Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy rước tài lộc cho người mệnh Thủy –

Thủy là biểu tượng của nước, là yếu tố mạnh có khả năng hóa giải mọi bất lợi trong phong thủy bởi Thủy có thể cuốn trôi Thổ, diệt Hỏa, hoại Kim. Thủy khi bình thường mang đến nguồn sống tốt tươi, là sự hài hòa, nhưng khi dữ dội lại trở thành sức mạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hủy diệt.

Mạng Thủy gồm có các tuổi:  Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983. Hướng của người mệnh Thủy Hướng chính của mệnh Thủy là hướng Bắc, mệnh Thủy thuộc Đông tứ mệnh nên những hướng thuộc Đông tứ trạch như Đông Nam, Nam cũng là hướng tốt.

Ngoài ra hướng phân chia các phòng trong nhà như phòng ngủ, phòng khách, phòng bếp đều cần cát hướng, nên chọn cửa chính quay về những hướng này. Các phòng như phòng vệ sinh, chủ về sự ô uế thì chọn hướng xấu để xây dựng.

ngu-hanh-tuong-sinh-tuong-khac

Đối với mỗi phòng, ngoài việc tìm hướng và bài trí theo mệnh gia chủ, còn có những cấm kỵ và cách để làm cho sinh khí mạnh hơn riêng biệt mà gia chủ nào cũng cần làm không phụ thuộc mệnh.

Bài trí nhà cho người mệnh Thủy vốn không khó khăn như người mệnh Mộc, Hỏa, vì Thủy bản thân mang nhiều yếu tố tốt đẹp về sức khỏe, về may mắn, về tài lộc, bạn không mất công kích hoạt thủy khí quá nhiều, nếu chẳng may bài trí nhầm thì cũng chỉ cần thêm vài yếu tố thuộc hành Thủy là có thể hóa giải.

1

Tuy nhiên, dễ mà khó vì không ai muốn tự mình tạo hung rồi phải đi hóa giải, và bài trí nhà cho người mệnh Thủy khó hơn ở điểm nếu không cẩn thận sẽ làm quá tay, đưa thủy khí trở nên quá dồi dào, át hết hỏa khí, mộc khí ở những cung thuộc hành Hỏa, hành Mộc, trôi hết may mắn, tài lộc trong nhà.

Màu sắc trang trí là yếu tố quan trọng trong ngôi nhà người mệnh Thủy

Tuân theo quy luật ngũ hành bạn có thể bài trí nhà cho người mệnh Thủy theo tương sinh, tương hợp. Nghĩa là những màu sắc thuộc hành Thủy, hành Mộc và hành Kim sẽ tốt cho người mệnh Thủy nhất.

Màu sắc chủ đạo của mệnh Thủy là các tông màu xanh, đen. Màu sắc của hành Kim là trắng, ánh kim. Không nên dùng màu nâu, vàng, đỏ thuộc hành Thổ và hành Hỏa.

2-9

Xanh thiên thanh ( xanh da trời) là màu tốt nhất, vì thế bạn nên sơn tường nhà, dùng rèm cửa, đồ dùng nội thất có tông màu này. Đây là tông màu rất dễ sử dụng bởi sự long lanh, nguy nga và nhẹ nhàng.

Màu xanh mang đến sự sáng khoải, thoải mái, thư giãn và tươi trẻ, tốt cho việc phát triển và mở rộng của cải.

Màu xanh thiên thanh trong phong thủy thích hợp với cung Gia Đạo và cung Tài Lộc. Yếu tố Thuỷ cũng phù hợp cho yếu tố Mộc, do đó, màu xanh thiên thanh thích hợp với các màu sơn cửa, các đồ trang trí nghệ thuật.

925-c03-1

Màu xanh da trời nhẹ là sự lựa chọn tuyệt vời cho công việc học hành, đặc biệt thích hợp làm màu cho trần nhà. Một số nghiên cứu cho thấy rằng trong phòng có trần sơn màu xanh da trời nhạt trẻ học tốt hơn là những trần nhà có màu trắng thông thường.

Màu xanh da trời trong phòng ngủ sẽ có một giấc ngủ yên bình và sâu hơn.

Màu xanh dương nhẹ nhàng đem lại sự năng động hoạt bát vào phòng khách.

Kết hợp màu xanh với màu trắng hoặc ánh kim (Kim) mang lại hiệu quả cao về thẩm mỹ và phong thủy vì vừa tương sinh, vừa tương hợp.

thuy2

Các tông màu xanh khác như xanh lá cây (Mộc), xanh biển đậm bạn có thể dùng để trang trí điểm xuyết trong nhà, bởi những màu như xanh lá, xanh biển nếu dùng toàn bộ sẽ gây nhức mắt.

Màu đen cũng thuộc hành Thủy, thể hiện sự huyền bí, đại diện cho năng lượng kỳ ảo, tinh tế. Màu đen mang lại sự sâu lắng, sức mạnh và sự phân định rõ ràng ranh giới cho không gian nhà bạn, nó cũng là màu đem lại sự an toàn, bảo vệ cho gia chủ.

thuy10

Sử dụng màu đen khó hơn màu xanh nhiều bởi nếu dùng quá nhiều sẽ gây cảm giác nặng nề. Hãy đưa màu này vào vật dụng và hoa văn trong nội thất. Tránh dùng màu đen ở hướng Nam ( hướng Hỏa), không dùng trong phòng trẻ nhỏ, không dùng nhiều ở phòng khách, phòng ăn. Bạn có thể dùng màu đen thông qua đồ nội thất, khung ảnh, khung kính trong nhà, sẽ rất có lợi cho sự nghiệp của bạn.

Chất liệu và hình dáng đồ vật

Bởi vì chủ nhà mệnh Thủy, nên các chất liệu kim loại, gỗ, thủy tinh rất phù hợp để sử dụng. Đồ vật nên dùng hình tròn, hình trụ, hình lượn sóng thuộc Kim, Mộc, Thủy, tránh những đồ vật hình nhọn thuộc Hỏa khắc Thủy.

Trong nhà luôn có cây xanh, treo chuông gió bằng kim loại hoặc các bước tượng bằng đồng, bằng gỗ.

925-c03-5

Tất cả những đồ vật hành Thủy vẫn thường được dùng để kích hoạt Thủy khí cho các gia đình khác như phong thủy luân, gương, bể cá, trần nhà lượn sóng, vách ngăn pha lê… đều có thể bài trí ở nhà của người mệnh Thủy.

Tuy nhiên bạn cần chú ý cân bằng các yếu tốt ngũ hành trong nhà, bởi vì như đã nói ở trên, nhiều nước quá sẽ cuốn trôi mọi thứ.

Nếu bạn thắc mắc rằng nhà bạn có người mệnh Thủy, người mệnh Mộc, người mệnh Hỏa cùng chung sống thì bạn lo ngại, kích hoạt tốt cho người mệnh này, lại thành không tốt cho người mệnh kia.

3

Thực tế khi chọn hướng nhà, và cách bài trí cho một căn nhà sẽ chọn mệnh của người đàn ông trụ cột, vì thế chỉ cần xác định chủ nhà mệnh gì là đủ.

Ngoài ra với mỗi cá nhân trong ngôi nhà chung đó, ở phòng nào thì cố gắng chọn hướng phòng theo mệnh của mình, bài trí phòng riêng theo mệnh, cũng như tuân theo một số nguyên tắc phong thủy cho từng trường hợp cụ thể.

Hãy tham khảo cách kích hoạt 8 cung tốt trong nhà bởi mỗi cung thuộc một hành khác nhau, trong đó không phụ thuộc vào gia chủ mệnh gì mà có có cách kích hoạt riêng.

Cách bài trí các vật phẩm, pháp khí phong thủy đem may mắn, tài lộc cũng nên được trưng bày tùy theo mục đích, bởi những vật phẩm này vốn không bị ảnh hưởng bởi yếu tố ngũ hành của gia chủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy rước tài lộc cho người mệnh Thủy –

Tam hợp-Tứ hành xung của Địa chi

1. THIÊN CAN LÀ CHÁNH NGŨ HÀNH. Thiên can: Giáp, Ất , Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tham khảo bảng tra Thiên Can, Địa Chi (phía dưới cùng). 2. Nói đến Tam Hợp , ta phải thận trọng, nhất là khi không đủ Tam Hợp thì nó sẽ phân ra làm 2 : Tiền Bán Tam Hợp, và hậu Bán Tam Hợp. Chúng lấy Địa Chi ở giữa làm ranh giới chia ra làm 2 vậy.
Tam hợp-Tứ hành xung của Địa chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Dần Ngọ Tuất: Khi không đủ thì chỉ có Dần Ngọ hợp, Ngọ Tuất hợp.
- Hợi Mẹo Mùi: Khi không đủ thì chỉ có Hợi Mẹo hợp, Mẹo Mùi hợp.
- Thân Tý Thìn: Khi không đủ thì chỉ có Thân Tý hợp, Tý Thìn hợp.
- Tị Dậu Sửu: Khi không đủ thì chỉ có Tị Dậu hợp, Dậu Sửu hợp.

Xin chớ lầm cả 3 lúc nào cũng hợp là mang họa. Cẩn thận.

3. Dù khắc dù sinh Địa chi cũng còn xét đến mạng. Ví dụ Canh Tý thuộc Thổ sinh Tân Hợi thuộc Kim (trường hợp này mạng sinh tốt). Và khắc cũng có trường hợp khắc tốt. Ví dụ 1 người A (hay nghiện rượu) khắc người B (dùng lời khuyên khéo léo). A hợp với B (trường hợp Lục Hợp) nên A nghe lời B từ đó bỏ rượu. Vậy thì hóa tốt.

4. Nên cẩn thận và tránh Lục Hại:
Mùi, Tý gặp nhau lắm họa tai
Ngọ cùng Sửu đối sợ không may
Tị, Dần tương hội thêm đau đớn
Thân, Hợi xuyên nhau thật đắng cay
Mão thấy Thìn kia càng khổ não
Dậu trông Tuất nọ lắm bi ai.

Hay tránh cặp đối Xung trực tiếp: Tý-Ngọ ; Mẹo-Dậu ; Dần-Thân ; Tị-Hợi ; Thìn-Tuất ; Sửu - Mùi.

Tam hợp là 1 liên kết chậm nhưng bền lâu. Ngoài Tam Hợp ra, trong khoa Trạch Cát, Phong Thủy, Tử Vi, Lý Số còn sự thuận hợp khác nữa:

LỤC HỢP: Tý+Sửu, Dần+Hợi, Mẹo+Tuất, Thìn+Dậu, Tị+Thân, Ngọ+Mùi.

Nói là Lục Hợp nhưng cũng còn phân ra làm 2 trường hợp nữa:

a/. Trong hợp có khắc: Là các trường hợp Tý+Sửu, Mẹo+Tuất, Tị+Thân. Vì sao ? Sửu Thổ khắc Tý Thủy, Mẹo Mộc khắc Tuất Thổ, Tị Hỏa khắc Thân Kim. Rơi vào trường hợp này, thường thì khắc khẩu, dễ bất đồng ý kiến.

b/. Trong hợp có sinh: Là các trường hợp còn lại kia. Vì lý do tương sinh của ngũ hành, tính như trên.

- Ngoài cái Địa Chi, người ta còn tính cái Thiên Can nữa. Có 10 Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Khi 10 Thiên Can phối với 12 Địa Chi được 60 trường hợp,  gọi là Lục Thập Hoa Giáp vậy.

Trong phạm vi bài này, NCD tôi chỉ xin nói qua về Ngũ Hợp của Thiên Can thôi. 10 thiên Can đó hợp hóa thành:

Giáp hợp với Kỷ hóa Thổ, Ất hợp với Canh hóa Kim, Bính hợp với Tân hóa Thủy, Đinh hợp với Nhâm hóa Mộc, Mậu hợp với Quý hóa Hỏa.

Các trường hợp chúng hóa thành 1 Ngũ hành khác chính là yếu tố rất quan trọng trong dự đoán Tứ Trụ (hay Bát Tự cũng thế), và trong Phong thủy cũng xài hợp hóa này. Trong Trạch Cát chọn ngày cũng cần nó, rất quan trọng. Và 1 điều mà NCD tôi muốn nói, rất quan trọng trong lĩnh vực bói toán, mà nhiều thầy bói cố tình đánh lạc hướng hay che giấu, đó là: THIÊN CAN LÀ CHÁNH NGŨ HÀNH.
Chính sự Sinh-Khắc của Thiên Can mới là yếu tố quan trọng, hơn cả Địa Chi. Sự sinh khắc này dựa trên Ngũ Hành của chúng:
Giáp-Ất thuộc Mộc, Bính-Đinh thuộc Hỏa, Mậu-Kỷ thuộc Thổ, Canh-Tân thuộc Kim, Nhâm-Quý thuộc Thủy. Và chúng vẫn Sinh -Khắc như Ngũ Hành bình thường vậy (là Mộc khắc Thổ, Hỏa khắc Kim, Kim sanh Thủy v.v..)

Nói đến Tứ hành Xung gần như ai cũng từng nghe qua ít nhất 1 lần trong đời nhưng mấy ai biết trong đó có nặng có nhẹ, có lúc lại không xung, có lúc lại hóa tốt ?

Tứ Hành Xung chia làm Thượng,Trung, Hạ.
Nặng nhất là Thượng, chính là trường hợp của Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu. Sự Xung khắc rất mạnh, trong đó cũng có chia ra thành từng cặp khắc nhau, chứ không phải khắc loạn xạ như nhiều người hiểu lầm đâu.
Tý-Dậu là 1 cặp, Ngọ-Mẹo là 1 cặp, đây là thuộc cách Địa Chi tương phá. Tý-Ngọ là 1 cặp, Mẹo-Dậu là 1 cặp, đây là cách Địa Chi tương xung rất nặng, nên cẩn thận.

Ngoài lề 1 tì, còn có trường hợp Dậu-Dậu, Ngọ-Ngọ là Địa Chi tương hình nữa. Sự Hình Xung của cách này nặng hơn do chúng là 4 trục chính đối xung nhau (Tý Khảm thủy, Ngọ Ly hỏa, Mẹo Chấn mộc, Dậu Đoài kim), các Ngũ Hành của chúng xung khắc với nhau rất quyết liệt vậy.

Cách Tứ Hành Xung hạng trung là của Dần, Thân, Tị, Hợi. Trong đó cũng phân ra thành cặp như trên : Dần-Thân- Tị-Hợi là trường hợp đối xung trực tiếp nên rất nặng.
Kế đến là Dần-Tị, Thân-Hợi, đây là cách Lục Hại. (Với trường hợp vợ chồng thường hay đau yếu, bệnh hoạn). Ngoài ra, còn lại Dần Hợi và Tị Thân đã là Lục Hợp ở trên rồi.

Cách thứ ba là gần như không xung, đó là Thìn-Tuất-Sửu-Mùi, vì sao ? vì chúng đều có chung Ngũ Hành là Thổ, mà Lưỡng Thổ Thành Sơn, nên chúng gần như không xung. Duy chỉ các cặp Đối Xung trực tiếp là nên tránh thôi: Thìn và Tuất, Sửu và Mùi.

Trong khoa này ngoài sự Xung khắc của Tứ Hành Xung, còn có Lục Hại:

Mùi, Tý gặp nhau lắm họa tai
Ngọ cùng Sửu đối sợ không may
Tị, Dần tương hội thêm đau đớn
Thân, Hợi xuyên nhau thật đắng cay
Mẹo thấy Thìn kia càng khổ não
Dậu trông Tuất nọ lắm bi ai.

Ngoài sự Xung khắc của Địa Chi thì còn 1 sự Xung Khắc có lực mạnh hơn nữa là sự Xung Khắc của Thiên Can. Ở đây, NCD tôi muốn nói đến sự Xung Khắc khác với cách Ngũ Hành của thiên Can, đó là Thiên Can tương phá:

Giáp phá Mậu, Ất phá Kỷ, Bính phá Canh, Đinh phá Tân, Mậu phá Nhâm, Kỷ phá Quý, Canh phá Giáp, Tân phá Ất, Nhâm phá Bính, Quý phá Đinh.
Cách dễ nhớ nhất là quý vị cứ đếm tới theo thứ tự, CAN THỨ 5 là Thiên Can tương phá, CAN THỨ 6 là Thiên Can tương hợp đã nói ở trên vậy. Quý vị để ý thử xem: Giáp là Dương Mộc, khắc Mậu là Dương Thổ, lại HẠP với Kỷ là Âm Thổ. Canh là Dương Kim khắc Giáp là Dương Mộc, nhưng HẠP với Ất là Âm Mộc vậy.

(Tổng hợp - Theo NCD)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam hợp-Tứ hành xung của Địa chi

Tướng bất túc –

Là không chuẩn mực, đồng đều nhìn thấy ngay như: 1. Đầu nhọn mỏng: (Hóp) là của người có tướng: Kém trí tuệ, không phúc (hiếm con). 2. Vai lệch là của người có tướng: Hành sử bất nhất (trước sau đổi khác) “nhất bên trọng nhất bên khinh”, thiếu công b
Tướng bất túc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng bất túc –

8 món đồ 'đáng đồng tiền' không thể thiếu trong phòng ngủ

Có những đồ gia dụng có thể tiết kiệm không mua nhưng nhất thiết phải có đệm, giường, ánh sáng êm ái,...để đưa bạn vào giấc ngủ say.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thảm trải sàn

Điều kinh khủng nhất khi đông đến là phải đi chân trần trên nền sàn nhà đá hoa lạnh toát. Một chiếc thảm trải sàn mềm mại sẽ nâng niu bàn chân của bạn, cũng như là điểm nhất cho căn phòng. Thảm trải sàn chất liệu lông vũ, hoặc len sẽ làm căn phòng thêm ấm áp hơn.

 8 mon do 'dang dong tien' khong the thieu trong phong ngu - 1

2. Gối ngủ

Theo các nhà thiết kế nội thất, tùy thuộc vào kích thước phòng ngủ thì số lượng gối từ 2-6 là đủ. Bạn có thể lựa chọn những chiếc gối vuông, dài với màu sắc đa dạng để khiến phòng ngủ bớt trống trải. Gối tròn lại giúp căn phòng trông mềm mại và bớt góc cạnh hơn.

3. Ghế ngồi

Ngoài giường nằm, phòng ngủ vẫn cần có một chiếc ghế thoải mái để thả mình. Bạn có thể ngồi đọc sách, uống trà hay ngồi ve vuốt những chú chó, chú mèo. Tổng thể căn phòng qua đó cũng bớt đơn điệu hơn.

4. Không đồ công nghệ

Những món đồ công nghệ ngày nay như điện thoại thông minh, máy vi tính hay TV nên để ra ngoài khỏi phòng ngủ. Theo các chuyên gia thì bức xạ điện từ do chúng phát ra ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của bạn và gia đình. Để đảm bảo giấc ngủ được trọn vẹn, bạn nên hạn chế tối đa việc sử dụng điện thoại hay xem TV trước khi đi ngủ. Nhà thiết kế Aurélien Gallet đã nói: “Thứ bạn tìm kiếm ở phòng ngủ chỉ là giấc ngủ, chứ không phải một chiếc di động”

5. Bộ sưu tập yêu thích

Bài trí một bộ sưu tập tí hon trong phòng ngủ, là một cách làm bạn yêu thích căn phòng này hơn, từ đó tạo tâm lý thoải mái, dễ chịu cho giấc ngủ. Bạn có thể dành một góc nhỏ trong phòng ngủ để trưng bày những thứ yêu thích, tuy nhiên không nên là quá nhiều. 

6. Kệ đầu giường

Kệ đầu giường không nên để trống không nhàm chán. Một lọ hoa tưới, chiếc đèn ngủ hay vài quyển sách sẽ tăng thêm sức sống và sự tinh tế cho căn phòng. 

 8 mon do 'dang dong tien' khong the thieu trong phong ngu - 2

7. Nệm

Quan trọng nhất trong phòng ngủ là chiếc nệm đem lại sự thoải mái nhất cho người sử dụng. Một chiếc nệm mềm mại vẫn là yếu tố quyết định tới chất lượng giấc ngủ của bạn. Ông Ron Rudzin, giám đốc công ty nệm nổi tiếng thế giới, khuyên các gia đình nên chọn một tấm nệm cao phụ thuộc vào khung giường của bạn. Để chọn một chiếc nệm hợp lý, bạn nên kiểm tra kĩ về chất liệu  của nệm như bông, cuộn thép, lò xo, bọt biển…Một chiếc đệm bền có  tuổi thọ từ 10-15 năm. 

8. Tranh ảnh

Bạn có thể treo bất kì bức ảnh đẹp nào cũng được trong phòng ngủ chứ không nhất thiết phải là ảnh của gia đình. Theo nghiên cứu, treo ảnh gia đình trong phòng ngủ sẽ có tác động mạnh mẽ tới cảm xúc của bạn theo cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thay vào đó, một bức tranh nghệ thuật sẽ làm căn phòng sáng sủa, thanh lịch hơn.

 8 mon do 'dang dong tien' khong the thieu trong phong ngu - 3
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 món đồ 'đáng đồng tiền' không thể thiếu trong phòng ngủ

Linh hồn - khoa học và tâm linh

Có linh hồn hay không? Câu hỏi này đã tồn tại rất lâu mà chưa có lời giải đáp chính xác. Nó thách thức cả giới nghiên cứu khoa học và giới tâm linh, mang đến
Linh hồn - khoa học và tâm linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

những câu chuyện kì bí, hấp dẫn nhưng không kém phần rùng rợn. 


Linh hon - khoa hoc va tam linh hinh anh
 
Theo các nhà nghiên cứu, phần lớn những người chết đi sống lại đều ít nhiều có những cảm nhận lạ lùng là thấy “hình như” họ đã thoát khỏi thân xác trong khoảng thời gian tương ứng với lúc họ mê man bất động. Điều đặc biệt là “họ thấy chính họ” đang nằm chết. Nhà nghiên cứu những hiện tượng huyền bí Joe West (Hoa Kỳ) năm 1991 cũng viết cuốn sách nói về những điều bí mật lạ kỳ đáng lưu ý ở nước Mỹ (Great American Mysteries) ông ghi nhận rằng: có đến hơn 3.000.000 người Mỹ đã trải qua những kinh nghiệm về sự rời lìa của chính họ ra khỏi thân xác họ trong những trường hợp khác nhau như tai nạn, bệnh tật, mổ xẻ… có người thấy rõ được mình, đã rời khỏi thể xác và đi khá xa đến những nơi mà khi mô tả lại đều trùng hợp với những gì kiểm chứng sau đó, từ thời gian, địa điểm, địa danh, sự việc xảy ra. v.v… Bác sĩ Eugene E. Barnard (giáo sư thuộc ngành Bệnh Học Tâm Thần (Psychiatry) Đại Học thuộc Bắc Carolina tin rằng: trung bình cứ 100 người trong chúng ta thì có một người đã có lần cảm nhận được điều đó.
 
Nhà Tâm bệnh học John Bjorkhelm đã khảo cứu hơn 3000 trường hợp về những hiện tượng lạ thường mà khoa học không giải thích được, những sự “xuất hồn” và chu du nhiều nơi của một số người. Trường hợp nổi bật nhất cũng là chứng cớ sôi nổi nhất là do chính văn hào Emest Hemingway kể lại trong lần bị thương nặng trong thế chiến thứ 2. Ông thấy rõ ràng chính mình đã thoát ra khỏi cơ thể, giống như như hình ảnh của việc lôi cái khăn tay ra khỏi túi áo, rồi sau đó ông thấy chính mình trở lại, nhập vào cái thân xác của chính mình lúc hồi tỉnh. Chính sự kiện này đã là nguyên nhân thúc đẩy ông viết cuốn: Giã Từ Vũ Khí (A Farewell to Arms). 
 
Năm 1991, Jim Hogshire cũng thu thập các sự kiện liên quan đến vần đề “hồn lìa khỏi xác”. Đề tài Out of body (rời khỏi thân xác) đã được nói nhiều trong cuốn Life after Death (Đời sống sau khi chết). Theo ông thì các nhân chứng thường là bác sĩ, y tá, bệnh nhân. Không chỉ chính bản thân người bị nạn thấy “hồn” mình thoát khỏi cơ thể vào lúc thiếp đi vì tai nạn, mổ xẻ… mà ngay những người đang ở kề cận họ lúc đó cũng có thể thấy được điều đó.
 
Cô y tá Linda ở Floria đã kể rằng chính mắt cô thấy rõ một khối mờ đục có dạng như sương khói thoát khỏi cơ thể một người bệnh đúng lúc người ấy tắt thở. Theo các bác sĩ và nhân viên làm việc ở các bệnh viện cấp cứu thì sự kiện vừa nêu không phải là chuyện lạ lùng. Bác sĩ Josef Issels, (bác sĩ nổi danh về khoa ung thư ở Đức) cho rằng: hiện tượng người chết “xuất hồn” là chuyện mới nghe qua có vẻ kỳ bí và phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y khoa cần phải lưu tâm. 
 
Có lần theo lời thuật lại của chính bác sĩ Josef Issels thì một hôm đang ở bệnh viện, ông vào phòng của một nữ bệnh nhân già, bà nhìn ông chăm chăm và nói: “Bác sĩ có biết rằng tôi có thể rời khỏi thân xác tôi không? Tôi sẽ cho bác sĩ một chứng cớ về vấn đề này”. Bác sĩ Josef lấy làm lạ chưa kịp trả lời thì bà lại nói: “Ngay tại đây và ngay bây giờ, bác sĩ hãy đến phòng số 12, tại đó sẽ thấy một người đàn bà đang ngồi viết thư cho con”, rồi bà ta còn mô tả hình dạng của người đàn bà đó và nội dung phần đầu của bức thư. Cho đây là một dịp thuận lợi lạ lùng cho mình, bác sĩ Josef Issels vội vã đến ngay phòng số 12, vừa lúc thấy người đàn bà ngồi viết thư. Bác sĩ Josef liền quay trở về phòng nữ bệnh nhân già thì bà đã chết. Theo bác sĩ Josef thì rõ ràng người bệnh này đã thấy được những gì ở phòng số 12 cách phòng bà khá xa là nhờ một năng lực nào đó. Nếu đúng như lời bà nói “tôi có thể rời khỏi thân xác tôi” thì có thể ngoài thể xác, bà còn có một thể xác nữa đã có thể rời khỏi bà đi tới đó. Cái thể mà người ta thường gọi là hồn ấy cò khả năng đi xuyên qua tường, cây cối hay xuyên qua người khác.
 
Nhà phân tâm học Hippolyte Baraduc đã tận mắt trông thấy một khối hơi thoát ra khỏi cơ thể người vợ ông khi bà này trút hơi thở cuối cùng. Ông Baraduc đã chụp được bức ảnh lạ lùng này.
 
Một trường hợp đặc biệt khác là ngay chính một bác sĩ (thuộc khoa tâm thần học và là giáo sư bác sĩ tại một trung tâm y khoa lớn kiêm bệnh viện thuộc đại học đường Virginia) trước đó cũng đã trở về từ cõi chết tường thuật lại những gì ông đã thấy qua một lần chết đi sống lại. Giáo sư bác sĩ George Richie, trước đây là một quân nhân bị bệnh sưng phổi nặng nên được chuyển vào một bệnh viện lớn chữa trị. Thời đó, thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng khó khăn, 90% bệnh nhân tử vong. Vì thế một thời gian ngắn khi được chuyển vào bệnh viện, bệnh tình của George Ritchie ngày càng trầm trọng và đã qua đời. Các bác sĩ ở bệnh viện xác nhận rằng George Ritchie đã chết nên người ta chuyển ông đến nhà xác. Người canh xác phát giác được người chết đã cựa quậy dưới tấm drap trắng. Khi tấm drap được kéo khỏi mặt Ritchie bác sĩ trực đã dùng 2 ngón tay lật mi mắt xác chết để quan sát, trong khi đó, cô y tá thấy rõ ràng các ngón tay của Ritchie cử động, và từ từ Ritchie mở mắt. Thế là George Ritchie, người quân nhân chết vì bệnh sưng phổi đã sống lại một cách kỳ lạ.
 
Bác sĩ Melvin Morse (bệnh viện ở Đức) tìm kiếm và phỏng vấn những đứa trẻ đã có lần tiếp cận với cái chết hay đã có lần chết đi sống lại. Điều kỳ lạ là nhiều trẻ nhỏ đã mô tả lại cả những hình ảnh mà lúc đó chúng đang trong tình trạng hôn mê. Như đã trông thấy các nhân viên bệnh viện làm việc ra sao, đẩy băng ca mà trẻ đang nằm bất tỉnh vào phòng mổ, rồi bác sĩ đặt ống thở vào mũi, rồi những cái máy hồi lực, đo nhịp tim. Tuy bé không hiểu gì nhưng mô tả khá sinh động và bác sĩ Melvin Morse đã cố gắng thành lập các nhóm khảo cứu gồm những nhà thần kinh học, những chuyên gia chuyên chữa trị bệnh thần kinh (psychiatrists), neurologists,… để tìm hiểu do đâu mà khi bất tỉnh mê man thường phát sinh ra những hình ảnh lạ lùng và thường hay trùng hợp, tương tự khi so sánh với những trường hợp như thế với người khác.

Sau một thời gian, một vài kết quả sơ khởi đã được nêu ra. Những nhà nghiên cứu này nhận thấy rằng: Thùy thái dương ở não bộ có vai trò quan trọng đối với hiện tượng vừa kể trên. Thùy thái dương (the temporal lobe) được xem như vùng có những mật mã di truyền về những gì gần gũi với cái chết. Khi bị kích thích điện não một thành viên trong nhóm đã kêu lên “Ôi chúa tôi! tôi đã rời thân xác tôi rồi!” Phải chăng trong thùy thái dương của não bộ có một vùng liên quan mẫn cảm với một thể mà ta gọi là linh hồn. Nhưng nguyên nhân nào đã gây lên tác động ở thùy này của bộ não? Tại sao khi hôn mê phần này sẽ được kích động để biết linh hồn tách khỏi thể xác và những hình ảnh ở cõi giới khác xuất hiện.

Linh hon - khoa hoc va tam linh hinh anh
 
Theo một số nhân chứng mà phần lớn là bác sĩ và y tá thì phần sương khói mà ta hay gọi là hồn, sau khi thoát ra khỏi cơ thể vẫn còn ở cách cơ thể một khoảng mà không rời hẳn. Điều kỳ lạ là sự xuất hiện của một dây sáng mờ giống như dải lụa nối liền người chết với phần mờ đục như khói sương.
 
Tuy nhiên, một số nhà khoa học không tin vào những gì mà chính cả những đồng nghiệp của mình đã kể lại về hiện tượng vừa nói. Bác sĩ Karl Osis, Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Tâm Thần ở Hoa Kỳ (người đã viết cuốn sách nói về những người chết trên giường bệnh và những hiện tượng quan sát được qua những cái chết ấy bởi các thầy thuốc và y tá - Deathbed Observations by Physicans and Nurses), mới đây đã cho biết là hai nhà nghiên cứu các hiện tượng liên quan đến cõi chết là W. F Barretl và bác sĩ J.H. Hyslop đã có những nhận xét thuộc hiện tượng ảo giác (Hallucinations). Những ảo giác về người chết thường bao gồm từ những cái nhìn mơ hồ của người sắp chết và cả người sống lúc nhìn sự vật, nhất là sự vật ấy đượm nét siêu linh huyền bí.

Thông thường, đối với những người đang sống, chẳng có gì khác lạ khi đối diện gặp gỡ nhau. Nhưng cũng là người quen biết ấy, gặp vào lúc họ sắp qua đời hay trút hơi hở cuối cùng thì rõ ràng giữa người sống và người chết đã có sự khác biệt hoàn toàn. Cái cảm giác ấy có ở hầu hết mọi người. Trong giờ phút đó, cái cảm giác sợ hãi, xa cách giữa sự sống và sự chết nảy nở rất nhanh và sự nhìn, sự nhận định sẽ phần nào chịu ảnh hưởng của những cảm giác vừa kể, được tăng cường đối với không khí huyền bí siêu linh của sự chết làm dễ phát sinh những nhận xét thuộc về hiện tượng ảo giác. Người yếu bóng vía có thể tưởng tượng ra nhiều hình ảnh phát sinh từ người chết.
Hiện tượng trông thấy linh hồn xuất ra từ thân xác người chết cũng thuộc vào một trong những ảo giác. Như thế, rõ ràng nhiều nhà khoa học đã cho rằng những gì mà nhiều người đã thấy, đã kể lại về sự kiện xuất hồn ở người mới lìa đời chỉ là hiện tượng ảo giác mà thôi. Ngược lại, những nhà khoa học đang nghiên cứu về hiện tượng xuất hồn hiện nay mặc dù chưa khẳng định hoàn toàn có hay không hiện tượng lìa khỏi xác nhưng họ cũng không đồng ý với lập luận về hiện tượng ảo giác mà một số nhà khoa học đã nêu ra. Theo họ, có thể sự nghi ngờ ấy chỉ là đặc tính của phần lớn các nhà khoa học mà thôi đó là đặc tính thận trọng. Trong thực tế, những trường hợp lạ lùng có tính cách siêu linh khó lý giải vẫn thưởng xảy ra và được thực rõ ràng.
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Linh hồn - khoa học và tâm linh

Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay - Xem bói - Xem Tử Vi

Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay, tu vi Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay

Trong xã hội, có rất nhiều chàng trai trong giai đoạn tìm hiểu, yêu đương tỏ ra rất mực tận tụy, không tiếc lời đường mật và hứa hẹn, làm xao xuyến trái tim của các cô gái. Tuy nhiên sau hôn nhân, họ lại thay đổi hoàn toàn, trở nên ngang tàng, gia trưởng. Bởi vậy, hãy thử tìm cách nhận diện những người đàn ông tốt bằng cách quan sát tướng tay của họ, biết đâu bạn sẽ có được một vài gợi ý.

1 – Đường tình cảm hoàn chỉnh và uốn cong

Đường tình cảm hoàn chỉnh và uốn cong là chỉ đường tình cảm không bị khiếm khuyết, có phần đuôi uốn cong lên trên, cho thấy người này tính tình hiền hòa, gần gũi và thân thiết với mọi người, rất coi trọng tình cảm, biết tôn trọng suy nghỉ của bạn đời, có thể chấp nhận một số sai sót nhỏ của đối phương, là người rất có tinh thần trách nhiệm, đồng thời biết quan tâm chăm sóc gia đình.

2 – Đường cổ tay sâu, dài và rõ ràng

Đường cổ tay sâu, dài và rõ ràng là chỉ đường cổ tay có hình dạng rất ngay ngắn, không xuất hiện bất cứ ký hiệu xấu nào, cho thấy người này suy nghỉ sáng suốt, xử lý công việc khá đàng hoàng, đĩnh đạc, có thể sắp xếp mọi việc chu đáo, ngăn nắp, biết tiến hành dần dần từng bước, về hôn nhân, tìm được người bạn đời có gia cảnh rất tốt, bản thân cũng rất biết chăm sóc, quan tâm tới bạn đời và gia đình.

3 – Vân mắt phượng trên đầu ngón tay cái

Vân mắt phượng trên đầu ngón tay cái là chỉ đường đốt ngón tay đầu tiên trên ngón cái xuất hiện hình tròn như mắt phượng, cho thấy người này có chủ kiến, biết lên kế hoạch cho cuộc đời của mình, cũng có thể sáng lập ra chân trời sự nghiệp cho bản thân. về cuộc sống hôn nhân, vợ chồng yêu thương nhau, cùng nhau giữ gìn gia đình hòa thuận, là mẫu người được mọi người ngưỡng mộ.

4 – Đường công danh kéo dài từ gò Nguyệt

Đường công danh kéo dài từ gò Nguyệt cho thấy người này biết suy nghĩ vấn đề từ góc độ của người khác, sẽ không tỏ ra quá tự tư tự lợi, có quan hệ giao tiếp tốt đẹp. về tình yêu, sẽ gặp được bạn đời có gia cảnh rất tốt, hai người quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Bản thân cũng biết chấp nhận hi sinh, có thể quan tâm chăm sóc bạn đời và giữ gìn gia đình hòa thuận.

5 – Vị trí gò trên bàn tay đầy đặn

Vị trí gò trên bàn tay đầy đặn là chỉ 3 vị trí gò đại diện cho phúc lộc thọ không bị bất kỳ tổn thương nào, hình dạng đầy đặn. tướng tay này cho thấy vận thế cuộc đời rất tốt đẹp, gia đình hòa thuận êm ấm, có nền tảng sự nghiệp nhất định. Về hôn nhân, có thể tìm được người bnạ đời tốt, hai bên vô cùng yêu thương nhau.

6 – Mười đầu ngón tay đều có vân xoắn ốc (Hoa tay)

Mười đầu ngón tay đều có hoa tay cho thấy là người rất coi trọng sự nghiệp, thường khao khát sớm tạo ra chân trời riêng cho mình, vô cùng chú trọng tới hiệu quả công việc, rất tận tâm, tận lực, chưa đạt được mục đích quyết không từ bỏ, thậm chí có lúc còn quyên cả nghỉ ngơi, làm tăng gánh nặng cho cơ thể. Song sự nghiệp lại thường gặt hái kết quả tốt đẹp nhờ vào sự nỗ lực không mệt mỏi.

7 – Đường công danh rõ nét

 Đường công danh rõ nét là chỉ phía dưới ngón áp út xuất hiện vân thẳng, rỏ ràng, cho thấy người này hào phóng cởi mở, lạc quan yêu đời, giỏi giao tiếp, có nhiều mối quan hệ tốt đẹp, sự nghiệp cũng phát triển thuận lợi. Dù có gặp nhiều gian nan trắc trở giữa đường, song cũng vẫn nhận được sự giúp đỡ của mọi người, do đó mọi vấn đề đều được giải quyết êm xuôi.

xem tuong dan ong, xem tay, xem ngon tay, xem ban tay, xem chi tay
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện người đàn ông tốt qua tướng tay - Xem bói - Xem Tử Vi

Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang...
Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 

2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 

3. Dái tai phẳng là người có phong cách của các nhà triết học.

4. Thềm thịt ở tai mỏng là người khiêm tốn.

5. Tai lớn là người nhiệt tình và tràn đầy năng lượng.

6. Tai nhỏ là người nhanh nhẹn và phản ứng mau lẹ trong mọi tình huống. Tuy nhiên, khả năng chịu áp lực của họ không cao.

7102013205310-2860-1411461396.jpg

7. Người có lông ở tai thích tự bảo vệ mình, ích kỷ và hay bỏ qua cảm xúc của người khác. 

8. Tai lớn, dái tai chảy xệ là người có cuộc sống giàu sang.

9. Tai nhiều lông là biểu tượng của sự trường thọ.

10. Tai cứng và hồng hào là người rất giàu có.

11. Màu sắc của tai trắng hơn mặt là người có tướng nổi tiếng.

12. Vành tai không rõ ràng là người thiếu chân thành.

13. Người có tai đậm màu, không tươi dễ mắc bệnh về tim.

Hạnh Yunnie (theo Meig)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Dần

Tử vi trọn đời người sinh ngày Bính Dần thấy quý nhân phù trợ suốt đời. Đường tình duyên của bản mệnh nếu phạm đào hoa, tất có tổn thất về tiền tài
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Bính Dần thấy quý nhân phù trợ suốt đời. Đường tình duyên của bản mệnh nếu phạm đào hoa, tất có tổn thất về tiền tài


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Binh Dan hinh anh
 
Ngày Bính Dần có khí Dương Cương, mọi điều xấu đều hóa tốt. Đường đời bản mệnh tất gặt Sửu Thổ, nên kết hợp Tân Dậu.
  Người sinh ngày Bính Dần yêu thích sự cô độc, phòng bị tâm lý rất lớn, vậy nên khiến người khác không dễ tiếp cận. Họ vốn là người thiện lương, không có tâm cơ, cố gắng tập trung vào công việc của bản thân.
Con không hiếu thuận với cha mẹ vì 7 lỗi phong thủy
Những người cha mẹ tốn nhiều tâm huyết để con cái có thể trưởng thành, tuy nhiên nhiều trường hợp những đứa con có hành vi không tốt với cha mẹ, là do lỗi

Bản mệnh nhận được quý nhân phù trợ từ tiền vận, vận thế hanh thông, gia đình an khang khỏe mạnh, đạt đươc tổ nghiệp. 
  Xem tử vi người sinh ngày Bính Dần thấy về đường tình duyên khi đã phạm đào hoa chắc chắn tổn thất về tiền tài. Nam mệnh cưới được vợ hiền, nhận được nhiều sự trợ giúp từ vợ, gia đình hòa hợp. Nữ mệnh thường đau khổ về tình.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Binh Dan hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Bính Dần thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Tuất, Bính Thìn, Bình Ngọ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Canh Tý, Canh Thân, Tân Dậu, Tân Hợi, Tân Mão, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Thìn, Quý Mão, Quý Hợi.
3 món đồ không được phép xuất hiện tại ban công
► Bói tử vi trọn đời của bạn chuẩn xác theo khoa học tử vi
Chi Nguyễn


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Dần

Luận cát hung trong phong thủy theo các trường phái khác nhau

Hiệu quả thực tế trải hàng ngàn năm và tính khách quan, tính qui luật với khả năng tiên tri của phương pháp phong thuỷ đã được tổng hợp thành một hệ thống lý
Luận cát hung trong phong thủy theo các trường phái khác nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiệu quả thực tế trải hàng ngàn năm và tính khách quan, tính qui luật với khả năng tiên tri của phương pháp phong thuỷ đã được tổng hợp thành một hệ thống lý thuyết và ứng dụng thực tiễn phong phú. 4 trường phái phong thủy phổ biến nhất hiện nay cho bạn đọc cái nhìn tổng quát về bộ môn khoa học tâm linh này.


► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Luan cat hung trong phong thuy theo cac truong phai khac nhau hinh anh
 
Bát trạch Trường phái phong thủy này lấy tuổi của gia chủ phối với tám hướng để định cát hung – tốt xấu giữa căn nhà với người ở trong nhà. Trường phái này quan niệm rằng chính hướng phía trước nhà và hướng sau nhà là những yếu tố căn bản quyết định phong thủy nhà ở
 
Dương trạch tam yếu Đây là trường phái phong thủy lấy bát quái là công cụ để biến quái trong việc phân phòng, buồng trong nhà, định cát hung, tốt xấu. Trường phái này quan niệm rằng chính hướng cửa, vị trí biến quái của phòng chính (Phòng chủ) và vị trí biến quái của bếp là yếu tố chính quyết định tốt xấu.
 
Loan đầu Trường phái phong thủy này lấy cảnh quan môi trường của căn hộ yếu tố căn bản để nhận xét luận đoán cát hung, tốt xấu. Cảnh quan môi trường cũng dựa trên phương vị la kinh, để phân tích, như đường nước chảy (Thủy Pháp), vị trí núi, sông, hồ cảnh quan ở phương vị khác nhau so với ngôi nhà sẽ có tác dụng khác nhau.
 
Huyền Không Trường phái phong thủy này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho ngôi nhà.   Ngoài những sách vở chính thống thể hiện phương pháp của 4 trường phái nói trên thì  còn được lưu truyền một số phương pháp phong thủy có tính bí truyền và chỉ truyền miệng trong dân gian, qua các giang hồ thuật sĩ như phương pháp trấn (Đè lên), yểm (Chôn),…

 

ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận cát hung trong phong thủy theo các trường phái khác nhau

Xem tướng nốt ruồi đại phú quý

Cùng giải mã ý nghĩa của những nốt ruồi trên ngực và cổ đem lại phú quý.
Xem tướng nốt ruồi đại phú quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi mọc ở giữa cổ (yết hầu)
Đây là nốt ruồi đại phú quý, mang lại nhiều tài lộc và may mắn cho chủ nhân. Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn không chỉ được nhiều quý nhân trợ giúp, mà còn nhanh chóng gặt hái thành công trong bất kỳ công việc nào.

Ngược lại, nốt ruồi nằm lệch vị trí yết hầu và gần phía vai lại là điều không may mắn, dễ mang đến vận xui.

2. Nốt ruồi mọc ở vị trí hai bên xương đòn
Đối với cả nam và nữ, nếu có nốt ruồi mọc ở vị trí xương đòn (hay còn gọi là xương quai xanh), đều là người chân thành, tốt tính, làm việc gì cũng cẩn trọng và ổn định. Hơn nữa, tính khí của họ rất hài hòa, dễ hòa đồng và được nhiều người yêu mến, tin tưởng.

3. Nốt ruồi mọc ở mặt trước hai vai (thuộc vùng ngực)
Trong Nhân tướng học, nốt ruồi tại vị trí này không được yêu thích bởi nó hàm ý vất vả về vật chất. Chủ nhân của nốt ruồi này cũng khó gặp suôn sẻ trong đời sống tinh thần vì phải suy nghĩ quá nhiều.

Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn có thể sẽ phải gồng gánh rất nhiều việc. Do vậy, lúc nào bạn cũng rơi vào trạng thái tất bật, khó nhọc. Tuy nhiên, đây không phải là nốt ruồi nghèo khổ. Khi nỗ lực và cố gắng hết mình, bạn sẽ sớm có cơ hội để thành công.

4. Nốt ruồi mọc ở phía trên bầu ngực
Nốt ruồi mọc ở phía trên và càng gần bầu ngực càng cho thấy tướng đại phú quý của người sở hữu nó.

Đây là vị trí nốt ruồi tốt nhất ở phần ngực của nữ giới. Bởi lẽ nó mang lại sự thuận lợi trong công danh, sự nghiệp và gia đình.

5. Nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực
Người xưa gọi nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực chính là “kho tiền tả hữu”. Nốt ruồi ở dưới bầu ngực bên trái ám chỉ bạn sẽ tích trữ được nhiều đất đai, nhà cửa về sau.

Nếu mọc ở dưới bầu ngực bên phải, bạn có tương lai trở thành “kho vàng, bạc” hoặc được thừa kế khối tài sản khổng lồ từ người đi trước.

6. Nốt ruồi mọc ở giữa hai khe ngực
Đây là nốt ruồi hiếm gặp. Những ai sở hữu nốt ruồi này hay tính toán mọi việc để có lợi cho bản thân nhiều nhất, bất chấp phải vượt qua khó khăn thế nào. Thậm chí, đôi khi họ quên cả mọi người xung quanh chỉ vì bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi đại phú quý

Mơ thấy giặt chiếc khăn tay bẩn: Căm ghét những việc không trong sạch đã làm –

Một cô gái trẻ kể lại giấc mơ của mình: Giờ nghỉ trưa, tôi vào phòng vệ sinh công ty để giặt chiếc khăn tay. Lạ thay, đã chà xát viên xà phòng qua lại nhiều lần, nhưng vẫn không thể làm sạch được nó. Nhìn lại đã gần hết giờ nghỉ... Tôi chỉ mang độc n
Mơ thấy giặt chiếc khăn tay bẩn: Căm ghét những việc không trong sạch đã làm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy giặt chiếc khăn tay bẩn: Căm ghét những việc không trong sạch đã làm –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Câu chuyện về người nông dân chăn cừu và anh thợ săn

Cuộc sống có nhiều lúc phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn giữa được mất. Nếu cứ cương quyết tiến lên để giành lấy phần hơn ta sẽ bị mất hơn là được
Câu chuyện về người nông dân chăn cừu và anh thợ săn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống rất nhiều lúc phải đối mặt với những mâu thuẫn, những sự lựa chọn khó khăn giữa được mất trong đời. Nếu cứ cương quyết tiến lên để giành lấy phần hơn có thể ta sẽ bị mất hơn là được đấy…

Không phải sự chọn lựa nào cũng đơn giản hay dễ chịu, nhất là những chọn lựa trong các mối quan hệ, bạn bè. Đa phần mỗi khi ta cần quyết định nên hay không nên tiến tới một mối quan hệ bạn bè với ai đó, việc đầu tiên ta nghĩ sẽ là “mình được những gì từ mối quan hệ đó?”.

Và tất nhiên như người xưa thường nói, nếu người ta đến với nhau vì điều gì thì trước sau người ta cũng xa nhau vì điều đó. Hãy thử xem câu chuyện dưới đây và cùng chiêm nghiệm về tình bạn cùng những được- mất trong đời nhé!

Một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm rằng hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời nói đó đã bị bỏ ngoài tai.

Một ngày nọ, đàn chó của người thợ săn lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng.

Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ báo quan. Vị quan chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói:

“Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì: Một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?”

Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan nghe vậy bèn phán:

“Được, vậy ta sẽ chỉ cho anh cách để vừa bảo vệ đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”.

sói và cừu
Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ có cơ hội quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa.

Về nhà, người nông dân liền làm theo những gì vị quan đã dạy. Anh ta bắt 3 con cừu khỏe nhất của mình đem tặng cho 3 cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui, suốt ngày cứ quấn quýt chơi với 3 con cừu.

Để bảo vệ những con vật giờ đây đã trở thành thú cưng mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi để nhốt đàn chó lại. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ có cơ hội quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa.

Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với các con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thực phẩm và phô-mai do mình làm ra. Và chỉ trong một thời gian ngắn, 2 người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.

Khi bỏ qua lòng thù hận, người nông dân rõ ràng là được nhiều hơn mất. Anh ta được đàn cừu khỏe mạnh, được sự yêu thương của những đứa trẻ, được một tình bạn láng giềng và những “tối lửa tắt đèn có nhau”.

Nhưng nếu khăng khăng với những kiện tụng ban đầu, hẳn anh sẽ không có được những điều anh đang sở hữu. Điều duy nhất anh ta có lúc đó, chính là lòng thù hận, và sự cô độc. Và chẳng ai muốn điều đó tồn tại trong cuộc đời mình cả. Chắc chắn là như vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện về người nông dân chăn cừu và anh thợ săn

Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Dậu –

Tuổi Dậu: Gồm có các tuổi sinh năm: 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 2005. Những người tuổi này nên chọn tranh gì để thu hút vận may cho mình. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết được người tuổi Dậu nên chọn tranh nào nhé! Tranh phong thủy hợp với ngườ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dậu: Gồm có các tuổi sinh năm: 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 2005. Những người tuổi này nên chọn tranh gì để thu hút vận may cho mình. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết được người tuổi Dậu nên chọn tranh nào nhé!

Nội dung

  • 1 Tranh phong thủy hợp với người tuổi Dậu
    • 1.1 Tranh phượng hoàng, bách điểu triều phụng
    • 1.2 Y nghĩa của tranh phong thủy
    • 1.3 Vị trí treo tranh

Tranh phong thủy hợp với người tuổi Dậu

tranh-phuong-hoang1

Tuổi Dậu khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:

Tranh phượng hoàng, bách điểu triều phụng

Tranh phượng hoàng, Bách điểu triều phụng, Tam dương khai thái, Trăm con sơn dương, phượng là con trống, hoàng là con mái, đôi chim vua của loài chim này thuộc linh điểu; hoặc các tranh hoa điểu, mẫu đơn; thuyền chở châu báu…

Y nghĩa của tranh phong thủy

Tam dương khai thái là mở ra vận hội mới, thái bình tốt đẹp; phượng hoàng song phi, bách điểu triều phụng là vợ chồng hoà thuận, sự nghiệp hanh thông, địa vị tôn quý, con cháu xum vầy hoà mục, đỗ đạt thành công…

Vị trí treo tranh

Treo phòng khách, vị trí trung tâm, treo ở nhà thờ họ, nhà trưởng họ hoặc vị trí trung tâm trong gia đình. Tốt nhất nên căn cứ ngũ hành bản mệnh và phong thuỷ cung lập mệnh để treo cho hợp vị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Dậu –

Khuôn mặt của đại gia có đặc điểm gì nổi trội

Chỉ cần sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách này, bạn đã có số trở thành đại gia giàu có.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Tướng mũi đầy đặn

Theo nhân tướng học, mũi là dấu hiệu nhận biết tài vận và quan vận của mỗi người. Khi đánh giá tài vận của ai đó, người ta thường nhìn tướng mũi đầu tiên.

Tướng mũi được coi là đẹp khi đầu mũi có thịt, cánh mũi phải đầy đặn và sống mũi khá cao. . Người có tướng mũi đẹp, cả đời dồi dào tài khí, cuộc sống vô cùng sung túc, không phải lo cái ăn cái mặc. Đây chính là tướng mặt đại gia thường thấy, tiền bạc họ kiếm được nhiều như nước nên phong cách sống cũng vô cùng phóng khoáng.

Ngược lại, nếu lỗ mũi bên to bên nhỏ hoặc cánh mũi hai bên to nhỏ bất nhất là dấu hiệu cho thấy bạn không có duyên trong những khoản kiếm thêm. Chính tài khá nhưng phụ tài kém, ít gặp may mắn về chuyện tiền bạc.

Khuon mat cua dai gia co dac diem gi noi troi hinh anh
Ảnh minh họa

2. Tướng thiên thương sáng

Trên khuôn mặt, thiên thương nằm ở vị trí đuôi lông mày và đuôi mắt. Tướng thiên thương tốt là phải dày mà bằng, khí sắc hồng hào, không khuyết hãm.

Thiên thương đầy đặn là dấu hiệu cho thấy người này có tâm sinh lí hoàn thiện, xử lí công việc một cách thận trọng. Ngoài ra, họ biết cách quản lí tài chính, chi tiêu theo kế hoạch rõ ràng nên điều kiện kinh tế bao giờ cũng từ khá trở lên.

3. Tướng cằm tròn dày

Tục ngữ có câu: “Thiên đình bão mãn, địa các phương viên” (ý chỉ đỉnh trán và cằm đầy đặn phúc hậu) để mô tả những người có tướng mạo tốt.

Trong nhân tướng học, cằm là nơi thể hiện khả năng thu nạp nhiều thứ, như tiền bạc hoặc phúc khí. Cằm càng tròn đầy, dày dặn càng chứng tỏ chủ nhân có khả năng tích trữ tiền tốt, hiếm khi tiêu xài hoang phí. Theo đó, người này cuộc sống an nhàn hưởng nhiều phúc lộc, hậu vận vô cùng tốt đẹp.

4. Tướng tai dày và đều đặn

Theo quan điểm nhân diện học, tai tượng trưng cho phúc khí và tài vận của con người. Người có tướng tai tốt thì vận mệnh cũng tốt đẹp và thường hưởng nhiều phúc khí.

Một cách đơn giản để nhận biết tướng tai dày dặn là khi sờ vào, tai hoặc dái tai phải dày, chắc nịch, tròn và có thịt mới. Chủ nhân của kiểu tai này luôn gặp may mắn về tài vận, đặc biệt là may mắn ở những khoản thu nhập ngoài luồng, ngoài công việc chính.

Theo Kiến thức

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuôn mặt của đại gia có đặc điểm gì nổi trội

Thi hài người nổi tiếng được chôn cất thế nào?

Sau khi qua đời, thi hài những người nổi tiếng sau đây được chôn cất ra sao, bí mật ấy chưa hẳn ai cũng biết. Nhân vật đầu tiên phải kể đến là Oliver Cromwell, một chính trị gia và sĩ quan nổi tiếng người Anh mất năm 1658. Ông được tổ chức tang lễ trang trọng theo nghi thức tang lễ cấp quốc gia và được an táng tại Westmister Abbey. Thi thể ông được ướp để chống phân hủy. Sau khi hoàng triều phục hồi, thi thể của ông đã bị đào lên và chặt đầu, phần thân bị ném tại địa điểm thi hành án tử hình đương thời. Thế kỷ 18, sọ của ông thậm chí còn trở thành vật sưu tầm, năm 1815 đã tiến hàng giám định đối với sọ của ông để xác định danh tính.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Charlie Chaplin diễn viên hài nổi tiếng thế giới, mất vào Giáng sinh năm 1977 tại Vevey hưởng thọ 88 tuổi. Ông được an táng tại nghĩa trang Vaud Kexi Ai-sur-Vevey. Ba tháng sau, thi hài của ông đã bị hai người nhập cư bất hợp phát từ Ba Lan và Bulgaria đánh cắp và cố gắng tống tiền luật sư của ông. Những kẻ đào mộ này đã bị bắt và 11 tuần sau, thi thể của Charlie Chaplin mới được tìm thấy ở gần hồ Geneva.

 


Evita là vợ của cựu tổng thống Argentina Juan Sebastian Veron. Tang lễ của bà được tổ chức vô cùng long trọng. Khi cuộc đảo chính quân sự ở Argentina nổi lên, các nhà cầm quyền mới đã bí mật di chuyển hài cốt của bà mà không ai biết nơi cất giấu. Năm 1957 dưới sự giúp đỡ của tòa thánh Vatican thi hài của bà mới âm thầm được chuyển đến Milan, Ý và chôn cất vô danh để tránh bị làm phiền.

Marie Curie sinh ra tại Ba Lan, là nhà khoa học đầu tiên được nhận hai giải Nobel nhưng lại là giải thưởng ở hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau đó là vật lý và hóa học. Bà đã cống hiến cả sinh mạng cho khoa học. Bà qua đời năm 1934 vì bệnh bạch cầu. Các bác sĩ cho biết, bà bị trúng độc Radi. Do bị bức xạ lâu dài, nội tạng của bà bị tổn thương nghiêm trọng.Thi hài của bà được mai táng tại ngoại ô Paris, bên cạnh tro cốt của chồng bà là Pie Curie.

Che Guevara nhà cách mạng nổi tiếng Cu Ba sinh tại Argentina. Năm 1967 ông bị tình báo Mỹ bắt và ra lệnh hành quyết tại Bolivia. Thi hài của ông được chôn cất tại một nơi bí mật trong suốt một thời gian dài. Năm 1955 một vị tướng Bolivia từng tham gia hành quyết đã tiết lộ Che Guevara được chôn tại gần một đường băng của sân bay. Hai năm sau, hài cốt của ông được khai quật và trang trọng đưa về Cu Ba chôn cất trong lễ kỉ niệm 30 năm ngày giỗ của ông.

Christopher Columbus là nhà hàng hải người Ý nổi tiếng đã chết trong một nhà trọ bình dân ở miền Bắc Tây Ban Nha. Trước khi mất, ông có nguyện vọng được an táng tại Châu Mỹ - vùng đất ông đã khám phá. Vào thời điểm đó tại Châu Mỹ không tìm được nhà thờ nào thích hợp nên ông đã được an táng tại Valladolid, Tây Ban Nha. Sau đó thi hài lại được chuyển đến Seville khi Tây Ban Nha cho tu tạo lại nghĩa trang.

Haile Selassie là vị hoàng đế cuối cùng của Ethiopia. Sau khi chết, thi thể của ông được chôn cất bên dưới một nhà vệ sinh trong cung điện, cho đến mãi năm 1992 mới được phát hiện.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thi hài người nổi tiếng được chôn cất thế nào?

Bảng đối chiếu thai tức

Duới đây là chi tiết về bảng đối chiếu thai tức.
Bảng đối chiếu thai tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảng đối chiếu thai tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Giáp

Kỷ

Sửu

Giáp

Tuất

Kỷ

Mão

Giáp

Thân

Kỷ

Tỵ

Giáp

Ngọ

Ất

Mùi

Giáp

Thìn

Ất

Dậu

Giáp

Dần

Ất

Hợi

Ất

Sửu

Canh

 Tý

Ất

Hợi

Canh

Dần

Ất

Dậu

Canh

Thìn

Ất

Mùi

Canh

Ngọ

Ất

Tỵ

Canh

Thân

Ất

Mão

Canh

Tuất

Bính

Dần

Tân

 Hợi

Bính

Tân

Sửu

Bính

Tuất

Tân

Mão

Bính

Thân

Tân

Tỵ

Bính

Ngọ

Tân

Mùi

Bính

Thìn

Tân

Dậu

Đinh

Mão

Nhâm

Tuất

Đinh

Sửu

Nhâm

Đinh

Hợi

Nhâm

Dần

Đinh

Dậu

Nhâm

Thìn

Đinh

Mùi

Nhâm

Ngọ

Đinh

 Tỵ

Nhâm

Thân

Mậu

Thìn

Quý

Dậu

Mậu

Dần

Quý

Hợi

Mậu

Quý

Sửu

Mậu

Tuất

Quý

Mão

Mậu

Thân

Quý

Tỵ

Mậu

Ngọ

Quý

Mùi

Kỷ

Tỵ

Giáp

Thân

Kỷ

Mão

 Giáp

Tuất

Kỷ

Sửu

Giáp

Kỷ

Hợi

Giáp

Dần

Kỷ

Dậu

Giáp

Thìn

Kỷ

Mùi

Giáp

 Ngọ

Canh

Ngọ

Ất

Mùi

Canh

Thìn

Ất

Dậu

Canh

Dần

Ất

Hợi

Canh

 Tý

Ất

Sửu

Canh

Tuất

Ất

Mão

Canh

Thân

Ất

 Tỵ

Tân

Mùi

Bính

Ngọ

Tân

Tỵ

Bính

Thân

Tân

Mão

Bính

Tuất

Tân

Sửu

Bính

Tân

Hợi

Bính

Dần

Tân

Dậu

Bính

Thìn

Nhâm

Thân

Đinh

Tỵ

Nhâm

Ngọ

Đinh

Mùi

Nhâm

Thìn

Đinh

Dậu

Nhâm

Dần

Đinh

Hợi

Nhâm

Đinh

Sửu

Nhâm

Tuất

Đinh

Mão

Quý

Dậu

Mậu

Thìn

Quý

Mùi

Mậu

Ngọ

Quý

Tỵ

Mậu

Thân

Quý

Mão

Mậu

Tuất

Quý

Sửu

Mậu

Quý

Hợi

Mậu

Dần

(Theo Tử bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng đối chiếu thai tức

Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tý, Sửu

Cha mẹ tuổi Tý, con cái tuổi Tý, Sửu, Tỵ, Hợi: gia đình hòa thuận, con cái hiếu thảo, có cơ hội phát triển tốt.
Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tý, Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Cha mẹ tuổi Tý

- Con tuổi Tý, Sửu, Tỵ, Hợi: Gia đình hòa thuận, con cái hiếu thảo, có cơ hội phát triển tốt.

- Con tuổi Tuất, Dậu: Con rất hiếu thuận với cha mẹ, song, đôi lúc vẫn xảy ra bất đồng quan điểm.

- Con tuổi Dần, Mão, Mùi, Thân, Thìn: Gia đình không thuận hòa lắm. Con có thể thoát ly sớm hoặc tự cho mình là tài giỏi mà không tôn trọng ý kiến người lớn khiến cha mẹ phiền lòng. Trường hợp khác, cha mẹ quá nuông chiều con cái làm con hư hỏng, hay cãi lại cha mẹ.

Moi quan he giua con cai va cha me tuoi Ty, Suu hinh anh
Cha mẹ tuổi Tý hợp với con cái tuổi Tý, Sửu, Tỵ, Hợi hơn so với những tuổi khác

2. Cha mẹ tuổi Sửu

- Con tuổi Tỵ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi: Gia đình hòa thuận, con cái hiếu thảo, biết giúp đỡ cha mẹ. Tuy nhiên, gia đình vẫn có những bất đồng nhỏ, ẩn sâu bên trong là một số mâu thuẫn khó giải quyết.

- Con tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Mùi: Quan hệ giữa cha mẹ và con cái không tốt. Con hay cãi lại cha mẹ hoặc đi thoát ly sớm, không muốn sống chung cùng cha mẹ. Gia đình ít khi có được không khí vui vẻ, đầm ấm.

Theo Đời người qua 12 con giáp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Tý, Sửu

Chùa Đồng Thiện - Hải Phòng

Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ cũng như tín ngưỡng của người dân Hải Phòng. Chùa Đồng Thiện có tên chữ là Hải Ninh tự
Chùa Đồng Thiện - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ cũng như tín ngưỡng của người dân Hải Phòng. Ngôi chùa được dựng lên từ tấm lòng thiện tâm của con người bởi lẽ cho đến nay chùa có tên “Đồng Thiện”. Chùa Đồng Thiện tọa lạc trên địa bàn phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi Ni sư Thích Diệu Tâm.

Chùa Đồng Thiện có tên chữ là Hải Ninh tự nằm ở phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, Hải Phòng. Theo văn bia ở chùa thì chùa Đông Thiện được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ này, do Hội đồng thiện đứng chủ hưng công. Công việc thiện tâm này của Hội đồng thiện được sự hưởng ứng của đông đảo tín đồ, thiện nam, tín nữ trong nước. Hội đồng thiện tỉnh Bắc Ninh đã quyên cúng cho việc làm tình nghĩa này cả một ngôi chùa khang trang đẹp đẽ.

Tên chùa Hải Ninh ra đời chính là để ghi nhớ về sự kiện thiện tâm đó của Hội đồng thiện Hải Phòng và Hội đồng thiện Bắc Ninh. Ngay từ buổi ấy chùa cũng được gọi là chùa Đồng Thiện với ý nghĩa là ngôi chùa được dựng nên từ tấm lòng thiện tâm của con người.

Kiến trúc với dáng bề thế, khang trang gồm nhiều tòa ngang dãy dọc, mặt quay hướng Đông Bắc. Chùa có hai lớp tam quan dọc theo đường “Thần đạo”, nối tam quan thứ nhất với tam quan thứ hai là một nhà thiêu hương và một hồ nước tròn, chu vi gần 400m. Kèm hai bên chùa là khu nghĩa trang rộng lớn, các mộ chí ở đây là cả một thế giới thu nhỏ của các loại hình kiến trúc cổ kim, đông tây, muôn sắc màu, san sát bên nhau yên bình và ấm cúng.

Bảo tháp trong Chùa Đồng Thiện
Bảo tháp trong Chùa Đồng Thiện

Nhà thiêu hương với kiến trúc một gian vuông vức, hai tầng tám mái chung quanh để thoáng không xây tường che, bốn bức dựng bốn cột tròn, kê trên chân tảng hình đôn đá, mái lợp ngói vẩy rồng rêu phong cổ kính, đao cong hình lá lật thâm thấp, thâm u. Thiêu hương là nơi quàn linh cữu của người xấu số, nơi các vị tăng ni chạy đàn cầu siêu thoát cho các sinh linh. Cả khối nhà là một thể thống nhất tượng trưng cho thái cực. Hai tầng tám mái là biểu tượng của lưỡng nghi (âm và dương). Ngôi nhà vuông tượng trưng cho tứ tượng, tám mái là biểu tượng của “bát quái”. Người xưa quan niệm rằng: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật hữu hình.

Trong chùa còn có hai cây bảo tháp, mỗi cây cao 1,4 mét, hình lục giác, cạnh đáy 0,2 mét gồm 5 tầng, ngăn cách giữa các tầng là một mái đao cong. Trên đỉnh tháp có hình nậm rượu và một con rồng quấn quanh. Hai cây bảo tháp có 60 bức họa mà tác giả là ông Vương Ái Việt, hội viên Hội đồng thiện Hải Phòng, năm 1926 ông đã cúng hai cây bảo tháp này cho nhà chùa.

Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa có giá trị thẩm mỹ cao, bình dị, không ồn ào, đã góp phần làm sáng tỏ thêm cái tính chất “Nhập thế gia trụ trì Phật pháp” của đạo Phật Việt Nam đậm tính nhân văn, đầy lòng nhân ái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Đồng Thiện - Hải Phòng

Những điều kiêng kỵ khi lợp mái nhà cần chú ý

Hiện nay, có nhiều vật liệu lợp mái khác nhau như: lợp ngói, lợp tôn… cho bạn lựa chọn phù hợp. Tuy nhiên, những điều kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà theo quan niệm của phong thủy vẫn được nhiều nhà thiết kế quan tâm và vận dụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Có rất nhiều kiểu mái nhà đang thịnh hành hiện nay như: mái nhà hình vòm, mái nhà bằng, mái nhà lượn sóng, mái nhọn… Mỗi kiểu mái đều có tác dụng riêng và cách phối hợp cũng như cách chọn nguyên vật liệu để xây dựng cũng khác nhau. Tùy vào điều kiện kinh tế gia đình để bạn chọn vật liệu lợp mái phù hợp. Khi tiến hành lợp mái, bạn cần chú ý những điểm sau:

Quy tắc “Nhất góc ao, nhì đao đình”

Quy tắc này có nghĩa là khi thiết kế mái nhà bạn cần phải tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, miếu hướng chính diện vào nhà. Vì khi nhà bạn mở cửa ra hướng góc mái sẽ dễ xảy va chạm khi di chuyển, gió lùa từ cạnh mái, cạnh tường thổi vào nhà của bạn

Ngoài ra bạn cần chú ý đến điểm góc mái. Nếu nhà của bạn mở cửa chính diện với góc mái hay góc mái chĩa vào nhà sẽ gây cảm giác bất an không tốt cho ngôi nhà của bạn.

Ngày nay, đối với nhà ở nông thôn, phần lớn mái nhà được thiết kế kiểu hình tam giác giúp cho nước mưa, bụi bẩn dễ tuột xuống không bị đọng trên nóc nhà. Tuy nhiên, nếu xét vè phong thủy thì kiểu mái nhà này lại không tốt cho những nhà lân cận.

Cấu tạo của lợp mái

Với nhà truyền thống thì phần mái nhà sẽ quay mặt dài về hướng Nam nên phần đỉnh mái nhà sẽ kéo từ Đông sang Tây. Ngoài ra, nên dùng cây xà gồ bọc vải đỏ ở hai đầu đặt ở đỉnh mái và treo tấm bùa bát quái ở giữa như cách thể hiện sự trân trọng của gia chủ đối với ngôi nhà của mình.

Ngày nay, những căn nhà thiết kế hiện đại phần lớn không sử dụng cây xà gồ đặt ở đỉnh nhà như trước mà có sự thay đổi đôi chút là đặt 2 cây xà gồ gần nhau trên đỉnh.

Nóc nhà thường được thiết kế theo hình tam giác và được thiết kế khe hở ở hai đầu có tác dụng thông gió và thoát khí tích tụ trong nhà ra ngoài. Vì vậy, nếu nhà bên cạnh có cửa đối diện với nóc nhà sẽ dễ làm tiền tài dễ bị hao tổn.

Cây đòn dông

Đối với mỗi căn nhà, cây đòn dông, đòn tay cũng đóng vai trò quan trọng của mái nhà. Theo phong thủy, đòn dông và đòn tay tuyệt đối không được chĩa sang nhà bên cạnh. Do đó, đối với nhà ở nói chung và nhà biệt thự nói riêng thì khi ngói lợp nhà phải dùng tấm thép tạo thành nẹp và bịt kín cây xà gồ để tránh làm ảnh hưởng đến những nhà xung quanh.

Màu sắc mái nhà

Hiện nay, chúng ta dễ dàng nhìn thấy những mái nhà có nhiều màu sắc khác nhau. Với mái tôn, bạn có thể sơn màu theo ý thích của mình, còn với nhà lợp ngói thì ngoài màu ngói đất nung truyền thống thì cũng có các loại ngói màu với nhiều màu sắc khác nhau cho bạn lựa chọn.


Nhưng nếu theo phong thủy thì nên kiêng kỵ sử dụng mái lợp màu xanh mà nên sử dụng màu đỏ hoặc màu nâu sẫm sẽ rất tốt giúp mang lại nhiều vượng khí cho ngôi nhà của bạn.

Nhìn chung, xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, nhằm giữ gìn cũng như cầu an lành cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp an toàn không đụng chạm đến xung quanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều kiêng kỵ khi lợp mái nhà cần chú ý

12 con giáp nữ nên lấy chồng tuổi nào?

Những cặp đôi hợp tuổi khi kết hợp với nhau sẽ giúp hôn nhân thuận hòa, làm ăn phát đạt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 con giáp nữ nên lấy chồng tuổi nào?

Tuổi Tý

Con gái tuổi Tý tính tình khôn khéo, lãng mạn, thường thích một cuộc sống ngọt ngào, đầy đủ cả vật chất lẫn tình cảm. Những tuổi hợp với tuổi Tý nhất là người tuổi Sửu, Thìn, Thân. Ngoài ra, nếu chịu được tính phiêu lưu, mạo hiểm của tuổi Dần thì có thể kết hợp, có thể sống dài lâu. Tuổi Tý cũng có thể kết đôi với tuổi Tuất và Hợi.

Tuổi Sửu

Là đại diện tiêu biểu của trường phái mẹ hiền vợ đảm, những cô gái tuổi Sửu có tính cách trầm ổn thật thà sẽ là chỗ dựa vững chắc cả đời không từ bỏ nghĩa vụ trách nhiệm với gia đình. Các anh chàng tuổi Dậu, Tỵ rất quan tâm đến vợ con sẽ tạo thành một cuộc hôn nhân tốt đẹp.

Ngoài ra, còn có thể kết hợp với tuổi Sửu và Thân cũng khá hạnh phúc, đủ đầy.

Tuổi Dần

Cô gái tuổi Dần khá cứng rắn, nhiều khi mạnh mẽ còn hơn cả các chàng trai. Tốt nhất nên lấy những anh chồng hiền lành như tuổi Hợi, Ngọ hay Tuất để họ còn nhường nhịn chiều theo ý bạn. Khi vợ chồng hòa thuận vui vẻ thì cuộc sống gia đình sẽ rất nhẹ nhàng hạnh phúc.

Ngoài ra, tuổi Dần có thể kết hợp với tuổi Mão. Tuổi Thìn cũng có thể chấp nhận, tuy nhiên sẽ có lúc thăng trầm.

Tuổi Mão

Người tuổi Mão hiền dịu, trời sinh có số vượng phu. Quý cô tuổi Mão tốt nhất nên được gả cho những chàng trai tuổi Mùi, Hợi và Tuất, sẽ rất tốt cho việc làm ăn của hai bên.

Ngoài ra, tuổi Mão có thể kết hợp với tuổi Tỵ, Thân, Ngọ. Tuy nhiên sẽ không được mĩ mãn như 3 tuổi Mùi, Hợi, Tuất.

Tuổi Thìn

Cô gái tuổi Thìn rất thông minh nhanh nhạy, có chủ kiến riêng. Hãy lấy những người biết thấu hiểu khôn khéo như tuổi Tỵ, tuổi Dậu thì sẽ rất có lợi cho việc phát triển sự nghiệp của cả hai. Một người phụ nữ tài giỏi cần có một người đàn ông biết cảm thông làm chỗ dựa họ mới có thể chứng tỏ được bản thân, tìm được chỗ đứng trong xã hội mà vẫn được gia đình ủng hộ.

Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa

Tuổi Tỵ

Cô gái tuổi Tỵ vừa nhiệt tình lại tinh tế, là những người trọng tình trọng nghĩa điển hình. Hãy lấy những người đàn ông có trách nhiệm như tuổi Sửu, Dậu để họ làm chỗ dựa vững chắc cho bạn nhé.

Ngoài ra, tuổi Tỵ có thể kết hợp với tuổi thìn, Thân, Tuất.

Tuổi Ngọ

Cô gái tuổi Ngọ tự do thoải mái có sức hấp dẫn mãnh liệt. Cô ấy luôn theo đuổi những thú vui kích thích nên đương nhiên chàng trai tuổi Hổ mạnh mẽ hoặc tuổi Tuất trầm ổn sẽ là sự hỗ trợ tốt nhất cho cuộc sống của cô nàng.

Tuổi Mùi

Cô gái tuổi Mùi là thục nữ duyên dáng điển hình, sức nhẫn nhịn và sự hy sinh ở cô nàng gần như là vô hạn. Những anh chàng tinh tế như tuổi Mão, hay thoải mái tự do như tuổi Ngọ, tuổi Hợi sẽ khiến cô nàng cầm tinh con Dê không bao giờ phải chịu sự thiệt thòi.

Ngoài ra, tuổi Mùi có thể kết hợp với tuổi Tỵ . Với tuổi Thìn, Tỵ cũng có thể kết hợp mặc dù không được tốt như những tuổi trên.

Tuổi Thân

Nhanh nhẹn thông minh, người đàn ông nào ở bên cạnh tuổi Thân cũng cảm thấy ấn tượng khó quên. Hãy ở bên những người đàn ông như tuổi Tý hay tuổi Thìn, hai người sẽ rất hợp nhau trong nhiều mặt đó.

Tuổi Dậu

Tuổi Dậu là cô gái cảm tính số một, khá nhiều anh chàng đắm đuối vì sự ngây thơ hồn nhiên của cô nàng. Hãy ở bên chàng trai thật thà như tuổi Sửu hay biết cách đối nhân xử thế khéo léo như tuổi Thìn để anh ấy làm chỗ dựa cho bạn nhé.

Ngoài ra, tuổi Dậu cũng có thể kết hợp tốt với các tuổi Mùi, Tỵ, Hợi.

Tuổi Tuất

Cô gái tuổi Tuất kiên cường đáng yêu, họ là sự lựa chọn số 1 với bất cứ ai. Hãy lấy một anh chàng tuổi Dần, tuổi Mão hay tuổi Ngọ nhé. Họ vững chắc về tài chính còn bạn lại giỏi quán xuyến việc nhà, quản lý tiền nong thì sẽ rất tốt phải không nào?

Tuổi Tuất có thể kết hợp với Tý, Hợi cũng khá tốt.

Tuổi Hợi

Tuổi Hợi luôn là người hồn nhiên vô tư, sự lạc quan của bạn đủ để đối mặt với mọi khó khăn. Ở bên người đàn ông tuổi Dần, tuổi Mão hay Mùi – những người có thể đánh giá đúng mức sự tươi vui của bạn, và coi đó là gia vị thêm vào cho cuộc sống thêm thú vị thoải mái.

Theo Phunutoday/ Khỏe & Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp nữ nên lấy chồng tuổi nào?

Bính Thìn mệnh gì –

Người sinh 1976, Bính Thìn, có Ngũ hành năm sinh là Sa Trung Thổ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung CÀN, hành KIM, hướng Tây Bắc, quái số 6, sao Lục Bạch, Tây tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Tây, Đông bắc, Tây Nam, Tây Bắc). Đeo đá màu Vàn
Bính Thìn mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bính Thìn mệnh gì –

Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng, gắn liền với những chuyến thám hiểm truy tìm kho báu bí ẩn nhất hành tinh.
Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thuyết, El Dorado là một thành phố ở Nam Mỹ được làm hoàn toàn bằng vàng. Có rất nhiều đoàn thám hiểm và cá nhân không màng hiểm nguy quyết truy tìm kho báu vô giá nhưng mất tích bí ẩn này.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Thanh pho vang va hanh trinh cua giac mo trieu do hinh anh
 
Truyền thuyết xuất hiện vào thế kỷ 16 và 17 cùng với sự phát triển của thế giới mới và không có nguồn gốc rõ ràng. Khi những nhà thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đặt chân lên thế giới mới, họ được người dân trong các bộ tộc khác kể về một vị vua ném thần dân của mình cùng đồ trang sức quý giá xuống hồ Guatavita để xoa dịu vị thần sống trong hồ. 
 
Đây là một truyền thuyết lâu đời và có nhiều dị bản được truyền miệng xung quanh thành phố huyền thoại được làm bằng vàng này. Dù những câu chuyện không hề logic nhưng nhiều người vẫn muốn tin rằng thành phố vàng thực sự tồn tại.
 
Người Tây Ban Nha cố gắng tát nước từ chính chiếc hồ đó và tìm thấy một ít vàng nhưng không thể tát cạn nước hồ để lấy được số vàng lớn được cho là nằm sâu dưới đáy nước.
 
Nhiều người mạo hiểm đi vào vùng hoang dã của Nam Mỹ để tìm kiếm thành phố này nhưng hầu hết các cuộc thám hiểm đều kết thúc trong bi kịch. Một nhà thám hiểm mất con trai của mình trong khi tìm kiếm thành phố El Dorado huyền thoại. Sau đó, do mặc cảm tội lỗi về cái chết của con trai, ông cũng tự sát.
 
Nhưng những bài học nhãn tiền đó không làm lung lay ý chí của những người muốn sở hữu kho báu khổng lồ này. Họ tin rằng, sẽ có cơ hội sống sót để tìm được sự giàu có vượt ra ngoài những giấc mơ ngông cuồng nhất, dựa vào một thành phố mất tích từ lâu.
 
Tuy nhiên, gần đây, những dấu vết khảo cổ mới được phát hiện, cho thấy giấc mơ El Dorado chưa chắc đã là viển vông. 3 nhà khoa học đã tiến gần tới việc chứng minh sự tồn tại của El Dorado. Tạp chí Antiquity vừa đăng bài viết của họ về việc phát hiện hơn 200 vết tích lớn của El Dorado tại khu vực lòng chảo Amazon, gần biên giới Brazil và Bolivia. 
 
Từ trên cao, trông các vết tích này như những đường kẻ địa lý được khắc vào mặt đất. Nhưng các nhà khoa học nói rằng những đường nét này là phần còn lại của các con đường, cây cầu, hào sâu, các đại lộ và quảng trường từng là nền tảng của một thành phố văn minh nằm trên một khu vực dài hơn 200km. Thành phố này có thể đã là nơi sinh sống của một cộng đồng dân cư khoảng 60.000 người và những tàn tích mới được phát hiện có niên đại từ năm 200 - 1283 sau Công nguyên. 
 
Đó là một phát hiện đáng kinh ngạc do lâu nay không ít người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của El Dorado. Và biết đâu, đây là bước ngoặt lớn, đánh dấu sự trở lại của những hành trình đi tìm giấc mơ vàng.
Theo Thế giới văn hóa tâm linh
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thành phố vàng và hành trình của giấc mơ triệu đô

Vận trình tử vi trọn đời Mậu Dần nam mang chi tiết

Mậu Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mậu Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1938, 1998 và 2058
Cung CẤN. Trực KHAI
Mạng THÀNH ĐẦU THỔ (đất trên thành)
Khắc THIÊN THƯỢNG THỦY
Con nhà HUỲNH ĐẾ (phú quý)
Xương CON CỌP
Tướng tinh CON THUỒNG LUỒNG

Phật độ mạng

Đoán xem số mạng tuổi này,
Mậu Dần mạng Thổ đất thành đền vua.
Số này trước vắn sau dài,
Anh em thân thích lạc ngoài phương xa.
Số sao có số quá chừng,
Duyên tình trắc trở lòng dòng đôi ba.
Tâm cơ tân khổ những là,
Bởi vì số mạng trở ra muộn màng.
Một thân toan tính trăm đường,
Đến khi vận giữa mới yên tấm lòng.
Tuổi sau mới được hưng long,
Cây già kết trái bông hồng tốt tươi.

xem bói tử vi tuổi Dần

CUỘC SỐNG

Cuộc sống nhiều lao đao, tuổi nhỏ không được nhiều may mắn lắm, đường công danh và sự nghiệp cũng thường hay lên bổng xuống trầm, cuộc đời không có được những số may, cam chịu cảnh ngang trái với cuộc đời, không bao giờ có sự lo nghĩ cho vẹn toàn. Tâm não hay xao động và có nhiều việc làm cho tâm trí nhiều lo buồn. Cuộc sống có nhiều chán nản vì hoàn cảnh không cho phép phát triển sự nghiệp công danh. Nên cần mẫn và kiên nhẫn mới có thể đoạt lấy sự vinh quang sau này.

Cuộc đời có thể tìm được một sự nghiệp vững vàng và từ tuổi 36 trở đi, sự nghiệp lúc đó mới vững vàng được.

Số tuổi Mậu Dần cũng có cơ hội phát triển mạnh mẽ về công danh, tài lộc và sự nghiệp nếu ăn ở hiền hòa, biết làm phước đức thì tuổi Mậu Dần hưởng thọ trung bình trên 60 tuổi,và có thể sống lâu hơn nữa theo sự tiền định của Tử Vi, vậy nếu cần có một cuộc sống lâu bền, bạn nên làm phước đức để được tăng thêm.

TÌNH DUYÊN

Trong vấn đề tình duyên, bạn cũng có thay đổi nhiều lần lắm. Số kiếp đối với tình duyên thường hay có nhiều đau khổ. Nên cẩn thận và sáng suốt hơn nữa trong vấn đề này. Bạn không nên có mặc cảm, hay những sự lo nghĩ quá nhiều, vì số kiếp, dù có tránh cũng không khi nào được cả. Cố gắng tạo lấy một hoàn cảnh thuận tiện để tạo lấy hạnh phúc, đừng buồn bực và chán nản trước một bối cảnh có liên quan rất nhiều đến cuộc đời.

Vậy thì bạn cần nên đọc kỹ dưới đây, để biết xem bạn trong cuộc đời có mấy lần thay đổi tình duyên: Sau đây là con số mà cuộc đời bạn sẽ phải thay đổi tùy theo tháng sanh của bạn. Nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, cuộc đời bạn sẽ có ba lần thay đổi lương duyên, đó là bạn sanh vào những tháng 5, 7 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này cuộc đời bạn sẽ hai lần thay đổi tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng Giêng, 3, 4, 6, 8 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì vấn đề tình duyên bạn được chung thủy và có nhiều hạnh phúc đó là sanh vào những tháng 2, 9, và 10 Âm lịch.

Tuy nhiên, theo số của tuổi Mậu Dần sẽ có nhiều thương đau về vấn đề tình duyên. Sự não lòng khổ sở về vấn đề này đối với tuổi Mậu Dần không phải ít. Vậy bạn nên nhớ lại xem bạn sanh vào những tháng nào để biết được đời mình đối với tình duyên còn có thay đổi nữa không.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Công danh của tuổi Mậu Dần không được nhiều triển vọng tốt đẹp, tuy vậy không phải chịu nhiều bi đát lắm vì công danh, tuy không lên cao, nhưng cũng không đến nỗi tệ lắm, chỉ có thể hãnh diện đôi chút với đời. Về gia đạo có phần bê bối thường xuyên, nên không được vui vẻ cho lắm, cuộc sống về gia đạo không được may mắn lắm, thường có mặc cảm. Tuy nhiên cuộc sống phải nhờ đến gia đình mới có thể phát triển được công danh.

Công danh hễ lên thì cao, hễ xuống thì rất là thấp, không có một mức trung bình cố định, nên có thể nói rằng công danh chỉ vào ở một mức độ bình thường.

Gia đạo bê bối thì công danh không đem lại những kết quả cho cuộc đời. Đời sống luôn luôn ăn liền và nối tiếp với vấn đề gia đạo, nên cẩn thận và sáng suốt, để cho công danh vượt lên cao. Nếu không, đường công danh chỉ là một bóng mờ của cuộc đời mà thôi.

Tiền bạc sẽ có phát triển vào năm 29 và 30 tuổi, nhưng chỉ ở giai đoạn tạm thời, không được hoàn mỹ, cuộc làm ăn có nhiều kết quả tốt đẹp, tiền tài điều hòa và có nhiều lợi to, nhưng rồi chỉ trong một thời gian ngắn sẽ bị tiêu tan, số chưa nắm được nhiều tiền, muốn có một sự vững chắc về vấn đề này, phải đúng vào tuổi 34, nghĩa là phải bước qua năm 33 tuổi mới có thể phát triển về vấn đề tiền bạc. Sự nghiệp hoàn thành và vững chắc phải ở vào năm mà bạn phải được ít nhất là 36 tuổi, nhưng vững chắc nhất là năm 37 tuổi.

Năm 29 và 30, tuy có nhiều lợi to về vấn đề tiền bạc nhưng không có sự căn bản và bảo đảm được vững chắc lắm, cần phải có được một thời gian dài lo toan và suy nghĩ mới tạo được sự nghiệp và tiền bạc vẫn đi đôi với sự nghiệp, khi tiền bạc nhiều thì sự nghiệp lên cao.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trong một cuộc sống muốn có một sự nghiệp vĩ đại, muốn cho công việc làm ăn của mình không xảy ra những điều thất bại, bạn cũng nên lựa chọn người để làm ăn. Công việc làm ăn có tiến bộ, tấn triển con người mới vui tươi và hăng hái. Muốn tạo lấy một tương lai vinh hiển, sống một cuộc đời sang cả, việc làm ăn phải tránh những tuổi khắc kỵ với tuổi mình, phải có sự trung hòa và trùng hợp mới có thể phát triển mạnh mẽ được.

Vậy trong sự làm ăn bạn phải cần lựa cho được những tuổi sau đây: Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất. Ba tuổi trên đây rất hạp với tuổi Mậu Dần, có thể hùn hạp, hợp tác hay trên mọi vấn đề có tánh cách tạo lấy tiền bạc. Chắc chắn hợp tác với những tuổi này bạn sẽ nắm được nhiều thắng lợi và khỏi lo sợ bị thất bại đổ vỡ.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Việc xây dựng hạnh phúc gia đình, bạn cũng cần nên tìm cho mình những tuổi trùng hợp, những tuổi mà có thể làm cho gia đình êm, ấm, hạnh phúc vui tươi, trong sự làm ăn, gia đạo được phát triển mạnh mẽ. Đồng vợ đồng chồng, mới có thể xây dựng được một sự nghiệp lâu bền và không bao giờ có sự đổ vỡ nửa chừng. Trong việc hôn nhân và hạnh phúc, bạn cũng cần lựa chọn cho đúng những tuổi sau đây: Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mật Tuất, Kỷ Sửu. Những tuổi này sẽ giúp bạn thành công trên cuộc đời.

Bạn kết hôn với tuổi Nhâm Thìn: Nhân Thìn giúp bạn thành công to trên đường sự nghiệp, tiền bạc được dồi dào, hào con đủ nuôi. Kết hôn với tuổi Ất Mùi: Tuổi Ất Mùi với Canh Dần rất hạp nhau về tánh tình, làm ăn được mau phát đạt, không giúp phát triển công danh, nhưng lại có nhiều tiền bạc, hào con đông đủ. Kết hôn với tuổi Kỷ Sửu: Tuổi Kỷ Sửu giúp bạn cả hai phương tiện gia đình và sự phát triển tiền bạc, lại có đủ trai đủ gái để nuôi. Kết hôn với những tuổi này đặng tốt. Tuy nhiên cũng có thể ảnh hưởng đến số mạng, vậy bạn hãy xem tuổi nào đại kỵ biệt ly hay tuyệt mạng vào những phần dưới đây.

Nếu bạn đã lỡ hay sắp kết hôn với những tuổi sau đây thì bạn chỉ có một cuộc sống trung bình về công danh cũng như về sự nghiệp mà thôi, đó là những tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu. Hai tuổi này có số hạp về vấn đề tình cảm, nhưng không hạp về vấn đề tài lộc, công danh. Hai tuổi này chỉ được tốt và có tình thương yêu cao độ mà thôi.

Những tuổi này là những tuổi không phù hạp với tuổi Canh Dần, có thể kết hôn, nhưng không đem lại cho cuộc đời một sự sống hoàn toàn hay đẹp về vấn đề tài lộc, tình cảm lẫn công danh: Đó à những tuổi: Giáp Ngọ, Kỷ Hợi, Đinh Hợi, Mậu Tý. Những tuổi trên đây chỉ có thể kết hôn nhưng phải chịu số kiếp nghèo hèn, bần hàn, trong công việc làm ăn không được có nhiều may mắn lắm, sống thiếu thốn liên miên trong suốt cuộc đời.

Có những năm mà không nên cưới vợ hay tính chuyện lương duyên, vì gặp năm xung khắc, nếu phạm phải khó thành đôi bạn và có nhiều khắc kỵ phải chịu cảnh vắng vẻ phòng không và hay sanh ra cảnh vợ bỏ đi. Đó là những năm mà bạn ở vào tuổi này: 21, 27, 33, 39, 45 và 51 tuổi.

Những năm trên đây bạn không nên tính chuyện hiệp hôn hay có sự hiệp hôn, không được tốt cho cuộc tình duyên của bạn sau này.

Những tháng này, tuổi Mậu Dần gặp phải nhiều lần thay đổi lương duyên hay có nhiều thay đổi trong việc tình duyên gia đạo, đó là bạn sanh vào những tháng 3, 4, 5, 6, 7 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này chắc chắn bạn sẽ có số lưu thê hay đau khổ về đường vợ con.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Sau đây là những tuổi đại kỵ nếu bạn kết hôn hay hợp tác làm ăn thì sẽ gặp cảnh gãy gánh nửa đường hay sanh ra cảnh biệt ly, xích mích, không thuận tiện cho sự đ ào tạo lấy sự nghiệp của mình. Đó là những tuổi rất khắc kỵ với tuổi Mậu Dần như sau đây: Canh Dần, Quý Tỵ, Bính Thân, Nhâm Dần. Ất Tỵ, Mậu Thân và Giáp Thân. Tuổi Mậu Dần rất đại kỵ những tuổi trên đây, nếu có kết hôn hay hùn hạp làm ăn sẽ rất nguy hiểm đến cuộc sống và tánh mạng của mình.

Khi gặp tuổi khắc, kỵ phải cầu nguyện cho thật nhiều, cố công tu thân tích đức, làm việc ân nghĩa, cầu Trời khẩn Phật và nhất là phải cùng sao hạn hằng năm thì sẽ được giải hạn. Nên nhớ khi gặp tuổi kỵ thì công việc làm ăn sẽ không tấn phát. Cúng sao giải hạn chỉ có tánh cách không nguy hiểm đến tánh mạng mà thôi.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Mậu Dần gặp nhằm những năm khó khăn nhất là những năm mà bạn bạn gặp số tuổi 23, 27. 31 và 37 tuổi. Bạn nên cẩn thận vào những năm này. Số bạn trong những năm này sẽ có nhiều xui xẻo không diễn tiến bình thương theo cuộc sống mà trái lại sẽ gặp những vấn đề ngang trái phũ phàng, cuộc sống có phần sao động và sôi động mãnh liệt. Nên cẩn thận trong mọi việc làm ăn, không sẽ gặp tai nạn hay bịnh hoạn bất thường.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Sau đây là ngày giờ mà bạn xuất hành hạp nhất trong suốt cuộc đời bạn. Tuổi Mậu Dần chỉ hạp vào những giờ chẵn, ngày lẻ và tháng chẵn, bất kỳ xuất hành trong ngày nào, tháng nào, hay giờ nào cũng có thể làm ăn có những thắng lợi miễn đúng với những ngày, giờ và tháng kể trên.

Việc trên đây là do sự nghiên cứu của các nhà chiết tự Âu Tây và Đông Phương phối hợp, đó là các sự huyền bí về chiêm tinh mà các chiêm tinh gia: Tào Tuyết Long, Artémidore, Nicophare và bác sĩ kiêm huyền bí gia Regnault (Pháp) nghiên cứu bằng sự khám nghiệm thi thể và ép xác chết như Kyserling ở Ai Cập.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 29 đến 35 tuổi: Số tuổi còn nhiều lao đao, nhiều lo nghĩ, cuộc đời chưa hẳn làm được việc gì khả dĩ lên cao được, cho nên tuổi 29, số có nhiều đau buồn. Tuổi 30 và 31 đỡ khổ hơn đôi chút, nhưng năm 31 tuổi lại gặp nhiều sự buồn phiền về gia cảnh, nhưng tâm não và công danh có phần tiến triển đôi chút. Từ 31 đến 33 tuổi không được hoàn toàn êm đẹp, sẽ phải ở trong một tình trạng đau khổ nhất, buồn bã nhất có thể không đem lại cho cuộc đời nhiều việc may mắn hơn. Từ 34 đến 35 tuổi, số lên cao, hai năm này bạn làm ăn phát đạt, tiền bạc dư dả, công việc có thể tiến lên cao được.

Từ 36 đến 40 tuổi: Tuổi 36 gặp nhiều may mắn, nhưng cũng có lúc sẽ đau buồn nhiều, nhưng nói chung đều ở trong tình trạng phát triển mạnh mẽ về tài lộc cũng như về tình cảm. Tuổi 37 và 38 sự nghiệp khá vững vàng, sẽ có nhiều may mắn hơn nữa trong việc làm ăn, gia đình hạnh phúc được yên vui không có nhiều xáo động lắm. Năm 39 và 40 hy vọng thành công hoàn toàn về gia đạo, sự nghiệp lẫn tiền tài, có thể phát triển được nhiều công việc làm ăn cũng như về khía cạnh tình cảm. Hai năm này khá tốt đẹp trong cuộc đời, làm gì được nấy, có thể hoàn thành sự nghiệp một cách dễ dàng.

Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, gặp sao hạn nặng cuộc đời có nhiều thay đổi, việc làm ăn trở ngại lớn, nên cẩn thận làm ăn, hay lo công việc làm ăn thì mới thành công. Năm 42 và 43 tuổi tình trạng bình thường không có sôi động, hay thất bại gì cả chỉ ở trong mức độ trung bình mà thôi, nên cẩn thận trong việc giao dịch hay giao thương thì tốt. Từ 44 đến 45 tuổi, thận trọng cho lắm kẻo gặp tai nạn, hai năm này có hao tài tốn của đôi chút, việc gia đạo không được hay đẹp và tròn vẹn cho lắm, cần nên đề phòng tai nạn năm 44 tuổi. Năm 45 thì qua khỏi được chút nhưng cũng không được tốt lắm.

Từ 46 đến 50 tuổi và suốt cuộc đời: Tuổi 46 không có gì đáng gọi là may mắn, nhưng năm này lại có hoạnh tài, có chút về tài lộc, cẩn thận trong việc giao dịch thì tốt hơn. Tuổi 47 và 48 và cho đến suốt cuộc đời, công danh, sự nghiệp, gia đạo chỉ ở trong mức độ bình thường mà thôi. Không lên cao và cũng không có hao hụt nhiều về tiền bạc. Công việc vẫn điều hòa, càng phát xuất bao nhiêu, thì lại càng thâu nhiều lợi bấy nhiêu. Đừng nên phung phí tiền bạc một cách vô ích, nên cần thận cho thân thể, con cái thường hay đau bịnh thuyên chuyển, thay đổi làm ăn.

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Dần

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Mậu Dần nam mang chi tiết

Cách xem tướng lòng bàn tay nhận biết tính cách –

Cách xem tướng. Lòng bàn tay có nhiều gò đều nổi: Nóng tính. Bằng phẳng: Thông minh. Quá nảy nở: Tự phụ, ích kỷ. Cứng: Hung bạo trong dâm dục Lòng bàn tay mỏng, dẹp: Lười biếng, hẹp hòi, thiếu thông minh và nghị lực. Lòng bàn tay có nhiều gò đều nổi:
Cách xem tướng lòng bàn tay nhận biết tính cách –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng lòng bàn tay nhận biết tính cách –

Những loại hoa đẹp nhưng cần tránh sử dụng trong phòng ngủ

Để có giấc ngủ ngon và không ảnh hưởng tới sức khỏe, bạn nên chú ý khi chọn hoa trưng bày trong phòng ngủ. Nên tránh các loại hoa dưới đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hoa lan
Mùi hương thơm của hoa lan khiến người hưng phấn nên dễ mất ngủ.

Hoa tử kinh
Phấn của hoa tử kinh nếu tiếp xúc với người lâu gây nên bệnh hen hoặc khiến bệnh ho bị nặng thêm.

Hoa tulip và trinh nữ

Trong loại hoa và cây này có một loại chất chứa kiềm, loại chất hữu cơ có độc, người tiếp xúc nhiều sẽ bị rụng tóc và lông.

Cây hoa hồng
Loại cây này có thể hút rất nhiều khí có hại, tỏa mùi thơm dày đặc khiến cơ thể buồn nôn, ức chế thậm chí khó thở.

hoa phong thuy Những loại hoa đẹp nhưng cần tránh sử dụng trong phong ngủ

Hoa Tulip – Loại Hoa Không Nên Cắm trong Phòng Ngủ

Hoa bách hợp
Có thể hút được những chất hóa học bốc hơi nhưng mùi thơm của nó khiến thần kinh trung tâm hưng phấn quá độ, gây nên chứng mất ngủ.

Cây anh thảo
Trong đêm, loại hoa này tỏa mùi thơm kích thích khứu giác, nếu hít thời gian lâu sẽ khiến người ngửi bị bệnh huyết áp cao, bệnh tim, choáng, hoa mắt, bệnh nặng thêm. Nhưng loại hoa này cũng là một loại hoa thơm dáng đẹp và có tác dụng trừ muỗi thường thích hợp bài trí trong sân nhà và ban công.

Cây trúc đào
Loại cây này có thể bài tiết ra một loại dịch dạng sữa khiến người tiếp xúc thời gian lâu sẽ bị ngộ độc, gây nên buồn ngủ, trí lực bị giảm xuống.

Hoa dạ hương
Ban đêm loài hoa này sẽ phát tán rất nhiều các hạt nhỏ có tác dụng kích thích khứu giác, nếu ngửi quá nhiều, quá lâu thì sẽ làm cho những người bị cao huyết áp và người bị bệnh tim cảm thấy chóng mặt, hoa mắt, khó chịu, thậm chí có thể làm cho bệnh tình trở nên nghiêm trọng hơn.

Nguồn: Phong Thuy Da Quy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại hoa đẹp nhưng cần tránh sử dụng trong phòng ngủ

Ngành kinh doanh

Dựa trên đặc điểm tính cách nổi bật, mỗi người sẽ có những sở thích cho riêng mình. Làm việc với những điều mà mình yêu mến sẽ tăng khả năng thành công của họ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn mệt mỏi với công việc văn phòng và muốn bắt đầu kinh doanh riêng? Hoặc bạn chỉ tốt nghiệp phổ thông và có kế hoạch tự khởi nghiệp? Bạn có thể nghiền ngẫm trong một thời gian dài nhưng vẫn còn bối rối về những loại hình kinh doanh bạn nên làm và những loại hình kinh doanh phù hợp với bạn nhất.

Dưới đây là những gợi ý vui về ngành nghề kinh doanh phù hợp với 12 con giáp dựa trên tính cách đặc trưng. Bạn có thể có nhiều khả năng đạt được thành công và sinh lời nhiều hơn khi làm việc với những gì phù hợp với bản thân của mình. Và điều quan trọng nhất, trước khi bắt tay vào thực hiện, hãy điều tra thị trường và tìm lời khuyên từ người thân, bạn bè và những người đi trước.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngành kinh doanh
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd