Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo giờ sinh

Nếu kết hôn sớm sự nghiệp của người tuổi Sửu sinh giờ Tý sẽ được suôn sẻ, con cháu thịnh vượng, cuộc đời nhàn nhã, càng về già càng được hưởng phúc.
Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh giờ Tý (23-1h): Nếu kết hôn sớm sự nghiệp sẽ được suôn sẻ, con cháu thịnh vượng, cuộc đời nhàn nhã, càng về già càng được hưởng phúc.

(Hình minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Là người thông minh, đa tài nhưng hay gặp phải chuyện buồn phiền. Nếu theo nghiệp văn chương sẽ rất nổi tiếng.

Sinh giờ Dần (3-5h): Sự nghiệp gặp nhiều khó khăn, có tài nhưng không gặp thời. Tuy có nạn nhưng nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên mọi sự cát tường.

Sinh giờ Mão (5-7h): Cuộc đời gặp nhiều trắc trở, nhiều khi vì công việc của mình mà làm ảnh hưởng tới người thân. Theo đó, họ nên tính toán cẩn trọng khi tiến hành bất cứ công việc gì.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Tuổi Sửu sinh giờ này thường ít có được may mắn, hay gặp phải phiền toái, bế tắc trong cuộc sống. Số mang âm khí nặng nề nên cần đề phòng bị người khác phá.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Nhờ có sao Quan Âm chiếu mệnh nên kho của tràn đầy. Tuy nhiên, nên thận trọng trong việc kết giao bạn bè.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Giờ này được sao Đào Hoa, Chỉ Bối chiếu mệnh nên có số tài tử, phong lưu.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Sửu - Mùi xung khắc, nên sinh vào giờ này thường ít được may mắn, hạnh phúc không toàn vẹn. Cần đề phòng chuyện liên quan đến pháp luật.

Sinh giờ Thân (15-17h): Nhờ có sao Tử Vi chiếu mệnh nên người sinh giờ này được hưởng phúc trời ban, có quý nhân giúp đỡ, tài vận lên như diều gặp gió, cuộc đời bình an.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Tuổi Sửu sinh giờ này bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên tài năng bị phá tán, cuộc đời gặp nhiều gian nan, thử thách.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Giờ này có sao Thiên Đức chiếu mệnh nên sự nghiệp nay đây mai đó. Số phải xa nhà lâu năm.

Sinh giờ Hợi (21-23h): Vì Sửu thuộc mệnh Thổ nên khắc Hợi mệnh Thủy. Những người tuổi Sửu sinh vào giờ này thường cả đời phải ở những nơi xa xôi, nguy hiểm. 

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)

 

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo giờ sinh

Giết người bằng ánh mắt - chuyện thật như đùa (phần 1)

Đôi mắt rất quen thuộc với con người nhưng khả năng kì lạ của mắt thì mới đây các nhà khoa học mới khám phá ra. Việc giết người bằng ánh mắt là có thật
Giết người bằng ánh mắt - chuyện thật như đùa (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đôi mắt rất quen thuộc với con người nhưng khả năng kì lạ của mắt thì mới đây các nhà khoa học mới khám phá ra.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Giet nguoi bang anh mat - chuyen that nhu dua (phan 1) hinh anh
 
1- Đôi mắt máy ảnh
Một câu chuyện khó tin nhưng có thật đã được nhiều người biết đến từ cuối thế kỷ 19. Chuyện xảy ra với họa sĩ mê chụp ảnh Pie Buse người Pháp. Một buổi chiều, ông uống rượu say và ngủ ngay trong phòng làm ảnh. Ông mơ thấy hàng đoàn súc vật lạ, hình dáng kỳ quái, mắt xanh, đuổi theo ông. Sáng hôm sau, khi tráng các cuộn phim mới chụp, ông vô cùng ngạc nhiên thấy trên một số tấm phim xuất hiện hình ảnh những con vật kỳ lạ mà ông mơ thấy đêm trước.
 
Ông đã kể lại cho người bạn thân của mình là Emilo Sapilo – nhà nghiên cứu tự nhiên học nổi tiếng thời đó nghe. Ông Sapilo liền mang những tấm phim có hình ảnh lạ ấy đến phân tích và nghiên cứu tại Viện Hàn lâm khoa học Pháp. Ít lâu sau, bài báo đầu tiên nói về “những bức ảnh tâm thần” và các tia kỳ lạ phát ra từ đôi mắt của con người được công bố. 
 
Liên tiếp ngay sau đó, hàng loạt câu chuyện ly kỳ khác về sức mạnh của ánh mắt được đăng tải trên báo chí. Hóa ra, không chỉ có họa sĩ Pie Buse mà nhiều thợ ảnh ở Vowrrionhet, Permi, Calinin cũng đã từng “chụp” được những bức ảnh mà trên thực tế hoàn toàn không tồn tại như cảnh tượng về chiến tranh, con tàu của người ngoài hành tinh… theo cách tương tự. Lúc đầu, người ta chỉ coi đó là ảo ảnh. Nhưng về sau, những hiện tượng như vậy được ghi lại ngày càng nhiều, xảy ra với những con người hoàn toàn khỏe mạnh về tâm thần. Do đó, đã khiến cho giới khoa học quan tâm lưu ý. 
 
Nổi tiếng nhất trong loạt hiện tượng này phải kể đến một thủy thủ người Tây Ban Nha tên là Tet Xerios. Năm 1963, trước sự giám sát của một ủy ban đặc biệt với nhiều nhà khoa học danh tiếng, anh ta đã chứng minh cho mọi người thấy là mình không chỉ có khả năng dùng ánh mắt để làm hỏng phim ảnh mà còn có thể ghi lại được các hình ảnh mình tưởng tượng trong đầu lên phim! 
 
2- Đôi mắt sai khiến Các nhà Yoga và pháp sư Tây Tạng sau một quá trình luyện tập lâu dài có thể dùng ánh mắt để thuần hóa thú dữ thậm chí tiêu diệt chúng . Những nhà dạy thú chuyên nghiệp và nhiều kinh nghiệm cũng khẳng định rằng họ có thể bắt thú vật dừng lại bằng một cái nhìn và để điều khiển các con vật thì ánh mắt nhiều khi còn hiệu quả hơn khẩu lệnh. 
 
Nhiều nhà sử học từng bình luận, cái nhìn của Lev Tolstoi dường như có thể xuyên thấu người đối thoại như một tia rơn-ghen. Còn cái nhìn của Stalin thường khiến người khác phải cụp mắt xuống và tê liệt ý chí. Ngoài ra, nhà ngoại cảm nổi tiếng Roza Kuleshova có thể nhắm mắt nhìn thấy những đồ vật ở khoảng cách 3m và “đọc thư” trong các phong bì dán kín
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giết người bằng ánh mắt - chuyện thật như đùa (phần 1)

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi Giáo sư Lê Trung Hưng
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1. Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2. Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không, Kiếp
3. Đời là bể khổ: cung ách
4. Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5. Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6. Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7. Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8. Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9. Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10. Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

Bây giờ xin vào chi tiết:

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy).

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó:
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc:
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10- Anh hùng tạo thời thế:
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Infographic: Bí quyết bài trí phòng ngủ hợp phong thủy

Trong suốt cuộc đời mỗi con người, có đến một phần ba thời gian dành cho giấc ngủ, bởi vậy phong thủy phòng ngủ có ảnh hưởng không nhỏ đối với vận khí thịnh
Infographic: Bí quyết bài trí phòng ngủ hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong suốt cuộc đời mỗi con người, có đến một phần ba thời gian dành cho giấc ngủ, bởi vậy phong thủy phòng ngủ có ảnh hưởng không nhỏ đối với vận khí thịnh suy của một người. Cùng ## "nằm lòng" một vài bí quyết bài trí phong thủy phòng ngủ chuẩn bạn nhé!

 
Infographic Bi quyet bai tri phong ngu hop phong thuy hinh anh
 





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Infographic: Bí quyết bài trí phòng ngủ hợp phong thủy

Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Hỏa

Người tuổi Thìn mệnh Hỏa là những người sinh năm Giáp Thìn (1904 hoặc 1964). Cũng giống như người tuổi Thìn mệnh Mộc, người tuổi Thìn mệnh Hỏa có chí tiến thủ
Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thìn mệnh Hỏa là những người sinh năm Giáp Thìn (1904 hoặc 1964). Cũng giống như người tuổi Thìn mệnh Mộc, người tuổi Thìn mệnh Hỏa có chí tiến thủ mạnh mẽ, có lý tưởng cao xa. Đây cũng là người rất quyết đoán, kiên định. Tuy mang mệnh Hỏa nhưng họ khá cẩn trọng trong công việc. Họ không ngại khó khăn gian khổ và luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

3 con giap doi van thanh cong trong nhung thang cuoi nam 2016
 

Khi giải quyết công việc, người tuổi Thìn mệnh Hỏa tự tin nhưng không chủ quan, luôn cân nhắc đến từng chi tiết cũng như toàn cục để tìm ra phương án tốt nhất. Mọi kế hoạch của họ đều được xây dựng trên nền tảng thực tế. Thành công đến với họ từng bước và chắc chắn.

Nếu được sao tốt tương trợ, với năng lực và ý chí phấn đấu của bản thân, người tuổi Thìn mệnh Hỏa sẽ đạt được nhiều thành công. Nếu không được sao tốt tương trợ, con đường công danh của họ sẽ phải trải qua nhiều thử thách.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Hỏa

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Giải Thần trong Tử vi, sao Giải Thần nằm trong bộ ba sao hóa giải đó là thiên giải, địa giải và giải thần.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Giải Thần trong Tử Vi

sao Giải Thần chủ hóa về hung cát, tiêu trừ tai ách, gặp dữ hóa lành. Nhưng đối với các hung tinh thuộc hệ thống sao cấp 1 như Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kị thì sao Giải Thần chỉ có thể giảm bớt hung hại, chứ không thể giải trừ hết.

Sao Giải Thần chủ về linh cảm có trực giác hết sức đặc biệt, thường trước khi xảy ra nguy hiểm, thì trong lòng đã có cảm ứng mà tránh được nguy hiểm. Khi công việc gặp phải phiền não, sao Giải Thần cũng có thể tự giải quyết, biến mọi trở ngại thành động lực tích cực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính cơ bản của sao Giải Thần trong Tử Vi

Cách hóa giải phong thủy xấu đến từ nhà hàng xóm

Ngoài việc bố trí ngôi nhà mình ở hợp phong thủy, bạn cũng nên để ý đến môi trường sống xung quanh. Có thể sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến từ ngôi nhà của hàng xóm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều ngôi nhà phải chịu sự ảnh hường xấu đến từ những ngôi nhà bên cạnh hoặc đối diện. Khi hàng xóm thân thiện và tốt bụng, thì năng lượng của họ đến với bạn là năng lương dương. Nhưng khi họ không thân thiện và xung khắc, thì năng lượng của họ là âm, có ảnh hường không tốt. Khi hàng xóm thường xuyên phát ra năng lượng âm sang nhà bạn, bạn nên phát hiện kịp thời để chuyển hướng hoặc hóa giải nó.

Xử lý khí xung khắc:

Khí xung khắc từ hàng xóm có thể là khí tương đối vô hại do những lời nói xấu, sự ganh ghét hoặc những chuyện làm bạn bực mình, chẳng hạn như nhà hàng xóm có con nít gây ồn ào làm mất sự nghỉ ngơi yên tĩnh của bạn, làm bạn bực mình. Nếu có thể thương lượng với nhà hàng xóm bạn nên đặt một chậu/ bồn nước, miệng rộng và đáy hẹp giữa nhà bạn và nhà họ.



Nước yên tĩnh là nước âm. Nếu hàng xóm ồn ào, hãy đặt một chậu nưóc cạnh tưòng hoặc hàng rào tiếp giáp để thu hút hết tiếng ồn.

Dùng gương: Nếu năng lượng đến nhà bạn có tính chất xấu xa, hắc ám và mang tính chất thù hận, bạn phải dùng biện pháp mạnh để xử lý. Có nhiều cách khác nhau để bảo vệ gia đình bạn. Trong nhiều năm, người Trung Quốc đã dùng một gương tròn có hình biểu tượng bát quái.

Cách này thực sự rất mạnh và có hại vì nó làm dội lại năng lượng xấu và khuếch đại gấp ngàn lần. Điều này không cần thiết. Thay vào đó, bạn có thể dùng một gương tròn, đường kính 30 cm để phản xạ năng lượng xấu trở lại. Nếu có rác và những đồ tạp nhạp gần tường, hàng rào dùng chung với nhà họ, bạn hãy dọn dẹp chứng đi. Khi bạn giữ cho khí lưu thông giữa nhà bạn và nhà hàng xóm được thông thoáng, và bức tường hoặc hàng rào ngăn cách được trang trí bằng những hình ảnh tốt đẹp như chim và trái tim, thì bạn sẽ cảm thấy có nhiều chuyển biển tích cực tốt đẹp giữa hai gia đình.

Treo chuông cũng là cách hiệu quả để phân tán năng luợng âm từ nhà hàng xóm. Vấn đề là bạn có thể vô tình khuếch đại loại khí âm hiện có, và có thể người hàng xóm không bằng lòng. Vì vậy, bạn có thể dùng gương kết hợp với bồn nước yên tĩnh.

(Theo 162 cách sắp xếp nhà cửa hợp phong thủy)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải phong thủy xấu đến từ nhà hàng xóm

Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Ngũ hành và 12 con giáp có quan hệ gì không? Hãy xem tính cách và vận mệnh người tuổi Dần khác biệt gì khi tương ứng với ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhé
Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành và 12 con giáp có mối quan hệ gì không? Hãy cùng xem tính cách và vận mệnh người tuổi Dần có gì khác biệt khi tương ứng với ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhé.
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ


Ngũ hành và con giáp tưởng chừng không có mối quan hệ chung nhưng kì thực lại gắn bó mật thiết và ảnh hưởng khá lớn đến tính cách, vận mệnh của con người. Cùng là mệnh Kim nhưng sinh vào các con giáp khác nhau thì chắc chắn sẽ có nhiều điểm khác biệt. Tương tự như vậy, cùng là tuổi Dần nhưng mang mệnh riêng biệt thì vận số cũng chẳng thể giống nhau.

 

Người tuổi Dần tính cách mạnh mẽ, có tố chất lãnh đạo. Vậy khi ứng với ngũ hành thì con giáp này có những điểm gì nổi bật. Hãy cùng khám phá tính cách, vận mệnh người tuổi Dần theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cùng Lịch ngày tốt nhé.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

Theo năm sinh, ta có thể nhận biết ngũ hành của người tuổi Dần như sau:

 

Người sinh năm Nhâm Dần ngũ hành thuộc Kim: 1962, 2022

Người sinh năm Canh Dần ngũ hành thuộc Mộc: 1950, 2010

Người sinh năm Giáp Dần ngũ hành thuộc Thủy: 1914, 1974

Người sinh năm Bính Dần ngũ hành thuộc Hỏa: 1926, 1986

Người sinh năm Mậu Dần ngũ hành thuộc Thổ: 1938, 1998

 

Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên Lịch ngày tốt cũng có thể giúp bạn tra cứu nhanh về ngũ hành của mình đó.

 

Nếu bạn cần tiết kiệm thời gian và muốn xem ngay đến nội dung cần tìm, hãy click vào Mục lục dưới đây nhé.
 

        MỤC LỤC

  1. Tuổi Dần mệnh Kim
  2. Tuổi Dần mệnh Mộc
  3. Tuổi Dần mệnh Thủy
  4. Tuổi Dần mệnh Hỏa
  5. Tuổi Dần mệnh Thổ

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh

 

1. Tuổi Dần mệnh Kim

 

Dần Kim là những người thích yên tĩnh, yêu cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Họ cũng là mẫu người của gia đình, đi đâu làm gì cũng hướng về tổ ấm thân thương, sẵn sàng làm tất cả mọi thứ để những người mình yêu thương được hạnh phúc.

 

Nữ giới thuộc nhóm này tính cách rất nhiệt tình, song nam giới lại có phần khác biệt, trong nóng ngoài lạnh. Họ cũng có phần nữ tính, do dự không quyết đoán, bốc đồng song không dám chịu trách nhiệm. Nữ giới là những người mạnh mẽ và khó có thể thao túng.

 

Những người tuổi Dần mệnh Kim luôn hiểu rõ những việc mình cần làm, tinh thần nghiêm túc, “làm ra làm, chơi ra chơi”. Họ sẽ hoàn thành công việc nơi công sở chứ không mang về nhà. Căn nhà là thánh địa của gia đình, họ không muốn để công việc ảnh hưởng đến thời gian dành cho người thân.

 

Với một nửa của mình, những người này luôn dịu dàng và biết cảm thông, chia sẻ. Có điều họ khá trầm lặng và không biết nói những lời mật ngọt nên đôi khi khiến đối phương không cảm nhận được tình cảm cháy bỏng đó.

 

Người tuổi Dần mệnh Kim có một nhược điểm chính là cố chấp, không chịu nghe lời khuyên bảo, góp ý của mọi người. Trên thực tế, do tính cách có phần bốc đồng nên họ rất cần một người đứng sau chỉ rõ đúng sai, đưa ra những lời khuyên chân thành nhất.

 

Người cầm tinh con Hổ đều khá đam mê quyền lực, có tham vọng rất lớn. Nếu xác định mục tiêu và nỗ lực không ngừng thì chắc chắn họ sẽ là những người cực kì thành công trong xã hội.

 

Mang mệnh Kim, những con Hổ này rất có tài xã giao, đặc biệt làm rất tốt các mối quan hệ trong công việc. Họ được đồng nghiệp yêu quý, đối tác tin tưởng, công việc thuận buồm xuôi gió.

 
Cùng xem Người tuổi Dần nên hợp tác làm ăn với tuổi nào để chọn cho mình đối tác thực sự tin tưởng nhé.
 

Tuy nhiên chớ thấy vận số tốt đẹp mà lơi lỏng ý chí, lười biếng nghỉ ngơi. Khi làm việc nên tập trung chú ý, không suy nghĩ viển vông. Tham gia nhiều cuộc thi, chớp lấy từng cơ hội vụt qua trước mắt sẽ giúp cho tỷ lệ thành công cao hơn rất nhiều.

 

Người này nếu có buồn khổ thì chủ yếu thường là do chuyện tình cảm không như ý. Nam giới mệnh này hay đau đầu vì nửa kia tính tình thất thường, buồn vui bất chợt. Nhưng chỉ cần bạn nhẫn nại hơn, thể hiện tình cảm của mình nhiều hơn nữa thì hôn nhân sẽ bớt đi rất nhiều sóng gió.

 

Nữ giới mệnh này hay nóng giận, bực tức vì chuyện gia đình, vì hành động của người thân. Con cái không nghe lời khiến họ vô cùng tức giận, dễ nảy sinh mâu thuẫn giữa mẹ và con. Đã thế chồng họ lại thường phải đi công tác xa nhà nên cảm giác bất an ngày càng gia tăng.

 

Bạn nên học cách tin tưởng mọi người, đừng suy nghĩ, nghi kị quá nhiều. Quan tâm vừa phải chứ đừng xâm phạm quyền riêng tư của người khác.Với nửa kia của mình, hãy thể hiện nét dịu dàng nữ tính, “lạt mềm buộc chặt”, có thể hôn nhân mới bền vững lâu dài.

 
Mời bạn xem thêm Tử vi năm 2017 để biết rõ hơn về vận thế của mình trong năm nhé.
 

Chuyện tiền bạc cần minh bạch rõ ràng, nhất là khi cho vay mượn để tránh sau này nảy sinh tranh chấp, mất đi tình cảm quý báu giữa anh em, bè bạn. Khi nói chuyện với mọi người, hãy tập trung lắng nghe, rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu, đồng thời cùng mọi người bàn bạc, thương lượng các vấn đề hệ trọng trước khi hành động.

 

Vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim về sự nghiệp phát triển khá rực rỡ, tài sản cũng sung túc dồi dào. Làm việc khổ cực vất vả là mệnh số không thể tránh, song hãy luôn ghi nhớ chớ lỗ mãng hành sự để giảm thiểu thất thoát không đáng có.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

2. Tuổi Dần mệnh Mộc

 

Người này bản tính trời sinh không ưa nghe sự chỉ đạo của người khác, vì thế không hợp làm các nghề dịch vụ, phải “làm dâu trăm họ”. Họ dũng cảm, không e ngại cường quyền, sẵn sàng phản kháng lại trước kẻ địch mạnh.

 

Song người này lại có trái tim lương thiện, rất đồng cảm với những người yếu đuối, có hoàn cảnh khó khăn. “Giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”, biết người khác gặp nạn, họ không thể che giấu lương tâm mà bó tay quan sát. Đặc biệt, khi bạn bè gặp khó khăn, họ là những người đầu tiên đưa tay giúp đỡ, quyết chẳng từ nan.

 

Tính cách thích giúp đỡ người khác của người tuổi Dần mệnh Mộc tuy rất tốt, nhưng đôi khi nó lại trở thành điểm yếu, khiến họ dễ bị lường gạt. Vì thế mà người này nên cẩn trọng hơn trong giao tiếp và xử lý các mối quan hệ. Tốt nhất đừng giúp người đứng ra đảm bảo về tài chính, vay mượn tiền bạc kẻo rước họa vào thân.

 

Họ là người có cá tính mạnh, có cái tôi rất lớn, thường tự cho mình là đúng. Nếu muốn thành công trong cuộc đời, nên sửa đổi thói quen này, tập cho mình đức tính khiêm nhường. Họ sống khá thực tế, chỉ làm những việc có lợi cho mình nên trong ấn tượng của một số người, tuổi Dần mệnh Mộc có phần ích kỉ, chỉ nghĩ cho mình, lại háo thắng, không dễ nghe lời người khác, hành sự xốc nổi.

 

Tuy nhiên, nếu quen biết lâu dài, bạn sẽ thấy đây là người rất trọng nghĩa khí, đề cao chữ tín. Những việc họ đã hứa thì nhất định sẽ làm. Những chuyện đã quyết thì hiếm khi lung lay, dao động bởi ý kiến của người khác.

Tử vi trọn đời có thể giúp bạn biết trước được nhiều điều cần chú ý trong tương lai, đừng bỏ qua nhé.

 

Người tuổi Dần mệnh Mộc thông minh lanh lợi, học một biết mười. Nếu còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chớ cậy mình tài giỏi mà lười biếng. Nên nỗ lực học tập, chọn cho mình ngành học yêu thích và chuyên tâm đào sâu tìm hiểu. Hãy tự tin vào bản thân mình, đừng bỏ qua cơ hội ra nước ngoài tu nghiệp.

 

Với những bạn đã ra ngoài xã hội, công việc khó tránh khỏi vất vả, hãy cố gắng nghiên cứu thêm về công việc mình đang làm, đặt cho bản thân nhiều mục tiêu để phấn đấu không ngừng. Chắc chắn những nỗ lực của bạn sẽ được cấp trên ghi nhận. Hãy tận dụng từng cơ hội dù nhỏ nhoi bên mình, sẽ có thành quả bất ngờ dành cho bạn.

 

Chuyện tình cảm tốt nhất không nên bắt đầu khi còn đang đi học, bởi dễ ảnh hưởng đến tinh thần học tập. Về gia đình, sức khỏe song thân có phần kém, sự nghiệp của bố có chút trì trệ song cơ bản không có gì đáng ngại. Tuy nhiên nên chú ý quan tâm chăm sóc nhiều hơn đến mẹ, giải tỏa tinh thần cho mẹ. Hãy dành nhiều thời gian bên gia đình, học cách quan tâm, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với bố mẹ.

 

Xem bói tử vi, vận mệnh người tuổi Dần nhóm này may mắn gặp khá nhiều cơ hội kiếm tiền phát tài phát lộc. Khi khó khăn dễ được người phụ nữ lớn tuổi tài trí nâng đỡ khỏi nguy nan. Tuyệt đối không được vướng vào cờ bạc, nên dùng tiền để mua những thứ thực sự giá trị và sử dụng được lâu dài.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

3. Tuổi Dần mệnh Thủy

 

Người tuổi Dần mệnh Thủy tài trí hơn người, học hành giỏi giang, lại ham mê tìm tòi khám phá những thứ mới lạ. Họ có tài năng thiên bẩm về nghệ thuật và các đồ thủ công, thậm chí có thể đạt tới trình độ khá tinh thâm.

 

Lòng tự tôn của người này rất lớn, luôn tự mình hành động. Suy nghĩ cao xa, đôi khi có phần kiêu ngạo, không dễ chấp nhận ý kiến của người khác. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của người này. Tuy nhiên, họ lại hiếm khi rơi vào cảnh này nên khiến người khác nảy sinh lòng đố kị.

 

Sự nghiệp của những con Hổ mệnh Thủy trải qua khá nhiều thăng trầm, khi thăng tiến không ngừng, khi lại trì trệ không nên. Nếu có được sự giúp đỡ của nửa kia hoặc bạn bè thì sẽ có được những bước tiến mới trên con đường phía trước.

Bạn có biết rằng người tuổi Dần nằm trong số 4 con giáp hậu vận cực tốt, càng già càng giàu nứt đố đổ vách không?

 

Có điều, người mệnh này nên chú ý đừng dễ dàng tin người quá mức, trước khi làm gì cũng phải đặc biệt cẩn thận, luôn giữ cho mình phương án dự phòng để đối phó với những tình huống bất ngờ xảy ra. Suy xét chu đáo kĩ càng thì mới khiến cho kế hoạch đề ra được tiến hành thuận lợi. Chỉ cần bạn nguyện ý nỗ lực thì chắc chắn thành quả thu được sẽ không khiến bạn thất vọng.

 

Hãy trân trọng tình cảm mà bạn đang có, nếu không bạn có thể sẽ phải mất đi người mình yêu. Khi hẹn hò, nên nói đến những chuyện mà cả hai người đều cùng có hứng thú. Những người đã lập gia đình thì nên kiểm soát cảm xúc, tránh mâu thuẫn, tranh cãi giữa hai vợ chồng. Dùng tình yêu để hóa giải hiểu lầm, giữ cho gia đình êm ấm, thuận hòa.

 

Người này rất thuận lợi trong việc xin vay vốn ngân hàng, tuy nhiên khi thực sự cần thiết mới nên dùng đến cách này. Trong cơn khốn khó, rất có thể sẽ có cơ hội kiếm tiền đến bất ngờ, hóa giải mối nguy. Tiền bạc dư dả có thể suy nghĩ đến việc đầu tư, bắt đầu từ những món nhỏ, chớ nên để lợi danh làm mờ mắt.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

4. Tuổi Dần mệnh Hỏa

 

Đây là người tính tình thẳng thắn, đã nói là làm. Họ làm việc rất nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm cao. Tài năng có thừa, lại thông minh ham học hỏi, những việc họ đã quyết thì dù thế nào cũng không từ bỏ, phải cố gắng thế nào cũng nhất định làm đến được mới thôi.

 

Đã nghiên cứu vấn đề gì, người tuổi Dần mệnh Hỏa sẽ đào sâu tìm tòi, hiểu thật cặn kẽ mới thôi. Gặp được người cùng chung chí hướng hay sở thích, họ sẽ thao thao bất tuyệt, nói không ngừng về ý kiến của mình.

 

Trời sinh thông minh đĩnh ngộ, phản ứng lanh lẹ nên thời cắp sách đi học, thành tích học tập của người này thường đứng đầu lớp, là học trò cưng của các thầy cô. Họ thích các hoạt động ngoại khóa, cũng năng nổ nhiệt tình tham gia các hoạt động tập thể.

 

Có điều, người này có tham vọng rất lớn, chí hướng cao xa, tính tình lại có phần kiêu ngạo và cô độc, thích nghe những lời khen ngợi, tán thưởng. Nên cẩn trọng khi kết bạn, đừng vội tin những lời khen thưởn từ người khác kẻo bị dụ dỗ mua chuộc hoặc lừa gạt.

 

Nên học cách tự chăm sóc bản thân, chú ý nhiều hơn đến các vấn đề sức khỏe. Nếu ốm đau bệnh tật đừng cố chịu đựng một mình mà phải ngay lập tức đi khám chữa kịp thời, chớ để lỡ thời cơ chữa bệnh tốt nhất.

Cùng xem Vận may 12 con giáp 6 tháng cuối năm 2017 là gì và đừng để lỡ thời cơ phát tài phát lộc nhé.

 

Người tuổi Dần mệnh Hỏa có phần nóng tính, nên giữ bình tĩnh, cũng chính là giữ hòa khí trong gia đình. Nên quan tâm chăm sóc người thân, dành nhiều thời gian bên gia đình, tạo cho mọi người những khoảng thời gian vui vẻ và những kỉ niệm tuyệt vời bên nhau.

 

Người này rất có tài trong việc quản lý tài chính, biết hưởng thụ mà cũng biết tiết kiệm cho tương lai. Dù trong cảnh khó khăn hay bệnh tật thì cuối cùng vẫn may mắn bình an thoát nạn.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Dan menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

5. Tuổi Dần mệnh Thổ

 

Những người sinh năm Hổ mà mang mệnh Thổ thì tính cách có phần cao ngạo, cực kì tự tin, cũng có nhiều khát khao và lý tưởng cao xa. Họ có tham vọng gây dựng sự nghiệp lớn lao, giành địa vị cao trong xã hội và được nhiều người nể trọng. Nên kiểm soát bản thân, đừng quá tham lam kẻo tự hại chính mình.

 

Người này bản chất lương thiện, giàu lòng trắc ẩn, hay giúp đỡ mọi người. Với bạn bè, họ là người đáng tin cậy và là chỗ dựa cho bạn mỗi khi cần. Là người khẳng khái, giúp đỡ người khác hoàn toàn xuất phát từ trái tim chứ không cần báo đáp, song họ có nhân duyên tốt, từ đó kết giao được những người bạn đáng quý.

 

Họ có niềm yêu thích với các vấn đề huyền bí hoặc liên quan đến triết học. Nếu bỏ thời gian và công sức tìm hiểu thì rất có thể sau này sẽ có thành quả bất ngờ.

 

Trong công việc, họ được cấp trên tin tưởng và đánh giá cao, song cần nhạy bén nắm bắt cơ hội để có nhiều không gian phát triển năng lực hơn nữa và thu được kết quả ngoài mong đợi. Nên tận dụng thời gian rảnh rỗi để nghiên cứu tìm tòi thêm kiến thức mới, nâng cao năng lực bản thân, tạo dựng nền tảng vững chắc cho sự thăng tiến sau này.

 

Thích tự mình lập nghiệp, người tuổi Dần mệnh Thổ thường có óc sáng tạo cao và đưa ra nhiều ý tưởng mới mẻ. Nếu có thể cùng nửa kia của mình nghiên cứu và phát triển kế hoạch sâu hơn nữa thì nguồn lợi thu về sẽ cực kì xứng đáng.

Bạn đã biết Người tuổi Dần hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để có được hạnh phúc viên mãn chưa?

 

Trong chuyện tình cảm, nên thường xuyên tạo cơ hội hâm nóng tình cảm. Cảnh giác trước sự đe dọa của kẻ thứ ba rình rập chen chân vào mối quan hệ hai người. Luôn cố gắng dành thời gian quan tâm đến nửa kia của mình, đừng bỏ lơ họ cô đơn một mình, nếu không sẽ rất dễ dẫn đến ngoại tình. Nghiêm trọng hơn, chẳng những ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình mà còn có thể khiến sự nghiệp của cả hai chịu tổn thất nặng nề.

 

Người tuổi Dần mệnh Thổ may mắn có quý nhân phù trợ nên dù có gặp trắc trở thì tới cuối cùng vẫn thuận lợi vượt ải thoát nguy. Nên cố gắng học hỏi nhiều hơn, đưa ra nhiều ý tưởng độc đáo và kiên trì thực hiện, thành công sẽ không còn xa nữa.
 

Hy Vũ 

Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần Tính cách người tuổi Dần nhóm máu B: Bảo thủ cố chấp, lạc quan tự tin Bói nghề nghiệp năm 2017 cho người tuổi Dần Quá thông minh và mạnh mẽ phải chăng là lý do khiến tuổi Dần cao số?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Cùng tìm hiểu xem Can Chi là gì, được sử dụng như thế nào trong tử vi phương Đông,và cách tính Can Chi và mệnh năm sinh như thế nào.
Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cach-tinh-can-chi-menh-nam-sinh-trong-tu-vi-phuong-dong

Thiên Can Địa Chi, hay Can Chi, là hệ thống đánh số thành chu kỳ 60 năm trong Âm lịch để xác định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, tháng, năm). Theo PGS, TS Đàm Đức Vượng, Can Chi còn được áp dụng để nghiên cứu về Trời - Đất ứng dụng vào số phận của từng người qua 12 con giáp.

1. Thiên Can

Thiên Can bao gồm 10 yếu tố có mối liên hệ với Âm-Dương và Ngũ hành:

Can Âm-Dương Hành
Giáp Dương Mộc
Ất Âm Mộc
Bính Dương Hỏa
Đinh Âm Hỏa
Mậu Dương Thổ
Kỷ Âm Thổ
Canh Dương Kim
Tân Âm Kim
Nhâm Dương Thủy
Quý Âm Thủy

2. Địa Chi

Địa Chi bao gồm 12 chi, là 12 con vật trong hoàng đạo của tử vi phương Đông, hay còn gọi là 12 con giáp theo thứ tự dưới đây:

Chi Hoàng đạo Hành
Chuột Thủy
Sửu Trâu Thổ
Dần Hổ Mộc
Mão Mèo Mộc
Thìn Rồng Thổ
Tỵ Rắn Hỏa
Ngọ Ngựa Hỏa
Mùi Thổ
Thân Khỉ Kim
Dậu Kim
Tuất Chó Thổ
Hợi Lợn Thủy

3. Hướng dẫn tính Can Chi theo năm sinh

Can: Số cuối cùng trong năm sinh âm lịch của bạn chính là hàng can. Lấy số đó đối chiếu với bảng quy ước các số tương ứng Thiên Can theo năm sau:

Số quy ước 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Can Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ  

Chi: Lấy hai số cuối trong năm sinh âm lịch của bạn chia cho 12, số dư của phép chia tương ứng với Địa Chi năm sinh đó theo bảng quy ước số sau:

Số quy ước 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Chi Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi

Ví dụ: Bạn sinh năm 1990

Số cuối trong năm sinh của bạn là số 0. Đối chiếu với bảng Can, ta được kết quả là Canh.

Tiếp tục, lấy hai số cuối năm sinh là 90 chia cho 12. Ta được:

90 : 12 = 7 dư 6.

Đối chiếu với bảng Chi, kết quả là Ngọ.

=> Can - Chi năm sinh 1990 của bạn là năm Canh Ngọ.

4. Hướng dẫn tính mệnh năm sinh theo Can Chi

Để tìm được mệnh năm sinh, ta lấy trị số quy ước của Can cộng với trị số quy ước của Chi, áp dụng công thức: Can + Chi = Mệnh năm sinh.

Bảng quy ước trị số Thiên Can:

Số quy ước 1 2 3 4 5
Can Giáp, Ất Bính, Đinh Mậu, Kỷ Canh, Tân Nhâm, Quý

Bảng quy ước trị số Địa Chi:

Số quy ước 0 1 2
Chi Tý, Sửu, Ngọ, Mùi Dần, Mão, Thân, Dậu Thìn, Tỵ, Tuất, Hợi

Sau khi cộng hai trị số quy ước Can - Chi vào, ta được kết quả. Đối chiếu kết quả đó với bảng trị số quy ước mệnh năm sinh dưới đây (Nếu kết quả phép tính > 5, trừ đi 5 để ra trị số mệnh tương ứng):

Số quy ước 1 2 3 4 5
Mệnh Kim Thủy Hỏa Thổ Mộc

Ví dụ: Bạn sinh năm 2013, Quý Tỵ.

Trị số quy ước hàng Can năm sinh của bạn theo bảng trên là số 5.

Trị số quy ước hàng Chi năm sinh của bạn theo bảng là số 2.

Áp dụng công thức: Can + Chi = Mệnh, ta được:5 + 2 = 7.

Do 7 > 5, ta tiếp tục làm phép trừ: 7 - 5 = 2.

Kết quả cuối cùng là số 2. Đối chiếu kết quả với bảng trị số quy ước mệnh năm sinh, kết quả là Thủy.

=> Mệnh năm sinh của bạn là mệnh Thủy.

                                                                                                       Alexandra V (Nguồn tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Có nên đeo đá phong thủy không? –

Có rất nhiều bạn hỏi có nên đeo đá phong thủy không? Câu trả lời rằng: chúng ta nên đeo đá phong thủy. Bởi lẽ đá phong thủy là 1 vật mang linh khí vô cùng mạnh mẽ nhưng nó vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực tới người đeo. Vì vậy việc đeo đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều bạn hỏi có nên đeo đá phong thủy không? Câu trả lời rằng: chúng ta nên đeo đá phong thủy. Bởi lẽ đá phong thủy là 1 vật mang linh khí vô cùng mạnh mẽ nhưng nó vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực tới người đeo. Vì vậy việc đeo đá phong thủy không phải chuyện giỡn chơi, đeo sai cách sẽ mang tới nhiều tai ương bất ngờ cho bạn.

Nội dung

  • 1 Có nên đeo đá phong thủy không?
    • 1.1 Nguyên nhân vì sao đá phong thủy mang nhiều công dụng
      • 1.1.1 Đối với sức khỏe
      • 1.1.2 Về mặt phong thủy
  • 2 Để đá phong thủy phát huy hết tác dụng phải tuân thủ nguyên tắc

Có nên đeo đá phong thủy không?

Một số người cho rằng chỉ việc đeo đúng cung mạng sẽ có sức mạnh vô biên, tiền vô như nước? Điều này là chưa đúng. Vô số bạn trẻ rộ lên trào lưu bán đá rồi tự nhận bản thân rất sành sỏi về đá.

Thật chất phong thủy là 1 môn khoa học ở Phương Đông, là tổng hợp rất nhiều nhân tố về địa hình, địa thế xung quanh nơi chỗ, làng xóm, nông thôn,…

Phong thủy là 1 môn khoa học hết sức khó hiểu, muốn hiểu phong thủy, nhất định cần thấu hiểu kinh dịch, hiểu về thuyết âm dương ngũ hành.

Nguyên nhân vì sao đá phong thủy mang nhiều công dụng

Đối với sức khỏe

Đây là loại đá phải trải qua hàng nghìn năm hình thành, tích tụ năng lượng dồi dào của đất trời và vũ trụ.

Đá phong thủy mang nguồn năng lượng nhất định khi tiếp xúc với con người chúng sẽ truyền các nguồn năng lượng đó vào cơ thể người, loại bỏ các năng lượng gây bệnh ra bên ngoài. Nếu đeo đúng cách sẽ có công dụng bổ trợ.

Thế nên nhân tố bổ ích đầu tiên là sức khỏe và chỉ có đá thiên nhiên mới có công dụng này. Nếu bạn chỉ sử dụng đá làm từ thủy tinh hay nhựa tổng hợp theo đúng cung mạng thì thật chất nó chẳng có ý nghĩ gì cả.

Bên cạnh đó từng người sẽ đeo 1 loại đá khác nhau, phụ thuộc vô cơ địa con người, còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường ngày hôm ấy.

Về mặt phong thủy

Việc thay đổi số mạng của 1 người căn cứ vào phong thủy thật sự không có gì bí ẩn, trong cuộc sống, những căng thẳng thì phong thủy giữ nhiệm vụ như thế nào:

Để đá phong thủy đúng vị trí nơi ở sẽ làm thay đổi những luồng khí, tăng khí dương từ đó cảm thấy môi trường sống nhẹ nhàng, sảng khoái và mát mẻ hơn.

Để đá phong thủy phát huy hết tác dụng phải tuân thủ nguyên tắc

Vậy để trả lời cho câu hỏi có nên đeo đá tự nhiên không chúng tôi xin trả lời là còn phải tùy thuộc vào kinh nghiệm mua và chọn đá của bạn. Để đá mang tới những điều tích cực thì bạn nên tuân thủ theo các quy tắc sau:

Mua đá phong thủy phải được làm hoàn toàn từ đá thiên nhiên, đừng vì ham rẻ mà mua các loại đá kém chất lượng.

Mua loại đá hợp cung mạng, tuổi tác của mình.

Đặt đá phong thủy trong nhà phải đúng hướng và đúng vị trí.

Không đặt đá ở những nơi cấm kỵ.

Nếu không tuân theo những điều trên thì bạn sẽ tự chuốc họa vào thân mình đấy, không những không có công dụng mà nó còn mang tới cho bạn nhiều tai ương, mất mát.

Đá thạch anh là loại đá tốt nhất và mang nguồn năng lượng mạnh nhất trong phong thủy, đá thạch anh phong thủy có nhiều màu sắc thế nên hãy cẩn thận khi chọn cho mình các loại đá thạch anh nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên đeo đá phong thủy không? –

Tìm hiểu nhân tướng học là gì

Nếu bạn vẫn còn thắc mắc về nhân tướng, tướng số, hãy cùng ## tìm hiểu các căn nguyên, vấn đề cơ bản của nhân tướng học.
Tìm hiểu nhân tướng học là gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



1. Nhân tướng học

Nhân tướng học hay còn gọi là tướng học môn khoa học sử dụng phép xem tướng dự đoán về vận mệnh của con người thông qua các bộ vị thân thể của con người, từ hình thể bề ngoài đến khí chất tinh thần, cốt cách bên trong.

Theo các nhà tướng học, tướng cách là một trong những hình thức thể hiện vận mệnh, nên nhân tướng cho biết vận mệnh là điều tất nhiên.

Phép dự đoán này có từ rất lâu đời và tồn tại đến ngày nay, trở thành một nét đặc biệt luôn hấp dẫn của nền văn hóa thần bí phương Đông. Do chỉ dựa trên quan sát và kinh nghiệm mà đi đến kết luận nên nhân tướng học không được chứng minh theo kiểu khoa học thực nghiệm và tồn tại rất nhiều quan điểm phản bác.

Tim hieu nhan tuong hoc la gi hinh anh
 
Nhân tướng học Á Đông đã tổng hợp tất cả bộ môn tâm lý học phương Tây vào một mối. Còn tâm lý học phương Tây khảo sát con người qua nhiều chuyên khoa riêng rẽ.

Có học phái chuyên khảo ý thức và tiềm thức, có học phái nghiên cứu tính tình, có học phái chuyên khảo sát tác phong... Sự tồn tại song song của những chuyên khoa đó cho thấy nhân học phương Tây phân tích con người nhiều hơn là tổng hợp con người. Một khảo hướng như thế không tránh nổi khuyết điểm phiến diện.

Tim hieu nhan tuong hoc la gi hinh anh 2
 
2. Tướng thuật


Tướng thuật là phương pháp quan sát, từ những đặc trưng bên ngoài có thể nhìn thấy tính cách bên trong, đời sống tình cảm, bối cảnh gia đình, dự đoán vận mệnh tốt xấu... Phương pháp này bao gồm quan sát tướng cách bên ngoài, thông qua nói chuyện và suy đoán.

Các bộ vị trên cơ thể con người có thể được quan sát để xem tướng bao gồm tướng tay, tướng mặt, tướng xương, tướng nốt ruồi, tướng mắt, tướng giọng nói, tướng da, tướng lông tóc, tướng đi đứng, vận động...

Chỉ ra 6 đặc điểm của kẻ bại tài, có tiền chưa chắc sướng
– Dáng người cao mà thẳng mới là tướng phú quý. Còn người nào dáng cao nhưng lại cong vẹo, không thẳng, hay đến trung vận đã bị còng lưng lại
3. Tìm hiểu về ngũ quan trong nhân tướng học


Ngũ quan trên cơ thể con người bao gồm: tai (thái thính quan), lông mày (bảo thọ quan), mắt (giám sát quan), mũi (thẩm biện quan), miệng (xuất nạp quan).

Qua việc phân tích ngũ quan có thể thấy được tướng cách cơ bản, từ đó có thể phán đoán được vận thế cát hung ở mỗi người.

Thông thường, lông mày liên quan đến sức khỏe, địa vị; mắt liên quan đến ý chí, tâm địa; mũi liên quan đến tài phúc, sức khỏe’ miệng liên quan đến hạnh phúc, phúc lộc về đường ăn uống, vận quý nhân; tai liên quan đến tuổi thọ con người.

Ngọc Diệp

Tướng mặt những quý cô có thể “tùy biến” số phận của chính mình
– Sở hữu những nét tướng mặt dưới đây, quý cô luôn biết cách làm chủ số phận và có thể thay đổi nó theo ý muốn tùy thích của chính mình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu nhân tướng học là gì

Tìm may mắn cho những người tuổi Canh Thìn

Tuổi Canh Thìn (mệnh Kim, sinh năm 1940, 2000) cuộc đời nhiều may mắn, sung túc, tài lộc dồi dào, công danh rạng rỡ, số có quý nhân phù trợ.
Tìm may mắn cho những người tuổi Canh Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: Từ năm 27 tuổi mọi thứ sẽ phát triển thịnh vượng, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.

avacunghoangdao
 
Nữ Canh Thìn cần kiệm, đảm đang, hậu vận an nhàn, cuộc sống gia đình luôn hòa thuận, hạnh phúc.

Các tuổi đại kỵ với tuổi Canh Thìn là: Quý Mùi, Giáp Thân, Canh Dần, Ất Mùi, Bính Thân, Mậu Dần, Nhâm Thân. Nếu kết hợp làm ăn sẽ bị thua lỗ; nếu kết duyên sẽ không có hạnh phúc.

Những tuổi khó khăn nhất trong cuộc đời nữ giới tuổi Canh Thìn là: 25, 28, 32, 36; ở nam là: 26, 29, 33, 40.

Tính cách: Là người tài đức, hiền lành, nhạy bén, trung thực, cần cù, tiết kiệm. Thích du ngoạn và tham gia các hoạt động xã hội.

Có thể bạn quan tâm:
Tính cách sự nghiệp của người tuổi Thìn.

Tình duyên: Nữ Canh Thìn có số đào hoa, gặp nhiều may mắn trong tình duyên.

Nam giới tuổi Canh Thìn tình duyên thường lận đận nhưng cũng có hôn nhân tốt đẹp.

Nam giới tuổi này sinh vào các tháng: 5, 6, 9; nữ sinh vào các tháng: 1, 6 sẽ phải trải qua thăng trầm trong tình yêu mới có được hạnh phúc.

Để cuộc sống vợ chồng luôn hòa thuận, tốt đẹp người tuổi Canh Thìn tránh kết hôn với tuổi Mậu Tý, Nhâm Ngọ, Đinh Hợi, Tân Tỵ.

Gia đạo: Tuổi này có gia đạo êm ấm, cuộc sống sung túc, số được nhờ vả cha mẹ, anh em.

Công danh sự nghiệp: Là người có năng lực nên công danh, sự nghiệp trọn vẹn, cả đời vinh hiển. Tuy nhiên, người tuổi Canh Thìn cần biết nắm bắt thời cơ, sáng suốt khi lựa chọn và không nên ỷ lại vào người khác thì mới có sự nghiệp vững chắc.

Tiền bạc: Sự nghiệp càng vững chắc, tiền bạc càng dồi dào. Tuổi Canh Thìn trung vận, hậu vận giàu có, suốt đời may mắn, sung túc.

Ở tuổi 36, 37 cần đề phòng hao hụt tiền bạc.

Trong công việc làm ăn nên kết hợp với tuổi Canh Thìn, Bính Tuất, Kỷ Sửu, Canh Sửu để luôn thuận lợi, phát đạt.


(Theo 12 con giáp và tính cách con người theo năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho những người tuổi Canh Thìn

Xem tướng khuôn mặt chữ điền –

Khi sinh ra mỗi người sở hữu một khuôn mặt khác nhau. Hình dáng khuôn mặt cũng sẽ nói lên vận mệnh tính cách của người đó. Có người sở hữu khuôn mặt tròn, người sở hữu khuôn mặt trái xoan, người sở hữu khuôn mặt chữ điền…mỗi hình dáng khuôn mặt dự bá
Xem tướng khuôn mặt chữ điền –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

o tương lai vận mệnh mỗi người.

Theo quan điểm của nhân tướng học, vận mệnh tương lai của mỗi người không chỉ thể hiện ở ngày sinh, giờ sinh, năm sinh…mà còn thể hiện ở hình dáng khuôn mặt. Xin chia sẻ những thông tin xem tướng người khuôn mặt vuông chữ điền, theo quan niệm nhân tướng học, để các bạn cũng ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm.

Trong nhân tướng học, mặt vuông chữ điền được đánh giá là quý tướng. Người sở hữu khuôn mặt vuông chữ điền là người sở hữu quý tướng. Mặt vuông chữ điền là khuôn mặt hình chữ “điền” là khuôn mặt vuông vức, giống như hình dáng của chữ “điền”. Theo ngũ hành, khuôn mặt này thuộc hệ Kim, tiêu biểu cho sự quyết đoán, cương nghị, do đó chủ nhân vận thế tương đối tốt.

Người có khuôn mặt vuông chữ điền thường làm tướng và có sự nghiệp lớn. Nếu những người mặt đã vuông mà toàn thân người cũng vuông nữa thì các “phát tướng” phát lộc, phát tài.
Con gái sở hữu khuôn mặt vuông chữ điền biểu hiện sự đoan trang, yêu chồng, thương con, phúc hậu. Tuy nhiên, người có khuôn mặt này cần phải hài hòa các yếu tố thượng đình, trung đình, hạ đình, mới có thể đem lại vận mệnh đẹp cho mình và gia đình nhà chồng.

mặt chữ điền
mặt chữ điền

Người nam giới có khuôn mặt chữ điền, biểu trưng cho lòng trung thực, chân chất, và nhân hậu nhưng không kém phần kiên quyết và uy quyền. Mặt vuông chữ điền được coi là vẻ đẹp tiêu biểu cho nam nhi, khuôn mặt toát lên vẻ mạnh mẽ, có khí chất, là chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Đặc biệt, người có khuôn mặt này thì trán rộng, cằm hơi nhô, độ dài, rộng của cằm tương đương phần trán, hàm én mày ngài là quý tướng đem lại nhiều vận khí tốt cho cuộc đời.
Khuôn mặt vuông chữ điền thường gặp nhiều ở người nam hơn là người nữ. Người sở hữu khuôn mặt vuông chữ điền có lòng tự trọng rất cao, nếu ngũ quan tốt sẽ có là tướng tài, nhưng nếu ngũ quan xấu sẽ là những tay giag hồ có tiếng. Người mặt vuông chữ điền thường có tinh lực dồi dào, ưa vận động, hoạt bát, năng động và thích mạo hiểm tự do, không chịu sự ràng buộc, gò bó, không ưa lý luận suông mà thích thực tế, giỏi chịu đựng gian khổ. Tuy nhiên họ là người có trí lực hạn chế, ngại đọc sách và lười suy nghĩ, nhưng rất khéo tay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng khuôn mặt chữ điền –

Soi tướng miệng phú quý, cát tường

Nhìn vào sắc diện đôi môi, hình dáng khuôn miệng bạn sẽ phần nào đoán định được những điều may mắn cát tường cho cuộc đời bạn. (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Soi tướng miệng phú quý, cát tường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Miệng anh đào

Đặc điểm: Miệng tròn, môi dày, nhỏ và vuông, khóe miệng hướng lên trên, sắc môi đỏ tươi, răng như hạt lựu, khi cười giống hoa sen nở. Người có miệng này thông minh, nhân hậu, sống có tình có nghĩa. Phụ nữ có miệng anh đào nhất định sẽ gặp được chồng phú quý.

Miệng rồng

Nam giới có miệng rồng là đẹp nhất. Đặc điểm của miệng rồng là hai môi đầy đặn, ngay ngắn, khóe miệng hướng lên trên, sắc môi hồng tươi, hàm răng chắc khỏe trắng đều, dáng miệng dễ nhìn có nét thanh tú. Đây là tướng miệng của người có chức vụ và địa vị cao trong xã hội. Họ có tài lãnh đạo và chỉ huy người khác. Tổng thống Palestine Abbas là người có miệng như vậy.

Miệng ngắm trăng

Miệng cong lên giống như đang ngắm trăng, răng trắng môi đỏ là đặc điểm của miệng ngắm trăng. Người có miệng này có khiếu về văn học nghệ thuật. Họ sống có tinh thần trách nhiệm cao, khéo đối nhân xử thế, thành đạt sớm, có hậu vận tốt đẹp.

Miệng vuông

Miệng vuông còn gọi là miệng hình chữ Tứ. Đặc điểm của nó là trông giống như hình vuông, khóe miệng hai bên đối xứng nhau, môi đỏ như son, cười không lộ răng, khi ngậm miệng lại hai môi trên dưới khép kín tạo thành những góc vuông đầy đặn. Người có tướng miệng như vậy rất thật thà trung hậu, phúc lộc song toàn, cuộc đời được hưởng vinh hoa phú quý.

Miệng trâu

Hai môi rất dày, miệng to, lưỡi dài, răng trắng là đặc điểm của tướng miệng trâu. Chủ nhân của tướng miệng này là người lanh lợi, khéo léo, sống có tình nghĩa. Cuộc đời an nhàn, có phúc lộc, sống trường thọ.

Miệng vòng cung

Đặc điểm của miệng vòng cung là miệng cong lên trên giống như hình vòng cung, môi đầy đặn, sắc hồng nhuận. Đây là tướng miệng của những người thông minh, rất thành công nếu đi theo sự nghiệp nghiên cứu khoa học hay phát minh sáng chế. Chủ nhân tướng miệng này có tính tình khảng khái, hào phóng, có ý chí mạnh mẽ. Cuộc đời an nhàn, phú quý và phúc thọ tới một cách tự nhiên.

Miệng hổ

Đặc điểm của miệng hổ là môi mềm mại, thu lại ở giữa, miệng rộng đủ đút lọt nắm tay, khóe miệng hướng lên trên. Đây là tướng miệng giàu sang phú quý, thông minh lanh lợi nhưng đôi lúc không chân thật.

Theo Afamily


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi tướng miệng phú quý, cát tường

Cụ Hoàng Hạc trả lời bạn đọc

Một bài viết trả lời bạn đọc của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần trên tạp chí Khoa Học Huyền Bí. Cụ trả lời rất hay!
Cụ Hoàng Hạc trả lời bạn đọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cụ Hoàng Hạc trả lời bạn đọc

Triệt Tuần có xấu, có tốt

Có những bạn thắc mắc về các sao Triệt Tuần. Không phải những sao đó luôn luôn xấu đâu. Giả sử được Tuần Triệt đóng ở cung Tật ách thì thật là hay:

Triệt Tuần đóng ở Ách cung
Vận nào cũng khỏi, hạn phùng cũng qua.

Câu phú chữ Hán là “Tam phương xung sát, đắc nhất Triệt nhi khả bằng”.

Triệt ở cung Mệnh thì chỉ vất vả trong khoảng đầu vận - mạng mà thôi. Ở cung Tài, thì trước tán sau tụ. Triệt Tuần chủ sự thiệt hại, có ảnh hưởng làm giảm độ số của sao tốt, nhưng cũng có công dụng làm giảm những cái xấu của sao xấu.

Trường hợp Mệnh VCD tức là Mệnh không được đài vững, nhưng gặp Tuần thì lại thêm vững thọ, không sao hết, chỉ có lợi.

Cũng như Thái âm, Thái dương mà lạc hãm, gặp Tuần Triệt lại sáng lên.

Thiên tướng ngộ Triệt

Câu chuyện Thiên tướng ngộ Triệt làm cho một lãnh tụ bị mất chức, mất mạng một cách khốc liệt, đã khiến cho một cô độc giả lấy làm thắc mắc, vì cung Quan của cô cũng có Thiên tướng ngộ Triệt.

Nhưng hai đàng khác nhau xa. Của vị lãnh tụ kia, là Thiên tướng ngộ Triệt tại Mệnh. Còn của cô độc giả, là Thiên tướng ngộ Triệt tại Quan. Một đàng là mất chức, mất mạng. Còn tại Quan, thì quá lắm là gián đoạn đường công danh, thế thôi. Nếu trong cung đó có nhiều sao tốt, thì sự gián đoạn chỉ tạm thời, nghĩa là được phục chức, nhưng cũng phải chờ cho hết hạn.

Xin kể câu chuyện của một người quen. Có một nữ công chức làm ở Đà lạt, vì đã can đảm tố cáo thượng cấp, nên bị cách chức, bởi vì người ta vịn cớ thưa gởi sao không theo hệ thống, lại đi đăng lên báo chí. Lúc bấy giờ dưới trào Ngô Đình Diệm vị Tổng giám đốc một nha sở kia lại là bà con thân quyến với một vị Tổng trưởng. Sau khi điều tra xong, thì quả là vị Tổng giám đốc ấy bê bối, cho nên bị đổi đi. Nhưng mà vị nữ công chức nọ cũng bị quở về tội không đi theo hệ thống hành chính và bị ngưng chức.

Cung Quan lộc của bà ấy cũng bị Tuần Triệt đóng. Vì thế mà bà ấy bị thôi việc. Rồi một thời gian sau, bà ấy được xét lại, nhưng cũng phải lăn lóc 8 năm rồi mới được chính phủ cho phục chức và lại còn được tính thâm niên như thể không bị gián đoạn, là cũng vì cung Quan tốt, tuy gặp một cách xấu như trên.

Một trường hợp khác, của một Giáo sư Trung học vì bị liên can sao đó nên bị ngưng chức. Nhưng cung Quan của ông ấy cũng như nữ công chức trên đây bị Triệt, mà cũng được thêm những sao tốt khác. Ông ấy được phục chức lại, nhưng phải đổi đi xa.

Tóm lại, Tuần Triệt đóng cung Quan là xấu, đến bậc vua chúa cũng bị ngưng chức hay mất ngôi, nhất là nếu gặp Thiên tướng ngộ Triệt. Nhưng cung Quan tốt, thì qua hạn xấu, lại phục chức. Không thể đoán như Mệnh có Tướng ngộ Triệt, hay Di có Tướng ngộ Triệt. Mệnh có Thiên tướng hay Tướng quân ngộ Triệt là hạn nặng lắm, có thể nguy tính mạng đối với người quyền cao chức trọng.

Cung Tài có Thiên tướng hay Tướng quân ngộ Triệt thì cũng không sao, chỉ hao tài tốn của, hoặc của không tụ, nhưng chỉ trong vòng 30 năm đầu thôi.

Mạng ở Thiên la Địa võng thì thế nào?

Một bạn có Mệnh đóng tại Tuất (cung Địa võng) hỏi về cung Mệnh đóng tại Thiên la (cung Thìn) hay Địa võng (cung Tuất) thì có những ý nghĩa xấu nào?

Cụ Hoàng hạc trả lời:

Theo các nghĩa đã ghi, Thiên la Địa võng là lưới của trời, Mệnh và Thân đã đặt vào đấy thì có cách hay bao nhiêu, cũng không sao được xứng ý toại lòng, suốt đời như bị kẹt vào một cái gì tù hãm, đối với bất cứ vấn đề nào. Sự kiện đó tương đối.

Nhưng còn tùy cung Thân. Nếu Mệnh đã ở Thiên la Địa võng, mà Thân cũng mắc vào đấy, thì không hay lắm. Thân mà đóng ở Mão Dậu thì không lo. Là vì Mão Dậu là (thiên địa chi môn) (khai thiên địa tịch) chỗ lặn mọc của Âm dương. Thân mà ở Mão Dậu thì có thể vẫy vùng được (khoảng 30 tuổi trở ra).

Nhưng cần lưu ý ở điểm là Mệnh phải đóng ở Thiên la hay Địa võng, Mà Thân đóng ở Mão Dậu thì mới hay. Bằng không, thì không thể đoán như trên vừa nói.

Một vài nguyên tắc về các sách Tử Vi

Các sách Tử Vi, quyển nào cũng được cả. Theo ý tôi, các tác giả đều theo một bản chính mà viết lại, sách nào cũng có lối an sao như nhau, và những lời phú đoán như nhau. Nhưng đó chỉ là nền tảng căn bản, còn phải tham bác nhiều, thêm nhiều kinh nghiệm mới giải đoán cho đúng được. Ăn thua là mình phải xem cho nhiều, tự mình kinh nghiệm và luôn nghiên cứu thêm thì sẽ vỡ lẽ hơn. Ngoài ra, cũng nên đọc nhiều sách.

Quyển Tử Vi Đẩu Suất của Trần Đoàn, bằng Hán Văn, cũng “lu bù”, coi không nổi.

Cần tham bác nhiều, nhưng phải thật rành Âm Dương và Ngũ Hành thì mới áp dụng được mỹ mãn. Về phần tôi, đâu có khác gì quý bạn: nhưng vì tánh tò mò và hay lưu ý kinh nghiệm, lâu ngày rồi quen, cũng như những ông thầy thuốc vậy. Kinh nghiệm dạy ta.

Có những yếu tố bất thường trong lá số

Có nhiều yếu tố bất thường làm cho ta khó nhận thấy, nên nhiều khi bỏ qua, tưởng chừng như không quan trọng. Nhưng sự thực, những yếu tố đó lại cực kỳ quan trọng bằng trung tinh đắc cách. Trung tinh đắc cách mà không hợp mạng, lại thành ra vô vị. Cho nên tôi tin tưởng rằng khoa học Tử Vi, ngoài lý trí, còn phải cần rất nhiều trực giác, nhất là linh tính.

Phải tập lâu ngày cho quen, để có thể vừa nhìn qua là thấy liền các liên lạc, ảnh hưởng cộng đồng của toàn thể lá số, thì sự giải đoán sẽ dần dần minh bạch. Cái nhìn tổng hợp lại cũng đòi chúng ta phải có óc phân tích sắc bén, đi kèm với óc tổng hợp nhạy cảm. Lâu ngày tự nhiên mới tạo được nhãn quan “tinh nghĩa nhập thần”. Chứ không nên thấy đâu nói đó, là vì sự chế hóa vô cùng quan trọng.

Còn việc đoán sai thì dĩ nhiên là không thể nào tránh khỏi, dù là có người đoán thật giỏi, vì có Định Mệnh mà cũng có tự do của con người.

Có Trời mà cũng có Ta…

Số mà định trước hết, chẳng hóa ra mỗi con người là một bộ máy hay sao? Xin đừng chán nản. Cứ để tự nhiên cho cuộc đời vận chuyển, nhưng cũng cứ cố gắng. Có vậy mới là lẽ sống. Tôi sẽ xin trả lời những thư đặc biệt vừa có thắc mắc quan trọng vừa có ích chung, lấy việc người ta mà sang việc mình.

Về những tập đoán Tử Vi làm sẵn

Có những bạn hỏi về những tập Tử Vi giải đoán sẵn cho mỗi tuổi trong năm. Có nên tin không?

Xin trả lời: Nên mà không nên.

Nghĩa là nếu các bạn buồn, không có việc gì làm, muốn xem thì cứ xem. Nhược bằng các bạn tin theo lời đoán, thì không nên. Là vì không thể nào những người cùng sanh một năm mà lại có số mạng in hệt như nhau. Đừng hạ thấp khoa Tử Vi đến mức thành một cái học hoang đường.

(LTS – Ý của cụ Hoàng Hạc theo chúng tôi, là cứ theo lối an sao Tử Vi, thì mỗi tuổi, tính theo hàng địa chi của năm, có một số sao vào tiểu vận mà người ta có thể tính ra; cũng vậy, theo hàng Thiên can của năm sanh, người ta cũng có thể có thêm một số sao trong tiểu vận. Thế thôi, và người ta đoán vận niên với những sao đó. Dĩ nhiên là đoán như vậy rất thiếu, bởi vì còn nhiều sao khác, nhất là các chánh tinh, tủy theo tháng, và ngày, giờ sanh, mà người ta không biết. Cho nên tỉ số trúng sẽ giảm đi rất nhiều).

****

Cụ Hoàng Hạc đa đoan công việc, không thể tiếp các bạn trực tiếp cũng không thể giải đoán từng lá số cho quý bạn. Nhưng chúng tôi sẽ lựa chọn một số câu hỏi của quý bạn, thí dụ hỏi về một cách, một sao… Riêng trong số này, cụ Hoàng Hạc cho biết ý kiến về một số trường hợp trong Tử Vi.

Không phải được sao Miếu địa mà tốt

Một bạn hỏi: “Có phải tại cung Mạng mà có sao miếu địa là tốt?” (Sao miếu địa là nhập miếu, địa là đắc địa, tức là sao ở cung có Hành dưỡng cho sao, để sao có ảnh hưởng tố). Xin trả lời:

Coi về sao bổn mạng, sao đó phải hợp với Mạnh mình. Cung phỉa nuôi dưỡng sao, và sao phải nuôi dưỡng Mạng, thì đó là sinh thuận, rất hay, còn trái lại là nghịch, không hay. Nếu Cung nuôi dưỡng sao ( tức là được sao miếu địa) mà sao khắc mạng, thì phải kể là xấu. Dù Miếu địa, vượng địa hay đắc đại, mà sao đã khắc Mạng thì càng thêm xấu, chứ không thế bảo đó là hay. Cho nên cũng là một vì sao miếu, mà không sinh bổn mạng lại khắc bổn mạng thì thật là không đáng kể. Sự sinh, khắc, chế hoá là tối quan trọng trong phép đoán.

Về cung Tử tức và sự truyền tinh

Quý bạn muốn biết đứa con nào là truyền tinh, xin cứ theo nguyên tắc: Xem trong cung Tử tức của quý vị thấy có chính tinh nào, rồi xem cung mạng các lá số con cái, lá số nào ở cung Mệnh có chinh tinh đó, thì đó là đứa con truyền tinh.

Thí dụ: Cung Tử tức của quý vị có Tử, Phủ, đứa con nào mạng có Tử Phủ là đứa con truyền tinh. Nhưng phải ghi rằng chính tinh đó phải Miếu địa mới được.

Đứa con truyền tinh tức là đứa con sau này mình nhờ nó. Chỉ có sự kiện đó là dáng ghi về sự truyền tinh. Ngoài ra, cũng không nên võ đoán rằng những đứa con khác, sao thủ mạng của nó không truyền tinh, nhưng vẫn có thể là những đứa con tốt, có hiệu hạnh, nhưng vì hoàn cảnh hay vì lý do nào đó mà cha mẹ không nhờ được thôi.

Tôi đã có xem cho một người cha có 4 đứa con trai, hiện 4 đứa đều là bác sĩ, dược sĩ cả, đều có đại công danh và giàu sang phú quý. Nhưng chỉ có đứa con thứ 3 là truyền tinh. Việc này xảy ra đã 20 năm, khi đó thì những ngưòi con đều còn đi học. Trong thực tế, hiện nay, một người con làm bác sĩ lập nghiệp ở ngoại quốc, người con khác ở nước ngoài, người còn khác có công danh lớn nhưng đã mất. hai ông và về già thảnh thử chi nhờ một đứa con duy nhất, tức là đứa con truyền tinh.

Người con ấy cắt nhà cửa, săn sóc chu đáo cho hai ông bà, xây mổ mả. Mấy người con kia không phải là không thương quý cha mẹ nhưng hoàn cảnh khiển cho họ phải đi lập nghiệp phương xa.

Cha mẹ nào cũng quan tâm vấn đề con cái. Người ta thường nói “trẻ cậy cha, già cậy con” đó là rất tự nhiên.

Vì vậy mà cung Phụ Mẫu và Tử Tức trở thành quan trọng. Ở tuổi trai gái, lại coi cung Phối là quan trọng. Theo tôi thì tất cả là quan trọng. Đến những cung như cung Nô, Tật, Điền, Thiên Di, cung nào mà chẳng liên hệ đến số phận của ta.

Dĩ nhiên, không bao giờ tất cả là đẹp đẽ, là vì không có gì toàn hảo trên đời này, quý bạn cũng không nên quá thắc mắc về số mạng, mà nên bình tĩnh với thái độ triết lý này: “Sống, tức là chấp nhận”

Sự quan trọng của cung Tử Tức

Cung Tử tức rất quan trọng, nhất là đối với đàn bà có sứ mệnh làm mẹ hơn là làm vợ. Nếu đàn mà mà được cả hai cung Phu quân và Tức Tức cùng tốt cả thì đó là “thiên đường dương thế”.

Cung Mạng, Thân rất tốt chắc chắn sẽ được Phú quý, nhưng chẳng may cung Tử Tức lại mờ ám xấu xa, thì hậu vận sẽ sống cô đơn, khó mà hưởng được hạnh phú. Trái lại, nếu cung Mạng, Thân xấu, nhưng cung Tử Tức rất đẹp tất nhiên là về già được nhờ con cái, đó là tiền hung nhi hậu kiết. Thà như vậy, còn hơn là được Mạng, Thân tố mà cung Tử Tức lại tối tăm hay bị bội bạc.

Xin nói thêm về sự truyền tinh cho rõ. Sự truyền tinh là xem lá số của mình, ở cung Tử Tức, nếu có nhiều sao tốt, sáng sủa, miếu địa, và có những trung tích đắc cách, thì nhìn lá số đứa con nào mà Mạng, Thân của nó có những cách ấy, là đứa truyền tinh sẽ nhờ cậy được.

Nhưng coi chừng, nếu cung Tử Tức mà có các sao Không, Kiếp, Kình, Đà, Kị mà đứa con nào ở Thân Mạng lại có những sát tinh hay bại tinh ấy, thì đó không phài là con truyền tinh mà là đứa con làm điêu đứng đời mình.

Như vậy:

- Truyền tinh là ở những sao tốt, những cách tốt về trung tinh, có ở cung Tử Tức người ca và xuất hiện ở cung Mệnh, Thân người con.

- Nếu lại là sao xấu, cách xấu, thì lại là đứa con báo hại cha mẹ (Thí dụ về già mà cha mẹ còn phải cấp dưỡng cho con, cũng có khi là sự giận hờn, ghét bỏ nhau).

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cụ Hoàng Hạc trả lời bạn đọc

Văn Khấn Lễ Thần Tài

Văn Khấn Lễ Thần Tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, gia chủ thường cầu khấn Thần Tài. Sắm lễ gồm: trầu, nước, trái cây...
Văn Khấn Lễ Thần Tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Thần Tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, gia chủ thường cầu khấn Thần Tài.

Người xưa thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh xuất phát từ điển tích:

Có một tên lái buôn tên là Âu Minh khi qua hồ Thành Thảo, Thủy thần cho một cô nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà làm ăn ngày càng trở nên phát đạt. Sau đó, vào một ngày tết, vì lý do nào đó, Âu Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Từ đó, Âu Minh làm ăn thua lỗ, sa sút, chẳng mấy chốc trở nên nghèo xác nghèo xơ.

Hóa ra Như Nguyện chính là Thần Tài hiện hình. Từ đó người ta lập bàn thờ để thờ. Lại có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm là vậy. Vì người ta sợ hót rác là hót luôn cả Thần Tài trong đó thì việc làm ăn sẽ không phát đạt. Việc thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh cũng có nguồn gốc từ đây.

Bàn thờ Thần Tài:
– Bàn thờ Thần tài chỉ được lập ở những nơi góc nhà, xó nhà chứ không phải nơi sạch đẹp, trang trọng như bàn thờ Tổ Tiên hay bàn thờ Thổ Công.

– Bàn thờ Thần Tài là một chiếc khảm nhỏ, sơn son thếp vàng, phía trong khảm bài vị Thần Tài hoặc là thùng gỗ dán giấy đỏ xung quanh, phía trong dán bài vị, cũng được viết lên giấy đỏ. Bài vị được viết bằng mực nhũ kim với nội dung sau:
+ Ngũ phương Ngũ thổ Long thần,
+ Tiền hậu địa Chúa Tài thần.

Hai bên bài vị có câu đối:
+ Thổ năng sinh bạch ngọc,
+ Địa khả xuất hoàng kim.

Có nghĩa là: Đất hay sinh ngọc trắng, đất cũng cho vàng ròng

Nội dung câu đối có thể thay nhưng bao giờ cũng phải có một đôi.

– Trước bài vị là bát hương kê trên 100 thoi vàng giấy. Hai bên là hai cây đèn nhỏ đủ thắp. Trong khám đặt mấy cốc nước, chén rượu, một mâm bồng bày hao quả, phẩm vật khi cúng lễ.

– Có nhà khắc lên khám mấy chữ đại tự và có đôi câu đối ca tụng sự giúp đỡ của Thần Tài và cầu mong của gia chủ.

Sắm lễ cúng Thần Tài

– Người xưa cúng Thần Tài quanh năm, không chỉ vào dịp giỗ , Tết, Sóc Vọng mà vào bất kỳ lúc nào thấy cần cầu xin. Ngày thường, người ta cúng Thần Tài đơn giản, chỉ có trầu, nước, trái cây,….Còn trong các dịp giỗ, Tết, Sóc Vọng thì cúng Thần Tài bằng cỗ mặn.

– Thông thường người ta chỉ thắp hương thờ Thần Tài vào buổi chiều hàng ngày.

Văn Khấn Lễ Thần Tài

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngày Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
– Con kính lạy Thần tài vị tiền.
– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
Tín chủ con là………………………………………………………….
Ngụ tại……………………………………………………………………
Hôm nay là ngày…….tháng…….năm……………………………….
Tôi chủ thành sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị.
Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Thần Tài

Chọn vật nuôi hợp mệnh mang lại may mắn cho chủ nhà

Ngày nay, các con vật nuôi trong nhà trở thành những ‘vật cưng’ và đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của chủ nhân. Do vậy, sự có mặt của chúng cũng cần được xem xét đến khi bạn áp dụng các nguyên tắc phong thủy cho căn nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lựa chọn theo diện tích nhà ở

Nhà lớn, ít người:

Trong trường hợp này, năng lượng của khí rất khó được điều động hiệu quả, dễ hình thành những luồng khí xấu. Ví dụ: nhà có ba người, sống trong một ngôi biệt thự, một số phòng hay ngõ ngách trong nhà ít được gia chủ lui tới.

Ở những góc chết không có đó ảnh hưởng không tốt đến gia chủ. Các gia đình như thế thích hợp nuôi những động vật có tính hiếu động, hoạt bát như chó nhỏ. Chúng sẽ thường xuyên chạy tới chạy lui, chơi đùa nghịch ngợm ở những ngõ ngách mà gia chủ thường không lui tới. Vì thế, chúng có thể làm các luồng khí ở nơi đó lưu thông và thải khí cũ, đón khí mới.

 chon vat nuoi hop menh mang lai may man cho chu nha - 1

Tác dụng của mèo kém hơn chó, vì mèo cảm nhận được những nơi có khí xấu nên chúng sẽ tránh, hơn nữa mèo thích nằm một chỗ hơn là chạy nhảy.

Nhà nhỏ, nhiều người:

Những gia đình có nhiều nhân khẩu nhưng diện tích nơi ở tương đối nhỏ không thích hợp nuôi những động vật hiếu động, vì tính lưu thông của khí trong nhà rất nhanh, những luồng khí tốt khó được giữ lại, đối với nhân vận, tài vận đều có ảnh hưởng bất lợi.

Khi nuôi những động vật hiếu động sẽ tăng tính lưu động của khí, gia đình rất khó sinh tài.

Những gia đình kiểu này thích hợp nuôi động vật có không gian hoạt động cố định, phạm vi nhỏ, ví dụ như chim, cá, rùa, chuột bạch, thỏ… Không gian hoạt động của những động vật này nhỏ, ảnh hưởng đối với khí trong nhà tương đối ít, sẽ không làm tăng sự lưu động của khí.

Lựa chọn theo ngũ hành

Nuôi các loại chim thích hót:

Chúng thuộc hành Kim. Những người mạng Hỏa nuôi các động vật này sẽ mang đến tài lộc, thịnh vượng (do Hỏa thắng Kim). Ngoài ra, người tuổi Tỵ, Ngọ thích hợp nuôi các loài chim nhất. Người tuổi Dần, Mẹo không nên nuôi.

 chon vat nuoi hop menh mang lai may man cho chu nha - 2

Nuôi chó:

Chó là Tuất trong 12 con giáp, thuộc hành Thổ, đất khô, có Hỏa, có Kim, dương tính rất mạnh. Những người mạng Mộc nuôi chó sẽ rất tốt (do Mộc thắng Thổ). Người tuổi Mẹo, Dần cũng thích hợp nuôi chó nhất. Người sinh năm Tý, Hợi không nên nuôi.

Nuôi rùa:

Rùa thuộc hành Hỏa, là âm Hỏa, trong đó có dương Thổ. Những người có mạng Thủy nuôi rùa sẽ có công hiệu tài lộc thịnh vượng (do Thủy thắng Hỏa). Hơn nữa, người tuổi Tý, Hợi nên nuôi rùa. Người tuổi Thân, Dậu không thích hợp nuôi.

Nuôi cá, hoặc chuột bạch:

 chon vat nuoi hop menh mang lai may man cho chu nha - 3

Cá là động vật trong nước, thuộc hành Thủy, còn chuột bạch cũng thuộc hành Thủy, là dương Thủy, trong đó có Mộc. Những người có mạng Thổ nuôi một trong hai loài vật này sẽ có tác dụng mang đến tài lộc (do Thổ thắng Thủy)

Thêm vào đó, những người sinh năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thích hợp nuôi chúng nhất. Những người sinh năm Tỵ, Ngọ không nên nuôi.

Nuôi mèo:

Trong 12 con giáp, mèo thuộc hành Mộc, trong đó có Hỏa. Những người có mạng Kim nuôi mèo sẽ gặp nhiều may mắn (do Kim thắng Mộc). Ngoài ra, những người sinh năm Thân, Dậu thích hợp nuôi mèo nhất. Những người sinh vào năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi không nên nuôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vật nuôi hợp mệnh mang lại may mắn cho chủ nhà

Ứng dụng kinh dịch vào làm ăn kinh doanh

Với khả năng lý giải các nguyên lý và quy luật của vạn vật trong vũ trụ, Kinh Dịch đang trở thành một môn khoa học được ứng dụng ngày càng phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với khả năng lý giải các nguyên lý và quy luật của vạn vật trong vũ trụ, Kinh Dịch đang trở thành một môn khoa học được ứng dụng ngày càng phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh.

kinh-dich-ung-dung

Tại sao Kinh Dịch có thể ứng dụng rộng rãi trong kinh doanh?

Trong hoạt động kinh doanh, bên cạnh bản lĩnh cá nhân, chúng ta cần có một tầm nhìn chiến lược mới có thể đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên. Tầm nhìn chiến lược đó có mối liên hệ mật thiết với những triết lý mà Kinh Dịch đưa ra. Chẳng hạn, khi bắt đầu khởi nghiệp, chúng ta cần chọn được một thời điểm phù hợp nhất nhằm tránh mọi rủi ro. Ở góc độ này, Kinh Dịch sẽ hỗ trợ các bạn nhìn thấy được một sự vận động khái quát và khách quan nhất của các trạng thái, hiện tượng mà cụ thể là sự biến động của tình hình kinh tế, xã hội.

Kinh Dịch bắt đầu được nghiên cứu từ thời cổ đại bởi người Trung Hoa rồi phát triển và trải qua nhiều biến đổi để tạo nên hệ thống triết lý. Khi thấu suốt bản chất của vạn vật và các nguyên lý bất biến của vũ trụ, bạn sẽ nhìn thấy được thời cơ thuận lợi cho doanh nghiệp tiến đến thành công. Đồng thời, nó cũng giúp chúng ta dự báo trước thách thức nhằm chủ động đưa ra giải pháp để tránh khỏi tổn thất một cách tối đa. Tuy nhiên, nếu chúng ta tin và khẳng định Kinh Dịch có khả năng thay đổi vận mệnh là hoàn toàn sai lầm. Bởi lẽ, mọi thứ diễn ra trong cuộc sống đều có quy luật. Có chăng, chúng ta chỉ có thể sử dụng sức lực và trí tuệ của con người để làm cho mọi thứ dễ dàng hơn và vượt qua một cách nhẹ nhàng mà thôi.

Kinh Dịch còn giúp các nhà tuyển dụng có thêm hành trang trong việc tuyển dụng nhân viên. Bằng những quy tắc về tướng mạo và tính cách con người, nhà lãnh đạo có thể dựa vào đó để chọn cho mình những cộng sự đắc lực. Ngoài ra, khi nắm được những đặc điểm bên trong của ai đó, bạn sẽ có sự điều chỉnh ứng xử cho phù hợp nhằm mang đến sự thành công trong xây dựng mối quan hệ xã hội.

Ngoài ra, Kinh Dịch còn được vận dụng để các chủ Doanh nghiệp biết cách xây dựng và sắp xếp phòng làm việc. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo ra một môi trường chan hòa nhằm giúp đội ngũ nhân viên có được một không khí làm việc thoải mái và hứng thú nhất. Đồng thời, nó còn là điều kiện để mọi người phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình.

Một vài lưu ý khi ứng dụng Kinh Dịch trong kinh doanh

Kinh Dịch sẽ trở thành túi khôn của chúng ta trong kinh doanh với điều kiện được ứng dụng hợp lý và tránh lạm dụng. Đồng thời, người ứng dụng Kinh Dịch cần có sự hiểu biết tường tận và chính xác mọi nguồn gốc, nội dung trong Kinh Dịch. Bởi lẽ, khi chúng ta chỉ dừng lại ở những phán đoán mang tính chất hiện tượng và võ đoán thì mọi sự việc sẽ được quy chụp theo hướng tiêu cực.

Nếu muốn mời ai đó tư vấn về Kinh Dịch, chúng ta cần chọn cho mình một chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu chuyên sâu trong môn khoa học này để đảm bảo không gây tác động xấu đến đời sống. Không chỉ thế, bạn cần cảnh tỉnh trước hiện tượng rộ lên nhiều thầy xem địa lý, phong thủy mượn Kinh Dịch để trục lợi và rút tỉa túi tiền người dân. Đồng thời, chúng ta cần tránh sự đánh đồng theo một số quan niệm dân gian như “Dần thân tị hợi tứ hoành xung” hoặc “Nam La Hầu nữ Kế đô” chỉ vận hạn con người,… Bởi lẽ, tất cả những lời đồn thổi đó đều không xuất phát từ căn cứ có cơ sở khoa học Kinh Dịch rõ ràng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng kinh dịch vào làm ăn kinh doanh

Vì sao nhất định phải cưới người tuổi Tỵ làm vợ?

Cưới người tuổi Tỵ làm vợ: Ở người con gái tuổi Tỵ hội tụ đầy đủ những yếu tố để có thể trở thành người vợ hiền mẹ đảm, nàng dâu hiếu thảo trong gia đình.
Vì sao nhất định phải cưới người tuổi Tỵ làm vợ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở người con gái tuổi Tỵ hội tụ đầy đủ những yếu tố để có thể trở thành người vợ hiền mẹ đảm, nàng dâu hiếu thảo trong gia đình.


► Mời các bạn: Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Không giống như những cô gái tuổi Ngọ và tuổi Thân mạnh mẽ, thích bay nhảy, các nàng tuổi Tỵ có nét đằm thắm, dịu dàng như hồ nước mùa thu. Họ luôn nhẹ nhàng, kín đáo và biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Kết hôn với người tuổi Tỵ là các ông chồng đã sở hữu cả kho báu trong nhà.   Vẻ ngoài duyên dáng, quyễn rũ
 
Đa phần những cô gái xinh đẹp, nổi bật thường sinh vào năm Tỵ, nên nếu bạn sinh năm Tỵ, chắc hẳn bạn sẽ có một vận mệnh tốt đẹp. Các nàng tuổi Tỵ tự tin, ung dung, thong thả luôn toát lên vẻ đẹp quyến rũ, để lại ấn tượng tốt đẹp cho người đối diện.
 
Bên cạnh đó, một người vợ biết cách ăn mặc, luôn khiến mình xinh đẹp sẽ giữ chồng giỏi hơn các cô gái khác. Vì thế, phần đông các cô gái tuổi Tỵ khi đã lập gia đình đều khiến các cô gái khác phải mơ ước vì gia đình hạnh phúc, chồng chiều chuộng, yêu thương.

Vi sao nhat dinh phai cuoi nguoi tuoi Ty lam vo hinh anh
Con gái tuổi Tỵ có vẻ ngoài duyên dáng, tính cách dịu dàng

Tính cách điềm đạm, dịu dàng và đặt gia đình lên trên hết
 
Là người con gái dịu dàng, kín đáo, yêu hòa bình và luôn đặt gia đình lên trên tất cả, nên cuộc sống của cô gái tuổi Tỵ vô cùng tĩnh tại và an lành. Nếu chàng trai nào may mắn có được người vợ như họ, bạn hãy yên tâm rằng ngôi nhà của bạn lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc.    Khi yêu, người con gái tuổi Tỵ sẽ khiến bạn biết quan tâm và sống tình cảm hơn với gia đình. Cô ấy luôn làm cho bạn hiểu, trên đời này, gia đình là số 1. Đến khi cưới người tuổi Tỵ làm vợ, người con gái tuổi Tỵ lại càng dành nhiều thời gian cho gia đình, chăm lo tỉ mỉ đến tất cả mọi người nên cuộc sống gia đình luôn tràn ngập yêu thương và hạnh phúc.   Người phụ nữ thông thái, giao tiếp khéo léo, thấu tình đạt lí   Được trời phú cho sự thông thái và hiểu biết, con gái tuổi Tỵ biết trân trọng giá trị cốt lõi của cuộc sống, đó chính là hạnh phúc chứ không phải là những thứ vật chất phù du. Họ không bao giờ phải phiền muộn vì thiếu tiền mà luôn cảm thấy hạnh phúc khi có đầy đủ mọi thứ mình cần. Họ biết cách chi tiêu tiết kiệm, đúng mực, giúp người chồng của mình vô cùng yên tâm khi có một người vợ đảm.
 
Ngoài ra, con gái tuổi Tỵ nói năng chậm rãi, từ tốn. Họ thích suy tư, tính toán và có thể trình bày quan điểm của mình một cách hệ thống, ít khi bốc đồng mà nói năng rất cẩn thận, nho nhã và lịch sự. Đặc biệt trong gia đình, con gái tuổi Tỵ luôn khéo léo khi ứng xử với bố mẹ chồng và gia đình chồng. Cưới người tuổi Tỵ làm vợ, nếu cô ấy làm sai điều gì, thái độ rất mềm mỏng và có ý thức sửa sai làm đẹp lòng người đối diện. 
 
Theo Ngày nay    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao nhất định phải cưới người tuổi Tỵ làm vợ?

Xem tướng mặt đàn ông chung tình như thế nào

Tướng mặt vuông vức cũng là một trong những đặc điểm thường thấy của tướng mặt đàn ông chung tình, chị em cần lưu ý.
Xem tướng mặt đàn ông chung tình như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chủ nhân của kiểu mũi thẳng, hai cánh mũi nhỏ nhưng lại cân xứng với nhau thường rất thẳng thắn, chân thật trong các mối quan hệ. Hiếm khi thấy người này phải nói chuyện vòng vo nhằm che giấu điều gì đó. Trong tình yêu họ cũng hết mực chung tình, đáng để quý cô dựa dẫm cả đời.


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng số chuẩn xác, nhanh chóng
3 kiểu tướng mặt điển hình của người gặp xui xẻo Tướng mặt ông chồng mang lại hạnh phúc mĩ mãn cho vợ Bạn hiểu thế nào về xem bói tướng mặt?
1. Tướng mặt vuông vức   Theo quan điểm nhân tướng học, đàn ông có khuôn mặt vuông vắn như chữ “Điền” tính tình chân thật, điềm tĩnh, biết cách quan tâm chăm sóc người xung quanh, nhất là phái yếu. Đây cũng là một trong những đặc điểm thường thấy của tướng mặt đàn ông chung tình.   Khi đã tìm được nửa kia cho mình, anh chàng này rất am hiểu tâm lý đối phương, chiều chuộng bạn từng sở thích nhỏ nhất.    Khi đã kết hôn, chàng trai này cứ thế an tâm phấn đấu cho sự nghiệp. Việc nhà cửa, con cái giao hết cho vợ. Nhưng như thế không có nghĩa là họ bỏ bẵng, không quan tâm. Trái lại, những lúc rảnh rỗi, họ tự tay vào bếp, làm việc nhà, chăm con để bà xã được nghỉ ngơi.
Xem tuong mat dan ong chung tinh nhu the nao hinh anh
 
2. Mũi thẳng, hai cánh mũi nhỏ nhưng cân xứng   Chủ nhân của kiểu mũi thẳng, hai cánh mũi nhỏ nhưng lại cân xứng với nhau thường rất thẳng thắn, chân thật trong các mối quan hệ. Hiếm khi thấy người này phải nói chuyện vòng vo nhằm che giấu điều gì đó.    Nhưng cũng có lúc, vì cái tính “thẳng như ruột ngựa” này khiến không ít người phật lòng, cho rằng họ không biết khiêm tốn, nhún nhường ai bao giờ.    Đã yêu anh chàng có nét tướng cách này, bạn nên học cách làm quen, thậm chí là chấp nhận điều đó. Thẳng thắn tạo ra nét đáng yêu nhưng cũng chính là điểm yếu chí mạng của họ. Là nửa kia, bạn cần bên cạnh để bảo vệ họ khỏi những cạm bẫy trong cuộc sống, để đường công danh, sự nghiệp luôn thuận lợi.   Ngoài ra, đàn ông có mũi cao và cánh mũi đầy đặn có khả năng kiếm tiền rất tốt, việc làm ăn kinh doanh khá “mát tay”. Họ cũng thuộc tuýp ga lăng, biết quan tâm, chăm sóc người yêu và hết mực chung tình. Nếu mũi đầy đặn, lỗ mũi to thì những người này thường rất giàu có. Nếu ai có thêm nốt ruồi trên chóp mũi thì cơ đồ tiền tài của họ ắt hẳn khiến nhiều người mơ ước.
Tướng mặt quý cô vừa giàu có lại lấy được chồng tốt Tướng mặt đàn ông hết mực cưng chiều vợ sau hôn nhân Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều”
3. Nhân trung dài và sâu
  Đàn ông có Nhân trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) dài và sâu thường coi trọng tình cảm, sống hướng nội. Nếu Nhân trung mở rộng ở phía gần môi chứng tỏ đây còn là người rộng lượng, phóng khoáng, hiếm khi có chuyện ghen tuông vô cớ xảy ra.    Thêm nữa, anh chàng này kiên trì, nhẫn nại và giàu nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Họ thích giúp đỡ mọi người xung quanh nên ai nấy đều dành sự ưu ái, tình cảm mến thương cho họ.   
Xem tuong mat dan ong chung tinh nhu the nao hinh anh
 
Trong tình yêu, chàng trai này theo đuổi chủ nghĩa hoàn mĩ, tình cảm vẹn toàn, mở đầu và kết thúc có hậu. Cái quan trọng là họ khá chung tình nên hạnh phúc gia đình luôn được đảm bảo.   Ngoài ra, người này khởi nghiệp từ sớm, vào trung vận đã có dấu hiệu thành đạt, đến hậu vận được hưởng cuộc sống an nhàn, phúc lộc song toàn, con cái giỏi giang lại hiếu thảo.   4. Hai mắt cân đối, có thần sắc   Đa phần những người đàn ông chung thủy thường có đôi mắt cân đối, ánh mắt nhìn có thần sắc rõ ràng, tròng trắng và đen phân minh, nhìn thật sáng thật dễ gần nhưng cũng khá uy nghiêm.   Sở hữu nét tướng này bạn còn là người thông minh, sức khỏe tốt, có tấm lòng lương thiện, biết phân biệt phải trái, dành tình yêu thương, sự cảm thông chia sẻ hết mực cho nửa kia.
5. Lông mày đậm, dài và mượt   Lông mày cũng là một trong những yếu tố có thể nắm bắt được phần nào khuynh hướng tình cảm, tình dục của cánh mày râu.    Đàn ông lông mày đậm, dài mà lại mượt, không mọc lộn xộn thì đời sống tình cảm phong phú, giàu tình yêu thương. Bên cạnh đó, nó còn báo hiệu những mối quan hệ rất bền vững vì hình thành và phát triển dựa trên tình cảm chân thành.    Đây cũng là tuýp người chủ động trong cuộc sống, có trí tuệ mạnh mẽ. Họ luôn vượt qua những giới hạn của bản thân và không ngừng thử thách mình. Khả năng giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, thấu đáo. Thường họ cũng rất thẳng thắn và chân thành với mọi người.
Hoàng Lam
Lật tẩy tướng mặt đàn ông ham hố “chuyện ấy”
So với phái nữ, cánh mày râu có nhu cầu “giường chiếu” cao hơn. Làm thế nào để nhận ra gã trai ham hố “chuyện ấy”, hãy tham khảo nội dung dưới đây, bạn sẽ tìm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đàn ông chung tình như thế nào

Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Ngày nay, các thành viên trong gia đình thường trang bị tivi trong phòng ngủ để tiện cho nhu cầu giải trí. Nhưng ít người biết đến ảnh hưởng
Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là nơi bạn nghỉ ngơi và tái tạo sức sau ngày lao động mệt mỏi. Sự bài trí đồ đạc trong phòng: giường ngủ, tủ đựng quần áo, bàn trang điểm... đều có ảnh hưởng nhất định đến phong thủy của không gian này.

(Ảnh minh họa)

Ngày nay, các thành viên trong gia đình thường trang bị tivi trong phòng ngủ để tiện cho nhu cầu giải trí. Việc làm này có thể mang lại sự thư giãn, giúp chủ nhân chìm vào giấc ngủ dễ dàng. Nhưng ít ai biết đến ảnh hưởng không tốt từ việc đặt tivi tại đây.

Tivi là 1 trong những loại đồ điện gia dụng có khả năng bức xạ điện từ. Nó tạo nên hiệu ứng bức xạ sóng điện từ mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Nếu bạn đặt tivi hướng thẳng vào giường thì sóng bức xạ sẽ chiếu vào người. Điều này sẽ hủy hoại năng lượng dương, tăng năng lượng âm trong cơ thể. Vì thế, người ở đây sẽ có nguy cơ mất cân bằng cả về thể chất lẫn tinh thần.

Mặt khác, vừa nằm vừa xem tivi sẽ khiến mắt mệt mỏi. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến hệ thống xương cổ, xương sống.

Đặt tivi cũng đòi hỏi cân nhắc vị trí phù hợp với ngũ hành. Tivi là vật có tính Hỏa mạnh. Tivi càng to thì tính Hỏa càng mạnh.

Cặp vợ chồng nào đều thiếu Hỏa thì có thể đặt tivi trong phòng ngủ. Với người cần Thủy thì nên đặt tivi ở hướng Nam.

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tivi trong phòng ngủ bất lợi cho sức khỏe

Trẻ sinh phạm giờ “Quan Quả” sẽ khó nuôi –

Sinh Tháng Giêng - Hai - Ba giờ Tị Sinh Tháng Tư - Năm - Sáu Thân - Thìn Sinh Tháng Bảy - Tám - Chín Mùi - Hợi Sinh Tháng Mười - Mười một - Chạp Dậu - Mão Trẻ sinh phạm các giờ trên thì 10 trẻ chết 9 “Phạm Quan Quả, Thập hà nhi cửu thất vong”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tre-sinh-non

  1. Sinh Tháng Giêng – Hai – Ba giờ Tị
  2. Sinh Tháng Tư – Năm – Sáu Thân – Thìn
  3. Sinh Tháng Bảy – Tám – Chín Mùi – Hợi
  4. Sinh Tháng Mười – Mười một – Chạp Dậu – Mão

Trẻ sinh phạm các giờ trên thì 10 trẻ chết 9 “Phạm Quan Quả, Thập hà nhi cửu thất vong”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trẻ sinh phạm giờ “Quan Quả” sẽ khó nuôi –

Họa tam tai và cách hóa giải

Hạn tam tai tức là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi. Trong một đời người, cứ 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai. Thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. Cách giải hạn tam tai...
Họa tam tai và cách hóa giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

1./ Hiểu thế nào về hạn tam tai?

Hạn tam tai tức là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi. Trong một đời người, cứ 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai. Thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. 

Có lý thuyết giải thích :

Tam: Ba, số 3, thứ ba.

Tai: Tai họa, họa hại.

Tam tai là ba tai họa, gồm: Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai.

+ Hỏa tai là tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng.

+ Thủy tai là tai họa do nước gây ra, như lũ lụt, sóng thần.

+ Phong tai là tai họa do gió gây ra, như bão, lốc. 

Ngoài ra còn có Tiểu Tam tai là ba thứ tai họa nhỏ, gồm: Cơ cẩn chi tai (đói khát) Tật dịch tai, Đao binh tai.

+ Cơ cẩn chi tai là tai họa do mất mùa lúa và rau.

+ Tật dịch tai là tai họa do bịnh dịch truyền nhiễm.

+ Đao binh tai là tai họa do chiến tranh.

2./ Họa tam tai mang lại như thế nào?

Quan điểm chung cho rằng: Không phải lúc nào cũng tai họa nhưng thường đến năm Tam tai hay gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra. Nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro , hoặc khó khăn trong công việc. Việc  tạo mới hay mua bán, làm nhà, tu sửa trong những năm hạn này phải hết sức cẩn thận. Với việc kết hôn có quan điểm cho rằng ảnh hưởng, có quan điểm không. .

Một số việc xấu thường xảy đến cho người bị Tam tai:

+ Tính tình nóng nảy bất thường.

+ Có tang trong thân tộc.

+ Dễ bị tai nạn xe cộ.

+ Bị thương tích.

+ Bị kiện thưa hay dính đến pháp luật.

+ Thất thoát tiền bạc.

+ Mang tiếng thị phi.

+ Tránh cưới gả, hùn vốn, mua nhà và kỵ đi sông đi biển.

Tiếp tục làm những việc đã làm từ trước thì thường không bị ảnh hưởng nặng. Không nên khởi sự trong những năm bị Tam tai.

Về cơ bản:

Năm đầu Tam tai, không nên bắt đầu làm việc trọng đại;

Năm giữa tam tai, không nên dừng việc đang tiến hành (vì thường sau đó tiếp tục dễ gặp trở ngại);

Năm cuối Tam tai, không nên kết thúc việc quan trọng vào đúng năm này.

3./ Cách tính hạn tam tai

Hạn tam tai sẽ tính theo nhóm tuổi Tam hợp, nghĩa là những người sinh năm con giáp tam hợp sẽ chịu chung một hạn tam tai.

Cụ thể:

(1) Các tuổi Thân, Tý, Thìn: Tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn

+ Vào năm Dần thì gặp Thiên Cổ Tinh Quân tắc vật hại nhân hoặc vi trùng vi hại hoặc bị mê hoặc chi bệnh

+ Vào năm Mão phùng Thiên Hình Tinh Quân tắc bị pháp luật hình phạt hoặc cập đao thiết nhi xuất hành dã, bị giải phẫu

+ Vào năm Thìn ngộ Thiên Kiếp Tinh Quân tắc cướp đạo nhi thất tài vật hoặc bị uy quyền bức bách, cướp bóc tổn thất tài vật

(2) Các tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Tam tai tại các năm : Thân, Dậu, Tuất

+ Vào năm Thân thì gặp Thiên Hoàng Tinh Quân tắc bị thiên hành chi hữu, khủng cụ chi họa

+ Vào năm Dậu thì gặp Thiên Đối Tinh Quân tắc hữu đối thủ hoặc đối thủ dĩ hoàng thiên

+ Vào năm Tuất thì gặp Địa Tai Tinh Quân tắc hữu tai hại vi thổ địa

(3) Các tuổi Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại các năm : Tỵ, Ngọ, Mùi

+ Vào năm Tỵ ngộ Âm Mưu Tinh Quân tắc hữu thù địch chi nhân mưu vi hại (bị người mưu hại)

+ Vào năm Ngọ phùng Hắc Sát Tinh Quân tắc hữu hắc ám sự (việc mờ ám có hại)

+ Vào năm Mùi ngộ Bạch Sát Tinh Quân tắc tổn thất tài vật hoặc hữu tang sự bạch y bạch cẩn. (cử mặc đồ trắng)

(4) Các tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Tam tai tại các năm: Hợi, Tý, Sửu.

+ Vào năm Hợi ngộ Thiên Bại Tinh Quân tắc bị bại hoại sự nghiệp hoặc bại hoại tài sản hoặc bại hoại gia phong

+ Vào năm Tý ngộ Địa Vong Tinh Quân tắc bị tai hại vi thổ địa nhi tổn thất hoặc thổ động nhi bệnh tật

+ Vào năm Sửu ngộ Thổ Hình Tinh Quân tắc vi thổ địa nhi cập hình phạt hoặc tổn thất điền địa hoặc vị thổ địa đông nhi hữu tai

Như vậy, có 4 tuổi sẽ gặp hạn tam tai năm thứ 3 vào năm tuổi của mình: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Vào năm này, những ai gặp hạn sao La Hầu (nam) và Kế đô (nữ) sẽ có cùng lúc 3 hạn: Tam tai, năm tuổi, sao hạn.

Vậy nên, sẽ có một nhóm người có hạn Tam tai rơi vào giai đoạn sao hạn Thái bạch – Thủy Diệu – Kế đô (nữ giới). Sao Thái bạch và Kế đô là những sao xấu đối với nữ giới. Cũng có nhóm người sẽ có hạn Tam tai bắt đầu vào tuổi 30 (tức 31 tuổi âm) như: Quý Hợi, Canh Thân. Theo Ngũ hành, nếu được tương sinh thì năm hạn Tam tai cũng nhẹ. Điều này đồng nghĩa nếu tương khắc (bị khắc chế), năm hạn Tam tai có thể có nhiều tai ương.

4./ Cách giải hạn tam tai

Để giải hạn Tam tai người ta thường hay cúng giải hạn.

 

Quan niệm có các vị thần giáng hạ cho từng năm (năm - thần - ngày cúng - hướng):

+ Năm Tý, ông thần Địa Vong, cúng ngày 22, lạy về hướng bắc.

+ Năm Sửu, ông Địa Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng đông bắc.

+ Năm Dần, ông Thiên Linh, cúng ngày rằm, lạy về hướng đông bắc.

+ Năm Mão, ông Thiên Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng đông.

+ Năm Thìn, ông Thiên Kiếp, cúng ngày 13, lạy về hướng đông nam.

+ Năm Tỵ, ông Hắc Sát, cúng ngày 11, lạy về hướng đông nam.

+ Năm Ngọ, ông Âm Mưu, cúng ngày 20, lạy về hướng nam.

+ Năm Mùi, ông Bạch Sát, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng tây nam.

+ Năm Thân, ông Nhân Hoàng, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng tây nam.

+ Năm Dậu, ông Thiên Hoạ, cúng ngày mồng 7, lạy về hướng tây.

+ Năm Tuất, ông Địa Tai, cúng ngày mồng 6, lạy về hướng tây bắc.

+ Năm Hợi, ông Địa Bại, cúng ngày 21, lạy về hướng tây bắc.

Xác định ngũ hành ứng với từng năm (năm nào hành đó):

+ Hành KIM : Thân - Dậu.

+ Hành MỘC : Dần - Mão

+ Hành THỦY : Hợi - Tý.

+ Hành HỎA : Tị - Ngọ

+ Hành THỔ : Thìn - Tuất - Sửu - Mùi.

Cách cúng giải hạn của người xưa :

Ngày cúng tắm rửa sạch sẽ, rôì cắt một ít tóc, một ít móng tay móng chân, cắt một miếng vạt áo cũ của người đó, gói chung lại thành một túi nhỏ.

+ Thời gian: 18-20 giờ.

+ Địa điểm: Ngã ba đường (lớn càng tốt)

Vật cúng gồm có:

3 ly rựợu nhỏ,

3 ngọn đèn cày,

3điếu thuốc hút,

3 bộ tam sênh,

3 đồng tiền bạc cắc,

2 bộ đồ thế (nam hoặc nữ)

1 bài vị có tên vị thần viết bằng giấy đỏ,chữ mực đen

Gói tóc và móng tay lấy dĩa đựng để trên bàn

Cúng vị thần nầy cho đến khi tàn nhang và đèn. Xong rồi người cúng không được nói chuyện với bất cứ ai, đem gói tóc móng tay ra ngã ba đường mà bỏ, nhớ đừng ngoái lại xem, 3 đồng tiền bạc cắc nhớ để vào gói tóc , bỏ luôn tóc và móng tay (phải của người bị tam tai mới được) khi vái cũng phải nói rõ tên họ của người mắc tam tai.

Cách này có phần hơi tỉ mỉ quá. Thực ra đối với các vị thần nói chung chỉ cần ý tâm nghiêm chỉnh là ứng, lễ tại tâm, lấy công đức làm lễ là chuẩn nhất.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay NGÀY TỐT XẤU 2016 mới nhất!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Họa tam tai và cách hóa giải

Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Lâm sàng xảy ra trong những trường hợp cấp cứu nguy hiểm đến tính mạng. Cạnh đó, linh cảm cũng có thể dẫn đến việc phát hiện các phương pháp điều trị y học
Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Linh cảm lâm sàng là một khái niệm phổ biến đối với rất nhiều bác sĩ và chuyên gia chăm sóc sức khỏe – hiện tượng này xảy ra khi họ “cảm thấy” có một loại trực giác hay linh tính nào đó về bệnh tình của bệnh nhân, ngay cả khi không có bằng chứng trên lâm sàng, xét nghiệm.

Hiện tượng này đóng vai trò quan trọng trong những trường hợp cấp cứu và trong các ca nguy hiểm đến tính mạng. Trong một số trường hợp, linh cảm cũng có thể dẫn đến việc phát hiện các phương pháp điều trị y học mới.

Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn 7 trường hợp linh cảm có thật trong lịch sử y học hiện đại:

1. Câu chuyện dưới đây được chia sẻ trên trang web

Theo Trung tâm Tâm linh và Điều trị trực thuộc trường Đại học Minnesota:

“Chứng kiến tình cảnh bệnh nhân mất máu ào ạt trên bàn mổ, bác sĩ chuyên khoa tim mạch, TS Mini Guernari, đã dành hàng tiếng đồng hồ để thử đủ mọi cách cầm máu cho bệnh nhân.

Sau đó, “đột nhiên tôi nghĩ tới một thứ tôi chưa từng sử dụng trước đây và cũng chưa bao giờ nghĩ tới : Gelfoam (1 chất hút nước có khả năng cầm máu)”. Câu trả lời mang tính trực giác này đã khiến cô chớp mắt liên hồi và tự hỏi không biết bản thân có đang gặp ảo giác hay không khi nhận thấy máu đã ngừng chảy. Gelfoam đã cứu sống bệnh nhân của cô”.

2. Còn câu chuyện dưới đây

Trên trang web của Quỹ Nghiên cứu Bệnh viện Nhi Seattle (Seattle Children’s Hospital Research Foundation):

Ông lắng nghe trực giác của mình và cố gắng phân tích mối liên hệ giữa những vấn đề về tai trong và hội chứng SIDS. Ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia khác nhau có dữ liệu thống kê về trẻ. Ông đã phát hiện ra rằng tình trạng suy giảm thính lực tai phải, thường xuất hiện ở những đứa trẻ mắc SIDS, vốn có tỷ lệ thấp hơn trong những đứa trẻ tử vong không phải do SIDS”.

3. Mọi thứ dường như ổn thỏa, nhưng may thay, cô y tá đó đã nghe theo trực giác của mình.

Một y tá đã kể lại câu chuyện về trực giác của mình, được trích dẫn trong một luận văn cao học có tiêu đề “Quan sát mọi thứ, lắng nghe điều không được đề cập: một nghiên cứu hiện tượng luận về trực giác trong thực tập điều dưỡng”, của Lisa A. Ruth-Sahd, tại trường Đại học bang Pennsylvania, Mỹ.

 tai nạn
Vụ tai nạn xảy ra do ông cố gắng tránh đâm phải một chiếc xe hơi đột ngột dừng lại ở phía trước.

“Một người đàn ông 44 tuổi đã đến bệnh viện sau khi bị tai nạn xe máy, ông đã bị văng ra khỏi chiếc xe của mình và đâm vào lan can bên đường rồi trượt trên mặt đất khoảng 12 m. Vụ tai nạn xảy ra do ông cố gắng tránh đâm phải một chiếc xe hơi đột ngột dừng lại ở phía trước. Tôi đã rất kinh ngạc vì ông không đội mũ bảo hiểm vào lúc tai nạn xảy ra, nhưng vẫn khá tỉnh táo và có thể xác định phương hướng xung quanh trên đường đến khoa cấp cứu, và cũng có thể nhớ lại diễn biến vụ tai nạn. Khi đến nơi, ông vẫn có các dấu hiệu sinh tồn, mạch đập ổn định.

Mặc dù có kết quả khám bình thường, nhưng tôi vẫn cảm thấy lo sợ và không thoải mái nhưng không thể hiểu tại sao. Trước đây, tôi đã từng chăm sóc rất nhiều bệnh nhân bị chấn thương còn nghiêm trọng hơn người đàn ông này, nhưng vì lý do nào đó, tôi vẫn cảm thấy trường hợp này khá khác biệt. Tôi cứ liên tục nghĩ về kết quả khám của mình và tự hỏi tại sao tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Tôi nhìn các đồng nghiệp xung quanh, nhưng có vẻ không ai quan tâm, vì nỗ lực hồi sức cấp cứu vẫn đang được tiến hành bình thường như đối với các bệnh nhân khác. Mặc dù tôi vừa khám cho ông ta 10 phút trước đó và kết quả khá tốt, nhưng tôi cảm thấy mình cần quay lại và tiến hành kiểm tra toàn diện lần hai.

Tôi lắng nghe những cảm nhận nội tâm rằng có điều gì đó không ổn với người bệnh nhân này. Lần này tôi nhận thấy nhịp tim của ông nhanh hơn lúc trước và thấy xuất hiện một vết bầm tím ở phía ngực trước. Tôi nhìn sang màn hình hiển thị tâm đồ và nhận thấy đường điện tâm đồ (EKG) đã trở nên thẳng băng (tim không đập).

Dựa trên tất cả các triệu chứng này, ngay lập tức tôi thông báo cho bác sĩ phẫu thuật chấn thương cũng như các bác sĩ trong phòng cấp cứu, rồi tất cả chúng tôi nhanh chóng chuẩn bị tiến hành chọc màng ngoài tim, một biện pháp cần thiết để giảm bớt áp lực đang hình thành xung quanh tim bệnh nhân. Vụ tai nạn đã làm vỡ một mạch máu, dẫn đến hiện tượng chèn ép màng ngoài tim thứ phát do chảy máu”.

4. Câu chuyện này cũng được trích từ trang web của trường Đại học Minnesota:

“Tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại bảo người bệnh nhân đó kể về công việc của anh ta chi tiết hơn’, Bác sĩ Iver A. Juster nói. Khi bệnh nhân của ông – một quản lý ở thung lũng Silicon Valley miêu tả về mối quan hệ không hòa hợp với sếp, BS Juster đã nhận thấy những nét biểu cảm trên khuôn mặt anh trông giống hệt như lúc anh ta kể về vấn đề đau dạ dày.

BS Juster thuyết phục bệnh nhân rằng cảm xúc có thể gây nên những triệu chứng thể chất và đề xuất một liệu trình kép – điều chỉnh cảm xúc và điều trị các triệu chứng thể chất. Bệnh nhân và bác sĩ đều hài lòng với kết quả điều trị”.

5. Kiểm tra định kỳ vẫn bình thường, nhưng có điều gì đó không ổn

Câu chuyện này được chia sẻ trên trang web của trường Đại học Minnesota:

“Bác sỹ chuyên khoa tâm lý Richard Friedman cảm thấy khá bất ngờ về bản thân vào một ngày có lịch hẹn khám bệnh định kỳ với một bệnh nhân đang gặp các vấn đề về tài chính.

Ông cảm thấy biểu hiện của người bệnh nhân tên Mark của ông có gì đó không ổn, BS Friedman ‘đã làm một việc dựa trên trực giác thuần túy mà tôi không thật sự hiểu được vào lúc đó. Khi Mark còn đang ngồi trong văn phòng của tôi, tôi gọi cho bác sĩ nội khoa của anh và đặt lịch hẹn gặp ông ta vài giờ sau đó’.

BS Fried cảm thấy bối rối với chính linh cảm của bản thân mình. Ông thường hay tiếp xúc với những người mắc chứng lo âu và bệnh nhân của ông không có tiền sử bệnh tật trước đó. Ông cũng lo lắng về cảm nhận của người bác sĩ nội khoa đồng nghiệp – liệu ông ta có cười mình không? Khi hai người gặp mặt, bác sĩ nội khoa của Mark không có lý do để cười. Mark không hề bị mắc chứng lo âu, mà anh có vấn đề với phổi. Biện pháp điều trị được tiến hành ngay lập tức và tình trạng của Mark đã được cải thiện”.

6. Không đau ngực, nhưng bác sĩ vẫn chẩn đoán đúng về hai lá phổi

Câu chuyện sau đây được đăng trên tạp chí y học Oregon Nurse số ra tháng 9/2013:

“Một bệnh nhân nữ mới được phẫu thuật chuyển đến phòng cấp cứu để bù nước. Cô đã bị ngất vào sáng sớm hôm đó và đã được bác sĩ kiểm tra. Nhịp tim của cô ở mức 133 nhịp/phút khi mới đến viện. Sau khi được truyền tĩnh mạch, nhịp tim của cô đã ổn định ở mức 108 nhịp/phút.

Với các kết quả thí nghiệm và thể chất bình thường, bác sĩ đang cân nhắc cho bệnh nhân xuất viện. Tuy nhiên, một bác sĩ lâm sàng khác cùng tham gia lại cho rằng có thể nhịp tim cao như vậy là dấu hiệu tiềm tàng của huyết khối (cục máu đông) trong phổi, mặc dù bệnh nhân không có biểu hiện đau tức ngực.

Bác sĩ lâm sàng đó tiếp tục theo dõi những dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân và cuối cùng nhận thấy mức độ bão hòa khí ôxy trong máu bắt đầu giảm. Bác sĩ này thảo luận những dấu hiệu đáng lo ngại với một bác sĩ khác, người sau đó đã quyết định tiến hành xét nghiệm thêm. Các xét nghiệm cho thấy những cục máu đông có ở cả hai lá phổi, từ đó xác nhận linh cảm ban đầu của bác sĩ lâm sàng thứ hai là đúng”.

7. Chứng viêm màng não của bé gái được chẩn đoán dựa trên linh cảm

trẻ sơ sinh
Trực giác và Bằng chứng – bạn đồng hành khó khăn?

BS Trisha Greenhalgh, Giáo sư về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Bệnh viện Royal Free và tại trường Đại học Y ở London, Anh, đã chia sẻ câu chuyện sau đây trên bài báo của bà có tựa đề “Trực giác và Bằng chứng – bạn đồng hành khó khăn?” (Intuition and Evidence—Uneasy Bedfellows?), được đăng tải trên tạp chí The British Journal of General Practice vào năm 2002:

“Vào một ngày nọ, một bác sĩ ở Cardiff, Wales đã nhận được cuộc gọi từ một người mẹ đang lo lắng vì đứa con gái 3 tuổi của cô bị tiêu chảy và cư xử khác thường. Bác sĩ đó biết khá rõ về gia đình này và ông rất quan tâm đến nỗi đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật vào buổi sáng để ngay lập tức ghé thăm gia đình đó.

Dựa trên linh cảm của mình, ông đã chẩn đoán chính xác và điều trị thành công một trường hợp viêm màng não do vi khuẩn cầu não gây ra chỉ dựa trên hai triệu chứng không rõ ràng được miêu tả qua điện thoại”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Một câu chuyện tử vi vui chia sẻ với mọi người
Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày tự kỷ chả đi chơi đâu, hắn ngồi một mình ở xó nhà, hắn nghĩ ngợi:

- Khỉ thật! Nếu cái phần mềm giải lá số "hâm dở" Tử vi Xem Tướng trả về một đống dữ liệu dài như rác thế này thì mình muốn dùng cũng khó. Đọc thì chả biết bao giờ xong một lá số hơn 100 trang giấy. Mà yêu cầu giải tức thì loay hoay kéo lên kéo xuống cái màn hình điện thoại thì cũng chả nhớ nổi. Vậy có cách nào giải quyết không?

Một câu hỏi đặt ra là: "có cách nào giải quyết không?".

Hắn cần một câu trả lời! Hắn thấy căng thẳng, hắn đi đi lại lại, hắn lầm lầm lì lì. Hắn gặp ai cũng than thở. Rồi hắn khó chịu quá, đành mang sách ra gõ lấy một đoạn "Thái âm, Thiên đồng" trong sách "Tam Hợp Phái" ra để hạ nhiệt tư duy. Cũng không ổn mấy. Hắn lăn quay ra ngủ. Ngủ được một lúc hắn bắt đầu tỉnh. Và hắn nghĩ:

- Nếu trước mặt hắn là một cô gái hắn gặp lần đầu, nói chuyện được vài câu mà phải mô tả chi tiết thì khá căng: chiều cao, cân nặng, số đo vòng, màu da, giọng nói, tính cách,... Kể mãi chả hết giống như cái phần mềm của mình "liên miên bất đoạn". Nhưng nếu mô tả nhanh mà chỉ dùng chừng vài từ là mô tả thì ai cũng hiểu, ví dụ như: "hiền dịu, thông minh, tiếng nói hay, xinh khéo". Có liên hệ gì với cái phần mềm Tử vi Xem Tướng của mình không?

Một câu hỏi đặt ra là: "Liệu phần mềm có tóm tắt lá số ngắn lại giống như mô tả một cô gái chỉ dùng vài từ không?".

Hắn ồ lên một tiếng:

- Chả khó! Nếu một đống dữ liệu lời giải tử vi được trả ra thì tụ quanh chừng hơn chục chủ đề cần trả lời thôi. Nhưng do lặp môn phái sinh ra rối loạn kết quả. Nếu mỗi chủ đề mình nhặt ra một câu trả lời đúng nhất, thì cũng chỉ có chừng hơn 10 câu trả lời thôi. Đó chính là "tóm tắt lá số".

Hắn lại nghĩ thêm:

- Mình sẽ tóm tắt thành các chủ đề:

1. Lá số này tốt hay xấu? Tốt thì tốt cái gì, xấu thì xấu cái gì?
2. Định hướng về tâm tính của mệnh tạo?
3. Tố chất của lá số là gì?
4. Tính cách, các cư xử thế nào?
5. Lời khuyên gì dành cho lá số này để sửa đổi, cải vận?
6. Một số nhận diện nhanh đặc thù lá số: vận hạn, quan hệ hôn nhân, sức khỏe,...

Hắn tạm nghĩ ra được "6 thức" tóm tắt lá số. Hắn thấy khá hài lòng. Hắn vơ vội quyển sổ trong ngăn bàn ra, cầm vội cái bút viết nhanh ý tưởng và phác họa giao diện. Rồi hắn lăn quay ra ngủ tiếp.

Sáng hắn dậy sớm, mở sổ ra đọc, mang máy tính ra code. Hắn làm một loắng là xong.

Đầu tiên hắn update trường "sticky" cho các lớp luật độ chính xác cao là 1. Hắn bổ xung thêm một số luật "bí mật" mà thầy hắn dạy riêng cho hắn vào hệ thống, ẩn riêng cho chức năng này. Và hắn đã code xong. Hắn chạy thử, hắn hài lòng. Một lá số dài nhằng hơn 100 trang giấy, tóm gọi lại chưa tới một trang, nói đủ thông tin hắn cần. Test thử với lá số hắn và một người khác, hắn khá ưng ý.

Hắn vội viết nhanh lên Facebook để khoe - hắn là người thích khoe khoang. Nhưng hắn không công khai tính năng này cho mọi người. Tính năng này dành riêng cho mình hắn, và có thể là thêm một người nữa thôi. Tại thời điểm này hắn chưa muốn public tính năng. Hắn cần suy nghĩ thêm việc công khai tính năng "nâng cao" này cho tất cả mọi người sử dụng. Việc đó nghĩ sau, giờ không phải lúc.

...

Hắn phải đi test tính năng "tóm tắt lá số này". Hắn tính ra một kịch bản hoàn hảo:

Ngày chủ nhật, hắn đi chơi Chùa Hà một chuyến. Hắn cầm một chiếc bút viết bảng, 2 tờ giấy A4 và một lọ hồ dán giấy. À quên cả Iphone 4 cũ có dùng gói VTTRE của Viettel nữa. Hắn dạo một vòng, thăm thăm, ngắm ngắm toàn bộ rồi sau đó chọn lấy một cái xó nào đó ngồi mà đông chị em qua lại.

Hắn "nối tiếp" hai tờ giấy A4 lại rồi viết nguệch ngoạc: "Xem Tử Vi miễn phí. Sai ăn tát, đúng cầm tay" dán lên tường trên đầu hắn rồi hắn ngồi ngáp ruồi, không quên ngón cái tay trái giữ cung Tí truyền thống của ông thầy xem bói.

Hắn nghĩ: xác suất đúng cho tử vi là 70%. Nếu xem cho 10 em thì hắn sẽ được cầm tay 7 em, và bị ăn tát 3 cái là nhiều. Nếu chọn lựa em nào đó hiền dịu để xem thì khả năng "sưng mặt do ăn tát" là giảm đi đáng kể. Hắn sẽ phải chuẩn bị câu từ chối cho trường hợp này đại loại như: "Em gái à? Lá số của em rất khó xem, nó cần phải mất nhiều thời gian hơn bình thường. Em cho anh suy nghĩ thêm. Email em là gì nhỉ? Em ghi lại cho anh: ngày tháng năm giờ sinh và địa chỉ email, tối về anh giải và gửi lại cho em". Nói vậy là ổn, tránh được một lớp khách hàng nữ có "đôi tay khỏe mạnh".

Hắn bắt đầu hành nghề. Đầu tiên là bật điện thoại lên, mở sẵn trang Tử vi Xem Tướng ra và vào sẵn tính năng "tóm tắt lá số". Sau đó đợi khách hàng.

Một em gái khá xinh hỏi hắn:

- Anh xem tử vi ạ? Anh xem cho em được không?

Hắn ngước mắt điêu luyện của ông thầy hạng ruồi. Hắn nói:

- Được! Em ngồi xuống đi!

Đợi em gái ngồi xuống, hắn hỏi tiếp:

- Em cho anh ngày tháng năm sinh, giờ sinh dương lịch.

Cô gái trả lời:

- Em sinh...

Hắn thao tác nhanh nhập thông tin vào phần mềm rồi đọc lướt kết quả tóm tắt. He he! Rõ như ban ngày, cô gái này mệnh có sao Phúc Đức, cục Mệnh là Tang Đố Mộc, Lai nhân cung ở Tật Ách, Thân cư phu,.. Tóm tắt lời giải ngắn này đọc loắng là xong.

Hắn ngẫm nghĩ:

- Xinh thế này không cầm tay không được. Ăn tát cũng phải cầm tay đã. Hắn nghĩ ra cách.

Hắn thao tác tay trái bấm bấm kiểu an lá số bằng tay, tay phải cũng bấm tiếp. Bấm một tí hắn nói:

- Em à? Anh an lá số Thiên Bàn ở tay trái, Địa Bàn ở tay phải. Giờ còn lá số Nhân Bàn thì phải an ở tay đương số mới đúng được em ạ. Em đưa tay cho anh xem.

Cô gái cũng vui vẻ đưa tay cho hắn. Hắn "nắm chặt" tay cô gái rồi mở lòng bàn tay cô gái ra chỉ vào các đốt ngón tay tương đương 12 cung để an lá số Nhân Bàn (an lại sao dựa vào cung Phúc Đức).

Thật là đã đời! Giờ thì hắn luyên thuyên nói theo chức năng "tóm tắt lá số" để rồi em gái gật đầu khen đúng.

...

Một buổi test phần mềm thành công. Chức năng "tóm tắt lá số tử vi" done!

(Phù Cừ Cổ Học)

----

Tập viết một đoạn văn ghi chép sự kiện "viết xong tính năng tóm tắt lá số ngày 25/12/2016". Viết vội chưa kịp soát chính tả, câu cú.

Xem lá số Tử Vi theo Trung Châu Phái có sử dụng Tam Bàn: Thiên Địa Nhân để giải lá số thêm phần chính xác.

Nguồn: tuvi.cohoc.net


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Treo tranh phong thủy hoa đào đón năm mới an lành

Phong tục lâu đời của người dân là trồng đào trước cửa nhà để có hoa nở khi tết đến xuân về vì theo phong thủy cây đào là tinh hoa của Ngũ hành, có thể trị bách quỷ. Nếu không trồng được đào trước cửa, bạn có thể treo tranh hoa đào để đón may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dân gian truyền lại rằng, để giúp con người xua đuổi quỷ dữ, cùng với cây nêu ngày tết để nhắc nhở lũ quỷ tránh xa loài người, đức Phật còn dùng cành đào làm ranh giới. Mỗi năm một ngày (đêm 30), lũ quỷ từ biển Đông được phép vào viếng thăm đất liền. Do vậy, để cảnh báo lũ yêu ma quỷ quái không xâm phạm và quấy nhiễu gia đình, người ta đã cắm một cành đào trước cửa. Cho nên ngày nay, nhà nào cũng sắm sửa cho mình một cành đào ngày Tết.

Hoa đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, cứ mỗi độ Tết đến, xuân về, những cánh hoa đào lại nở rộ khoe sắc thắm. Vẻ đẹp, màu sắc của hoa đào mang đến sự ấm cúng cho mỗi nhà, gieo vào lòng người sự hân hoan, niềm tin yêu và hy vọng cho năm mới vạn sự như ý.

Vị trí treo tranh

Trong ngôi nhà hoặc từng căn phòng đều có 8 phương vị khác nhau đó là: Chính Đông, Đông Nam, Chính Nam, Tây Nam, chính Tây, Tây Bắc, Chính Bắc, Đông Đắc. Mỗi phương vị sẽ tạo ra một hiệu ứng khác nhau khi treo tranh. Tranh hoa đào nếu treo ở phương vị thích hợp sẽ giúp căn phòng thêm đẹp mà vẫn ấm cúng, nhiều may mắn; ngược lại phạm cấm kị sẽ hạn chế nhiều việc tốt lành đến với gia đình.

Phương vị Phương vị Ngũ hành Nên treo tranh thuộc Không nên treo tranh thuộc Các tranh trung tính

Chính Đông (Chấn)

Mộc

Thủy, Mộc

Kim, Hỏa

Thổ

Đông Nam (Tốn)

Mộc

Thủy, Mộc

Kim, Hỏa

Thổ

Chính Nam (Ly)

Hỏa

Mộc, Hỏa

Thủy, Thổ

Kim

Tây Nam (Khôn)

Thổ

Hỏa, Thổ

Mộc, Kim

Thủy

Tây Bắc (Càn)

Kim

Thổ, Kim

Hỏa, Thủy

Mộc

Chính Tây

Kim

Thổ, Kim

Hỏa, Thủy

Mộc

Chính Bắc (Khảm)

Thủy

Kim, Thủy

Thổ, Mộc

Hỏa

Đông Bắc

Thổ

Hỏa, Thổ

Mộc, Kim

Thủy

Tranh thêu hoa đào thuộc Mộc, do vậy:

- Nên treo tranh ở các hướng: Chính Nam, chính Đông, Đông Nam

- Không nên treo tranh ở các hướng: Đông Bắc, Tây Nam, chính Bắc

- Các hướng trung tính: Tây Bắc, chính Tây

Một số mẫu tranh hoa đào thêu chữ thập đẹp

Tranh hoa đào khổ lớn giúp tăng thêm nét sang trọng cho phòng khách
Tranh hoa đào khổ lớn giúp tăng thêm nét sang trọng cho phòng khách

Tranh hoa đào với phong cảnh yên ả, hữu tình
Tranh hoa đào với phong cảnh yên ả, hữu tình

Bộ đào tam tranh lạ mắt
Bộ đào tam tranh lạ mắt phù hợp với những phòng khách hiện đại

Bộ ba tranh Phúc, Lộc Thọ
Bộ ba tranh Phúc, Lộc Thọ, trong đó hoa đào - trúc mang Lộc đến cho mọi nhà

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh phong thủy hoa đào đón năm mới an lành

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd