Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những con giáp coi bản thân là nhất quả đất

Những con giáp coi bản thân là nhất quả đất: Góp mặt trong danh sách này có người tuổi Tý, Thìn và...
Những con giáp coi bản thân là nhất quả đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Góp mặt trong danh sách này có người tuổi Tý, Thìn và...

No1. Người tuổi Tý
 
Đặc điểm nổi bật thường thấy của người tuổi Tý là giỏi giao tiếp, ăn nói khéo léo, mối quan hệ xã giao rộng. Tuy nhiên con giáp này khá ích kỉ, lúc nào cũng coi bản thân là nhất quả đất mà không xem trọng ý kiến của người khác.

Nhung con giap coi ban than la nhat qua dat hinh anh
Tuổi Tý
  Bên cạnh đó, người cầm tinh con Chuột rất giỏi tiết chế cảm xúc, ít khi thấy họ biểu đạt sự tức giận hay mất bình tĩnh trên khuôn mặt. Điều đó khiến mọi người không thể đoán biết được họ đang nghĩ gì, có ý định làm gì. Dường như lúc nào họ cũng tỏ ra mình là người nguy hiểm.   No2. Người tuổi Dần
 
Trong suy nghĩ của người tuổi Dần, tính mạng con người là điều quý giá nhất. Tất nhiên họ yên bản thân nhất cũng là điều dễ hiểu. Khác với người tuổi Tý luôn phải che giấu suy nghĩ đó, người cầm tinh con Hổ lại thẳng thắn thể hiện điều đó bằng lời nói và hành động cụ thể. 

Nhung con giap coi ban than la nhat qua dat hinh anh 2
Tuổi Dần
  Theo đó, khi làm bất cứ việc gì, người tuổi Dần luôn đặt lợi ích bản thân lên trên tất cả, ít khi biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề khách quan hơn. Điều đó không có nghĩa là họ không biết quý trọng người khác mà chỉ đơn giản là tình cảm đó luôn đứng sau tình yêu bản thân của họ.   No3. Người tuổi Thìn   Luôn coi mình thuộc dòng dõi cao quý, người tuổi Thìn lúc nào cũng cho bản thân là độc nhất vô nhị trên cõi đời này. Đối với con giáp này, việc yêu bản thân là điều tất nhiên, không có gì phải bàn cãi. 

Nhung con giap coi ban than la nhat qua dat hinh anh 3
Tuổi Thìn
  Tuy nhiên, đôi khi vì quá tự tin và kiêu ngạo nên hành động coi bản thân là nhất quả đất đó của người tuổi Thìn nhận không ít “gạch đá” từ mọi người xung quanh.
No4. Người tuổi Tỵ

Bề ngoài, người tuổi Tỵ luôn tạo cảm giác bí ẩn và khá lạnh lùng nên mọi người cảm thấy khó gần. Bên trong họ là người tỉ mỉ, chu đáo nhưng có phần hơi ích kỉ và tự phụ. Họ có thể lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình.

Nhung con giap coi ban than la nhat qua dat hinh anh 4
Tuổi Tỵ
  Ngoài ra, con giáp này lúc nào cũng thích phải độc quyền sở hữu mọi thứ, không muốn đi sau ai đó. Lí do để biện minh cho việc quá coi trọng bản thân của người tuổi Tỵ chính là phải biết yêu mình trước khi yêu người khác.  
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Theo
Ione
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp coi bản thân là nhất quả đất

Muốn biết bản chất cuộc đời, hãy nghe lời Phật dạy

Đức Phật dạy bàn về bản chất cuộc đời chỉ bằng 3 luận đề, ngắn gọn, súc tích và sâu sắc.
Muốn biết bản chất cuộc đời, hãy nghe lời Phật dạy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


phat
 
Luận đề thứ nhất – Vị ngọt: Đức Phật bàn về bản chất cuộc đời thừa nhận cuộc đời có vị ngọt, nghĩa là cảm giác thích thú hân hoan hay tâm lý hạnh phúc khi các giác quan của con người (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với các đối tượng cảm quan (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo hân hoan, thích thú.
 
Luận đề thứ hai – Sự nguy hiểm: Trong khi thừa nhận cuộc đời có vị ngọt, Đức Phật cũng thẳng thắn chỉ rõ rằng cuộc đời là nguy hiểm, tức mặt trái của sự hiện hữu. Con người (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và những gì con người cảm nhận được (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) đều do duyên sinh, vô thường, khổ, chịu sự biến hoại.
 
Nói khác đi, tất cả mọi thứ trên cuộc đời này, dù tốt hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, đều phải thay đổi và không có tính cách trường cửu. Như vậy, sự nguy hiểm ở đây được hiểu theo nghĩa một quy luật tự nhiên, có sinh tức có diệt.
 
Mặt khác, sự nguy hiểm của cuộc đời cũng được thấy rõ bởi lòng tham lam ích kỉ của con người, tức là do khao khát muốn chiếm hữu và thoã mãn các vị ngọt hay lạc thú ở đời mà con người bất chấp đạo lý, rơi vào các hành vi ác, bất thiện như tranh chấp, chiến tranh, xâm lăng, mưu hại lẫn nhau, khiến gây khổ đau cho mình và cho người khác. Đây là những gì đang diễn ra hầu như khắp nơi trên thế giới.
 
Luận đề thứ ba – Sự xuất ly: Từ thực tế này, nghĩa là sự vô thường, nguy hiểm của cuộc đời, Đức Phật nêu luận đề thứ ba, sự xuất ly cuộc đời, nhấn mạnh sự điều phục lòng tham hay dục vọng trên cơ sở thực hành Bát Thánh đạo, tức một nếp sống trung dung tiết độ có khả năng giúp con người  phát huy các năng lực đạo đức tâm linh và trí tuệ để sống an lạc giữa cuộc đời.
►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm

Theo Phatgiao
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn biết bản chất cuộc đời, hãy nghe lời Phật dạy

Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào? Cùng ## tìm nhiểu nhé.
Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận ra sao, hãy cùng ## tìm hiểu.


Thành công trên quan trường là điều mà mỗi người làm chính trị đều mong muốn. Nhưng không dễ dàng để chạm tới thành công, nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ngoài năng lực bản thân, sự hài hòa về thiên thời, địa lợi, việc hỗ trợ về mặt tinh thần của nửa kia cũng vô cùng quan trọng.

Thế nên mới có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận rao sao, hãy cùng ## tìm hiểu.

1. Ngũ quan đoan chính, không có nét phá tướng

Tướng do tâm sinh, ngũ quan (mắt, mũi, tai, miệng, lông mày) đoan chính, không bị khuyết hãm thì tâm hồn lương thiện, trong sáng. Một chính trị gia rất cần người phụ nữ như vậy để có thể cùng kề vai sát cách trên quan trường.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh
 
Phụ nữ có ngũ quan đoan chính dễ được người khác yêu mến, tin tưởng. Công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng khá thuận lợi. Người này thông minh, lanh lợi, có phúc phận tốt, sẽ là “trợ thủ đắc lực” cho con đường quan lộc của chồng.

Cần lưu ý, trên khuôn mặt không có nét phá tướng (nốt ruồi xui xẻo, sẹo, bớt...) thì vận khí của người phụ nữ này mới không bị cản trở.

Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều”
– Nắm bắt được những tướng mặt sếp khó tính dưới đây, bạn sẽ có cách “né đòn” hữu hiệu, vừa hoàn thành công việc dễ dàng lại không bị cấp
2. Thiên đình đầy đặn


Thiên đình chính là phần trán trên khuôn mặt. Đây cũng là vị trí của cung Sự nghiệp. Thiên đình đầy đặn, sáng sủa chứng tỏ chủ nhân có tấm lòng khoan khoái, bao dung, phóng khoáng. Hơn thế, người phụ nữ này còn sở hữu trí tuệ minh mẫn, khả năng làm việc độc lập rất tốt.

Trong công việc, họ dễ dàng được lãnh đạo coi trọng, đánh giá cao và đề bạt thăng tiến. Bản thân họ cũng là trợ thủ đắc lực của cấp trên, công danh sự nghiệp gặt hái được nhiều thành công.

Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng mặt phụ nữ làm phu nhân của chính trị gia. Trong mọi trường hợp, họ sẽ là “hậu phương vững chắc” để chồng an tâm xông pha nơi “tiền tuyến”.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh 2
 
3. Mắt tròng đen tròng trắng rõ ràng


Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Phụ nữ có mắt to, lòng đen và lòng trắng rõ ràng thường có tấm lòng lương thiện, tràn đầy sức sống, làm việc ngay thẳng, minh bạch nên dễ được lòng lãnh đạo.

Trong hôn nhân, họ luôn biết cách cư xử khéo léo, vun vén cho gia đình để chồng con yên tâm phấn đấu.

4. Sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy

Mũi thể hiện tài vận, phản ánh phần nào đời sống vật chất của mỗi người. Phụ nữ có tướng mũi mà sống mũi thẳng, đầu mũi tròn đầy thì được hưởng nhiều phúc phận về tài lộc. Đường công danh, sự nghiệp của bản thân họ cũng hanh thông, rộng mở.

Tuong mat phu nu lam phu nhan co dac diem the nao hinh anh 3
 
Trong tình yêu, quý cô này thủy chung một lòng, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để gia đình được trong ấm ngoài êm, ông xã tập trung phấn đấu cho sự nghiệp.

5. Địa các đầy đặn

Trên khuôn mặt, Địa các chính là cằm. Cằm phản ánh vận thế ở giai đoạn hậu vận của mỗi người. Muốn biết xem về già bạn có được hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý hay không, hãy nhìn tướng cằm.

Bên cạnh đó, nữ giới có cằm đầy đặn thường có số vượng phu và vượng cả tài lộc. Họ dễ dàng lọt vào “mắt xanh” của các chính trị gia, có phúc phận làm phu nhân, luôn sánh bước cùng chồng trên quan trường.

=> Xem thêm: Nốt ruồi và ý nghĩa của các vị trí trên cơ thể

Ngân Hà

Chỉ ra tướng mặt người nghèo khó và cách thoát nghèo
Trong Nhân diện học, lông mày lộn xộn, đứt đoạn là biểu hiện của đời sống tình cảm phức tạp. Chủ nhân của tướng lông mày này thường yếu đuối, dễ bị yếu tố


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt phụ nữ làm phu nhân có đặc điểm thế nào

Các Lễ hội ngày 13 tháng 11 -Hội Lỗ Khê, Hội Đền Nguyễn Công Trứ

Vào ngày 13 tháng 11 âm lịch có diễn ra hai hội lễ đó là Hội Lỗ Khêdiễn ra tại Hà Nội và Hội Đền Nguyễn Công Trứ tổ chức tại Ninh Bình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các Lễ hội ngày 13 tháng 11 -Hội Lỗ Khê, Hội Đền Nguyễn Công Trứ

Các Lễ hội ngày 13 tháng 11 -Hội Lỗ Khê, Hội Đền Nguyễn Công Trứ

Vào ngày 13 tháng 11 âm lịch có diễn ra hai hội lễ đó là:

1.Hội Lỗ Khê

Thời gian: tổ chức vào ngày 5 tới ngày 7 tháng 4 và ngày 13 tới ngày 15 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: xã Liên Hà, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vợ chồng ông Đinh Dự và bà Mẫn Hoa Đường (dạy nghề hát ả đào cho dân).

Nội dung: Lễ giổ tổ nghề, dâng hương và cúng tế và một số hoạt động văn hóa như hát ca trù.

 

2.Hội Đền Nguyễn Công Trứ

Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tới ngày 15 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: xã Quang thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Nguyễn Công Trứ.

Nội dung: Dâng hương tại đền thờ Nguyễn Công Trứ xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn. Thường có sự tham gia của nhiều làng trong huyện Kim Sơn. Điều độc đáo là lễ hội có sự tham gia của cả người lương và giáo với những nghi thức khác nhau

Tổ chức trò chơi đua thuyền trên nhánh sông Vạc, một đặc trưng của lễ hội cư dân đồng bằng ven biển. Phần hội còn có phần thi hát ca trù, loại hình dân ca liên quan nhiều đến Nguyễn Công Trứ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các Lễ hội ngày 13 tháng 11 -Hội Lỗ Khê, Hội Đền Nguyễn Công Trứ

32 địa điểm Phật tọa đẹp mê hồn nên đến thăm 1 lần trong đời (P2)

Nếu có dịp tới thăm Trung Quốc, các Phật tử nên một lần ghé thăm các địa danh có tượng Phật niết bàn để tỏ lòng thành kính với người đã phổ độ chúng sinh.
32 địa điểm Phật tọa đẹp mê hồn nên đến thăm 1 lần trong đời (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  


=> Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh
Bức tranh được đặt trong bảo tàng văn hóa di vật cổ Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Bức tranh miêu tả cảnh các Phật tử, các vị Bồ Tát và dân chúng tới chia buồn khi Phật tịnh niết bàn.

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 2
Bức tượng Phật nằm trong hang động tại chùa Á Châu, tỉnh Chiết Giang. Bức tượng nằm ở vị trí cao 1,2m so với mặt đất; dài 34.5m; vai rộng 7,5m; các ngón tay có bề rộng một người nằm vừa và lỗ tai có thể để 8 người cùng ngồi.
32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 3
Tượng Phật Nhập Niết Bàn bên trong Đại Tháp Niết Bàn tại thành Câu Thi Na, tượng dài 6,1m

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 4
Thần thái khuôn mặt mang vẻ nghiêm trang, thư thái như lúc còn sống

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 5
Bức tượng được chế tác từ một khối đá cẩm thạch trắng duy nhất tại chùa Phật Ngọc, Thượng Hải. Thân khoác áo cà sa để lộ vai phải, tay phải gác lên một cái gụ bằng gỗ. Tạo hình giống tượng Phật tại chùa Hương Sơn, Bắc Kinh.
32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 6
Tượng Phật niết bàn trên Ngũ Đài Sơn, thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Hai mi mắt khép hờ, gương mặt hiền từ, phúc hậu, giữ nguyên tinh thần thư thái như lúc tịnh niết bàn và hướng về phái biển Đông.

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 7
Tại phía Nam tỉnh Quảng Đông có một dãy núi tự nhiên mang hình đức Phật; tượng dài 5200m, rộng 1000m, vị trí ngực cao 430m, ước tính trọng lượng toàn thể chừng hơn 1 tỷ mét khối. Tượng trải dài qua 2 tỉnh, thân mình ở tỉnh Quảng Đông, còn chân thuộc tỉnh Giang Tây. Đây là bức tượng Phật tự nhiên lớn nhất thế giới.
 
32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 8
Tượng Phật tọa tại Chung Nam Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Tượng dài 36 thước, dài 9 thước, mặt rộng 5.4 thước, vai rộng 7.5 thước, bàn tay dài 3.8 thước, đầu gối lên một đài cao.

32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 9
Bức tượng Phật nằm lớn nhất thế giới tại tỉnh Giang Tây, toàn bộ tượng dài 416 thước, chỗ cao nhất là 68 thước, đường kính mắt 8.6 thước, miệng 12.3 thước, đầu dài 50.5 thước, ngón chân cái rộng 5 thước, các ngón còn lại 1.2 thước. Đây là bức tượng nằm trên núi tự nhiên lớn nhất thế giới. "Sơn thị nhất tôn phật, phật thị nhất tọa sơn".
32 dia diem Phat toa dep me hon nen den tham 1 lan trong doi P2 hinh anh 10
Tượng tọa tại Điếu Ngư thành, tỉnh Trùng Khánh. Đây là bức tượng Phật nằm ngủ độc nhất vô nhị, một tác phẩm được hoàn thành vào cuối thời nhà Đường, đường nét điêu khắc tinh xảo, tạo hình đại khí. Dù rằng không phải bức tượng điêu khắc trên vách đá lớn nhất thế giới nhưng cũng có thể nói rằng lớn nhất Trung Quốc. Tượng nằm trên vách đá dài 11m, vai rộng 2.2m, áo cà sa buông rủ, đầu búi tóc cao, khoảng cách giữa 2 tai là 1.8m, bàn chân rộng 1.2m. Khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, thần thái tự nhiên.  
  (còn nữa)
 
Lichngaytot.com 32 tượng Phật nằm đẹp nên đến thăm một lần trong đời (P1)
Ngày Rằm tháng 2 là ngày Phật niết bàn. Trong ngày này, cùng ngắm 32 địa điểm Phật tọa đẹp nhất và cùng tỏ lòng thành kính với người đã phổ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 32 địa điểm Phật tọa đẹp mê hồn nên đến thăm 1 lần trong đời (P2)

Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm

Niệm Phật cầu sinh, điều gì tiêu tai giải nạn tốt nhất? Chính là lấy thiện nhân đối lại kẻ ác, lấy thiện duyên đáp lại chuyện xấu.
Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có như vậy thì người gian việc hạn đến rồi đi, không thể lưu lại ảnh hưởng.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Phuong phap tieu tai giai nan - noi de, kho lam hinh anh 2
 
Là người sống ở trên đời, kết không ít oan nghiệt, oan gia chủ nợ không thiếu, làm sao để tiêu tai giải nạn, cởi bỏ những nút thắt này? Niệm Phật vãng sinh là bí quyết giải oán, mở kết quan trọng. Siêu sinh cởi bỏ, buông lòng mình xuống là phương pháp tốt nhất, Phật dạy vậy mà ta cũng tự ngẫm ra vậy.   Oán thù vốn là do con người tự kết, vì lòng tham, sân, si của mỗi người, không phải duyên phận, không phải ý trời mà là ý người. Thế gian này người chân chính học Phật không nhiều, người cầu xin tiêu tai giải nạn lại quá nhiều. Ai cũng cho rằng đọc kinh sám hối, bái Phật dâng hương, ba bước đi một bước quỳ thì có thể tiễu trừ nghiệp chướng.    Nhưng Phật chỉ giải được duyên trời định, không mở được duyên người kết. Bái Phật, kính Phật, hướng Phật là một cách để lòng mình thanh thản, hướng tới điều lành, biết rũ bỏ tham, sân si, tìm đến thanh tịnh. Cách này chỉ giúp được người có vướng mắc trong lòng, chỉ ra đường ngay lối đúng để đối nhân xử thế, tự mình buông bỏ cho người khác, ắt người khác sẽ buông bỏ cho mình.    Còn oán duyên người kết phải tự mình dùng thiện duyên để giải. Tìm đến cửa Phật chỉ là tìm đến chỗ dựa và đạo lý, chỉ đường mà thôi, Phật không giải được oán thù, chỉ bày cách tốt để tan oán tan thù mà thôi. Người mà tâm tà tư niệm, muốn tiêu tai giải nạn nhưng vẫn làm việc sai trái thì dù đọc bao nhiêu kinh, bái bao nhiêu Phật cũng không thể thoát được.
Phuong phap tieu tai giai nan - noi de, kho lam hinh anh 2
 
Quan trọng nhất là nghĩ điều thiện lương, làm điều thiện lương, truyền bá điều thiện lương để tiêu tai giải nạn. Lấy lòng thiện đối đãi với oán thù, lấy bao dung khoan nhượng với đối thủ, lấy chân thành hối lỗi mà thành kính với nạn nhân. Chuyện ác hôm qua phải được bù bằng việc lành hôm nay. Lấy oán báo oán, oán càng chồng chất, lấy ân báo oán thì trăm sự đều qua. Không phải cho người, không phải vì đời, chỉ là cho bản thân thanh thản.
  Không oán không thù tự dưng ác nghiệp tiêu tan, họa không đến cửa, bình an qua ngày. Niệm một ngày kinh không tan hoạn nạn, làm một việc thiện, phúc đức vô lượng.
8 quy tắc ai cũng phải biết khi dâng hương lễ Phật 7 ác nghiệp vùi đời người dưới 9 tầng địa ngục Có thể bạn chưa biết: Tham ăn, tục uống sẽ gây ác nghiệp Thái Vân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm

Sao Thái Dương tổng luận các đặc tính và cách cục

Tử vi tổng luận và biện luận các đặc tính của sao Thái Dương trong lá số, các cách cục nổi bật và đặc thù tính chất của chúng khi xuất hiện trong lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thái Dương tổng luận

Sao Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung Thiên, thuộc dương hỏa. Do Thái Dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".  Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi nó hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái Âm, Hóa Lộc, Lộc Tồn, nếu không, càng chủ về quý mà không chủ về giàu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên Lương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thái Âm, cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm Lưu Khôi, Lưu Việt xung chiếu Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

sao thái dương tổng luận

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Thương, Thiên Sứ, Cô Thần, Quả Tú, Phỉ Liêm, Phá Toái. Nếu không, nhiệt và ánh sáng của Thái Dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái Dương thủ cung mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái Dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái Dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau đây:

  1. Trước tiên nghiên cứu xem Thái Dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào. Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí, Sửu) càng không nên.
  2. Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên, tình huống xấu nhất là biến thành không phú mà cũng không quý.
  3. Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.
  4. Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa”. Nêu Thái Dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính nhu mềm, nếu ánh sáng và nhiệt của Thái Dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái Dương Hóa Lộc chủ về phú quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái Dương Hóa Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao ở cung mệnh của thiên bàn để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên Đồng Thái Âm Hóa Kị để nhập cung, hoặc Cự Môn, Thiên Cơ lạc hãm thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái Dương Hóa Quyền, Hóa Khoa sẽ không bằng Hóa Lộc bởi vì Hóa Quyền và Hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái Dương, mà không thể làm cho giàu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý, vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái Dương Hóa Quyền hay Hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên", có hai tính chất như sau:

  • Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng tử; nữ thì bất lợi về cha, chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong mà có thể chỉ là sinh li, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời; có lúc là lục thân bị nạn tai, bệnh tật. Những tình hình này, đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với chồng tóm lại đúng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người.
  • Bản thân dễ bị nạn tai, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái Dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh tật ở mắt, nhất là dễ loạn thị, lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái Dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối cung với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương- vì vậy ba sao này có ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

- Ở hai cung Tí Ngọ, Thái Dương và Thiên Lương chiếu nhau ở hai cung Mão Dậu, "Thái Dương, Thiên Lương" đồng độ. Cho nên bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ hợp của "Thái Dương, Thiên Lương”

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thái Dương và Thái Âm chiếu nhau; ờ hai cung Sửu hoặc Mùi, "Thái Dương, Thái Âm" đổng đã. Cho nên bốn cung Thìn, Tuâ't, Sửu, Mùi là tổ hợp của "Thái Âm, Thái Dương".

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái Dương và Cự Môn chiếu nhau;  hai cung Dần hoặc Thân, "Thái Dương, Cự Môn" đồng độ. Cho nên bốn cung Dần, Thân, Tị, Hợi là tổ hợp của "Thái Dương, Cự Môn".

Trong các tình hình thông thường, Thái Dương rất ưa trường hợp "Thái Dương, Cự Môn" ở cung Dần; hoặc Thái Dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái Dương, Cự Môn" gặp các sao sát. kị, hình ở cung Thân; và "Thái Dương, Thiên Lương" gặp các sao sác kị, hình ở cung Dậu.

Thái Dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị vì vậy không nên gặp quá nhiều sao hình, như Kình Dương, Thiên Hình, Quan Phù, Bạch Hổ. Nhất là Thái Dương Hóa Kị, gặp sao hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái Dương tọa thủ cung phúc đức cũng cần chú ý.

2. Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đổi với Thái Dương, cho rằng miếu vượng thì cát, lạc hãm thì hung. Nói "miếu vượng", tức là mặt trời (Thái Dương) ở vào giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão, đến cung Ngọ thì như mặt trời ở giữa trời, đến cung Dậu thì mặt trời bắt đầu lặn về tây, sau đó đến cung Dần mặt trời lại bắt đầu nhô lên. Do đó lúc luận đoán người có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái Dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực. 

Vì vậy đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau: "Thái Dương thủ mệnh lạc hãm, du Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thanh bại bất nhất."; "Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật."; "Thái Dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."; "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão,Thìn, Tị hoặc Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử. Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là cát, gặp Thái Dương buổi chiều là hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái Dương; mà còn bỏ sót một điều, Thái Dương buổi sáng cũng có sự khiếm khuyết của nó, Thái Dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Phái Trung Châu Vương Đinh Chi luận về Thái Dương khách quan hơn.

Thái Dương tọa mệnh thực ra có ba đặc điểm như sau:

- Một là, hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái Dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

- Hai là, danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chủ về quý. Cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là cự phú, thậm chí có lúc bản thân không giàu có bằng người dưới quyền của họ.

- Ba là, tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ phi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh thường cảm thấy vận khí cúa mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy mình có chỗ không bằng người.

Thái Dương tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có ba tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái Âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự Môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên Lương ở cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tí, Thìn, Tị Ngọ, Tuất, Hợi còn lại đều là Thái Dương độc tọa. 

Nhưng Thái Dương độc tọa cũng có ba tình huống khác nhau. Thái Dương độc tọa ở hai cung Tí hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên Lương; Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn; Thái Dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái Âm.

Cho nên Thái Dương có quan hệ với chính diệu thực ra chỉ có ba sao Cự Môn, Thiên Lương, Thái Âm; và chia thành hai tình huống đồng cung và đối cung.

Cự Môn chủ về "ám"; Thái Âm chủ về "phú"; Thiên Lương chủ vê' "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái Dương thủ cung mệnh. Cho nên về đại thể, Thái Dương gặp Cự Môn, là người chi có hư danh; Thái Dương gặp Thái Âm, là người có thế phú quý, nhưng cũng có thế chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chi là người ở bậc trung có chút quyền lực; Thái Dương gặp Thiên Lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người được đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính rất cơ bản, tình hình cụ thể vẫn cân phải xem các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, như bạn đọc đã biết, Thái Âm chủ về phú, Thái Dương chù về quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái Dương thủ mệnh thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về quý, cho nên Thái Dương rất ưa hội hợp vói một số trợ tinh chủ về quý. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Tri Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm 6 cặp, nếu có sao đôi đủ cặp hội hợp với Thái Dương thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: nếu Thái Dương hội hợp với ba sao cát là Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp sao đôi trong số đó, như chi hội hợp với Tả Phụ và Hữu Bật thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kế trên.

Hai cặp sao đôi Tam Thai và Bát Tọa, Ân Quang và Thiên Quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kì nhỏ, nhưng nếu sao đôi đủ cặp đồng cung với Thái Dương, sức mạnh lại cực kì lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử Vi cũng cần các sao cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

Tử Vi thích Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương thì không được nói chính diệu triều củng; trong số lục sát tinh, Tử Vi sợ Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương thì không sợ hai sao này, mà lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm; Thái Dương thủ mệnh thì chỉ hơi có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

Nhưng Thái Dương lại có lực "hình khắc", còn Tử Vi thì không có. Người có Tử Vi thủ mệnh, duyên phận với cha mẹ, anh em, con cái đều khá tốt; nhưng người có Thái Dương thủ mệnh thì lại có "hình khắc" đối với cha, anh, con cả; nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh li, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

Thậm chí ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử Vi cũng tốt hơn Thái Dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển?

Do Thái Dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái Dương, Thái Âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp". Lí do là, nếu cung mệnh không gặp Thái Dương tọa thủ, mà lại được Thái Dương vây chiếu, thì vẫn khiến cung mệnh có tính chất "quý", nhưng lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của nó.

Nhưng theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái Dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói. Mà mức độ quý hiến cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ là do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa cha con hai đời cùng ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng, vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái Dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ vói bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái Dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không họp quần; không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái Dương thủ mệnh, phải cẩn thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái Dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái Dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít; nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái Dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái Dương chủ về quý, cho nên mệnh tạo ưa thích hư danh; ở phương diện khác, Thái Dương không chủ về phú, càng ưa hư danh thì càng dễ khoa trương phù phiếm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thái Dương tổng luận các đặc tính và cách cục

Tướng mệnh của người thông minh

Trán cao rộng, tai cao hơn lông mày, hay hàm răng có trật tự, sít nhau... là một trong số những dấu hiệu nhận biết người thông mình đó nha.
Tướng mệnh của người thông minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trán cao rộng

Muốn xem độ thông minh, trước tiên chúng ta nên quan sát trán. Bởi trán chính là vị trí quan trọng trong tướng mạo, được xem là vị trí của cung mệnh, cung phúc lộc, cung phúc đức. Người trán cao rộng có tấm lòng rộng mở, thông minh lanh lợi, đầu óc linh hoạt, thích ứng nhanh, hiểu biết rộng, là người đi đầu, biết nắm chắc thời cơ và thành công trong lĩnh vực của họ. Những người này đa phần đều sống thọ, có thể sống đến bạc đầu.

1-2835-1422848473.jpg

2. Mi thanh mục tú 

Mi thanh mục tú là chỉ lông mày thanh mảnh, rõ nét, còn ám chỉ mắt sáng và đẹp. Người có đặc điểm này có đầu óc thông minh, linh khí dồi dào, tâm tính nho nhã, có khả năng quan sát nhạy bén và phân tích tốt. Ngoài sự thông minh, họ còn rất tài hoa, cho dù ngành nghề nào, họ đều có thể đạt được thành tích đáng tự hào, có thể trở thành một nhà lãnh đạo trong ngành công nghiệp.

3. Mắt trắng đen rõ ràng

Mắt được xem là cửa sổ tâm hồn, có thể biết được sự thông minh, ngốc nghếch, lương thiện hay tàn ác chỉ qua ánh mắt. Mắt trắng đen rõ ràng là ám chỉ lòng đen nhiều, lòng trắng ít. Người này thông minh, giỏi quan sát, chỉ cần nhìn vấn đề là có thể tìm được điểm mấu chốt, biết tìm và nắm chắc thời cơ, thấu hiểu lòng người.

4. Tai cao hơn lông mày

Tai và lông mày ngang nhau, hoặc tai cao hơn lông mày được xem là tướng thông minh. Ám chỉ năng lực học hành và thấu hiểu cao, xem một lần là nhớ, cần tận tâm bồi dưỡng, nhất định có thể đứng top trong bảng xếp hạng về thành tích. Hơn nữa, tai dính sát vào đầu còn được xem là biết nghe lời dạy bảo, có thể đem lại vận may.

2-2867-1422848473.jpg

5. Tai trắng hơn mặt

Nếu đôi tai có hình dáng đầy đặn, làn da ở tai sáng bóng và trắng sáng hơn so với mặt, là có năng lực học hành, khả năng phân tích tốt, thấu hiểu hơn người, thuộc số người có chỉ số thông minh cao. Họ có thể dựa vào sự thông minh và lanh lợi của mình để đạt được thành công trong sự nghiệp.

6. Sơn lâm đầy đặn

Vị trí ngay trên tai được gọi là sơn lâm, nếu vị trí này đầy đặn, lộ ra ngoài thì người này có trí nhớ tuyệt vời, xem một lần là nhớ, có tư chất thông minh hơn người, nhưng đồng thời cũng không nên quá bộc lộ tránh cho nhiều người ghen tỵ.

7. Hàm răng có trật tự và sít nhau

Người có hàm răng trật tự và sít nhau, bề mặt răng trắng sáng, được xem là có khả năng nói chuyên lưu loát, biết cách giao tiếp, suy nghĩ thận trọng, tài hoa. Họ có thể dựa vào 2 thế mạnh là sự thông minh và dẻo miệng để đạt được thành công trong sự nghiệp.

Chocopie (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mệnh của người thông minh

Top 5 con giáp được thần Tài hộ mệnh suốt đời

Tuổi Thân, Hợi là hai con giáp đứng đầu trong danh sách những người được thần Tài hộ mệnh dài lâu.
Top 5 con giáp được thần Tài hộ mệnh suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Thân

Với người tuổi Thân, càng trải qua môi trường có tính cạnh tranh khốc liệt, họ càng có khả năng đột phá bản thân và phát tài bất ngờ. Hơn thế, khát khao về cuộc sống giàu sang luôn thường trực trong suy nghĩ của con giáp này. Cộng thêm với nỗ lực kiên trì tới cùng, khi đã phát hiện thấy cơ hội trời cho, người tuổi Thân nhanh chóng nắm bắt và tận dụng triệt để. So với những con giáp khác, việc kiếm tiền của họ trở nên dễ dàng hơn bởi được thần tài phù trợ. 

1018e9dc-5179-47c4-9f53-d31997-5797-2256

Tuy nhiên,  “kẻ phá hoại” tiền đồ của người tuổi Thân chính là tính cách phóng khoáng, không ngần ngại tiêu tiền như nước. Nếu muốn nhanh chóng sở hữu số tài sản khổng lồ, tốt nhất người tuổi Thân nên lập gia đình hoặc chí ít là thoát khỏi kiếp FA càng nhanh càng tốt. Khi có nửa kia hỗ trợ trong việc quản lý tài chính, tiền bạc của họ mới thực sự được an toàn và sinh lời theo cấp số nhân.

No2: Tuổi Hợi

Tư duy về tiền bạc, tài chính của người tuổi Hợi rõ ràng và linh hoạt. Hơn thế, họ sở hữu một cái đầu lạnh để có thể ứng phó với mọi tình huống cấp bách nhất có thể xảy ra. Dù trong tình cảnh khó khăn đến mất, con giáp này vẫn giữ được bình tĩnh và xử lý khéo léo mọi vấn đề.

47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-5526-4285

Điều đó giải thích cho thắc mắc của không ít người, đó là tại sao thần tài luôn ủng hộ và mang lại nhiều may mắn cho họ tới vậy. Người tuổi Hợi không khó khăn trong việc chiếm được tình cảm, sự ủng hộ của mọi người xung quanh. Đó cũng là một trong những yếu tố trợ lực cho sự nghiệp tài chính phất như diều gặp gió của con giáp này.

No3: Tuổi Dần

Thực ra, con giáp này không quá chú trọng đến vấn đề tiền bạc vật chất. Sẽ không có chuyện họ bất chấp thủ đoạn để liều mình kiếm tiền hoặc phải đắn đo chuyện chi tiêu thường nhật. Khi đã có “hứng” tiêu tiền, bất chấp ngày mai ra sao, chỉ cần người tuổi Dần cảm thấy vui vẻ, thoải mái lúc đó là được.

tuoi-dan-5363-1421639507.jpg

Tuy nhiên, thần tài cũng luôn bên cạnh để trợ giúp mang lại may mắn cho con người bộc trực và thẳng thắn này. Họ tập trung làm việc cao độ, dựa vào chính thực lực của mình để kiếm khoản “bù đắp” cho số tiền đã tiêu. Với tinh thần lạc quan và sự nỗ lực như vậy, người tuổi Dần nhanh chóng kiếm lại số tiền đã tiêu và tiếp tục hưởng thụ cuộc sống vô lo vô nghĩ của mình.

No4: Tuổi Mùi

75f560a5-6047-4e16-aa73-e4dd14-8770-3634

Ngay từ khi sinh ra, cuộc sống của người tuổi Mùi khá bình yên, nhàn hạ, vô lo vô nghĩ. Họ gặp khá nhiều may mắn do có được sự trợ giúp của mọi người xung quanh. Thậm chí, đôi khi họ trải qua giai đoạn túng thiếu nhất thì chí ít cũng được gia đình hỗ trợ hoặc những người bạn giàu có giúp đỡ. Có thể nói, thần tài chính là vị thần hộ mệnh mang lại nhiều vụ “bội thu” tiền bạc cho người tuổi Mùi.

No5: Tuổi Thìn

Con giáp này có ý chí phấn đấu mạnh mẽ và sự kiên trì cao độ. Họ sẵn sàng đối đầu trực diện với mọi thách thức. Dường như, càng trong hoàn cảnh khó khăn, người tuổi Thìn lại càng dễ “lội ngược dòng”, có được thành công rực rỡ. Sự nghiệp xuất chúng đến vậy thì tiền bạc cũng theo đó ngày càng rộng mở.

tuoi-thin-8491-1421639509.jpg

Tuy nhiên, yếu điểm có thể làm “kỳ đàn cản mũi” người tuổi Thìn chính là tính cách nôn nóng, bộc trực của họ. Bởi cá tính mạnh mẽ ấy sẽ che mất sự sáng suốt, lý tính và quyết đoán bẩm sinh ở con giáp này. Từ đó, ngăn cản bước đường chinh phục vinh hoa phú quý.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp được thần Tài hộ mệnh suốt đời

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất. Chúng ta cùng tìm hiểu ngay bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất
    • 1.1 Sư Tử
    • 1.2 Thiên Bình
    • 1.3 Song Tử
    • 1.4 Nhân Mã
    • 1.5 Kim Ngưu

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất

Sư Tử

sutu-8816-1401440703

Có nhiều người lợi dụng sự phóng khoáng của Sư Tử mà mê hoặc cậu ấy bằng vật chất. Nhưng rất tiếc, Sư Tử lại là người trọng tình trọng nghĩa, không phải lúc nào cũng chỉ biết đến tiền bạc, vật chất. Bởi đối với Sư Tử không có gì quan trọng hơn việc tìm được một người thật lòng yêu, bao dung với cậu ấy và cậu ấy cũng yêu lại. Vì vậy, cậu ấy sẽ không miễn cưỡng bản thân để yêu một người mà mình không hề có tình cảm. Hay nói cách khác, Sư Tử sẽ không vì vật chất mà dễ dàng từ bỏ tình yêu.

Thiên Bình

thienbinh-2514-1401440703

Thiên Bình là một chòm sao biết nhìn xa trông rộng. Khi phải đối diện với sự lựa chọn của cuộc sống, tiền bạc thực sự là một thứ rất hấp dẫn. Nhưng là một người biết tính toán cẩn thận , nếu thấy tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn cả hai thì đa số cung Thiên Bình sẽ thận trọng lựa chọn tình yêu. Bởi cậu ấy hiểu rằng nếu lựa chọn vật chất mà phải sống với người không cùng sở thích sẽ rất đau khổ. Hơn nữa, Thiên Bình rất lạc quan, cậu ấy tin rằng chỉ cần hai người có thể sống trong tình yêu thực sự thì bất cứ khó khăn nào cũng có thể giải quyết được.

Song Tử

songtu-7198-1401440703

Nếu chỉ hiểu đơn giản về tính cách của Song Tử, nhất định chúng ta sẽ lầm tưởng rằng đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất, cậu ấy sẽ chọn vật chất. Nhưng thực tế không phải như vậy vì Song Tử rất coi trọng tương lai. Đối với cậu ấy, chỉ cần trong lòng có tình yêu thì vật chất không quan trọng.

Nhân Mã

nhanma-5747-1401440703

Nói đến chòm sao nhìn thấy tiền là “mắt sáng lên” thì Nhân Mã chắc chắn ở vị trí hàng đầu. Nhưng khi tình yêu và vật chất khó vẹn toàn thì cậu ấy sẽ chọn tình yêu mà từ bỏ vật chất. Đối với một Nhân Mã chung thủy, cậu ấy sẽ không chọn một người mà mình không thích để ràng buộc mình cả một đời. Nhân Mã hiểu được mặc dù vật chất quan trọng nhưng tình yêu càng phải trân trọng hơn. Cậu ấy tin chỉ cần có tình yêu thì vật chất ít một chút cũng không sao. Vì vậy, Nhân Mã muốn từ bỏ vật chất để là một người yêu chung thủy hơn.

Kim Ngưu

Kimnguu-1760-1401440703

Kim Ngưu là một chòm sao rất coi trọng thực tế. Đối với cậu ấy, tiền có thể là tiêu chuẩn để cân đo cuộc sống. Nhưng có thể lấy được một người vợ tâm đầu ý hợp mới là mục tiêu cuộc sống cao nhất của cậu ấy. Bởi Kim Ngưu rất rõ tình yêu chân chính dù có bao nhiêu tiền cũng không thể mua được nhưng tiền thì có thể kiếm được dựa vào sự cố gắng của mình. Vì vậy khi tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn thì Kim Ngưu nhất định sẽ giữ chặt tình yêu của mình rồi sau đó mới nỗ lực đi kiếm vật chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

Những tiêu chí quan trọng nhất khi chọn mua nhà chung cư

Trước khi quyết định chọn mua một căn hộ chung cư, bạn nên tìm hiểu xem nó có đủ những tiêu chí dưới đây hay không, tránh những phiền hà sau khi chuyển về sinh
Những tiêu chí quan trọng nhất khi chọn mua nhà chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sống.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác

1. Hướng nhà (căn hộ)
 
Căn cứ vào mệnh của chủ nhà để xác định hướng căn hộ phù hợp. Tuy nhiên, cần lưu ý, những căn hộ có mặt dài quay về hướng Nam hoặc lân cận Nam sẽ đón được nhiều gió mát và ánh sáng ổn định (mặt phía Bắc). Còn các cạnh ngắn (đầu hồi) quay về hướng xấu sẽ giảm thiểu những bất lợi từ tự nhiên như nắng Tây, gió nóng.
 
Ngoài ra, nên chọn căn hộ mà cửa sổ không nhìn thẳng sang cửa nhà hoặc cửa sổ của căn hộ đối diện, tránh các nguồn năng lượng xấu chạy thẳng vào nhà.

Nhung tieu chi quan trong nhat khi chon mua nha chung cu hinh anh
Ảnh minh họa

2. Nguồn năng lượng của toàn tòa nhà chung cư

 
Năng lượng của cả tòa nhà sẽ ảnh hưởng đến năng lượng của căn hộ nằm trong nó. Nên chọn những chung cư có minh đường sáng sủa và sạch đẹp. Minh đường là một bộ phận quan trọng trong phong thủy, một khu đất không có minh đường thì dù có nhiều ưu điểm tới đâu cũng bị coi là thế xấu hoặc kém tốt.
 
Đối với nhà chung cư, minh đường được tính là khu vực trống ở trước mặt. Đó có thể là khu vực cây xanh, công viên nhỏ, hồ nước, chỗ vui chơi, nghỉ ngơi cho cư dân…Đây là một trong những tiêu chí quan trọng khi lựa chọn chung cư làm nơi sinh sống.

3. Số tầng và vị trí của căn hộ
 
Với những căn hộ chung cư, tốt nhất nên chọn tầng cao một chút để đón được nhiều ánh sáng, có tầm nhìn đẹp, sự lưu thông không khí tốt và không bị côn trùng hay bụi bẩn.
 
Vị trí căn hộ tốt là không được đối diện với cửa thang máy hay cầu thang. Bởi nơi này tập trung nhiều từ trường nhiễu loạn, gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe và đời sống của mọi người sống trong căn hộ.
 
4. Hình dáng căn hộ
 
Bạn nên chọn những căn hộ có hình dạng vuông vức, không khuyết góc hay méo mó, vừa khó khăn trong vấn đề bài trí, chia phòng lại không tốt về phong thủy.
 
Trong trường hợp không thể chọn được căn vuông vức, chủ nhà nên dùng gương lớn tại những góc khuyết để bù lại cảm giác tròn đầy cho căn hộ.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tiêu chí quan trọng nhất khi chọn mua nhà chung cư

Đặc điểm tướng bàn chân mang lại tài khí tốt cho chủ nhân

Tướng bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn là nét quý tướng. Người có kiểu chân này, đặc biệt là nữ giới, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc sống vì đi tới đâu cũng
Đặc điểm tướng bàn chân mang lại tài khí tốt cho chủ nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn là nét quý tướng. Người có kiểu chân này, đặc biệt là nữ giới, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc sống vì đi tới đâu cũng được quý nhân phù trợ.



1. Bàn chân nhỏ nhưng dày

Trong nhân tướng học, tướng bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn là nét quý tướng. Người có kiểu chân này, đặc biệt là nữ giới, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc sống vì đi tới đâu cũng được quý nhân phù trợ.

Tài vận của người này cũng dồi dào, đời sống vật chất đầy đủ, không lo thiếu tiền xài. Công danh, sự nghiệp cũng thành công ở mức nhất định.

Dac diem tuong ban chan mang lai tai khi tot cho chu nhan hinh anh
 
2. Lòng bàn chân có nốt ruồi đen


Người có nốt ruồi đen ở lòng bàn chân được Dịch Mã cát tinh che chở, mở ra nhiều cơ hội đi đây đó du lịch, công tác, thậm chí là định cư ở nước ngoài.

Nốt ruồi này càng lớn, đen và sáng thì tài vận của chủ nhân càng dồi dào, vận khí càng tốt. Đường quan vận của người này cũng khá tốt, thường giữ vị trí chủ chốt hoặc lãnh đạo trong tập thể.

Bên cạnh đó, người này được hưởng phúc ăn uống, thường được thưởng thức của ngon vật lạ trên đời. Đi tới đâu, họ cũng rất chú trọng tới vấn đề ẩm thực.

Dac diem tuong ban chan mang lai tai khi tot cho chu nhan hinh anh 2
 
3. Gót chân đầy đặn và hồng hào


Chủ nhân của tướng gót chân đầy đặn, hồng hào không những tài vận của bản thân hưng vượng mà cả họ hàng, con cái sau này cũng có tài khí hanh thông, cuộc sống sung túc, phú quý.

Trong công việc, người này được nhiều bạn bè, đồng nghiệp giúp đỡ nên khá thuận lợi. Tài vận cứ thế mà tăng, cuộc sống hôn nhân cũng an lành, hạnh phúc.

Dac diem tuong ban chan mang lai tai khi tot cho chu nhan hinh anh 3
 
4. Lòng bàn chân có vân hình xoáy


Khi có vân hình xoáy (hay xoắn ốc) xuất hiện trong lòng bàn chân, bạn nên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón tin vui. Đây là thời điểm danh lợi song toàn, đang ở đỉnh cao của sự  nghiệp.

Ngoài ra, chủ nhân của tướng chân này thích hợp làm trong các ngành nghề liên quan đến truyền thông, điện ảnh... tỉ lệ “công thành danh toại” khá cao, trở thành người nổi danh khắp bốn phương.

Xem độ chênh giữa 2 đường tình duyên để đoán biết hôn nhân
– Chủ nhân của tướng bàn tay mà hai đường tình duyên trên hai tay bằng nhau có tính tình hiền lành, điềm đạm, không dễ nổi cáu hoặc tỏ ra khó
5. Lòng bàn chân hình mai rùa

Lòng bàn chân hình mai rùa hay như chiếc thuyền úp đều là cách ví von bàn chân lõm sâu. Người có kiểu bàn chân này thường được hưởng cả tài lẫn phúc lớn, gia cảnh xuất thân cao quý, có tiềm lực lớn mạnh về vật chất, đáng để người khác ngưỡng mộ.

Ngoài ra, chủ nhân của tướng chân này là người có đạo đức, trình độ học vấn cao, điềm tĩnh, khéo léo trong cách đối nhân xử thế. Họ là người có tài lãnh đạo, sống liêm khiết.

=> ## tổng hợp những kiến thức phong thủy đời sống hữu ích

Ngọc Diệp

Coi nét tướng chân của người lắm tiền nhiều của
Nếu sở hữu móng chân dài nhưng đầu móng có xu hướng dốc về phía trước thì không cần phải lao động vất vả để kiếm sống mà tự khắc có người nuôi dưỡng, chăm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm tướng bàn chân mang lại tài khí tốt cho chủ nhân

4 chòm sao tàn nhẫn ép đối phương nói lời chia tay

Chia tay là điều khó khăn nhất trong một mối quan hệ. Những chòm sao tàn nhẫn dưới đây kluôn bức người kia tự nói ra trước, không muốn tự mình gánh trách nhiệm.
4 chòm sao tàn nhẫn ép đối phương nói lời chia tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chia tay là điều khó khăn nhất trong một mối quan hệ. Những chòm sao tàn nhẫn dưới đây không chỉ khiến đối phương phải buồn vì quyết định chia xa mà còn bức người kia tự nói ra trước, chứ quyết không chủ động đề cập đến vấn đề này.


4 chom sao tan nhan ep doi phuong noi loi chia tay hinh anh
 
Ma Kết
  Ma Kết rất quan trọng danh tiếng của bản thân, làm việc chi li, làm người tính toán, sợ nhất là lỗi lầm do mình gây ra sẽ bị người ngoài bàn tán, ảnh hưởng danh dự. Vì thế, thời điểm mối quan hệ đi vào bế tắc, Ma Kết đã nghĩ đến chuyện chia tay nhưng tuyệt đối sẽ không tự mình nói ra. Ma Kết là chòm sao tàn nhẫn nhưng lại muốn làm người hiền lành, để sau này, có thể nói với người khác chia tay không phải do lỗi của mình, mình không làm gì quá đáng cả. Vì thế Ma Kết bức đối phương phải làm điều mình không muốn, bày ra một cái bẫy, dụ dỗ họ bước vào và phải nói chia tay trước, quá toan tính.   Song Tử   Song Tử đào hoa, cảm tình phong phú, cho nên vướng phải không ít rắc rối, phiền toái, để đối phương tự mình nói lời chia tay sẽ dễ dàng và đơn giản hơn nhiều. Rõ ràng bản thân muốn chấm dứt nhưng chòm sao tàn nhẫn thủ đoạn này lại bày đủ trò, dùng lời lẽ hoa mĩ như Song Tử không xứng với người kia, Song Tử muốn người kia được hạnh phúc hay chỉ chia tay người kia mới được tự do để làm cái cớ. Chòm sao này không ngại bị người khác gièm pha là bị đá, chỉ sợ nhất đối phương đeo bám. Thế nên không từ thủ đoạn nào mà dụ người kia nói lời chia tay trước.
4 chom sao tan nhan ep doi phuong noi loi chia tay hinh anh
 
Cự Giải
  Chòm sao nhạy cảm như Cự Giải sẽ không bao giờ chủ động đề nghị chia tay, cũng không hẳn là vì muốn được ca ngợi mà thực sự là rất khó mở miệng nói lời tuyệt tình. Trong lòng nghĩ muốn chia tay lại do dự, không biết nên nói thế nào, sợ làm tổn thương đối phương. Vì thế mà Cự Giải muốn đem thương tổn giảm xuống một nửa, muốn giữ gìn danh dự của đối phương bằng cách làm cho họ nói lời chia tay trước. Lúc này, Cự Giải như trút được gánh nặng.   Thiên Bình   Đối với người khác Thiên Bình rất có lễ phép, ôn hòa lại không muốn mất đi phong độ của bản thân nên tuyệt đối sẽ không nói lời tuyệt tình dù muốn chia tay. Vì thế, Thiên Bình sẽ tỏ thái độ quá lễ phép, quá xa cách, mối quan hệ giữa hai người mất đi cảm giác thân mật, không có kích thích, càng không có sự rung động của tình yêu. Lâu dần, đối phương tự khắc không chịu nổi mà nói lời chia tay, chủ động rời xa, Thiên Bình đạt được mục đích. Đây cũng là chòm sao tàn nhẫn có thừa trong vòng tròn hoàng đạo.
3 chòm sao không bao giờ công khai tình cảm trên mạng xã hội Top 3 chòm sao đắm chìm quá khứ mà quên đi hiện tại 4 chòm sao yêu hết mình, chia tay hết tình
Thái Vân

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao tàn nhẫn ép đối phương nói lời chia tay

Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Góp mặt trong danh sách những con giáp có tình hình tài chính ổn định trong tháng 6 là những cái tên như tuổi Tý, Sửu, Thìn, Mùi…
Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Tuổi Tý
 
Nhìn chung, tình hình tài chính của người tuổi Tý trong tháng 6 khá ổn định. Nếu có ý định đầu tư hoặc kinh doanh một lĩnh vực mới thì nên triển khai trong tháng. Lưu ý, cần hoạch định rõ thị trường trước khi tiến hành đầu tư. Nên bắt đầu từ cái nhỏ, đơn giản trước vừa không bỏ lỡ thời cơ lại không quá mạo hiểm.
 
Tuổi Sửu
 
Xét về tổng thể, tài vận của người tuổi Sửu trong tháng 6 khá ổn định, có được phúc tinh chiếu mệnh nên ngoài lương chính còn có các khoản thu nhập phụ khác. Dù là đầu tư ngắn hay dài hạn, trong tháng này và sang đầu tháng tới, nhất định sẽ gặt hái được thành quả tốt. Đây là một trong những con giáp có tình hình tài chính ổn định nhất nhì trong tháng này.
 
Tuổi Thìn

Diem mat nhung con giap co tinh hinh tai chinh on nhat thang 6 hinh anh
Ảnh minh họa

Tình hình tài chính của người tuổi Thìn khá ổn định và thuận lợi. Tuy nhiên, để tạo bước đà cho những nguồn thu từ các hạng mục đầu tư sắp tới, không tránh khỏi việc tiếp khách tăng cường mối quan hệ xã giao, nên phải tính toán thật cẩn thận kẻo khoản thu về không bù nổi khoản chi ra.
 
Tuổi Mùi
 
Vận thế về sự nghiệp của người tuổi Mùi có xu hướng tăng lên trong tháng 6. Công việc và các hạng mục đầu tư, kinh doanh đều thuận lợi và có dấu hiệu sinh lời, nên tình hình tài chính khá ổn định, lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu xài.
 
Tuy nhiên, cần lưu ý đầu tư phải biết điểm dừng hợp lí, tránh quá đà sẽ gây phá tài lớn. Nếu tình hình trước mắt không khả quan thì phải bình tĩnh làm tốt các công tác chuẩn bị, đợi thời cơ để tạo bước đột phá. 
 
Tuổi Dậu
 
Nhìn chung, tình hình tài chính trong tháng 6 của người tuổi Dậu khá ổn định, tuy nhiên các nguồn thu nhập ngoài gần như không có. Con giáp này có thể cân nhắc giữa việc làm chủ và góp vốn để xem bên nào mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Đồng thời phải cân nhắc tiềm lực của mình, tránh được những tổn thất tài chính sau này nếu xảy ra bất trắc.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Cách xem tướng hình dáng bàn tay nam giới bộc lộ tính cách –

Trước khi xem các đường chỉ, những nốt ruồi, những điểm đỏ đen…trong bàn tay chúng ta nên hiểu về hình dáng của bàn tay và ý nghĩa của nó. Cách xem tướng Sau đây là một số hình dạng của các bàn tay thường gặp: - Bàn tay ngắn quá: Bàn tay ngắn quá ng
Cách xem tướng hình dáng bàn tay nam giới bộc lộ tính cách –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng hình dáng bàn tay nam giới bộc lộ tính cách –

Muốn tăng gấp đôi tiền bạc hay hạnh phúc, hãy treo gương đúng cách

Ai cũng biết gương có tác dụng phản chiếu. Trong những trường hợp đặt gương phong thủy đúng cách, có thể tăng gấp đôi tiền bạc, hạnh phúc hay những điều gia chủ mong muốn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tác dụng chính của gương là phản chiếu, biến một sự vật thành hai. Nếu biết bài trí gương chuẩn phong thủy, sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực, giúp nhân đôi thu nhập, hút thêm tiền bạc cũng như hạnh phúc gia đình. Ngược lại, nếu dùng sai cách sẽ rước họa vào thân.

1. Bày gương trong cửa hàng - Nhân đôi doanh thu và khách hàng

Theo quan điểm phong thủy, nếu bạn muốn tăng doanh số hay thu hút nhiều khách hàng hơn, hãy bày gương chiếu vào quầy tính tiền. Điều này mang ý nghĩa tăng gấp đôi mọi hoạt động giao dịch trong cửa hàng, doanh thu sẽ tăng dần lên.

Dat guong phong thuy dung cach de nhan doi tai loc hinh anh
 
Bên cạnh đó, có thể bài trí một tấm gương to bản và cao từ sản đến trần nhà ở gần cửa ra vào. Việc làm này không chỉ cung cấp thêm ánh sáng cho cửa hàng, cửa hiệu mà còn nhân đôi không gian, tạo cảm giác như được nới rộng diện tích. Đồng thời nó còn có tác dụng phong thủy, thu hút lượng khách hàng đến ngày càng nhiều hơn.

2. Nhân đôi hạnh phúc – Bày gương trong phòng ăn và phòng khách

Theo phong thủy nhà ở, vị trí đặt gương tốt nhất là ở khu vực sinh hoạt và ăn uống chung của cả gia đình.

Dat guong phong thuy dung cach de nhan doi tai loc hinh anh 2
 
Tại phòng bếp, gương chiếu vào bàn ăn làm tăng gấp đôi lượng thực phẩm, mang ý nghĩa về sự giàu có, phong phú, khơi dậy hứng thú ăn uống của cả nhà, tăng sự ấm cúng, hạnh phúc trong gia đình.

Nhưng lưu ý, khi treo gương trong nhà bếp, phòng ăn cần tránh để gương chiếu vào thùng rác hay bếp đun. Bởi thùng rác chứa xú uế, không tốt khi bị nhân đôi. Tương tự, bếp gas, bếp hồng ngoại cũng không nên bị gương chiếu vào, dễ tăng gấp đôi lửa, gây hỏa hoạn bất ngờ.

Tại phòng khách, không nên treo gương ở vị trí đối diện với cửa sổ, cửa ra vào. Trong trường hợp gương chiếu vào cửa sổ, mà phía sau cửa sổ là hình ảnh bãi rác hay con đường đâm thẳng vào nhà... thì có thể dùng rèm hoặc mành che để hóa giải cục diện xấu.

Dat guong phong thuy dung cach de nhan doi tai loc hinh anh 3
 
Nhưng nếu bên ngoài là không gian đẹp như cây cối xanh tốt, sông hồ hiền hòa... thì không đáng lo ngại. Năng lượng thuần khiết của tự nhiên được nhân đôi và đi vào nhà, mang lại nguồn tài lộc bền vững cho gia đình cũng như nâng đỡ các mối quan hệ hài hòa.


3. Gia tăng sức khỏe – Treo gương trong phòng tắm


Khi tắm, gương không chỉ giúp phát hiện nhanh chóng những biểu hiện bất thường trên da, nó còn mang lại cảm giác thư giãn cho bạn. Tinh thần thư thái, mọi cảm xúc ưu phiền qua đi, tất nhiên sức khỏe bạn cũng được đảm bảo hơn, không phải lo lắng quá nhiều chuyện phiền não nữa.

Nhưng lưu ý, tránh để gương chiếu thẳng vào bồn cầu bởi không ai muốn tăng gấp đôi xú uế, rác thải, vừa thiếu mỹ quan lại ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe.
Ngọc Điệp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn tăng gấp đôi tiền bạc hay hạnh phúc, hãy treo gương đúng cách

Hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt

Một bài viết sưu tầm về hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt. Mời các bạn cùng đọc và tham khảo.
Hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên khôi và Thiên việt - Toàn thư

Thiên Khôi

Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên khôi là dương hỏa, là trợ tinh thứ nhất của chom sao Nam Đẩu, hóa khí là dương quý, tức những người sinh vào năm dương và sinh vào ban ngày, thì sẽ có nhiều quý khí hơn, còn được gọi là Thiên Ất quý nhân.

Sao Thiên khôi cũng là một trong sáu Cát tinh, tục gọi là sao Quý nhân, quý nhân ở đây không phải chỉ người hiển quý, mà chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm trong những thời điểm thích hợp, đều được gọi là Quý nhân.

Quý nhân được tượng trưng bởi sao Thiên khôi có thể gặp hung hóa cát, hơn nữa, thường xuất hiện một cách tự nhiên, không cần phải bỏ công tìm kiếm, những khó khăn trở ngại gặp phải thường được hóa giải một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Cho đến khi người gặp nạn bình yên vô sự, mới cảm nhận được sự phù hộ ngầm ẩn của quý nhân.

Cái quý của sao Thiên khôi thường được bộc lộ vào trước 40 tuổi, tất cả các cung vị và các sao đều ưa thích gặp được Thiên khôi để trợ giúp. Vận và hạn gặp Thiên khôi chẳng khác nào được quý nhân phù hộ, nâng đỡ trong hầu khắp các lĩnh vực thì cử, cầu tài, cầu chức, công tác..., mọi sự đều thuận lợi thành công. Sau năm 40 tuổi, dù là nam hay nữ, đại tiểu hạn và lưu niên nếu gặp Thiên khôi, sẽ thường trở thành quý nhân cho người khác, tức có thể nâng đỡ, làm lợi cho người khác.

Thiên Việt

Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên việt là âm thủy, là trợ tinh thứ hai trong chòm Nam Đẩu, hóa khí là âm quý, tức người sinh năm âm hoặc sinh ban đêm sẽ có quý khí, còn có tên gọi là Ngọc Đường quý nhân.

Sao Thiên việt cũng là một trong sáu Cát tinh, tương tự như sao Thiên khôi cũng là một quý nhân, quý nhân ở đây cũng không hẳn là chỉ người hiển quý, mà đây để chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm cho mình trong những thời điểm thích hợp.

Cũng tương tự như sao Hữu bật, sao Thiên việt cũng có tính đào hoa (thủy âm) nên thường gặp được quý nhân khác giới, hơn nữa, thường nảy sinh tình cảm với vị quý nhân này.

Quý nhân của sao Thiên việt cũng thường đem lại những giúp đỡ mang tính tự nhiên, không dễ nhận biết, thường ngãu nhiên mà ngầm ẩn, gián tiếp.

Các sao khác nếu gặp được sao Thiên việt, chỉ cần không có Sát tinh ở tam phương hội chiếu, sẽ thường xuyên được quý nhân giúp đỡ, nên mọi việc gặp nhiều thuận lợi.

Sau năm 40 tuổi, sao Thiên việt dần dần mất đi sức mạnh của quý nhân, mặt khác, lại dễ gặp phải trở ngại và rắc rối, nếu lại nằm đồng cung với Hồng loan, dễ trở thành cách Đào hoa hồ đồ, thường vì thiếu tỉnh táo mà nảy sinh những rắc rối về tình cảm với người khác giới. Chỉ có những chủ tinh có lực, hoặc sát tinh miếu vượng, mới có thể thức tỉnh được cách Đào hoa hồ đồ.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt

Xem bói chỉ tay,hoạch định nghề nghiệp từ bàn tay bạn

Đường Vận mệnh đổi hướng, Đường Vận mệnh đút nét và chống lên nhau, Đường Trí tuệ cong, Đường Trí tuệ dài mà thẳng, Đường Công danh đơn, Có nhiều dường Công danh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người khi bước những bước đầu tiên trên con đường sự nghiệp của minh đều chưa hẳn đã làm công việc mà mình hiểu biết. Xem bói chỉ tay đường Công danh ta có thể nhận biết được người đó lúc nào mới có thể bước ra khỏi bối cảnh khó khăn trong vấn đề chọn lựa ngành nghề và tìm được phương hướng nghề nghiệp thực sự của mình.

1. Xem bói chỉ tay tiết lộ về công việc trên đường vận mệnh

Đường Vận mệnh có thể giúp bạn đưa ra kế hoạch sự nghiệp và cuộc sống của mình, là phương hướng đế bạn có những bước tiến tiếp theo.

- Đường Vận mệnh đổi hướng:

Khi phương hướng phát triển của đường Vận mệnh có sự thay đổi, báo hiệu tương lai gần công việc của người này có sự biến động, nhưng chỉ cần đường Vận mệnh không bị đứt đoạn thì biến động cũng không quá lớn và ngưòi này không phải đối mặt vối sự lựa chọn ngành nghề hoàn toàn mới, rất có thế chi là sự điều chuyên vị trí trong nội bộ công ty cũ.

- Đường Vận mệnh đút nét và chống lên nhau:

Đường chi tay đứt nét báo hiệu có những thay đổi lớn, nhưng đứt nét cũng tồn tại hai hình thái khác nhau, đó là đường Vận mệnh đứt đoạn và chồng lền nhau, báo hiệu bản thân cần quyết định thay đổi công việc. Độ rộng khoảng cách chỗ chồng lên nhau biểu thị mức độ thay đổi, nếu như khoảng cách rộng, báo hiệu sẽ chuyến sang một lĩnh vực hoàn toàn mới và chỗ ở theo đó cũng có sự thay đổi. Nếu trên đường Vận mệnh xuất hiện đường cắt ngang, báo hiệu khó khăn xảy ra, có thể có một vài sự việc ảnh hưởng đến công việc. Nếu như đường chỉ tay toàn bộ đều đứt nét, báo hiệu là người xử lý công việc đều xuất phát từ sự ép buộc, và hơn nữa sự thay đổi này là điều không thể kháng cự. Ngoài ra còn có thể là do xảy ra vấn đề về sức khỏe mà người này mất đi cơ hội công việc.

2. Xem bói chỉ tay tiết lộ về công việc hé mở trên đường công danh

Đường Công danh thể hiện rõ nét tiến trình của sự nghiệp công việc, đời sông, từng bước đi đểu được thể hiện rõ nét trên đó, và ngoài ra còn có những đánh giá đối với tình hình phát triển sự nghiệp của người đó.

- Đường Công danh đơn:

Đường Công danh tượng trung cho sự nghiệp có thành công hay không. Nếu đường Công danh sâu đậm, báo hiệu là người có được sự vui vẻ và như ý trong công việc, bất luận là làm công việc gì họ đều được mọi người công nhận và có được thù lao xứng đáng.

- Có nhiều dường Công danh:

Trên tay có nhiều đường Công danh, báo hiệu là người đa tài nghệ, họ có thể thể hiện tài năng xuất chúng của mình ở rất nhiều lĩnh vực, có thể đối mặt với những nhiệm vụ công việc khác nhau và đều hoàn thành xuất sắc. Kiểu người này không chịu được cô đơn, thích thể hiện, hơn nữa tâm tư khá tinh tế, có thế dồn sức chú ý của mình vào nhiều lĩnh vực yêu thích khác nhau. Trên tay có nhiều đường Công danh, thể hiện là người có năng lực thích ứng tốt, có thể giữ được thái độ tích cực trong công việc.

 3. Xem bói chỉ tay tiết lộ về công việc hé mở trên đường trí tuệ

Qua quan sát đường Trí tuệ có thể nhận biết bạn có thích hợp với công việc hiện tại hay không, bởi vì đường Trí tuệ cho biết khả năng tư duy, có thể phản ánh được tâm lý của con người. Tham khảo thêm hình thái của đường Trí tuệ có thể giúp ta xác định chính xác phương hướng phát triển nghề nghiệp bản thân một cách chính xác.

- Đường Trí tuệ cong:

Đường Trí tuệ cho thấy phương hướng lựa chọn công việc của con người hướng theo lĩnh vực nghiên cứu khoa học, hoặc lĩnh vực tư duy sáng tạo. Nếu đường Trí tuệ trên tay là đường cong, báo hiệu người này có hướng tư duy bình thường, khá thích hợp với những công việc liên quan đến nghệ thuật hoặc lĩnh vực nhân văn. Kiểu người này còn có năng lực giao tiếp tốt, có thể bước chân vào lĩnh vực thông tin, quảng cáo, quan hệ xã hội đều sẽ đạt được thành tựu.

- Đường Trí tuệ dài mà thẳng:

Trên bàn tay xuất hiện đường Trí tuệ như thế này cho thấy đây là người có tư duy logic tốt, trong cuộc sông họ có những phán đoán lý tính, họ còn rất hứng thú với các ngành thuộc lĩnh vực khoa học, cơ khí hoặc thương nghiệp. Đường Trí tuệ dài báo hiệu có thê chuyên tâm chú ý vào công việc và có thể đạt được thành tích lốn. Đường Trí tuệ thẳng, biểu thị người này là người thực tế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói chỉ tay,hoạch định nghề nghiệp từ bàn tay bạn

Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo

Nhiều người cảm thấy vô cùng bất hạnh, họ thường xuyên gặp xui xẻo trong cuộc sống. Những lúc ấy, họ thường chỉ biết than thân trách phận với ông Trời.
Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người cảm thấy vô cùng bất hạnh, họ thường xuyên gặp xui xẻo trong cuộc sống. Những lúc ấy, họ chỉ than thân trách phận với ông Trời, nhưng cái gì cũng có nguyên do của nó.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
  Trương Đạc người Thiểm Tây từ nhỏ đã hiếu học và thông minh hơn người. Thế nhưng không hiểu sao cứ đến kỳ thi lại chẳng có kết quả mong muốn, đến lúc thi hương cũng trượt. Bạn bè chẳng mấy người muốn kết giao. Cha mẹ ngán ngẩm, bản thân than bất công với ông Trời, nhưng chẳng ích gì. Rồi chẳng may cha mẹ Trương Đạc lần lượt qua đời chỉ trong thời gian ngắn, một mình bơ vơ trên cõi đời mà thấy nản lòng. Các thiếu nữ trong làng cũng ít người quan tâm, Trương Đạc ngày càng bi quan cho rằng mình đã bị trời đất xử tệ.
Ly giai nguyen nhan vi sao co nguoi lien tiep gap xui xeo hinh anh
Ảnh minh họa
Rồi một ngày nọ có một thiếu nữ để mắt tới Trương Đạc, là con nhà nghèo mồ côi cha mẹ từ sớm, nhan sắc cũng bình thường. Có người thương, Trương Đạc thấy mình rất may mắn, nên hai người nhanh chóng kết duyên. Trương Đạc mở lớp dạy học ở làng, vợ ở nhà lo nội trợ và làm đồng áng. Nhưng rồi chẳng may tới một ngày nọ, vợ họ Trương lăn ra ốm và không qua khỏi. Con nhỏ chưa kịp có, người vợ yêu lại sớm qua đời, Trương Đạc cảm thấy không ai bất hạnh như mình, chỉ biết ôm mặt mà khóc lóc, than thân trách phận, căm hận ông Trời.   Ngồi khóc mãi bên mộ vợ tới khuya, Trương Đạc mệt quá thiếp đi. Bỗng dưng giật mình vì có người chạm nhẹ vào vai, mở mắt ra thấy một bà lão có đôi mắt tinh anh đang chăm chú nhìn mình. Bà lão hỏi Trương Đạc vì sao lại ngồi mãi ở đây không về.   Trương Đạc than: “Vợ tôi qua đời, con tôi chưa kịp có, cha mẹ tôi đã mất, công danh sự nghiệp chẳng vào đâu. Còn một mình một thân trên cõi đời này, tôi cảm thấy mình quá khổ. Có ai khổ như tôi? Ông Trời thật bất công với tôi quá!”.   Bà lão nghe xong mỉm cười và bảo Trương Đạc đi theo mình, Trương Đạc không biết vì sao cứ thế đi theo bà mà không cần hỏi. Đến gần một ngọn núi sừng sững, bà lão bảo Trương Đạc cứ đi tiếp, ngoảnh lại đã không thấy người đâu. Trương Đạc nửa tỉnh nửa mơ dấn bước tiếp, thì bỗng thấy mình đang ở trường thi. Có vị quan chủ thí đang ngồi chấm bài, lại gần coi kỹ thấy quan gạch hết nhiều bài hay, có bài dở lại chấm điểm cao. Trương Đạc đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì lại thấy vị quan nhận hòm đầy ngân lượng, tay vuốt râu cười ha hả lấy làm hài lòng lắm.   Tiếp đến Trương Đạc thấy có một tên cường hào ác bá đi tới đâu là đánh người, bắt nạt người. Ai ai cũng khiếp sợ mà bỏ chạy. Đi tiếp thấy một gia đình  có người vợ ngồi ôm con khóc trong căn nhà tồi tàn, miếng cơm cũng chả có, trong khi chồng cô đang chén thù chén tạc và chơi bạc….   Trương Đạc gặp mấy cảnh đó cũng thấy bất bình trong tâm nhưng dường như chẳng can thiệp được gì vì không ai nhìn thấy mình. Đang dừng chân ngẫm nghĩ thì nghe tiếng bà lão vừa rồi: “Đã thấy hết chưa?”.   Trương Đạc quay lại trả lời: “Tôi thấy hết rồi, toàn là người xấu thôi à! Bà muốn cho tôi xem mấy cảnh khiến ai cũng bất bình này là có ý gì?”.   Bà lão mỉm cười: “Cậu vừa quay lại các tiền kiếp của mình đó. Một vị quan tham nhận tiền mà chấm sai kết quả, một tên cường hào chuyên hiếp đáp người khác và một người chồng tệ bạc…, tất cả đều là tiền kiếp của cậu. Những gì đã làm trong tiền kiếp đều tích lại thành nghiệp và kiếp này cậu phải trả một lượt. Bởi thế mà số cậu mồ côi cha mẹ từ sớm, học hành giỏi nhưng không bao giờ thi đậu, lấy vợ khó nhưng rồi cũng chẳng thể hạnh phúc tới đầu bạc răng long, tuyệt tử tuyệt tôn… Đó đều là những món nợ phải trả tích dần từ các kiếp trước sang kiếp này. Vậy đừng than Trời bất công, hãy cố mà trả hết nợ nghiệp”.   Trương Đạc nghe xong bủn rủn chân tay, lắc đầu buồn bã và hỏi bà lão: “Xin bà hãy chỉ cho tôi lối thoát, nợ nghiệp nặng vậy tôi sao gánh nổi? Tôi chán sống lắm rồi, có lẽ tôi sẽ quyên sinh cho hết gánh vậy?”.   Bà lão lắc đầu: “Nếu làm vậy, kiếp sau nghiệp sẽ còn nặng hơn, mà chưa chắc đã được đầu thai vì phạm tội sát sinh. Cách duy nhất để giải nợ nghiệp bây giờ là thoát khỏi cõi trần tục mà trở thành người chân tu. Chỉ có cách đó mà thôi. Người tu hành nếu tinh tấn sẽ dần cởi bỏ hết nghiệp lực và không chịu sự khống chế của nhân quả. Hãy cố gắng ti hành nếu muốn rũ bỏ mọi nghiệp lực tiền kiếp”.   Trương Đạc nghe xong chợt như tỉnh giấc mộng, vội cúi đầu bái lạy cảm tạ chỉ bảo. Ngẩng đầu lên đã không thấy ai, giật mình tỉnh giấc hóa ra vừa mộng, những gì vừa xảy ra vẫn còn hằn rõ trong tâm trí. Trương Đạc nhớ lại lời bà lão, quyết tâm từ bỏ cõi hồng trần và tầm sư học Đạo, nỗ lực tu hành để thoát khổ ải trần gian.

ST.

Câu chuyện về luật nhân quả của người ăn mày mù lòa Tích đức hành thiện: Phong thủy và luật Nhân quả Tiền tài và quy luật nhân quả

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải nguyên nhân vì sao có người liên tiếp gặp xui xẻo

Treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Trong phong thủy, gương có vị trí rất quan trọng. Gương giúp tăng gấp đôi của cải, sức khỏe và hạnh phúc. Nhưng nếu không đặt đúng vị trí, nó cũng gây hại cho người sử dụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gương không chỉ đơn thuần làm vật trang trí, nó còn nhân đôi tất cả những gì phản chiếu hình ảnh lên mặt gương. Nhưng hãy cẩn thận, rất có thể bạn đang khiến những vật không tốt cũng có cơ hội gấp lên hai lần. 

Dưới đây là những lưu ý về vị trí đặt gương bạn nên nắm rõ.

1. Trong nhà bếp

Lý do duy nhất để tồn tại một tấm gương đằng sau bếp nấu là người nấu ăn có thể nhìn thấy điều gì đang diễn ra sau lưng mình. Vì thế, nếu khi đứng nấu, lưng bạn không đối diện với cửa bếp thì bạn không cần quan tâm đến gương làm gì. 

Treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Gương tượng trưng cho nước và nước xung với lửa. Vì thế, tốt nhất là không nên treo gương trong bếp.

Trong trường hợp bạn nhất định cần phải có một chiếc gương trong bếp thì giải pháp phong thủy tốt nhất là hãy sử dụng các vật liệu trang trí bếp có bề mặt phản chiếu, giúp bạn có thể nhìn những gì diễn ra ở cửa bếp trong lúc nấu nướng. Có thể là cửa sổ kính, hoặc gạch men tráng gương miễn là chúng không phản chiếu hình ảnh ngọn lửa khi nấu.

2. Trong phòng tắm

Treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Chọn gương có bo viền đẹp để đặt trong nhà tắm. Nếu bạn treo một chiếc gương lớn ở bên ngoài cửa phòng tắm sẽ có tác dụng dịch chuyển năng lượng vũ trụ sang các phòng khác.

Không nên để gương trong phòng tắm. Nhưng nếu bạn thích thì hãy sử dụng một chiếc gương có khung viền xung quanh, và nhớ không được để hình ảnh toilet phản chiếu trong gương.

Ngược lại, một chiếc gương bên ngoài phòng tắm lại được các chuyên gia phong thủy khuyến khích treo vì nó giúp đẩy dòng năng lượng đang có xu hướng đi vào nhà tắm phải quay ngược trở lại. Như thế năng lượng sẽ không bị mất đi theo đường thoát nước trong phòng tắm. 

3. Trong phòng ngủ

treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Gương trong phòng ngủ sẽ khiến bạn khó ngủ, luôn lo âu và bồn chồn.

Một chiếc gương trong phòng ngủ có thể khiến năng lượng trong phòng ngủ hoạt động liên tục và giữ bạn ở trạng thái tỉnh táo, bồn chồn và lo lắng. Ngoài ra, nếu bạn nhìn thấy hình ảnh của mình trong gương khi nằm trên giường đồng nghĩa với việc sẽ xuất hiện một người thứ ba xen vào quan hệ giữa vợ chồng bạn.

Còn nếu bạn cần có một chiếc gương trong phòng ngủ để kiểm tra trang phục trước khi đi làm, bạn có thể đóng gương theo chiều dài cánh cửa tủ quần áo. Như vậy, bạn có thể đóng nó lại khi không sử dụng đến.

4. Trong phòng khách

Vị trí đặt gương tốt nhất trong nhà là khu vực phòng kháchphòng ăn. Tấm gương nhân đôi thực phẩm trên bàn ăn, do đó nó sẽ mang lại sự dư thừa và giàu có. Bạn chỉ cần nhớ không để cửa ra vào hay cửa sổ phản chiếu hình ảnh trong gương.

Treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Bất cứ điều gì bạn có xuất hiện trong gương, chiếc gương sẽ tăng gấp đôi chúng lên

Nhưng cũng chính vì gương tăng gấp đôi những gì xuất hiện nên hãy tránh không để những đống lộn xộn, rác rưởi, bẩn thỉu hay những góc cạnh sắc nhọn của tường và nội thất lọt vào hình ảnh trên gương.

Còn nếu nhà bạn có cửa mở ra thiên nhiên thì bạn nên để gương ở vị trí có thể phản chiếu cây xanh hay những ngọn đồi để mang đến cho gia đình những năng lượng tinh khiết và mối quan hệ tuyệt vời giữa các thành viên trong nhà.

 Một số lưu ý về vị trí đặt gương hợp phong thủy

- Để có vị trí đặt gương hợp phong thủy, bạn không nên để gương phản chiếu những vật sau: + Cửa ra vào và cửa sổ. + Giường ngủ. + Bồn cầu. + Ngọn lửa trong bếp. + Đống lộn xộn, bừa bãi. + Cống bẩn hoặc các hình ảnh khó chịu. + Góc nhọn của nội thất hoặc tường. + Hình ảnh bị bóp méo của bản thân hay người trong gia đình.

- Nếu trong nhà có một căn phòng hay góc tối, bạn nên treo một tấm gương để mang đến ánh sáng cho khu vực này. Gương giống như một chiếc cửa sổ ảo và nó sẽ kích thích năng lượng vũ trụ cho căn phòng.

- Một chiếc gương đặt dưới chân cầu thang sẽ 'cắt đứt' chân hoặc đầu của bạn, tức là tác động đến lòng tự trọng của bạn. Vì vậy, không nên đặt gương ở vị trí này.

- Các góc tường phía Nam có năng lượng lửa và gương đại diện cho nước. Vì vậy, nếu đặt gương ở phía Nam ngôi nhà sẽ dập tắt ngọn lửa may mắn trong phòng khách và trong nhà của bạn. Ngoài ra, nó còn 'đổ dầu vào lửa' cho những cuộc tranh cãi kịch liệt, mang đến những tai nạn không đáng có gây ra do sự đụng độ giữa lửa và nước.

Hữu Nguyên

Ảnh: Sưu tầm

(Theo Congluan)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương trong nhà, nhân đôi tài lộc

Con giáp nào gặp may nhất trong tháng 8 âm lịch

Người tuổi Dần, Mùi và Tỵ sẽ là tâm điểm trong tháng 8 âm tới vì vận may liên tiếp đến với họ.
Con giáp nào gặp may nhất trong tháng 8 âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1: Tuổi Dần

Những teen tuổi Dần sẽ có một tháng vô cùng thuận lợi. Mọi khó khăn, trăn trở trong tháng Cô hồn sẽ tan biến, thay vào đó Thần May mắn sẽ gõ cửa nhà bạn thường xuyên. Không chỉ suôn sẻ ở công việc, học hành, mà chuyện tình cảm của bạn cũng được cải thiện đáng kể. Những xích mích, hiểu lầm sẽ được hóa giải.

Ngoài ra, mọi quan hệ của bạn đều có bước tiến mới. Mọi người nhìn nhận bạn một cách tích cực hơn. Bởi lẽ, tháng 8 âm này, bạn căng tràn năng lượng, chủ động làm việc và thể hiện sự cởi mở. Từ đó, càng nhiều bạn bè sẵn sàng giúp đỡ, vận may càng đến với bạn.

dan-1186-1442042116.jpg

No.2: Tuổi Mùi

Khác với người tuổi Dần, tuổi Mùi tiếp nối vận may trong tháng 7 trước đó, mặc dù mọi sự suôn sẻ, thuận lợi hơn không đáng kể. Đặc biệt trong chuyện tình yêu, người giàu cảm xúc như con giáp này, chắc chắn sẽ tìm được đối tượng đồng cảm và mối quan hệ sẽ có bước nhảy vọt. Thậm chí, bạn vui vẻ tới mức vội vã kết luận đó chính là một nửa đích thực của mình.

Một vài cơ hội thăng tiến cũng đến với teen cầm tinh con dê. Chỉ có điều, tính khí nhút nhát sẽ kìm hãm động lực để con giáp này nắm bắt đúng thời cơ. Hãy mạnh dạn thể hiện bản thân, vận may còn đến liên tục và mạnh mẽ hơn nữa.

mui-1488-1442042116.jpg

No.3: Tuổi Tỵ

Tháng 8 đánh dấu thành công của người tuổi Tỵ trong công việc hoặc học tập. Bạn sẽ ghi được cú đúp về thành tích, thậm chí là xuất hiện trên một số kênh thông tin đại chúng vì kết quả ấy. Vận may đến với con giáp này trong hoàn cảnh bất ngờ, nên niềm vui càng được nhân lên gấp nhiều lần.

Tài chính của người tuổi Tỵ cũng nở rộ trong tháng 8 âm. Một vài cơ hội kiếm tiền dễ như trở bàn tay sẽ xuất hiện và giúp con giáp này bội thu. Cho dù hào phóng chi tiêu, bạn vẫn không lo hết tiền, thậm chí đó còn là động lực giúp bạn lao vào “cày cuốc” nhiều hơn.

ty-7706-1442042116.jpg

Mr.Bull (theo DT)

dd17eb14e06d993839da4896fc207b-7881-1579 Top 3 con giáp gặp vận tiền tài trong tháng 9

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào gặp may nhất trong tháng 8 âm lịch

Xem tướng gò má phụ nữ thông minh –

Cùng tìm hiểu tính cách, khả năng làm việc của phụ nữ qua chính đôi gò má của họ. 1. Gò má cao Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kỳ một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng tìm hiểu tính cách, khả năng làm việc của phụ nữ qua chính đôi gò má của họ.

1. Gò má cao
Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kỳ một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các nước phương Tây những người phụ nữ gò má cao luôn được đánh giá là người có cá tính mạnh mẽ và cuộc sống hôn nhân của họ không hề bị ảnh hưởng bởi quan điểm trên.
Trong công việc, cá tính mạnh mẽ ấy chính là ý trí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, có khả năng gánh vác được nhiều việc quan trọng. Hơn nữa, tính cách cởi mở với mọi người giúp họ chiếm được cảm tình của gia đình và bạn bè của mình. Đối với những người gò má cao và chóp mũi to, đây quả là sự kết hợp tuyệt vời. Chủ nhân vốn hiền lành và lương thiện này sẽ gặp nhiều may mắn và thành công hơn trên mọi lĩnh vực.

2. Gò má nở to

gomacao1

Việc sở hữu đôi gò má nở to được xem là một hình mẫu lý tưởng, bởi chủ nhân của đôi gò má này là người có trí tuệ sắc sảo, có tinh thần cảnh giác cao và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng. Hầu hết ở họ điểm chung nổi bật nhất là có tố chất làm lãnh đạo. Nhờ vào ưu điểm đặc biệt này, bạn có thể thành công ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế với tư cách là đầu tàu.

3. Gò má vừa rộng vừa cao
Trong cuộc sống, bạn tự tin làm việc độc lập mà không cần nhận sự giúp đỡ của một ai khác khiến mọi người tưởng rằng bạn theo chủ nghĩa cá nhân. Đôi khi bạn lại hơi quá tập trung vào giai đoạn ăn mừng chiến thắng làm bạn bè và người thân hiểu lầm rằng bạn tự đắc. Nhưng nhờ sự chân thành, nỗ lực không ngừng khắc phục những nhược điểm của mình, mọi người không chỉ hiểu bạn hơn mà còn ủng hộ bạn thực hiện tiếp những hoài bão của mình. Độ tuổi trung niên là khoảng thời gian bạn gặt hái được nhiểu thành công nhất

4. Gò má thấp

1331531271-dep1

Bạn đang nung nấu trong mình nhiều ước mơ và hoài bão cháy bỏng. Tuy nhiên, điểu đó chưa đủ để biến chúng thành sự thật nếu kế hoạch và chiến lược thực hiện không được triển khai. Lý do lớn nhất là bạn vẫn chưa đủ lòng tin để xúc tiến một mình và bạn lo sợ về khả năng thất bại cao. Đôi lúc tính cách rụt rè, nhút nhát, hướng nội đã làm cản trở bạn thực hiện niềm đam mê. Điều quan trọng nhất bây giờ chính là củng cố lòng tin vào chính mình.

5. Gò má tròn đầy đặn
Không thích sự gò bó, thích phiêu lưu, chan hòa, hướng ngoại, khao khát sự chú ý của mọi người và có khả năng ứng phó với tình huống là những tính cách điển hình của bạn. Trên con đường sự nghiệp, nơi bạn tỏa sáng và được sống thực với con người mình nhất chính là những công việc liên quan tới nhóm ngành giải trí như diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoặc nhà báo,…
Mặc dù áp lực công việc luôn đè nặng đôi vai nhưng sự thông minh và khéo léo của mình đã giúp bạn cân bằng được mọi việc. Trong cuộc sống gia đình, bạn không chỉ là một người vợ, người mẹ chăm sóc chồng con chu đáo mà còn là nguồn động viên kịp thời cho những người thân yêu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng gò má phụ nữ thông minh –

Ý nghĩa phong thủy cây Trúc –

Theo sự phân loại thực vật hiện đại, trúc thuộc thực vật thân tre. Người xưa bình luận rất đặc biệt đối với trúc, đưa hình tượng trúc vào văn chương. Trong 'Trúc phổ" có ghi: trúc "bất nhu bất cương, phi thảo phi mộc" (không cứng cũng không mềm, khôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo sự phân loại thực vật hiện đại, trúc thuộc thực vật thân tre. Người xưa bình luận rất đặc biệt đối với trúc, đưa hình tượng trúc vào văn chương. Trong ‘Trúc phổ” có ghi: trúc “bất nhu bất cương, phi thảo phi mộc” (không cứng cũng không mềm, không phải loại cây thân gỗ, hay dây leo).

bamboo

Từ xa xưa đẵ có nhiều bài thơ ca ngợi trúc. Trúc và cuộc sống con người có quan hệ mật thiết với nhau, vật liệu từ trúc có thể dùng trong xây dựng, làm bút, làm giấy, dụng cụ gia đình, điêu khắc hội họa. Trong Hoa kinh cho rằng: “Chịu qua sương tuyết mà chẳng tiêu điều, suốt bốn mùa lúc nào cũng tươi xanh, không dễ dàng bị uốn cong, cả người thanh và người tục đều yêu quý”.

Nhiều văn sỹ cho rằng trúc được coi là hiến nhân quân tử. Bạch Cư Dị trong “Dưỡng trúc ký” có nói: ‘Trúc tư hiển, hà đới? trúc bản cố, cố dĩ thụ đức. quân tử kiến kỳ bản, tắc tư thiện kiến bất bạt già, Trúc tâm không, không dĩ thể đạo, quân tử kiến kỳ tâm, tắc tư ứng dụng hư thụ gia. Trúc tiết trinh, trinh dĩ lập trí, quân tử kiến kỳ tiết, tắc tư đế cố minh hành, dĩ hiểm nhất chí giả, Phu như thị, cố hiệu quân tử” (Trúc như người hiển, vì sao vậy? Trúc có gốc bền chắc, nên có đức tính như cây cổ thụ, người quân tử thấy cái gốc thì liền nghĩ đến điều thiện mà không chặt. Trúc rỗng giữa, trống rỗng đó chính là đạo, quân tử phải thấy được cái lòng trống rỗng thì trải lòng mồ tiếp nhận. Đốt trúc ngay thẳng, ngay thẳng để lập chí, quân tử thấy cái đốt của trúc thì hiểu rằng cần phải tu dưỡng. Bởi như vậy, nên có thể coi trúc là quân tử vậy).

Trúc là cao phong lượng tiết, nên người ta muốn trồng trúc trong nhà như việc sống gần người hiền vậy. Bắt nguồn từ nghĩa đó, nên Tô Dông Pha nói: “Ăn không có thịt nhưng ở không thể thiếu Trúc” (ninh khả thực vô nhục bất khả cư vô trúc). Trong văn hoá, trúc được ví với quân tử, trong tranh thường gọi tùng, trúc, mai là “tuế hàn tam hữu”. Mà “ngủ thanh đồ” là tùng, trúc, mai, nguyệt, thủy; “ngũ thủy đổ” là tùng, trúc, tuyên, lan, thọ thạch… thường thấy trong cốc bức vẻ.

Trúc có hàng trăm loại. Nhiều loại trúc đều đã có những hàm nghĩa văn hoá riêng như: Trúc đốm (Tương Cơ trúc), Từ trúc (cũng gọi là Hiếu trúc, tử mẫu trúc), Lạc Hán trúc, Kim Ngân Ngọc trúc, Thiên trúc (Thiên Nhị, Nam đại trúc)… Nếu đưa Thiên trúc vào trong tranh cùng với bí đỏ, hoa thường xuân hợp lại, hợp âm cử ý có thể tạo thành ngụ ý ‘Thiên địa trường xuân”, ‘ Trời dài đất rộng”. Trúc còn đồng âm với “chúc”, có ý nghĩa tập tục là chúc phúc tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy cây Trúc –

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Một bài viết hay trình bày về bốn mươi hóa diệu của Trung Châu Phái rất hay! Mời các bạn cùng nghiên cứu.
Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tứ Hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, chúng căn cứ vào thiên can mà phi hóa, bốn hóa tinh này không tự thành sao được, mà phải dựa vào sao khác để biểu thị. Đây là nhân tố quan trọng để luận đoán cát - hung.

Khẩu quyết an tứ Hóa của Trung Châu phái

Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Tử Âm

Bính Đồng Cơ Xương Liêm, Đinh Âm Đồng Cơ Cự

Mậu Tham Âm Dương Cơ, Kỷ Vũ Tham Lương Khúc

Canh Dương Vũ Phủ Đồng, Tân Cự Dương Khúc Xương

Nhâm Lương Vi Phủ Vũ, Quý Phá Cự Âm Tham

1- Liêm trinh - can Giáp hóa Lộc

Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần, tất nhiên sẽ không keo kiệt.

Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc, còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc "phong hoa tuyết nguyệt", tính chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.

Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc, cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết phái,.v.v...

Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà được hiến thân hoặc đắc tài lộc.

Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc,.v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ quyền hành

Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.

Tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm trinh Thiên tướng". Đối cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử vi Tham lang" chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ tài lộc rồi dào hơn tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm trinh Thiên tướng" thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu...

Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc" trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.

Tinh hệ "LIêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi, cung Quan là tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm mạnh thêm tài vận của "Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ "Tử vi Thất sát" cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh là Thiên tướng tại Mão, bị "Cự môn Thái dương" có Thái dương hóa Kị, và Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến "Liêm trinh Phá quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát lợi.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.

Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung "thiên la địa võng", cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.

Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.

Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi, cung Quan có "Vũ khúc Thất sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử vi Phá quân" hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.

Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.

2- Thiên Cơ - can Ất hóa Lộc

Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén. Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ "chủ động" tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.

Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ, cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho người khác (như làm môi giới, thuyết khách,...)

Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người này bị nhiều hạn chế.

"Tiền tài" của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn, cung Tài là tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" có Thiên lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc, nhưng "Thiên đồng Thiên lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.

Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo "tìm cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn "Thái dương Thái âm" an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới,.v.v... Nếu có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.

Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái dương Thái âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước khi đầu tư.

Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở lực.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn" an cung hội hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" mà Thái âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này, cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa Kị, cung Tài là "Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn "Thái dương Thiên lương" an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ phí tâm lực, hoặc phí lời nói.

Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều, mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.

3- Thiên Đồng - can Bính hóa Lộc

Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc không những chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.

Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã, dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.

Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.

Thiên Đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành Cách, nhưng có gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.

Sau khi hóa Lộc, Thiên Đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng không cần có sát tinh kích phát).

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung (ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên,.v.v...), hoặc viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên Đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng ở cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn", chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá (nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ. Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức (??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả. Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản thân.

Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương, chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền phức.

Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ. Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La, thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát", nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.

Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn, hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp", thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn "Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp", tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác "trống vắng dưới trăng trước hoa".

4- Thái Âm - can Đinh hóa Lộc

Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động kiếm tiền, thiếu "sức" cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có "tài khí" dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình thường mà thôi.

Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn luôn đối nhau). Thái Âm vốn có "khí chất" dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo tính toán thái quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều cảnh ngộ đáng tiếc.

Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại ý.

Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào. Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những bất lợi đối với lục thân.

Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá tài.

Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.

Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có một thiên tình sử để nhớ!!!

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên cơ Cự môn" mà Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà thôi.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm???]. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng,.v.v... nếu làm việc trong chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở "thiên la địa võng" nên nội tâm thường không được yên ổn.

Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa Quyền đối nhau, gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự môn hóa Kị. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là "Thái dương Thiên lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược, công tác xã hội,, gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm. Cung Tài là "Thiên đồng Cự môn" một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.

5- Tham Lang - can Mậu hóa Lộc

Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự nghiệp, từ đó kiếm tiền.

Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không nên đầu cơ.

Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.

Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.

Tham lang hóa Lộc thành cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", ắt sẽ có khoảng tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.

Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp", nên an Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng, không có người thì nghỉ".

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực "xung kích", sức cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm trinh Thất sát", cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của "Tử vi Tham lang". "Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.

Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử vi Phá quân" không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là "Vũ khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ khúc Thất sát" ở cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản,.v.v...

6- Vũ khúc - can Kỷ hóa Lộc

Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này, không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.

Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu không phần nhiều đều có tích lũy.

Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.

Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc hóa Lộc, là kết cấu tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, "Lộc trùng điệp" nên nguồn tiền tài càng vượng. Cung Tài là Liêm trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở trường lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn, thường thường còn được nhiều). Ở cung Dần gặp "Lộc trùng điệp" là khá tốt. Cung Quan là "Tử vi Thiên tướng", chủ về ưa hợp tác với người khác, mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp "Lộc trùng điệp" cũng khá tốt (Tóm lại "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ là khá tốt, nhưng ở đây chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kị ở cung độ nào, thường thì khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Lộc còn Tham lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" đồng độ với Đà la, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" bị Đà La hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về tuổi trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch được gì. Nhóm tinh hệ này, ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng, chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình bạn lại không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Nô (cung Giao hữu) hay cung Huynh, sẽ chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá về "nhân tình" là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.

Tinh hệ "Thiên tướng Vũ khúc" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Lộc, hơn nữa ở cung Dần còn hội Lộc tồn, tài khí không phải yếu. Cung Quan là Tử vi ở cung Tý hoặc Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ không khoa trương phù phiếm. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên phủ, chủ về giỏi quản lý tài chính, lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về lúc đầu thì giúp người khác gây dựng sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có, danh lợi có đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai lầm là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng không nên làm người bảo lãnh tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kị ở cung Huynh chủ về bị bạn bè uy hiếp.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Lộc. Cung Quan là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Kình dương, hoặc có Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là "Liêm trinh Tham lang" mà Tham lang hóa Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn bộ tinh hệ có kết cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham lang hóa Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ nghiệp. Gặp Xương Khúc thì có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa, cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ cũng chủ về khéo vận dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham lang hóa Quyền ở đối cung. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên tướng" có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là "Tử vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ khúc hãm ở "thiên la địa võng" e rằng sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc tồn thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng. Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở nguyên cục Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền bạc mà thất bại lớn.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Lộc, hội với "Tử vi Tham lang" ở cung Quan mà Tham lang hóa Quyền và hội với "Liêm trinh Thất sát" ở cung Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình dương, Đà la. Tinh hệ này có sức khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà la ở cung Tị mới chủ về sức khỏe không tốt, gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung Quan có Tham lang hóa Quyền, chủ về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy tiền bạc mà lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan. Đây là khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích lũy tiền của, là vì thường có nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng có liên quan đến hôn nhân.

7- Thái Dương - can Canh hóa Lộc

Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng, mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ nghe danh tiếng mà được mời làm việc.

Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen,.v.v...

Do bản thân Thái Dương có tính chất "quý" mà không "phú", nên được tiếng tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói "thu không bằng chi".

Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.

Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là "Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Cự môn. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thái âm" để hội hợp với cung Mệnh, có Lộc tồn đồng độ. Đây là "phú cục", nhưng "phú" của nó là do sao Lộc trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà có. "Thiên cơ Thái âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn, nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì "quý" (có danh tiếng) chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm), còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành trống rỗng.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn "lợi". Cung Tài là Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình khắc" của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên đồng Thái âm" mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về "danh" trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều. Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ, có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở nơi vượng.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Thái âm so với "Thái dương Thiên lương" cùng là hóa Lộc mà khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì tài khó mà tụ, cho nên "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu không bằng ở cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng cao tên tuổi. Bao gồm danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ mà chảy dài.

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định, nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có "sao Lộc trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.

Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.

8- Cự Môn - can Tân hóa Lộc

Cự Môn chủ về điều tiếng thị phi, khi hóa thành sao Lộc, thì nhuyễn hóa thành nói năng để phục vụ. Cho nên ý nghĩa cơ bản là lợi về dạy học, luật sư, làm môi giới hoặc làm quảng bá. Ở xã hội hiện đại cũng có lợi về nghệ thuật biểu diễn, có thể khiến tài năng biểu diễn (nhất là ca xướng) được hoan nghênh.

Nhưng Cự Môn là "ám tinh", không hóa Lộc, cũng đã ưa thích che hào quang của người khác. Sau khi hóa Lộc còn có khuynh hướng biểu hiện bản thân, do đó sinh ra thị phi, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp. Người xưa cho rằng "Cự môn hóa Lộc" phú quý không được lâu", là vì luận định tính lý này.

Cự môn hóa Lộc, không ưa có Sát tinh đồng độ, có Sát tinh thì thành phá cách, ghét nhất là Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bình địa nổi cơn sóng gió, thường thường là do bản thân gây ra.

Cự môn sau khi hóa Lộc sẽ có sắc thái đào hoa, nếu lại hội các sao đào hoa thì tình cảm càng dễ nổi sóng gió. Cự môn hóa Lộc ở bản cung cũng chủ về thích ăn uống, còn chủ về phần nhiều đau khổ vì tình.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Thái dương hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung, ắt sẽ kèm Đà la. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách "Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà đến, nhưng lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự môn hóa Lộc thủ mệnh nên giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với tính chất của "Thạch trung ẩn ngọc cách". Nếu không, địa vị càng cao thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép. Cung Tài là Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa vị mà đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Lộc ở cung Sửu lại có Lộc tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung, mà Thái dương hóa Quyền, ắt sẽ kèm Lộc tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội hợp với cung Mệnh hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách: "Dương Lương Xương Lộc" cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới. Nếu không thành Cách, do Thái dương và Cự môn được cát hóa, nên cũng có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) xem trọng. Vì vậy rất thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc cho công ty nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc chuyên nghiệp. Người "thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó tránh hiếu động, trôi nổi, thường thay đổi hoàn cảnh công tác.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái dương hóa Quyền, còn Cự môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thái âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là mạnh, các cung khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở cung Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn tích lũy cũng không dễ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm đoạn "Cự môn hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ" đã thuật ở trước. Riêng về nữ mệnh, gặp "Thái dương Cự môn" hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều được người ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Lộc ắt sẽ hội hợp với Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Có điều cung Tài là Thiên đồng lại quá thích an nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn "Thái dương Thái âm" lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng ảnh hưởng đến tài lộc của "Thiên cơ Cự môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và nói năng, cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu cung Tài ở cung Tị thì được "Lộc trùng điệp cách" tài khí khá vượng, chủ về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách "Lộc trùng điệp" ở cung Tài ưu hơn "Lộc trùng điệp" ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục này.

Cự môn độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà, hoặc có Kình dương cùng bay đến, Thiên đồng ở đối cung. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền. Cung Quan mượn "Thiên cơ Thái âm". Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng không chủ về tài lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể nâng cao học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại thích hợp. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích hợp làm những nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư,.v.v... cũng thích hợp với công việc bán hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái dương ở đối cung hóa Quyền. Cung Tài là Thiên cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là Thiên đồng được Lộc tồn. Cự môn khó tương hội với Lộc và Quyền, ở cung Hợi ưu hơn ở cung Tị, vì mệnh Cự môn ở cung Hợi thì Thái dương ở đối cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là: "danh chấn tha bang" (nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học. Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay đổi, hoặc liên tiếp thay đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính chuyên nghiệp, tính hưởng thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng không) là tốt nhất.

9- Thiên Lương - can Nhâm hóa Lộc

Thiên Lương là sao "giám sát", chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Giao hữu (cung Nô), đó là then chốt để luận đoán toàn Cục.

Hễ Thiên lương hóa Lộc, ắt sẽ bị người ta bài xích, chèn ép, chỉ trích, nhất là trường hợp Thiên Lương ở hai cung Tị hoặc Ngọ. Chỉ nên làn những nghề mang tính phục vụ, công khai tiền lương, như chuyên viên kế toán, cố vấn tài chính, phục vụ công cộng, không nên theo đuổi danh tiếng.

Thiên Lương chủ về hóa giải tai nạn, sau khi hóa Lộc, thời gian hóa giải thường bị kéo dài hơn, khiến cho mệnh tạo cảm thấy rắc rối đa đoan. May mà kết quả hóa giải rắc rối được hoàn mỹ, còn không để lại di chứng. Đây là thông bệnh của Thiên lương hóa Lộc.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương có Kình dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây là do tình trạng miếu hãm của Thái dương. Cung Sự nghiệp (cung Quan) là Thiên đồng. Cung Tài là "Thiên cơ Thái âm", đều chẳng phải là các sao có sắc thái tích cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều rắc rối, không bằng những nghề nghiệp mang tính chuyên môn để kiếm tiền. Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở cung Giao hữu (Nô). "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị người dưới quyền chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên cơ. Cung Sự nghiệp (Quan) là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm. Nhóm tinh hệ này ưa Thiên lương ở cung Sửu, vì Thái dương ở cung Tị, Thái âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái dương chủ về "quý" khi ở cung Quan, Thái âm chủ về "phú" khi ở cung Tài, bản chất là rất thích hợp. Cho nên địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi Thiên lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên lương hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra, cần phải lưu ý đến Vũ khúc hóa Kị ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên xung khởi, đây là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ khúc hóa Kị ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay chuyển tiền bạc khó khăn mà đình chỉ công việc kinh doanh.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà Thiên lương hóa Lộc, hội Kình dương hoặc hội Đà la. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực, vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên tịnh. Có điều Thiên lương hóa Lộc gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều liên quan đến tiền bạc. Cung Nô là "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền, lại hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, nếu có Sát tinh hội hợp, thường thường là gặp tình cảnh "đầy tớ phản chủ", người dưới quyền là người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản chủ.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên lương hóa Lộc. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri thức mới có. Nhưng Thiên lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp gây lụy. Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ khúc hóa Kị, chủ về người dưới quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt, cần phải xem xét các cung liên quan mà định, nhất là phải lưu ý đến cách "Linh Xương Đà Vũ".

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên lương hóa Lộc ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn". Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" ắt cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao này tuy không phải là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nhưng cũng thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất rất kị Thiên lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của "Thái dương Cự môn" nhập cung Quan, thì không còn đạo "tìm cát tránh hung" nào khác. Cho nên Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung Dần, nếu cung chứa Cự Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy ra kiện cáo, tố tụng.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Thiên đồng ở đối cung, lại hội Lộc tồn trùng điệp. Cung Tài là "Thái dương Thái âm". Cung Quan phải mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung để hội hợp với cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ thích hợp với cảnh làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về đất đai nhà cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên lương thủ Mệnh ở cung Tị nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.

10- Phá Quân - can Quý hóa Lộc

Phàm là Phá Quân thủ Mệnh hoặc thủ cung Tài, sẽ xảy ra biến động thay đổi ở nhiều biên độ, mà sự biến động thay đổi cũng thường ra ngoài dự liệu. Khi được hóa Lộc hoặc có Lộc tồn, có thể khiến sự biến động thay đổi trở thành khá ổn định; trong tình huống xấu nhất cũng không đến nỗi xảy ra thất bại hoàn toàn. Hơn nữa, bất kể biến động hay thay đổi như thế nào, kết quả thường sẽ tốt hơn so với trước khi xảy ra biến động thay đổi. Do nguyên nhân này, nên Phá quân rất ưa hóa Lộc.

Hễ Phá quân hóa Lộc, cung Quan ắt sẽ có Tham lang hóa Kị, đây là điềm tượng sự nghiệp có biến động thay đổi. Tham lang hóa Kị thường thường sẽ có hiện tượng "vô tâm cắm liễu, liễu xanh um", cho nên rất ưa Phá quân hóa Lộc. Có điều cung Tài là Thất sát, cũng dễ trở thành biến đông thay đổi, cuộc đời ắt sẽ có một lần gặp cảnh khốn khó. Phá quân hóa Lộc chỉ có thể cải thiện, mà không thể tránh.

Phá quân độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp Lộc tồn, thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham lang hóa Kị. Cung Tài là Thất sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá quân có cách "Lộc trùng điệp" nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý "Tử vi Thiên phủ" đồng độ ở cung Phúc, nếu là "bách quan triều củng" thì quá thiên nặng về "thủ thành", không thích ứng với tính chất của Phá quân "Lộc trùng điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ. Nếu "Tử vi Thiên phủ" là cách "tại dã cô quân", thì Phá quân "Lộc trùng điệp" lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy mấu chốt để luận đoán tinh hệ này là cung Phúc nên trung hòa.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, hội "Liêm trinh Tham lang" ở cung Quan có Tham lang hóa Kị. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát". Do bản chất của cung Quan, nên nhóm tinh hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng, đặc biệt là làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh, làm tăng thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền, "thấy lợi quên nghĩa" khiến dễ xảy ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế, thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám mạo hiểm, cần phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.

Phá quân đọc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp. Lực phát đông của nhóm tinh hệ này là ở Tham lang hóa Kị, hội Lộc tồn và Phá quân hóa Lộc, vì vậy thường hay sửa đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất sát thủ cung Tài ở nhóm tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao tình, lôi kéo người ủng hộ, do đó tính chất của Phá quân hóa Lộc sẽ phát lộ không xót chút nào. Cung Tật là "Thái dương Thiên lương", gặp Sát tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải lưu ý vấn đề sức khỏe.

Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá quân hóa Lộc hội Kình dương hoặc Đà la. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao có tham vọng khá lớn, cho nên sự nghiệp của đương số cũng là cục diện lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi, nghệ thuật hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng tiên bạc, thường có tình huống như "Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn hoặc lưu niên để "tìm cách tránh hung".

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là "Tử vi Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc. Cung Quan là tham lang hóa Kị. Phá quân ở "thiên la địa võng" thì lực biến động thay đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng thường có biểu hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với hiện tượng "người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc (ở cung Tý còn là "Lộc trùng điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều thích hợp với người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" cũng gặp Sát tinh. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" mà Tham lang hóa Kị, lại cũng gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở, biến động thay đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định, vốn liếng tiền bạc không đủ để chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần. Hơn nữa sau trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời người có nhiều điều đáng tiếc. Nhưng Phá quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây là ưu điểm của tinh hệ này.

11- Phá Quân - can Giáp hóa Quyền

Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có thể khiến cho quá trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa Quyền thì không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.

Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện thanh thế. Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ có khuynh hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình huống này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn cảnh khách quan (ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản thân mệnh tạo không nắm chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy nghĩ của mình nói cho người khác nghe, người khác lại cho rằng bản thân họ đã có thành tựu và không ngừng thúc dục, thậm chí còn trợ giúp cụ thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến hành không xong.

Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên không tốt thì không được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không phối hợp, rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.

Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của Liêm trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu sao Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành sự việc.

Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham lang độc tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân. Cung Phu thê là Vũ khúc hóa Khoa hội "Tử vi Thiên phủ", lại hội "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu dạng này thường dễ xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân hóa Quyền (đồng độ với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là "Liêm trinh Tham lang" có Liêm trinh hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở tha hương.

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng" mà Vũ khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang. Phá quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực "xung kích" cực kỳ mạnh, thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không giữ một nghề. Cung Di là "Vũ khúc Thiên tướng", mà Vũ khúc hóa Khoa, còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất có lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất sát hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.

Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn "Liêm trinh hóa Lộc".

Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài là Thất sát độc tọa (chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có sao Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi "công" mà không giỏi "thủ", thậm chí vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây là đạo "tìm cát tránh hung" cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: "Vũ khúc Phá quân Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái đặc biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương hóa Kị ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc. "Vũ khúc Phá quân" ở cung Hợi thì càng nặng.

12- Thiên Lương - can Ất hóa Quyền

Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.

Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức vụ quản đốc, giám đốc quản lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của một chuyên viên như chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật sư,.v.v...

Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ tá hội chiếu hoặc đồng độ, không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn tượng trưng cho địa vị. "Địa vị" nói ở đây không phải nói về "địa vị" do sự giầu có (xã hội ngày nay có phong khí xem trọng "phú" mà không xem trọng "quý", do đó mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói "địa vị" của người được tôn trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu học thuật, hoặc các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các lĩnh vực,.v.v...

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý nghĩa đã thuật ở trên. Bởi vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu niên, mà bỗng nhiên trở thành một giáo sư, một chuyên viên cao cấp,.v.v... nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như một thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể trong 10 năm đó sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên cũng chủ về đây là năm có thanh danh hơn.

Nhưng tính chất của Thiên lương cũng mang lại những tình huống rắc rối khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút, hoặc là lúc gặp nhiều phiền phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng giải quyết, đồng thời còn được trợ lực rất hữu dụng.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương, hội "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm hóa Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình dương Đà la. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính "cô khắc và hình kị" (như khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp,.v.v... ), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống thông thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về "tài bạch", về cơ bản có thể định nghĩa là "danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ nhất thì "tài bạch" cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên cơ và Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế, người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về "tài bạch" là do nhìn quá cao, hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" vốn là những sao thương hay "tâm trạng hóa" cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều không ổn định.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Kị (Hóa Kị ở cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt cuộc cũng hóa giải được tai nạn.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên lương hóa Quyền thì đồng thời thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn "Thiên cơ hóa Lộc" đã thuật ở trên.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên đồng, cung tam hợp mượn "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm, còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh tạo gây ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của công việc.

13- Thiên Cơ - can Bính hóa Quyền

Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả của lối xử sự.

Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ thích hóa Quyền. Khi hóa Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh tạo trở nên uyển chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục đích.

Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ trong tình huống hóa Quyền mới có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng vẫn không chủ về có thực quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được người ta xem trọng, tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện trong thực tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.

Thiên Cơ mang lại sự biến động thay đổi, thoạt nhìn thì giống như được quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa làm sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả năng khống chế và làm chủ được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây là tổ hợp sao có tính chất khá xấu. Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần thiết, hoặc chủ về lạm quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức, thường muốn tiến thì lại thành thoái, cầu vinh thì lại bị nhục.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Thiên cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm mạnh thêm ý vị "quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên cơ thủ Mệnh ở cung Ngọ, quyền càng cao thì lộc càng trọng, thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không thiết thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất như đã thuật ở trên, thông thường chỉ chủ về có biến động theo chiều hướng tốt đẹp.

Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời người mà thôi.

Tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc. "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc tương hội, sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự nghiệp.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên đồng cư Tài và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn đồng độ, hoặc có cách "Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc loại "Quyền Lộc" trùng điệp, hay "Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ, cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội "Thiên đồng Thái âm" thủ cung Tài, và mượn "Cự môn Thái dương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dễ hội hợp với Sát tinh. Nhóm sao có kết cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến động thay đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội, thì đây lại là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có tính chất tốt nhất. Ban đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất "phú quý không lâu bền" phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ hóa Quyền mà còn thành "Lộc Quyền Khoa hội", thì những biến động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến động thay đổi với biên độ lớn dẫn đến thành công.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tương hội "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy ra trắc trở một cách vô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến động thay đổi theo hướng cát lợi.

14- Thiên Đồng - can Đinh hóa Quyền

Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên Đồng hóa Quyền, nên cần phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trình bày các nguyên tắc thông thường.

Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai sáng, khi hóa Quyền có thể làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình "phá tổ thành gia" (phá tổ nghiệp phải tự lập), "ly tổ tự hưng" (rời quê hương tự làm nên) thì vẫn khó tránh.

Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa Quyền có thể biến thành năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm trong dục lạc, không còn thời gian nghĩ đến sự tiến thủ.

Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển thành tính dựa vào quyền thế, ưa đi đường tắt để cầu thành tựu.

Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận đoán, bởi vì lúc có các sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến mệnh tạo bị cuốn vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc. Hơn nữa đây không phải là bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định. Nhưng lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên phải tìm cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai sao Sát tinh và Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp của riêng mình, lúc này đời người mới có mục tiêu.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn "Thái âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủ mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với Kình dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung Phu thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy được vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa ở cung Quan, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội", thông thường đều là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ, cần đến tài ăn nói để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa Quyền ở cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường "Cơ Nguyệt Đồng Lương" không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp tác với người khác.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa Kị ở đối cung "kích phát", hội hợp Thiên lương và "Thái âm Thiên cơ" hóa Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung Ngọ, gọi là "phản bối", chủ về "qua cơn mưa trời lại sáng". Dù Thiên đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương, chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La, Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc để hội hợp, và hai sao hội hợp khác là "Thiên cơ Cự môn" hóa Khoa hóa Kị. Đây cũng thành cách "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân, "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý vị "phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành, nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo "tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.

15- Thái Âm - can Mậu hóa Quyền

Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang lại tính chất Cát - Lợi. Ý nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát tài chính. Nhưng cần chú ý, "tài tinh" Thái âm khác với "tài tinh" Vũ khúc. Nếu so sánh, thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên "quyền tài chính" không phải là giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc một cách tốt nhất (ở xã hội hiện đại, người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính chất này).

Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ giúp cải thiện một số tính chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái, hoặc vợ và con gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như "sinh ly" thì biến thành "gặp nhau ít mà xa nhau nhiều",.v.v... Cần phải xem tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm bị hóa thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa thành sao Quyền, thì thường sẽ biến thành lực "kích phát" rất bất lợi.

Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút đặc biệt đối với người khác giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có lý trí, không giống như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình cảm.

Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có "thuật" chế ngự chồng, tuy chế ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận thấy đó là chế ngự chồng, mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh mà cung Phúc đức là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành cho chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái âm hóa Quyền hội với "Thiên cơ Thiên lương" cư Quan mà Thiên cơ hóa Kị, và mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp có Thái dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa Kị, chủ về sự nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất "danh lớn hơn lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, và mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì "Thái dương Thái âm" có thể gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa "chợt âm chợt dương", có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm hóa Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Cự môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện tượng đồng dạng.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái âm hóa Quyền chủ về ổn định, Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi "chế ngự" chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu "Thiên cơ Thái âm" ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.

Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái âm có thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái dương hóa Khoa cư Tài và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được "tiên cơ" để tiến hành phép "tìm cát tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân, thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép "tìm cát tránh hung" nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc cơ hội phát triển.

Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái dương hóa Khoa ở đối cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với "Thiên đồng thiên lương" cư Quan và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái âm ở hai cung độ này là rơi vào "thiên la địa võng", còn có bản chất không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó. Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa "đầu voi đuôi chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn lực, khác với Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi. "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở "Thiên la Địa võng". Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để định cát - hung.

Thái âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc tồn và đối nhau với Thiên cơ hóa Kị. Mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp "Thái dương Thiên lương" ở cung Quan mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay cung Hợi, đều là cách "Lộc gặp Thái âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái âm hóa Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.

16- Tham Lang - can Kỷ hóa Quyền

Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó, bất kể là ham muốn vật chất hay ham muốn dục tình đều như vậy.

Trên đời, không thể không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó Tham lang hóa Quyền luôn có ý thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực một. Hơn nữa, có thể còn có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân tâm.

Tham lang có thiên hướng trong "giao tế thù tạc", sau khi hóa Quyền thì biến thành ưa lấy "giao tế thù tạc" làm thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh, môi trường giao tế thù tạc lại không thể tránh được tình cảnh "phong hoa tuyết nguyệt", do bản thân Tham lang cũng nặng về dục tình, nên dễ xảy ra sự cố.

Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy sinh thân xác để theo đuổi mục đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, mà cung Phúc đức không có các sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp phải cạnh tranh càng tăng thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia đình vì không còn thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu thê, và cung Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị sẽ là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy cũng có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể thường được hòa hoãn hơn.

Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về phát đột ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà không chủ về phát tài. Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải xử sự cẩn thận, rất dễ thân bại danh liệt.

Tham lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và Thất sát hội hợp, đối cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền rất kị đồng độ với Văn khúc hóa Kị, tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.

Tham lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ khúc hóa Lộc đồng độ, xin tham khảo ở đoạn "Vũ khúc hóa Lộc".

Tham lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm trinh, hội hợp với Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư Tài. Tham lang ở cung Dần còn được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá nặng, "Vũ khúc Thiên phủ" mà Vũ khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên cuộc đời thường được biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị "vợ đoạt quyền chồng" quá nặng. Lúc cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về dễ bị người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay đổi.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham lang hóa Quyền, hội "Vũ khúc Phá quân" cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội "Liêm trinh Thất sát" cư Quan, lại gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất mạnh mẽ. Do cung Tài là "Vũ khúc Phá quân" mà Vũ khúc hóa Lộc, nên tài khí không yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại "trống rỗng". Tinh hệ Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc hóa Kị đồng độ hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.

Tham lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ khúc hóa Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của "Quyền Lộc tượng hội", khiến cho Tham lang ở "thiên la địa võng" có thể phá được cảnh khốn khó, đột nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách "tìm cát tránh hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của cung Phúc đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.

Tinh hệ "Liên trinh Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Quyền, đồng thời hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội "Tử vi Phá quân" ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn khúc hóa Kị cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.

17- Thái Dương - can Tân hóa Quyền

Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực sáng tạo và tài lãnh đạo, nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về chuyển biến có tính đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa vị.

Vấn đề "miếu vượng lạc hãm" có ảnh hưởng khá lớn đến Thái dương hóa Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có chức mà không có thực quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến thoái, thì dễ vì vậy mà dẫn đến thất bại.

Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường là biểu trưng cho tính độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ, thường vì xử sự chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin một cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng lớn.

Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì cần phải đồng thời quan sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ với đồng sự và người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với đời người.

Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc hội hợp, sẽ chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề bạt, cũng chủ về nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp đồng thời với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán thất bại.

Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính thức.

Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc cư Quan, và mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài.

Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.

Thái dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành "hữu hanh vô thực". Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.

Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.

Tinh hệ "Thái âm Thái dương" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Quyền, tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc tồn.

Do "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phúc đức, lúc Cự môn hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy mà sinh phá sản, thất bại.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Quyền ắt Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự môn hóa Lộc.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm độc tọa cư Tài, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Quan mà Cự môn hóa Lộc.

Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói "có tiếng thanh cao" là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng là đạo "tìm cát tránh hung" vậy.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.

Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái âm, tam phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình dương.

Thái dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá "Thiên la Địa võng", nhưng lại thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột. Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.

Thái dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều "triêu khí" (khí ban ngày), nhân sinh quan khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều "mộ khí" (khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng, rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm giác "không gặp thời", dễ biến thành tiêu cực.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao địa vị.

Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Cự môn độc tọa hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc hãm.

Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có, không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có cùng một ý vị như vậy.

18- Vũ Khúc - can Canh hóa Quyền

Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền sẽ làm tăng sự hiển hách của thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có biểu hiện cụ thể, nên sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết đoán.

Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện bạc tình, nên sau khi hóa Quyền sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với thủ đoạn của Tham Lang hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không cần biết phản ứng của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không có thâm ý. Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong giới kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có người đố kị.

Do Vũ khúc mang theo tính "cô độc và hình khắc", nên nữ mệnh không ưa hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không có duyên với con cái, biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự nghiệp.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm trinh độc tọa cư Tài, "Tử vi Thiên tướng" cư Quan, đối cung là Thất sát độc tọa.

Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên đồng hóa Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp để giảm sự vất vả của bản thân.

Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.

Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành "ngó đứt mà tơ vương", đồng thời còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung "Liêm trinh Phá quân" cư Tài, và hội "Tử vi Thất sát" cư Quan.

Vũ khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn nhất của họ.

Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến thân.

Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì "bà quản gia" được coi là "chức nghiệp".

Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển biến.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá quân, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" cư Tài mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư Quan.

Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, "Lộc Quyền Khoa" hội hợp, thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý "Vũ khúc Thiên tướng" luôn luôn bị Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.

Nói "nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng, thì lại cần phải lưu ý đạo "tìm cát tránh hung".

Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ vỡ.

Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Quyền, đồng độ với Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la, đối cung là Thiên phủ đồng thời hóa Khoa, tam phương hội "Tử vi Phá quân" cư Quan và hội "Liêm trinh Tham lang" cư Tài.

Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào sự nghiệp.

Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.

Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối cung, tam phương có "Tử vi Thiên phủ" cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và "Liên trinh Thiên tướng" cư Tài.

Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối cung gặp "Hỏa Tham cách" hay "Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột. Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội có "Tử vi Tham lang" cư Quan, và "Liêm trinh Thất sát" cư Tài.

Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản tốt.

19- Tử Vi - can Nhâm hóa Quyền

Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích thân chủ trì xử lý chính sự, cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự nghiêm cẩn là không thể được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu không khí thường căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là một đặc điểm lớn nhất của Tử vi hóa quyền.

Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền rất vất vả, mà lại ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà mọi người ở bên cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền, đều cảm thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao mình quá vất vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây!

Hóa Quyền là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ gánh vác công việc rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực một mình đảm trách công việc. Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị nên không thích hợp trong kinh doanh làm ăn, nhất là khi mình tự chủ. Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền, bởi vì bản thân người Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh không thể tự chủ, phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền lại phải chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản thân. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những hậu quả bất lợi một cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao lưu thù tạc.

Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu ghét đều có tính kích động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng tăng, do đó thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát huy tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương bướng.

Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là bao dung chịu đựng, sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho nên dễ tha thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất ngờ.

Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương, có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ có biểu hiện tiêu xài lãng phí.

Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh. Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách "Phiếm thủy đào hoa" dễ có tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có tình.

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu không dễ bị túng thiếu.

Tinh hệ "Tử vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Quyền (ở cung Mùi còn gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Liên trinh Tham lang" ở cung Quan, và "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi có tính chất ít thận trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn, dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo "tìm cát tránh hung" chính là đừng tìm và không thể cầu "thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm ủng hộ và tán thưởng.

Do Tử vi có đặc tính "kích phát", "kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh cục này.

Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung Nô).

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Quyền thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan, và Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài. Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp Kình dương và Đà la.

Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử vi khi hóa Quyền thêm nặng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát huy.

Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên phủ hóa Khoa, một "công" một "thủ" có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn mỹ.

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là "cát" hay "hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục hành động hay là nên dừng lại.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn, tam phương hội cung có "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa Kị, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống bị tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan, nhưng về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc rối).

Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Quyền bị Kình Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá quân, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm trinh độc tọa cư Quan.

Nhóm tinh hệ này bị "Vũ khúc Thiên phủ" gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn của bản thân, trên thực tế thường thường lại không cần thiết phải trả giá quá đắt như vậy.

Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc trở.

Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Quan, và "Vũ khúc Tham lang" có Vũ khúc hóa Kị ở cung Tài.

"Tử vi Thất sát" vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì tính chất quyền lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.

Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát tường, có thể phát triển thành "cọp mà ăn thức ăn của mèo" hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.

Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng không được triển khai cục diện lớn quá.

20- Cự Môn - can Quý hóa Quyền

Cự Môn là sao điều tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến "điều tiếng thị phi" biến thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi. Cự môn không hóa Khoa cũng vì cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau thì cũng như nhau, chẳng thể tin được.

Cự Môn hóa Quyền thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như luật sư, ngoại giao, giáo dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ,.v.v... cũng nên suy tính đến những nghề biểu trưng cho trạng thái xã hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ, diễn viên,.v.v...

Nữ mệnh vốn không ưa Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm trạng của mình.

Cự Môn là "ám tinh", thường có khuynh hướng biểu hiện "cái tôi" (ngã), nhưng sau khi hóa Quyền thì lối biểu hiện "cái tôi" sẽ dễ khiến cho người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói, dễ làm cho người ta tiếp nhận sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn hóa Quyền có thể làm tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng sự ảnh hưởng địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà thu vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang cao.

Cự môn hóa Quyền hội Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) phù trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận của mọi người bề những cái bộc lộ biểu hiện của mệnh tạo. Khác với Thái dương hóa Quyền hội Cự môn hóa Lộc.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Tài.

Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", nhất là khi Cự môn ở cung Tý được Lộc tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về "Thạch trung ẩn ngọc cách", ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách "Thạch trung ẩn ngọc", thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí cao.

Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội chiếu.

Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.

Cần chú ý "Thiên đồng Cự môn" ở cung Sửu, thì cung Huynh đệ là Tham lang hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người hợp tác.

Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn nhân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung mượn "Thiên đồng Thái âm" nhập cung mà Thái âm ắt hóa Khoa ở cung Quan, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội chiếu.

Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.

Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc và Lộc tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự nghiệp.

"Thái dương Cự môn" trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Quyền ắt sẽ gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc tọa ở cung Tài.

Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách "Dương Lương Xương Lộc" để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.

Cự môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ "ám lực" (lực ngầm) mà chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được lâu dài.

Cự môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung Thìn gặp Lộc tồn), có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái dương độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên cơ Thái âm" có Thái âm hóa Khoa để nhập cung Quan.

Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính chất lạc hãm ở "thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải qua gian khổ thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.

Điều đáng chú ý là "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm hóa Khoa, có thể thành cách "Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn xương Văn khúc, chủ về được nhạc gia nâng đỡ.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tam phương hội hợp Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.

Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản của cha nuôi dưỡng.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.

21- Vũ Khúc - can Giáp hóa Khoa

Vũ khúc hóa Khoa không chủ về "khoa danh" (có danh tiếng trong khoa cử), khác với Hóa Khoa của Văn xương và Văn khúc. Khi Vũ khúc hóa Khoa chỉ chủ về có danh tiếng giới hạn trong một ngành nghề, hoặc trong một phạm vi nhất định, chưa chắc được đại chúng trong xã hội biết đến.

Cho nên Vũ khúc hóa Khoa không có ý vị được tuyên dương rộng rãi. Hơn nữa, một khi tuyên dương rộng rãi, sẽ dễ bị ở vào vị trí lúng túng, gượng gạo, khó xử, như bị người ta đả kích, đố kị,.v.v... Nữ mệnh càng dễ bị rắc rối về tình cảm, thường bị người đã có gia đình theo đuổi.

Ưu điểm lớn nhất của Vũ khúc hóa Khoa là làm tăng năng lực quyết đoán theo hướng tốt, chẳng bị rơi vào tình trạng võ đoán hoặc suy nghĩ nông cạn.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội hợp với Liêm trinh độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Quan. "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ còn gặp Lộc tồn, nên ở cung Ngọ có lợi hơn ở cung Tý.

Nhóm tinh hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được "Khoa Lộc" là kết cấu tinh hệ tốt lành. Trong các tình hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận lợi, thích hợp với ngành nghề kinh tế tài chính, dễ được ngân hàng tín nhiệm, còn có biểu hiện tốt trong nghề nghiệp.

Do Liêm trinh hóa Lộc hội chiếu, nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Khoa, đồng thời còn gặp Kình dương Đà la hoặc có Kình dương đồng độ. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Tài chia ra một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có "Tử vi Thất sát" là kết cấu sao quyền lực.

Tinh hệ có kết cấu sao kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới phát huy được đặc tính của "Vũ khúc Tham lang" có thể phát đột ngột. Nếu không thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", thì đây là cách "Lộc Quyền Khoa hội" chủ về phát vượt lên nhưng không có ý vị phát đột ngột, mà là phát lâu dài.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên tránh bất hòa với thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng cấp đố kị tài năng.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Khoa ắt có Lộc tồn hội hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp có "Liêm trinh Thiên phủ" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, và Tử vi độc tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá quân hóa Quyền.

Nhóm sao này cũng là kết cấu "Lộc Khoa Quyền hội cách", do Tử vi ở cung Quan nên rất dễ ở địa vị lãnh đạo và có danh tiếng, cũng thích hợp tự mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng độ với Lộc tồn, ắt sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, do đó không nên phát triển riêng một cách độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất bại.

Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu thích hợp làm việc trong chính giới, lúc đó càn phải gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng lại không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá quân hóa Quyền ở đối cung Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.

Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ hội tốt.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Khoa tuy sẽ gặp Kình dương Đà la hoặc đồng độ với Kình dương, nhưng đồng thời cũng sẽ hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá quân hóa Quyền ở cung Quan, và "Liêm trinh Tham lang" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài. Không những thành kết cấu "Lộc Quyền Hoa hội" tốt lành, mà còn là cách "cương nhu" phối hợp thích đáng.

Chỉ có một khuyết điểm bất lợi về Cha, chủ về không được "phụ ấm" (cha che trở), hoặc chủ về hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng cũng chính vì vậy mà "kích phát" năng lực khai sáng sự nghiệp. Thích hợp với những ngành nghề như kinh tế tài chính, giải trí, vui chơi, nghệ thuật,.v.v... nhất là những ngành nghề giầu tính cạnh tranh.

Đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh càng có lợi.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp có "Tử vi Thiên phủ" ở cung Quan, và "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, Vũ khúc ở cung Tuất còn được gặp Lộc tồn.

Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu "Khoa Lộc" tương hội, nhưng trừ phi thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", nếu không sẽ rất ngại bản thân "Tử vi Thiên phủ" ở cung Sự nghiệp có mâu thuẫn, cung Tài "Liêm trinh Thiên tướng" có ý vị bị động, tuy nhờ Vũ khúc hóa Khoa cũng chỉ chủ về được người ta trọng dụng nhất thời, mà không có trợ lực thực tế.

Nếu Vũ khúc hóa Khoa có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột ngột, nhưng không lớn bằng "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", mà còn dễ bị phá tán thất bại.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Vũ khúc hóa Khoa mà Phá quân đồng thời hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Phá quân hóa Quyền".

22- Tử Vi - can Ất hóa Khoa

Tử vi rất ưa hóa Khoa, bởi vì đối với Đế tinh, nhiều lúc danh dự còn quan trọng hơn quyền lực. Sau khi hóa Khoa, Tử vi có thể cải thiện một số khuyết điểm, như cố chấp, độc đoán, yêu ghét tùy ý,.v.v...

Tử vi sau khi hóa Khoa chủ về tăng danh vọng ở phạm vi khá rộng, còn có sắc thái công chúng, hơn xa Vũ khúc hóa Khoa chỉ có tính cục bộ.

Chỉ cần không phải là "tại dã cô quân", sức ảnh hưởng của Tử vi hóa Khoa thường có tính quyền uy, dễ là được người khác tin phục.

Tử vi vốn có đặc tính "lấy tai làm mắt", ưa nghe lời xiểm nịnh, nhưng sau khi hóa Khoa, có thể phân biệt rõ thị phi, có điều khi xử sự vẫn có phong cách cá nhân mạnh mẽ.

Tử vi sau khi hóa Khoa, dù không có Xương Khúc hội hợp, cũng chủ về dễ tiếp thu tri thức, và có thể biểu đạt ý nghĩa ý nghĩa hiểu biết của mình. Cho nên nó ở trong số "sao Khoa" có tính chất khá thiết thực và tốt lành.

Tử vi hóa Khoa nếu còn được các sao Phụ diệu, Tá diệu, thì thích hợp làm việc trong chính giới, cổ nhân gọi là "nho thần", ắt sẽ có địa vị rất cao. Nếu gặp Sát tinh, thì chỉ có thể biểu hiện trong phạm vi cục bộ.

Nhưng phàm là Tử vi hóa Khoa, thì vất kể là có kết cấu tinh hệ nào, cũng đều dễ chuốc đố kị, chỉ không bị tổn thương mà thôi.

Tử vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Tham lang ở đối cung, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan, và hội cung Tài với tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng".

Tử vi độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao Cát hóa khác hội chiếu, còn không gặp Lộc tồn, nên chỉ chủ về có năng lực suy nghĩ độc lập, mà lại còn khéo phát huy phong cách cá nhân. Nói về cảnh ngộ đời người, dễ được người khác ủng hộ (ở cung Ngọ ưu hơn cung Tý, vì ngại Thái âm hóa Kị ở cung Tị là cung Giao hữu), nhưng vẫn là tổ hợp chủ về "danh lớn hơn lợi" chẳng túng thiếu, nhưng cũng không dư giả.

So đặc tính của hai cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì "tinh" (chuyên sâu), còn người ở cung Ngọ thì "bác" (uyên bác).

Ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng có cơ hội thể hiện bản thân.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, và hội cung Quan là tinh hệ "Liêm trinh Tham lang".

Tử vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu làm mạnh thêm thanh thế của Phá quân, đồng thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh tiếng mà chủ động thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì Danh mà thay đổi, sau khi thay đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là đương số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh vất vả, khổ lụy, nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa mãn.

Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng bước, thì trái lại, sẽ dễ vì phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ mà dẫn đến tổn thất phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay đổi, nên quan hệ giao tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử vi hóa Khoa cũng không thể cải thiện tính chất "vô tình vô nghĩa" của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay đổi.

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung là Vũ khúc độc tọa ở cung Tài và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan. "Tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tử vi và Thiên phủ vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động, vừa tiến công lại vừa phòng thủ. Sau khi Tử vi hóa Khoa thì Tử vi được tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải quyết được tình trạng mẫu thuẫn của "Tử vi Thiên phủ". Một khi mẫu thuẫn được giải quyết, xung chiếu Thất sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát huy. Cho nên tinh hệ này khi Tử vi hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng lực quyết đoán cao được phát huy, đây là điều mà tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" vốn không có.

Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự sắc xảo, luôn muốn khoe tài năng, vì vậy mà thường bị người ta công kích. Còn cần đặc biệt lưu ý khi đến đại hạn hoặc lưu niên "Liêm trinh Thiên tướng" đừng cố xuất đầu lộ diện mà mang họa vào thân.

Nhóm tinh hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất này (?), chỉ chủ về bộc lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không được nóng nảy.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

Tinh hệ này vốn có sắc thái không ổn định, nhưng Tử vi hóa Khoa chỉ có tính chất nhờ thay đổi cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Khoa, ắt sẽ đồng thời gặp Kình dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao hội, có Phá quân độc tọa ở đối cung, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài và Liêm trinh độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này Tử vi rất ưa được hóa Khoa, vì Thiên tướng đồng độ với Tử vi nên Thiên cơ hóa Lộc và Thiên lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung, chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại trừ trường hợp Tử vi độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về nghiên cứu học thuật.

Liên quan đến khuynh hướng của tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có tính chất mạnh yếu như thế nào mà định. Nếu "Vũ khúc Thiên phủ" có lực mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm trinh có lực mạnh thì có tài năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc trong chính giới, lấy thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất định.

Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên phủ, tam phương hội cung có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Sự nghiệp, và "Vũ khúc Tham lang" ở cung Tài.

Tử vi và Thất sát đồng độ đã có sắc thái quyền lực, khi Tử vi hóa Khoa khiến cho quyền lực và danh dự đều được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt lành.

Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì lại có khuyết điểm là: lý tưởng của đời người đặt ở vị thế quá cao, thế là theo đuổi lý tưởng không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở tuổi vãn niên có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn luận triết lý.

Ngoài ra tinh hệ này cũng chủ về tình cảm vợ chồng thường có tì vết, nhưng mệnh tạo lại thích che dấu, không cho người ngoài biết.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực, thông thường là ở vận tốt.

23- Văn Xương - can Bính hóa Khoa

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn học nghệ thuật, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong thi cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được thuyết trình phát biểu tác phẩm chuyên đề, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, mà trước thi cử một năm cũng có lợi.

24- Thiên Cơ - can Đinh hóa Khoa

Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng. Ví dụ như thắng một giải đua xe, đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ học lực có chuyên nghiệp và chuyên sâu hay không? cho nên bản chất của Thiên cơ hóa Khoa cũng được phát huy khá lớn.

Thiên cơ thuộc nhóm sao hiếu động, trôi nổi, tuy hiếu học nhưng không thiết thực, thậm chí thường hay có kỹ xảo, hoặc thường phô trương thái quá, thường thiếu và ít có những trải nghiệm thực tế,.v.v... tất cả đều là những khuyết điểm cơ bản của nó. Nhưng sau khi Thiên cơ hóa Khoa, có thể khiến cho những nghiên cứu trở thành thiết thực, mà còn có thiên hướng về khoa học kỹ thuật, toán học. Nhưng bất kể như thế nào, Thiên cơ hóa Khoa chỉ lợi về vạch kế hoạch, mà bất lợi về thực hành, cho nên có lợi nhất khi trở thành vai trò người tham mưu hay người cố vấn, hay môi trường các cấp cục, vụ, viện, phòng, ban, có chức năng tổng hợp và phân tích tin tức.

Thiên cơ hóa Khoa còn có tính chất xu phụ quyền thế, thấy sang bắt quàng làm họ, hễ có cơ hội thì liền làm quen, đầu tư quan hệ rất nhiều với những người nổi tiếng hay người có vị thế quyền lực cao, để bản thân cũng được nhiều người biết.

Lúc Thiên cơ hóa Khoa có tứ Sát tinh đồng độ, thì thích hợp nghiên cứu về khoa học tự nhiên như toán lý, khuynh hướng công nghệ thông tin, máy tính,.v.v... cuộc sống thường ngày cũng hay bộc lộ tính cách hướng theo những trào lưu mới.

Thiên cơ hóa Khoa có sao Văn hoặc sao "Không" đồng độ, thì có khuynh hướng tìm đến những vấn đề thần bí, nên thích hợp nghiên cứu tôn giáo, triết học, thuật số, hay những bộ môn học thuật mang tính "tương cận."

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Cự môn sẽ đồng thời hóa Kị. Tam phương hội cung có Thái âm độc tọa cũng hóa Lộc ở cung Sự nghiệp, và "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài. Đây là kết cấu tinh hệ hội tụ đủ tứ hóa diệu.

Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị, cho nên tính chất của "Lộc Quyền Khoa hội cách" sẽ phát huy biến thành cách "dùng lời nói để kiếm tiền". Cự môn ở cung Ngọ thì Thái dương ở cung Tuất không có năng lực giải "ám". Cự môn ở cung Tý thì Thái dương ở cung Thìn, lại có năng lực giải "ám" khá tốt. Do đó có thể nói Thiên cơ hóa Khoa ở cung Tý chuốc nhiều thị phi hơn ở cung Ngọ. Nhưng ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" thì ở hai cung đều như nhau.

Phàm là Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, cần phải quan sát nhóm sao "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Tài bạch, xem chúng có năng lực sáng tạo hay không?, hay có sắc thái lưu lạc, rời xa người thân hay không?. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của Thiên cơ hóa Khoa ở cung Mệnh.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương, có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Tam phương hội hợp là Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp, và Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch.

Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp và hội với Sát tinh, Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung này chỉ thích hợp với những ngành nghề như công nghệ, quảng bá. kế, thiết kế. Có điều là dù trước hay sau, thì vẫn thiếu khí khái của người "một mình đảm trách công việc".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, có lúc chỉ là biểu hiện khi được xu nịnh ắt sẽ trổ tài vặt. Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ cũng có tính chất này, nhưng biểu hiện khá tốt, hơn nữa còn có nhiều điểm mang lại lợi ích thực tế, còn Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi thì không được như vậy.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Cự môn đồng thời hóa Kị, lại còn gặp Sát tinh. Tam phương hội hợp có Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch, và phải vay mượn mượn tinh hệ "Thái dương Thái âm" để nhập cung Sự nghiệp, có Thái âm hóa Lộc.

Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên cơ và Cự môn đồng độ, có Hóa Khoa và Hóa Kị cùng bay đến, do đó có khác với Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền" ra, thì vẫn rất khó tránh khỏi thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của nó.

Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có mệnh cục này thủ Mệnh.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng thị phi, "khoa trương" và "điều tiếng" sẽ cùng đến, nhất là "khoa trương" có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ trích.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên cơ hóa Khoa, tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, trong đó chia nhau một hóa Quyền một hóa Lộc, và phải bị vay mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp, mà Cự môn lại hóa Kị.

Nhóm tinh hệ này cũng hội đủ tứ hóa diệu, nhưng do cung Sự nghiệp bị buộc phải vay mượn "Thái dương Cự môn" có Cự môn hóa Kị, cho nên ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" càng mang đậm sắc thái này, khi theo những ngành nghề luật sư, pháp luật, pháp lý, tư pháp,.v.v... thì trái lại sẽ chủ về có danh vọng. Nếu theo nghiên cứu chuyên về học thuật, thì chỉ nên theo những ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, đối với các ngành chuyên nghiệp mang tính chuyên sâu cao sẽ rất khó thâm nhập.

Do Thiên cơ hóa Khoa, cũng có thể làm công tác kế hoạch, lập chương trình, vẫn phù hợp với sắc thái "miệng lưỡi", như lập chương trình quảng bá, quan hệ công cộng, nghệ thuật biểu diễn,.v.v...

Tinh hệ này bất lợi về hôn nhân, thường chủ về thông hôn với người ở nơi xa (do phải đi việc ở nơi xa mà nảy sinh tìm cảm) hay với người ngoại quốc, hoặc chủ về gia thế của người phối ngẫu không tương xứng, mà người phối ngẫu cũng có sắc thái "dùng lời nói để kiếm tiền" tương hợp.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cần phải chú ý cung "Thái dương Cự môn" đồng độ, xem có gặp các sao Hình Hao hay không? nếu có, thì có thể vì kế hoạch sai lầm mà chuốc điều tiếng thị phi rất nghiêm trọng.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ đồng thời có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có "Thiên đồng Cự môn" ở cung Tài bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kị, và vay mượn "Thái dương Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái dương và Thiên lương đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Tị cũng tốt hơn cung Hợi.

So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tị được thiết thực hơn. Tam phương hội "Thiên đồng Cự môn", nên không chủ về "dùng lời nói để kiếm tiền", mà chỉ chủ về "có điều thầm kín khó nói về tình cảm" ràng buộc rất sâu đậm.

Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng "chậm phát", nhất là ở cung Hợi thì càng nghiệm. Then chốt chủ yếu là ở vận trình Phá quân nhập cung Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên cơ có tính chất hiếu động, trôi nổi, còn Phá quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không? phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự và tài lộc song thu, nhưng phải không gặp các sao Sát - Hình thì mới đúng.

25- Thái Dương - can Mậu hóa Khoa

Thái dương chủ về "Quý" nên ưa hóa Khoa. Có điều phải ở cung miếu vượng mới chủ về có danh dự và địa vị trong xã hội. Nếu Thái dương hóa Khoa nhập cung hãm địa, thì chỉ có hư danh, nhất là dễ vì chính cái "hư danh" mà bị gây liên lụy.

Hóa Khoa làm tăng năng lực hướng ngoại của Thái dương, do đó thường làm người ta để ý và đố kị. Vì vậy, cần xem xét cung Huynh hệ và cung Giao hữu gây ảnh hưởng như thế nào đến mệnh tạo? sẽ quyết định là Cát hay là Hung đối với Thái dương hóa Khoa thủ Mệnh.

Nếu Thái Dương hóa Khoa hội Thiên lương, mà còn có các sao Sát - Kị - Hình hội chiếu, thì cổ nhân định lệ đây là tổ hợp tinh hệ "phục độc" (dùng độc dược). Ở thời hiện đại, có thể nhuyễn hóa thành sử dụng ma túy, mua bán ma túy, hoặc bị bệnh mà uống nhầm thuốc, thậm chí phác đồ điều trị còn bị sai lầm. Cần phải quan sát toàn Cục để định tính chất cụ thể.

Thái Dương thủ Mệnh hóa Khoa, cung Phúc đức ắt sẽ là Thiên Cơ hóa Kị, do đó có thể biết, khi cầu danh sẽ bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt tinh thần. Lúc luận đoán nên xem xét tính chất của tình trạng bị quấy nhiễu gây khó khăn này. Kết cấu tốt nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt nghiên cứu học thuật. Kết cấu xấu nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn do điều tiếng thị phi.

Chỉ khi gặp Văn Xương và Văn Khúc giao hội, thì Thái Dương hóa Khoa mới có lợi về "điển thí", cổ nhân gọi đây là cách "đan trì". Nhưng dù không gặp Xương Khúc, thông thường Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về thông minh, nhân sinh đắc ý là do cảm giác thành tựu và được nhiều người biết đến mà có.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu, tam phương tương hội Cự môn độc tọa ở cung Sự nghiệp, và phải mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài bạch để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa Kị và Thái Âm hóa Quyền.

Thái Dương sau khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải "ám" của Cự Môn và bản chất "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, đồng thời còn mang lại danh tiếng. Nhưng những tác dụng này, lại có sự khác nhau giữa hai cung Tý và Ngọ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất chỉ là giảm bớt tính "thị phi" của Cự Môn và giảm bớt tính "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với người cha có thể là "tử biệt", thì sau khi Thái dương hóa Khoa sẽ biến thành "sinh ly", còn tác dụng mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm bớt tính "thị phi" và tính "cô độc và hình khắc" của Cự môn và Thiên lương, nhưng tác dụng lớn nhất mang lại đó là danh tiếng có tính chất quảng đại công chúng. Có điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng thực ra bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng ngoại một cách thái quá.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có Thái dương hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa quyền".

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Khoa, tam phương tương hội mượn "Thái âm Thiên đồng" có Thái âm hóa Quyền để nhập cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" để nhập cung Tài bạch có Thiên cơ hóa Kị. Tổ hợp tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh sức thuyết phục của ngôn từ, và khiến cho Hóa Kị của tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Tài bạch chủ về lao tâm tổn thần, mà không chủ về "thị phi" hoặc phạm sai lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền".

Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho "thiên tài về ngôn ngữ", chủ về học nói tiếng nước ngoài và tiếng địa phương khác rất dễ dàng (nhưng chỉ về "nghe nói", chứ không phải "đọc viết" tiếng nước ngoài).

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này, cần chú ý đến cơ hội khi thuyết phục người khác, và thường thường nhờ vào đó mà gặp được hoàn cảnh thuận lợi.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa Khoa (Mệnh ở cung Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tị). Tam phương tương hội với Thái Âm hóa Quyền ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh tiếng, và khiến cho phạm vi nổi tiếng mở rộng. Ví dụ như một vị Giáo sư, danh tiếng của ông vốn chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng chỉ được biết đến trong giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người trong nghề, thậm chí không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo sư này. Đây là tác dụng của Thái Dương hóa Khoa.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm không còn chủ về "tài khí", mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn định của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường có lợi về thi cử, hoặc có lợi khi cạnh tranh, nhờ vào đó mà mang lại lợi ích (ví như đoạt giải thưởng).

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Quyền, tam phương tương hội với Cự môn độc tọa ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Hai cung Thìn và Tuất vốn là "Thiên la Địa võng", khi Thái Dương hóa Khoa thì không cần đột phá, đối với ánh sáng chói lọi của Thái Dương thì "thiên la địa võng" cũng không thể làm lu mờ. Vì vậy thường thường có cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.

Thái dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói lọi, cho nên những biểu hiện mong muốn bộc lộ ra bên ngoài được thuật lợi và dễ dàng hơn, nhưng cũng dễ chuốc lấy đố kị. Thái dương ở cung Tuất là mặt trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện cũng chỉ được cái nhỏ, hơn nữa những cái mong muốn biểu hiện này, cũng chỉ thuộc về hư danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng vào hư danh để mưu cầu phát triển.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu hiện được bộc lộ ra bên ngoài và nhờ vào đó mang lại lợi ích.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng cung hoặc vây chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở cung Quan, và hội hợp với Thiên lương độc tọa ở cung Tài bạch.

Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về "thiên tài ngôn ngữ", nhưng lại không chủ về ngôn từ có sức thuyết phục, chỉ biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể phát triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển dẫn chương trình, nghệ thuận biểu diễn,.v.v...

Thái dương hóa Khoa ở cung Tị thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở cung Hợi thì chỉ có hư danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn chỉ nhờ lâu năm, chứ không phải nhờ có biểu hiện đặc biệt).

Cự Môn đồng thời còn mang lại điều tiếng thị phi, khi Thái Dương hóa Khoa ở cung Tị cũng được hóa giải một cách dễ dàng hơn.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó mà thu được lợi ích.

26- Thiên Lương - can Kỷ hóa Khoa

Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá hợp với khí chất của nó. Vì vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một mình, tuyệt đối không bị cuốn theo dòng nước.

Thiên Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh ngộ có thể được tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên cũng có lợi về thi cử, nhất là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.

Sau khi Thiên Lương hóa Khoa, lại có nguy cơ tự sùng bái cá nhân mình, vì vậy chẳng thể mang lại lợi ích một cách thực tế, hoặc chỉ thu được lợi ích một cách có giới hạn.

Thiên Lương vốn có bản chất "tiêu tai giải nạn", sau khi Hóa Khoa, bản chất này càng rõ nét, có thể chuyển nguy thành an khiến cho vấn đề được giải quyết tận gốc, từ đó quét sạch những phiền phức kéo dài lâu ngày. Ví dụ người hay bị đau dạ dày, vì bị xuất huyết nên được điều trị triệt để, nhờ vậy không bị đau dây dưa nữa.

Lúc Thiên Lương "tiêu tai giải nạn", thường thường khó tránh phải dùng biện pháp mạnh, khiến cho người ta cảm thấy đau khổ. Nhưng sau khí Hóa Khoa, biện pháp sẽ ôn hòa, đau khổ cũng ít hơn.

Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh thích hợp với những ngành về y học, trị liệu, công tác xã hội, đây là mưu sinh bằng cách "tiêu tai giải khó" cho người khác, nhờ vậy cũng giảm bớt những khó khăn của bản thân.

Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái Dương vây chiếu, tam phương tương hội có Thiên đồng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và "Thiên cơ Thái âm" ở cung Tài bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

Người thành cách "Dương Lương Xương Lộc", do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm mạnh thêm bản chất "Dương Lương Xương Lộc". Cho nên có lợi về thi cử, có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn xương Văn khúc mà không thành Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh, nhưng mức độ thì không bằng người thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

Tinh hệ này cũng thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh vốn đã có bản chất phục vụ, một khi có địa vị xã hội cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại nhất khi xử sự trong quan hệ giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần thiết.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ, tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Cung độ của thiên Lương ắt sẽ gặp Kình Dương.

Thiên Lương bị ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không ổn định, sau khi hóa Khoa tâm trạng sẽ biến thành ổn định.

Do Thái Dương và Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc ở trong tình cảnh phải lưỡng lự.

Nhưng vì ảnh hưởng của Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi sẽ biến thành không câu nệ vào nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội Thiên cơ độc tọa ở cung Sự nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch. Đây là cách thuần túy "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Dần được hội Lộc tồn.

Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho Thiên Lương hóa Khoa tăng thêm phong cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái của bậc danh sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có địa vị mà không cần phải làm hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề nghiệp tự do có tính chuyên nghiệp.

Nếu gặp Văn Khúc hóa Kị cùng bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay "hào môn thanh khách" (kẻ làm khách của nhà giầu thời xưa).

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội có Thái âm độc tọa ở cung Tài bạch, mượn "Thiên đồng Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh, không cần thành cách "Dương Lương Xương Lộc" đã có tính chất cạnh tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi hóa Khoa đã giảm bớt tính "cô độc và hình khắc", vì vậy sức mạnh của Thái Dương càng được phát huy, giúp cho sự tăng thanh danh và biểu hiện bản thân.

Tinh hệ này thích hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân "Thái dương Thiên lương" đã có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc xác lập định nghĩa. Cho nên "Thái dương Thiên lương" không thiên về văn nghệ, dù gặp Văn Xương cũng chỉ nâng cao năng lực lý giải và khảo cứu.

Nếu có Văn Khúc hóa Kị đồng độ, thì nên nghiên cứu học thuật một cách khách quan, nếu không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh luận.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Khoa (ở cung Tuất được hội Lộc tồn), tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, vay mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và không ổn định, cho nên tinh hệ này trái ngược với tinh hệ "Thái dương Thiên lương" chủ về hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp với ngành nghề như quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ,.v.v... Hóa Khoa chủ về "danh khí", giúp cho biểu hiện về công việc.

Nếu theo những ngành nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế,.v.v... thì cần phải phát huy phong cách cá nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành tựu.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Thiên Đồng, tam phương hội "Thái dương Thái âm" ở cung Tài bạch, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh ắt dẽ gặp Đà La.

Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn nghệ giảm nhiều, tính chất của Thiên lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm. Hóa Khoa chỉ làm tăng danh vọng trong nội bộ, không nên dương danh ở bên ngoài, nếu không ắt sẽ mang lại tai nạn và nguy hiểm.

Nhưng do Thiên Lương hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển "nguy" thành "an".

28- Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

Các tính chất còn lại tham khảo ở mục "Văn Xương hóa Khoa"

29- Thiên Phủ - can Nhâm hóa Khoa

Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa, còn các phái khác thì Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là Tả phụ và Hữu bật.

Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc lịch sử của nó, do đó tốt nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng lưu truyền tùy theo môn phái.

Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân hàng, uy tín là điều tối trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho rằng khi Thiên Phủ hóa Khoa cũng không phải là vô lý.

Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực kỳ đơn giản, nó không giống như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ có bản chất "lưỡng trùng", đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng lực cho sự biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là làm tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất "lưỡng trùng" đã thuật ở trên. Bởi vì "kho tiền" mà có uy tín thì đương nhiên phải rất ít khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo dựng được uy tín.

Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại "kho trống", "kho lộ" vốn chủ về gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là "kho lộ" hay "kho trống", cũng biến thành không thể gian xảo.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ với Kình dương hoặc có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội là Liêm trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Tử vi hóa Quyền.

Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kị chủ về "nhập xuất" tài chính gặp khó khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm, do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.

Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phòng the đối với nhân tình).

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là "Liêm trinh Thất sát", tam phương tương hội là Thiên tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn "Tử vi Tham lang" nhập cung Tài bạch để hội cung mà Tử vi hóa Quyền.

Do Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, vì ảnh hưởng của "Tử vi Tham lang" ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ "tín".

Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị " cấp phó". Thích hợp với những nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ lực.

Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn như "Từ vi Tham lang", "Vũ khúc Phá quân", "Liêm trinh Thất sát", những hành động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này, có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn biến thực tế.

Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con cái.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc hóa Kị độc tọa ở cung Tài bạch, và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp.

Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến thành gây liên lụy phản tác dụng. Nhưng trong kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn Hóa Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy bị giảm thấp, nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.

Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm kín.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Liêm trinh Tham lang" để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc tồn.

Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng "Liêm trinh Tham lang" ở cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành những phiền phức khó xử trong lòng.

Cung Thiên Di có "Vũ khúc Thất sát" mà Thiên phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất, đây là đặc điểm của tinh hệ này khi Thiên Phủ hóa Khoa. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên hưởng lương.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa ở cung Tài bạch, và "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị. Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.

Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.

Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất là các công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.

Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ "ngó đứt mà tơ vương".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự nghiệp.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Vũ khúc Tham lang" nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.

Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ, nên vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.

Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo "xu cát tị hung" là cần phải kinh doanh thiết thực và sống có tiết chế một cách thích đáng.

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.

30- Thái Âm - can Quý hóa Khoa

Trong các tình hình thông thường, Thái Âm hóa Khoa là biểu trưng cho sự tu dưỡng phát triển tài năng "nhân văn", thiên hướng nghiêng về văn học nghệ thuật, khí chất nhàn nhã, thông minh tài trí.

Thái Âm nhập miếu mà Hóa Khoa, còn chủ về uy tín và danh tiếng, nếu có Văn tinh hội hợp, ắt sẽ xuất thân từ điển thí mà có Danh; nếu có các Sao đào hoa hội hợp, thì danh tiếng thuộc lĩnh vực giải trí, vui chơi, văn nghệ biểu diễn; nếu có các Sao tiền tài hội hợp, thì có danh vọng và uy tín trong giới làm ăn kinh doanh.

Thái Âm lạc hãm mà Hóa Khoa, ắt sẽ mang lại khuyết điểm, như bất lợi đối với người thân phái nữ, vẫn có những tính chất giống như nhập miếu mà Hóa Khoa, nhưng danh vọng thì nhỏ hơn.

Nữ mệnh gặp Thái Âm hóa Khoa thì thích hợp hơn nam mệnh, có thể làm tăng tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, quan tâm chăm sóc đến gia đình nhiều hơn, đối với nam mệnh thì giảm bớt tính cách hướng nội mà tăng khả năng hướng ngoại.

Thông thường, Thái Âm hóa Khoa cũng có lợi về hôn nhân; nam mệnh lấy được vợ xinh đẹp; nữ mệnh lấy được chồng có năng lực làm việc, quan tâm chăm sóc đến vợ con hơn, hoặc chồng có tài hoa chói lọi. Nhưng Thái Âm hóa Khoa thì Tham Lang ở cung Phụ Mẫu ắt sẽ hóa Kị, là biểu trưng cho hiện tượng thông thường "tài cao thì chuốc đố kị". Cho nên cần phải quan sát các đại hạn xem có rơi vào tình huống bị áp chế hay không? Nếu thấy gặp phải nhiều tình huống này, thì có tài mà không gặp thời.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu; tam phương tương hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc là kết cấu tốt lành, nếu lại được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách "Lộc Văn củng mệnh", chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh thuận lợi. Ở thời hiện đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ về thích trang điểm làm đẹp. Cho nên đều tạo được "hảo cảm" với người khác, nếu có tinh thần sung mãn thì toàn mỹ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chủ về tài lộc thuận lợi toại ý, nhưng không biểu trưng cho việc sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình dương Đà la; tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

Do Thái Âm đồng độ với Thái Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện kém hơn, không hiển hách bằng Thái Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích thực tế.

Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ, do đó Thái Âm hóa Khoa ở cung Sửu tốt hơn ở cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái âm hóa Khoa sẽ được thực tiễn hơn. Mượn "Thiên cơ Cự môn" để hội hợp mà Cự Môn hóa Quyền, cho nên thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền", có thể phát huy năng lực phục vụ của tài nói chuyện.

Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối với nam mệnh có thể mượn lực của Thái Âm hóa Khoa để bổ khuyết.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Âm hóa Khoa (ở cung Thân còn hội Lộc tồn). Tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa, thì đây là mệnh rời xa quê hương, sau khi Hóa Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn hiếu động trôi nổi của hai sao Thiên cơ và Thái âm trở thành ổn định, có thể phát triển ở bản địa, mà còn tạo lập được danh tiếng. Có điều, nguồn tiền tài vẫn gặp nhiều sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về ngạch hành chính.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn bất lợi ở cung Phu Thê.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về được người ta tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan trọng nhất là nắm bắt được cơ hội để phát vượt lên.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thiên Đồng; tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung Dậu, vì ở cung Mão thì lạc hãm, và không thành cục "phản bối" (không gặp sao Lộc, Thái dương ở cung Hợi lại đồng độ với Đà la). Cho nên Thái Âm hóa Khoa ở cung Dậu dễ được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành tự sùng bái cá nhân mình.

Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về làm tăng phong thái của mệnh tạo, có phong cách cá nhân đặc biệt. Nhưng ở thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có khuynh hướng "đồng tính luyến ái", khi Thái Âm hóa Khoa sẽ làm tăng lực hấp dẫn càng mạnh thêm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn gặp Lộc tồn), gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương tương hội với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài bạch, và "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Sự nghiệp.

Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất ưu hơn ở cung Thìn. Nhưng sau khi Hóa Khoa có thể chủ về nắm quyền về hình pháp, quân đội hay cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái dương ở cung Thìn, hội Lộc tồn và chia ra một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này vận trình sáng sủa hơn xa Thái Âm ở cung Thìn, vì vậy nên rời xa quê hương để phát triển chủ về dễ được quý hiển. Đây là sự khác biệt rất quan trọng giữa hai cung Thìn và Tuất.

Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở "thiên la địa võng" đều ưa Hóa Khoa, có thể đột phá "thiên la địa võng" mà tỏa ánh sáng, dẫn tới đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có thể cải thiện sự bất lợi về hôn nhân.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Đà la đồng độ hoặc hội Kình dương Đà la; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội hợp với "Thái dương Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài bạch có Cự môn đồng thời hóa Quyền.

So sánh hai cung, ở cung Tị không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi cải thiện khuyết điểm lúc lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề chuyên về kế hoạch, vạch kế sách, thiết kế, phần nhiều đều có biểu hiện tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ, có thể thành danh.

Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất là nữ mệnh gặp Thái âm thủ Mệnh ở cung Tị, thường thường nỗi đau khổ trong lòng suốt đời sẽ không thể quên

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tị thì chỉ được hư danh.

31- Thái Dương - can Giáp hóa thành sao Kị

Lúc Thái Dương và Thái Âm hóa Kị đều có biểu hiện tổn hại các mối quan hệ nhân tế. Thái Dương chủ về người thân phái nam, Thái Âm chủ về người thân phái nữ.

Ở một phương diện khác, do Thái Dương chủ về "quý", Thái Âm chủ về "phú". Cho nên Thái Dương hóa Kị sẽ gây ảnh hưởng đến địa vị, ví dụ như bất hòa với thượng cấp, bị thượng cấp đè ép. Thái Âm hóa Kị thì ảnh hưởng đến tài lộc, ví dụ như vì ly hôn mà tổn thất tiền của.

Về phương diện tổn hai nhân tế, biểu hiện cụ thể bao gồm: ly biệt, bệnh tật mà chết, thị phi, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau, kiện tụng,.v.v...

Về phương diện sự nghiệp, biểu hiện cụ thể là lo lắng mất ăn mất ngủ và tranh chấp.

Thái Dương ở cung lạc hãm rất ngại hóa thành sao Kị, lúc miếu vượng thì có tốt hơn. Lấy bất lợi về Cha để làm ví dụ, miếu vượng thì có thể là "sinh ly", lạc hãm thì có thể chuyển thành "tử biệt", hoặc có hai dòng Họ (vì cha mất, mẹ có chồng khác).

Do Thái Dương chủ về "quý", cho nên lúc Hóa Kị còn chủ về danh dự bị tổn hại. Theo quan điểm của cổ nhân, phụ nữ lấy "trinh liệt" làm danh dự, cho nên Thái Dương hóa Kị thường chủ về bị lừa dối về tình cảm, hoặc bị kẻ cường bạo cưỡng hiếp.

Thái Dương cũng đại biểu cho sức khỏe của bản thân, khi Hóa Kị thì sức khỏe không tốt, cần xem xét các tổ hợp tinh hệ mà định tính chất cụ thể.

Thái Dương hóa Kị ở bản cung là cung độ ít gặp tai nạn nhất, chỉ chủ về dễ bị người ta áp chế làm cho tâm tình không vui. Nam mệnh cần lưu ý đại hạn thứ hai, dễ mang lại họa hoạn nhỏ, về sức khỏe nên phòng bệnh tim mạch và bệnh về mắt.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tý là lạc hãm, hóa Kị có tính chất không tốt, nên giấu bớt tài năng, chọn sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ nên tự ngầm tu dưỡng (như tự bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển nghề). Về sức khỏe nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề phòng bệnh phủ tạng.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương hóa Kị thì đời người lên xuống vô thường, tuổi trẻ ít có duyên với Cha, ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại có Đà La đồng độ, dễ biến thành tiêu cực, hoặc chần trừ lần nữa mà làm mất cơ hội. Nếu cung Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà thành ỷ lại.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Dần, có Lộc tồn đồng cung, lúc Thái Dương hóa Kị chủ về đời người gặp nhiều điều tiếng thị phi, thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", cũng là Đạo "xu cát tị hung" vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định, hơn nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha mẹ.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên lương" ở cung Mão, có Kình dương đồng độ, lúc Thái Dương hóa Kị là "biến cảnh", chủ về tuổi trẻ phải trải qua gian nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn không có duyên với cha mẹ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp "biến cảnh" lại có lợi về cạnh tranh, có thể thắng lợi vào lúc cuối.

Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung Thìn, là rơi vào "Thiên la Địa võng", chủ về có khoảng ngăn cách giữa hai đời rất sau nặng, mà mệnh tạo còn phải tự lập không được Cha Mẹ che trở. Lúc trẻ còn gặp thêm Văn xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường thường chủ về bỏ dở việc học hành.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tị, gặp Đà la, cũng chủ về dùng "lời nói để kiếm tiền".

Thái Dương hóa Kị ở cung Ngọ, bất lợi đối với Cha, phần nhiều là "sinh ly" hay "tử biệt", còn khó được cấp trên tin tưởng đề bạt. Ngoài ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm. Sự nghiệp lớn lao nhưng trống rỗng. Theo đạo "tìm cát tránh hung" là phải phát triển một cách thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn hoặc lưu niên có Thái Dương song hóa Kị, thường dễ bị thất bại. Về sức khỏe thì nên đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc nghẽn mạch máu (vascular thrombosis), trúng phong.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Mùi, có Kình dương Đà la giao hội, mà Thái âm lạc hãm còn Thái Dương thì lại hóa Kị, kết cấu này ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh Linh tinh thì dễ bị cha mẹ bỏ rơi. Nữ mệnh chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh không đủ tháng, vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kị ở cung này, còn chủ về quan hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Thân, có Lộc tồn vây chiếu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về hôn nhân bất lợi, cũng bất lợi về đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây phiền lụy, nên kết hôn với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện sự nghiệp có oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền" cũng gặp nhiều thị phi rắc rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang tính cộng đồng xã hội.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về rất chủ quan và thiếu nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải, cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc rối rất phiền phức. Theo đạo "tìm cát tránh hung" thì nên theo nghiên cứu học thuật đối với bộ môn ít được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể thuận lợi toại ý hơn.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể "sinh ly" hay "tử biệt" với cha, đường đời nhiều gập gềnh, thường hay bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh về mắt.

Thái Dương hóa Kị ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước 30 tuổi cuộc đời nhiều chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường thường có thể tay trắng làm lên. Về sức khỏe dễ mắc bệnh ở mắt và ở khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy chồng trong giới kinh doanh làm ăn, nếu không chồng dễ thay đổi tình cảm.

32- Thái Âm - can ẤT hóa thành sao Kị

Thái Âm hóa Kị, ý nghĩa phổ biến nhất là bất lợi đối với người thân phái nữ, nhất là ở cung vị lạc hãm thì càng đúng.

Nói "bất lợi" ở đây, không nhất định là bệnh tật hay tử vong, có lúc chỉ biểu hiện là thiếu duyên phận với nhau, hai bên khó thông cảm cho nhau, hoặc vì hoàn cảnh khách quan mà hai bên ít có cơ hội gặp nhau. Cần phải xem xét kỹ các sao Sát - Hình - Kị hội hợp thực tế mà định.

Gặp Thái Âm hóa Kị, cũng biểu trưng cho tình huống rắc rối về tình cảm, thường chủ về trong lòng có ẩn tình khó sử. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, Văn xương, Văn khúc, thì đây là điềm tượng tình yêu không bình thường, nam mệnh phần nhiều chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái".

Thái Âm hóa Kị ở cung miếu vượng, thì ảnh hưởng đến tình hình lợi lộc, thường thường biểu hiện là trong đời người có một thời kỳ cảm thấy mình rất có tài mà không gặp thời. Nếu Thái âm hóa Kị ở cung lạc hãm, thì đây là điềm tượng không tốt; trái lại, sẽ ưa gặp Sát tinh "kích thích", chủ về có thể theo ngành công nghệ. Cổ nhân gọi là "thợ", nhưng ở thời hiện đại, cũng chủ về những ngành khoa học kỹ thuật.

Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với nữ mệnh thì rất ưa trang điểm, chải chuốt, làm đẹp, nhưng tính cách điệu nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta phê bình cách thức trang điểm của bản thân đương số.

Đối với nam mệnh thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt, nhưng lại thiếu duyên phận. Về hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ người giới thiệu, và nên kết hôn muộn, nếu không sẽ chủ về duyên phận không đủ.

Khi gặp hoặc Văn xương, hoặc Văn khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng có chút thanh danh.

Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát Hình nặng, thì có thể bị mù.

Thái Âm hóa Kị ở cung Sửu, là Thái âm và Thái dương đồng cung. Vì Thái Âm hóa Kị nên gây lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả khổ lụy, và không có duyên với cha mẹ.

Cuộc đời và sự nghiệp có tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà nghề thường thường cũng là loại "lao tâm tổn thần", cũng chủ về có lúc cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần làm việc, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

Thái Âm hóa Kị ở cung Dần, là "Thiên cơ Thái âm" đồng độ với Đà la, Thiên cơ đồng thời hóa Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình hình tiền bạc trong tương lai khá nghiêm trọng. Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kị ở cung Mão, khá bất lợi về hôn nhân, tình hình dễ xuất hiện nhất là vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất là đối với nữ mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều sự nghiệp chìm nổi thất thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất bại.

Thái Âm rất ngại hóa Kị ở cung Thìn, hội Sát tinh, cần phải rời xa quê hương để phát triển, nếu ở bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu có các sao Sát - Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương có thể làm những ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề về khoa học kỹ thuật. Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết hôn muộn.

Thái Âm hóa Kị ở cung Tị, cũng nên chủ động rời khỏi quê hương để phát triển. Cung Di là Thiên cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách "Lộc Mã giao trì", nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.

Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tị này đều bất lợi đối với người thân phái nữ. Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt đẹp, thường thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.

Tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kị, cần phải xem xét tình hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, sẽ chủ về rời xa quê hương, hoặc chủ về "song trùng phụ mẫu".

Thái Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự nghiệp, chủ về có biên độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm những công việc có tính thiết thực, cũng chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái" như Thái Âm hóa Kị ở cung Tý.

"Thái Âm đồng cung với Thái Dương" ở cung Mùi, mà Thái Âm hóa Kị, còn Thái dương cũng bắt đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối với cha mẹ, bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh quá nặng, cũng chủ về Mẹ sống cảnh góa bụa.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, thường thường đều có tính bên ngoài thì "cương" mà bên trong thì "nhu", cho nên phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và tình cảm (ngược lại: ngoại nhu nội cương?).

"Thái âm Thiên cơ" đồng độ ở cung Thân, mà Thái Âm hóa Kị, cũng có tình hình "cọp mà ăn thức ăn của mèo". Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên Cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kị ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường chủ về làm "nhị phòng" hay "kế thất", nếu không khó có thể sống với nhau đến bạc đầu. Đối với nam mệnh chủ về lang bạt tha hương rồi mới tay trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về "danh" lớn hơn "lợi", mức độ thu nhập tăng theo địa vị xã hội, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ được phái nữ yêu thích, nên cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm, do vậy lãng phí rất nhiều thời gian của đời người.

Thái Âm hóa Kị ở cung Tuất, không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn đối cung là ánh sáng đang hiển lộ, Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu mỹ. Nên Thái Âm hóa Kị chỉ chủ về thiếu phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại biểu trưng cho "tay trắng làm nên".

Thái Âm rất ưa hóa Kị ở cung Hợi, là "biến cảnh". Thái Âm lúc này tỏa sáng, khi Hóa Kị chỉ chủ về đời người phải trải qua một giai đoạn đau khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.

Nhưng "tam phương tứ chính" có các sao hội hợp phần nhiều có tính "lưu động", cho nên bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp rắc rối khó xử về tình cảm, thường vì có khuynh hướng yêu đương lãng mạn (nên gia đình khó tránh khỏi sứt mẻ hay đổ vỡ).

33- Liêm Trinh - can Bính hóa thành sao Kị

Trong Đẩu Số, Liêm Trinh hóa thành sao Kị là sao có sức ảnh hưởng khá lớn, tính chất khi hóa Kị cũng khá phức tạp.

Liêm Trinh hóa Kị, chủ về biểu trưng cho tình cảm trắc trở, bao gồm tình cảm đối với lục thân và tình cảm nam nữ. Hơn nữa, nói "trắc trở" là do Liêm Trinh khi hóa Kị thường có tính chất ảnh hưởng lâu dài và không gì hóa giải được.

Đồng thời, Liêm Trinh hóa Kị còn biểu trưng cho tâm trạng "đau buồn", nếu gặp các sao "khoa văn" thì đây là nỗi đau buồn có tính văn hóa tư tưởng, thường diễn hóa ở mức độ thâm sâu. Nhưng lúc có Sát tinh cùng bay đến, thì trở thành là không đắc ý về tư tưởng nhân sinh.

Do tính chất diễn hóa đã thuật ở trên, nên Liêm trinh hóa Kị còn là điềm tượng bị lừa dối, đặc biệt là khi bị "lục thân lừa dối", cho nên nói Liêm Trinh hóa Kị biểu trưng cho tình cảm trắc trở. Trong đó tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị thì chủ về tình cảm trắc trở càng lớn. Lúc gặp thêm các sao Sát - Hình tụ tập, có thể có khuynh hướng tự sát.

Mở rộng tính chất về tình cảm trắc trở, lại thường bị "làm ơn mắc oán", hoặc do bản thân không tự lượng sức mình khiến cho lòng tự tôn bị tổn thương.

Một tính chất quan trong khác của Liêm Trinh hóa Kị là: bệnh tật có liên quan đến máu, còn chủ về vì tai nạn bất ngờ hay do phẫu thuật mà gây ra chảy máu. Ở nữ mệnh là biểu trưng vào lúc mang thai hoặc vào lúc sinh con. Ở cung Tật Ách thì biểu trưng cho bệnh về máu hoặc bệnh về tính dục.

"Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị, đồng độ với Kình dương, hoặc hội với Kình Dương Đà la, đối cung là Phá Quân, tam phương tương hội với "Tử vi Thiên phủ" và Vũ khúc độc tọa.

Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người ta kiềm chế, tuyệt đối không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có Hỏa tinh đồng độ, chủ về tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên hợp tác với người khác.

Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái là, không những có thể kiếm tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành, không thể quá gấp cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá tính "tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì tính "tự ái" không đúng lúc đúng chỗ, mà biến thành "hợp lực" đạp đổ kết quả thành tựu đã đạt được.

"Liêm trinh Thất sát" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam phương hội hợp với "Tử vi Tham lang" và "Vũ khúc Phá quân".

Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở cung Mùi không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn, đời người khá thuận lợi toại ý.

Cũng do Liêm Trinh hóa Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở hai cung độ này không thích hợp theo võ nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc. Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời người gặp nhiều gian khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.

Tinh hệ này cũng chủ về tính "giao du thù tạc", thường chịu lãng phí tiêu tiền và lãng phí thời gian về phương diện này, nhưng sự lãng phí này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều tốn tiền chỉ do ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là đặc điểm của tinh hệ này.

Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình dương hoặc Đà la, tứ chính là Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp là "Vũ khúc Thiên phủ" và "Tử vi Thiên tướng".

Do Liêm Trinh hóa Kị, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên".

Tinh hệ của bản cung có sắc thái "ưu uất", nhưng trưng diện khá sa hoa, thường ứng xử vui vẻ lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người phối ngẫu oán trách.

Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản thân mệnh tạo, trong cuộc đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có duyên là đặc điểm của tinh hệ này.

"Liêm trinh Phá quân" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Tử vi Thất sát" và "Vũ khúc Tham lang".

Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng hơn ở cung Dậu. Cho nên đạo "tìm cát tránh hung" là phải xem xét Lưu niên để tiến thoái hợp thời cơ.

"Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề phòng sự cố giao thông, cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng xảy ra bất trắc. Xem xét các sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.

Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có một thời kỳ tiền bạc qua tay rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh.

"Liêm trinh Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Đà La đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội với Tử vi độc tọa và "Vũ khúc Thiên tướng".

Liêm Trinh hóa Kị ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa Kị trong "Thiên là Địa võng" sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn giữ được sự cởi mở, tốt nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.

Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.

Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau, nên phần nhiều có ngoại tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.

"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội "Tử vi Phá quân" và "Vũ khúc Thất sát".

Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao "văn" nhuyễn hóa trở thành có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm, mệnh tạo thường lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.

Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài chính một cách hiệu quả, do đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái rồi ra bằng tay phải.

Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc thái bôn ba phiêu bạt nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời người quá nhiều sương gió, không ổn định.

34- Cự Môn - can Đinh hóa thành sao Kị

Cự Môn không ưa hóa thành sao Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi". Sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất này, khiến cho một đời người thêm nhiều rắc rối trắc trở.

Cự Môn sau khi Hóa Kị, cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra rắc rối phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự Môn hóa Kị tại Mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê có hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiêu sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không như lý tưởng hằng mong ước. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự toàn mỹ, vì vậy sinh ra sự thất vọng bất mãn. Hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển, thì mệnh tạo thường trong tình cảnh rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà la đồng độ, khuynh hướng này càng bộc lộ rõ hơn.

Cự Môn hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền.

Cự Môn hóa Kị trong tinh hệ này, có một đặc điểm là thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực "kích phát". Sự cố trắc trở đang trong quá trình phát triển thì bỗng nhiên ngưng lại, nhưng mỗi lần gặp trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. "Thấy hung nhưng thực ra là cát" là một đặc điểm của tinh hệ này.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm trở thành sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly.

Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại thành sức mạnh "kích phát".

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự môn hóa Kị thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Quyền. tham khảo ở đoạn thuật "Thiên đồng hóa Quyền".

"Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, tam phương mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" trong đó một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền.

Tinh hệ này thành cách "Tứ Hóa hội hợp", nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, cho nên không thích hợp với nữ mệnh đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với Cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp.

Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ có "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kị ắt Thiên cơ hóa Khoa. tham khảo ở mục "Thiên cơ hóa Khoa".

Cự Môn độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ gặp Lộc tồn), Thiên Đồng của đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội với Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa.

Cự Môn hóa Kị ở "Thiên la Địa võng" lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy hung mà thực ra là cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, rắc rối, thị phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh khỏi phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.

Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo lại ưa giải quyết khó khăn giúp cho người khác, nên sự nghiệp tuy ổn định có chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh.

Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.

Thông thường tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự môn hóa Kị ở cung Hợi càng nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi, sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng.

Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt lấy được chồng có sự nghiệp tốt. Bàng nhân thiên hạ nhìn bề ngoài đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng bên trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.

35- Thiên Cơ - can Mậu hóa thành sao Kị

Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.

Thiên Cơ có tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai lầm.

Thiên Cơ vốn có tính chất suy nghĩ, sau khi Hóa Kị thì biến thành lo toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra lo lắng. Vì vậy lúc Thiên Cơ hóa Kị ở cung Tật Ách, có đặc trưng mất ngủ, suy nhược thần kinh, "Can vị bất hòa", "Tâm Thận bất giao", tình hình nghiêm trọng là "trúng phong".

Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh đồng độ, đặc biệt dễ mắc bệnh mang tính thần kinh, như co dật thần kinh mặt, kinh phong,.v.v...

Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.

Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói xấu, bêu rếu, hai bên công kích lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh, nếu mệnh tạo "hao thần tổn khí" quyết đối phó, thì càng khiến sóng gió dễ nổi lên, tốt nhất nên "dĩ bất biến ứng vạn biến" thì tự nhiên sóng yên biển lặng.

Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình dương Đà la chiếu xạ, ở cung Ngọ thì đồng độ với Kình dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam phương tương hội với "Thiên đồng Thiên lương" và Thái Âm độc tọa hóa Quyền.

Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một sự cố đơn giản có thể biến thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất này, còn có thể mở rộng thành tình trạng "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.

Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho là "kinh sợ", hoặc bị uy hiếp, trong thương trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công kích lẫn nhau.

Lúc có các sao Sát - Hình cùng chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân bất toại, tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung Tý.

Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc tọa.

Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.

Liên quan đến sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.

Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh thì người phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với chồng.

"Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị thì Thái âm hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Quyền".

"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc tồn), tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái dương Thái âm" để nhập cung, trong đó Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ vốn đã có tính chất "phá phách", khi Thiên Cơ hóa Kị sẽ làm mạnh thêm tính chất "phá phách" này. Do đó chủ về không theo đuổi một ngành nghề nào chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy mình có tài mà không gặp thời.

Tinh hệ này còn chủ về trong quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ lời", mà thường thường bị thất thố vào những lúc quan trọng.

Do "Thiên cơ Cự môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi để kiếm tiền".

"Thiên cơ Thiên lương" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kị đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Thái âm" mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là "vô lực" (Cơ Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn sức lực để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái "rời xa người thân", "lưu lạc", "tính hiếu động trôi nổi", "do dự không quyết đoán", "xử sự sai lầm gây nên sóng gió trắc trở",.v.v...

Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa Kị, sẽ rất dễ vì quá "dự cảm" mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng đúng.

Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Cự môn", và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ này thường chủ về "cơ quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm bình thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài dự liệu của mọi người.

Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.

Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ với Thiên Cơ hóa Kị, thì nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".

36- Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.

37- Thiên Đồng - can Canh hóa Kị

Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là "tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.

Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.

Thiên Đồng còn là sao "tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về "tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các sao Sát - Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.

Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng "suy nhược thần kinh", cũng tức là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã nói.

"Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên lương", và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.

"Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.

Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị "trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".

Do có tinh hệ "Thái dương Thiên lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.

"Thiên đồng Thiên lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.

Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.

Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái âm Thiên cơ".

Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.

Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".

Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà la.

Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".

Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.

38- Văn Xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư,.v.v... đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kị, cần phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.

39- Vũ Khúc - can Nhâm hóa Kị

Vũ khúc là sao "tiền tài", lúc hóa thành sao Kị sẽ biểu trưng cho tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người khác mà phải ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà phải mở rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không dự toán được, khiến tiền bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa Kị.

Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo dài, hoặc tiến hành một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến tình hình chi tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham Lang, chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.

Vũ Khúc chủ về "quyết đoán", sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành "quyết liệt", có nghĩa là khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì thường quá cứng rắn, nên dễ bị trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân cho rằng đây là tinh hệ "không có lạc thú phòng the", ở thời hiện đại đây là điềm tượng hôn nhân đổ vỡ.

Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về phẫu thuật. Lúc hội hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội hợp với Tạp diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát - Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.

Do Vũ Khúc hóa Kị có đặc tính "quyết đoán", do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau răng.

Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị không cát tường.

"Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa Kị thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ - can Nhâm hóa Khoa.

"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc hóa Kị, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Phá quân" và "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền.

Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà "lực bất tòng tâm" (bao gồm cả năng lực tài chính), vì vậy xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại hỏng.

Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, v.v... thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kị, nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.

Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách "xu cát tị hung".

"Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kị, đối cung là Phá Quân, tam phương là "Liêm trinh Thiên phủ" mà Thiên phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa Quyền.

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều hội Sát tinh.

Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất bại.

Đạo "xu cát tị hung" là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến hành.

Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.

"Vũ khúc Thất sát" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc tồn), đối nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với "Liêm trinh Tham lang" và "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền.

Tính chất cơ bản của tinh hệ này là "cô độc và hình khắc", cho nên không thích hợp với nữ mệnh, chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ về không có hôn lễ chính thức.

Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đặc điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.

Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.

Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham Lang, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thiên tướng", và "Tử vi Thiên phủ" mà Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình dương Đà la hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.

Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền thức.

Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.

Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo đáp.

Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.

"Vũ khúc Phá quân" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thất sát" và "Tử vi Tham lang" mà Tử vi hóa Quyền.

Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có kết cục xấu.

Vũ Khúc hóa Kị ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung, thành cách "Kình Đà giáp Kị", tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh hoạn.

Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng "lực bất tòng tâm" và khuynh hướng lãng phí.

Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.

40- Tham Lang - can Quý hóa Kị

Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa thành sao Kị là "đoạt tình". Vì vậy, nhẹ thì không như lý tưởng, nặng thì cảm thấy trắc trở về tâm lý. Nhưng thông thường không bị tổn thất về vật chất.

Tham Lang hóa Kị mang lại bất lợi có tính chất khá ôn hòa, thường chỉ là tranh cãi ồn ào, hoặc tâm trạng không yên, tâm trạng không yên có lúc kéo dài, vì vậy mệnh tạo dễ đi tìm kiếm sự kích thích.

Tham Lang vốn đã có ý vị trang sức, trang hoàng, làm dáng, khi Tham Lang hóa Kị sẽ làm mất đi phép lịch sự, hoặc có phần "đức" không tốt. Có lúc, cũng là trang sức, trang hoàng, làm dáng không được như lý tưởng, không tìm ra được cách sửa sang cho hợp sở ý, ví dụ như thích sửa sang cho đẹp chỗ ở nhưng khi trang trí, trang hoàng bố cục nội thất, thì việc lại rối tung rất khó thỏa mãn theo ý tưởng của chính mình.

Lúc "giao tế thù tạc", ảnh hưởng của Tham Lang hóa Kị mang lại sẽ là tốn tiền một cách vô ích, dùng tiền chi phối "quan hệ thù tạc" mà không được ai để mắt đến, không được bạn bè chú ý, cũng không được người ta gọi là hào sảng.

Lúc có các sao đào hoa, hoặc các sao "khoa văn" đồng độ, Tham Lang hóa Kị là biểu trưng cho biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thường biểu hiện bản thân trong giao tế, nhưng không xảy ra sự cố có tính chất đào hoa.

Tham Lang hóa Kị cũng chủ về vất vả, có đặc tính "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", lòng ham muốn tạo dựng sự nghiệp cực nặng, thường không lo nghĩ quan tâm đến gia đình, còn ưa mở rộng kinh doanh nhiều phương diện, khiến càng vất vả khổ lụy, lúc thu hoạch kết quả thì lo lắng đến kết quả không được như ý tưởng ban đầu.

Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Tử vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kị ở hai cung này lại chủ về "tài nghệ", nhưng bất lợi về tình cảm. Nhất là nữ mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh hướng "ngó đứt mà lòng còn tơ vương", không thể dứt khoát được.

Trong 12 cung Tham Lang hóa Kị ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế đó, sự nghiệp và tiền bạc đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không được như lý tưởng mà thôi.

"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kị ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương tương hội với "Liêm trinh Phá quân" mà Phá quân hóa Lộc, và "Tử vi Thất sát".

Tham Lang hóa Kị ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì đáng ngại, chỉ chủ về đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy trong nghề nghiệp. Tuy vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.

Tham Lang hóa Kị độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp Lộc tồn), đối cung là Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kị ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cũng chủ về có tiền của bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình dương và Đà la, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng "bị lưu đầy", thời cổ đại khi "bị lưu đầy" còn bị săm đóng "dấu chữ" lên mặt, do đó ý vị mở rộng là "phá tướng" hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp tinh hệ này chủ về bị người có gia đình theo đuổi.

"Tử vi Tham lang" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Vũ khúc Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Liêm trinh Thất sát".

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tham Lang hóa Kị sẽ giảm bớt ý vị "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm tăng năng lực phát triển sự nghiệp. Khi gặp hóa Kị chỉ là không được như ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát triển chậm.

Tinh hệ này còn có sắc thái "tham việc" do đó thường kiêm nhiều nghề, hoặc có ý thích cùng một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng gian khổ trong đời người.

Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.

Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), đối cung là Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tinh hệ này ở cung Thìn thì "Lộc trùng điệp" có thể thành Cách. Ngoại trừ cách "Hỏa Tham" và "Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ năng của bản thân để tạo dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có "Lộc trùng điệp", nhưng cũng có thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả. Về phương diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường không lãng phí thời gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho sự nghiệp mà thường làm lỡ mất lương duyên.

"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi (ở cung Hợi có Đà la đồng độ, ở cung Tị có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Vũ khúc Thất sát".

Tham Lang hóa Kị ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường biểu trưng cho đau khổ về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành nỗi thống khổ trong nghệ thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều có tính xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có khuynh hướng mạo hiểm, dễ thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép "xu cát tị hung".

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Mơ thấy bánh chưng có điềm báo gì? –

Nhắc đến mỗi dịp tết thì chúng ta không thể không nhắc tới những chiếc bánh chưng. Những chiếc bánh đã trở thành những đồ vật không thể thiếu được trong mâm cơm của mỗi gia đình. Bánh trưng thường được làm từ gạo nếp, có nhân là đỗ xanh. Và điều khôn
Mơ thấy bánh chưng có điềm báo gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bánh chưng có điềm báo gì? –

Tướng người lưỡi dài –

Lưỡi là cơ quan vị giác nằm trong khoang miệng, dùng để nếm thức ăn và cũng là nơi phát ra âm thanh. Khi quan sát lưỡi, người ta có thể đoán biết được thế giới tinh thần và tình hình sức khỏe, trí tuệ, tính cách của cá nhân con người. Nếu lưỡi đầy đ
Tướng người lưỡi dài –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người lưỡi dài –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd