Mơ thấy đàn ghi ta: Sẽ có tình yêu –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tình yêu giống như một liều thuốc kì diệu, có thể khiến người ta làm ra những việc mà trước đây dù có nghĩ cũng chẳng nghĩ tới, có thể biến một người thành con người hoàn toàn khác biệt, hoàn toàn lạ lẫm, tốt hơn hoặc xấu hơn, tuyệt vời hơn hoặc nhỏ bé hơn. Con giáp chung tình thế này, nếu yêu được nhất định phải giữ lấy.
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
=> Xem thêm: Giải mã giấc mơ theo quan niệm tâm linh, phong thủy tại Lichngaytot.com |
Bát quái đồ là gì?
Bát quái đồ là 8 quẻ được sử dụng, đại diện cho các yếu tố cơ bản của vũ trụ. Bát quái có liên quan đến triết học thái cực và ngũ hành. Bát quái được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong thủy học,...
Trong phong thủy, bát quái đồ là một trong những công cụ chính được sử dụng để phân tích năng lượng của bất kỳ không gian nhất định, có thể là nhà, văn phòng hoặc vườn. Về cơ bản, hình bát quái là bản đồ năng lượng phong thủy của không gian cho thấy các khu vực trong nhà hoặc văn phòng của bạn được kết nối với từng lĩnh vực cụ thể trong cuộc sống. Một số thầy phong thủy Trung Quốc đã tìm cách sử dụng Bát quái đồ song song với phương pháp la bàn. Ví dụ như dựa vào cách đặt hình bát quái trên họa đồ của căn nhà, các chuyên gia sẽ tìm hướng bắc để an cung Quan Lộc ở hướng này, bất kể cửa cái nằm ở đâu.
Cách xem la bàn xác định bát quái đồ trong nhà
Để xác định được phương hướng của nhà thì cần biết cách sử dụng la bàn. Tuy nhiên, ngày nay, gia chủ hoàn toàn có thể sử dụng những ứng dụng la bàn trên điện thoại thông minh để đo hướng nhà chính xác và nhanh chóng nhất. Khi đó, bạn đặt điện thoại trên mặt phẳng và chĩa thẳng theo hướng muốn xem. Trên màn hình điện thoại sẽ hiển thị ra kết quả về hướng bạn đang quay điện thoai.
N = North = Hướng Bắc
S = South = Hướng Nam
E = East = Hướng Đông
W = West = Hướng Tây
Sau khi xác định được các hướng trong nhà, gia chủ có thể vẽ được bát quái đồ trong nhà ở của mình.
Khi nắm được bát quái đồ trong nhà, bạn sẽ biết cách sắp xếp đồ nội thất trong nhà để cân bằng âm dương ngũ hành, cũng như thúc đẩy may mắn ở từng lĩnh vực trong cuộc sống.
Ảnh minh họa |
=> Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Dòng năng lượng luân chuyển uốn khúc và thong thả sẽ tốt hơn dòng năng lượng luân chuyển thẳng và nhanh. Nếu sự luân chuyển của dòng năng lượng bị cản trở, dồn nén sẽ ảnh hưởng không tốt tới gia chủ.
Để có được sự hòa hợp trong đời sống tình cảm cũng như trong quan hệ hôn nhân, nên làm cho năng lượng âm - dương được cân bằng. Điều này nhằm giúp các thành viên trong gia đình cảm thấy thoải mái và khỏe mạnh trong môi trường mà mình đang sống.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Nhìn chung, khi phong thủy của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm - dương, cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như khó có thể có các mối quan hệ tốt đẹp.
Tạo sự hài hòa năng lượng âm - dương:
- Không nên bài trí quá nhiều biểu tượng mang năng lượng âm trong nhà. Tránh việc lạm dụng tông màu âm (xanh, đen) trong trang trí.
- Không nên sử dụng quá nhiều tranh ảnh tối màu và loại ánh sáng mờ nhạt trong nhà.
Cần chú ý, trong những căn phòng lạnh lẽo, vắng lặng, không có vật nuôi hoặc không có âm nhạc thì năng lượng âm sẽ chế ngự và lấn át năng lượng dương.
(Theo Phong thủy tình yêu)
► Những vật phẩm phong thủy giúp gia chủ phát tài, phát lộc |
Nên chọn loại đào bích có bông to và nhiều nụ |
Khay mứt Tết nên chọn loại có 6 hoặc 8 ngăn |
Phòng ngủ là nơi để bạn thư giãn, nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi, gạt bỏ mọi lo toan trong cuộc sống. Do vậy, phong thủy của phòng ngủ là một phần tối quan trọng. Hãy cùng chúng tôi điểm qua những nguyên tắc dưới đây để biết cách bài trí phòng ngủ sao cho hợp lý nhé!
A. Áp dụng phong thủy cho chiếc giường
1. Đầu giường vững chắc Tấm ván đầu giường tốt nhất nên làm bằng gỗ, chắc chắn để làm điểm tựa hoặc để bảo vệ đầu của bạn trong lúc ngủ, vì trong khoảng thời gian này, cơ thể bạn phải cần rất nhiều năng lượng để “phục hồi cơ thể”.
2. Có một tấm nệm lót lưng
Có rất nhiều loại nệm trên thị trường, nhưng hãy lựa chọn một cách khôn ngoan để có giấc ngủ ngon nhất, tăng cao hiệu suất làm việc vào ban ngày. Tuy nhiên phải ghi nhớ là không nên mua nệm đã qua sử dụng vì bạn sẽ không bao giờ biết được loại năng lượng nào đã được tích lũy từ chủ sở hữu trước đó.
3. Chiếc giường có chiều cao hợp lý Để cho phép “dòng chảy năng lượng phong thủy” được cân bằng dưới gầm giường, chiếc giường của bạn phải có một độ cao hợp lý so với mặt sàn, đồng thời cần tránh những chiếc giường có ngăn tủ ở bên dưới. 4. Đặt giường cách cửa càng xa càng tốt Nên đặt giường ở khu vực cách xa cửa hay nằm trên đường chéo nối với cửa (cửa phòng ngủ, cửa ban công cửa tủ,…) vì nó giúp bạn cảm thấy rằng bạn có thể kiểm soát cuộc sống của mình.
5. Nên có một bức tường phía sau giường Bên cạnh một đầu giường chắc chắn, bạn còn cần một bức tường vững chắc. Khi bạn ngủ dưới cửa sổ, năng lượng của bạn có xu hướng yếu dần vì không được hỗ trợ hay bảo vệ.
6. Cân bằng năng lượng giữa hai bên giường Lý tưởng nhất là bạn nên đặt 2 đèn ngủ tương tự nhau ở 2 bên giường để tạo sự cân bằng, duy trì sự bình đẳng trong mối quan hệ với người cùng ngủ với bạn. Thêm vào đó, bạn nên chọn đèn ngủ có dạng tròn thay vì dạng góc cạnh để không bị cắt giảm bớt lượng năng lượng hướng đến bạn.
7. Đặt giường cách xa tivi, bàn hoặc bất kỳ vật gây phiền nhiễu Chỉ với cách này, phòng ngủ mới thực sự trở thành một nơi mà bạn có thể nghỉ ngơi và thư giãn. Tuy nhiên, nếu không gian sống bị giới hạn về diện tích thì bạn nên đặt những vật dụng này càng xa giường càng tốt. Nếu có thể, hãy dùng một tấm màn để che những đồ vật này lại.
B. Tránh những nguồn năng lượng xấu
1. Tránh đặt gương đối diện giường Nên nhớ, chiếc gương là vật tuyệt đối không nên đặt ở đối diện giường. Nếu bất đắc dĩ, hãy cheo gương bằng tấm vải mỏng khi đi ngủ. Còn tốt hơn cả là bạn nên tránh sử dụng gương trong phòng ngủ nhé!
2. Tránh ánh đèn chiếu trực tiếp Hãy tính toán cẩn thận trước khi bố trí hệ thống chiếu sáng phòng ngủ của bạn. Khác với bất kỳ căn phòng nào khác trong nhà, phòng ngủ cần ánh sáng dịu nhẹ, nếu chiếu sáng trực tiếp sẽ tạo áp lực làm gián đoạn giấc ngủ của bạn.
3. Tránh đặt bể cá hay những gì liên quan đến nước Ở khu vực gần giường ngủ, bạn nên tránh đặt hồ cá hay những gì liên quan đến dòng nước chảy. Ngoài ra, còn hạn chế treo những bức tranh vẽ sông nước trong phòng ngủ vì theo phong thủy, những vật này có thể khiến bạn bị hao hụt tài chính hay bị trộm.
4. Không đặt cây xanh trong phòng ngủ Thay vì hít khí oxy như bình thường, nếu để cây xanh trong phòng ngủ, chúng ta sẽ vô tình hít phải khí CO2 không hề tốt cho sức khỏe. Đây chính là lý do vì sao cây xanh bị coi là yếu tố không tốt lành cho phòng ngủ theo phong thủy.
5. Tránh bày bừa lộn xộn quanh giường Tránh bày bừa lộn xộn quanh giường hoặc kê một bên giường sát tường. Lý do là các dòng năng lượng tích cực không thể được lưu thông. Và nếu một bên giường kê sát tường sẽ khiến một1 người ngủ bên trong, trở thành “mắc kẹt” trong các mối quan hệ.
6. Hãy dời chiếc tivi yêu thích đi Rất nhiều gia đình có thói quen đặt tivi trong phòng ngủ để xem phim, tuy nhiên điều này lại không tốt chút nào cả. Bởi lẽ, sóng tivi tạo ra một từ trường không tốt, làm gián đoạn giấc ngủ của chúng ta. Tốt hơn cả là đặt nó ở phòng khách bạn nhé.
7. Đặt sách của bạn ở nơi khác Bạn có thể giữ một vài cuốn sách trong phòng, nhưng quá nhiều sách có thể làm cho bạn cảm thấy choáng ngợp. Phòng ngủ là nơi để nghỉ ngơi và thư giãn, nếu bạn có quá nhiều sách ở đó, nó sẽ giống như một nơi để làm việc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Tử vi đẩu số là một hình thức dự trắc về vận mệnh của con người được xây dựng trên cơ sở triết lý chu dịch với các thuyết Âm dương, Ngũ hành, can chi bằng cách lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những sự kiện xảy ra trong diễn biến đời người.
Theo quan niệm của số đông thì Tử vi đẩu số là thuật ngữ được hình thành dựa vào tên một loài hoa màu tím. Từ ngàn xưa chiêm, tướng phương Đông thường dùng loại hoa màu tím này để chiêm bốc, trong đó “tử” chính là “tím” còn “vi” là “huyền diệu”. Cũng có người cho rằng, thuật ngữ đó được lấy từ sao Tử vi, một ngôi sao quan trọng nhất trong môn dự trắc này.
Vậy, tử vi bắt nguồn từ thời nào?
Cho đến nay, sử sách không ghi lại ai là người khai sáng ra nó. Các nhà tử vi thường chỉ chú ý đến việc giải đoán tử vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến nay, lịch sử về nó vẫn còn là một ẩn số. Thậm chí có người còn nhầm lẫn tử vi với những truyện kỳ hoang đường.
Năm Gia Tĩnh triều Minh có lưu truyền cuốn Đẩu Số Toàn Thư do tiến sỹ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử vi đẩu số toàn thư là của tiên sinh Hy Di Trần Đoàn.
Các sách về tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng, người đầu tiên có công tổng hợp, hệ thống bộ môn dự trắc này là Trần Đoàn tức Hy Di Lão Tổ, sống vào đời BắcTống, Trung Quốc.
Tuy xuất phát từ Trung Quốc, tử vi không được chú ý nhiều trong các môn dự trắc học, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó trở thành bộ môn được quan tâm nhất. Có nhiều học giả Việt Nam đã cống hiến thêm cho bộ môn này, trong đó có sự tham gia tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý Đôn. Dần dần, tử vi Việt Nam có thêm những khác biệt so với tử vi nguyên thủy của Trung Quốc.
Những khác biệt giữa tử vi Việt Nam và Trung Quốc bao gồm:
Song điểm thống nhất ở đây là dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống Thiên can, Địa chi, Âm dương, Ngũ hành, Tử vi đẩu số tiếp thu rộng rãi các kiến thức về thiên văn học, toán học, sử học, thống kê học, dự đoán học cổ đại... để tiến hành phân tích mối quan hệ giữa các vì sao và số mệnh con người, từ đó rút ra các vấn đẽ thuộc nhân sinh và vũ trụ. Chính vì thế Tử vi đẩu số vừa mang màu sắc thần bí của mệnh lý học truyén thống, lại vừa kế thừa những nguyên lý chất phác trong vũ trụ quan Đạo giáo, đồng thời hợp nhất hai nhân tố đó để hình thành nên một môn khoa học vừa giản dị, vừa uyên thâm, mang đậm sắc thái kỳ bí mà nội dung luận đoán lá số là một trong những đặc sắc đó.
Tử vi đẩu số có tất cả 518.400 lá số khác nhau trong tử vi, bao gồm trong đấy là 14 chính tính cùng với khoảng 120 sao phụ tinh bao gồm các loại như phúc tinh, lộc tinh hay sát sinh. Tất cả các sao chính tinh và phụ tinh sẽ theo các nguyên tắc nhất định được an vào 12 cung trong lá số. 12 cung trong lá số tử vi bao hàm toàn bộ đời sống của một con người về mặt thời gian và không gian. Nó bao gồm cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Bạch, cung Điền Trạch, cung Phu Thê, cung Huynh Đệ, cung Phụ Mẫu, cung Tử Tức, cung Thiên Di, cung Nô Bộc và cung Tật Ách. Có một số quan điểm cho rằng Tử vi đẩu số bị giới hạn bởi 518.400 lá số nên không thể phản ánh hết hàng tỷ người trên trái đất và đi đến kết luận rằng, tử vi không thể dùng để lý giải sự khác nhau của những người sinh cùng thời điểm. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng tử vi là một bộ môn dự trắc mang tính khoa học.
Luận mệnh Tử vi đẩu số lấy chủ tinh làm cơ sở. Trong vô vàn các vì sao, có 14 chủ tinh ảnh hưởng nhiều đến vận mệnh nhất, chúng chia thành hệ thái tinh động và hệ thái tinh tĩnh, có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng toàn bộ cả vận mệnh.
Có nhiều sao của Tử vi đẩu số, trong đó ảnh hưởng đến vận mệnh nhất là 14 chủ tinh (hay còn gọi là chính tinh). 14 chủ tinh này có thể chia thành hệ sao động “sát, phá, lang” gồm 8 sao:
và hệ sao tĩnh “cơ, nguyệt, đồng, lương” gồm 6 sao:
Các sao trong hệ sao này thường đồng cung, đối cung, hoặc tam hợp cùng chiếu, có mối quan hệ mật thiết với nhau mà sự thay đổi chủ yếu nhất trong hai hệ sao này chính là sao Phá quân và sao Thiên cơ.
Mệnh bàn Tử vi đẩu số có 12 cung, trong 14 chủ tinh thường có 2 tinh cùng tọa thủ trong một cung. Khi đó, một số cung vị thường không có chủ tinh, cần phải mượn chủ tinh của cung đối diện để suy đoán cát hung, nhưng chức năng của sao này bị giảm xuống nhiều. Như các trường hợp: Nếu cung Mệnh không có chủ tinh thì phải mượn chủ tinh của cung đối diện (cung Thiên di); nếu cung Tài bạch không có chủ tinh thì chủ tinh của cung Phúc đức có thể được mượn dùng làm “Tài bạch”. Như vậy, 12 cung và cung đối diện của nó đều là quan hệ đối chiếu. Các cung cũng đều có chức năng của chủ tinh.
Do cung Mệnh có thể rơi vào một cung nhất định trong 12 cung, mà 14 chủ tinh cũng có thể xuất hiện tại bất cứ cung nào trong 12 cung, vì vậy, kết cấu của cung Mệnh tổng cộng có 144 (12 nhân với 12) loại biến hóa tổ hợp khác nhau. Lại thêm 18 trợ tinh như 6 cát tinh, 6 sát tinh, 4 hóa tinh, Lộc tồn tinh, Thiên mã tinh, cùng với tổ hợp hơn trăm loại thứ cấp tinh như Ât, Bính, Đinh, Mậu, cấu thành nên mệnh bàn Tử vi đẩu số thiên biến vạn hóa.
Trong 14 chủ tinh, 6 sao: Tử vi, Thiên cơ, Thái dương, Vũ khúc, Thiên đồng, Liêm trinh thuộc hệ sao Tử vi (căn cứ vào sao Tử vi); 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân thuộc hệ sao Thiên phủ (căn cứ vào sao Thiên phủ). Hai hệ sao này đều có nguyên tắc phân bố nhất định. Khi quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy hệ sao động và sao tĩnh thường là tương cận nhau mà 12 cung trong mệnh bàn được sắp xếp một âm một dương giao nhau, như vậy, sự thay đổi của mệnh và vận là sự tiến hành thay đổi luân phiên một âm, một dương, một động, một tĩnh. Đời người cũng luôn trong quá trình luân phiên giữa chuẩn bị - ấp ủ - kế hoạch (đặc trưng của hệ sao tĩnh) và bắt đầu - làm mới - thay đổi (đặc trưng của hệ sao động).
Người biết nuôi dưỡng bồi đắp tinh thần, trí lực trước; lại trong vận hạn của hệ sao động, chọn thời cơ thích hợp để thực thi, đột phá thay đổi vận mệnh. Người không hiểu về vận mệnh thường hay hao tổn tinh lực, hay gặp trở ngại, khi mới làm được một nửa, đã cho rằng mình sẽ mãi không thể thực hiện được, từ đó mà có thái độ tự cam chịu, sống uổng sống phí cuộc đời này. Tính quan trọng của việc nghiên cứu mệnh lý không nói cũng đã rất rõ ràng như vậy!!!
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sang giá nhất của cụ Thiên Lương.
1.Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
2.Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
3. Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
4. Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)
5. Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
6. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
7. Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
8. Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
9. Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
10. Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
11. Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
12. Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái " áo bí " của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.
trích KHHB
► ## gửi đến bạn đọc công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
chăn, nệm gạo…v.v vào nhà.
Nếu nhà không có đàn ông thì người mẹ mới bưng bát nhang tổ tiên vào nhà. Sau đó các con đêm các đồ khác vào sau.
Nên dọn dẹp chuyển hết đồ đạc vào bên trong nhà rồi mới tiền hành dọn cúng sau.
Và một điều cần lưu ý khi vào nhà mới thì mọi người ai cũng phải cầm một thứ gì đó trên tay, không được đi tay không vào nhà. Tuổi dần thì nghiêm cấm phụ dọn nhà kể cả phụ nữ có thai cũng không được.Trong giờ tốt, gia chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang, tài sản quý giá cất vào tủ.
Và nếu bạn đi đám nhà mới hay còn gọi là Tân gia, bạn nên mua theo một số vật dụng trong gia đình đến tặng bạn bè, những thứ vật dụng như soong nồi, chén bát, nó có ý nghĩa mang lại sự sung túc cho gia đình gia chủ.
Khi cúng động thổ, quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ), bông tươi, nhang đèn,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 trứng vịt luộc ), xôi thịt, 3 miếng trầu cau ( đã têm ), giấy vàng bạc, 1 dĩa muối gạo, 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.
Sau khi cúng xong, đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp, nơi thờ cúng Táo Quân.
Nhớ mỗi kỳ đổ mái -đổ thêm tầng đều phải sắm lễ cúng vái.
Hôm nay là ngày……tháng……năm……
Gia đình chúng con dọn đến đây là……………………..(ghi địa chỉ)
Hôm nay chúng con thiết lập hương án, sắm sanh phẩm vật, trước linh vị kính trình các Cụ tổ Tiên nội ngoại 2 bên : nhờ hồng phúc Tổ Tiên, nhờ Âm Đức cha mẹ, chúng con đã tạo được ngôi gia. Nay hoàn tất thi công, chúng con chọn được ngày lành tháng tốt để di cư nhập trạch, kính rước chư Hương linh Tiên Tổ về đây để chúng con sớm hôm hương khói tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin, âng Bà Tổ tiên nội ngoại 2 bên thương xót con cháu, chứng giám lòng thành giáng lâm linh án thụ hưởng lễ vật. Độ cho chúng con phước lộc song tu, gia đạo hưng long, xuất nhập bình an, lộc tài thạnh vượng.
Cúi mong Anh linh Tiên Tổ chứng giám, thọ cảm ân sâu. Kính cáo.
Vị thần linh chú về hôn sự theo tin tướng của dân ta là ông Tơ hồng cũng còn gọi là Nguyệt lão. Nhiều khi Nguyệt lão bị phụ nữ hóa biến thành bà Nguyệt.
Nguyệt lão được hình dung trong quảng đại quần chúng là một ông già đầu bạc đang se những sợi chỉ tơ màu hồng. Hình dung này do sự tích của Vi Cố đời Đường cấu tạo nên.
Dưới đời nhà Đường có một nho sinh học hành uyên bác tên gọi Vi Cố. Một ngày kia Vi Cố dạo chơi dưới trăng, được gặp một ông già đang giở từng trang một quyển sách, bên cạnh có chiếc đẫy đầy chỉ tơ hồng.
Vi Cố hỏi, ông già đáp quyển sách đó ghi những lứa đôi của mọi cặp trai gái, còn những sợi tơ hồng dùng để buộc những cặp này lại với nhau. Ông già nói thêm: “- Dù cách biệt vì địa vị xã hội, dù gặp bao nhiêu khó khăn, cuối cùng số mệnh vẫn thắng và kẻ nào phải phối ngẫu với kẻ nào vẫn là do duyên số”.
Thấy ông già nói vậy, Vi Cố muốn biết người sau này sẽ sánh duyên với mình là ai. ông già liền chỉ vào một cô bé hai tuổi, con một mụ hành khất trong ngôi chợ gần đó và bảo đó là người vợ tương lai của họ Vi. Thấy vậy Vi Cố tự nhủ:
Có thể như vậy được chăng. Vợ ta, con một mụ ăn mày!
Sau đó Vi Cố thuê người giết chết cô bé. Kẻ hung đồ đã dùng dao đâm vào sọ đứa trẻ, nhưng nhát đâm không trúng mà chi sượt qua lông mày cô bé gây thương tích chỗ ấy. Mười bốn năm sau, Vi Cố thi đỗ, được bổ làm quan và được vị Tiết độ sử gả con gái cho.
Cô dâu có một vết sẹo nhỏ trên lông mày. Vi Cố hỏi vợ, được nàng cho biết khi nàng 2 tuổi bị một kẻ hung đồ đâm hụt. Quan Tiết độ sử có chứng kiến vụ hành hung này, động lòng trắc ẩn, nhận nàng làm dưỡng nữ. Thì ra, lời ông già xe tơ đã ứng nghiệm. Họ Vi kết duyên với con mụ hành khất tại chợ nơi xưa.
Sự tích trên đã gây trong quần chúng sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số và sợi dây Tơ hồng vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau. Và ông già se tơ được gọi là Nguyệt lão, vì Vi Cố đã gặp ông ta ở dưới trăng và ông cũng có tên là Tơ hồng vì ông se những sợi chỉ tơ màu hồng.
Tin tưởng ở ông Tơ hồng, trai gái đến tuổi lành duyên đều cầu khấn ông giúp cho được duyên may phận đẹp. Trong ca dao Việt Nam thường nhắc nhiều tới vị thần linh chủ về hôn sự này:
“Bắc thang lên tới Trăng già,
Chỉ hồng đâu tá, mượn và bốn dây?
Để ta xe kết đấy, đây,
Xe chim loan phượng với cây ngô đồng,
Xe tố nữ với anh hùng
Xe trang thục nữ bạn cùng thi nhân…”
Trai gái cầu khẩn ông Tơ hồng cho được duyên may phận đẹp, nếu tình duyên ngang trái, họ cũng quay trở lại oán than Nguyệt lão!
“Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!”
hoặc:
“Ông Tơ sao khéo đa đoan
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên!”
Và cũng đã có những vần ca dao châm biếm về Nguyệt lão: Ông đã vụng xe tạo nên những cặp vợ chồng niên ký chênh lệch:
Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi lại trói vào đây,
Hỏi ông Nguyệt lão: “Nào dây tơ hồng?”
“Nào dây xe Bắc, xe Đông?”
“Nào dây xe vợ xe chồng người ta?”
“Vụng xe, xe phải vợ già,
“Tôi thì đến cửa đất nhà ông lên!”
Rèm cửa là vật dụng tuyệt vời để trang trí, bảo vệ sự riêng tư cho ngôi nhà. Trong phong thủy, rèm cửa còn đem lại nhiều lợi ích khác. Củ thể khác như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết phong thủy rèm cửa để có thể biết phong thủy rèm cửa có ý nghĩa gì cho ngôi nhà của bạn? Chúng ta cùng đi tìm hiểu nhé!
Nội dung
Rèm cửa sổ, bên cạnh việc che nắng, bảo đảm sự riêng tư của ngôi nhà, còn có tác dụng giải phóng năng lượng hỏa. Đặc biệt là đối với người mệnh hỏa, rèm cửa càng cần thiết hơn. Tuy nhiên đối với những người mệnh khuyết hỏa, cần thêm năng lượng hỏa, cần tiếp xúc nhiều hơn với ánh sáng mặt trời thì không nên sử dụng rèm cửa dày.
Khi sử dụng rèm cửa cũng cần chú ý đến vật liệu, kiểu dáng, màu sắc. Theo quan điểm của phong thủy, chất liệu sợi nhân tạo là nguyên tố lửa trong ngũ hành. Theo nguyên lý Hỏa khắc Kim, rèm cửa làm từ sợi nhân tạo có thể ngăn chặn sát khí đến từ hướng Bắc và Tây Bắc.
Rèm Roman (rèm xếp nhiều lớp) đại diện cho Thổ trong ngũ hành, có thể ngăn sát khí Thủy từ phương Bắc tới. Rèm dạng sóng, đại diện cho Thủy, có thể ngăn sát khí Hỏa từ phương Nam tới. Loại rèm lá ngang màu trắng làm từ nhôm, đại diện Kim trong ngũ hành, nếu treo ở cửa sổ phía Đông và Đông Nam cũng có thể chống lại sát khí Mộc.
Khi xây nhà, nhiều người thích trong nhà có cửa ban công thật lớn, sáng sủa và thoáng mát, để có thể nhìn được hết khung cảnh bên ngoài. Thật ra, điều này không phù hợp với phong thủy bởi may mắn của căn phòng có thể sẽ bị thoát ra ngoài nhiều.
Bình thường, trong phong thủy các kiểu ban công đều có tác dụng thụ khí. Bởi vậy cửa ban công nên treo rèm và rèm treo nên thường xuyên được kéo ra treo lên. Như vậy vừa có thể ngăn chặn khí không tốt từ bên ngoài vào, vừa giữ lại được cát khí trong phòng, có lợi nhất đối với gia chủ, với tài vận.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Đền Trúc tọa lạc tại thôn Quyển Sơn xã Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam nơi không gian rợp bóng trúc, khung cảnh thiên nhiên hữu tình có núi, có sông, có hang động kỳ thú, và là di tích lịch sử ý nghĩa, trở thành điểm đến hấp dẫn trong chuyến du lịch Hà Nam.
Đền Trúc nằm ven sông Đáy, dưới chân núi Cấm hay còn gọi là núi Cuốn Sơn thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam. Đền không chỉ nổi tiếng về cảnh đẹp mà còn có lễ hội hát dặm giàu ý nghĩa, tôn vinh anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt.
Đền Trúc rộng khoảng 10 ha, có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, có núi non trùng điệp, rừng trúc nên thơ. Ðến đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng muôn hình kỳ lạ của nhũ đá và nghe thấy những bản hòa tấu của gió, của đá trong một “sân khấu” thiên nhiên đầy huyền ảo. Sở dĩ có tên là đền Trúc bởi vì xưa kia xung quanh đền là một khu rừng trúc rậm rạp rộng tới hàng chục mẫu. Ngày nay, rừng trúc không còn nữa nhưng bao quanh đền vẫn còn một lớp trúc khá dày.
Cổng đền gồm 4 cột đồng trụ, hai cột chính ở giữa, hai cột nhỏ ở hai bên. Hai cột chính cao trên 6m được chia thành 3 phần: phần dưới là một khối chữ nhật, các mặt đều có gờ chỉ tạo thành những khung cân đối. Chữ được nhấn chìm vào trong vữa tường. Trên phần này là một khối vuông, bốn mặt nổi hình tứ linh và trên cùng là một đôi nghê đắp cân đối, dáng đẹp, quay mặt vào nhau.
Đền Trúc được tu sửa nhiều lần, lần cuối cùng vào những năm đầu của thế kỷ XX. Hiện nay đền còn lại tòa tiền đường và hậu cung. Tiền đường gồm 5 gian, xây cao trên mặt sàn được đặt thành 3 cấp, hai đầu hồi bít đốc. Mặt đằng trước hai đầu hồi xây sát tường phía ngoài từ tàu mái đến thềm chính giữa để một cửa sổ hình chữ thọ. Ngôi đền được làm bằng gỗ lim. Ba gian hậu cung cũng được xây dựng cùng phong cách với nhà tiền đường: xây bít đốc, khung gỗ lim, kéo giá chiêng và lợp ngói nam. Ngăn cách giữa nhà tiền đường với hậu cung là một khoảng sân hẹp có tường nối, nhà bán mái và bể non bộ.
Hàng năm, nhân dân Quyển Sơn mở cửa đền mở hội từ ngày 1 tháng giêng đến 1 tháng hai âm lịch. Lễ hội được mở vào những ngày nông nhàn nên dân quanh vùng và du khách thập phương nô nức kéo về dự hội. Không gian lễ hội từ xưa mở rộng từ đình Trung đến đền Trúc, chùa Thi và ven núi Cấm.
Gần đền còn có chùa Bà Đanh, được tiếng linh thiêng và Ngũ Động Thi Sơn gồm 5 động liên hoàn (có động lớn chứa được hàng ngàn người) nằm trong dãy núi Cấm, đã đi vào thơ ca Việt Nam từ xa xưa. Trên núi này có một loài cỏ tên là cỏ thi, ai tìm được vào giờ chính ngọ tức là tìm được huyệt quý, không thành đế vương thì ít ra cũng đỗ đạt hiển vinh. Ngành du lịch Hà Nam đang đầu tư lớn vào khu di tích đền Trúc này với hy vọng sẽ thu hút được khách du lịch.
Bài của Ân Quang
Tôi xin tiếp tục loạt bài nói về Ý nghĩa Kình Dương và Đà La. Trong tử vi không có vị sao nào giống nhau, Văn Xương không thể nào giống y như Văn Khúc. Linh Tinh phải khác Hỏa Tinh. Kình Dương cũng không thể giống Đà La. Muốn tìm hiểu sự dị biệt này thì phải xét đến Ý nghĩa tên các vị sao. Mà muốn tìm hiểu Ý nghĩa các vị sao thì phải tìm hiểu cách viết tên các vị sao ấy bằng chữ Hán.
Tử-Vi và chữ Hán
Bài này có vẻ hơi khô khan, nặng nề đối với một vài bạn mới nhập môn Tử-Vi, nhưng tôi cũng xin viết ra, mong rằng đó sẽ là khởi điểm cho một điều hướng nghiên cứu mới có Ý thức, có quan niệm rõ ràng hơn. Chứ không phải chỉ mơ hồ, nhìn vào một cung nào đó, thấy một lô các sao Dương Đà Không Kiếp, Hỏa Linh, Hình Kị, Phục Binh, Tang Hổ … nghe một tràng những tên gọi rùng rợn … rồi kết luận là cung đó xấu lắm, hạn đến đó xấu lắm.
Đoán như vậy là dựa vào sức “nhạy cảm”. Nghe một tràng những tên gọi ghê tai, rồi rùng mình, đóan rằng xấu.
Đó là phương pháp lưng chừng. Lúc thì dựa vào một vài công thức nghe có vẻ khoa học. Lúc nào kẹt qúa thì lại buông thả theo trực giác mường tượng như cách phát âm tên vị sao để luận đoán (như dựa vào cách phát âm Trực-Phù mà đóan là đánh trống, bắn súng ….)
Phương pháp này không đưa người nghiên cứu vào con đường lập luận mạch lạc, hướng đến chân trời Lý Học, mà đặt người nghiên cứu vào tình trạng mờ mờ ảo ảo; lúc thì dùng lý trí phán đóan, lúc lại buông xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh mách bảo. Mục đích của Khoa Học Huyền Bí là đem những vấn đề Huyền Bí ra trước ánh sáng Khoa Học, chứ không phải là xô đẩy Khoa Học rơi vào tình trạng hỗn độn, mờ ảo huyền bí.
Tử-vi là một khoa học phát xuất từ Trung Hoa.
Để có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Tử-Vi để đi tìm một đường lối nghiên cứu đúng đắn, mạch lạc, cần phải gác qua một bên những sở thích, những thành kiến, những nhân sinh quan riêng của mình, để tìm hiểu cái vũ trụ quan, cái nhân sinh quan của Trung Hoa vào thời mà Tử-Vi phát sinh và trưởng thành. Và dĩ nhiên là cần tìm hiểu Ý nghĩa chữ Hán để biết điểm dị biệt giữa các vị sao.
Khốn nỗi, lấy tiêu chuẩn nào để bảo đảm rằng cuốn sách chữ Hán mà chúng ta đang cầm trong tay, là một cuốn sách chân truyền. Chằng lẽ, cứ thấy một cuốn sách Tử-Vi bằng chữ Hán có vẻ cũ cũ, xưa xưa truyền lại từ nhiều đời trước, trong đó có một số bài phú thâm thúy, một vài cách luận giải khác lạ hay hay rối chóa mắt suy tôn gía trị tòan bộ sách, hãnh diện rằng mình có trong tay một bảo vật, tự mãn rằng sách đó chân truyền từ đời Nhà Tống, đời Trần Đòan, đời cụ Lê Qúi Đôn. Rồi thôi! Không cần xét lại những điểm tối nghĩa hay sao. Lỡ trong sách ấy có một vài đọan “tam sao thất bản” thì sao? Có lẽ cũng chỉ vì thế mà không những, không có phát minh, cải tiến trong Tử-Vi, trái lại khoa này càng ngày càng bị thất truyền.
Một vài vị nghiên cứu Tử-Vi khá lâu có tìm gặp tôi bàn luận và mong mỏi có một nền Tử-Vi Việt Nam, chẳng lẽ mình cứ mãi mãi lệ thuộc vào văn hóa Trung Hoa hay sao? Thỉnh thỏang lại nghe đồn có nhà Tử-Vi tài ba này, nhà Tử-Vi siêu việt nọ, mà rốt cuộc không thấy ai làm gì cho một nền Tử-Vi Việt Nam. Có lúc lại thấy có dư luận hướng về Tử-Vi Trung Hoa Đài Loan. Có người lại đón cả thầy Tử-Vi bên Trung Hoa Hồng Kông về xem.
Tôi xin thưa rằng tôi không đi ngược lại ý nghĩa xây dựng một khoa Tử-Vi Việt Nam. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng tìm hiểu những nguyên lý cũ, những điểm tối nghĩa cũ còn chưa xong, mà vội xây dựng một cái gì khác lên trên thì e rằng thiếu căn bản. Nền nhà bên dưới chưa hòan tòan chắc chắn mà vội xây một cái nhà khác lên bên trên thì e rằng dễ sụp đổ.
Tôi thiển nghĩ làm việc gì cũng cần có từng giai đọan. Hiện nay thì cần làm sáng tỏ những nguyên lý cũ, giải quyết những điểm tối nghĩa cũ lần lần sẽ tính đến những sự cải tiến khác, thì việc làm sẽ được chắc chắn hơn.
Nếu cứ vội vã thông qua, không tìm hiểu kỹ những điểm căn bản, mà xây dựng một cái gì khác lên bên trên thì dễ tạo nên một sự rối lọan một sự sụp đỗ mới.
Nếu cứ vội vã thông qua Đà cũng như Kình, Kình cũng như Đà, Hỏa cũng như Linh, Linh cũng như Hỏa, thì người nghiên cứu dễ vô tình trở thành một tay “thợ Tử-Vi”, một chuyên viên “Cơ-Khí Tử-Vi”. Lối giải đoán như vậy chỉ có thể thỏa mãn một vài hiếu kỳ, thắc mắc cấp thời, chỉ đưa người nghiên cứu vào vòng làm việc thiếu ý thức sâu xa, không thể áp dụng Lý Học một cách mạch lạc. Làm việc như vậy, người nghiên cứu rất dễ hiểu lầm các câu phú như những công thức máy móc và không sao chế hóa được khi gặp trường hợp công thức này chống ngược lại công thức kia.
Chính vì thế mà trong giai đọan sơ khởi chúng ta phải tìm hiểu chữ Hán, để tìm hiểu, để giải quyết những điểm tối nghĩa cũ.
Đến đây tôi cũng xin thưa thực rằng số vốn chữ Hán của tôi không có gì uyên thâm. Chỉ học lại chút ít của các cụ trong họ hàng. Số vốn chữ Hán thì ít mà khát vọng tìm hiểu, tra cứu lại nhiều. Thế cho nên cứ có một điểm nào đó hơi tối nghĩa một chút là tôi liền thắc mắc, tra cứu, so sánh, đối chiếu các tài liệu, tìm tòi hỏi các cụ đi trước, cân nhắc các lời luận giải. Vì thế mà tôi thấy có nhiều trường hợp thất truyền hoặc tam sao thất bản.
Tôi buộc lòng phải viết hơi dài dòng, kể qua một vài trường hợp tam sao thất bản để quý bạn Tử-Vi có thể nhận định dễ dàng những điểm tế nhị của bộ sao Kình, Đà.
Một vài trường hợp tam sao thất bản
Có nhiều nguyên nhân khiến cho có sự “tam sao thất bản”, nhưng tôi trộm nghĩ là có bốn nguyên nhân đáng kể sau đây:
– Vì chữ Hán, nhòe một nét có thể đọc thành chữ khác
– Về chữ Hán có nhiều chữ đồng âm, nghe người khác đọc rồi chép lại sau và chép sai chữ.
– Người trước viết tắt để cho tiện (hoặc có ẩn Ý dấu nghề chăng?). Người sau chép lại, vì không hiểu thấu ý nghĩa sâu xa, nên chỉ biết nhìn vào chữ viết tắt mà chép lại, thành ra tối nghĩa.
– Cũng có thể là vì người chép lại, không hiểu hết Ý nghĩa của người trước đã thêm ý riêng của mình vào.
Tôi xin kể vài thí dụ:
Như câu “ Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn bá” thì chữ Bá, viết với bộ Thủ có nghĩa là gieo rắc ra xa. Thế mà có sách lại chép ”Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn phan” có lẽ bộ Thủ đã bị nhòe, người đọc tưởng là bộ Thủy, đã chép lại là chữ Phan, có nghĩa là Họ Phan, hay là …. Nước vo gạo.
Như câu “Quan phù, Thái Tuế, Công Dã hữu hy tiết chi ưu”. Gặp Quan Phù, Thái Tuế thì có thể như chàng Công Dã có sự ưu phiền về giây xích trói buộc.
Thế mà sách chép lại là Công Trị, rồi mới đây lại có một cuốn sách Tử-Vi đã (vô tình hay cố Ý) xếp chữ lại là Công Trự. Từ Công Dã, biến thành Công Trị, rồi nói đến Công Trự!
Công Dã đây là họ Công Dã (có ghi trong tài liệu “Bá gia tánh sách”) và có liên hệ đền điển tích anh thợ săn Công Dã Tràng. Vì vậy cung có câu phú diễn nôm:
Dã Tràng không tội phải tù.
Trong năm Thái Tuế, Quan Phù đi qua
Họ Công Dã, chữ Dã viết với bộ Băng, có một chấm, người đọc vì không hiểu họ Công Dã, tưởng chữ giả là chữ Trị, viết với bộ Thủy có hai chấm.
Ở đây tôi cũng xin mở ngoặc nói thêm là mỗi câu phú chữ Nôm hay chữ Hán không phải là một công thức hay là một cái đinh ốc trong bộ máy Tử-Vi. Các câu phú chữ Nôm hay chữ Hán do cổ nhân lập ra, chỉ là cách đặt câu có vần, cho chúng ta dễ nhớ về một trong nhiều tính cách mà một vị Sao có thể đem lại.
Mỗi vị sao trong Tử-Vi không phải là cái đinh ốc của một bộ máy mà là một khí lực biến hóa vô lường. Như chúng ta đã biết Tử-Vi không đi ra ngòai căn bản Dịch Lý, mà Dịch lý thì cát biến hung, hung biến cát. Một vị sao có thể có nhiều ảnh hưởng tương phản tùy theo vị trí miếu, hãm … hoặc tùy theo ảnh hưởng trợ lực của một vị sao khác. Không thể vội gán cho mỗi câu phú một gía trị công thức máy móc. Vì vậy mà cần hiểu ý nghĩa, hiểu những ảnh hưởng tương phản của một vị sao, để có thể luận giải chế hóa khi gặp hai, ba câu phú, hai, ba công thức đối chọi nhau.
Trở lại với câu chuyện chữ Hán. Có sách chép câu: “Mệnh trung ngộ Kiếp, Tham như lãng l ý hành thuyền” dịch đại ý là Mệnh có Địa Kiếp, Tham Lang thì bấp bênh như đi thuyền trên sóng.
Có sách lại chép là: ”Mệnh trung ngộ Kiếp, kháp như lãng lý hành thuyền” cho rằng “kháp như” là giống y như “đi thuyền trên sóng”
Có sách lại chép là: “Mệnh trung ngộ Kiếp hợp như lãng lý hành thuyền” cũng dịch tổng quát là Mệnh có Địa Kiếp lại thêm Sát Kỵ, thì như đi thuyền trên sóng.
Mỗi người một ý; lý đều xuôi tai. Thôi thì đành chiêm nghiệm vậy. Thật là …. “ lắc lư còn tàu đi”.
Lại như nói về Văn tinh ám củng Cổ Nghị, duẩn hỉ đăng khoa.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Mãi Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Giả Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”
Vậy thì cái ông đó là ai? Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị?
Ông này qua đời đã lâu lắm rồi. Tôi có hỏi một vài cụ để tìm lời dẫn giải thì cũng thấy mơ hồ. Bí kế phải tìm đến học giả Đào Duy Anh và Cụ Thiều Chữu qua hai bộ Tự Điển thì thấy giải thích rằng chữ Cổ có nghĩa là cửa hàng, buôn bán ngay tại tại cửa tiệm là Cổ. Chữ Cổ này cũng có một âm là Giả, họ Giả, Học giả Đào Duy Anh giải thích rõ thêm là Giả Nghị, tên một học giả có tiếng đời Hán, từng làm quan Đại trung đại phu (200-168 trước Kỷ Nguyên).
Vẫn biết rằng chữ Hán là một phức âm tự, viết cùng một cách nhưng có thể đọc nhiều cách khác nhau như chữ Tử là con, có thể đọc là TÝ (địa chi là TÝ) tùy trường hợp, hoặc có trường hợp đọc trệch đi một chút như Vũ và Võ, Huỳnh và Hòang. Nhưng tên riêng của một học giả mà có đến ba cách phát âm khác nhau qúa như: Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị. Mãi Nghị thì chắc là chỉ có một cách đọc đúng.
Lại như cách đóan có sao Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc ở cung Giải thì “Cưỡng bao đa tai” là có chửa ngòai dạ con.
Tôi có gặp cách đoán “Cưỡng bao đa tai” này trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản tại Đài Loan. Chữ Cưỡng và chữ Bao đều viết có bộ y là áo. Chữ Cưỡng chỉ về cái túi vải (xưa còn gọi là cái địu) để đeo trẻ nhỏ sau lưng. Chữ Bao chỉ về cái tã lót. Chữ Cưỡng Bao là chỉ về thời gian còn bé nhỏ, còn dùng tã lót, còn được đeo ở sau lưng. Chữ “Cưỡng bao đa tai” là nói rằng lúc còn bé nhỏ như vậy dễ có lắm tai ách. Còn chữ Cưỡng Bao viết như thế nào (bằng chữ Hán) để có thể hiểu là “có chửa ngòai dạ con” thì tôi đã cố công tra cứu mà chưa tìm ra được.
Lại như câu ca để tìm Cục cho nhanh: ” Bính, Tân, đê, liễu, ba, ngân, trúc”. Nói rằng chữ Trúc là ứng vào Hỏa Cục, nhưng chữ Trúc lại viết trên có bộ Trúc, dưới có bộ Mộc (như chữ kiến trúc) thì sao lại ứng vào Hỏa Cục được. Nếu nói rằng bộ Mộc đó là ám chỉ, Mộc sẽ sinh được Hỏa thì đó là giải thích loanh quanh, thêm phần phức tạp. Tôi thiển nghĩ đó là chữ Chúc. Chúc là cái đuốc, viết với bộ Hỏa, ứng vào Hỏa Cục thì dễ hiểu hơn. Có lẽ đây là do sự phát âm lẫn lộn TR và CH của một vài điạ phương tại miền Bắc. Một người đọc một người chép, cho nên thay vì dùng chữ Chúc là đuốc có bộ Hỏa, để ứng vào Hỏa Cục, thì lại dùng chữ Trúc có bộ Mộc.
Đến như cách viết tên các vị sao bằng chữ Hán thì lại có lắm sự phức tạp, mơ hồ. Tôi xin tạm lấy một thí dụ như chữ Phi Liêm. Người thì viết chữ Phi là bay. Người thì viết chữ Phi là không. Người lại viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới. Theo cụ Thiều Chữu thì viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới là chữ Phi, tên một loài sâu. Lại có một lòai sâu tên là Phi Liêm (cả hai chữ đều có bộ Trùng)
Dường như không mấy ai đặt vấn đề tra cứu luận giải để có một quan niệm rõ rệt về ngôi Phi Liêm nằm trong vòng Thiên can (một trong ba vòng quan trọng của Tử-Vi: Thiên can, Cục và Địa chi). Phần đông chỉ thích một công thức giản dị, đỡ mất thời giờ: Phi Liêm chủ thế này, chủ thế nọ.
Cách viết tên một vị sao bằng chữ Hán đem lại rất nhiều ý nghĩa. Cần phải xét kỹ, không thể thản nhiên tự mãn rằng sách này sách chân truyền, có nhiều bài phú cao siêu, không được khởi ý thắc mắc, phải sùng kính sách xưa, cứ mặc nhiên chấp nhận tên các vị sao như vậy đi.
Ngay trong cách viết, ngay trong tên gọi mà còn mơ hồ thì đến khi luận giải chắc là phải làm việc lưng chừng; khi thì dùng lý trí phán đóan; lúc thì tưởng tượng ra một hình ảnh nào đó, hoặc lại buống xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh. Quan niệm căn bản còn lỏng lẻo thì làm sao có thể suy luận mạch lạc.
Tôi luôn luôn dành nhiều sự cảm phục đối với quÝ vị đã dày công sưu tầm tài liệu bằng chữ Hán để sọan sách Tử-Vi. Đó qủa là một công trình lớn lao nặng nề và qúy vị đã tiến được một bước đường rất dài trong việc rọi thêm tia sáng để chấn chỉnh khoa Tử-Vi.
Tôi chỉ muốn nêu lên một vài điểm tối nghĩa như kể trên để giúp qúy bạn Tử-Vi để nhận định rằng chính bộ sao Kình Đà cũng nằm trong trường hợp đó.
Ý nghĩa Kình & Đà. Dương Nhẫn, Dương & La
Tôi đã gặp nhiều tài liệu Tử-Vi đứng đắn, nhưng trong đó vẫn có nhiều sách viết khác nhau. Có tìm hiểu kỹ cách viết thì mới có thể đạt đến cái tinh thần của bộ sao Kình Đà. Từ đó mới có thể tiến đến chỗ luận giải có ý thức, có quan niệm rõ ràng, chứ không phải chỉ áp dụng công thức, thiếu suy luận phân minh, rồi có khi vô tình rơi vào trường hợp đóan đúng nhờ “nhạy cảm”, “linh cảm”. Nếu như vậy thì là đi từ ánh sáng Khoa Học vào trong Huyền Bí, chứ không phải là nghiên cứu những vấn đề Huyền Bí một cách khoa học.
Có đạt đến cái tinh thần thì mới xét đến điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Dương và La thì mới có thể chiêm nghiệm, mới hiểu được trường hợp người tuổi Dương Nữ, âm Nam an Kình Đà khác với người tuổi Dương Nam, âm Nữ. Điều này cụ Ba La có tiết lộ sơ sơ với cụ Thiên Lương (KHHB số B2 ra ngày 19/02/1973). Đây không phải là quan điểm, phương pháp của riêng Cụ Ba La, mà là của phần lớn các cụ thuộc thế hệ trước. Vì vậy, chúng ta mới thấy trong các sách Tử-Vi xuất bản trước đây trên hai mươi, ba mươi năm, các tác giả có thu nhập tài liệu để luận về Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi; còn Đà La ở TÝ Ngọ Mão Dậu, chỉ vì diễn không hết lý, trình bày không mạch lạc cho nên mới có sự mâu thuẫn giữa chương giữa cuốn sách luận về ảnh hưởng Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, và chương đầu cuốn sách chỉ dẫn an sao.
Tôi thiển nghĩ rằng cụ Ba La, cụ Song An hoặc một số các cụ xưa kia không đến nỗi hẹp hòi dấu nghề. Có lẽ đó là do quan niệm thời ấy, chỉ nói sơ qua một số nguyên lý, một số nguyên tắc người đi sau chịu khó ra sức suy gẫm, tìm hiểu, nếu thành công thì sẽ thấu đáo hơn, thấm thía hơn. Ráng tu thì đắc đạo. Không ai đắc đạo dùm mình. Không ai làm cho mình đắc đạo được. Chỉ cần biết một số nguyên lý rồi dựa vào đó mà hành động. Nếu các Cụ có chỉ dạy sẵn, thì người đi sau lại có thể lười suy nghĩ, không cố gắng tìm hiểu sâu xa, hoặc có thể là vì thấy đáp số dễ qúa mà không quý trọng lời chỉ dẫn, còn hỏi tới hỏi lui, mất thì giờ của các cụ mà chẳng có lợi gì cho đôi bên.
Nay, xin đi vào Kình hay Đà – Dương hay La – Dương Nhẫn hóa Hình – Hóa Kị
Tất cả các tài liệu Tử-Vi xưa mà tôi gặp đều viết chữ Kình với bộ Thủ bên dưới ngụ ý chống lên, chỏi lên, giơ lên, dậy lên.
Kình Dương nhập miếu thì phú qúy thanh dương – Dương đây là tỏ ra, bốc lên. Ngộ nhận là chữ thanh danh thì cũng có nghĩa nhưng không sát với tinh thần của Kình Dương.
Trong tinh thần Dịch Lý, cát biến hung, nếu gặp cách xấu, thì Kình bị đảo, và có thể hình dung một cái gì khó vươn lên, ráng sức làm mà người khác hưởng (Lý Quảng)
Trong ngụ ý chống lên, vươn lên dậy lên mà cũng có quan niệm luận Kình Dương là Dương Tinh hạp với người Dương hơn (tác giả Đắc Lộc đã thu thập quan niệm này trong cuốn Tự Điển Tử-Vi xuất bản tại Hà Nội năm 1952).
Cũng trong cái khí lực đó chống lên, hồi lên này mà khi hãm thì Kình hóa Hình, là Nhẫn (cũng có âm là Nhận) là mũi nhọn của dao là cái gai. Khi xấu thì Kình hóa Hình là mũi (Nhẫn) lại gặp Thiên Hình nữa thì có thể độc lắm. Bởi thế mới có câu phú:
Hạn bởi gặp Nhẫn Hình Đà Hổ
Phải ngừa loài hùm chó mới yên.
Nếu chữ Kình đã được các sách Tử-Vi viết một cách thống nhất, thì chữ Dương đã có lắm cách viết khác nhau cũng có cách viết tối nghĩa mơ hồ.
Sau đây là là những cách viết chữ Dương mà tôi đã gặp trong một số tài liệu Tử-Vi.
– Chữ Dương viết với bộ Phụ, là Khí Dương cũng có nghĩa là tỏ ra.
– Chữ Dương viết với bộ Thủ, có nghĩa là giơ lên, bốc lên, dậy lên.
Viết chữ Dương với bộ Phụ hay bộ Thủ, ngó gần giống nhau, cách viết có hơi cầu kỳ.
– Còn một chữ Dương nữa mà tôi cũng đã gặp trong một số đáng kể tài liệu Tử-Vi. Chữ Dương là con Dê!. Cách viết thì có giản dị hơn, nhưng ý nghĩa thì thật mơ hồ. Chữ Dương là con Dê này trong cổ tự Trung Hoa cũng dùng như chữ Tường có nghĩa là điềm tốt lành. Nhưng đó cũng chỉ là một cách viết tắt chứ không có Ý nghĩa xúc tích.
Nhất là có tài liệu còn viết chữ Dương Nhẫn với cách viết chữ Dương là con Dê; Nhẫn là mũi dao. Vậy thì đó là Mũi Dao con Dê hay mũi dao tốt lành. Viết chữ Dương với bộ Thủ hay bộ Phụ có Ý nghĩa hơn, hạp với chữ Kình hơn.
Có lẽ viết chữ Dương là Dê, chỉ, chỉ là dựa vào cách phát âm, viết tạm cho tiện, cho gọn, lâu ngày thành thói quen, cũng như chữ “Không” ngày nay thành ra “O”.
Viết chữ Dương là con Dê (dù có luận rằng nghĩa như chữ Tường ngày xưa) thì thật là thiếu ý nghĩa.
Điều quan trọng trong Khoa học là những quan niệm sáng tỏ, mạch lạc làm sao cho Khoa học càng ngày càng tiến thêm, chứ không phải là nhiều người hay ít người viết như thế, Việt hay không Việt, Hán hay không Hán, chân truyền hay không chân truyền.
Khi đã hiểu Kình là ngụ ý cái gì chống lên, bốc lên …. Dương là dậy lên, tỏ ra … rồi xét đến Đà La, thì mới thấy được cái tiểu dị giữa Kình & Đà.
Chữ Đà có người viết với bộ Thủ, có người viết với bộ Phụ.
– Viết với bộ Thủ có nghĩa là kéo lại, kéo ra, kéo đến; ngụ Ý một cái Lực chuyển động theo chiều ngang (trong khí đó Kình ngụ ý một cái Lực chuyển động theo chiều thẳng đứng)
– Viết với bộ Phụ thì có nghĩa là chỗ đất gập ghềnh, hiểm trở.
– Chữ La là cái lưỡi và cũng có nghĩa là dăng rộng ra, dăng bày ra cũng có thể ngụ ý một cái gì bao la, bát ngát theo chiều ngang.
– La mà hãm thì không phát triển rộng ra, có khi mình lại bị gói vào trong lưỡi, mình bị động, bị che đi.
Đà mà hãm thì kéo co nhiều chuyện vướng mắc lôi thôi. Đà La mà hãm thì hóa thành Kị, nhiều chuyện trắc trở, mờ ám, che lấp.
Đà La mà nhập miếu thì có thể kéo rộng, mở rộng bao la, lan rộng ra, giăng rộng ra (theo chiều ngang).
Người xưa đã có quan niệm về Thiên, Nhân, Địa. Mà trong lá số Tử-Vi thì “Thiên” đây là Thiên Can (đầu mối trên trời) thể hiện qua vòng Lộc Tồn. “Nhân” thì đã thể hiện qua Vòng Tràng Sinh, vòng Cục, Cục đây là cuộc diện chứ không phải cục đá hay cục đất, “Địa” thể hiện qua vòng Địa Chi (ngành dưới đất) vòng Thái Tuế. Tôi sẽ xin nói thêm về các vòng này.
Trong thế giới hữu hình, trong hiện tượng giới, thì lúc nào cũng có sự đối tỷ, tương đối, có âm, có Dương, có cương có nhu, có nóng có lạnh, có trên dưới, trong ngòai, có cái bộc lộ, có cái tiềm tàng.
Ở một người ham họat động thì Kình Dương là hùng dũng hăng hái bộc lộ ra ngòai, hướng ngọai nhiều hơn, giải quyết bằng sức mạnh hoặc mau chóng hơn. Vì vậy ngôi Lực Sĩ luôn luôn đi chung với Kình Dương. Sự xếp đặt, viết tên Lực Sĩ vào chung với Kình Dương để nhắc nhở rằng đây là một lực hướng ngoại nhiều hơn.
Ở một người ham họat động thì Đà La là sự hăng hái nội tâm, hướng nội giải quyết bằng Tâm nhiều hơn băng Lực vì thế mà có lời luận là thâm trầm. Vì thế mà an đúng tiền Kình hậu Đà thì Kình bao giờ cũng đi với Lực. Đà La hướng về chiều ngang kín đáo, hướng nội, cho nên mới có quan niệm Đà La là âm Tinh.
Ở một người đa tình thì Kình Dương là tình nồng cháy ào ạt bộc lộc cấp bách. Đà La là tình âm ỷ tầm ngẩm tầm ngầm, nung nấu lâu dài, vì thế mới có quan niệm cho Đà La là dâm tinh (đây phải xét theo các sao khác đi cùng với Đà La mà luận)
Ở một người bướng bỉnh thì Kình Dương là ngang bướng chống trả ra mặt, mà Đà La là bướng ngầm kiên trì, chờ ngày thực hiện ý chí.
Kình là chống lên, Đà là kéo. Hạn có Kình Đà, tốt thì cũng có sự kéo co, lùng nhùng, trong phạm vi tốt, xấu thì cũng lại cũng có sự chống lên, kéo lại trong phạm vi xấu.
Gặp cách xấu thì Kình Dương là Nhẫn, là mũi dao, là cái gai xóc đến bất ngờ. Đà La là đa đoan lăng xăng vướng víu như mắc lưới.
Còn nhiều điểm tối hỷ nữa, nhưng tôi thiết tưởng rằng những dòng trình bày kể trên đã tạm đủ để đưa ra một Ý tưởng suy gẫm vấn đề. Tôi chỉ cố gắng trình bày một cách vô tư những gì mà tôi đã tra cứu, sưu tầm, học hỏi được.
Trong kỳ tới tôi sẽ trình bày vì đâu lại có câu chuyện Lộc tồn ở Thìn Tuất Sửu Mùi cũng là quan niệm về Mệnh chủ, Thân chủ, Lưu niên văn tinh
KHHB số 40
Tranh công hạc trường xuân mang nghĩa chúc thọ |
Công hạc trường xuân: trong tranh có họa tiết chim công, hạc, cùng có ngụ ý chúc thọ như “công hạc hà linh”, “công hạc diên niên”, thường tặng người lớn tuổi nhân dịp mừng thọ.
Trúc mai song hỷ: trong tranh có họa tiết trúc, mai cùng chim hỷ tước (chim khách) ngụ ý phu thê ân ái, hôn nhân trọn vẹn, có thể dùng làm quà cưới.
Đồng hỷ lâm môn: trong tranh có họa tiết cây ngô đồng, chim hỷ tước tạo thành ngụ ý có nhiều niềm vui cùng đến một lúc.
Thất thượng đại hỷ: tranh có họa tiết gà đứng trên đá, thất có nghĩa là nhà, ngụ ý gia đình yên ổn, cuộc sống đầy đủ, bền chặt.
Hỷ tòng thiên giáng: trong tranh có con nhện từ trên rơi xuống, người xưa coi nhện là may mắn, là ánh sáng, nhện rơi xuống ngụ ý may mắn bất ngờ đến với gia chủ.
Hỷ đắc liên khoa: tranh có họa tiết chim khách, hoa sen, cây lau ngụ ý đạt được thành tích tốt trong thi cử, là quà tặng hay cho những người sắp đi thi hoặc làm việc liên quan tới chữ nghĩa.
Ngũ phúc bổng thọ: tranh có 5 con dơi vây quanh chữ Thọ viết theo lối Triện, ngụ ý 5 điều phúc quanh chữ Thọ. 5 điều phúc là trường thọ, hạnh phúc, khỏe mạnh dồi dào, tu dưỡng đạo đức của bậc quân tử và theo thiện, diệt ác. Bức tranh là lời chúc cuộc sống hướng thiện, phúc thọ viên mãn, rất có ý nghĩa.
Liên sinh quý tử: trong tranh có hình hoa sen, cây quế, chữ liên (hoa sen) đồng âm với chữ liên (liên tiếp), chữ quế gần âm với chữ quý (quý tử) ngụ ý chúc gia chủ sớm sinh được con trai.
Tịnh đế đồng tâm: tranh có họa tiết hai bông hoa sen mọc trên cuống. Tịnh đế còn gọi là đầu hoa sen, chỉ một nhánh cây mọc ra hai bông hoa sen, ngụ ý phu thê hòa hợp, cùng nhau chia sẻ công việc.
Tranh Mãn đường phú quý có ngụ ý may mắn |
Hòa hợp như ý: trong tranh có họa tiết sen, linh chi ngụ ý nhân thế hòa hợp, sự nghiệp hưng thịnh, phồn vinh.
Tùng cúc song tồn: trong tranh có họa tiết tùng, cúc. Cây tùng, cúc dù trải qua sương gió vẫn không tàn, biểu trưng cho phẩm cách cao thượng và khí chất phi phàm. Ngoài ra, nó cũng đại diện cho sự trường thọ, sức khỏe, an khang.
Trường mệnh phú quý: trong tranh có thọ thạch, mẫu đơn, hoa đào. Mẫu đơn, hoa đào chỉ sự song toàn, thọ thạch chỉ sự trường thọ, ghét lại thành bức tranh ý nghĩa phúc thọ song toàn.
Quý thọ vô cực: trong tranh có hoa quế và hoa đào, ngụ ý quan cao chức trọng, trường tồn, thích hợp để mừng thăng chức, tặng cấp trên.
Tiên hồ tập khánh: trong tranh có họa tiết cành tùng, hoa mai, thủy tiên cùng cắm vào một bình hoa, bên cạnh có hoa linh chi và củ cải. Nó có ngụ ý nhiều người cùng chúc nhau cát tường, may mắn.
Mãn đường phú quý: tranh có họa tiết hoa mẫu đơn, hoa hải đường, ngụ ý chúc nhau nhiều may mắn.
An cư lạc nghiệp: tranh có họa tiết hoa, cây phong, chim cút, ngụ ý ổn định nơi ở để xây dựng sự nghiệp, là món quà tân gia ý nghĩa.
Lựu sinh bách tử: tranh có họa tiết thạch lựu. Thạch lựu khi chín màu đỏ đẹp mắt lại có nhiều hạt nên mang ý nghĩa con đàn cháu đống, hưởng phuc trọn đời.
Thiên tiên thọ chỉ: tranh có họa tiết thiên trúc, thủy tiên, linh chi và thọ thạch, ngụ ý mang tới may mắn, tài phúc và sức khỏe.
ST
Tháng 7 (Âm lịch)
Tài lộc của người tuổi Dậu trong tháng Thân ổn định hơn tháng 6. Thu nhập tăng lên, các mối quan hệ xã hội được cải thiện tốt hơn trước. Họ còn có nhiều cơ hội để tăng lương, tiến chức. Song, người tuổi Dậu vẫn nên cẩn trọng hơn trong công việc, cố gắng phát huy hết sở trường của mình để có kết quả tốt hơn mong đợi.
Tháng 8 (Âm lịch)
của nguời tuổi Dậu có phần không ổn định, công việc bận rộn, vất vả ngược xuôi, kế hoạch thường dang dở. Tuy nhiên, nếu cố gắng suy xét kỹ mọi việc, lên kế hoạch cụ thể hơn và mở rộng nhiều mối quan hệ hợp tác, họ sẽ đạt được thành công như mong đợi.
Tháng 9 (Âm lịch)
Tháng Tuất, người tuổi Dậu có quý nhân phù trợ nên gặp nhiều thuận lợi hơn trong công việc và trong cuộc sống. Thu nhập của người này ổn đinh, càng về sau càng tăng lên. Với ý chí phấn đấu kiên cường, luôn hướng vào mục tiêu đã định, người tuổi Dậu còn gặt hái được nhiều thành công hơn nữa.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Tháng 10 (Âm lịch)
Tháng Hợi, vận thế và tài lộc của người tuổi Dậu tương đối ổn định. Cho dù phải chịu nhiều vất vả, họ vẫn vui vẻ và hăng say làm việc. Do vậy, thành quả đạt được cũng xứng đáng với công sức người này bỏ ra. Tháng này, người tuổi Dậu nên chú ý nhiều hơn đến sức khỏe, tránh làm việc căng thẳng, quá sức kẻo bệnh tật ập đến.
Tháng 11 (Âm lịch)
Tháng Tý, khó khăn về tài chính bắt đầu xảy ra với người tuổi Dậu. Thêm vào đó, những chuyện trong gia đình khiến người này càng thêm căng thẳng. Họ không thể tìm ra phương pháp nào thu xếp ổn thỏa mọi chuyện. Lời khuyên cho người tuổi Dậu lúc này là, hãy bình tĩnh để suy xét vấn đề, từ đó, có thể đưa ra được cách giải quyết tốt nhất. Nếu không, mọi việc ngày càng “rối như tơ vò”.
Tháng 12 (Âm lịch)
Với sự nỗ lực của mình, người tuổi Dậu đã giải quyết được mọi khó khăn tài chính trong tháng Sửu. Sự nghiệp dần đi vào quỹ đạo chính, thu nhập tăng lên. Gần kết thúc năm, người này nên có kế hoạch mới cho năm sau. Hơn nữa, họ cần tích trữ một khoản tiền phòng lúc cần thiết. Tháng này, người tuổi Dậu không nên làm người bảo lãnh cho bất cứ ai bởi sau chuyện này họ sẽ gặp phải điều phiền toái.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Kim bạc Kim Quý Mão là con thỏ nơi ruộng mạ (quan điểm ỏ nước ta là con mèo), thường có lòng thương giúp người, cá tính nhanh nhẹn, ưa sạch sẽ, thích tiêu dao tự tại, quan tâm người trên ngưòi dưới, thích cuộc sống thanh nhàn. Kim bạc Kim mạ vàng mâm chén, tăng sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác.
Quý Mão là Kim khí tán, nếu như gặp Hỏa chủ về tán khí, gặp Thủy, Thổ chủ vể cát lợi. Kim bạc Kim là Kim hư bạc, có đức nhân nghĩa, cương nhu hài hòa.
Hai mùa thu, đông cương kiện không hung, cho dù có hung cũng ẩn tàng điềm cát. Hai mùa xuân, hạ chủ về ngoài cát trong hung, trong cát ẩn chứa hung.
Nhập quý cách là ngưòi có chí khí, có danh tiết, anh minh, có thành tựu; mang sát là người hung bạo, khó có được cách cục bình yên.
Kim này rất nhỏ, không có Mộc không có chỗ để nương tựa, không có Thủy không đắc lực. Mộc lấy Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc làm thượng cách. Có Mộc này không nên gặp Hỏa, gặp Hỏa chủ về yểu thọ.
Gặp Hỏa, nếu như là Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa; Giáp Tuất, Ât Hợi Sơn đầu Hỏa phải có thanh Thủy mới tốt.
Nhật trụ, thồi trụ ưa gặp Giáp Thân, Ât Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, nạp âm của nguyệt trụ gặp Mộc mới luận là cát lợi.
Nếu như gặp Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy, Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy chủ về cả đòi phiêu dạt. Gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy chủ về người có những việc làm không theo luân thưòng đạo lý, làm bại hoại thanh danh gia đình.
Riêng gặp Đại hải Thủy, tránh được điềm hung cũng gặp họa tàn tật.
Kim ưa Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim.
Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim; Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ât Mùi Sa trung Kim, không có ích. Duy nạp âm có Hỏa còn được, nếu không cả đời khó tránh điềm hung.
Thổ gặp Mậu Dần, Kỷ Mão Thành đầu Thổ, chủ ăn nhờ ở đậu; duy ưa Kỷ Mão Thành đầu Thổ, là Ngọc thô đông thăng cách.
Gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ còn có thể an thân. Nếu nạp âm có Mộc lại có Giáp Thìn, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, chiếu sáng rực rố, cả đời quyền quý.
Quý lộc tại Tý, Tý Mão phạm hình, chủ về bần cùng, nên cần cù, tiết kiệm.
Quý Dương nhẫn tại Sửu, các Địa chi của trụ khác không nên có Sửụ, phạm chủ về mệnh yểu vong.
Mão mã tại Tỵ, các Địa chi của trụ khác gặp Tỵ, chủ về kết cục phá bại. Các Địa chi của trụ khác gặp Thân, Dần, mã bị hình, không thể kinh doanh.
Mão, Hợi Không vong ở Thìn, Tỵ, các Địa chi của trụ khác không nên gặp Thìn, Tỵ.
Các Địa chi của trụ khác thấy Tỵ e sẽ làm ra việc không có danh dự. Không thấy Tỵ mà thấy Sửu, Ngọ, Mùi cũng nên cẩn thận. Nên giữ mình trong sạch, chố cầu xa xỉ, vọng tưởng mà làm điều phạm pháp.
Quý quý tại Tỵ, các Địa chi của trụ khác thấy Tỵ, chủ cát lợi, phú quý.
Gặp năm Mão, năm Dậu, trong nhà không yên ổn. Bản thân không bị thương hại thì người nhà muôn sự cũng khó được như ý.
Quý Mão bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.
Kim này mỏng như tơ, cho nên phải có Kim khác đến trợ giúp mới là người cương nghị quả cảm. Mộc nhiều chủ về cơ thể yếu ốt, tinh thần mệt mỏi, chí khí không vững vàng.
Cho nên, các trụ khác ưa Kiếm phong Kim, Thoa xuyến Kim, chủ trước nghèo sau giàu, xuất thân nghèo khó nhưng sau làm quan lớn.
Nhật trụ gặp Mùi, khắc bạn đời. Thời trụ gặp Mùi, nên hiến thân cho tôn giáo.
Chàng tuổi Hợi yêu
Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không biết cách chinh phục người con gái mà mình đem lòng yêu mến. Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nhược điểm chính của họ là không thể hiện thái độ rõ ràng trong tình yêu. Điều này thường khiến các cô gái cảm thấy mình không được tôn trọng.
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
1./ Màu sắc móng tay, móng chân tiết lộ về các bệnh tật của bạn?
Nếu bạn nghi ngờ rằng cơ thể mình đang có vấn đề gì, hãy nhìn vào móng tay của mình vì nó có thể cho bạn biết rất nhiều điều.
Theo các chuyên gia y tế, màu sắc của móng tay của mỗi người phản ánh rất rõ nét tình trạng sức khỏe của người đó. Ví dụ móng tay biến màu vàng có nghĩa rằng bạn đang bị bệnh gan, vàng da hoặc rối loạn chức năng phổi.
Nếu bạn quan tâm về màu sắc của móng tay tiết lộ gì về tình trạng sức khỏe của mình, hãy tham khảo qua các trường hợp dưới đây nhé:
Khi móng tay xuất hiện những đốm nhỏ màu đen hoặc nâu. Nó có thể phản ánh bệnh vẩy nến, lupus hoặc thậm chí là bệnh tim.
Có các đường rãnh ngang móng. Điều này chỉ ra rằng móng tay hoặc móng chân đã bị một chấn thương. Nó cũng có thể là dấu hiệu một căn bệnh chẳng hạn quai bị hoặc sởi.
Màu móng tay đổi thành vàng. Điều này là một dấu hiệu tinh tế cảnh báo bạn có thể đang mắc bệnh gan hoặc vàng da. Ngoài ra nó còn có thể là bạn bị một rối loạn chức năng phổi khiến chất chuyển hóa chất thải không đào thải được các chất cặn bã ra ngoài cơ thể một cách hiệu quả.
Móng tay hoặc chân bị cong xuống là phản ánh bạn có thể đang bị bệnh phổi hoặc hiếm khí, asbestosis.
Móng bị lõm xuống. Điều này chỉ ra rằng cơ thể bạn đang bị thiếu sắt hay bị một bệnh liên quan đến gan gọi là hemochromatosis.
Khi móng tay xuất hiện một đường màu đen thế này có nghĩa là cơ thể bạn đang ủ một khối u ác tính hoặc bị ung thư da.
Móng tay giòn dễ gãy. Điều này thường xảy ra khi tay tiếp xúc với các hóa chất trong chất tẩy rửa hoặc chất đánh móng tay. Nhưng nó cũng có thể là triệu chứng của bệnh nhiễm nấm hoặc bệnh tuyến giáp.
Bề mặt móng tay không phẳng mà có những chỗ lấm tấm. Đây có thể là triệu chứng của bệnh viêm khớp, vẩy nến hoặc rụng tóc.
Móng dày bất thường có thể là do nhiễm nấm móng hoặc từ vùng da xung quanh.
Đường màu trắng chạy ngang móng tay. Đường này còn được gọi là đường Muehrcke. Nó chỉ ra mức độ protein trong cơ thể khá thấp hoặc là triệu chứng của bệnh gan và thận.
2./ Những thực phẩm giúp móng tay, chân khỏe đẹp
Sức khỏe của móng phần lớn là do gene quyết định. Tuy nhiên, chế độ ăn uống đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giúp cho bộ móng của bạn trở nên khoẻ đẹp. Đặc biệt trong mùa đông giá lạnh, tình trạng móng tay khô nứt và dễ gẫy càng khiến bạn cảm thấy khó chịu và mất tự tin. Dưới đây là những loại thực phẩm mà các chuyên gia tư vấn, bác sỹ da liễu và bác sỹ thẩm mỹ đã chia sẻ giúp móng tay của bạn thêm chắc khỏe mỗi ngày.
Thực phẩm giàu biotin
Các chuyên gia dinh dưỡng đã nhận định rằng thiếu hụt biotin là một trong những nguyên nhân khiến cho móng tay của bạn dễ gẫy. Chính vì vậy bổ sung những loại thực phẩm giàu biotin như cá hồi, đậu phộng hoặc súp lơ và đặc biệt là chuối là một thói quen nên làm hàng ngày.
Chuối là một trong những loại thực phẩm tốt nhất cho móng tay của bạn vì chuối rất giàu biotin hay còn gọi là vitamin H, một vitamin cần thiết để giúp móng chắc khỏe và tẩy tế bào chết
Thực phẩm giàu protein
Thịt gà không là một loại thực phẩm tốt cho việc giảm cân của phái đẹp vì nó chứa nhiều protein và ít chất béo. Bên cạnh đó, thịt gà còn giúp móng tay bạn khỏe mạnh hơn. Trong thịt gà có 3 chất dinh dưỡng phong phú rất tốt cho sự phát triển của móng đó là protein, vitamin B và đặc biệt là kẽm. Thêm một chút thịt gà với hàm lượng vừa phải vào thực đơn hàng ngày sẽ giúp móng tay của bạn khỏe mạnh và có độ bóng tự nhiên rất đẹp.
Lòng trắng trứng nấu chín lành mạnh và tốt cho móng. Đây là một nguồn protein phong phú cần thiết cho móng tay. Nó có khả năng làm cho lớp keratin của móng dày và chắc hơn. Ngoài ra, lòng trắng trứng cũng cung cấp một lượng biotin đáng kể. Tuy nhiên, trứng sống có một chất kết dính gắn chặt biotin và làm cho cơ thể khó hấp thụ. Vì thế, những người tiêu thụ nhiều lòng trắng trứng sống có thể bị thiếu hụt biotin dẫn đến móng giòn và dễ gãy.
Sữa và các sản phẩm từ sữa như sữa chua và pho mát. Những sản phẩm có nguồn gốc từ sữa rất giàu calci, biotin và protein. Trong khi đó, móng được cấu thành chủ yếu từ keratin, một dạng protein.
Chính vì thế, một chế độ ăn giàu protein sẽ giúp tăng cường lượng keratin cần thiết. Đồng thời, biotin và calci có tác dụng tăng cường độ khỏe của móng và giảm thiểu hiện tượng nứt, gãy móng.
Thực phẩm giàu kẽm
Kẽm không chỉ có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể bạn mà nó còn giúp móng tay của bạn khỏe mạnh, ít bị gẫy hơn.
Do vậy, nếu muốn sở hữu một bàn tay đẹp với những móng tay xinh xắn, bạn nên lưu ý thêm vào bữa ăn hàng ngày của cả gia đình những thực phẩm giàu kẽm như đậu nành, đậu xanh, hạt điều, hạt bí ngô và yến mạch. Các loại hạt này là những nguồn thực phẩm giàu kẽm. Kẽm là một vi chất dinh dưỡng không có sẵn trong thực phẩm. Do đó, thiếu kẽm có thể dẫn đến móng tay giòn và dễ gãy, đồng thời làm xuất hiện những đốm trắng trên móng.
Thực phẩm giàu lưu huỳnh
Trứng gà cũng rất tốt cho móng tay của bạn. Bởi lòng đỏ trứng rất giàu lưu hình, một khoáng chất giúp cân bằng a xít – kiềm trong cơ thể. Ngoài ra, lưu huỳnh cũng có trong một số a xít amin giúp móng tay của bạn chắc khỏe hơn. Do vậy, nếu bạn muốn móng tay mình đẹp và chắc khỏe, hãy đa dạng chế độ ăn với các loại thực phẩm giàu lưu huỳnh như trứng, thịt, các loại hạt, phô mai và cá.
Cá rất giàu Omega 3, đồng thời cung cấp lượng protein và lưu huỳnh lành mạnh cho cơ thể. Cá hồi, cá thu, cá tuyết, cá mòi có hàm lượng cao Omega 3, chất có tác dụng giữ ẩm cho móng và tăng cường độ dẻo dai cho móng mỏng và dễ gãy. Bên cạnh đó, phốt pho và lưu huỳnh trong cá cũng có thể làm dày móng và giúp móng khỏe hơn.
Thực phẩm giàu sắt
Nếu móng tay bạn nhợt nhạt và dễ gãy, có thể là bạn đang bị thiếu sắt. Thiếu sắt là nguyên nhân phổ biến nhất khiến móng giòn và dễ gãy. Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở những người ăn chay bởi nguồn cung cấp chất sắt từ thực phẩm chay không tốt như các loại thực phẩm bình thường. Khi ấy, bạn cần tăng cường các thực phẩm giàu sắt, chẳng hạn như đậu và đặc biệt là gan động vật vì có hàm lượng chất sắt rất cao.
Đối với những người ăn chay hoàn toàn, một chế độ ăn uống có chứa rau bina, đậu lăng, các loại đậu và đường thốt nốt có thể cung cấp một lượng chất sắt phù hợp
Thực phẩm giàu vitamin:
Rau bina có công dụng rất tốt trong việc giúp bạn bảo vệ bộ móng khỏe, chắc nhờ lượng vitamin A, vitamin B, C và folate có trong rau. Không chỉ đem đến cho bạn bộ móng đẹp, chắc khỏe, rau bina còn là thực phẩm rất có lợi cho tổng thể sức khỏe của cơ thể. Do đó đừng bỏ quên loại thực phẩm này vào bữa ăn hàng tuần của mình.
Bạn có thể ăn hoặc bôi dầu dừa lên móng để chăm sóc, nuôi dưỡng bộ móng của mình. Dầu dừa giúp cơ thể tăng cường khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng. Các thành phần trong dầu dừa như vitamin A, D, E, K đều đóng vai trò rất tốt trong việc giúp cho móng tay khỏe, đẹp..
Ngoài việc thường xuyên chăm sóc, bảo vệ bộ móng châm móng tay của mình để có được bộ móng khỏe mạnh, thì ăn bông cải xanh sẽ giúp cơ thể bạn cũng sẽ giúp cơ thể bạn hấp thu protein tốt hơn để nuôi dưỡng móng nhờ acid amin cysteine có trong bông cải. Vì thế đừng bỏ qua loại thực phẩm này nếu có được bộ móng chắc đẹp.
3./ Những thói quen giúp móng tay bạn đẹp hơn mỗi ngày
Để có được bộ móng tay, móng chân khỏe, đẹp đòi hỏi bạn phải có sự chăm sóc tỉ mẩn. Ngoài việc quan tâm đến chế độ ăn uống thì bạn cần chú ý một số hoạt động hàng ngày cũng sẽ giúp cho bộ móng của bạn khỏe đẹp, không bị yếu và gãy. Những thói quen dưới đây sẽ giúp móng tay của bạn luôn khỏe, đẹp hơn mỗi ngày.
Thói quen 1: Giữ tay luôn sạch sẽ
Trước khi làm bất cứ viêc gì bạn cũng nên chú ý đến móng tay. Quan trọng hơn là phải luôn đảm bảo móng tay và vùng da xung quanh luôn sạch sẽ, không còn bụi bẩn. Tiến sĩ Ava Shamban, tác giả của “Sức khỏe làn da” khuyến cáo bạn nên thường xuyên lấy một lượng nhỏ xà phòng để lên bàn chải đánh răng, sau đó nhẹ nhàng chà rửa vùng móng tay và làn da xung quanh. Điều này sẽ loại bỏ bụi bẩn và tẩy tế bào chết trên da mà không cần dung đến hóa chất hoặc các loại cọ đắt tiền.
Thói quen 2: Luôn nhẹ nhàng
Móng tay của bạn rất nhạy cảm, trong mọi tác động bạn cần luôn nhẹ nhàng. Việc chà móng tay quá thô bạo dẫn đến nhiều khả năng chúng sẽ bị nhiễm trùng. Bác sĩ da liễu Janet Brown cho biết, bạn không nên sử dụng các dụng cụ cắt móng tay ở phần dưới móng tay, bởi điều này gần giống như việc bạn đang đào càng ngày càng sâu phần rãnh phía dưới móng tay, khiến phần móng tay dễ bị tách ra khỏi da, dẫn đến tình trạng móng tay bị cong, vểnh lên.
Thói quen 3: Thường xuyên vệ sinh móng tay
Bác sĩ Brown khuyên rằng, hãy thường xuyên vệ sinh móng tay bằng cách cắt, tỉa chúng. Thông thường, mỗi tuần 2 lần bạn nên cắt, tỉa lại móng tay. Tuy vậy, cũng tùy theo mỗi cá nhân, “sức khỏe” của móng tay mà tinh chỉnh chu kì thời gian vệ sinh cụ thể.
Thói quen 4: Không cắt đi lớp biểu bì
Các lớp biểu bỉ có tác dụng rất quan trọng, nó như một lớp bảo vệ, phủ kín bề mặt móng tay, khiến chúng luôn được bảo vệ. Điều này có nghĩa khi bạn cắt bỏ lớp biểu bì này cũng là lúc móng tay của bạn có khả năng dễ bị vi khuẩn xâm hại và dễ bị nhiễm trùng. Lớp bảo vệ không còn, móng tay sẽ trở nên yếu hơn, việc xước, gãy móng tay xảy ra thường xuyên hơn.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ da liễu Debby Palmer, một tuần một lần bạn nên loại bỏ lớp biểu bì chết, sau đó bạn nên dùng kem dưỡng da để phục hồi lớp biểu bì mới.
Thói quen 5: Khử trùng các dụng cụ vệ sinh móng tay
Thuốc khử trùng, dụng cụ vệ sinh móng tay là những thứ bạn cần rất lưu tâm khi “chăm sóc” chúng. Điều này cũng giống như việc bạn thường xuyên phải vệ sinh cọ trang điểm, để loại bỏ vi khuẩn gây hại.
Theo Bác sĩ Brown, để móng tay của bạn luôn khỏe mạnh, cứng cáp, điều quan trọng nhất là bạn phải vệ sinh những vật dụng chăm sóc móng tay thường xuyên. Cụ thể, bạn nên rửa sạch chúng với nước sạch và xà bông, sau đó rửa lại bằng cồn, và nếu một vật dụng vệ sinh móng tay đã quá cũ, bạn đừng ngần ngại mua một cái mới.
Thói quen 6: Hạn chế sử dụng các loại hóa chất, sơn móng tay móng chân.
Cũng như các loại mỹ phẩm thông thường, không phải tất cả các nhãn hiệu sơn móng tay đều tốt. Hãy chắc chắn rằng, bạn đang sở hữu một lọ sơn móng tay chất lượng. Theo Tiến sĩ Debby Palmer, bạn nên tránh xa những nhãn hiệu sơn móng tay có các chất độc hại như dibutyl phthalate, formaldehyde, toluene…, vì những độc tố này khiến móng tay của bạn giòn hơn, dễ rạn nứt và dễ gãy hơn.
Thói quen 7: Hạn chế để tay và móng tay tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời
Khi móng tay và vùng da dưới tay tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời nguy cơ bị ung thư tăng lên bởi tác động của những tia cực tím.
Để giảm thiểu rủi ro này, Bác sĩ Brown khuyến cáo bạn nên sử dụng loại kem chống nắng có chỉ số SPF từ 30 đến 50, đồng thời bảo vệ tay và móng tay khi đi dưới trời nắng. Có thể sử dụng gang tay loại dày để tránh các tia UV có hại. Bạn nên lưu ý, bảo vệ tay và móng tay khỏi những tia UV, tia cực tím có hại, nghĩa là bạn đang trực tiếp bảo vệ sức khỏe của mình trước nguy cơ bị ung thư.
Thói quen 8: Để móng tay được nghỉ ngơi
Vào ngày cuối tuần, bạn có thể thỏa sức khoác lên những màu áo mới cho móng tay, những ngày còn lại nên để chúng được nghỉ ngơi. Theo Tiến sĩ Shamban, khi bạn sơn những màu nổi bật, mạnh mẽ, khả năng móng tay bị khô tăng lên. Theo thời gian móng tay có thể bị ngả vàng, thậm chí làm suy yếu cấu trúc của móng.
Thói quen 9: Sử dụng găng tay để bảo vệ móng
Bạn nên sử dụng găng tay khi phải tiếp xúc nhiều với nước. Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Brown bất cứ khi nào bạn phải làm những công việc liên quan đến hóa chất mạnh như rửa chén, giặt quần áo…,công việc làm vườn, hoặc bất cứ công việc gì liên quan đến nước và có thể làm bẩn tay, bạn nên đeo găng tay bằng cao su, nhựa vinyl, hoặc nhựa nitrile găng tay, và tốt hơn nữa là có một lớp lót cotton.
Việc làm sạch thực phẩm trong nước nóng nóng, nước xà phòng mà không có găng tay có thể làm suy yếu các móng tay. Tương tự như vậy, khi khí hậu trở nên lạnh lẽo, nhớ đeo một đôi găng tay để giữ ấm tay và móng tay. Bởi công việc giữ ẩm cho móng tay rất khó khăn, bạn đừng dễ dàng để cho tay và móng tay bị khô, dễ bong tróc và dễ gãy.
Thói quen 10: Coi trọng sức khỏe hơn làm đẹp
Móng tay dài là đẹp. Tuy nhiên, nếu là người phải thường xuyên lao động nặng, hoặc làm những công việc sử dụng đến phần móng tay nhiều, quan trọng nhất theo tiến sĩ Shamban là bạn nên để móng tay ngắn, cao hơn hoặc bằng so với phần thịt ở đầu ngón tay. Móng tay ngắn thường sẽ có các cạnh tròn hơn, bạn cũng dễ dàng kiểm soát và chăm sóc chúng hơn. Hơn nữa, móng tay ngắn sẽ khiến bạn chỉ tập trung để ý về sức khỏe của chúng mà không có mối bận tâm nào khác. Móng tay đẹp đơn giản chỉ là dạng móng tay có sức khỏe tốt, độ dài tương đồng với các ngón tay còn lại, còn việc độ dài của chúng, bạn không nên quá đề cao.
Thói quen 11: Quan tâm đến chế độ ăn uống
Móng tay của bạn được làm bằng một loại protein đặc biệt gọi là keratin. Vì vậy cũng như làn da hay mái tóc, bạn có thể cải thiện sức khỏe móng tay của mình bằng cách tinh chỉnh chế độ ăn uống hợp lý. Tiến sĩ Falcone khuyên rằng, bạn nên thêm vitamin và các chất bổ sung như biotin, Vitamin E, dầu cá vào thực đơn ăn uống hàng ngày của bạn. Một số loại thực phẩm giàu protein như : đậu, cá, và các loại hạt. Các chuyên gia đồng thời khẳng định, khi bạn kết hợp tốt các chế độ dinh dưỡng này móng tay của bạn sẽ khỏe mạnh và đẹp hơn trông thấy.
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Ảnh minh họa |
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem bói theo ngày sinh, xem ngày tốt chuẩn xác để thuận lợi công việc |
Trong những ngày đầu năm mới, hàng triệu người dân khắp tứ phương lại nô nức hành trình linh thiêng về miền đất Phật, nơi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành. Trong suốt những ngày hội là sự thành kính, hoan hỷ của các bậc cao niên, sự nồng nhiệt của tuổi trẻ cùng du khách trong và ngoài nước khắp nơi tụ về.
Tới thăm Chùa Hương, chúng ta như lạc vào cõi Tiên khi ngồi thuyền trên dòng suối Yến uốn lượn mềm mại, vãng cảnh non xanh núi biếc. Tới đâu cũng thấy các dấu tích lịch sử vẫn còn in trên các triền núi, các hang động, lẫn cả vào thiên nhiên đầy thơ mộng, huyền diệu. Người và cảnh hòa quyện vào nhau càng tạo nên nét riêng rất thơ của Hương Sơn.