Mơ thấy chậu cảnh: Tình yêu của bạn cần được quan tâm bảo vệ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Đây là điển cố thứ Tám trong quẻ Quan Âm, mang tên Bùi Độ Hoàn Đới (còn gọi là quẻ Bùi Độ Trả Đai). Quẻ Quan Âm Bùi Độ Hoàn Đới có bắt nguồn như sau:
Điển cố “Bùi Độ trả đai” bắt nguồn từ vở tạp kịch “Bùi Độ hoàn đới” của Quan Hán Khanh đời Nguyên, vở kịch này viết về câu chuyện Bùi Độ đời Đường nhặt được của rơi mà không lấy, cứu mạng người khác, cuối cùng thi đỗ Trạng nguyên.
Bùi Độ (765 – 839) khi chưa làm quan, do cha mẹ đều mất, gia cảnh bần hàn, lại không muốn theo chồng của dì là Vương Viên ra ngoài buôn bán, chỉ có cách nương náu trong miếu sơn thần, may có vị trưởng lão trong miếu cho ăn cơm chay mà sống qua ngày. Từng có một đạo sĩ xem tướng cho Bùi Độ, đoán rằng mệnh của Bùi Độ sẽ bị chết bất ngờ. Lúc này, có quan Thái thú họ Hàn do làm quan thanh liêm, nên bị quốc cữu (bố vợ của vua) là Phó Bân vu oan, giam vào ngục, Hàn phu nhân và con gái là Quỳnh Anh khổ cực xoay sở tiền bạc để cứu Hàn Thái thú, may được Thái phỏng sứ của triều dinh là Lý Bang Ngạn tặng cho đai ngọc giúp đỡ.
Khi Quỳnh Anh đi qua miếu sơn thần, không may làm rơi mất đai ngọc, Bùi Độ vô tình nhặt được. Mẹ con họ Hàn đang hết sức tuyệt vọng, thì Bùi Độ đem đai ngọc trả lại, nhờ đó ba người trong nhà Hàn Thái thú đều được cứu. Đúng lúc Bùi Độ tiễn mẹ con họ Hàn ra cổng, thì miếu sơn thần sụp đổ, Bùi Độ thoát được cái chết bất ngờ chỉ trong gang tấc. Sau đó Bùi Độ lên kinh ứng thí, thi đỗ Trạng nguyên, lại cùng Hàn Quỳnh Anh kết duyên vợ chồng.
Câu chuyện “Bùi Độ trả đai”, nếu nói theo cách hiện đại, đã phản ánh được tinh thần “nhặt được của rơi trả người đánh mất”; theo cách nói ngày xưa, là đã tích được âm đức. Vào lúc Bùi Độ lâm chung, còn có một sự tích “trả đai” khác.
Khi Tiết độ sứ Hoài Tây là Ngô Nguyên Tề làm loạn, triều đình phái quân đội đi đánh dẹp, qua nhiều năm vẫn chưa dẹp yên. Các đại thần cảm thấy chi phí cho quân đội tiêu hao quá lớn, kiến nghị bãi binh. Hoàng đế Hiến Tông trong lòng lo lắng, nhưng không còn cách nào khác. Lúc đó, Bùi Độ dũng cảm bước lên, xin được đích thân đốc chiến. Hoàng đế cảm kích mà hỏi: “Khanh thực sự nguyện vì trẫm mà liều mình dấn thân vào nguy hiểm ư?” Bùi Độ cảm động rơi lệ, dập đầu mà đáp: “Thần thề không đội trời chung với giặc!”
Khi dấy binh, Bùi Độ nói với vua Hiến Tông rằng: “Chủ lo thần nhục, vì nghĩa liều thân, nếu chưa lấy được đầu giặc, thần chẳng quay về!” Nhà vua cảm động đến rơi nước mắt, đích thân đưa tiễn Bùi Độ, đến cửa Thông Hóa Môn, vào lúc chia tay, nhà vua tháo chiếc đai “thông thiên tê” ở thắt lưng tặng cho Bùi Độ, để thể hiện ý khích lệ.Chiếc đai “thông thiên tê” của vua Hiến Tông được làm bằng sừng tê giác và ngọc quý, không chỉ rất quý báu vô cùng, mà còn có ý nghĩa rất lớn. Chiếc đai ấy đã cùng Bùi Độ tung hoành ngang dọc, tiêu diệt được quân phản loạn Ngô Nguyên Tế, đi cùng Bùi Độ trong suốt con đường chinh chiến lập công.
Bùi Độ về già lâm trọng bệnh, lại nhớ đến chiếc đai “thông thiên tê”. Hoàng đế Hiến Tông, người ban tặng chiếc đai cho ông, sớm đã băng hà, vị vua hiện tại là hoàng đế Văn Tông, Bùi Độ quyết định mang chiếc đai vua ban trả lại cho hoàng đế Văn Tông, ông nằm trên giường bệnh, lệnh cho tùy tùng viết bản tấu. Do tùy tùng không tìm được câu từ thích hợp, khiến Bùi Độ không hài lòng, bèn sai con cháu ghi lại lời nói của mình: “Bảo vật trong cung này là do tiên đế ban tặng cho thần, thần giờ đây đã gần đất xa trời, vừa không dám mang chôn theo xuống đất, lại không thể để vật đó trong nhà, vì e sẽ lưu lạc trong dân gian, nên thần gói lại, xin trả về hoàng thượng”. Lời nói vừa dứt chưa được bao lâu thì ông qua đời.
Bản tấu này của Bùi Độ lời lẽ khéo léo hợp tình, khiến người đời càng thêm kính phục nhân cách của ông.
nhiều yếu tố.
Trong khoa học phong thủy, nếu biết khéo léo vận dụng Ngũ hành cho không gian giếng trời, sẽ đem lại sự hài hòa và cân bằng về trường khí cho nội thất.
Với vai trò phân bố ánh sáng và thông thoáng cho nhà, giếng trời thường được bố trí tại trung tâm của mặt bằng nhà (trung cung).

Đây là khu vực mang đặc tính của hành Thổ, cân bằng vói các hành khác theo nguyên tắc Hỏa thăng – Thủy giáng – Thổ bình hòa hoặc Mộc chuyển – Kim ẩn – Thổ trung dung.
Bốn hành còn lại trong Ngũ hành đều lấy Thổ làm cầu nối để tăng giảm, qua lại tương tác với nhau thông qua vật liệu, màu sắc, đường nét của những không gian trống mà giếng trời là đặc trưng. Từ đó, cách bố trí nội thất sẽ cân nhắc tính chất Ngũ hành để điều chỉnh cho hài hòa. Ví dụ như một cầu thang lượn có hồ nước đặt dưới gầm là dạng Thủy vượng, sẽ khó sử dụng và gây ẩm thấp. Còn nếu đặt hồ nước ấy trong giếng trời, cho nước chảy trên tường, có ánh sáng trực tiếp chiếu xuống thì Thổ sẽ khắc Thủy vượng, dương sẽ bù âm, giảm được tù đọng tối tăm, tăng sự mát mẻ cho không gian.
Gặp dạng nhà mặt bằng méo mó, giếng trời nên đặt vào các góc méo theo dạng hành Hỏa (góc nhọn) để trả lại hình vuông vức cho nội thất (Hỏa sinh Thổ). Khi cần tiết kiệm diện tích, giếng trời có thể kết hợp với ô trống giữa hoặc bên cạnh cầu thang. Cách làm này tất nhiên không thông thoáng trực tiếp bằng giếng trời độc lập, nhưng khi trên nóc thang có cửa trời dạng chéo (Hỏa sinh Thổ) thì khả năng luân chuyển nội khí vẫn tốt và có thể trang trí vách cầu thang thành một trục nhấn toàn nhà.
Trường hợp nhà có cầu thang đi về một bên và đổi tầng, hoặc dạng cầu thang lệch tầng sẽ tạo thành dạng giống trời xiên (cũng thuộc hành hỏa) thuận tiện về giao thổng và tầm nhìn thông thoáng cũng tốt hơn.
Bố trí Ngũ hành cho giếng trời cần quan sát không gian bên cạnh là không gian gì, có đặc tính Ngũ hành nào để điều chỉnh và dùng chất liệu cho phù hợp.
Với những nhà thấp tầng hoặc chủ nhà không muốn đặt phòng thờ trên lầu cao thì giếng trời có mái là nơi phù hợp nhất để đặt phòng thờ, vừa tiện việc hương khói mỗi ngày (thoát hơi nóng dễ dàng) vừa không bị các không gian khác ở phía trên tác động xuống bàn thờ bên dưới. Đặc tính Thổ của giếng trời còn giúp phòng khách (cũng thuộc Thổ) có thể mở rộng sinh hoạt sang khoảng trống này, nhất là đối với nhà trệt hoặc biệt thự.
Nếu giếng trời bên cạnh phòng ăn (thuộc Mộc), thì có thể dùng cây cảnh, suối nước để có Mộc và Thủy tương sinh. Nếu mở giếng trời thông thoáng cho phần bếp thì nên bố trí theo dạng ống hút thẳng đứng (Mộc sinh Hỏa) nhưng trên đỉnh phải có mái che tránh mưa tạt. Có thể dùng mái bằng gắn kính lấy sáng hoặc mái dốc nghiêng (Hỏa) để tạo hiệu ứng ống khói hút nhiệt lên cao, không lan tỏa khói mùi sang các phòng khác.
Khi giếng trời kế bên phòng ngủ thì cách bài trí lại thiên về tính Thủy và Mộc bằng cách tạo trang trí nhẹ nhàng, màu tươi sáng. Những giếng trời để trơ trọi hoặc bọc khung sắt quá dày luôn không tốt bằng những giếng trời để thoáng có vật liệu gần gũi với thiên nhiên (Thổ, Mộc hoặc Thủy) và khung hoa sắt bảo vệ vừa đủ, có đường nét tạo hình sinh động cũng như biến giếng trời thành điểm nhấn nổi bật cho nội thất.
![]() |
Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại.
Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là: Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn.

Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết: “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.
Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết: “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.
Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất giỏi.
Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục (221- 263), Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng.
Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh (với như Mã Tốc, Ngụy Diên).
Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng (ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…). Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình.
Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được.
Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm (1 giáp) nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa.
Tương truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát Lượng:

Còn đây là bài luận giải của cụ Thiên Lương:
Ở bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh (181 – 234 sau Công Nguyên) lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.
“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”
Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách: “Khô mộc phùng xuân” (cây khô gặp được mùa xuân), với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là: Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!
Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra: Đại vận (10 năm), niên vận (1 năm), nguyệt vận (1 tháng), nhật vận (1 ngày), thời vận (1 canh giờ). Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc: “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tố:
Thiên thời: Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận định
Địa lợi: Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình: Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả (nếu có) thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá sản.
Nhân hoà: Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết định.
Thông thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công danh.
Quân sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán”
Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành: “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn vẹn.
Theo sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu (năm 181 dương lịch). Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi (âm Thổ) cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp: “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” (nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai). Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách: “Nhật Nguyệt chiếu hư không”: Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương (thuộc Hoả), Thiên Lương (thuộc Mộc) mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả (Thái Dương) nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều này.
Với cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm (Thuỷ) với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi (thuỷ Mã) mới thực là thần diệu: Nó không còn là “cùng đồ mã” (ngựa hết đường chạy) mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài (cung an Thân), sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi (thuộc Mộc) bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim (Tỵ, Dậu, Sửu) khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều (sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp) mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến chốn.
Cuối đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp: Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng: “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!”
– Khảm trạch mở vào cung Càn hoặc Càn trạch mở vào cung Khảm phạm vào Lục Sát: Chủ nam nữ dâm loạn, thanh gia không tốt, chủ đạo tặc, tai nạn thai sản.
– Chấn trạch mở vào cung Càn hoặc Càn trạch mở vào cung Chấn phạm Ngũ Quỷ, sao Ngũ Quỷ thuộc Hỏa sinh cung Chấn – Mộc nên càng xấu hơn. Càn Kim khắc Chấn Mộc chủ thương tử, hại cho cha gia chủ hỏa tai, đạo tặc, quan quỷ lao ngục, cha con bất hòa.

– Càn trạch mở vào Tốn cung, hoặc Tốn Trạch mở vào Càn cung phạm Họa Hại. Càn Kim khắc Tốn Mộc hại cho trưởng nữ, chủ tai nạn thai sản, nam sinh bệnh tật, huynh đệ bất hòa. Sao Họa Hại – tồn thuộc Thổ sinh cho Kim cung nên có tiền nhưng dễ mắc bệnh tật tai họa.
– Càn trạch mở vào Ly cung hoặc Ly trạch mở vào Càn cung phạm Tuyệt Mệnh. Ly – Hỏa khắc Càn – Kim, sao cung lại tương khắc chủ hại cho cha già, thiếu phụ gặp tai ương, hỏa hoạn đạo tặc, phá gia tuyệt tự.
– Khảm trạch mở vào Cấn cung hoặc Cấn trạch mở vào Khảm cung phạm Ngũ Quỷ. Thủy Thổ tương khắc, chủ tai họa, tà ma xâm hại, tự tử, hỏa tai, quan trường bất lợi, nam tử bất hiếu, hại cho trung nam dễ tự tử, yểu vong, xuất hiện quả phụ.
– Khảm trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Khảm cung phạm Tuyệt Mệnh. Mẫu khẩc tử, chủ trung nam bất hòa, phụ nữ sinh khó, sẩy thai, bại tài, quan phi khẩu thiệt, mắc bệnh tì vị, âm vượng dương suy, tôi tớ sẽ nắm quyền trong nhà.
– Khảm trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Khảm cung là phạm vào Họa Hại: sao khắc cung chủ trung nam bất lợi, quan phi khẩu thiệt, nữ dễ mắc sản nạn. Ngoại cung Đoài Kim sinh nội cung Khảm thuộc Thủy nên tử tôn tuy giàu có nhưng dễ mắc bệnh hoặc tàn tật cuối đời.
– Cấn trạch mở vào Chấn cung hoặc Chấn trạch mở vào Cấn cung là phạm Lục Sát. Cấn – Thổ khắc Lục Sát – Thủy, nữ bị sản nạn, thiếu nam thiểu vong, nhân khẩu ít, bệnh tật ôn dịch hoành hành.
– Cấn trạch mở vào Tốn cung hoặc Tốn trạch mở vào Cấn cung là phạm vào Tuyệt Mệnh. Mộc Thổ tương khắc, cung mở cổng cửa khắc cung tọa nên sẽ bất lợi cho thiếu nam, phụ nữ đọa thai bệnh tật, phá tài, chủ nhân sinh chơi bời, phá bại.
– Cấn trạch mở vào Ly cung hoặc Ly trạch mở vào Cấn cung là phạm vào Họa Hại. Sao và cung tuy tương sinh, nội cung sinh ngoại cung chủ cha con bất hòa, dâm loạn.
– Chấn trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Chấn cung nên phạm vào Họa Hại chủ dâm loạn, cung tương khắc cung, hao tổn tiền bạc, nhân đinh suy thoái.
– Chấn trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Chấn cung là phạm Tuyệt Mệnh, còn gọi là hai phương Long Hổ, Kim Mộc giao chiến, hại cho trưởng nam, trưởng nữ, quan phi đạo tặc xảy ra và cung tương khắc.
– Tốn trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Tốn cung phạm vào Ngũ Quỷ. Cung khắc cung cha mẹ nhiều tai họa, sản nạn hỏa tai, nữ nhân nắm quyền do âm thịnh dương suy.
– Tốn trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Tốn cung phạm vào Lục Sát. Cung khắc cung hại cho trưỏng nam, con cháu điên loạn, phá bại, dâm loạn.
– Ly trạch mở vào Khôn cung hoặc Khôn trạch mở vào Ly cung phạm Lục Sát. Cung khắc sao, Thủy Hỏa Thổ tương khắc hỗn chiến nên tán tài, hại gia súc, đọa thai, gia đình hỗn loạn.
– Ly trạch mở vào Đoài cung hoặc Đoài trạch mở vào Ly cung phạm Ngũ Quỷ. Sao cung tương khắc, hại cho nữ nhân, cha mẹ ly biệt, tán tài, bệnh tật.
Phong tục thờ bánh chưng vào dịp Tết là sự thể hiện nét văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, được nhân dân lưu truyền từ thời Hùng Vương (đời thứ Sáu) cho đến ngày nay, đồng thời giải thích ý nghĩa biểu trưng (khuôn hình) của bánh chưng, bánh giầy (bánh tét, bánh tày) (sẽ được bàn ở phần dưới). Hơn hết, phong tục này còn là sự khẳng định tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.
1. Biểu trưng của vũ trụ - nhân sinh quan
Những ý nghĩa biểu trưng về vũ trụ - nhân sinh quan qua bánh chưng, bánh giầy được thể hiện từ tên gọi, hình thể cho đến nguyên liệu làm nên nó. Trước hết, tìm hiểu bánh chưng với tư cách như một thuật ngữ. Ngỡ tưởng loại bánh này trong quá trình nấu chín, người ta phải luộc lên, nhưng nếu là "luộc" thì có gì đáng bàn. Song gọi là bánh chưng có thể rơi vào trường hợp: trong quá trình nấu bánh, người ta không cho nước tiếp xúc với vật liệu được luộc (tức là bánh), thì ắt có lẽ là hình thức hấp hoặc chưng (nấu cách thuỷ). Bởi vậy, giải thích cho tên gọi bánh chưng theo cách này có vẻ rất hợp lí.

Mặt khác, với quan niệm nhân sinh thì đây là một trong những tín ngưỡng phồn thực của người Việt Nam, bánh giầy tượng trưng cho sinh thực khí nam giới (Linga); bánh chưng, tựng trưng cho sinh thực khí nữ giới (Yoni). Tín ngưỡng phồn thực này, mới nghe tưởng như dung tục, nhưng xét cho cùng, nó rất phù hợp với quan niệm của người Việt thời tiền sử. Con người thời đó quá "bé nhỏ", yếu ớt trước thiên nhiên huyền bí.
Người ta thường áp hai bánh chưng, hoặc hai bánh giầy với nhau thành từng đôi một, thể hiện mong ước, quan niệm nhân sinh của con người rằng trong cuộc đời cần có đôi có cặp để sống với nhau đến đầu bạc răng long. Như vậy, chỉ qua hình thức của bánh và cách bày trí nó thôi, cũng đủ cho chúng ta thấy người Việt rất sâu sắc giàu quan niệm về vũ trụ, nhân sinh.
Còn ruột và nhân bánh có hàm ý biểu trưng gì chăng? Nhân bánh được nếp phủ xung quanh và phía ngoài lại được lá bao bọc, tượng trưng cho sự biết ơn công lao cha mẹ sinh thành đã thương yêu con cái mà đùm bọc, chở che, khác nào áo choàng lấy thân vậy!
2. Bánh chưng - niềm tự hào ẩm thực Việt
Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại: mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,... đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã tạo nên một không khí, không gian rất "Tết"!
Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông thật mĩ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Đó là loại thức ăn vừa độc đáo, vừa gần gũi. Độc đáo ở chỗ: là loại bánh do chính người Việt Nam (Hoàng tử Lang Liêu - đời Hùng Vương thứ 6) sáng tạo nên (theo cách giải thích huyền sử về nguồn gốc bánh chưng). Từ xưa tới nay, bánh chưng, bánh giầy Việt Nam không lẫn, không phỏng theo bất kỳ thứ bánh nào của các quốc gia khác. Nó là loại thức ăn rất gần gũi với người Việt Nam, được làm nên từ những nguyên liệu không đến nỗi hiếm hoi trong dân gian như: gạo nếp, thịt heo, hành, tiêu, đậu xanh, lá dong rừng (hoặc lá chuối, lá tre...), lạt giang...và có khi thêm những nguyên liệu phụ như: quả chùm phù (lúc chín có màu đỏ), quả gấc... để tăng phẩm màu cho nhân bánh thêm đẹp.
Ngẫm ra, phong tục truyền thống thờ cúng và thưởng thức bánh chưng ngày Tết của người Việt Nam thật lắm điều thú vị. Nó vừa mang nét văn hóa tín ngưỡng tâm linh, vừa mang nét văn hóa ẩm thực. Cả hai cùng quyện lẫn vào nhau trong một chỉnh thể cân xứng giữa một bên là vẻ hình thức bề ngoài, một bên là những nguyên liệu bên trong của bánh chưng. Chỉnh thể cân xứng, thống nhất đó được thể hiện bằng "quy trình": gói, thờ cúng và thưởng thức bánh chưng như sự mặc định sở hữu về một trong những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày cuối cùng của tháng Chạp hàng năm, mọi người từ miền xuôi cho tới miền ngược, từ ven biển, đồng bằng cho tới vùng cao, từ nông thôn cho tới thành thị, thậm chí cả những kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đều hòa chung bầu không khí an lành: đón Tết Nguyên đán. Mọi người lại hồ hởi bắt tay vào công việc gói bánh bánh chưng thờ Tết. Nếu những gia đình ở đô thị vì bận công việc, buôn bán, không có thì giờ để gói bánh chưng thì họ lại đặt mua. Thế là "thịt mỡ", "dưa hành", "câu đối đỏ", mai (đào), kẹo, mứt, rượu cùng bánh chưng xanh lại được bày biện lên bàn thờ của nhà nhà trên dải đất hình cong chữ S này trong một nét văn hóa, một nét phong tục truyền thống đặc trưng rất Việt Nam: đón Tết cổ truyền và thờ bánh chưng xanh.
Theo lamsao.com
Đường sự nghiệp kết thúc ở đường sống
Nếu đường sự nghiệp kết thúc khi nó chạy gần tới đường sống thì nó cho thấy chủ nhân luôn làm việc theo cảm tính. Thường đưa ra những quyết định chủ quan mà không màng tới người xung quanh nghĩ gì. Những người này nếu làm lãnh đạo thì ắt hẳn nhân viên dưới quyền sẽ phải khó khăn để có thể chiều lòng được sếp. Nhưng họ lại là những người mạnh mẽ, cứng rắn và có đầu óc chiến lước nên phần đa có một sự nghiệp khá vẻ vang.
Đường sự nghiệp kết thúc ở đường tình duyên
Nếu đường sự nghiệp kết thúc ở đường tình duyên, thì phải nói rằng sự nghiệp của người chủ nhân luôn bị ảnh hưởng với chuyện tình cảm. Có nghĩa là, họ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chuyện tình cảm để quyết định công việc của mình. Ví dụ: họ sẵn sàng dừng lại sự nghiệp của bản thân để chạy theo tiếng gọi của tình yêu hoặc đơn giản là sẽ rất mất tập trung khi làm việc nếu đang gặp vấn đề rắc rối trong chuyện tình cảm. Do đó mà sự nghiệp của những người này phần nào cũng lên xuống thất thườn và không có chiều hướng ổn định.
Đường sự nghiệp đứt đoạn
Đường sự nghiệp có nhiều nét đứt đoạn chưng tỏ công việc của chủ nhân không hề ổn định. Họ là người có xu hướng dịch chuyển và thích thay đổi. Luôn muốn tìm kiếm những điều mới lạ và được trải nghiệm nhiều điều thú vị của cuộc sống. Chính vì thế mà họ không ngần ngại thay đổi công việc để có thể tìm ra cho mình niềm đam mê đích thực.
Hai đường sự nghiệp chạy song song
Nếu lòng bàn tay xuất hiện hai đường sự nghiệp chạy song song với nhau, điều này chỉ ra rằng họ có cơ hội thành công lớn ở nghề nghiệp thứ hai. Hoặc không phải những ngành nghề theo đúng chuyên môn của họ, hay nói cách khác là họ sẽ sống với “nghề tay trái”. Những người này có xu hướng đam mê kinh doanh và có nhiều tài lẻ.
Đường thử thách trong sự nghiệp
Đường thẳng bắt đầu từ đường sống và đi lên là những biểu hiện khó khăn thử thách trong công việc mà chủ nhân có thể gặp phải. Đây có thể coi là những chướng ngại vật thử thách ý chí cũng như khả năng của chủ nhân. Nếu vượt qua những thử thách này, sự nghiệp của bạn sẽ có những bước tiến đáng nể. Sẽ gặt hái được nhiều thành công và thu lại nhiều kết quả hơn cả mong đợi. Nếu đường này chạy thẳng tới ngón trỏ thì được gọi là đường mơ ước. Có nghĩa là chủ nhân sẽ gặp nhiều may mắn, những dự định và mong muốn sẽ thành trở thành hiện thực.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo.
Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; Mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần trở thành tục lệ.
Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tài” nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp “Gả bán” liền nhau.
Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này.
Một công ty phát triển không chỉ nhờ vào năng lực của nhân viên và khả năng của người lãnh đạo mà còn cần biết các kiến thức phong thuỷ sau:
Kiến thức phong thủy. Thiết kế văn phòng cần phải tránh những điều sau đây để công việc kinh doanh được thuận lợi.
1. Không nên thuê văn phòng ở những nơi có nhiều công trình đang thi công

Vị trí của văn phòng nên chọn ở những mảnh đất thông thoáng, không nên đặt cạnh những ngôi chùa đền, dưới cầu treo hoặc những nơi đang khởi công xây dựng hay đào đường…
Những tác động về địa hình ở xung quanh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm ăn kinh doanh của công ty.
2. Không nên dùng ghế rocking trong văn phòng
Ghế rocking (còn gọi là ghế bập bênh) được sử dụng phổ biển bởi mẫu mã đa dạng và trọng lượng nhẹ. Mẫu ghế bập bênh ngày nay được nhận ra qua nhiều biến đổi thiết kế và vật liệu đa dạng.
10 điều cấm kỵ trong phong thủy văn phòng, Không gian đẹp, phong thuy van phong, phong thuy cua van phong, phong thuy cho van phong, van phong, phong thuy

Hiện nay có rất nhiều văn phòng, công ty sử dụng loại ghế này để làm việc. Ghế rocking rất tiện lợi cho phòng làm việc ở nhà bởi nó có thể dùng để thư giãn đầu óc bằng cách đung đưa ghế.
Tuy nhiên, ở văn phòng công ty, đặc biệt là đối với những người lãnh đạo thì không nên sử dụng loại ghế này. Theo phong thuỷ truyền thống quan niệm, sử dụng ghế rocking sẽ làm cho sự nghiệp của bạn cũng như công ty trở nên chông chênh và kém phát triển.
3. Không nên giữ những đồ vật sứt mẻ, han gỉ
Trong văn phòng, không nên giữ lại những chiếc cốc, lọ hoa đã quá cũ và bị sứt mẻ, không nên để lại những sản phẩm bằng kim loại đã bị han gỉ bởi theo quan niệm, nếu để đồ vật sứt mẻ hoặc han gỉ không chỉ làm thất thoát, rò rỉ tiền bạc mà còn cản trở sự giàu có và vươn lên của công ty.
4. Không nên trồng cây cảnh tuỳ theo sở thích của cá nhân
Không gian văn phòng có nhiều người sẽ làm cho không khí trong phòng trở nên ngột ngạt, cản trở luồng khí tốt lành lưu thông trong phòng. Chính vì thế cần phải trồng nhiều loại cây xanh để cải thiện môi trường và tạo không gian đẹp, thoáng đãng.
Điều đó sẽ hoàn toàn đúng nếu bạn trồng những loại cây lá rộng trong chậu để đem lại may mắn cho việc làm ăn của công ty và cải thiện mối quan hệ giữa mọi người.
Lưu ý, theo phong thuỷ truyền thống, bạn có thể trồng một số loại cây như: xương rồng, thiên thanh, kim phát tài, trúc nhật… sẽ giúp công ty tránh được những điềm xấu và gia tăng tài lộc.
5. Không nên đặt bàn của người lãnh đạo công ty một cách tuỳ tiện
Rất nhiều người quan niệm rằng, người lãnh đạo của công ty cần phải có một nơi làm việc ở vị trí trang trọng nhất. Tuy nhiên, không phải vị trí nào được coi là trang trọng trong văn phòng cũng hợp với phong thuỷ.
Người lãnh đạo cũng chính là người nắm giữ “vận mệnh” của công ty. Vì thế, đối với người lãnh đạo là nam thì nên đặt bàn ở phía Đông (Đông Nam), còn người lãnh đạo là nữ thì nên đặt bàn ở phía Tây (Tây Bắc, Tây Nam) của căn phòng làm việc.
6. Không nên để đồ đạc hư hỏng lâu ngày
Trong văn phòng hiện đại có rất nhiều các thiết bị điện tử như điều hoà, máy tính, máy in, máy phôtô… Mỗi công ty cần có những nhân viên kỹ thuật hoặc những người chuyên kiểm tra những thiết bị đó để có hướng sửa chữa kịp thời khi máy móc bị hư hỏng.
Không nên để máy móc, thiết bị trong công ty hư hỏng lâu ngày, điều đó sẽ rất dễ gây xung đột về tài chính trong công ty.
7. Không nên để cửa ra vào thông suốt với cửa sổ
Lưu ý về việc chọn lựa thiết kế văn phòng có sự hài hoà trong việc bố trí cửa chính và cửa ra vào. Cửa chính phải có khổ rộng nhất so với bất cứ một cửa nào trong công ty. Cũng có thể bố trí các cửa sổ so le với cửa chính để lưu thông không khí và lưu lại tài vận cho công ty.
8. Không nên để tình trạng nứt tường, rạn gạch
Một văn phòng do thuê lâu ngày nên có thể dẫn đến tình trạng rạn nứt tường, tường bị thấm dột hoặc gạch lát sàn bị sứt mẻ, vỡ… Những hiện tượng này có thể xuất hiện ở bất cứ không gian nào, ở bất cứ công ty nào.
Vì thế, cần phải kiểm tra thường xuyên (đặc biệt là ở những phòng quan trọng như phòng họp, phòng tổ chức hội nghị…) để có hướng khắc phục, sửa chữa kịp thời sẽ tránh được rạn nứt trong sự phát triển kinh doanh của công ty.
9. Không nên đặt bàn làm việc của nhân viên đối diện với phòng vệ sinh
Bàn làm việc của nhân viên hoặc các bộ phòng ban không nên đặt đối diện với phòng vệ sinh. Theo quan niệm của phong thuỷ, phòng vệ sinh cần được che chắn bởi một bức bình phong hay một bức tường và bố trí khuất với bàn làm việc để tránh khí ô uế, khiến cho nó không xâm nhập vào nơi nhân viên làm việc.
Ngoài ra, bàn làm việc nên làm bằng gỗ, nên tránh những loại bàn làm bằng kim loại. Không nên đặt bàn ở ngay cạnh cửa, kể cả cửa chính và cửa sổ vì sẽ gây mất tập trung, ảnh hưởng đến công việc của nhân viên trong công ty.
10. Không nên để cây to chặn cửa chính của văn phòng
Cửa chính của văn phòng luôn là nơi tràn ngập không khí và nguồn năng lượng từ ngoài vào văn phòng. Nếu đặt một cây bonsai hoặc cây có bóng to ngay cạnh cửa chính sẽ làm ảnh hưởng lớn đến tài vận của công ty. Không những thế, cây to chặn ngay cửa chính sẽ cản trở những luồng khí tốt đẹp vào công ty và rất dễ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm trạng làm việc của các nhân viên.
Một lời khuyên hữu ích đó là ở các văn phòng, nên sử dụng ghế dựa hoặc cho nhân viên tựa lưng vào tường, tủ. Điều đó sẽ giúp nhân viên tập trung hơn trong công việc của mình. Đặc biệt, mỗi một văn phòng nên mua một tượng con vật linh thiêng nào đó để bảo vệ và che chở cho công ty như hổ, rùa, chim phượng…
Huyền thoại xưa ở Á Châu có kể rằng, khi trời đất mới hình thành, chính Trời đã làm ra mưa gió.
Nước từ mưa gió, sông, biển, và những sinh vật sống trong nước được Trời tạo ra đầu tiên, đó chính là nguồn phát sinh ra mọi thứ.
Sau, vì bận bịu tạo ra người và vạn vật nên Trời không làm mưa gió nữa, mà sai rồng là con vật ở cỏi trời, bay lượn ở trên không và phun nước xuống trần gian làm ra mưa.
Nhưng vì số rồng trên trời ít, không đủ làm mưa cho đều khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén chọn các con vật lên làm rồng, gọi là “thi rồng”.

Khi chiếu chỉ của Trời ban xuống dưới Thủy cung, vua Thủy tề là vì vua trông coi các công việc ở dưới nước, loan báo cho tất cả các giống sống ở đó, chúng tranh nhau đi thi.
Cuộc thi gồm ba kỳ, mỗi kỳ phải vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt qua cả ba đợt thì mới đậu để được hóa rồng.
Trong một tháng trời, bao nhiêu loài thủy tộc đến thi đều bị loại, vì không con nào vượt trót được cả ba đợt sóng.
Có con cá rô nhảy qua được một đợt, đợt sau thì bị rớt.
Có con tôm nhảy qua được hai đợt, ruột gan vây vẩy râu đuôi đã gần hóa rồng. Khi đến đợt ba, đuối sức bị té nên lưng cong lại.
Đến lượt có một con cá chép vào cuộc thi, con cá này bản chất của nó đã là quý hiếm đặt biệt, vì trong miệng nó có ngậm một viên ngọc trai…
Thần gió thấy lạ bay đến để xem, gió, mây ào ạt kéo đến, sấm sét ầm trời, và những đợt sóng cao trổi dậy…
Cá chép nhờ đợt sóng cao đưa lên, vượt luôn một lần qua ba đợt sóng, nhả ngọc vượt qua Vũ Long Môn và hóa rồng.
Cá chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự can đảm, may mắn, trót lọt, thành công, chiến thắng!
Cả bầy cá chép con nào cũng muốn vượt qua Vũ Long Môn, bởi chúng biết hễ vượt qua được cửa đó, chúng sẽ từ những con cá chép tầm thường trở thành con rồng siêu phàm, thoát tục… và biến thành rồng thiên, được sống đời đời.
Vẫy, đuôi, râu, sừng tự nhiên mọc đủ, hình dạng trọn vẻ oai phong, rạng rỡ, một biểu tượng cho sự khát vọng của con người trên thế gian…
Nhưng không phải con nào cũng có tính chất quí sáng (mang ngọc quý trong thân) và không phải cá chép nào cũng có phẩm chất, khả năng khắc phục khó khăn, trở ngại để đạt được thành công!
Cá chép hóa rồng phun nước làm cho đất đai mầu mỡ, cây cối xanh tươi, đem lại sức sống cho muôn loài.
Bởi vậy người ta thường xem hình ảnh cá chép hóa rồng là biểu tượng của sự an lành và sung túc, thịnh vượng. Thăng tiến trong học hành, thi cử, công danh và may mắn về tài lộc trong thương mại.
ù hợp với loại hình kinh doanh cụ thể. Không phải bất kì loại hình kinh doanh nào cũng phù hợp với những nơi tập trung đông đúc, trung tâm đô thị. Nhiều người vì tìm vị trí đất tốt mà phải tiêu tốn rất nhiều tiền về chi phí giao dịch, phí thuê nhà, mà không tính đến nơi đó có hợp với ngành nghề kinh doanh của mình hay không. Vị trí được gọi là tốt chỉ khi vị trí đó phù hợp với loại hình, ngành nghề kinh doanh của mình mà thôi.

“Đầu tư sẽ có kết quả”. Quan điểm sai lầm này lại không phải là cách nghĩ của nhà đầu tư, mà do các của hàng bán lẻ và hệ thống đại lý đưa ra, dần dần trở thành suy nghĩ bình thường của người đầu tư (tiêu dùng). Giá cả hàng hoá của các cửa hàng không ngừng tìm cách tăng giá, điều đó càng thúc đẩy sức tiêu dùng mạnh, người tiêu dùng phải chỉ ra ngày càng nhiều, mà phương pháp kích cầu là con đường duy nhất để tăng trưởng lợi nhuận, nó cũng đồng nghĩa tăng cao lợi ích cho các nhà đầu tư. Như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư và giới kinh doanh quan tâm, nâng cao giá trị sản phẩm.
Người đầu tư thấy giá trị ngày càng cao, thì trong đầu luôn hy vọng vào lợi ích gặt được nhiều. Trong khi tâm lí mong đợi vào lợi nhuận cao và những lời hứa của nhà cung cấp cũng được cường hoá sẽ hình thành một định thức tâm lí: Giá tiêu thụ cao = Tiền lãi cao = Lợi nhuận thu về cao, người đầu tư sẽ tin rằng, bỏ ra nhiều sẽ thu lợi nhiều. Với tư duy giản đơn như vậy, rất phù hợp để đầu tư kinh doanh nhỏ lẻ. Nhưng việc đầu tư và các hộ kinh doanh cá thể có độ rủi do cao, không phải mọi khoản tiền khi đầu tư ra đều thu được lợi nhuận. Hơn nữa, giá cả hàng hoá, tiền thuê cửa hàng, nhân viên và lợi nhuận không phải bao giờ cũng tỉ lệ thuận. Nói một cách khách quan, trong trường hợp khi gian hàng của bạn có giá trị hàng hoá cao, thì chi phí sẽ cao.
Nhưng giá bán thường không phải là do giá trị của nó quyết định, có nhiều mức độ được quyết định bởi sự ảnh hưởng của cung cầu trên thị trường, cùng có những quan hệ mật thiết trong các hoạt động mở rộng về đóng gói sách lược hay tuyên truyền của nhà mở rộng, nhà đầu tư thường bị những nhân tố này làm lung lay, không có cách nào nhận biết được giá trị đầu tư chân thực của cửa hàng. Một nguyên nhân quan trọng tạo nên tiền thuê, giá bán khác là sự nhạy cảm về địa đoạn và vị trí của cửa hàng đó. Những cửa hàng có địa điểm gần nhau, vị trí gần nhau khi định giá cũng đều có sự đối chiếu lẫn nhau, sự sai lệch về giá cả là rất lớn. Nhưng tiền thuê lại khác nhau, chúng không phải là không thể như nhau, vách ngăn của một con phố có thể có sự phân biệt rõ rệt, có gần phố hay không có phố có thể có sự không đồng nhất.
Cho nên có thể nói rằng: Đầu tư cửa hàng không thể căn cứ vào sự phán đoán cao thấp giá bán giá trị đầu tư đó, chỉ cần không kiểm tra một chút có thể sẽ mua được “cửa hàng giá bán cao, giá thuê rẻ”, dự kiến thu lợi không thể đối diện, mà còn phải mang một gánh nặng tiền vay.
Cô Hoàng Thanh Hà, ở Thanh Trì, Hà Nội lo lắng khi nghe hàng xóm bàn tán về thông tin năm nay không nhuận tháng 9. "Gia đình dự định sẽ tổ chức đám cưới cho con trai đầu vào khoảng giữa tháng 10 âm lịch, nếu tháng 9 không nhuận, chúng tôi khó có thể chuẩn bị mọi việc tươm tất cho đám cưới", cô Hà lo lắng.
Với mong muốn sinh con vào tháng 12 âm lịch năm nay, chị Nguyễn Thúy Hòa ở Đống Đa, Hà Nội đứng ngồi không yên khi nghe mấy cô bạn hỏi nhau năm nay có tháng 9 nhuận âm lịch hay không. Hòa muốn sinh con năm Ngọ. Nếu không có thêm một tháng 9 nữa, thì con cô dự kiến chào đời năm Mùi.
"Chuyện con cái là lộc trời cho, nhưng về tâm linh tôi cũng muốn được thoải mái và đã có sự tính toán trước nên muốn sinh con trong năm, chứ không muốn đến năm sau", chị Hòa nói.
![]() |
Tháng 9 thứ hai của năm âm lịch tương ứng với ngày 24/10 dương lịch. |
Tại một số địa phương như Hà Nam, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, thông tin nói là năm nay không nhuận tháng 9 đã khiến không ít người làm nghề nông nghiệp, nhất là trồng hoa Tết lo lắng. Tin đồn cũng xuất hiện trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội làm nhiều người hoang mang khi họ đã có kế hoạch trong công việc từ trước.
Tuy nhiên, theo khẳng định của các nhà khoa học thì thông tin trên chỉ là đồn đoán. "Trên thực tế năm 2014 nhuận tháng 9 là hoàn toàn đúng", ông Nguyễn Đức Phường, nhà nghiên cứu về thiên văn - vũ trụ khẳng định với VnExpress.
Ông Phường cho biết, hiện có hai cách tính lịch theo dương lịch và âm lịch, trong đó dương lịch là cách tính theo chu kỳ Trái đất quay quanh Mặt trời. Đây là loại lịch đang được thế giới chính thức sử dụng. Còn âm lịch tính theo chu kỳ Mặt trăng quay quanh Trái đất, chủ yếu được các nước phương Đông sử dụng.
"Mỗi lịch có ngày và tháng nhuận khác nhau", ông Phường nói. Với dương lịch, chu kỳ Trái đất quay quanh Mặt trời là 365+ 1/4 ngày. Nhưng theo quy ước thì mỗi năm chỉ có 365 ngày, nên năm dương lịch sẽ chênh với thời gian thực là 1/4 ngày. Điều này cũng có nghĩa sau 4 năm thì dương lịch sẽ dư một ngày và sẽ có một năm nhuận một ngày. Năm nhuận này theo quy ước rơi vào tháng hai (tức là tháng có 29 ngày).
Trong khi đó, một năm âm lịch có 354 ngày, và nếu so sánh với dương lịch (365 ngày) thì âm lịch ngắn hơn 11 ngày. "Như vậy cứ ba năm, âm lịch lại ngắn hơn dương lịch 33 ngày, tức là ba năm âm lịch sẽ nhuận một tháng chứ không nhuận một ngày như dương lịch", ông Phường cho biết.
Theo ông Phường, muốn tính năm âm lịch đó có tháng nhuận hay không chỉ cần làm phép toán đơn giản là, lấy năm dương lịch chia cho 19 nếu chia hết hoặc ra các số dư 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì chắc chắn đúng. "Các nhà nghiên cứu thế giới đã có cách tính lịch rất chính xác từ cách đây hàng triệu năm về trước vì vậy không bao giờ có sự nhầm lẫn", ông Phường nhận định và khuyến cáo mọi người nên sử dụng dương lịch để theo dõi mùa màng và thời tiết.
Đồng quan điểm trên, ông Hoàng Trọng Hảo, làm việc ở tạp chí Toán Tuổi thơ cũng khẳng định, thông tin không có hai tháng 9 nhuận trong năm Giáp Ngọ 2014 là hoàn toàn bịa đặt.
![]() |
Năm nhuận tương ứng với tháng nhuận đã được các nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới tính toán từ trước. |
"Năm âm lịch nào nhuận và nhuận vào tháng nào đã được tính toán, không thể bỗng nhiên thay đổi", ông Hảo nói.
Hương Thu

| Can Ngày/ Giờ |
Giáp và Kỷ |
Ất và Canh |
Bính và Tân |
Đinh và Nhâm |
Mậu và Quý |
| Tý (23-1) |
Giáp Tý |
Bính Tý |
Mậu Tý |
Canh Tý |
Nhâm Tý |
| Sửu (1-3) |
Ất Sửu |
Đinh Sửu |
Kỷ Sửu |
Tân Sửu |
Quý Sửu |
| Dần (3-5) |
Bính Dần |
Mậu Dần |
Canh Dần |
Nhâm Dần |
Giáp Dần |
| Mão (5-7) |
Đinh Mão |
Kỷ Mão |
Tân Mão |
Quý Mão |
Ất Mão |
| Thìn (7-9) |
Mậu Thìn |
Canh Thìn |
Nhâm Thìn |
Giáp Thìn |
Bính Thìn |
| Tị (9-11) |
Kỷ Tị |
Tân Tị |
Quý Tị |
Ất Tị |
Đinh Tị |
| Ngọ (11-13) |
Canh Ngọ |
Nhâm Ngọ |
Giáp Ngọ |
Bính Ngọ |
Mậu Ngọ |
| Mùi (13-15) |
Tân Mùi |
Quý Mùi |
Ất Mùi |
Đinh Mùi |
Kỷ Mùi |
| Thân (15-17) |
Nhâm Thân |
Giáp Thân |
Bính Thân |
Mậu Thân |
Canh Thân |
| Dậu (17-19) |
Quý Dậu |
Ất Dậu |
Đinh Dậu |
Kỷ Dậu |
Tân Dậu |
| Tuất (19-21) |
Giáp Tuất |
Bính Tuất |
Mậu Tuất |
Canh Tuất |
Nhâm Tuất |
| Hợi (21-23) |
Ất Hợi |
Đinh Hợi |
Kỷ Hợi |
Tân Hợi |
Quý Hợi |
Lưu ý:
Can giờ lệ thuộc vào can ngày.
Ví dụ: Ngày có can Giáp và Kỷ thì giờ Tý có can Giáp
Ngày có can Mậu và Quý thì giờ Tý có can Nhâm
Chúng tôi xin được hân hạnh cống hiến quý bạn tập tự điển Tử Vi, các bạn có thể giải đoán các nét căn bản Tử Vi một cách giản dị, từ đây mà tạo thêm các kinh nghiệm. Sở dĩ ghi thành tự điển theo thứ tự A, B, C, là để các bạn tìm tòi cho dễ lúc thực dụng. Bây giờ xin tiếp tục nêu lên những nguyên tắc giải đoán lá số Tử Vi
VĂN XƯƠNG VĂN KHÚC
Là văn tinh, chủ về văn chương, mỹ thuật, cũng chủ về công danh, thi cử.
Ở Mệnh có Xương, Khúc là người đẹp đẽ, thông minh, học giỏi, thích văn chương, nghệ thuật. Ở Mệnh các cô gái, là biểu hiện vừa sự thông minh, vừa sự dâm đãng. Nhưng có những cách xấu thêm vào mới thật là dâm đãng, được các cách tốt chế hóa đi thì lại khá.

Gặp các sát tinh Kỵ, Riêu, mới thật là dâm đãng.
Đến hạn, gặp Xương, Khúc mà không bị phá cách, là thi đậu, thêm danh vọng.
THIÊN KHÔI, THIÊN VIỆT
Là văn tinh, cũng là quý tinh, chủ về công danh, khoa cử, quyền tước.
ở Mệnh là người thông minh, thích văn chương, học giỏi, nhân hậu. Gặp Hỏa, Linh, Hình lại hỏng, thêm tai họa.
Thiên khôi ngộ Triệt bị giảm nhiều thành cách xấu biểu hiện nạn lớn.
TẢ PHỤ, HỮU BẬT
Là trợ tinh, chủ về quyền, về sự phò tá, sự giúp đỡ. Gặp những sao tốt thì làm cho tốt đẹp thêm. Nhưng bị những sao xấu thì lại làm cho xấu hơn.
LỘC TỒN
Vừa là tài tinh, vừa là quý tinh, phúc tinh. Biểu hiện quyền, lộc, và phúc. Được Lộc Tồn tại Mạng là người thông minh, học giỏi, nhân hậu, ở Tài Lộc, và tránh được các tai họa. Tuy nhiên, Lộc Tồn thường chỉ có một thứ ảnh hưởng. Thí dụ: Tránh được tai họa, thì không giầu… Làm cho thêm phúc thọ và tài lộc.
Người nào có những cách dâm đãng (như Đào, Hồng) được Lộc Tồn thì sự dâm đãng bị chế ngự.
HÓA LỘC
Cũng như Lộc Tồn, vừa là tài tinh, vừa là phúc tinh. Giảm chế các tai họa, làm cho nhiều tài lộc. Ở Tài Bạch và Điền Trạch mà có Hóa Lộc là giầu có.
Ở cùng cung với Lộc Tồn lại kém, vì khắc nhau. Một sao đóng, một sao chiếu là song Lộc, thì tốt. Hoặc hai sao chiếu Mệnh thì tốt.
Gặp Tham, Vũ đồng cung thì tốt.
Gặp các sao xấu như Hao, Kiếp, Không, Thiên Không thì lại hao tán, suy bại, Hóa Lộc mất ảnh hưởng.
HÓA QUYỀN
Chủ về quyền tướng. Có Hóa Quyền tại Mạng là người có quyền.
Gặp các sao tốt thì làm tốt thêm.
Nhưng Quyền gặp các sao xấu, chẳng hơn gì.
HÓA KHOA
Là sao chủ về thi cử và là phúc tinh.
Có Hóa Khoa tại Mạng là người có công danh khoa bảng, thông minh, học giỏi, lại tránh được các tai họa. Hạn gặp Hóa Khoa là được thi đậu, hoặc giải được tai họa. Hóa Khoa cùng với Xương, Khúc, Khôi, Việt là những văn tinh, hướng con người vào nghiệp văn hoặc vào chức nghiệp không phải là võ. Được cả bộ Khoa, Quyền, Lộc là được phú, quý, nhiều công danh và tài lộc. Hóa Khoa không sợ sát tinh.
Tam Hóa liên châu là bộ ba Khoa-Quyền-Lộc đi trong ba cung liền nhau, do đây gặp Mạng, Thân hay một hạn nào đó mà chỉ dính đến một trong ba sao đó, cũng được ảnh hưởng của ba sao. Hóa Khoa không bị sát tinh giảm.
THIÊN MÃ
Thiên Mã là ngựa trời. Chủ về sự lanh lẹ, thay đổi, di chuyển, và có ý nghĩa tài lộc, công danh, phúc thọ. Nhưng Mã sẽ tốt hay xấu là do những sao khác gặp phải.
Mã đóng tại Mạng là người tài. Nếu lại thêm Tử, Phủ đồng cung, là có uy quyền, giầu sang, có phúc thọ. Gặp Nhật, Nguyệt chiếu, hoặc có Lộc Tồn đồng cung, hoặc Lộc Tồn chiếu (Lộc Mã giao trì) cũng có những cái tốt về công danh, tiền tài, phúc thọ.
Mã, Khốc, Khách gặp nhau là ngựa có nhạc, có người cưỡi giỏi, là một cách của người có công danh võ nghiệp, hạn gặp Mã, Khốc, Khách là thăng tiến. Mã gặp Hỏa hay Linh cũng tốt vậy.
Mã gặp Đà thì hỏng, đó là ngựa què, ở Mạng hay ở Quan Lộc thì công danh hay bị gãy. Mã gặp Hình là hiệu báo tai nạn, tai họa. Mã tại Hợi là ngựa cùng đường, hoặc gặp Tuyệt, đều là hiệu bế tắc. Mã gặp Tuần, Triệt là ngựa chết, là tai họa.
LONG TRÌ, PHƯỢNG CÁC
Cặp sao này chủ sự thông minh, nhân hậu, vui vẻ, nếu ở Mạng. Gặp tại Hạn là được gia đạo yên vui, được sáng láng cửa nhà, may mắn, danh tài hưng vượng, có sự cưới hỏi hoặc sự sanh nở tốt.
Cùng với Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, tạo thành quần thần tốt phò tá cho Tử, Phủ.
Gặp Phi Liêm có may mắn và vui mừng nhanh chóng.
TAM THAI, BÁT TỌA
Cặp sao này chủ sự thông minh và thành công. Gặp tại Hạn là được sự may mắn, nhà cửa thêm rộng rãi.
ÂN QUANG, THIÊN QUÝ
Chủ sự thông minh, vui vẻ, nhân hậu, ân nghĩa, từ thiện, và giải được các tai ương, có những may mắn không bị sát tinh giảm chế. Được cặp sao này, thì chế ngự được tánh chất dâm đãng của Đào, Hồng
ĐÀO HOA, HỒNG LOAN
Chủ sự vui vẻ, sự thành công, gia cảnh hưng vượng. Nhưng cũng chủ về sự lẳng lơ của đàn bà, sự đa tình. Chủ về đàn bà con gái: gặp tại Hạn là sự báo hỉ hôn nhân, hoặc sự sanh nở con gái. Cũng chủ về sự thi cử tốt, được công danh, được vui mừng.
Được Đào, Hồng, Hỉ thêm cho Nhật, Nguyệt, càng sáng ra. Đào Hồng đi với Tử, Phủ hay Nhật, Nguyệt thì các sao này tốt thêm.
Cung Mệnh, Thân có Đào, hay Hồng tọa thủ, hai đời vợ hay hai đời chồng. Nhưng có nhiều cách để phá đi. Hoặc gia thêm sát tinh, là kém thọ, nửa đường gẫy cánh. Đàn bà có Đào hay Hồng tọa thủ, gia thêm Riêu, Đà, Kị, là người bất chính về tình ái.
THIÊN HỈ
Chủ sự vui vẻ, may mắn. Gặp tại Hạn, là có vui mừng về công danh, thi cử, sanh đẻ, cưới hỏi.
THAI PHỤ, PHONG CÁO
Chủ về công danh, bằng sắc. Gặp tại Hạn, là có lợi về thi cử công danh

QUỐC ẤN
Chủ về công danh, chức vị và quyền hành (có ấn là có quyền). Gặp tại Hạn có lợi cho thi cử và sự cầu công danh. Nhưng gặp Tuần, Triệt lại hỏng việc, vị mất chức, xuống chức.
ĐƯỜNG PHÙ
Chủ sự thành đạt về công danh và về nhà đất cao đẹp hơn. Nhưng gặp Bạch Hổ đồng cung lại chủ sự bắt bớ, tù đầy.
THIÊN THỌ
Chủ sự nhân hậu, từ thiện, thêm phúc thọ.
BÁC SĨ
Chủ sự thông minh, nhân hậu, cứu giải bệnh tật. Gặp tại Hạn là được lợi về sự thi cử, học hành.
LƯU NIÊN VĂN TINH
Chủ về văn chương, sự học, sự thi cử, sự thông minh. Gặp tại hạn là có lợi cho sự thi cử và công danh.
HOA CÁI
Chủ sự thành công, sự quyền quý, lợi cho việc thi cử, và cầu công danh.
Tại Mạng mà gặp Hổ, Long, Phượng, hợp thành bộ Tứ Linh (4 con vật linh), là dấu hiệu phú quý, được công danh, uy quyền.
Nhưng Hoa Cái gặp Mộc Dục, Thiên Riêu là chủ sự dâm đãng.
Mệnh có Hoa Cái, Tấu Thư tọa thủ đồng cung là người thanh cao và thành công.
THIÊN TRÙ
Chủ về sự ăn uống và tài lộc.
THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC QUÝ NHÂN
Chủ về sự đức độ, nhân hậu, từ thiện. Là những sao cứu tật bệnh, họa hại, giải trừ nguy nan, gia tăng phúc thọ.
THIÊN GIẢI, ĐỊA GIẢI, GIẢI THẦN
Là những sao giải trừ tật bệnh, tại họa, và gia tăng phúc thọ. Chủ sự nhân hậu, từ thiện… Người già gặp Giải Thần tại Hạn, thì dễ chết (Giải cái khổ là làm cho mau chết). Điền Trạch, Tài Bạch có Giải Thần thì nghèo (của bị Giải đi).
THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC
Chủ sự đức độ và ngay chính. Giải trừ tật ách nhỏ. Chế ngự được tánh dâm đãng của Đào, Hồng.
THIÊN Y
Chủ sự cứu giải bệnh tật. Nhiều bác sĩ có Thiên Y tại Mạng, Thân, Thiên Di, Quan Lộc. Thêm Thiên Hình là bác sĩ chuyên giải phẫu.
THIẾU DƯƠNG, THIẾU ÂM
Là những sao song hành với Thái Dương, Thái Âm, nhưng chỉ là những trung tinh. Chủ sự thông minh, vui vẻ, nhân hậu, giải trừ tật ách. Thiếu Dương gia thêm sức sáng cho Thái Dương, Thiếu Âm gia thêm sức sáng cho Thái Âm, và phải đồng cung mới được vậy.
may mắn.
![]() |
| Ngày sinh được ví như nụ hoa |
Lý Hư Trung đời Đường phát minh ra việc dùng thiên can địa chi để sắp xếp tứ trụ và lấy can ngày làm chủ để dự đoán cát hung của cuộc đời. Đến đời Tống, Từ Tử Bình lại phát minh ra chủ giờ. Từ đó 4 trụ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) ngang nhau, là mảnh đất cát - hung, phúc - họa của cả cuộc đời.
Tuy nhiên, trụ ngày trung hòa, cân bằng là quý. Trụ ngày quá vượng hoặc quá yếu đều không tốt. Trong dự đoán tứ trụ, can ngày được xem là là mình, chi ngày là vợ (hoặc chồng). Can chi cùng sinh cho nhau thì vợ chồng hòa thuận. Can được chi sinh là nam lấy được vợ hiền, nữ được chồng tốt giúp đỡ. Chi được can sinh có nghĩa là nam yêu vợ, nữ giúp chồng. Can chi của ngày mà tương xung, tương khắc thì vợ chồng có nguy cơ xa nhau. Nam khắc nữ là không lấy được vợ sớm, nữ khắc nam là không lấy được chồng sớm, tức là hôn nhân muộn. Nếu can chi tương khắc nặng càng xấu hơn.
Can ngày còn phân ra cường vượng hay suy nhược. Can ngày vượng tức là được lệnh, được đất, được sinh, được trợ giúp. Can ngày vượng nhờ chi tháng thì gọi là được lệnh. Can ngày được các chi khác của của năm, tháng, giờ đến sinh thì gọi là được lộc. Can ngày suy nhược tức là can ngày mất lệnh, mất đất, không được trợ giúp, không được sinh. Nếu can ngày còn bị hình xung khắc phái thì càng yếu thêm.
(Theo Dự đoán tứ trụ)
![]() |
Chủ đề là: Một số ghi chép về phi hóa ngôi chính tinh trong Đăng Hạ Thuật:
Cung có sao Tử Vi phi Hóa khoa nhập cung Quan Lộc, làm việc thuận lợi theo ý người, khá có nhân duyên.
Cung có Tử Vi phi Hóa khoa nhập cung Nô bộc, hòa thuận theo cấp dưới, có thể làm việc và chan hòa với cấp dưới.
Cung có Tử Vi phi Hóa khoa nhập cung Tử tức, tình nghĩa cha con sâu đậm, gia đình hòa thuận.
Cung có Tử Vi phi Hóa khoa nhập cung Tài bạch, không coi trọng tiền bạc.
Cung có Tử Vi phi Hóa khoa nhập cung Phu thê, vợ chồng chung thủy son sắc.
Mệnh nữ xem Thái Dương, nếu ở can cung nào mà phi Hóa lộc nhập cung Phu Thê thì có thể được chồng rất mực yêu thương, có thể cùng chồng dựng lên cơ nghiệp.
Mệnh nam có sao Thái Dương phi Hóa lộc nhập cung Phu Thê thì chủ về vợ nên làm những ngành nghề dành cho phụ nữ để kiếm tiền.
Cung có Thái Âm mà phi Hóa khoa nhập cung Tử Tức thì hay thích cho con cái tiền, hay nói cách khác là rất mực cưng chiều con cái.
Nam Mệnh thì kỵ Thái Âm phi Hóa kỵ nhập cung Phu Thê hoặc Điền trạch, có thể không có vợ.
Cung có Thái Âm phi Hóa lộc nhập cung Quan Lộc thì sẽ kiếm được tiền.
Cung có Thái Âm phi Hóa kỵ nhập cung Mệnh thì một đời lận đận: một đời khó khăn lận đận, khó có thể làm được việc gì.
Thiên can cung tọa ở Phá Quân phi Hóa kỵ nhập cung Mệnh, Tật ách, Tử Tức, Điền trạch. Nếu có mệnh đó, nên học thật giỏi một ngành kỹ thuật, tìm công việc chính đáng, an phận giữ mình, nếu không về sau sẽ hối hận không kịp. Nên nhớ một khi đã sa chân lỡ bước thì dù có quay đầu lại cũng đã muộn.
Thiên can cung tọa ở Vũ Khúc phi Hóa kỵ nhập cung Điền trạch thì phạm đào hoa: giữa nam và nữ có quan hệ không chính đáng, như quan hệ giữa người đã kết hôn; hoặc là quan hệ yêu đương giữa người đã kết hôn và người chưa kết hôn, hay nói cách khác, phàm là người có quan hệ tình cảm bên ngoài với chồng vợ thì đều gọi là "đào hoa".
Thiên can cung tọa ở Lộc Tồn phi Hóa kỵ nhập cung Mệnh thì một đời lận đận: một đời khó khăn lận đận, khó có thể làm được việc gì.
(Ghi chép từ cuốn Đăng Hạ Thuật của Phan Tử Ngư)
Các công trình công cộng như nhà văn hóa, nhà bảo tàng v.v… hay các công sở, công ty v.v… việc trang trí ngoại thất hay ngoại cảnh được chú ý chủ yếu là làm tăng thêm về khía cạnh thẩm mỹ và lôi cuốn sự chú ý hay phô trương sự đài các, sang trọng.

Việc trang trí đôi khi xuất phát từ sự tôn kính, sự uy nghi (các nơi thờ cúng, công sở), giàu có, cao quý (cung điện, nhà bảo tàng) v.v… Ví dụ như các cung điện vua, chùa, các phủ của các vị nguyên thủ quốc gia. Các nơi làm việc của quốc gia các nơi cơ quan công quyền v.v…
1. Sự trang trí ngoại thất và ngoại cảnh thường có các xu hướng
– Rất cầu kỳ và cầu toàn về mặt thẩm mỹ, về tâm linh và phong thủy.
– Cầu kỳ thuần tuý nghệ thuật và mỹ thuật.
– Đơn giản với cả khái niệm cần có cho đủ lệ bộ.
– Bình thương chỉ để không trống trải nên tuỳ tiện theo khả năng kinh tế.
– Tôn kính hoàn toàn thuộc ý thức tâm linh và phong thuỷ.
2. Trang trí ngoại thất mang ý nghĩa tâm linh và phong thuý hoàn toàn
Hình thức trang trí nhằm tượng trưng cho sự tôn kính thường được sử dụng trong các: Đình, đèn, chùa, nhà thờ, lăng tẩm, khu tưởng niệm. Việc trang trí đực phân ra hai phần.
– Trang trí ngoại thất cho các trưởng hợp kể trên luôn mang ý thức tâm linh. Đó là đắp và khám sứ các chữ, các hình tượng chầu tứ linh như: Long, Ly, Quy, Phượng, như bức đại tự, hoành phi câu đối v.v…
– Trang trí cái cổng tam quan, cổng và bia, đài hai bên côổng bằng đắp nối và khảm sứ, hoặc viết về các câu đối, câu khải, kệ v.v…
– Vẽ ở bức bình phong trước cổng chùa chiên, đình phủ hay ở bia đài hai bên cổng chính những tích chuyện giáo xưa như “thầy trò Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh” hay các tích báo hiếu trong “thập nhị tư hiếu” cổ xưa (hai mươi bốn kiểu báo hiếu) v.v…
Kiểu trang trí ngoại thất tạo hình biểu cảm khá năng “gợi tâm” đến người xem hay nhìn. Đó là ý nghĩa tâm linh nhưng đồng thời nó cũng tạo hiệu dụng phong thủy của hình thức trang trí ngoại thất; mặc dù các cánh trang trí có thể không tuân thù một số phép của phong thủy Ngũ Hành.
3. Trang trí ngoại cảnh trong trường hợp các công trình tôn kính
Đối với các công trình thuộc loại tôn kính, việc trang trí ngoại cảnh lại luôn tôn trọng các phép phong thuỷ là chù yếu.
Nó được thể hiện ờ cách bài trí sân vườn, cây cảnh, hình tượng, cây cối v.v…
Ví dụ: Ở các chùa đình, hổ có hình bán nguyệt hay có hình vuông, có thể có thêm một đảo nhỏ, thả sen, súng, cá chép, cá vàng.
– Hai bên sân trước trồng cây hoa hoặc hải đường, ngân, lựu. Bách ngoài cùng trồng các cây trong bộ tam đa: đề, đa, si, sanh hay tùng, bách, trắc bách diệp.
– Vòng quanh sân bày các chậu Ngô đồng, đào, huệ, mẫu dơn, hoa trà, các chậu bonsai, cây cảnh phù hợp.
Trang trí ngoại cảnh cần tạo cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch, u tịch nhằm làm tăng ý nghĩa tâm linh và tôn trọng tuyệt đối các phép phong thuỷ.
4. Trang trí ngoại thất và ngoại cảnh đơn giản
Cách trang trí ngoại thất và ngoại cảnh cho các công sở văn phòng, công ty, trường học, nhà máy v.v… thường đơn giản, ít khi xuất phát từ ý thức phong thuỷ thực sự. Trang trí chí mang tính hình thức với các đường nét kiến trúc vì vậy trang trí ngoại thất ở các dạng công trình nàv thường dơn giản với các nét phong trào, hoa văn kiểu cách điệu nhằm làm giảm sự dơn điệu của vẻ ngoài của công trình.
Trang trí ngoại cảnh ở các công ty lại càng dơn giản hơn với vài cây cảnh được cắt tỉa tạo hình đặt trước cữa ngoài sân, hoặc vài bồn hoa, hàng cây đại thụ lấy bóng mát v.v…; có tương bao xung quanh và cổng (huyền quan).
Tóm lại trang trí ngoại cảnh ở các nơi công sở rất thuần tuý không có ý thức từ phong thủy.
Song, mọi loại hình trang trí nào dù sao dưới cách nhìn cùa nhà phong thuv thì nó đều có chứa đựng ý nghĩa phong thủy.
Vì thế, nếu việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh vô tình phạm vào một phép phong thuỷ cát tường nào thì công sở ấy có thể gặp được các điều may mắn; Nếu là phạm vào điều cấm kỵ, theo phép phong thủy, thì có thể gặp những điều bất lợi nào đó, do hiệu ứng phong thuỷ tạo nên.
5. Trang trí ngoại thất và ngoại cảnh rất cầu kỳ
Trang trí rất cầu kỳ với sự tính toàn cẩn thận về các mặt: Nghệ thuật mỹ thuật, phong thủy và tâm linh.
Có thể nói, việc trang trí này không bị điều kiện vật chất tiền của chi phối. Điều kiện chi phối duy nhất là môi trường xung quanh và địa thế.
Từ các điều kiện môi trường và địa thế, việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh của cổng trình được xem xét rất cẩn thận về kỹ thuật, mỹ thuật, về phong thuỷ và tâm linh.
Đó là các công trình kiến trúc cung điện, phủ, đài v.v…
Trang trí ngoại thất cho các loại công trình nhằm tôn lên vẻ uy nghi, sang trọng mang đủ sắc thái của phong thủy và tâm linh.
Sự tôn trọng các phép phong thuỳ Ngũ hành phù hợp, hài hòa: Sinh, đồng, khắc, triệt giữa môi trường với các dạng hình của công trình; tính hợp lý giữa địa thế với kết cấu kiến trúc của cổng trình.
Sự tuân thủ phép phong thủy cát tường trong trang trí ngoại cảnh của công trình bằng các thuật bày bố các hình tượng, vật thể như hồ nước, hòn non bộ, cầu, lầu bát giác, dòng chảy, vườn non bộ, cây thế, vườn hoa, cây đại thụ, thậm chí cả sông đào, dài quan sát v.v…
Sự tôn trọng phép phong thủy tài lộc, với các thuật “dụ long”, “chiêu khí” v.v… bằng cách bố trí, bày đặt theo thuỷ, mộc, thổ, kim, hỏa tổ hợp Ngũ hành và cân bằng Âm Dương và trật tự phát triển trong mối liên kết chặt chẽ cảa các yếu tố tự nhiên và vũ trụ.
Phải nói rằng, ngoài sự chú ý về khía cạnh thấm mỹ và phong thủy, việc trang trí ở các công trình trên còn mang nhiều ý niệm tâm linh toát ra từ các hình tượng Long, Ly, Quy, Phượng, Cóc vàng và Cá chép và tượng các con thú để tăng sinh khí cầu mong ngũ phúc và trấn trị quỷ quái nhằm giữ bình an.
Như vậy việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh ở các công trình cung điện, phủ, đài, dinh thự, biệt thự là rất cầu kỳ và cẩn trọng.
Ba điều trọng yếu của Dương trạch ” Môn, Chủ, Táo”, Táo là bếp, phòng bếp là một trong ba thứ quan trọng trong nhà. Thực phẩm là nguồn nuôi dưỡng sự sống con người, cho nên phong thuỷ phòng bếp là vấn đề hết sức quan trọng. Nếu như phong thuỷ không tốt, một là sẽ làm cho sức khoẻ của mọi người trong nhà sút kém, hai là của cải tiền bạc trong nhà hao tổn vô ích, ba là có thể làm cho gia trạch lao đao bất ổn.
Theo phong thuỷ, phòng bếp vốn có một số khuyết tật không thể tránh. Bởi vì phòng bếp trong quá trình rửa và đun nấu sẽ tiêu hao một lượng nước lớn, mà nước vốn tượng trưng cho của cải, cho nên không có lợi cho tích luỹ của cải. Nhưng mặt khác, bếp lại có khá năng áp chế được hướng hung xấu khí xấu trong nhà. Cho nên nếu đặt bếp ở hướng hung, trái lại sẽ có lợi cho gia chủ. Khi điều chính vị trí phòng bếp và bố trí dụng cụ làm bếp phải chủ ý một số vấn đề sau:

(1) Vị trí
Vị trí phòng bếp tốt nhất là ở nửa sau nhà, cố gắng tránh xa cửa chính.
Phòng bếp tốt nhất phải nằm trong phạm vi trạch. Do phòng bếp là nơi bổ sung sức khoẻ và tinh thần cho cả nhà, là nơi tượng trưng cho tài sản trong nhà, cho nên vị trí phải nằm trong phạm vi trạch, có vậy mới đảm bảo tính chỉnh thể. Không nên bố trí phòng bếp ra ngoài trạch hoặc đặt vào một phòng nhô ra bên ngoài khác, hoặc bố trí bếp ở phần kiến trúc thêm ở ban công phía sau (bên dưới trống). Phòng bếp nên bố trí ở phía Nam đất ở, ngoài ra có thể bố trí ở phía Đông hoặc Đông Nam. Hết sức tránh hướng Bắc, hướng Tây và Tây Bắc.
(2) Cấm kỵ
Điều tối kỵ là trong phòng bếp có phòng vệ sinh, hoặc cửa phòng bếp đối diện với cửa phòng vệ sinh. Bếp là nơi đun nấu thức ăn, mà phòng đi vệ sinh là nơi có nhiều vi khuẩn, uế khí, nếu để hai nơi này gần nhau sẽ ảnh hưởng đến môi trường vệ sinh, hại đến sức khoẻ.
Ngoài ra, cửa phòng bếp không được đối diện với cửa chính của nhà. Phòng bếp là nơi tượng trưng cho của cải trong nhà, cửa chính là nơi để vào nhà, là nơi người nhà và bạn bè ra vào, tụ tập. Khi cửa chính của nhà đối diện với cửa phòng bếp, tài khí lộ ra hết, của cải trong nhà khó mà giữ được.
![]() |
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
Phương Vị: Nam Đẩu TinhTính: DươngHành: ThủyLoại: Phúc TinhĐặc Tính: Phúc thọTên gọi tắt thường gặp: Đồng
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Vị Trí Ở Các Cung
Có những người dường nhu không bao giờ biết mệt mỏi, tràn đầy sinh lực, không bao giờ chịu lùi bước. Nhưng cũng có những người chi cần một cơn gió thổi qua cũng đã chao đảo ngã gục không guợng dậy nổi. Những nhân viên "gặp khó khăn vẫn tiến bước, giương cao ý chi chiến đãu" là đối tượng để mọi công ty mong tìm duợc. Vậy có thể xem qua tướng mặt để nhận diện được những người này không?
Mặt hơi dài, từ phần xương gò má tới cằm giống như hình thang cân ngược (khuôn mặt có cơ xương hỗn hợp như vậy gọi là mặt chữ vương)
Người có tướng mặt này thường có sức lực dồi dào, hay nói, cũng có cách nghĩ riêng mình. Việc gì cũng muốn thử làm, mà họ đã nói làm là làm. Họ là những người hiếu chiến, hiếu thắng, quyết bảo vệ quan điểm sai lầm của mình, chứ không chịu nhạn thua trước người khác. Họ không hài lòng với hiện tại, thường mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, trong công việc một khi cảm thấy mình làm tiếp thì họ sẽ yêu cầu cấp trên có mức đãi ngộ xứng đáng.

Đường nét môi miệng rõ ràng là chỉ cằm đầy đặn, nhân trung vừa dài vừa sâu vành môi rõ nét. Kiểu người này có hoài bão lớn lao đối với sự nghiệp, họ khá coi trọng hình tượng, đề cao lễ nghi, ăn mặc chỉn chu, thường tạo cho người khác cảm giác rất uy nghiêm.
Tướng mắt ba tròng trắng tức phía dưới tròng đen cũng có tròng trắng, thuộc loại trắng dã.
Kiểu người này rất tích cực phấn đấu, họ nỗ lực không biết mệt mỏi. Một khi đã xác định được mục tiêu rõ ràng thì họ lập tức hành động ngay, hơn nữa dốc toàn sức lực để hoàn thành. Đuôi mắt có nhiều "vết chân chim" cho thấy, họ rất cố gắng phấn đấu, tuy nhiên vất vả mà lại không đạt được thành tựu lớn. Nếu phần lớn "vết chân chim" chúc xuống thì người có tướng mặt này gặp số phận vất vả điển hình. Ngược lại, nếu "vết chân chim" hướng lên thì theo thuật xem bói đây là kiểu người sẽ gặt hái được thành tựu.
Tướng lông mày nằm ngang chính là lông mày lưỡi mác, kiểu người này có tính cáck kiên cường bất khuất, không dễ lòng đổi dạ, không chịu khuất phục trước áp lực bên ngoài, ngược lại đối mặt với áp lực càng hưng phấn thấy rõ. Họ tích cực phấn đấu hết mình cho đến khi giành thắng lợi, là hình tượng "trung thần", "hảo hán" điển hình khuyết điểm của người này là quá cứng rắn, không thể nhẹ nhàng, mềm mỏng được cho nên dễ hỏng việc giữa chừng.
Hai cánh mũi nở nang là chỉ ống mũi phát triển đầy đặn, có thế, cánh mũi hơi hếch lên, chóp mũi hướng lên trên.
Người có tướng mũi như thế này rất có cá tính, làm việc âm thầm, không khoe khoang phô trương, họ chỉ chú ý tới hiệu quả thực tế, gặp khó khăn không nản lòng mà bình tĩnh phân tích nguyên nhân, tích cực tìm kiếm phương pháp để có thể chuyển bại thành thắng, hơn nữa làm việc rất có khí thế, biết chú ý tới đại cục, có khả năng "bạt núi lấp biển", có thể gọi là nhân vật "đầu đội trời, chân đạp đất".
Người thân thiện, hiền hoà đi tới đâu cũng được mọi người tươi cười chào đón. Đối với công ty, họ chính là loại "chất bôi trơn" ôn hoà gắn kết mọi người lại với nhau, từ đó khiến mọi người cùng đồng tâm hiệp lực vì sự phát triển chung của công ty. Còn đối với cá nhân, ai cũng thích được kết bạn với những người thân thiện. Người thân thiện thường có gương mặt tươi vui. Xem bói người hiền hòa thân thiện qua những thống kê của Nhân tướng học như sau:
Lông mày hình vòng cung, cũng giống như lông mày lá liễu, kiểu lông mày này mềm mại, thanh tú, đặc biệt là khi cười, lông mày có hình uốn cong rất có sức hấp dẫn, nếu nói năng lại nhẹ nhàng, đầy chất văn thơ thì cho thấy người này rất có khiếu thẩm mỹ, là người có tấm lòng lương thiện, coi trọng tình cảm.
Dái tai to chiếm hơn một nửa tai, hơn nữa nửa dưới tai dài vượt quá khoé miệng thì gọi là tai rủ xuống vai.
Người có tướng tai như thế này nhu mì, yếu đuối, họ sẵn lòng giúp đỡ người khác, họ thường chỉ nhớ tới ưu điểm, chứ không nhớ tới khuyết điểm của người khái nếu tai áp sát đầu cho thấy họ là những người trầm tính, bảo thủ. Nếu tai lại hướng ra ngoài thì họ khá nhiệt tình với những hoạt động công ích. Nếu xem bói dái tai có nốt ruồi là thông minh lanh lợi, tôn trọng bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, có tài năng.
Chúng ta thường thấy vĩ nhân có tướng mặt “thiên hình đầy đặn, địa các vuông tròn”. Ý nghĩa của câu nói này chỉ người làm nên việc lớn. Đây là quy luật mà người xưa đã đúc kết và để lại cho chúng ta.
Nói một cách cụ thể, địa các và hàm dưới đầy đặn thì rất nồng hậu, trọng tình cảm, khi có ý kiến trái ngược với mọi người thì người có tướng mặt này sẽ giải quyết với thái độ lý tính, chứ không tranh chấp hoặc so bì tính toán, họ rất hiểu đạo lý dĩ hoà vi quý. Họ biết quan tâm chăm sóc người nhà và bề trên. Người có địa các đầy đặn và hình dạng đẹp thì sẽ được hưởng vận may mắn khi về già.
Tục ngữ có câu: “Người lành bị bắt nạt, ngựa hiền bị người cưỡi”. Lương thiện tất nhiên là phẩm chất tốt đẹp, đáng qúy, song cũng nên có mức độ, đừng nên để hiền lành tới mức bị người khác chèn ép.
Tục ngữ có câu: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy : phần tính cách của một người thông qua đôi mắt của anh ta hai mắt đờ đẫn là người là tướng mặt của người không có chủ kiến điển hình, kiểu người này bẩm sinh đã suy nghĩ thái quá, tức là những việc rất đơn giản nhưng vào tay họ cũng trở nên phức tạp.
Người có lông mày chữ bát rộng rãi, thoải mái, nhiệt tình giúp đỡ người khác mà không biết từ chối đòi hỏi vô lý của người khác. Họ thiếu suy nghĩ khi lựa chọn bè bạn cho nên thường bị bạn bè phản lại. Họ quá bận tâm tới những chuyện nhỏ của người khác mà ảnh hưởng tới công việc của bản thân, nghiêm trọng hơn có bị liên luỵ bởi bạn bè hoặc lâm vào tình cảnh khốn đốn vì tiền bạc.
Nếu lông mày đen và rậm thì cho thấy họ suy nghĩ rất giỏi, lắm mưu nhiêu kế thích giúp người khác đưa ra ý kiến của mình, họ được phong là vị "lãnh tụ ý kiến trong đám bạn bè". Ngược lại, nếu lông mày mềm mại thì cho thấy họ không thể nắm được vận mệnh của mình, luôn theo bị cuốn theo suy nghĩ và ý kiến của người ngoài cuộc mà không thể đưa ra chủ ý của bản thân.
Người có cằm vừa nhỏ vừa nhọn sẽ hơi tự ti, không tự tin trong mọi việc, tâm lý tiêu cực nầy sẽ ảnh hưởng tới khả năng làm việc của họ, khiến cho việc vốn có thể thành công lại rơi vào tình cảnh thất bại. Ngoài ra, họ còn rất nhạy cảm, có phần dễ bị kích động.
Nếu nhìn nghiêng không thấy cằm nhỏ nhọn thì cho thấy họ không có ý chí nói năng và làm việc đều không suy nghĩ, có thể nói là “thẳng ruột ngựa”, nghĩ gì nói nấy; khi xảy ra vấn đề, họ không giữ được bình tĩnh, dễ nổi nóng, họ không suy xét kỹ càng mọi mặt đã vội đưa ra kết luận ngay, điều này đương nhiên sẽ làm hỏng việc lớn, thậm chí gây tổn thất không thể cứu vãn nổi. Người này thích hợp với những việc nghiên cứu, sáng tác nghệ thuật.
Môi dưới dày được chia thành ba kiểu: Môi trên dày hơn môi dưới, môi dưới dày hơn môi trên và môi dưới quá dày, lại nhão.
- Người có môi trên dày hơn môi dưới: thích coi mình là trung tâm, không muốn cho đi, chỉ muốn được người khác quan tâm bảo vệ.
- Người có môi dưới dày hơn môi trên: thích chìm đắm trong sự yêu thương của người khác, họ sẽ không phân biệt được đâu là sự quan tâm thực sự, đâu là sự qua tâm giả dối, hơn nữa họ cũng không thể thoát khỏi cám dỗ dù đã biết mười mươi lừa dối. Kiểu người này còn rất ngoan cố, thích hành động một mình, chưa gặp phải sự cản trở thì vẫn chưa dừng bước.
- Người có môi dưới quá dày và nhão: càng thẳng thắn và cả tin hơn, họ dễ dàng bị những người xấu xa lừa dối mà không nhận thức được. Họ dễ bị lợi dụng và cũng dễ rơi vào tình thế nguy hiểm nếu gặp những người có tâm địa nham hiểm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Căn nhà có phong thuỷ tốt nhất là căn nhà có hình dáng vuông vắn, như vậy sẽ cân bằng năng lượng ngũ hành của khí trường. Nếu căn nhà của bạn bị khuyết góc thì có nghĩa một loại ngũ hành nào đó hoặc vận thế sẽ bị thiếu.
Nếu căn nhà khuyết góc phía Đông có nghĩa gây thêm khó khăn cho một người con trai trong gia đình. Cách bổ khuyết như sau: Trồng hoa hoặc đặt thỏ, một đôi chim uyên ương hoặc một bức tranh có viết chữ “Chấn” tại hướng Đông để bổ sung cảm giác khuyết góc. Theo kinh nghiệm của các thầy phong thuỷ, đặt thỏ tại góc đó có linh nghiệm nhất.

Nếu khuyết góc Đông Nam, có thể trồng hoa cỏ, cây cối tại vị trí đó. Nhưng quan sát từ xa thì cần phải đặt tại vị trí Đông Nam một con rồng bằng đồ chơi hoặc làm bằng thủ công mỹ nghệ để lấp đầy góc Đông Nam đó.
Nếu khuyết góc phía Nam có thể đặt ngựa hoặc xe hơi đồ chơi màu đỏ.
Nếu khuyết góc phía Tây Nam thì đặt dê, ấm trà tử sa hoặc đồ gốm sứ tại vị trí đó. Tuy nhiên cần chú ý, người có thuộc tướng tương khắc với dê thì không thích hợp bày hình con dê. Khi đó nên chọn bày ấm tử sa hoặc các đồ gốm sứ khác thay vào đó.
Nếu khuyết góc phía Tây nên đặt một con gà bằng đồng để bổ sung vị trí Đoài.
Nếu khuyết góc phía Tây Bắc có thể đặt con chó đồ chơi ở đó.
Nếu khuyết góc phía Bắc thì đặt một cái bể cá để bổ sung quẻ Khảm.
Nếu khuyết góc Đông Bắc có thể đặt tượng mục đồng cưỡi trâu làm bằng gốm sứ tại đó để bổ sung quẻ khí ở góc Đông Bắc.
Chúng tôi cũng xin nhắc nhở độc giả: Chỉ khi bạn thật sự cần bổ sung góc khuyết để mưu cầu một mục đích nào đó thì hãy đặt vật phong thuỷ cần thiết tại đó. Ví dụ như bạn cần có một cậu con trai thì hãy đặt hình con thỏ hoặc tranh chữ “Chấn” tại góc phía Đông. Nhưng nếu bạn không có nhu cầu trên thì đừng đặt những thứ đó. Nếu không, nó lại gây ra những điều mà bạn không muốn.
Thông thường tủ lạnh được kê ở gian bếp. Gian bếp là nơi vượng Hoả, Hoả khắc Kim, nên đặt tủ lạnh ở đây sẽ cân bằng tính hoả của gian bếp.
Đặt tủ lạnh ở vị trí nào trong nhà cũng ảnh hưởng đến phong thuỷ của nhà. Tủ lạnh thuộc hành Kim, nếu thành viên nào trong nhà muôn tăng thêm tính Kim thì dựa vào địa vị và giới tính để đặt tủ ở vị trí thuộc mệnh của thành viên đó.

– Chủ gia đình là nam muôn tăng thêm tính Kim, thì kê tủ lạnh ở góc phía Tây của gian bếp hoặc phòng khách.
– Nếu chủ gia đình là nữ, muôn tăng thêm tính Kim, thì đặt tủ lạnh ở phía Tây Nam của gian bếp hoăc phòng khách.
– Nếu là con trai cả của gia đình, muôn tăng thêm tính Kim, thì đặt tủ lạnh ở phía Đông của gian bếp hoặc phòng khách.
– Nếu là con gái cả của gia đình, muôn tăng thêm tính Kim, thì đặt tủ lạnh ở phía Đông Nam của gian bếp hoặc phòng khách.
– Nếu là con gái thứ của gia đình, muốn tăng thêm tính Kim, thì đặt ở phía Nam của gian bếp hoặc phòng khách.
– Nếu là con trai thứ của gia đình, muôn tăng thêm tính Kim, thì đặt ồ phía Bắc của gian bếp hoặc phòng khách.
Người thuộc hành Kim thì trong nhà nên kê một tủ lạnh lớn.
| ► Hướng dẫn cách xem chỉ tay để đoán vận mệnh, tài lộc của bạn |
![]() |
![]() |
Xem tình cảm và tuổi kết hôn qua các đường chỉ tay