Cách xem tướng bàn tay đoán nghề nghiệp của bạn –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Cách tính ngày dương lịch ra ngày can chi:
Mỗi năm dương lịch có 365 ngày, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5 ngày lẻ. Năm nhuận có thêm 1 ngày 29-2 tức 366 ngày, thì công thêmn 6 ngày lẻ. Nếu lấy ngày 1-3 là ngày khởi đầu thì các ngày sau đây trong mọi năm cùng can chi giống 1-3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết ngày 1/3 (hay một trong bảy ngày nói trên) là ngày gì, ta dễ dàng tính nhẩm những ngày bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngày nói trên).
Nếu muốn tính những ngày 1/3 năm sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ 24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngày 29/2).
Thí dụ ngày 1/3 năm 1995 là ngày Tân Mão , từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngày Quí Tị, 27/2/1996 là ngày giáp Ngọ. (1996 có hàng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là năm nhuận có ngày 29/2).
Ta biết 1/3/1996 là ngày Đinh Dậu vậy 24/21997 cũng là Đinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngày. Ta dễ dàng tính ra 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, theo tính nhẩm = Đinh đến Nham hay Dậu đến Dần = 5 ngày.(Xem bài so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bày năm nào nhuận dương lịch và nhuận âm lịch).
Thí dụ: Theo cách tính trên ngày 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, ngày 26/12/1997 cũng là ngày Nhâm Dần, vậy ngày1/1/1998 sẽ là ngày Mậu Thân (sau đó 6 ngày)...
Tuổi Ngọ chủ về hành Hỏa, do đó để phong thủy nhà cửa phù hợp cho người tuổi Ngọ, chúng ta cần chú trọng về phương diện Hỏa.
Về phương hướng.
Nên lấy hướng Nam là hướng chủ đạo cho căn phòng của bạn và tìm cách tăng hỏa khí hướng này. Cách tăng hỏa khí dễ nhất là dùng ánh sáng. Hãy để ánh sáng tự nhiên vào đầy đủ khu vực này. Bên cạnh đó, cố gắng đừng cho các công trình phụ (toilet, nhà kho, nhà bếp…) chắn ở hướng Nam. Tốt nhất bạn nên sắp đặt ban công và cửa sổ quay về hướng Nam để đón thật nhiều ánh nắng vào phòng. Ngoài ra, bạn cũng nên bố trí để tăng hỏa khí ở khu vực hướng Tây – Tây Bắc (Tuất) và Đông – Đông Bắc (Dần).
Về màu sắc.
Màu của hành Hỏa là màu đỏ. Thông thường màu đỏ với ý nghĩa may mắn là biểu tượng của tình yêu lãng mạn, là can đảm nhiệt huyết, là màu của thách thức, đam mê, là màu của sự sống và sự sung túc, giàu có. Nên người tuổi Ngọ cũng nên lấy màu này làm tông màu chủ đạo.

Hãy dùng những gam màu đỏ cho rèm cửa, ga giường và bàn ghế trong phòng. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể xen kẽ một số đồ vật màu trắng (Kim) hoặc xanh lá (Mộc) để tăng thêm độ hài hòa cho không gian quanh mình. Đồ nội thất nên có chất liệu chính bằng gỗ, tránh chất liệu kim loại vì Hỏa khắc Kim, có rất nhiều biến tấu để bạn chọn như gỗ ép, gỗ vân, gỗ phủ sơn mài… Vật phẩm phong thủy cũng nên tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, cam, xanh. Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa. Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.
Về hình tượng Ngọ

Bên cạnh hướng Nam và màu đỏ chủ đạo, yếu tố không thể bỏ qua khi bày trí phong thủy cho người tuổi Ngọ là các hình tượng. Bạn nên trang trí nhà bằng cách trưng bày hình ảnh ngựa (bộ tranh “Mã đáo thành công” chẳng hạn). Bên cạnh đó là các hình tượng ngựa bằng gỗ hoặc kim loại cũng là một sự lựa chọn tốt. Đặt hình ảnh con ngựa trang trí ở khu vực Ngọ trong nhà. Để tăng cường năng lượng của khu vực này, hãy trưng bày hình ảnh con ngựa màu trắng và màu đỏ – đây được cho là gam màu dương. Bạn cũng có thể chọn ngựa gỗ, vì theo ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa.
Bài viết của tác giả Anh-Việt
Lời giới thiệu:
Chúng tôi xin được hân hạnh cống hiến quý bạn tập tự điển Tử Vi, các bạn có thể giải đoán các nét căn bản Tử Vi một cách giản dị, từ đây mà tạo thêm các kinh nghiệm. Sở dĩ ghi thành tự điển theo thứ tự A, B, C, là để các bạn tìm tòi cho dễ lúc thực dụng.
Nhiều bạn có hỏi về các cách giải đoán Tử Vi trong những chi tiết, chúng tôi xin trả lời trong bài “Trả lời Tử Vi” do ban chuyên viên Tử Vi của chúng tôi. Những câu nào có hỏi đến cụ Hoàng Hạc, chúng tôi cũng sẽ ghi rõ.
Bây giờ xin tiếp tục nêu lên những nguyên tắc giải đoán lá số Tử Vi
VĂN XƯƠNG VĂN KHÚC
Là văn tinh, chủ về văn chương, mỹ thuật, cũng chủ về công danh, thi cử.
Ở Mệnh có Xương, Khúc là người đẹp đẽ, thông minh, học giỏi, thích văn chương, nghệ thuật. Ở Mệnh các cô gái, là biểu hiện vừa sự thông minh, vừa sự dâm đãng. Nhưng có những cách xấu thêm vào mới thật là dâm đãng, được các cách tốt chế hóa đi thì lại khá.
Gặp các sát tinh Kỵ, Riêu, mới thật là dâm đãng.
Đến hạn, gặp Xương, Khúc mà không bị phá cách, là thi đậu, thêm danh vọng.
THIÊN KHÔI, THIÊN VIỆT
Là văn tinh, cũng là quý tinh, chủ về công danh, khoa cử, quyền tước.
Ở Mệnh là người thông minh, thích văn chương, học giỏi, nhân hậu. Gặp Hỏa, Linh, Hình lại hỏng, thêm tai họa.
Thiên khôi ngộ Triệt bị giảm nhiều thành cách xấu biểu hiện nạn lớn.
TẢ PHỤ, HỮU BẬT
Là trợ tinh, chủ về quyền, về sự phò tá, sự giúp đỡ. Gặp những sao tốt thì làm cho tốt đẹp thêm. Nhưng bị những sao xấu thì lại làm cho xấu hơn.
LỘC TỒN
Vừa là tài tinh, vừa là quý tinh, phúc tinh. Biểu hiện quyền, lộc, và phúc. Được Lộc Tồn tại Mạng là người thông minh, học giỏi, nhân hậu, ở Tài Lộc, và tránh được các tai họa. Tuy nhiên, Lộc Tồn thường chỉ có một thứ ảnh hưởng. Thí dụ: Tránh được tai họa, thì không giầu… Làm cho thêm phúc thọ và tài lộc.
Người nào có những cách dâm đãng (như Đào, Hồng) được Lộc Tồn thì sự dâm đãng bị chế ngự.
HÓA LỘC
Cũng như Lộc Tồn, vừa là tài tinh, vừa là phúc tinh. Giảm chế các tai họa, làm cho nhiều tài lộc. Ở Tài Bạch và Điền Trạch mà có Hóa Lộc là giầu có.
Ở cùng cung với Lộc Tồn lại kém, vì khắc nhau. Một sao đóng, một sao chiếu là song Lộc, thì tốt. Hoặc hai sao chiếu Mệnh thì tốt.
Gặp Tham, Vũ đồng cung thì tốt.
Gặp các sao xấu như Hao, Kiếp, Không, Thiên Không thì lại hao tán, suy bại, Hóa Lộc mất ảnh hưởng.
HÓA QUYỀN
Chủ về quyền tướng. Có Hóa Quyền tại Mạng là người có quyền.
Gặp các sao tốt thì làm tốt thêm.
Nhưng Quyền gặp các sao xấu, chẳng hơn gì.
HÓA KHOA
Là sao chủ về thi cử và là phúc tinh.
Có Hóa Khoa tại Mạng là người có công danh khoa bảng, thông minh, học giỏi, lại tránh được các tai họa. Hạn gặp Hóa Khoa là được thi đậu, hoặc giải được tai họa. Hóa Khoa cùng với Xương, Khúc, Khôi, Việt là những văn tinh, hướng con người vào nghiệp văn hoặc vào chức nghiệp không phải là võ. Được cả bộ Khoa, Quyền, Lộc là được phú, quý, nhiều công danh và tài lộc. Hóa Khoa không sợ sát tinh.
Tam Hóa liên châu là bộ ba Khoa-Quyền-Lộc đi trong ba cung liền nhau, do đây gặp Mạng, Thân hay một hạn nào đó mà chỉ dính đến một trong ba sao đó, cũng được ảnh hưởng của ba sao. Hóa Khoa không bị sát tinh giảm.
THIÊN MÃ
Thiên Mã là ngựa trời. Chủ về sự lanh lẹ, thay đổi, di chuyển, và có ý nghĩa tài lộc, công danh, phúc thọ. Nhưng Mã sẽ tốt hay xấu là do những sao khác gặp phải.
Mã đóng tại Mạng là người tài. Nếu lại thêm Tử, Phủ đồng cung, là có uy quyền, giầu sang, có phúc thọ. Gặp Nhật, Nguyệt chiếu, hoặc có Lộc Tồn đồng cung, hoặc Lộc Tồn chiếu (Lộc Mã giao trì) cũng có những cái tốt về công danh, tiền tài, phúc thọ.
Mã, Khốc, Khách gặp nhau là ngựa có nhạc, có người cưỡi giỏi, là một cách của người có công danh võ nghiệp, hạn gặp Mã, Khốc, Khách là thăng tiến. Mã gặp Hỏa hay Linh cũng tốt vậy.
Mã gặp Đà thì hỏng, đó là ngựa què, ở Mạng hay ở Quan Lộc thì công danh hay bị gãy. Mã gặp Hình là hiệu báo tai nạn, tai họa. Mã tại Hợi là ngựa cùng đường, hoặc gặp Tuyệt, đều là hiệu bế tắc. Mã gặp Tuần, Triệt là ngựa chết, là tai họa.
LONG TRÌ, PHƯỢNG CÁC
Cặp sao này chủ sự thông minh, nhân hậu, vui vẻ, nếu ở Mạng. Gặp tại Hạn là được gia đạo yên vui, được sáng láng cửa nhà, may mắn, danh tài hưng vượng, có sự cưới hỏi hoặc sự sanh nở tốt.
Cùng với Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, tạo thành quần thần tốt phò tá cho Tử, Phủ.
Gặp Phi Liêm có may mắn và vui mừng nhanh chóng.
TAM THAI, BÁT TỌA
Cặp sao này chủ sự thông minh và thành công. Gặp tại Hạn là được sự may mắn, nhà cửa thêm rộng rãi.
ÂN QUANG, THIÊN QUÝ
Chủ sự thông minh, vui vẻ, nhân hậu, ân nghĩa, từ thiện, và giải được các tai ương, có những may mắn không bị sát tinh giảm chế. Được cặp sao này, thì chế ngự được tánh chất dâm đãng của Đào, Hồng
ĐÀO HOA, HỒNG LOAN
Chủ sự vui vẻ, sự thành công, gia cảnh hưng vượng. Nhưng cũng chủ về sự lẳng lơ của đàn bà, sự đa tình. Chủ về đàn bà con gái: gặp tại Hạn là sự báo hỉ hôn nhân, hoặc sự sanh nở con gái. Cũng chủ về sự thi cử tốt, được công danh, được vui mừng.
Được Đào, Hồng, Hỉ thêm cho Nhật, Nguyệt, càng sáng ra. Đào Hồng đi với Tử, Phủ hay Nhật, Nguyệt thì các sao này tốt thêm.
Cung Mệnh, Thân có Đào, hay Hồng tọa thủ, hai đời vợ hay hai đời chồng. Nhưng có nhiều cách để phá đi. Hoặc gia thêm sát tinh, là kém thọ, nửa đường gẫy cánh. Đàn và có Đào hay Hồng tọa thủ, gia thêm Riêu, Đà, Kị, là người bất chính về tình ái. Hoặc thêm Binh, Tướng, Thai là bị hãm h…, chửa hoang.
THIÊN HỈ
Chủ sự vui vẻ, may mắn. Gặp tại Hạn, là có vui mừng về công danh, thi cử, sanh đẻ, cưới hỏi.
THAI PHỤ, PHONG CÁO
Chủ về công danh, bằng sắc. Gặp tại Hạn, là có lợi về thi cử công danh
QUỐC ẤN
Chủ về công danh, chức vị và quyền hành (có ấn là có quyền). Gặp tại Hạn có lợi cho thi cử và sự cầu công danh. Nhưng gặp Tuần, Triệt lại hỏng việc, vị mất chức, xuống chức.
ĐƯỜNG PHÙ
Chủ sự thành đạt về công danh và về nhà đất cao đẹp hơn. Nhưng gặp Bạch Hổ đồng cung lại chủ sự bắt bớ, tù đầy.
THIÊN THỌ
Chủ sự nhân hậu, từ thiện, thêm phúc thọ.
BÁC SĨ
Chủ sự thông minh, nhân hậu, cứu giải bệnh tật. Gặp tại Hạn là được lợi về sự thi cử, học hành.
LƯU NIÊN VĂN TINH
Chủ về văn chương, sự học, sự thi cử, sự thông minh. Gặp tại hạn là có lợi cho sự thi cử và công danh.
HOA CÁI
Chủ sự thành công, sự quyền quý, lợi cho việc thi cử, và cầu công danh.
Tại Mạng mà gặp Hổ, Long, Phượng, hợp thành bộ Tứ Linh (4 con vật linh), là dấu hiệu phú quý, được công danh, uy quyền.
Nhưng Hoa Cái gặp Mộc Dục, Thiên Riêu là chủ sự dâm đãng.
Mệnh có Hoa Cái, Tấu Thư tọa thủ đồng cung là người thanh cao và thành công.
THIÊN TRÙ
Chủ về sự ăn uống và tài lộc.
THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC QUÝ NHÂN
Chủ về sự đức độ, nhân hậu, từ thiện. Là những sao cứu tật bệnh, họa hại, giải trừ nguy nan, gia tăng phúc thọ.
THIÊN GIẢI, ĐỊA GIẢI, GIẢI THẦN
Là những sao giải trừ tật bệnh, tại họa, và gia tăng phúc thọ. Chủ sự nhân hậu, từ thiện… Người già gặp Giải Thần tại Hạn, thì dễ chết (Giải cái khổ là làm cho mau chết). Điền Trạch, Tài Bạch có Giải Thần thì nghèo (của bị Giải đi).
THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC
Chủ sự đức độ và ngay chính. Giải trừ tật ách nhỏ. Chế ngự được tánh dâm đãng của Đào, Hồng.
THIÊN Y
Chủ sự cứu giải bệnh tật. Nhiều bác sĩ có Thiên Y tại Mạng, Thân, Thiên Di, Quan Lộc. Thêm Thiên Hình là bác sĩ chuyên giải phẫu.
THIẾU DƯƠNG, THIẾU ÂM
Là những sao song hành với Thái Dương, Thái Âm, nhưng chỉ là những trung tinh. Chủ sự thông minh, vui vẻ, nhân hậu, giải trừ tật ách. Thiếu Dương gia thêm sức sáng cho Thái Dương, Thiếu Âm gia thêm sức sáng cho Thái Âm, và phải đồng cung mới được vậy.
Được một trong hai sao đó cộng với Khoa đồng cung, hoặc xung chiếu là được bộ sao giải trừ tai ách, bệnh tật, gia tăng phúc thọ.
LONG ĐỨC, PHÚC ĐỨC
Chủ sự đức độ, nhân hậu, giải trừ các bệnh tật, tai họa nhỏ. Cũng Thiên Đức, Nguyệt Đức, tạo thành Tứ Đức chế được tánh dâm đãng của Đào, Hồng
LỰC SĨ
Chủ về sức khỏe và sự lanh lẹ, uy lực. Đi với những sao tốt làm cho tốt thêm, sự may đến mau hơn. Đi với sao xấu, làm cho xấu thêm và sự xấu đến mau.
THANH LONG
Chủ sự vui vẻ công danh, thi cử, sự cưới hỏi, sanh nở.
Thanh Long tại Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) gặp Kỵ đồng cung là rồng trong đám mây ngũ sắc: đó là cách tốt ở Mạng, chủ về phú quý và may mắn, Gặp Lưu Hà đồng cung là rồng ở sông lớn, cũng tốt đẹp, lợi cho thi cử và sự cầu danh.
TƯỚNG QUÂN
Chủ sự dũng mãnh, uy quyền, chủ tánh ưa quyền hành, gặp lại bạn là tốt cho sự cầu công danh, thi cử (Tướng thường đi với Ấn). Cũng là sao của nhà binh.
Gặp Thiên Tướng, thêm sự uy quyền.
Đàn bà, Mạng có Tướng tọa thủ thì ghen và lấn át chồng.
Tướng ngộ Triệt hoặc Tuần (ngay cung) là tướng mất đầu, bị giáng chức hoặc tai vạ lớn lao, nguy đến tánh mạng, nếu không có gì giải cứu.
TẤU THƯ
Chủ về văn chương, sự vui vẻ, khôn khéo.
HỈ THẦN
Chủ sự vui vẻ, việc mừng, sự cưới hỏi. Gặp tại hạn cùng với Long, Phượng là cửa nhà vui vẻ. Hoặc tốt về thi cử, cầu công danh, cưới hỏi, sanh đẻ.
TRƯỜNG SINH
Gia tăng phúc thọ, tốt cho sanh nở, chủ sự tốt đẹp lâu dài. Tọa thủ tại Dần, Thân, Tỵ gặp Mã là Thiên Mã ngộ Tràng Sinh, chủ sự may mắn, tốt đẹp, có công danh tốt. Gặp Mã tại Hợi lại hỏng, chủ sự trắc trở về thi cử, công danh. Trường Sinh tại Tật Ách, thêm các sao xấu là xấu (duy trừ tật ách).
(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)
a. Cách chức, thôi việc:
Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.
Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.
Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.
Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...
Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương ...
Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.
b. Đè nén, đố kỵ
Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.
Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.
Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.
Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.
Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.
Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.
Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.
Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...
Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.
Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.
Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội.
Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...
4. Họa cho tài sản: thường hay xuất hiện ở hai cung Điền và Tài, ở những cung chiếu Điền (Tử, Tật, Bào), chiếu Tài (Phúc, Quan, Mệnh), cung Thân và các cung Hạn.
a. Những đại họa tài sản:
Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù tội.
Tuần, Triệt đồng cung ở Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây là bộ sao điển hình của vô sản.
Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp, điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.
Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập nước ...
Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo "một kiểng hai huê". ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ. Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.
Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.
b. Những tiểu họa tài sản:
Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà, làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có kế hoạch.
Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ, Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán không phân minh. ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả nhà.
Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng, trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.
Điếu Khách, Văn Xương, Văn Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.
Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện, ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.
Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hà Lan tên là De Groot thì Quan Âm Nam Hải trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự.
Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng Diệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn.
Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
![]() |
Trong thiết kế nhà ở, cửa sổ trong nhà đối nhau được cho là cách cụ không hợp phong thủy. Các nhà phong thủy cho rằng, kiểu bố cục có cửa sổ đối nhau, hoặc cửa ra vào đối với cửa sổ sẽ phá hỏng tài vận trong nhà.
Kiểu bố trí cửa làm tiêu tan tài khí trong nhà
Bố trí cửa sổ hoặc cửa ra vào như trên sẽ làm cho luồng khí dẫn vào phòng tiêu tán rất nhanh, như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của gia chủ và sẽ làm hỏng việc tụ tài khí cho ngôi nhà.
Tiền sảnh ngôi nhà không nên quá trống trải
Tiền sảnh ngôi nhà quá rộng rãi, trống trải tuy giúp nhà thông thoáng mặt tiền nhưng lại không đảm bảo yếu tố tàng phong tụ khí vốn rất quan trọng trong phong thủy. Khi đó, luồng khí trong nhà lưu thông quá nhanh không lưu lại được sẽ dễ làm lọt hết tài khí, gia chủ không giữ được tiền tài, đặc biết rất dễ sinh họa sát thương, huyết quang.
Nhà bị kẹt giữa các tòa nhà cao tầng cũng không tốt
Nếu hai bên cạnh nhà bạn có biệt thự hay tòa cao ốc, gần đấy đang có công trình đang động thổ hay thi công thì đều ảnh hưởng xấu đến tài khí của gia chủ.
Nhà vệ sinh cần đặt đúng góc "hung" của ngôi nhà
Nhà vệ sinh là nơi ô nhiễm nhất, dễ làm hỏng khí tài trong nhà. Đặc biệt, nếu như bạn chẳng may đặt vào vị trí như quan vị, tài vị, hợp tinh vị thì không những không có lợi cho tình cảm vợ chồng mà tài vận của các thành viên trong gia đình của tiêu tán.
Khung cửa cần được sửa chữa kịp thời không để cong, vênh
Khung cửa là trụ cột của 4 mặt cửa, cánh cửa là tự thân của cửa, nếu trên khung cửa hay cánh cửa trong nhà bị cong vênh, rạn nứt thì đồng nghĩa với việc tài vận không vào được nhà mà cùng thần (thần nghèo) sẽ gõ cửa.
Cửa sổ chính mở ra hướng đối diện với đường hay là dòng sông
cũng sẽ không tốt với tài vận của gia chủ.
Cửa sổ chính trong nhà không nển mở ra phía đối diện dòng sông hoặc con đường, vì dòng xe cộ trên đường hay dòng nước trên con sông mà hướng thẳng vào cửa sổ nhà bạn thì sẽ bị phạm “xung tâm thủy”, không những không tốt cho tài vận mà còn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
(Theo Kienthuc.net)
![]() |
Khi thiết kế, tạo hình bên ngoài cửa hàng, ngoài việc xem xét đến tính hài hoà của tỉ lệ kết cấu kiến trúc ra, còn phải chú ý đến sự hài hoà của tạo dáng vẻ bên ngoài cửa hàng với cảnh trí tự nhiên của khu vực xung quanh.

Phong thủy học cho rằng: Vạn vật trong vũ trụ đều tiềm tàng sinh khí, cảnh trí núi non sông nước đẹp đẽ thể hiện sinh khí dạt dào, tương phản với nó là tàn viên đổ nát chính là tử khí ứ đọng. Trong khu vực cảnh đẹp núi sông, sự lưu động của khí là thông thuận, còn trong khu vực hoang tàn đổ nát thì sự lưu động của khí bị trở ngại.
Theo lý thuyết của phong thủy học, khi xem xét quan hệ của tạo dáng bên ngoài cửa hàng với cảnh trí tự nhiên của khu vực xung quanh, phải có ý thức đến sự thống nhất, hài hoà, nhịp nhàng giữa dáng vể bên ngoài cửa hàng với cảnh trí tự nhiên đẹp đẽ. Ý thức được như vậy có nghĩa là thuận theo sự lưu thông khí của vũ trụ, chính là làm cho cửa hàng hoà nhập với sinh khí của giới tự nhiên. Cửa hàng đạt trong cảnh trí tự nhiên đẹp đẽ thì có được sinh khí của giới tự nhiên phong phú, có thể thu hút được nhiều khách hàng, làm ăn kinh doanh thịnh vượng, phát đạt. Còn ngược lại, cửa hàng đặt ở môi trường tồi tệ, hoang tàn, đổ nát thì sẽ dẫn đến việc kinh doanh buôn bán vất vả trầy trật.
Từ góc độ kinh doanh buôn bán hàng hoá mà nói: Cửa hàng có cảnh trí đẹp làm nền thì có thể mang lại cho mọi người một hình tượng đẹp. Đặc biệt việc quán rượu kinh doanh du lịch, quán rượu cảnh sắc đẹp đẽ, sẽ nghênh tiếp được du khách tham quan liên tục không ngừng.
Có được môi trường tốt của cảnh trí tự nhiên đẹp đẽ, còn phải xem xét đến kiến trúc của cửa hàng cho hài hoà với nó. Nếu như không chú ý đến tính hài hoà đó thì cũng chẳng khác nào sẽ làm mất đi cái vốn có của khu vực sinh khí của cảnh trí tự nhiên đẹp đẽ.
Làm nhà, mua nhà là việc lớn trong đời, ngôi nhà không chỉ là tài sản có giá trị mà còn là nơi an cư lập nghiệp, quyết định phồn vinh hưng thịnh của một gia đình.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nhân tướng học là gì?
Tuổi Tuất: Gồm có các tuổi sinh năm: 1946 – 1958 – 1970 – 1982 – 1994 – 2006. Những người tuổi tuất đang thắc mắc nên treo tranh gì cho hợp phong thủy? Hãy đọc bài viết sau để có thêm kiến thức về phong thủy nhé!

Nội dung
Tuổi Tuất khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:
Mẫu đơn hoa 8 bông, mẫu đơn hoa 9 bông là cực phẩm tranh của người tuổi Tuất; hoặc treo tranh hoa điểu; tranh sơn thuỷ thuộc diện bình bình chỉ có giá trị trấn trạch an gia.
Ngày một vinh hiển, phú quý dài lâu, chuyển nguy thành an, thay đổi vận số, khiến cho sự nghiệp, công việc gặp trắc trở thành thuận lợi. Tặng người trung tuổi, thanh niên tặng nhau dịp cưới hỏi thể hiện lời chúc mẹ tròn con vuông, hoa khai phú quý, rất lợi cho hôn nhân…
Phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ hay thư phòng đều hợp; nên treo hướng đông, đông nam hoặc theo mệnh cung phong thuỷ của chủ nhân. Tốt nhất nên theo hướng dẫn của chuyên gia phong thuỷ.
Cổ nhân nói , giàu nghèo ở khuôn mặt mà ra. Khi xem tướng mặt, yếu tố khá quan trọng đó chính là Nhân Trung. Nhân trung là khoảng lõm giữa mũi và miệng, hãy xem nhân trung của bạn giống với hình dáng nào dưới đây

Nhân trung như hình số 1: - Nhân trung dài
Trong cuộc sống của bạn, bạn sẽ có rất nhiều cơ hội để trở nên giàu có. Trong buôn bán làm ăn đầu tư khá hợp với bạn, sẽ mang lại nhiều lợi lộc, tiền tài cho bạn
Nhân trung như hình số 2: - Nhân trung ngắn
Điều phù hợp với bạn là có một công việc ổn định và tiết kiệm tiền. Bạn tin rằng tiền bạc không mua được hạnh phúc, đó là lý do tại sao bạn không thực sự quan tâm đến số tiền mà bạn đang có.
Nhân trung như hình số 3: Nhân trung lồi
Sức khỏe của bạn rất tốt, bạn có thể làm nhiều việc cùng một lúc, nhưng một trong số đó phải là công việc bạn ưa thích hoặc dễ làm, có lẽ một cơ hội tốt đẹp sẽ đến với bạn vào một ngày nào đó
Nhân trung như hình số 4: Có nốt ruồi hoặc sẹo
Bạn không may mắn có nhiều tiền. Thu nhập từ công việc của bạn không phải là nhiều và bạn có thể phải vay tiền. Tuy nhiên sẽ có người ra tay giúp đỡ bạn, lòng tốt này không thể mua được bằng tiền và không phải ai cũng có, vì vậy bạn nên cảm thấy may mắn.
Nhân trung như hình số 5: Có râu ở nhân trung
Bạn có thể tìm thấy một công việc với thu nhập cao, bạn rất may mắn. Tuy nhiên bạn thường chi tiêu hoang phí, nên bạn không thể tiết kiệm được tiền.
|
| Ngựa pha lê |
nên đặt các vật trang trí có hình ngựa ở hướng Nam, vì phương Nam thuộc Hỏa, sẽ tạo thành thế “lửa đốt cửa trời”. Phạm phải điều kỵ này rất dễ dẫn đến những tình huống bất lợi sau đây:
- Người trong nhà dễ bị tật bệnh ở phần đầu như đau đầu, chóng mặt.
- Con cái không hiếu thảo, thường xung đột với cha mẹ.
- Người trong nhà dễ mắc chứng bệnh ho khan do phổi nóng.
Phương pháp hóa giải khá đơn giản: chuyển các vật trang trí này sang vị trí khác, các vấn đề bất lợi tự nhiên sẽ biến mất.
Cần đặc biệt chú ý rằng, nếu trong nhà có người tuổi Tý thì càng không nên đặt những vật trang trí có hình ngựa tại hướng Nam, nếu không, người tuổi Tý rất dễ bị đau ốm. Bởi vì phương chính Nam xung khắc với chuột, lại là hướng do ngựa làm chủ, đặt ngựa ở hướng Nam sẽ gia tăng lực xung khắc này.
(Theo Bát trạch Minh Kính)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)

– Sân sau phải được quét dọn thường xuyên thì con cái trong nhà mới thông minh.
– Ở hướng “thanh long” của sân sau không được có bể phân hóa học, nhưng có thể xây phòng vệ sinh.
– Không chất đống gạch đá, cối đá hay dây rợ lằng nhằng.
– Ở vị trí trung tâm, có thể làm thác nước hoặc bể chứa nước, nhưng không được lắp đặt hệ thống lò đun nước nóng.
– Không trồng quá nhiều cây để hạn chế ẩm ướt và âm khí quá nặng.
– Không trồng cây to, vì cây to quá sẽ chắn ánh sáng làm sân bị tối, gia đình không được bình an.
– Không trồng các loại hoa có gai.
– Nếu chăn nuôi gia súc thì phải thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, trong nhà mới được yên ổn.
– Tường bao sân không thấp hơn hoặc cao hơn nhà 1 thước (của cải ít).
– Nguồn nước không nằm chính giữa sân.
– Bệ đá hay bệ xi măng đặt chậu hoa phải đặt nằm ngang, không đặt thẳng đứng.
– Không khí trong sân phải được lưu thông thì gia đình mối đầm ấm, hạnh phúc.
Xét về phong thủy, một khoảng ao nhỏ trong vườn rất cần thiết để tăng thêm năng lượng sống cho không gian ngôi nhà và mang lại bầu không khí tự nhiên. Nó được coi như một thứ "trang sức" tô đậm nét cho nét duyên dáng cho vườn nhà. Một chiếc ao, một khe nước nhỏ trong sân vườn còn mang đến những điều tốt đẹp và sự an lành cho mái ấm của bạn.
Ngoài ra, việc có mặt nước sẽ giúp điều hòa làm mát mẻ bầu không khí hơn, đặc biệt vào mùa hè khi thời tiết nắng nóng.
Không quá khó để thiết kế một ao nhỏ trong khu vườn. Với mỗi không gian nhà ở, sẽ có một kiểu mẫu phù hợp nhất. Dưới đây là một số hình ảnh gợi ý dành cho bạn.















người đông rất khó để tránh được việc hai nhà có cửa đối diện nhau vậy làm sao để hạn chế cũng như tránh vận xấu khi có nhà có cửa đối diện nhau. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây của Tuvikhoahoc.com để có cách hóa giải phù hợp nhất cho căn nhà của mình nhé.
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”.

Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Với cửa chính 2 nhà đối diện nhau làm sao để hóa giải phong thủy xấu trên đây hy vọng các bạn sẽ hóa giải được điều xấu khi nhà mình có cửa chính đối diện với nhà hàng xóm. Tuy đơn giản nhưng chắc chắn mang lại hiệu quả cao trong thuật phong thủy giúp hạn chế điều xấu mang lại tài lộc niềm vui cho cả gia đình đấy.
Sinh ngày Tý: Là người có tài lộc nhưng do bị sao Kiếp Sát, Chiếu Quân, Thái Tuế chiếu mệnh nên số vất vả, long đong, hay gặp chuyện cãi cọ.
|
| (Ảnh minh họa) |
Sinh ngày Sửu: Người sinh ngày này nhờ có sao Tử Vi chiếu mệnh nên mọi việc tất thành, có quyền chức, một đời thuận lợi, may mắn.
Sinh ngày Dần: Người sinh ngày này bị sao Bạch Hổ, Chỉ Bối chiếu mệnh nên mọi việc phải hết sức thận trọng, nhất là trong việc kết giao bạn bè.
Sinh ngày Mão: Nhờ có sao Thiên Hỷ chiếu mệnh nên có số cát tường, cuộc đời thuận buồm xuôi gió, mưu sự tất thành, dựng nghiệp nhanh chóng. Đôi khi cũng gặp phải chuyện phiền toái, cãi cọ.
Sinh ngày Thìn: Là người có số cô độc, sự nghiệp trôi nổi, cuộc sống bất ổn.
Sinh ngày Tỵ: Người tuổi Ngọ sinh vào giờ này thường ít may mắn. Sức khỏe yếu, số phải đi xa nhưng cũng không được yên ổn.
Sinh ngày Ngọ: Nhờ có sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên Tuổi Ngọ sinh vào ngày này thường có quyền cao chức trọng, tiền của dồi dào, gia đình hưng thịnh.
Sinh ngày Mùi: Ngày này có sao Thái Dương chiếu mệnh nên số phải làm việc nơi xa, tuy nhiên mọi sự đều diễn ra thuận lợi, tốt đẹp.
Sinh ngày Thân: Là người có số cô đơn, được sao Dịch Mã chiếu mệnh nên có tài vận tốt.
Sinh ngày Dậu: Được sao Hồng Loan, Thái Dương chiếu mệnh nên có số may mắn, cuộc sống vui vẻ, phúc lộc vẹn toàn.
Sinh ngày Tuất: Là người thông minh, học giỏi, danh tiếng. Tuy nhiên, số hay bị tiểu nhân quấy rối nên khó thành nghiệp lớn.
Sinh ngày Hợi: Sinh ngày này có số kinh doanh buôn bán không thuận, tài vận có lúc thất bại nhưng nhờ được sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên cứu vãn được phần nào.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh . Thuật coi bói chỉ tay là nghệ thuật tìm hiểu tương lai qua các đường chỉ tay. Đó là một thuật pháp có nguồn gốc từ thời xa xưa. Chắc chắn bạn không dưới một lần tò mò liệu những đường chỉ tay có thực sự mang những chỉ dẫn vận mạng của mình. Hãy cùng Xem Tướng chấm net tìm hiểu thử thuật tiên đoán này nhé.

Chạy từ cườm tay tới chân ngón giửa. (coi thêm phần gò Đồng Hỏa tinh)
- Láng & mềm: thuộc Thái âm. - Mập, dẹp, có lổ nhỏ: Kim tinh.
- To lớn: Mộc tinh. - Cứng & đỏ: Hỏa tinh.
- Ốm & tối: Thổ tinh. - Mềm & hơi vàng: Thủy tinh.
- Thật mềm, thật nhỏ và mỏng: thiếu sinh lực, suy nhược và mơ mộng xa vời.
- Đẹp & nhăn: Thái dương.
- Có nhiều chỉ gò nổi cao: hay lo nghĩ, suy tính.
- Trủng (paume creuse): điềm xấu, thiếu can trường tranh đấu, thiếu kiên nhẫn, khó thắng vận thời. Cho vay thường bị giựt.
- Phẳng lỳ, không có gì nổi rõ: dửng dưng, thiếu sức khoẻ.
- Rộng: có óc phân tích tỉ mỉ.
- Rộng, bằng phẳng: óc cầu tiến, tìm tòi.
- Nhỏ hẹp: óc tính toán, tế nhị.
- Dài: (dài hơn ngón giửa): thông minh, ít nghĩ đến chi tiết, chỉ nghỉ đến việc lớn lao.
- Nhỏ: (vắn hơn ngón giửa) tế nhị, khéo léo, có trực giác, giàu lý trí, ưa lý sự.
- Lòng bàn tay và ngón giửa bằng nhau: tính quân bình, sáng suốt, thông minh, công bình.
- Lòng bàn tay dài hơn ngón giữa: thông minh, không để ý những chi tiết nhỏ nhặt.
- Sắc ấm: nóng tính, hay gắt gỏng.
- Sắc lạnh: tình duyên trắc trở.
- Sắc khô: thần kinh dao động.
- Màu đỏ, nóng và khô: yếu tim.
- Trơn ướt: hay thương vay khóc mướn.
- Vừa nóng vừa ướt: yếu bộ hô hấp.
- Lạnh: yếu tim.
- Nóng: coi chừng gan, cơ thể bị chứng nhiệt.
- Ướt mồ hôi: thê thấp, ưa an nhàn, nhạy cảm, hay xúc động.
- Dầy, bao đầy thịt: ưa ăn ngon, tiện nghi vật chất.
- Lép: ghen, hà tiện.
- Vung thịt, ngón tay lại ngắn: kém trí óc.
- Thịt cứng: hoạt động, có sức chịu đựng, siêng năng.
- Mềm: thiếu sinh lực, lười và hay mơ mộng viễn vông.
- Không cứng không mềm: ưa tiện nghi nhưng không lười biếng.
- Cứng: có sức chịu đựng, nóng tính.
- Cứng & hay gãy: sức khoẻ & trí thông minh kém.
- Mềm (có thể thêm mỏng): hiền hậu, hay uể oải, sức khỏe kém, thiếu chất vôi, có thể tiểu đường.
- Mỏng manh: kém nghị lực.
- Dầy, vồng lên: hướng nội, cằn cổi.
- Nổi vồng theo chiều dài: thận yếu.
- Vung lên: khí quản nở.
- Khởi lên từ sau tới trước: gan yếu.
- Khum: tế nhị, ưa thẩm mỷ.
- Bằng: lao lực, tối dạ.
- Cong quắp như móng chim: tham, ghen tỵ, ích kỷ.
- Xấu và đục như dơ dáy, cứng, hơi dầy, bề ngang rộng, chân ngắn: gian xảo, hay nghi kỵ.
- Cùn mằn, xấu: sức khoẻ kém, nóng tính.
- Bóng láng: tính tao nhã.
- Quá bóng: nhạy cảm, bất an.
- Móng quập: thích tình dục, hung tợn, yếu phổi.
- Dẹp (phẳng): nhát, yếu tinh thần.
- Dẹp mềm: nữ: đau buồng trứng.
- Dẹp tròn: lá lách yếu.
- Dài: tốt bụng, rộng lượng, thật thà, nhưng hay khinh đời, phòng bị gạt vì cả tin.
- Dài (>1/2 chiều dài lóng có móng): tình cảm sắc sảo, kín đáo, hiền, khôn ngoan có sức khoẻ, cương quyết, sáng suốt, ưa chỉ huy, nếu lại rộng: bớt các tính trên, thiên sang thực tế, biết liêm sỉ.
- Quá dài: suy nhuợc, hô hấp yếu.
- Dài hẹp: suy nhược.
- Dài rộng: tiềm lực dồi dào.
- Ngắn: hay tranh luận , ưa bút chiến, chỉ huy, có kỷ luật, công chức gương mẩu. Tim yếu, có thể hay bị động kinh.
- Ngắn: tỷ mỷ, hà tiện, kém thông minh, hay ngạo nghễ. (nữ: nếu có thêm Tâm đạo rõ: tính khó, chồng con không ai chịu nổi), bới lông tìm vết. Móng ngắn mà phía dưới tròn: cón có chút lòng nhân; nếu phía dưới vuông: có tính sâu độc.
- Rất ngắn và rất nhỏ: hẹp hòi, tự đắc, ghen tỵ.
- Ngắn và hẹp: bụng hẹp hòi.
- Móng ngón cái ngắn hơn 1/2 lóng 1ngón cái: tính ưa cằn nhằn, khó khăn, nhỏ mọn. Nếu ngón cái lớn: có lòng nhân nhưng vẫn có tính cằn nhằn, khó khăn.
- Rộng: cau có.
- Bao đầy thịt: thích vui vật chất.
- Tròn như mặt đồng hồ: người nguy hiển nên xa lánh, khó tránh đau phổi.
- Có vết trắng: nóng tính, có may mắn.
- Vết đen: điềm bất tường.
- Màu tái: lười biếng.
- Đỏ hay đỏ hồng: nóng, hăng hái.
- Hồng, láng bóng: hăng hái.
- Màu sậm: móng lại hay gãy, mỏng, lóng ngắn: đa nghi, ganh tỵ.
- Xám lợt: tham và lười.
- Trắng: ích kỷ.
- Tím: bị ngộ độc hay bị táo bón.
- Điểm trắng hồng là xấu.
- Xanh bầm, xám nhạt: bạc nhược, thờ ơ.
- Xanh xám: yếu đuối.
- Vệt đen: vận rủi
- Nổi hột gạo: vận may (trong thời kỳ có hột gạo) nhưng cơ thể thiếu bồi bổ.
- Nổi hột cườm (?) trắng: ở cuối móng: có việc xảy ra trong vòng 2,3 tháng; ở giữa móng: việc sắp xảy ra; ở đầu móng: việc đã qua.
- Hột cườm trên ngón cái: có người cho quà.
- Hột cườm trên ngón trỏ: có chuyện vui.
- Hột cườm trên ngón giữa: chuyện buồn.
- Hột cườm trên ngón áp: có chuyện tình cảm.
- Hột cuờm trên ngón út: có cơ hội đi du lịch.
- Hình chử nhật: công bằng, liêm khiết, thực tế, có lương tri. Nếu dài và rộng: nhát, phản ứng chậm.
- Hình trái soan và dài: phong lưu, quý cách, đa cảm, quảng đại, tế nhi, thông minh. Nếu hẹp tưởng tưởng quá mức thành không tưởng.
- Hình thang (phía dưới rộng): tưởng tượng quá độ, hoang đường. Nếu phía dưới hẹp: kín đáo, dè dặt, tự trọng, đức độ, cứng cỏi. (có sách nói: hình thang: vui tính)
- Hình tam giác: nóng nảy, hay gây gỗ và cố chấp. (có sách nói: vui tính), nếu lõm xuống: bị xúc động thần kinh.
- Hình ô liu: tim
Có 5 vành trăng ở 5 ngón: sức khoẻ tốt, càng ít vành trăng đó: sức khoẻ kém dần. Không có vành trăng: bạc nhược, sức khoẻ kém.
Hành: Mộc
Loại: Cát Tinh
Đặc Tính: Khoan hòa, bệ vệ, học hành, khoa giáp, quý hiển, tốt lành
Tên gọi tắt thường gặp: Tọa
Là một phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Tam Thai và Bát Tọa. Gọi tắt là bộ sao Thai Tọa. Phân loại theo tính chất là Đài Các Tinh.
Tướng Mạo: Bát Tọa là cằm, phần hạ đỉnh trên tướng mặt.
Tính Tình: Bát Tọa ở Mệnh là người khôn ngoan, phúc hậu, thích thanh nhàn.
Tam Thai, Bát Tọa, Mộ: Đây là cách gọi là Mộ trung Bát Tọa, chủ sự quý hiển làm nên, nhất là khi cả ba sao được tọa thủ ở bốn cung Tứ Mộ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Cách này ở cung Mệnh hay cung Quan là thích hợp.
Sao Tam Thai, sao Bát Tọa, sao Đào Hoa: Nếu ở cung Quan thì tài đắc quan từ lúc tuổi trẻ, ra làm việc sớm. Việc tiếp giáp Thai, Tọa cũng tốt như Thai Tọa tọa thủ.
Ý Nghĩa sao Bát Tọa Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ danh giá, có tiếng.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Phúc Đức:
Được hưởng phúc, họ hàng đông người, danh giá, có người làm nên sự nghiệp.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Điền Trạch:
Gia tăng sự thuận lợi về mưu cầu nhà cửa.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Quan Lộc:
Gia tăng sự thuận lợi về mưu cầu công danh, thi cử, chức vụ, học hành.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Nô Bộc:
Bè bạn đông đảo, và có danh chức.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài có oai phong.
Được người mến chuộng.
Có quý nhân giúp đỡ.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Tật Ách:
Giải trừ được tai nạn, bệnh tật nhỏ.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Tài Bạch:
Gia tăng sự thuận lợi, dễ dàng khi mưu cầu về tiền bạc, lợi lộc, có quý nhân giúp đỡ.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Tử Tức:
Gia tăng số lượng con cái, con cái có công danh sớm.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Phu Thê:
Người hôn phối danh giá, có tài năng.
Ý Nghĩa Bát Tọa Ở Cung Huynh Đệ:
Gia tăng số lượng anh chị em, có người danh giá, làm nên sự nghiệp.
![]() |
![]() |
Nếu bạn đang tìm mua một căn hộ chung cư mới thì các tiêu chí bạn cần quan tâm chắc chắn sẽ rất khác so với khi tìm mua một ngôi nhà bình thường. Dù vậy, bản chất của nguyên tắc phong thủy tốt vẫn không thay đổi. Hiểu được thế nào là năng lượng tốt sẽ có ích rất nhiều khi bạn quyết định bắt đầu cuộc “săn nhà”.
Nghiên cứu thật kỹ những lời khuyên phong thủy dưới đây để hiểu tường tận lý do thực sự ẩn đằng sau mỗi lời mời chào và chọn mua được căn hộ ưng ý:
Địa điểm và năng lượng của tòa nhà
Năng lượng của tòa nhà ảnh hưởng đến năng lượng của căn hộ nằm trong đó. Vì bạn không kiểm soát được lối vào của tòa nhà nên cần lựa chọn sáng suốt. Tòa nhà có lỗi vào sạch sẽ, đủ ánh sáng, tọa lạc ở nơi an toàn, thân thiện luôn luôn là lựa chọn khôn ngoan nhất.
Đối với các tòa nhà chung cư, cửa chính là cái lớn, cái bao trùm. Cửa chính tốt sẽ góp phần làm cho toàn bộ căn nhà đón được nhiều khí cát lành. Rất nhiều người băn khoăn cửa chính ở đây là cửa của căn hộ hay cửa của tòa nhà. Câu trả lời là cửa căn hộ.
Ngoài ra, nhiều người còn kén chọn từ con số của tòa nhà hay căn hộ nhưng thực tế điều này không mấy quan trọng theo phong thủy.
Vị trí và số tầng của căn hộ
Nếu có thể, bạn nên chọn một căn hộ ở tầng cao một chút. Lý do rất rõ ràng, đó là càng lên cao thì căn hộ của bạn càng chịu ít áp lực, nguồn năng lượng phong thủy cũng nhẹ nhàng hơn. Những căn hộ ở tầng cao luôn đón được nhiều ánh sáng hơn cũng như có tầm nhìn đẹp hơn, sự lưu thông khí bên trong nhà cũng tốt hơn.
Tốt nhất, bạn nên tránh những căn hộ đối diện trực tiếp với cửa thang máy hoặc cầu thang. Hãy chọn một căn hộ nằm bên ngoài khu vực “bận rộn”, nhiều người đi lại để đảm bảo sự yên tĩnh, riêng tư trong cuộc sống. Ngoài ra, dù cửa của căn hộ đối diện với hướng đẹp, may mắn hay không thì bạn cũng cần phải quá bận tâm.
Bố cục và dòng chảy năng lượng của căn hộ
Kiểm tra bố cục, dòng chảy năng lượng bên trong một căn hộ chung cư là việc làm rất quan trọng. Bởi vì sau này, nếu muốn thay đổi bố cục ban đầu để có phong thủy tốt hơn có thể sẽ rất tốn kém hoặc đơn giản là không thể thực hiện được.
Hãy chắc chắn nguồn khí lưu thông một cách thuận lợi, mượt mà. Cần lưu ý đặc biệt đến WC và bếp vì đó thường là những không gian đã được bố trí sẵn rất khó thay đổi trong căn hộ chung cư.
Những căn hộ mở cửa nhìn ngay thấy bếp cũng bị hao tổn về tiền tài theo quan niệm: "Khai môn kiến táo, tiền tài đa hao". Gặp những căn hộ như vậy, có thể dùng quầy bar che chắn để tạo sự kín đáo.
Bạn có thể điều chỉnh dòng chảy bằng cách kê lại đồ nội thất trong nhà và sử dụng phụ kiện trang trí phong thủy.

Hãy đọc chậm dãi, và ghi nhớ những điều sau đây, trong sổ tay cá nhân hay trong tiềm thức của bạn. Bạn hãy nhớ rằng…
1. Sự hiện diện của bạn là món quà của cả thế giới.
2. Bạn là duy nhất và không ai giống bạn cả.
3. Cuộc sống của bạn hoàn toàn phụ thuộc theo mong muốn của bạn.
4. Hãy biết tận hưởng trọn vẹn một ngày.
5. Hãy đếm những điều mà bạn hạnh phúc, đừng đếm những điều phiền muộn.
6. Bạn sẽ vượt qua được tất cả mọi thứ, dù có khó khăn đến đâu.
7. Có hàng tá câu hỏi và câu trả lời trong chính bạn.
8. Hãy trở nên có hiểu biết, can đảm và mạnh mẽ.
9. Đừng tự tạo những giới hạn cho chính bản thân bạn.
10. Có nhiều giấc mơ đang chờ được thực hiện.
11. Những quyết định cũng không kém phần quan trọng như những cơ hội mà bạn có.
12. Hãy vươn đến đỉnh cao của chính bạn, vươn tới ước mơ và khát vọng.
13. Không gì làm lãng phí năng lượng của bạn hơn là ngồi một chỗ và lo lắng về hàng tá chuyện.
14. Một người kiên nhẫn có thể chấp nhận một việc thậm chí còn hơn cả bản chất của sự việc đó.
15. Đừng biến bất cứ điều gì trở nên trầm trọng.
16. Hãy sống một cuộc sống thanh bình, đừng sống một cuộc đời tiếc nuối.
17. Hãy nhớ rằng một tình yêu nhỏ có thể đi cả một quãng đường dài.
18. Cũng hãy nhớ rằng nhiều thứ sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quay trở lại.
19. Hãy nhớ rằng tình bạn là một sự đầu tư khôn ngoan.
20. Cuộc sống thật quý giá khi người ta ở bên nhau.
21. Hãy nhận ra rằng mọi thứ không bao giờ là trễ cả.
22. Hãy thực hiện những điều bình dị theo những cách phi thường nhất.
23. Hãy luôn nhớ về gia đình, luôn có những ước mơ, hy vọng và niềm hạnh phúc trong cuộc sống.
24. Thời gian luôn chuyển động và hãy ước rằng, một lúc nào đó, ta sẽ vươn tới những vì sao.
Cuộc sống gia đình sẽ có những lúc gặp nhiều trở ngại, và bạn cảm thấy mọi thứ thật khó khăn. Những lúc như vậy, hãy nghĩ đến 13 điều này, nó sẽ giúp bạn bình tâm mạnh mẽ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống
Đức Phật có một câu nói rất nổi tiếng: ‘Sự kháng cự của bản thân với những gì xảy ra xung quanh tạo nên sự đau khổ của bạn’. Dành một chút thời gian để nghĩ về điều này. Sự đau khổ của chúng ta chỉ xảy ra khi chúng ta cố gắng chống lại bản chất của mọi việc.
Nếu bạn có thể thay đổi điều gì thì hãy hành động ngay đi! Hãy thay đổi nó! Nhưng nếu bạn không thể thay đổi được thì bạn có 2 sự lựa chọn: một là chấp nhận và để nó đi, hoặc hai là tự làm cho cuộc sống trở nên khổ sở và bị ám ảnh bởi điều đó.
Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình. Nếu bạn nghĩ điều gì đó là một vấn đề thì suy nghĩ và cảm xúc của bạn sẽ trở nên tiêu cực. Nhưng nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể học hỏi được từ điều đó, ngay lập tức nó sẽ chẳng còn là một vấn đề nữa.
Bạn không biết rằng mọi người trên thế giới đều đang sống hỗn độn và căng thẳng sao? Và chẳng phải nó to tát bởi vì trong lòng họ đang hỗn loạn cả sao? Phải, chính là như thế. Chúng ta thích cái suy nghĩ rằng sự thay đổi của hoàn cảnh sẽ thay đổi con người. Nhưng nhìn theo chiều ngược lại – chúng ta cần thay đổi bản thân trước khi hoàn cảnh thay đổi.
Bạn nên xóa ngay từ ‘thất bại’ ra khỏi từ điển của mình đi. Tất cả những người vĩ đại từng đạt được bất cứ thành tựu nào đều đã từng thất bại hết lần này đến lần khác. Thực tế thì tôi nhớ Thomas Edison đã từng nói như thế này: ‘Tôi không thất bại 10000 lần, tôi chỉ biết được 10000 cách mà nó không hoạt động’. Nắm lấy cái gọi là ‘thất bại’ của bạn và học hỏi từ nó. Hãy học cách làm nó tốt hơn ở lần sau.
Tôi biết rằng điều này thì đôi lúc thật là khó tin. Nhưng đó là sự thật. Thường thì khi bạn nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ thấy được tại sao một vài điều không thành hiện thực đôi khi lại là chuyện tốt. Có thể công việc mà bạn không được nhận sẽ lấy đi của bạn rất nhiều thời gian dành cho gia đình nhưng công việc bạn được nhận đã cho bạn một quỹ thời gian linh hoạt hơn. Hãy cứ tin rằng mọi việc diễn ra theo cái cách chính xác nó được cho rằng sẽ diễn ra.
Khoảnh khắc này sẽ không bao giờ quay lại và mỗi khoảnh khắc đều chứa đựng điều gì đó quý giá. Vì thế đừng để nó qua đi mà bạn không hề để ý! Nó sẽ sớm chỉ còn là một ký ức. Mọi khoảnh khắc dù không vui vẻ nhưng một ngày nào đó nhìn lại bạn sẽ cảm thấy nhớ chúng.
Giống như lời của một bài hát đồng quê của Trace Akins ‘Bạn sẽ nhớ điều này… Bạn sẽ muốn điều này quay lại. Bạn sẽ ước những ngày này đã không trôi qua quá nhanh như thế… Bây giờ có thể bạn không biết đâu, nhưng một ngày nào đó bạn sẽ nhớ nó…’
Hầu hết mọi người sống với ‘suy nghĩ gắn bó’. Điều này có nghĩa là họ gắn mình với những mong muốn và khi họ không đạt được, cảm xúc của họ rơi tụt xuống mức bi quan. Thay vào đó, cố gắng luyện tập một ‘suy nghĩ không lệ thuộc’.
Điều này có nghĩa là khi bạn muốn điều gì đó, bạn vẫn sẽ cảm thấy vui vẻ kể cả khi bạn có đạt được nó hay không. Bạn vẫn giữ được cảm giác vui vẻ hay ít nhất là bình thường.
Nỗi sợ có thể là một người thầy. Và vượt qua những nỗi sợ hãi có thể còn khiến cho bạn cảm nhận được mùi vị của sự chiến thắng. Ví dụ, khi tôi còn ở đại học, tôi sợ phải nói trước đám đông (một trong 3 nỗi sợ của tất cả mọi người).
Vì thế bây giờ tôi cảm thấy thật là hài hước khi tôi không chỉ nói trước một nhóm người mỗi ngày như là một giảng viên mà tôi còn giảng dạy môn nói trước đám đông! Chúng ta chỉ cần luyện tập để vượt qua nỗi sợ hãi. Sợ hãi thực sự chỉ là ảo giác thôi. Nó tùy thuộc vào mỗi người.
Bạn có thể tin có thể không, nhưng tôi biết rất nhiều người không có phép bản thân được tận hưởng niềm vui. Và họ thậm chí không biết là làm thế nào để trở nên vui vẻ. Một vài người thì gắn bản thân quá chặt với những vấn đề và sự hỗn độn của mình đến nỗi mà họ thậm chí không thể biết được họ sẽ là ai nếu không có những thứ ấy.
Vì thế hãy cố gắng cho phép bản thân được tận hưởng niềm hạnh phúc! Ngay cả khi đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi thì tập trung vào niềm vui thay vì sự gian khổ của bản thân là điều vô cùng quan trọng.
Nhưng nếu bạn so sánh bản thân mình, hãy so sánh mình với những người có hoàn cảnh kém hơn bạn.
Bạn cần phải ra khỏi con đường của mình. Bạn chỉ là một ‘nạn nhân’ của những suy nghĩ, lời nói, hành động của riêng mình. Chẳng ai làm gì bạn cả. Bạn là người tự tạo ra kinh nghiệm cho mình. Nhận trách nhiệm về bản thân và nhận ra rằng bạn không thể vượt qua được những giai đoạn khó khăn.
Bạn chỉ cần bắt đầu với việc thay đổi những suy nghĩ và hành động của mình. Hãy từ bỏ tâm lý nạn nhân và trở thành người chiến thắng. Từ nạn nhân thành NGƯỜI CHIẾN THẮNG.
“Và điều này sẽ nhanh qua đi’ là một trong những câu nói mà tôi yêu thích. Khi chúng ta bị bế tắc ở một tình huống xấu, chúng ta nghĩ rằng sẽ không có lối thoát. Chúng ta nghĩ rằng sẽ không có gì thay đổi. Nhưng đoán thử xem? Nó sẽ thay đổi! Không có gì là vĩnh viễn trừ cái chết.
Vì thế hãy thoát ra khỏi lối mòn của suy nghĩ rằng mọi thứ sẽ mãi mãi như thế này. Chúng sẽ không như thế. Nhưng bạn cần phải làm gì đó để thay đổi mọi thứ. Nó sẽ không tự xảy ra một cách kỳ diệu đâu.
Những điều kỳ diệu xảy ra mỗi ngày. Thực sự là như thế. Tôi ước rằng có đủ không gian để tôi viết ra những điều kỳ diệu xảy ra với những người mà tôi biết – từ việc chữa được ung thư giai đoạn 4 một cách tự nhiên đến việc thấy bạn tri kỷ xuất hiện từ đâu đó.
Tin tôi đi: những chuyện như thế xảy ra suốt ngày. Bạn chỉ cần tin rằng nó sẽ xảy ra. Một khi bạn làm được như vậy, bạn sẽ chiến thắng trận đấu.