Viên) Thiệu không thể ngăn cản, để Vũ phá vây Bạch Mã.
Tào Công (Tào Tháo) lập tức phong Vũ làm Hán Thọ Đình Hầu".
Trên thực tế, trận Bạch Mã giữa lực lượng Tào Tháo và Viên Thiệu hoàn toàn không đơn giản là mô hình đơn đả độc đấu - tướng chọi tướng - như tiểu thuyết mô tả, mà là cuộc tác chiến quân đội quy mô lớn.
Nhân vật Nhan Lương trong lịch sử không xuất hiện trong vai trò một "võ lâm cao thủ", mà là một tướng chỉ huy quân sự.
Dù sử sách Trung Quốc có ghi chép rằng Nhan Lương "kiêu dũng", song nhiệm vụ của Lương càng thiên về chỉ huy tập kích, bày binh bố trận, vây thành và công thành.
Chiến dịch Bạch Mã là một cuộc chiến theo mô hình tập kích - chi viện, cuối cùng diễn biến thành cuộc đối đầu trực diện giữa 2 phe.
Tình thế đương thời vốn không cho phép Tào Tháo năm lần bảy lượt cử các đại tướng ra thách đấu với Nhan Lương, mà bản thân Lương cũng không hao phí thời gian chỉ để... khoe khoang võ nghệ.
Về phía quân Tào, Quan Vũ là một trong những quan chỉ huy của quân chi viện, mục tiêu rõ ràng không phải tham chiến để tỷ võ cùng Nhan Lương, mà là đột phá phòng tuyến quân sự do Lương chỉ huy.
Dựa trên ghi chép của Trần Thọ trong "Tam Quốc Chí" có thể thấy, Quan Vũ đã nhìn thấy tư lệnh Nhan Lương trong cuộc hỗn chiến và quyết đoán đưa ra quyết định tấn công "sở chỉ huy" của địch.
Vì vậy mới có màn Quan Công đơn thương độc mã xông vào trận địch. Trong quá trình này, nhiệm vụ "chuyên môn" của Quan Vân Trường vô cùng phức tạp.
Dù Trần Thọ không tả kỹ tình hình lúc đó, nhưng bên cạnh việc cần vượt qua nhiều lớp phòng ngự của trọng binh, Quan Vũ còn phải tự bảo vệ bản thân trước đội cung nỏ binh của phe Viên Thiệu.
Thực tế lịch sử cho thấy năng lực tác chiến quân sự và kỹ năng cá nhân của Quan Vũ còn đáng gờm hơn nhiều so với những gì "Tam Quốc diễn nghĩa" mô tả về ông.
Điểm vượt trội của Quan Công là chỉ dựa vào năng lực chiến đấu cá thể, trong điều kiện không có "hỏa pháo" yểm trợ, thậm chí không có cả quân nghi binh, ông không chỉ lọt vào tận "sở chỉ huy" địch, mà còn chém được quan chỉ huy Nhan Lương.
Ngoài ra, ngựa của Quan Vân Trường vào thời điểm đó không phải Xích Thố, bởi theo sử liệu để lại, Xích Thố đã chết từ trước đó rất lâu.
Quân đội của Nhan Lương chắc chắn cũng không yếu kém trong lĩnh vực phòng ngự. Khi Quan Vũ phát động tấn công nhằm vào họ, tiền tuyến sẽ gửi về cảnh báo cho Nhan Lương.
Như vậy, có thể thấy rõ bối cảnh cuộc đột kích của Quan Vũ: đối phương có "vạn quân", tác chiến hợp lý và luôn ở vào thế thượng phong cho tới thời điểm đó, đủ thấy màn độc diễn của Quan Công xứng đáng là "tuyệt phẩm".
Từ điểm này có thể xác định, năng lực chiến đấu thực tế của Quan Vũ trong lịch sử còn "nguy hiểm" hơn những gì tiểu thuyết mô tả.
Việc Tào Tháo lập tức phong Hầu cho Quan Vũ, do đó cũng không có gì khó hiểu.
Kỳ thực, trong lịch sử Tam Quốc, những sự kiện như trên cực hiếm xuất hiện.
Hệ thống phòng ngự của các lực lượng quân đội tất nhiên không phải để "làm cảnh", và nếu không phải là Quan Công trong tình huống đó mà là một viên tướng khác, thì chắc hẳn đã vong mạng dưới loạn tiễn ngay từ đầu.
Việc Quan Công đơn thương độc mã đột phá vòng vây chém Nhan Lương có thể coi là kỳ tích anh hùng, gần như không có khả năng tái hiện.
12 việc cần làm ngay để loại bỏ suy nghĩ tiêu cực. Bạn xứng đáng được dành thời gian cho những điều hạnh phúc và ý nghĩa hơn là ngồi một chỗ buồn rầu vì những điều không thể thay đổi được.
Bạn xứng đáng được dành thời gian cho những điều hạnh phúc và ý nghĩa hơn là ngồi một chỗ buồn rầu vì những điều không thể thay đổi được.
1. Tạo ra hạnh phúc từ bên trong
Nếu muốn có hạnh phúc thực sự, bạn không nên phụ thuộc quá nhiều vào những yếu tố bên ngoài. Một khi những điều đó mất đi, tâm trạng của bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng theo. Chỉ có hạnh phúc từ bên trong, sự yên bình trong tâm hồn mới có thể giữ cho tinh thần bạn luôn bình tĩnh và khỏe mạnh.
2. Luyện tập cách suy nghĩ tích cực
Suy nghĩ ảnh hưởng đến hành động, nên nếu cứ nghĩ mọi thứ theo hướng tiêu cực, tương lai của bạn sẽ chỉ còn toàn một màu đen tối. Hãy luôn nhắc nhở bản thân tìm đến những hướng suy nghĩ tích cự. Vấn đề gì cũng có hai mặt, nếu bạn đang vô tình buồn rầu vì mặt trái của nó, hãy thử suy nghĩ đến cả mặt phải nữa.
3. Tìm kiếm lí do để tự tin vào bản thân
Dù có rất nhiều người bạn phải vượt qua, nhưng một khi đã tin tưởng vào bản thân thì những gì còn lại chẳng còn là vấn đề nữa. Kể cả khi tuyệt vọng chán nản nhất, sẽ luôn có lí do để bạn tin tưởng vào bản thân mình. Bởi mỗi người sinh ra đều có một giá trị nào đó và chỉ riêng việc bạn xuất hiện trên đời đã là một giá trị rồi.
4. Tránh xa những người tiêu cực
Khi luôn có những suy nghĩ tiêu cực, bạn không thể làm điều gì tốt đẹp cho người khác. Những người tiêu cực cũng vậy. Nếu bạn dễ bị ảnh hưởng bởi xung quanh, những người hay than thở sẽ khiến bạn căng thẳng về vấn đề của họ. Mặt khác, ở gần những người vui vẻ sẽ cho bạn thời gian tràn đầy năng lượng và sáng tạo trước các vấn đề cần giải quyết.
5. Thường xuyên tập thể dục
Thể chất thường xuyên được tập luyện sẽ giúp cơ thể giải phóng hoocmon có lợi cho “cảm giác tích cực”. Hãy đối xử tử tế với cơ thể đã chăm chỉ vì bạn lao động không ngừng nghỉ, đổi lại, cơ thể sẽ giúp bạn giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lượng vui vẻ. Hơn nữa, một cơ thể khỏe mạnh thì làm gì cũng thuận lợi hơn.
6. Dành thời gian ngoài thiên nhiên
Giống như một phương pháp thư giãn, trở về với thiên nhiên đem lại cho bạn cảm giác được thanh lọc tâm hồn và thể chất. Sau những giờ phút vất vả với bộn bề công việc, đi dạo một chút và tận hưởng cảnh đẹp của cây cối sẽ khiến suy nghĩ của bạn thông suốt hơn.
7. Tránh chi tiêu bừa bãi
“Mua những gì bạn cần, đừng mua những gì bạn muốn”. Ngày nay, tình trạng nhìn đâu cũng thấy giảm giá dễ khiến chúng ta đau đầu khổ sở khi muốn ôm tất cả về nhà. Nhưng vì một “tương lai xa hơn”, bạn nên dành những gì mình có cho việc đầu tư hoặc khám phá những trải nghiệm mới. Chẳng có ai “khánh kiệt” mà lại vui vẻ cả.
8. Đón nhận thất bại
Cũng giống như hai mặt vấn đề, cuộc sống cũng luôn có thành công và thất bại, và thất bại là cách duy nhất để bạn có thể học hỏi và trưởng thành. Nếu bạn thất bại, chỉ cần đứng lên và làm lại từ đầu thôi. Nhờ đó, bạn sẽ thấy mình có thêm nhiều kinh nghiệm và tốt lên từng ngày.
9. Sẵn sàng chịu trách nhiệm
Những người tích cực luôn chịu trách nhiệm về chính cuộc sống của mình. Thay vì mệt mỏi trước những thứ ngoài tầm kiểm soát, họ có thể vui vẻ vì đó là lỗi của mình và mình hoàn toàn thay đổi được. Một người tích cực ít khi đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh hoặc người khác, vì đó chỉ là cách trốn tránh mà thôi.
10. Học cách kiểm soát suy nghĩ
Đôi khi những suy nghĩ tiêu cực có thể bất ngờ “xâm lấn” tâm trí bạn lúc nào không hay. Những lúc này, bạn có thể tìm cách để bản thân nghĩ đến việc khác, như đọc một cuốn sách, xem một bộ phim, hoặc làm những công việc chân tay. Nếu không thể kiểm soát cảm xúc, bạn cũng sẽ không thể kiểm soát hành động và vì thế sẽ không có một ngày vui vẻ.
11. Biết lúc nào cần nói “không”
Nói “không” đúng lúc là một kĩ năng cần phải học. Để trở nên tích cực và lạc quan, bạn không thể cứ đồng ý làm những điều mà mình không thích, nói những điều mà mình không muốn. Sức mạnh của sự từ chối sẽ khiến bạn ngạc nhiên một khi nhận ra giá trị của nó. Hãy ưu tiên nhu cầu của bản thân trước khi cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người.
12. Không để những gì người khác nói ảnh hưởng
Chỉ có bạn mới có thể sống cuộc đời của bạn. Dù người khác có nói gì, họ cũng không phải là bạn và không thể hiểu được hoàn toàn những gì bạn đang phải trải qua. Mọi bình luận tiêu cực sẽ chìm vào quên lãng khi họ biết bạn có chính kiến riêng và có không cần nói bạn cũng làm tốt việc của mình.
Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của
tình thương yêu. "Có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết”. Hãy tập yêu thương theo lời Phật dạy bạn nhé!
Làm theo 5 điều Phật dạy để thay đổi cuộc đờiSuy ngẫm 6 điều Phật dạy về tình yêu thương trên đời36 lời Phật dạy yêu, đảm bảo hạnh phúc (phần 1)36 lời Phật dạy yêu, đảm bảo hạnh phúc (phần 2)Nghe lời Phật dạy, thành người vợ hiền
Mỗi người có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời. Lời Phật dạy về tình yêu thương vốn rất sâu sắc là vậy!
Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thường xảy ra.
Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.
Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình - hãy nhớ - đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.
Cùng ## nghe video sau đây để tập yêu thương theo lời Phật dạy bạn nhé!
► Những câu nói hay về tình yêu khiến bạn phải suy ngẫm
Cách nhận biết và phân biệt đá thạch anh thật hay giả –
Trong tất cả các loại đá dùng làm linh vật phong thủy thì đá thạch anh là một loại đá được nhiều người biết đến và chiếm được lòng tin tưởng của mọi người vì những tác dụng mà nó mang lại. Cũng vì điều này mà rất nhiều cá nhân vì lòng tham mà luồn lá
Trong tất cả các loại đá dùng làm linh vật phong thủy thì đá thạch anh là một loại đá được nhiều người biết đến và chiếm được lòng tin tưởng của mọi người vì những tác dụng mà nó mang lại. Cũng vì điều này mà rất nhiều cá nhân vì lòng tham mà luồn lách hàng giả vào thị trường rất nhiều. Cho nên nếu không biết cách nhận biết và phân biệt đá thạch anh thật hay giả thì rất giễ bị mất tiền oan vào đồ giả mà lại mất đi linh ứng tác dụng mà Đá thạch anh phong thủy mang lại. Để nắm được cách nhận biết đá thạch anh thật hay giả cũng như là để phân biệt đá thạch anh thật hay giả chúng ta cần nắm vững những điều dưới đây. Hãy cùng tham khảo để có nhiều thông tin bổ ích nhé!
Nội dung
1 Đá Thạch Anh Thật Tự Nhiên khác với đá nhân tạo ở chỗ
2 Để phân biệt được Đá Thạch Anh đâu là giả, đâu là thật
2.1 Các cách phân biệt gần như chắc chắn
2.2 Các cách phân biệt dễ dàng dựa theo thực nghiệm
2.3 Độ nặng nhẹ
2.4 Độ mát của đá:
2.5 Tăng sức mạnh cho chủ nhân
2.6 Độ tự nhiên
2.7 Sử dụng thực nghiệm một thời gian
2.8 Kết luận
Đá Thạch Anh Thật Tự Nhiên khác với đá nhân tạo ở chỗ
Đá Thạch Anh Thật Tự Nhiên được làm từ Đá Thạch Anh Thật Tự Nhiên 100% có Từ Trường Năng Lượng tác động rất tốt đối với chủ nhân còn đá nhân tạo không có tác dụng này. Thương Hiệu Đá Quý Kim Tự Tháp hy vọng bài chia sẻ này có thể mang lại cho bạn thêm nhiều thông tin để có thể lựa chọn cho mình tác phẩm đá thạch anh phù hợp nhất…
Hiện nay, những người yêu thích khoáng vật và chơi thạch anh ngày càng nhiều, bởi thạch anh là loại bán quý mang lại nguồn năng lượng lớn và giá cả cũng phải chăng.
Đá thạch anh là tinh thể có nhiều màu sắc như hồng, tím, trắng, vàng, đen rất đẹp và tinh tế. Có thể đặt thạch anh trong nhà, nơi làm việc, cửa hàng, hay làm vật trang sức đều được. Thạch anh mang trong mình nguồn năng lượng giúp con người tinh thần thoải mái, cơ thể khỏe mạnh, mang may mắn tài lộc đến cho người dùng, gắn kết tình cảm, làm ăn thuận lợi. Vì những công dụng mà thạch anh đem lại nên được rất nhiều người ưu chuộng và đã tạo thành những cơn sốt chơi đá.
Nắm bắt được tâm lý khách hàng của người Việt Nam thích hàng rẻ, nên trên thị trường các mặt hàng trang sức làm từ đá được làm giả vô cùng nhiều, bán với đủ loại giá trên trời dưới đất, làm cho người chơi đá vô cùng hoang mang.
Thạch anh thật nhìn bên ngoài chỉ thấy được những màu sắc bình thường, nếu chiếu ánh sáng trắng vào sẽ thấy được những độ sâu thẳm của đá, sờ vào sẽ thấy mát lạnh vì năng lượng của đá rất lớn. Và thạch anh thật sử dụng càng lâu sẽ càng sáng bóng đẹp hơn.
Chất liệu để làm giả thạch anh thường là nhựa, thủy tinh, bột đá đã qua công đoạn chế biến. Các loại nguyên liệu này thường được nhập từ Trung Quốc và bán với giá rẻ bất ngờ, chỉ vài chục ngàn là có một sợi dây đeo tay to đẹp, nhưng với loại thạch anh giả này càng sử dụng lâu càng mất dần độ sáng bóng ban đầu.
Ngoài đá giả, kỹ thuật hiện đại cũng có thể pha màu cho đá thạch anh tự nhiên kém chất lượng trở thành loại đá có màu sắc đậm hơn (và dĩ nhiên cũng sẽ dễ bán hơn). Loại đá pha màu này nhìn rất giống thật và năng lượng cũng có, tuy nhiên không thể mạnh và tốt được như đá chất lượng cao được.
Để phân biệt được Đá Thạch Anh đâu là giả, đâu là thật
Nguồn Thạch Anh hiện tại thường được khai thác chủ yếu ở Đà Nẵng, Lâm Đồng, Nha Trang… hoặc nhập về từ Myanmar, Braxin, Trung Quốc… Việc nhận biết độ đậm nhạt của màu sắc có thể giúp bạn ít nhiều nhận ra được nguồn gốc của các loại đá thạch anh qua đó dễ dàng phân biệt được một cách chính xác hơn. Kinh nghiệm của những người chơi đá lâu năm thì họ thường chọn những loại đá còn nguyên tự nhiên chưa qua chế tác, một chút xù xì, không được hoàn hảo sẽ thuyết phục hơn những viên đá thành phẩm bóng loáng và đẹp như đúng rồi.
Các cách phân biệt gần như chắc chắn
Cách tốt nhất nhưng thường ít ai làm là đi kiểm định tại các công ty với các máy đo độ cứng, đo năng lượng bức xạ, đo độ tuổi… và thường thì sẽ được cấp giấy chứng nhận.
Các nhà tâm linh có thực hành Thiền định hoặc các môn năng lượng sinh học có thể cảm nhận và đi được năng lượng của đá, có lẽ đây là cách hợp lý nhất và đơn giản nhất. Đối với các nhà khoa học năng lượng phong thủy tâm linh, đá có linh hồn và linh hồn thì không hề thích nói dối. Tuy nhiên, để tìm được một địa chỉ tin cậy trên thị trường hiện nay đúng là cả một vấn đề. Điều hạn chế duy nhất trong cách này có lẽ là đôi lúc đá nhuộm màu cũng có được năng lượng khá ổn làm cho nhà năng lượng học bị nhầm lẫn.
Các cách phân biệt dễ dàng dựa theo thực nghiệm
Đốt vài phút? (không khuyến khích)
Nếu bạn không phải là một chuyên gia về đá có thể phân biệt thật giả bằng mắt thường, có một cách đơn giản nhất để kiểm tra đó là dùng lửa. Bạn lấy viên thạch anh của mình đem đốt lên thật nóng trong vài phút, nếu là giả thì sẻ bị sủi bọt, nứt, có vụn than, còn thật thì không ảnh hưởng, vẫn có thể sử dụng bình thường. Với các chất liệu khác bạn cũng có thể làm tương tự, nếu là hàng thật chất liệu tự nhiên chắc chắn không sợ lửa. Nhưng nhược điểm của cách phân biệt này là bạn chỉ có thể thử khi bạn đã mua về. Và, cách này chỉ đúng nếu như viên đá thạch anh được làm giả bằng cách tổng hợp các loại nhựa màu. Có nhiều loại đá thạch anh giả không hề bị phát hiện bằng cách này. (bột đá pha màu chẳng hạn…)
Độ nặng nhẹ
Thường thì đá giả sẽ nhẹ hơn đá thật một cách tương đối.
Độ mát của đá:
Cách này có áp dụng ngay, viên đá thật thường mát khi áp vào má.
Tăng sức mạnh cho chủ nhân
Khi bạn cầm trong tay viên đá thật, năng lượng của đá sẽ hỗ trợ cho sức mạnh cơ thể của bạn. Bạn sẽ tự dưng cảm thấy mạnh mẽ và thoải mái hơn. (Cách này đúng 99%, chúng tôi thường sử dụng cách này)
Độ tự nhiên
Hãy biết rằng, không có viên đá tự nhiên nào hoàn hảo cả. Nhìn kỹ vào bên trong, đá tự nhiên sẽ sáng long lanh hơn đá nhân tạo. Và thường thì màu sắc sẽ không đều và không hoàn hảo như đá giả. Đối với vòng tay đá tự nhiên, không hạt nào giống hạt nào, không chiếc vòng nào giống chiếc vòng nào. . .
Sử dụng thực nghiệm một thời gian
Đá quý tự nhiên nói chung và đá thạch anh nói riêng càng xài càng đẹp. Đặc biệt là các sản phẩm trang sức (vòng tay, mặt dây chuyền đá thạch anh luôn luôn đeo bên mình) càng sử dụng càng bóng, càng lên nước, càng sáng hơn. Vì đá thạch anh có khả năng thu hút năng lượng vũ trụ và cộng hưởng năng lượng với chủ nhân. Đối với đá nhân tạo, ko thể có được sự thay đổi như vậy. Thời gian là câu trả lời chính xác nhất.
Kết luận
Không có một kết luận chính xác nào được đưa ra ngoài việc bạn là một chuyên gia hàng đầu có thâm niên trong việc sưu tầm đá lâu năm. Đơn giản, để có được những viên đá thạch anh đẹp, tự nhiên, hãy chọn những cơ sở uy tín và có thương hiệu trên thị trường. Hãy đến nói chuyện trực tiếp với người bán xem cái tâm và cái tầm tâm linh của họ có hợp lý với chính bản thân bạn hay không?
Bạch Dương: Thể diệnSĩ diện của Bạch Dương cao hơn tất cả, nên dù họ có sai lầm hay phạm phải tội tày đình, cũng không thể giữa chốn đông người mà la mắng được đâu. Khiến họ mất mặt tức là bạn đã đánh mất Bạch Dương rồi đấy.Kim Ngưu: Tiền bạcYêu đương và tiền nong là hai phạm trù chẳng liên quan gì đâu nhé. Đừng mơ tưởng ràng vì yêu say đắm mà Kim Ngưu sẽ dâng hết tiền bạc cho bạn.Song Tử: Tự doMuốn yêu Song Tử bạn phải rộng lượng mà phóng khoáng mới được, vì bình sinh họ ghét nhất là bị bó buộc hay kiểm soát.Cự Giải: Người thânBạn cùng người nhà của Cự Giải tuyên chiến? Vậy chia buồn, hai bạn sớm muộn gì cũng chia tay thôi. Trong tính cách của 12 chòm sao, Cự Giải là người coi trọng người thân nhất đấy.Sư Tử: Lựa chọn
Nếu bạn yêu một người cung Sư Tử thì ngàn vạn lần đừng quên: tình yêu không phải sinh mệnh. Vì thế, tuyệt đối không thể bắt Sư Tử lựa chọn vứt bỏ tất cả để bên bạn được.Xử Nữ: Hứa hẹnTốt nhất, trước mặt chòm sao cầu toàn như Xử Nữ, hãy cẩn thận khi thốt ra những lời hứa hẹn bay bổng, họ đặc biệt dị ứng đấy. Cứ chứng minh bằng hành động thực tế đi.12 chòm sao luyến tiếc điều gì nhất, bất đắc dĩ mới phải từ bỏ Có những điều mà chúng ta thường luyến tiếc, không bao giờ muốn mất đi, thế nhưng, cuộc sống là phải đối mặt với những điều không mong muốn. Thiên Bình: Phê bìnhSiêu cấp tự tin như Thiên Bình trong mắt chỉ nghĩ mình là hoàn hảo, cao cấp không thích nghe những lời phê bình thẳng thắn, thật thà đâu. Khéo ăn khéo nói một chút cho họ vừa lòng.Thiên Yết: Phản bộiKhông cần biết chuyện lớn hay chuyện nhỏ, chỉ cần lừa gạt Thiên Yết thì chòm sao lạnh lùng này sẽ không bao giờ tha thứ.Nhân Mã: Kiểm soátCàng kiểm soát chặt, Nhân Mã càng trốn chạy, họ không chịu được gò bó và thúc ép đâu.Ma Kết: Rỗng tuếchNgười không có nội hàm xin đừng kết giao – tuyên ngôn của Ma Kết đó.
Thủy Bình: Truyền thốngGiới hạn và những định kiến cũ không phù hợp với Thủy Bình. Nên chuyện con gái phải biết nấu ăn, đàn ông nhất định phải nuôi vợ đừng có tranh cãi với họ nhé.Song Ngư: Tình yêuĐiểm chí mạng của chòm sao Song Ngư chính là tình yêu. Họ đến với bạn vì tình yêu và rời xa bạn cũng vì tình yêu. Nên tốt nhất, hãy luôn giữ những cảm xúc bay bổng nhất trong mối quan hệ của mình.Trình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Xem tướng bàn tay để đoán tính cách của chủ nhân –
Bàn tay cũng là một bộ phận được các nhà nhân tướng học rất lưu ý khi đánh giá một con người. 1. Bàn tay quá ngắn Bàn tay quá ngắn so với cánh tay dẫn đến sự mất cân đối, hoặc là bàn tay quá nhỏ trong khi thân hình lại to lớn. Người sở hữu bàn tay nh
Đôi mắt là nơi ẩn chứa những điều chân thật nhất về con người. Nhìn vào đôi mắt, ta biết được người này đang vui hay buồn. Xem ánh mắt, ta biết được người đó là tốt hay xấu. Xem thần khí của mắt, có thể đoán được họ đang gặp họa hay phúc. Thuật xem tướng mắt đã được những nhà tướng thuật tổng kết các kinh nghiệm quý báu giúp chúng ta có thể đoán được vận hạn của con người trong khoảng thời gian nhất định.
Các nhà xem bói tướng khi bàn về vấn đề vận hạn thường lấy 2 mắt chủ quản cho 6 năm vận hạn, tức là mắt trái quản 3 năm là 30, 31 và 32 tuổi; mắt phải quản 3 năm là 33, 34 và 35 tuổi.
1. Xem tướng mắt biết tai họa
Xung quanh mắt có nốt ruồi đen là người có tính tình tham lam, thường hay ăn trộm. Người sát dưới mắt có nốt ruồi đen tất sẽ gây ra họa hại đối với người khác. Mắt bỗng xuất hiện khí sắc màu đen, cho đến vùng quầng mắt xuất hiện màu đen rất rõ rệt, người như thế trong vòng 10 ngày có thể sẽ vì miệng lưỡi của phụ nữ truyền đến điều thị phi khiến trong nhà không được yên ổn. Nếu sắc đen tương đối mờ nhạt, như thế trong vòng 14 ngày cũng phải chịu điều thị phi mà không được yên ổn. Người có khí sắc mắt là màu hồng tất sẽ có hỏa hoạn giáng xuống.
Người mà có mắt là màu xanh sẽ gặp phải chuyện thị phi đồn đại mà bị liên lụy. Nếu xuất hiện màu đỏ sẽ gặp tai họa liên quan đến chuyện quan trường, nếu khí sắc ở mắt có xuất hiện màu đen thì tài sản bị mất mát. Nếu mắt có xuất hiện màu vàng là tướng tốt lành. Nếu nữ giới trên mắt xuất hiện màu xanh thường vận mệnh người chồng chẳng thể dài lâu. Nếu người nữ mà trên mắt có xuất hiện màu đỏ, chủ về khó khăn trong chuyện sinh nở. Nếu người con gái có khí sắc ở đuôi mắt trắng sáng chủ chồng được thăng quan phát tài.
2. Xem bói 2 mắt lộ sắc cả đời hung ác
Hai mắt lộ sắc tức là mắt tựa như đám lửa cháy, mắt sắc. 2 viền mắt tựa như phun lửa, tức là trên dưới mắt lộ sắc đỏ hồng, tựa như đám lửa cháy bốc cao hướng ra bên ngoài. Người có hình tướng như thế thường lòng lang hiểm độc, gian trá, cả đời hung ác. Trong khoảng 5 năm từ 30 đến 35 tuổi, người đó được phát tài, nhưng trong khoảng 4 năm từ 37 đến 40 tuổi có thể sẽ gặp nhiều hung họa, nguy hiểm. Hứa Phụ nói: Người mà trong mắt có lộ sắc đỏ tất gặp họa hình thương mà qua đời, mắt như thế được gọi là mắt đỏ như mắt rắn.
3. Xem bói mắt đen rạng rỡ, cả đời hưởng phúc
Trong sách xem bói tướng Quảng giám tập có chép: Trong 2 mắt có lộ sắc đen, tựa như điểm sơn, rất rõ ràng, ánh mắt rạng rỡ là tướng quý nhân, cả đời được hưởng phúc. Trong khoảng 6 năm từ năm 30 đến năm 35 tuổi sẽ thành công, nối danh thiên hạ. Trong Nguyệt Ba động trung ký chép: Người có mắt to, đoan trang ổn định, không lồi không lộ, trắng đen rõ ràng thường là người có trí tuệ hơn người, sự nghiệp thành công.
4. Người có mắt liếc xéo trong lòng không ngay thẳng
Người có ánh mắt hay liếc xéo thường là người có tính cách kiên cường, nhưng lại là người hay cò kè, nhỏ nhen, lời nói hành động thô tục, tương đối tham lam, thường làm những việc tổn hại đến người khác để mưu lợi cho mình. Người như thế, cho dù là có phú quý, tài hoa hơn người nhưng bản tính cò kè khó thay đổi được. Không chỉ như thế, họ thường có khẩu phật tâm xà, trong ngoài khác nhau.
Trong Quảng giám tập nói: Mắt là cửa sổ của tâm hồn, vì thế khi quan sát nhãn thần của một người có thể biết được trong tâm người đó nghĩ gì. Mạnh Tử từng nói rằng: Người có tâm ngay thẳng, ánh mắt rất rạng rỡ; ngược lại, người có tâm không ngay thẳng, mắt sẽ mờ tối không trong sáng. Một người có tâm bên trong ác độc, ánh mắt không thể che giấu được.
5. Thông qua nhãn thần có thể phán đoán thiện ác của một người.
Mắt nhìn ngay chính, thần khí thanh sảng, ánh mắt ổn định, người đó tâm địa lương thiện. Một người mắt hay liếc xéo, nhãn thần không ổn định, ánh mắt mờ tối, thường là người có tâm hiểm độc. Trong Thái thanh thần giám có nói: Ngưòi có nhãn thần không bình thường, trong tâm mưu mô ác độc. Tóm lại, nhãn thần lương thiện, tâm địa cũng tốt, người có nhãn thần độc ác, tâm địa cũng độc ác. Trong Đại thống phú có nói: Người có ánh mắt liếc xéo thường làm những việc ác độc tổn thương người khác, dù người đó rất giàu có, tâm địa cũng không được ngay thẳng, như thế cũng chỉ là đám tiểu nhân mà thôi.
6. Tướng mắt to lộ sắc hung, tai họa không ngừng
Thuật xem tướng cho rằng người mà mắt to tròn, đột xuất lộ sắc hung thường là người có tính cách hung bạo, cuộc đời thường gặp nhiều tai họa, có khi phải chịu ngục tù, giam cầm. Người như thế cả đời hung ác. Trong những năm từ 28 đến 35 tuổi họ thường gặp phải những chuyện không may. 37, 38, 39 tuổi là những năm mà vận hạn hung họa khó lường. Người này cho dù sinh ra trong gia đình phú quý nhưng cũng trở thành người tham lam, hiểm độc. Nhưng nếu có thể tĩnh tâm đọc sách, thường xuyên kết giao với những người quân tử có đức hạnh cao quý thì cũng có thể tạo được một khoảng cách nhất định, tránh xa được đám tiểu nhân hiểm ác và vì thế những tai họa giáng xuống cũng giảm đi được một nửa.
Trong Nguyệt Ba động trung kỷ có nói: Không nên kết hạn với người mắt lộ sắc hung nếu không sẽ gặp phiền phức, thậm chí tai họa giáng xuống. Lại nói: Người có mắt lộ rõ ra ngoài, tâm vì thế cũng khó giấu kín. Mắt gà mắt chuột, tham lam vô liêm Si. Người có mắt tựa như mắt gà là người thích chuyện tranh đấu với người khác, có tính phong lưu đa tình. Người có mắt tựa mắt rắn, thịt trên mắt dày thường là người có tâm hiểm độc. Người có mắt nhỏ như mắt chuột, hai bên mắt trái phải khác nhau, mắt trái nhỏ hơn mắt phải, người như thế có tâm trộm cướp, tham lam vô liêm sỉ. Người có tướng mắt được trình bày như những đặc điểm trên đây, dù được sông trong nhà giàu sang phú quý cũng là phường trộm cướp, gian dâm, bản tính thích tranh đấu khó thay đổi được.
7. Hay nhìn trộm người khác, có nhiều nghi ngờ
Nhìn trộm là chỉ khi nói chuyện với người khác, hoặc khi cùng tụ tập đông người, mắt thấp trầm ngâm, thường hay nhìn trộm người khác. Người có tướng mắt như vậy đa phần có tính tình không an định, sinh nhiều mốì nghi ngờ trong tâm. Chính vì như thế, gặp chuyện gì họ cũng chắng đưa ra được đối sách tốt.
8. Xem bói mắt như mất phượng, cả đời phú quý
Người có thần thanh sảng, thanh tú, nhãn thần sáng bóng tinh khiết, nhãn châu trắng đen rõ ràng, chính là nói ánh mắt như sao tỏa sáng ra bôn phía. Người có mắt dài như mắt phượng, tức là mắt nhỏ dài nhập vào gần tóc mai, độ dài của mắt quá 1 tấc 5 phân. Người có tướng mắt giống thế, bất luận là nam hay nữ đều là người phú quý. Quan Vân Trường thời Tam quốc, Phòng Huyền Linh thời Đường đều có tướng mắt này.
(theo Tử vi số mệnh Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Các nhà Nhân tướng học khi xem tướng phụ nữ sẽ quan sát đôi mắt và lông mày trên khuôn mặt trước tiên. Đây là hai bộ phận dễ quan sát nhất nhưng lại mang đến nhiều thông tin về con người nhất. Xem tướng lông mày phụ nữ mà có hình trăng non thì chắc chắn đó là một người rất tinh tế, họ để ý đến nhiều khía cạnh của vấn đề và rất khéo léo để xử trí. Lông mày mà đậm và mảnh thì người phụ nữ ấy tài sắc không chín thì mười, lãng mạn trong tình yêu và có thiên hướng trong lĩnh vực nghệ thuật.
1. Lông mày lá liệu là người phụ nữ nhu mì, thảo hiền
Đặc điểm của lông mày lá liễu (còn gọi là Liễu Diệp Mi) như sau:
Lông mày dài
Phía đuôi lông mày thon
Màu sắc lông mày tươi, mượt
Lông mày mọc không lộn xộn, nhìn dáng mọc lướt thướt như lá liễu
Tướng lông mày lá liễu toát nên đặc trưng của một người phụ nữ Á Đông: như mì, trung tín, thướt tha và dịu dàng. Họ có thể cuốn hút nhiều chàng trai, nhất là những người thành đạt, anh hùng hảo hán càng dễ rơi vào vòng tình cảm với họ. Nếu người phụ nữ này được nâng đỡ, dìu dắt thì sự nghiệp sẽ được lên cao, vẻ vang hết thảy.
2. Lông mày ngang: trí tuệ và nhân nghĩa
Tướng người phụ nữ có lông mày ngang là người có hiểu biết, có sự thông tuệ, nhân nghĩa. Tính tình khá thực tế, biết cách đối nhân xử thế khéo léo, hợp tình nhưng cũng hợp lý. Người phụ nữ này nghĩ gì thì làm nấy, luôn biến ý tưởng trong đầu thành hành động. Tuy có sự năng nổ phấn đấu sự nghiệp bản thân nhưng lại có thể phân biệt rạch ròi với cuộc sống bình thường nên biết cách cân bằng, hài hòa trong công việc. Yêu chuộng hòa bình, thiên về hòa giải và làm vừa lòng người khác. Đây là tướng người phụ nữ giàu có mà cánh đàn ông đều khâm phục.
3. Lông mày có góc tạo thành hình chữ V: người phụ nữ có trách nhiệm và quyền lực
Người phụ nữ có dạng lông mày này luôn kiểm soát được ý nghĩ và hành động của bản thân. Có sự tư duy rạch ròi, yêu ghét rõ ràng nhưng lại có sự mềm mỏng của một người phụ nữ. Trong công việc họ rất tận tâm, làm hết sức mình, có thể tự thay đổi để hoàn thành công việc mà không bảo thủ. Khả năng kiên định rất cao, phải có sự giải thích hợp lý, vì mục đích chung may ra mới thay đổi được quyết định của người phụ nữ này. Ở khía cạnh khác thì họ rất yêu thương mọi người, cũng giỏi trong giao tiếp.
4. Xem tướng lông mày phụ nữ mà thanh tú thì chủ về thành đạt và nổi tiếng
Đặc điểm của lông mày thanh tú (còn gọi là Thiền Thanh Hậu Sơ Mi) như sau:
Lông mày mọc đều, đầu lông mày mọc đậm, cuối lông mày mọc thưa dần đều
Ở giữa thì hơi uốn lượn, mọc thưa hơn phần đầu nhưng mịn màng cho đến cuối lông mày
Chiều dài lông mày bằng hoặc vượt quá mắt
Tướng người phụ nữ qua lông mày thanh tú công danh sớm thành đạt, có thể sẽ nổi tiếng nếu tham gia vào các lĩnh vực nghệ thuật. Nếu làm quan chức thì tuổi cao chức cao, giàu có cũng từ đó mà nên. Tuy nhiên, sự giàu có này đa phần thuộc loại khá giả chứ không trở thành đại phú. Đó là bởi có sự cân bằng tự nhiên, được thành công, thuận lợi từ sớm thì đại phát sẽ trở nên nguy hiểm chứ không còn là tướng tốt đẹp nữa.
5. Tướng lông mày ngắn nhưng thanh là người phụ nữ sáng suốt, vẹn toàn
Đặc điểm của dạng lông mày này (còn gọi là Đoản Súc Tú Mi) như sau:
Lông mày ngắn, nhỏ và hẹp
Lông mày mọc đều, mịn màng, không được lộn xộn và thô cứng
Dáng lông mày phải thanh, độ dài ngắn hơn mắt
Đây là người phụ nữ trung hậu, trí tuệ thông minh và sáng suốt, đức tính đảm đang, vẹn toàn các đạo hiếu của người con, người mẹ, người con dâu, người chị trong nhà. Ưa sự hòa thuận, biết nhường nhịn chồng con, tiền bạc không quá quan trọng, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nếu có khuôn mặt cân đối, trán, mũi hợp tướng thì tiền bạc nhiều, ít nhất là khá giả. Tuổi thọ thường cao, tuổi già an nhàn, hưởng phúc.
6. Tướng người phụ nữ có lông mày trăng non thì tinh tế, thông tuệ
Đặc điểm của lông mày trăng non (còn gọi là Tân Nguyệt Mi) như sau:
Lông mày phải mịn màng, không thô ráp
Chiều mọc xuôi, không bị tán xạ, phải rõ nét
Dáng mọc cong đều, hình thể thanh tao như trăng non
Chiều dài lông mày phải quá mắt
Người phụ nữ có lông mày hình trăng non thì cực kỳ tinh tế, để ý đến việc to, việc nhỏ, hành xử khéo léo, được công việc nhưng thuận lòng người. Chủ về thông tuệ, nghĩa là có hiểu biết, ham học hỏi trong cuộc sống hằng ngày. Người phụ nữ này không những thông minh mà còn có sự nhạy cảm của phải yếu. Nhiều người có thể có cả giác quan thứ 6, linh cảm được những sực việc tốt lẫn xấu có thể sắp xảy ra cho mình hoặc người thân. Cuộc đời khá yên bình, thuận lợi, không gặp nhiều thăng trầm.
7. Lông mày tằm tướng người phụ nữ khéo léo
Đặc điểm:
Sợi lông mày thô, cứng
Bề ngang to, phía đuôi vẩy lên trên
Nhìn hình dáng như con tằm đang nằm
Dạng lông mày hình tằm này chứng tỏ đây là người phụ nữ rất khéo léo, tính cách mềm dẻo, dễ được lòng người khác. Tính cách có hơi cá nhân một chút, thích làm lợi cho bản thân mình. Người phụ nữ này dễ thành đạt, tiến xa trên con đường danh vọng nhưng cũng cần biết điểm dừng, vừa lòng với những gì mình có thì có thể hưởng phúc, sống cuộc sống an nhàn.
Bài viết trích ra từ cuốn Hồi Ký của học giả Nguyễn Hiến Lê. Trong bài viết này học giả có đưa ra nhận xét của ản thân về Tử Vi, Tử Bình, Bát Tự Hà Lạc, Bốc Phệ, ...
Bài viết chép lại một đoạn nhận xét về các môn khoa học huyền bí Trung Hoa trong Hồi Ký của học giả Nguyễn Hiến Lê
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai cuốn Tử vi viết bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc thêm sách Tử bình bằng chữ Hán. Năm 1974 tôi lại được đọc cuốn Bát tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi quê ở Thanh Trì (Hà Nội) có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học huyền bí đó của Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn “làm cách mạng” thấy tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm hiểu một môn học rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có thực. Một người thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng cho người đó; hiện tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy vô lí, nhưng vẫn có thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu thanh; nửa thế kỉ trước, ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”.
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy:
- Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ... cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
- Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
- Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy: “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi môn lí số của Trung Hoa.
***
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một cách tài tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp dụng luật ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và Tử bình có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của Trung Hoa, khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ đúng một cách kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr. 177), một quẻ về bệnh của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi; đúng về tốt xấu là chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng cũng chỉ được 50%), nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người chết rồi thì bảo là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không mua được. Đoán rất đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường nghiệm, có người trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như quẻ nghiệm hay không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền, hoặc tùy tâm trạng người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin khoa đó nữa, cứ xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị, huyền bí chứ không phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa lí hám giá, tôi cũng lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ, một vài qui tắc rồi đọc lấy được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa. Cổ nhân đã nói muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết (phát) thì phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu”. Tôi không có lòng thần, cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu đất kết, chỉ cho “mạch” phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch; chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
Có rất nhiều giai thoại thuật lại chuyện các nhà tướng số học đã chỉ ra được phẩm chất đạo đức và vận thế của một người nào đó thông qua việc xem tướng. Những nhà tướng số học này sau đó hoặc sẽ bộc lộ những khả năng ưu tú của mình để cống hiến tài trí và sức lực cho đất nước hoặc sẽ rời xa chốn thị phi nếu đó là một vị vua bạo ngược.
1. Thuật xem tướng của Tăng Quốc Phiên
Tăng Quốc Phiên không chỉ là một nhà chính trị, quân sự được nhiều người biết tiếng mà còn là một nhân vật đại tài trong lĩnh vực Nhân tướng học. Có rất nhiều những giai thoại về khả năng xem tướng của Tăng Quốc Phiên. Theo ghi chép thì Tăng Quốc Phiên là một người rất dũng mãnh, nghiêm khắc trong mọi việc, ông có bộ râu rất đẹp, đôi mắt hình tam giác với ánh nhìn mạnh mẽ, sáng bừng và rất thần thái. Mỗi khi có khách tới nhà, Tăng Quốc Phiên thường nhìn vị khách đó hồi lâu mà không nói gì, chỉ lặng lẽ quan sát để nhận đoán về tư cách, tài năng phẩm chất đạo đức của người đó. Tất cả những người đã từng gặp Tăng Quốc Phiên đều tỏ thái độ kính trọng, nể vì trước sự nghiêm túc và thần thái đặc biệt của ông. Dưới cái nhìn sắc lạnh của Tăng Quốc Phiên, họ đều không tránh khỏi lúng túng ngượng ngập. Sau khi người khách ra về, Tăng Quốc Phiên bèn lấy giấy bút ra ghi tỉ mỉ tất cả những điều mình đã quan sát được cũng như các suy luận về điểm tốt điểm xấu của người đó. Đối chiếu sự thật với những ghi chép của ông, người ta thấy hầu như tất cả đều hoàn toàn trùng khớp, không có lấy một điểm sai sót.
Vào những năm Hàm Phong, Lý Hồng Chương ra lệnh cho ba vị tướng thủ lĩnh quân đội đất Hoài đến gặp Tăng Quốc Phiên. Tăng Quốc Phiên không những không đồng ý gặp mặt mà còn yêu cầu cả ba vị tướng này đứng chờ suốt hai cạnh giờ ngoài đại sảnh. Sau đó, ông lại cho người ra mời cả ba người này đi về, nhất định không nói lời nào và cũng không chịu gặp mặt. Sau này, Tăng Quốc Phiên có kể lại cho Lý Hồng Chương về những suy nghĩ và hành động của mình, ông nói rằng, trong các vị tướng đứng chờ ngoài đại sảnh, ông đã đi lại trong một gian phòng bên trong và quan sát nhất cử nhất động của ba người đó thông qua một tấm gương lớn.
- Vị tướng mặt rỗ không được tiếp kiến Tăng Quốc Phiên, cảm thấy là ông cố tình hạ nhục, nên mặt đỏ tía tai, bộ dạng như đang muốn đánh nhau, bộ dạng đó dã cho thấy khí khái uy vũ bất khuất của vị tướng quân này.
- Vị tướng cao lớn đứng chờ trong tư thế rất ung dung tự tại, điều đó cho thấy người này trầm tĩnh, kiên nghị và rắn rỏi.
- Vị tướng thấp bé có đôi mắt sáng lấp lánh, mỗi khi có người đi qua thì đứng rất ngay ngắn nhưng khi người đó đi khuất rồi thì lập tức thả lỏng, là tầm thường.
Trong ba vị tướng quân đó, người có nhiều nốt rỗ trên mặt là Lưu Minh Truyền, người có tài đánh Nam dẹp Bắc, trí dũng toàn tài, đã thống lĩnh quân đội tiến tới Đài Bắc, đánh bại quân đội Pháp. Nếu xét về mức độ nổi tiếng, tướng quân Lưu Minh Truyền chỉ đứng sau Trịnh Thành Công ở Đài Loan mà thôi. Vị tướng quân có dáng người cao tên là Trương Thụ Thanh, sau này lập được nhiều chiến công lớn, được phong làm Tổng đốc Lưỡng Giang. Vị tướng quân dáng người thấp bé mang họ Ngô. Trong quá trình chiến đấu rất giảo hoạt, khôn vặt, chỉ làm được chức quan quèn mà thôi.
2. Phạm Lãi xem tướng đánh giá Việt Vương Câu Tiễn
Phạm Lái là một người hiền tài, đức độ nổi tiếng sống ở thời Xuân Thu, cũng là một nhà chính trị tài ba với kiến thức lịch sử vô cùng phong phú. Sau giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh bại được nước Ngô, nhưng ông đã quyết định rời xa. Thì ra, Phạm Lãi nhận thấy Câu Tiễn có cái cổ dài và cái miệng nhọn chứng tỏ ông ta thuộc loại người "có thể chung lo hoạn nạn chứ không thể cùng hưởng vinh hoa". Vì vậy, không chỉ một mực "rũ áo ra đi" mà Phạm Lài còn khuyên một vị đại thần khác là Văn Chủng hãy làm giống như mình. Nhung đáng tiếc là Văn Chủng đã không nghe theo lời khuyên a Phạm Lãi, nên về sau đã bị vị vua này bức hại.
Sau khi từ giã quan trường và chuyển hướng sang thương trường, Phạm Lãi cũng đã thể hiện những tài năng phi phàm của mình trong lĩnh vực kinh doanh, ông đã trở thành một tấm gương sáng trong ngành thương mại của Trung Quốc trong suốt hàng nghìn năm.
Thuật sĩ Quản Lộ nổi tiêng trong lịch sử Trung Quốc với khả năng xem tướng phi phàm. Ông đã từng xem tướng cho quyền thần Đặng Dương và đã đắc tội với quyền thần này. Cậu của Quản Lộ sau khi biết được chuyện này đã vô cùng sợ hãi, tuy nhiên Quản Lộ trấn an cậu và nói rằng: "Đặng Dương dù làm việc hay đi đứng đều thấy gân không giữ được xương, mạch không giữ dược da thịt, đứng ngồi xiêu vẹo như là không có chân tay gì hết. Tướng đó đích thị là tướng "quỷ ám" và không sớm thì muộn cũng sẽ bị hoạ sát thân. Thế thì có gì đáng để sợ đâu!" Người cậu cảm thấy rất khó hiểu, bán tín bán nghi nên đã mắng Quản Lộ một chặp rồi bỏ đi.
Sau này, qủa nhiên, Đặng Dương đã bị giết hại. Tướng "quỷ ám" mà Quản Lộ nói tới chính là những phán đoán về nội tâm và vận mệnh của Đặng Dương thông qua những nét đặc trưng dáng ngồi, dáng đi, dáng đứng của vị quyền thần này"
Hướng dẫn chi tiết một khóa tụng Phật pháp tại nhà
Nhiều người không có điều kiện lên chùa, muốn thực hành tụng niệm tại nhà. Sau đây là hướng dẫn chi tiết cách tiến hành một khóa tụng Phật pháp tại nhà.
Nguyên tắc quan trọng nhấtcủa khóa tụng Phật pháptại nhà là đúng giờ, mỗi ngày đến giờ là tiến hành nghi lễ, không chậm trễ. Thời gian thích hợp là sáng sớm và tối muộn, lúc con người thanh tịnh nhất, có thể linh hoạt tùy hoàn cảnh nhưng hàng ngày phải cùng một giờ. Nội dung cơ bản bao gồm dâng lễ, thiện tọa, trì danh, tụng, nguyện và hồi hướng. Dâng lễ là hành động bài trí hương, hoa, đăng, quả, tịnh thủy (nước sạch) và dọn dẹp ban thờ Phật. Nếu điều kiện cho phép thì mỗi ngày đều thay mới, còn không thì thay định kì, nhưng chú ý không để đến héo, hỏng mới thay. Hàng ngày, tuần tự thay nước mới, dâng hương, có chuông thì thỉnh chuông, cũng không nhất thiết. Ngồi ngay ngắn, tịnh tâm trước ban thờ Phật (thiện tọa), tự xưng danh tính và niệm A di đà Phật hoặc Quan Thế Âm Bồ Tát bốn mươi tám hoặc một trăm lẻ tám lần (trì danh). Sáng tụng “Đại Bi chú” ba tới bảy lần, “Tâm kinh” một lần. Tái niệm phổ hiền Bồ Tát mười đại nguyện hoặc bốn hoằng thề nguyện. Cuối cùng là tam quy y, quay về hướng ban khấn: "Nguyện tiêu ba chướng chư phiền não, nguyện đắc trí tuệ thực sáng tỏ, phổ nguyện tai chướng tất tiêu trừ, thế thế thường đi Bồ Tát nói". Sau đó quỳ lạy ba bái, kết thúc khóa tụng. Tối tụng “A Di Đà kinh” hoặc "Sám hối văn" một lần, cũng có thể tụng "Đại Bi chú" bảy lần, niệm "Tâm kinh" một lần, "Hướng sinh chú" ba lần. Tiếp theo niệm bốn hoằng thề nguyện, phổ hiền cảnh chúng kệ. Cuối cùng tam quy y, quay về hướng kệ: "Nguyện lấy công đức này, quay về hướng chúng sinh, giải thoát tam giới khổ, giai phát bồ đề tâm". Quỳ lạy ba bái, vãn khóa. Trong khóa tụng, có thể tùy theo thời gian của bản thân mà tăng giảm số lần niệm, nguyện. Quan trọng nhất là tĩnh tâm, thành kính, buông xả, để mình tâm hồn mình hoàn toàn được nuôi dưỡng.
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
Cự Môn thuộc âm thủy trong hệ Bắc Đẩu chủ về thị phi và hóa khí là Ám. Hai chữ Ám điệu đã gây cho người đọc hiểu lầm không ít. Cự Môn tự nó không có ánh sáng thì đương nhiên không trở thành tối ám như Nhật Nguyệt hãm. Cự Môn sở dĩ thành ám vì khả năng cản ngăn che khuất của nó. Vậy thì tính chất căn bản của Cự Môn là một vật gây chướng ngại. Đã gây chướng ngại tại sao nó đứng với Thái Dương ở cung Dần lại thành tốt? Trong vũ trụ duy chỉ có vầng Thái Dương không vật gì có thể che khuất bởi vậy Thái Dương đắc địa không sợ Cự Môn. Cự Môn đứng bên cạnh Thái Dương biến thành một vật gây phản chiếu cho Thái Dương, đồng thời Thái Dương đã chuyển Cự Môn từ ám thành minh. Ảnh hưởng cản ngăn che khuất của Cự Môn gây khó khăn nhiều nhất là quan hệ giao tế. Đẩu số toàn thư viết: “Tính chất Cự Môn ngoài mặt thì thế mà trong lòng thì khác, đối với người thân ít hợp, giao du với người mới thì trước yêu sau ghét”. Mấy chữ “Cô độc chi số, khắc bạc chi thần” là nói về giao tế.Cự Môn là sao của thị phi vậy thì Cự Môn “thị” hay “phi”? Vốn là ám điệu như mầu đen chìm dưới đáy biển khó mà biết được thị hay phi. Trong lối sắp xếp bốn sao Hóa cổ nhân đã đặt để sao Cự Môn không bao giờ đứng cùng Hóa Khoa, nó chỉ đứng bên Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Hóa Kị thôi. Cự đi cùng Hóa Kị lực lượng chướng ngại tăng cao hẳn, bởi vậy Mệnh mà gặp Cự Kị dễ rơi vào khẩu thiệt thị phi, tình cảm khôn khó, hoặc cò bót kiện tụng, ngoài ra còn dễ lên bàn giải phẫu.Cự Môn đứng cùng Hóa Lộc thì lời ăn tiếng nói hoạt bát, tranh biện hay, khả dĩ nói ra tiền vào nghề thầy kiện, vào ngành truyền thông hợp cách. Nhưng bản tính thì không thực, nói cười thân mật mà thiếu tình cảm chân thành. Cự Môn đứng với Hóa Quyền sách bảo rằng đó là hung mà ra triệu chứng tốt (hung vi cát triệu). Nhờ chướng ngại tạo ra phấn đấu mà nên công nên nghiệp, do chướng ngại mà thành công. Tỉ dụ xã hội biến động bị đẩy vào bước đường cùng, từ cùng sinh biến mà hóa thông. Càng vượt nhiều khó khăn càng thành công lớn. Những người làm chính trị, những người có số hoạnh phát thường thấy Mệnh Cự Môn Hóa Quyền. Cự Môn không cần Hóa Khoa, nhưng gặp Hóa Khoa Cự Môn sẽ tan biến đi tính chất thị phi cố hữu của Cự Môn.Cự Môn đứng một mình ở các cung Tí, Ngọ, Thìn, Tuất và Tỵ Hợi. Cự Môn đứng cùng Thiên Cơ ở Mão và Dậu. Đứng cùng Thiên Đồng ở Mùi, Sửu. Đứng cùng Thái Dương ở Dần Thân. Trước nói về Cự Môn Thiên Cơ. Thiên Cơ vốn đã động, Cự Môn lại đa biến. Hai sao này thủ Mệnh cuộc đời biến động nhiều và có tài soay sở, tuy nhiên chỉ thành công nếu như giữ được sự an định, nếu cứ mặc sức biến động thì càng lún sâu vào những khó khăn. Cự Cơ trên nguyên tắc là cách làm giàu với điều kiện phải có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Song Hao (Đại Tiểu Hao), đã Lộc thì không nên Hao. Cự Môn Thái Dương ở Dần tốt hơn ở Thân. Vì Dần cung TháiDương quang huy cònmạnh trong khi ở Thân Thái Dương đã về chiều sức không đủ. Câu phú “Cự Nhật Dần Thân quan phong hầu bá” không hẳn là vậy. Cự Môn Thiên Đồng gây phiền nhất cả trên tình cảm lẫn danh phận. Cự Đồng thủ Mệnh số trai khó lập công danh cơ nghiệp, số gái lận đận duyên tình. Nói về Cự Môn đóng hai cung Tí và Ngọ mà ta thường gọi bằng cách “Thạch trung ẩn ngọc” (ngọc còn ẩn trong đá). Cự Môn Tí Ngọ nếu được Khoa Quyền Lộc thủ chiếu là hợp cách ẩn ngọc, tuy không quyền uy lớn nhưng ắt giàu sang. Cự Môn ở Tí tốt hơn Ngọ. Vì lẽ đóng ở Tí mới được Thái Dương Thìn đắc địa, đóng Ngọ thì Thái Dương ở Tuất đã mất nhiều quang huy. Cự Môn Tí hay Ngọ thì Hóa Lộc tạo nhiều sức mạnh hơn Lộc Tồn. Các sao của Tử Vi Khoa bao giờ cũng mang hai bộ mặt cát và hung. Cự Môn Hóa Kị bị coi làm hung thần, nhưng lúc biể hiện cũng vẫn có hai mặt tốt xấu. Hãy đọc câu phú sau: “Cự Môn Thìn cung Hóa Kị, Tân nhân Mệnh ngộ phản vi kỳ” (nghĩa là Cự Môn thủ Mệnh tại cung Thìn có Hóa Kị, người tuổi Tân lại biến ra kỳ cách) Cự Môn Hóa Kị đi cặp rất xấu, nhưng ở trường hợp này lại chuyển thành tốt. Vì nó được cả bốn Hóa, Hóa Quyền đứng bên Thái Dương chiếu lên, Hóa Khoa đứng Tuất với Văn Khúc chiếu qua, và Hóa Lộc đứng cùng Cự Môn thành ra kỳ cách “Tứ Hóa toàn phùng” Cách này thường gây sôi nổi thị phi nhưng cuối cùng lập thành sự nghiệp to lớn. Cự Môn Hóa Kị ở cách này là con người đi ngược thời thương không a dua mà đặt định một lề lối riêng biệt tiến bộ. Nó đi vào mọi lãnh vực chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc đến hội họa, y học…. Nếu như Cự Môn ở Thìn không Hóa Kị, Hóa Khoa chỉ có Quyền với Lộc thôi thì công danh lại thường do người đề bạt mà nên phú quí thiếu sức ông phá của Hóa Kị nên không thành ra người sáng tạo sự nghiệp. Sao Cự Môn rất hợp với những người tuổi Tân. Vì tuổi Tân sự an bài tứ hoá theo thứ tự Cự Nhật Khúc Xương, đương nhiên nếu Cự Môn thủ Mệnh mà tuổi Tân thì đã chắc chắn có Lộc Quyền. Ngay cả đến cách Cự Đồng vào Mệnh là xấu nhưng với tuổi Tân cái xấu giảm hẳn đi. Bởi vậy mới có câu phú rằng: “Cự Môn Thìn Tuất hãm địa Tân nhân hóa cát lộc tranh vinh” (Cự Môn ở hai cung Thìn Tuất là đất hãm nhưng nếu tuổi Tân thì lại vinh hiển) Cự Môn đóng ở Thìn là cung Thiên La (lưới trời) hoặc cung Tuất là cung Địa Võng (lưới đất) kể như hãm. Thế hãm này chỉ phá ra được nếu Cự Môn có Địa Không, Địa Kiếp đi bên hoặc đứng với Kình Dương hay Linh Tinh. Cuộc đời trải qua nhiều bôn ba thăng trầm vượt lên mà thành công. Nhắc lại đã Kình thì thôi Linh, đã có Linh thì đừng nên Kình thêm nữa. Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Cự Nhật Dần lập Mệnh Thân tiên khu danh nhi thực lộc, Cự Nhật Thân lập Mệnh Dần trì danh thực lộc” nghĩa là Mệnh lập tại Thân Cự Nhật Dần xung chiếu hoặc Mệnh lập tại Dần Cự Nhật xung chiếu cả hai đều danh vị đi trước Lộc tới sau. Hai cách trên đều có tiền qua chức vị, chức lớn tiền nhiều, chức nhỏ quyền ít không thể do kinh thương mà làm giàu. Rồi một câu khác: “Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc trì danh, Cự tại Tỵ Nhật Mệnh Hợi phản vi bất giai” nghĩa là Cự đóng Hợi Thái Dương thủ Mệnh Tỵ có tiền rồi có danh, nếu như Cự đóng Tỵ Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi thì xấu khó màng đến danh lộc. Cự Hợi xung chiếu Mệnh khả dĩ kinh thương làm giàu, lớn nhỏ còn tùy các phụ tinh khác. Còn một cách khác về liên hệ giữa Cự Môn với Thái Dương: “Cự Tuất, Nhật Ngọ Mệnh viên diệc vi kỳ” An Mệnh tại cung Dần, Cự Môn đóng Tuất, Thái Dương từ Ngọ chiếu xuống, không bị Tuần Triệt làm ngăn trở Thái Dương cách này công danh tài lộc dễ dàng. Cự Môn vào Mệnh thường là người ăn nói, lý luận vững vàng, mà cũng dễ vạ miệng nếu như nó đứng cùng các sao xấu. Văn Khúc cũng có khả năng ăn nói, nhưng Văn Khúc biết lựa chiều nên ra tiền và làm đẹp lòng người. Còn Cự Môn nói để lập luận, phân tích, đả kích mà tạo quyền uy. Nếu có Hóa Quyền thì đạt ý muốn, nếu bị các hung sát phá, kết quả gây thù chuốc oán phiền não. Tài ăn nói của Văn Khúc mang ý hướng đào hoa, thuyết phục. Tài ăn nói của Cự Môn đầy quyền lực, có khuynh hướng áp đặt. Cự Môn đứng với Thiên Đồng ăn nói thường gàn gàn khó nghe. Cự Môn tuyệt đối không hợp với Linh Tinh, Hỏa Tinh. Cự Môn ngại thấy Kình Dương Đà La. Có những câu cổ quyết ghi trong Đẩu Số Toàn Thư: “Cự Hỏa Linh Tinh phùng ác hạn tử ư ngoại đạo” (Mệnh Cự Hỏa Linh Tinh hay hạn gặp Cự Hỏa Linh Tinh rất hung nguy) Cự Môn Dương Đà ư Thân Mệnh, tật bệnh doanh hoàng (Cự Môn gặp Dương Đà ở Thân hay Mệnh bệnh tật triền miên). Những cách trên nếu như gặp Hóa Khoa, hay bộ tam minh Đào hồng Hỉ có thể hóa giải, thêm cả Hỉ Thần càng tốt. Ngoài ra Cự Môn còn có một cách nữa qua câu quyết: Cự Lương Thân Mệnh, bại luân loạn tục (Cự Môn và Thiên Lương một ở Thân, một ở Mệnh thường có khuynh hướng loạn luân) Cách này chỉ xuất hiện khi nào Cự Môn đóng Mệnh cung mà Thân lại ở Phúc Đức thôi. Trường hợp Thiên Lương Mệnh thì Cự Môn bắt buộc phải đóng Thê cung, không ăn nhập gì đến câu quyết trên. Qua kinh nghiệm thì chuyện bại luân loạn tục chỉ xảy ra nếu như Mệnh hay PHúc Đức còn có thêm những sao Đào hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục, Không Kiếp. Những câu phú khác về sao Cự Môn cần biết: - Cự Nhật Dần Thân thiên môn nhật lãng, kị ngộ Lộc Tồn ái giao Quyền Phượng(Cự Nhật thủ Mệnh cung Dần không nên gặp Lộc Tồn mà cần gặp Hóa Quyền, Phượng Các). Câu này mâu thuẫn với câu phú: “Cự Môn Dần Thân, tới chi Giáp Canh sinh” nghĩa là Cự Môn đóng ở Dần hay Thân rất tốt cho tuổi Canh và Giáp, hai tuổi này Lộc Tồn ở ngay Thân hay Dần (Trên nguyên tắc thì Cự Môn cần Hóa Lộc, Hóa Quyền hơn Lộc Tồn). Một điểm sai khác trong câu này: Cự Môn tại Dần không thể gọi là “Nhật lãng Thiên Môn”. - Cự Nhật Mệnh viên, hạn đáo Sát Hình Kiếp Kị tu phồng tâm phế, kiêm Thiên Mã hãm tật tứ chi, duy hạn Song Hao khả giải.(Cự Nhật ở Mệnh, vận hạn đến Sát Hình Kiếp Kị phải lo bệnh nơi tim phổi, nếu thấy cả Thiên Mã Tuần Triệt thì phải đề phòng thương tích tay chân) - Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, túng hữu tài quan đã bất chung(Cự Cơ thủ Mệnh tại Dậu, nếu giàu sang lớn thì không bền hay không thọ) - Tây Nương Tử áp đảo Ngộ tiền do hữu Cự Cơ Song Hao Quyền Ấn Đào Hồng phu cung(Nàng Tây Thi làm mưa làm gió dưới triều đại Ngô Vương bởi vì phu cung có Cự Cơ Song Hao, Quyền Ấn Đào Hồng. Cách này tất Mệnh cung Thiên Lương thủ, đàn bà bạt nhưng Phu cung tuyệt bậc giàu sang, cũng là cách làm đĩ nên bà) - Mão Dậu Cự Cơ Tân nữ ích tử vượng phu bất kiến Triệt Tuần đa tài thao lược(Mệnh Cơ Cự thủ ở Mão Dậu, người nữ tuổi Tân vượng phu ích tử, nếu không bị Tuần Triệt là người đàn bà đảm đang quán xuyến) - Cự Cơ nhi ngộ Lộc Tồn ngữ bất chính ngôn(Mệnh Cự Cơ đồng cung với Lộc Tồn thì hay ăn nói hồ đồ thiếu thận trọng) - Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế(Cự Cơ thủ Mệnh gặp Song Hao giàu sang hơn người) - Tân nhân tối ái Cự Môn nhược lâm tứ Mộ phùng Tả Hữu cứu Mệnh chi tinh(người tuổi Tân hợp với sao Cự Môn, nếu vào đất tứ Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp Tả Hữu tránh đươc nhiều hung hiểm trong đời) - A Man xuất thế do hữu Cự Kị Khốc Hình Thìn Tuất(Tào Tháo lừng lẫy do Mệnh có Cự Kị Khốc Hình ở Thìn Tuất) - Cự Đồng nhi phùng La Võng, ngộ Khoa Tinh thoại thuyết Lịch Sinh(Cự hay Đồng thủ Mệnh ở Thìn Tuất, có Hóa Khoa thì làm du thuyết như Lịch Sinh thời xưa) - Cự Môn Tị Hợi kị ngộ Lộc Tồn nhi phùng Quyền Lộc kiếm sạ Đẩu Ngưu.(Cự Môn an Mệnh ở Tỵ hay Hợi không nên gặp Lộc Tồn. Lộc Hóa Quyền thì ví như cầm kiếm mà chém sao Đẩu sao Ngưu) - Cự Môn phùng Đà Kị tối hung(Cự Môn đóng Mệnh gặp Đà Kị rất xấu) - Cự phùng Tồn tứ cát xứ tang hung, ưu nhập tử cung vô nhị tống lão(Cự Môn đứng bên Lộc Tồn tuy tốt nhưng có hung tiềm ẩn bên trong, nếu hai sao này vào tử tức tới già không con cái nối dõi) - Cự Môn thê thiếp da bất mãn hoài(Cự Môn đóng Thê luôn luôn bất mãn với duyên tình, không yên với một vợ) - Cự Môn bất mãn trong lòng, ba lần kết tóc mới xong mối sầu(Số nữ Cự Môn tái Phu, phải mấy đời chồng) - Giải sứ mạc ngộ Cự Đồng kiêm phùng Tang Hổ Đà Riêu hữu sinh nan dưỡng(cung Tật ách thấy Cự Đồng mà đi với Tang hổ Đà Riêu thì sinh mà không nuôi được) "Cự phùng Dương miếu tốt thayThăng quan tiến chức vận lành mừng vui." (Vận đến Thái dương đắc địa hội Cự Môn làm quan thăng chức) "Kình Đà Linh Hỏa cùng ngồiVới sao Cự tú một đời tai ương" "Hợi Tỵ Cự Lộc Quyền rất quýGặp Lộc Tồn biến thể ra hư" "Cự gặp Hổ Tuế Phù hội viênẤy là nghề thầy kiện quan tòa" "Cự Tí Ngọ gặp Khoa Quyền LộcẤy là người đa học đa năng" "Cự Nhật đồng thủ Dần ThânMột đời chức tước cháu con sang giàu" "Gặp Quyền Vượng càng thêm vinh hiểnGặp Lộc Tồn lại kém lắm thay" Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Lý do khiến gọi loại đá này với cái tên mắt hổ là vì thành phần hóa học của nó là Silicon dioxidie chứa oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng có tác dụng rất dễ bức xúc với ánh sáng tạo ra nhữung vệt sáng lóng lánh và hình thành hiệu ứng mắt cọp
Thạch anh mắt hổ (Tên quốc tế Tiger Eye) là một loại thạch anh có cấu trúc dạng sợi màu vàng đến đỏ nâu. Tuy nhiên không giống các loại thạch anh khác, thạch anh mắt hổ được hình thành từ quá trình biến đổi Crocidolite. Crocidolite (một loại amiăng) là một loại khoáng vật dạng sợi màu xanh lơ thuộc gia đình riebeckite của silicat amphibol. Sự hình thành thạch anh mắt hổ bắt đầu khi mà thạch anh bao lấy các sợi crocidolite và cuối cùng là thay thế hoàn toàn, tuy nhiên vẫn giữ lại được cấu trúc sợi ban đầu. Bạn đã từng dành chút thời gian để tìm hiểu về loại đá này chưa? hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về đá mắt hổ trong phong thủy trong bài viết dưới đây.
Nội dung
1 Đá thạch anh mắt hổ
2 Sự thật chuyện đá mắt hổ hồng, tím, xanh lục…?
2.1 Đeo đá thạch anh mắt hổ đã xử lý màu có tốt không?
2.1.1 Về mặt kỹ thuật
2.1.2 Về mặt phong thủy
2.1.3 Về mặt giá trị
2.2 Cứ đá thạch anh mắt hổ màu vàng, vàng nâu, đỏ nâu; đá thạch anh mắt chim ưng màu lam là tự nhiên????
2.3 Cách kiểm tra đá có bị nhuộm không?
3 Tác dụng của đá mắt hổ
Đá thạch anh mắt hổ
– Thành phần hóa học: SiO2 – Độ cứng theo thang Mohs: 6.5-7.0/10 Thạch anh mắt hổ thì đặc biệt được chú ý đến bởi hiệu ứng mắt mèo cũng như màu sắc rất thu hút của nó. Trong quá trình hình thành, nếu vật liệu có hàm lượng ion sắt cao sẽ tạo ra mắt hổ vàng nâu, còn ngược lại nếu vật liệu có hàm lượng sắt thấp sẽ có xu hướng có màu lam ban đầu của crocidolite và được gọi với cái tên là Thạch anh mắt chim ưng.
Trong tự nhiên, thạch anh mắt hổ có màu vàng, vàng nâu và đỏ nâu. Khi thạch anh mắt hổ có màu lam – đen sẽ được gọi với cái tên là thạch anh mắt chim ưng.
Sự thật chuyện đá mắt hổ hồng, tím, xanh lục…?
Như đã nói ở trên, thạch anh mắt hổ trong tự nhiên chỉ có màu vàng, vàng nâu và đỏ nâu. Khi thạch anh mắt hổ có màu lam – đen thì sẽ được gọi với cái tên là thạch anh mắt chim ưng. Như thế tất cả các màu sắc còn lại như màu hồng, xanh lục, ….đều là các đá thạch anh mắt hổ tự nhiên đã được nhuộm màu.
Đeo đá thạch anh mắt hổ đã xử lý màu có tốt không?
Về mặt kỹ thuật
Các đá nhuộm thường dễ bị phai màu khi tiếp xúc với nước, hóa chất… Vì vậy không đủ tiêu chuẩn của một viên đá quý thông thường, khiến người dùng khó khăn trong việc sử dụng.
Về mặt phong thủy
Màu thật của đá đã bị thay đổi hoàn toàn, trong khi bạn đeo vòng phong thủy hợp mệnh theo màu sắc. Như vậy cách lựa chọn màu đã sai ngay từ ban đầu, không còn ý nghĩa gì trong phong thủy.
Về mặt giá trị
Đá nhuộm thường có giá trị thực thấp, nhưng hiện nay trên thị trường các giá nhuộm màu vẫn được bán bằng với các loại thạch anh mắt hổ tự nhiên khác, thậm chí còn đắt hơn == > người mua sẽ phải trả một số tiền cao hơn nhiều so với giá trị thật của sản phẩm
Cứ đá thạch anh mắt hổ màu vàng, vàng nâu, đỏ nâu; đá thạch anh mắt chim ưng màu lam là tự nhiên????
Câu trả lời là KHÔNG. Một số loại thạch anh mắt hổ, mắt chim ưng dù đã có màu tự nhiên hoàn toàn, nhưng do màu nhạt, chất lượng kém, vẫn được nhuộm màu đề có màu sắc hấp dẫn hơn.
Cách kiểm tra đá có bị nhuộm không?
– Với các màu sắc không có trong tự nhiên như hồng, xanh lục, cam… bạn có thể khẳng định ngay đó là hàng nhuộm.
– Với các màu sắc có trong tự nhiên (vàng, vàng nâu, đỏ nâu, lam, lam – đen). Bạn có thể dùng axeton (các bạn nữ hay dùng để tẩy sơn móng tay) bằng cách thấm ướt axeton lên 1 miếng vải, sau đó lau vào viên đá. Nếu viên đá xử lý màu, các bạn sẽ thấy màu nhuộm dây ra miếng vải.
– Với cách này, bạn không thể nhận biết hết các đá thạch anh mắt hổ nhuộm hiện nay, vì có một số đa nhuộm ở mức độ nhẹ hoặc công nghệ nhuộm rất tiến tiến mà thử bằng axeton không cho hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này có thể giúp bạn nhận biết những mẫu đã bị xử lý quá nặng.
Tác dụng của đá mắt hổ
Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc thạch anh. Đá mắt hổ là một loại đá quý phong thuỷ đem lại giàu có và may mắn, từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ kích ứng thần kinh thái dương nên còn được dùng để trị bệnh.
– Những người luôn có rất nhiều dự định nhưng lại không thực hiện được, hãy đeo các trang sức đá mắt hổ, nó sẽ kích thích lòng tin và dũng khí hành động.
– Những người khí huyết hư nhược, thiếu dũng khí, hãy luôn nắm đá mắt hổ trong tay kết hợp với thở sâu để tăng cường sức sống và sức mạnh của cơ bắp.
– Khi làm việc gặp khó khăn, khó kiên trì chỉ muốn bỏ cuộc, hãy nắm đá mắt hổ ở tay trái kết hợp thở sâu, sẽ có được những phán đoán và hành động quả quyết chính xác.
– Những người trí nhớ kém, khả năng tính toán kém, hay quên, hãy đeo đá mắt hổ ở gần vùng thần kinh thái dương, như vậy sẽ tăng cường năng lượng tốt cho luân xa thái dương.
– Đeo đá mắt hổ trên người để đem lại sự giàu có và may mắn. Trong thời Trung cổ đá mắt hổ được dùng để xua đuổi những phép thuật ma quỷ và tránh tà.
– Những người hay ốm vặt, thân thể bị suy nhược, hãy cầm mỗi tay một viên đá mắt hổ tương đối to rồi đi dạo, chạy, vận động cho đến khi ra mồ hôi thì dừng lại, cứ mỗi tuần làm từ hai đến bốn lần như thế thì sẽ cải thiện được sức khoẻ.
– Những người bị suy yếu dạ dày và đường ruột, cầm quả cầu đá mắt hổ xoa vào vùng bụng, làm cho chức năng của các bộ phận vùng bụng khoẻ lên. – Khi làm việc tại văn phòng, có thể đặt trên bàn đá mắt hổ hình cầu, hình thỏi, hình kim tự tháp hoặc các vật điêu khắc, như vậy sẽ làm cho tinh thần được tập trung ổn định, hoàn thành công việc một cách đầy đủ, chu đáo.
– Trong một tập thể, có người nào đó do không biết phải làm việc như thế nào, phải cống hiến như thế nào, từ đó sinh ra lơ là thờ ơ, hãy để người đó đeo đá mắt hổ, như vậy thì sẽ hiểu rõ được góc độ và vai trò của mình để hoà nhập với tập thể cộng đồng.
– Đeo vòng tay đá mắt hổ tụng kinh, niệm thần chú sẽ tăng cường sức mạnh của kinh văn và lời chú.
– Những người yếu bóng vía không dám đi đêm, hãy đeo đá mắt hổ để tăng cường trạng thái tinh thần, dũng khí.
– Đá mắt hổ giúp xóa bỏ sợ hãi, lo lắng hoang tưởng, do vậy nó là một liều thuốc cực kỳ hiệu quả với bệnh căng thẳng thần kinh.
– Những người nhát gan, sức khoẻ yếu, người làm việc không tới nơi tới chốn hãy đeo vòng tay đá mắt hổ vào tay, người đó sẽ trở nên hoạt bát hơn. Người phụ nữ sức khoẻ yếu sẽ trở nên khoẻ mạnh hơn.
– Một vài người dùng đá mắt hổ để chữa các bệnh về cổ họng, về mắt và sinh sản, đồng thời làm xương cột sống thêm cứng cáp, loại bỏ các chất độc và giảm đau.
Theo nhiều người, bếp là nơi cần kiêng kỵ nhiều thứ nhất so với các vị trí trong nhà. Đặc biệt, bếp cần tránh ti vi hay gương chiếu thẳng vào. Thậm chí có những người còn nhấn mạnh, nếu để hai yếu tố này đối diện bếp nấu có thể gây đau đầu, loạn thần kinh với chủ nhà đó.
Trước sự việc trên, chuyên gia phong thủy Phạm Cương, xét về Ngũ hành, bếp mang tính Hỏa vì vậy bếp chỉ kỵ đối diện với các khu vực chứa nước mang tính Thủy như bồn rửa, tủ lạnh, nhà vệ sinh... Trong trường hợp bếp đối diện ti vi hoặc gương vẫn chưa thể khẳng định là xấu.
Với trường hợp đối diện gương hay ti vi trong thực tế nhiều người quan niệm kiêng sử dụng trong bếp. Tuy nhiên, nếu biết sử dụng đúng cách thì gương lại là một vận dụng hiệu quả để tăng năng lượng cho khu bếp. Đó là trong những trường hợp như khu bếp quá chật hẹp hoặc nằm ở một vị trí khuất không đón được nhiều năng lượng thì hoàn toàn có thể sử dụng gương để làm rộng không gian và điều tiết năng lượng cho khu bếp. Lưu ý gương nên đặt tại vị trí tốt chiếu từ hướng tốt đối với người chủ. Tương tự, ti vi cũng có những ưu điểm như giảm stress, tăng thông tin đối với người chuẩn bị các bữa cơm.
Tử vi tổng luận và biện luận các đặc tính của sao Thái Dương trong lá số, các cách cục nổi bật và đặc thù tính chất của chúng khi xuất hiện trong lá số tử vi
Sao Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung Thiên, thuộc dương hỏa. Do Thái Dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng". Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi nó hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái Âm, Hóa Lộc, Lộc Tồn, nếu không, càng chủ về quý mà không chủ về giàu có.
Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên Lương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thái Âm, cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm Lưu Khôi, Lưu Việt xung chiếu Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.
Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Thương, Thiên Sứ, Cô Thần, Quả Tú, Phỉ Liêm, Phá Toái. Nếu không, nhiệt và ánh sáng của Thái Dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.
Cũng vậy, Thái Dương thủ cung mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái Dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái Dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.
Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau đây:
Trước tiên nghiên cứu xem Thái Dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào. Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí, Sửu) càng không nên.
Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên, tình huống xấu nhất là biến thành không phú mà cũng không quý.
Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.
Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa”. Nêu Thái Dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính nhu mềm, nếu ánh sáng và nhiệt của Thái Dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".
Thái Dương Hóa Lộc chủ về phú quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái Dương Hóa Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao ở cung mệnh của thiên bàn để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên Đồng Thái Âm Hóa Kị để nhập cung, hoặc Cự Môn, Thiên Cơ lạc hãm thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.
Thái Dương Hóa Quyền, Hóa Khoa sẽ không bằng Hóa Lộc bởi vì Hóa Quyền và Hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái Dương, mà không thể làm cho giàu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý, vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái Dương Hóa Quyền hay Hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.
Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên", có hai tính chất như sau:
Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng tử; nữ thì bất lợi về cha, chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong mà có thể chỉ là sinh li, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời; có lúc là lục thân bị nạn tai, bệnh tật. Những tình hình này, đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với chồng tóm lại đúng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người.
Bản thân dễ bị nạn tai, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái Dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh tật ở mắt, nhất là dễ loạn thị, lòa mắt.
Kết cấu tinh hệ Thái Dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối cung với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương- vì vậy ba sao này có ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.
- Ở hai cung Tí Ngọ, Thái Dương và Thiên Lương chiếu nhau ở hai cung Mão Dậu, "Thái Dương, Thiên Lương" đồng độ. Cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ hợp của "Thái Dương, Thiên Lương”
- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thái Dương và Thái Âm chiếu nhau; ờ hai cung Sửu hoặc Mùi, "Thái Dương, Thái Âm" đổng đã. Cho nên bốn cung Thìn, Tuâ't, Sửu, Mùi là tổ hợp của "Thái Âm, Thái Dương".
- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái Dương và Cự Môn chiếu nhau; hai cung Dần hoặc Thân, "Thái Dương, Cự Môn" đồng độ. Cho nên bốn cung Dần, Thân, Tị, Hợi là tổ hợp của "Thái Dương, Cự Môn".
Trong các tình hình thông thường, Thái Dương rất ưa trường hợp "Thái Dương, Cự Môn" ở cung Dần; hoặc Thái Dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái Dương, Cự Môn" gặp các sao sát. kị, hình ở cung Thân; và "Thái Dương, Thiên Lương" gặp các sao sác kị, hình ở cung Dậu.
Thái Dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị vì vậy không nên gặp quá nhiều sao hình, như Kình Dương, Thiên Hình, Quan Phù, Bạch Hổ. Nhất là Thái Dương Hóa Kị, gặp sao hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.
Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái Dương tọa thủ cung phúc đức cũng cần chú ý.
2. Thái Dương biệt luận
Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh
Cổ nhân có thiên kiến đổi với Thái Dương, cho rằng miếu vượng thì cát, lạc hãm thì hung. Nói "miếu vượng", tức là mặt trời (Thái Dương) ở vào giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão, đến cung Ngọ thì như mặt trời ở giữa trời, đến cung Dậu thì mặt trời bắt đầu lặn về tây, sau đó đến cung Dần mặt trời lại bắt đầu nhô lên. Do đó lúc luận đoán người có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái Dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.
Vì vậy đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau: "Thái Dương thủ mệnh lạc hãm, du Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thanh bại bất nhất."; "Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật."; "Thái Dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."; "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão,Thìn, Tị hoặc Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử. Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là cát, gặp Thái Dương buổi chiều là hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái Dương; mà còn bỏ sót một điều, Thái Dương buổi sáng cũng có sự khiếm khuyết của nó, Thái Dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Phái Trung Châu Vương Đinh Chi luận về Thái Dương khách quan hơn.
Thái Dương tọa mệnh thực ra có ba đặc điểm như sau:
- Một là, hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái Dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.
- Hai là, danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chủ về quý. Cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là cự phú, thậm chí có lúc bản thân không giàu có bằng người dưới quyền của họ.
- Ba là, tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ phi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh thường cảm thấy vận khí cúa mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy mình có chỗ không bằng người.
Thái Dương tọa mệnh có ba loại phối hợp
Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có ba tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái Âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự Môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên Lương ở cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tí, Thìn, Tị Ngọ, Tuất, Hợi còn lại đều là Thái Dương độc tọa.
Nhưng Thái Dương độc tọa cũng có ba tình huống khác nhau. Thái Dương độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên Lương; Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn; Thái Dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái Âm.
Cho nên Thái Dương có quan hệ với chính diệu thực ra chỉ có ba sao Cự Môn, Thiên Lương, Thái Âm; và chia thành hai tình huống đồng cung và đối cung.
Cự Môn chủ về "ám"; Thái Âm chủ về "phú"; Thiên Lương chủ vê' "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái Dương thủ cung mệnh. Cho nên về đại thể, Thái Dương gặp Cự Môn, là người chi có hư danh; Thái Dương gặp Thái Âm, là người có thế phú quý, nhưng cũng có thế chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chi là người ở bậc trung có chút quyền lực; Thái Dương gặp Thiên Lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người được đại chúng nghe danh.
Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính rất cơ bản, tình hình cụ thể vẫn cân phải xem các sao hội hợp khác mà thay đổi.
So sánh Thái Dương với Tử Vi
Trong Đẩu Số, như bạn đọc đã biết, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chù về quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái Dương thủ mệnh thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.
Vì chủ về quý, cho nên Thái Dương rất ưa hội hợp vói một số trợ tinh chủ về quý. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Tri Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm 6 cặp, nếu có sao đôi đủ cặp hội hợp với Thái Dương thì sức mạnh càng lớn.
Ví dụ: nếu Thái Dương hội hợp với ba sao cát là Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp sao đôi trong số đó, như chi hội hợp với Tả Phụ và Hữu Bật thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kế trên.
Hai cặp sao đôi Tam Thai và Bát Tọa, Ân Quang và Thiên Quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kì nhỏ, nhưng nếu sao đôi đủ cặp đồng cung với Thái Dương, sức mạnh lại cực kì lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, cũng không lớn bằng.
Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử Vi cũng cần các sao cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:
Tử Vi thích Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương thì không được nói chính diệu triều củng; trong số lục sát tinh, Tử Vi sợ Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương thì không sợ hai sao này, mà lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm; Thái Dương thủ mệnh thì chỉ hơi có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.
Nhưng Thái Dương lại có lực "hình khắc", còn Tử Vi thì không có. Người có Tử Vi thủ mệnh, duyên phận với cha mẹ, anh em, con cái đều khá tốt; nhưng người có Thái Dương thủ mệnh thì lại có "hình khắc" đối với cha, anh, con cả; nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh li, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.
Thậm chí ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử Vi cũng tốt hơn Thái Dương.
Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển?
Do Thái Dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái Dương, Thái Âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp". Lí do là, nếu cung mệnh không gặp Thái Dương tọa thủ, mà lại được Thái Dương vây chiếu, thì vẫn khiến cung mệnh có tính chất "quý", nhưng lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của nó.
Nhưng theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái Dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói. Mà mức độ quý hiến cũng không lớn như cổ nhân đã nói.
Có lẽ là do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa cha con hai đời cùng ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng, vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái Dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.
Quan hệ vói bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái Dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không họp quần; không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.
Cho nên dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái Dương thủ mệnh, phải cẩn thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.
Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái Dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái Dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít; nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái Dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái Dương chủ về quý, cho nên mệnh tạo ưa thích hư danh; ở phương diện khác, Thái Dương không chủ về phú, càng ưa hư danh thì càng dễ khoa trương phù phiếm.
Doanh nhân tuổi Tỵ là những người sinh năm 1953, 1965, 1977, 1989… Đây là những người thông minh, nhanh nhạy. Họ sở hữu bộ óc luôn tỉnh táo và trái tim khá lạnh lùng. Trong kinh doanh, họ thường dựa vào trí tuệ và sự phán đoán của bản thân để hành động.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Doanh nhân tuổi Tỵ là người khá đa nghi cho dù bề ngoài họ vẫn tỏ ra tin tưởng vào đối phương. Đôi khi, để đạt được mục đích, họ có thể bất chấp mọi thủ đoạn. Vốn thông minh nên nếu gặp sự cố trong làm ăn, họ rút kinh nghiệm rất nhanh và ít khi gặp thất bại đến lần thứ hai. Tuy vậy, họ cũng là người cực đoan, bảo thủ. Trong quan hệ xã hội và quan hệ làm ăn, họ luôn có tư tưởng chiếm hữu và đặt ra yêu cầu rất cao đối với người khác. Khi có chuyện bất hòa với ai đó, họ tỏ ra thản nhiên và lạnh lùng, mặc dù trong lòng rất giận dữ. Họ cũng không dễ dàng bỏ qua lỗi lầm của người khác.
Doanh nhân tuổi Tỵ không hợp với người Dần, tuổi Ngọ. Người tuổi Thân và tuổi Hợi cũng không hợp với những doanh nhân cầm tinh con rắn.
Tháng Ngày chết Tháng Ngày chết Giêng-Hai-Ba Tư-Năm-Sáu Chết vào ngày Mão Chết vào ngày Ngọ Bảy-Tám-Chín Mười-Mười một-Chạp Chết vào ngày Dậu Chết vào ngày Tý Theo bảng này, nếu người chết vào ngày đã nêu tương ứng với tháng là bị trùng tang, phải l
Hướng kê giường tuổi Canh Tý 1960 Năm sinh dương lịch: 1960 Năm sinh âm lịch: Canh Tý Quẻ mệnh Khôn ( thổ) thuộc Tây tứ mệnh Ngũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò) Hướng tốt: Đông Bắc (Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn), Tây (Thiên y: Gặp thiên thời, được c
Năm sinh âm lịch: Canh TýQuẻ mệnh Khôn ( thổ) thuộc Tây tứ mệnhNgũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò)Hướng tốt: Đông Bắc (Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn), Tây (Thiên y: Gặp thiên thời, được che chở), Tây Bắc (Diên niên: Mọi sự ổn định), Tây Nam (Phục vị: Được sự giúp đỡ)
Hướng xấu: Đông (Họa hại: Nhà có hung khí), Nam (Lục sát: Nhà có sát khí), Đông Nam (Ngũ quỉ: Gặp tai họa), Bắc (Tuyệt mệnh: Chết chóc)
Theo Phong Thủy Bát Trạch chánh tông, giường ngủ nên đặt Tọa Cát Hướng Cát. Nếu không thể đặt vị trị Cát thì có thể đặt tại Hung nhưng phải hướng Cát.
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Thổ, Hỏa sinh Thổ, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Hỏa, là hướng Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Cam, Đỏ, đây là màu đại diện cho hành Hỏa, rất tốt cho người hành Thổ.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
1. Sao Thái Dương Sao chủ hưng vượng tài lộc, tốt nhất vào tháng 6 và tháng 10. - Mỗi tháng làm lễ vào ngày 27, từ 21 giờ đến 23 giờ, thắp 12 ngọn nến. Quay mặt hướng chính Đông làm lễ. - Bài vị viết vào giấy vàng: Nhật ứng Thái Dương Thiên Tử Tinh
Sao chủ hưng vượng tài lộc, tốt nhất vào tháng 6 và tháng 10. – Mỗi tháng làm lễ vào ngày 27, từ 21 giờ đến 23 giờ, thắp 12 ngọn nến. Quay mặt hướng chính Đông làm lễ. – Bài vị viết vào giấy vàng: Nhật ứng Thái Dương Thiên Tử Tinh Quân. – Khấn: Cung thỉnh Thiên Đình uất Ly Cung Đại Thánh Đang Nguyên Hải, Nhất Cung Thái Dương Tinh Quân vị tiến.
2. Sao Thái Âm
Sao chủ sự toại nguyện về mọi mặt. Riêng nữ nên cầu giải trừ sản nạn, tai ách ốm đau, sao có tác dụng mạnh nhất tháng 9 và 11 âm. Mỗi tháng làm lễ vào ngày 26, từ 19 giờ đến 21 giờ, thắp 7 ngọn nến. Quay mặt hướng chính Tây làm lễ. – Bài vị viết vào giấy vàng: Nguyên Cung Âm Hoàng Hậu Tinh Quân. – Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Kết Lâu Cung Đại Thánh Tổ Diệu Nguyệt Phụ Thái Âm Tinh Quân vị tiến.
3. Sao Mộc Đức
Sao chủ sự an vui hòa hợp, thái bình, tác dụng mạnh nhất vào tháng 12. Mỗi tháng làm lễ vào ngày 25, từ 19 giờ đến 21 giờ, thắp 20 ngọn nến. Quay mặt hướng Bắc làm lễ. – Bài vị viết vào giấy xanh: Đông phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân. – Khấn: Cung thỉnh Thiên Đình Thủy Đức Kim nữ cung Đại Thánh Bắc Phương Thuỷ Diệu Tinh Quân Vị Tiến.
4. Sao Thủy Diệu
Sao chủ Tài lộc và Hỷ song cần cẩn thận trong nói năng giao tiếp, đi lại nơi sông nước. Xấu nhất là tháng 4 và 8. Mỗi tháng làm lễ vào ngày 21, từ 19 giờ đến 21 giờ, thắp 7 ngọn nến. Quay mặt về hướng Bắc làm lễ. – Bài vị viết vào giấy đen: Bắc phương Nhâm Quý Thủy Đức tinh quân. – Khấn: Cung thỉnh Thiên đình Thủy Đức Kim nữ cung Đại Thánh Bắc phương Thủy Diệu tinh quân vị tiến.