Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lục hợp của 12 chi

Trong số 12 chi (địa chi) có 6 chi Tý, Dần, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Tuất thuộc dương và 6 chi Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi thuộc âm.
Lục hợp của 12 chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số 12 chi (địa chi) có 6 chi Tý, Dần, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Tuất thuộc dương và 6 chi Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi thuộc âm. 1 chi âm kết hợp với 1 chi dương hình thành 6 cặp tương hợp. Đó chính là 12 chi tương hợp.


12 con giáp


Sự tương hợp của 12 địa chi gồm 6 cặp dưới đây, còn gọi là lục hợp:

1. Tý hợp với Sửu

2. Dần hợp với Hợi

3. Mão hợp với Tuất

4. Thìn hợp với Dậu

5. Tỵ hợp với Thân

6. Ngọ hợp với Mùi

Trong số 12 địa chi có 6 chi Tý, Dần, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Tuất thuộc dương và 6 chi Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi thuộc âm. 1 chi âm kết hợp với 1 chi dương hình thành 6 cặp tương hợp. Đó chính là 12 chi tương hợp.

Sự tương hợp giữa 6 cặp hàng chi chủ về may mắn. Lục hợp được sử dụng cho việc chọn ngày giờ tốt, dự đoán tứ trụ...

(Theo Tử bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lục hợp của 12 chi

Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?
Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Tương truyền vàng bạc châu báu trong phủ Hòa Thân còn nhiều gấp mấy ngân khố của vua. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?   Nói đến những kiến trúc cổ ở Bắc Kinh thì có lẽ không thể không nhắc đến Cung Vương Phủ của Hòa Thân. Từ xưa đã có câu nói rằng “Một tòa Cung Vương Phủ, nửa quyển sử Thanh triều”. Được mệnh danh là Đệ nhất tham quan, cái mà Hòa Thân không thiếu nhất chính là tiền bạc, lẽ đương nhiên không thể không am hiểu về phong thủy.


chan dung Hoa Than
chân dung Hòa Thân
  Vậy Cung Vương Phủ - cấm phủ nơi Hòa Thân sinh sống có phong thủy ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về những bí mật phong thủy ẩn giấu phía sau nhé.  

1. Địa thế phong thủy nơi Cung Vương Phủ

  Tương truyền, Bắc Kinh được trấn giữ bởi 2 long mạch, một là Thổ Long, tức long mạch ở Cố Cung, hai là Thủy Long, tức là vành đai Hậu Hải và Bắc Hải, mà Cung Vương Phủ lại vừa khéo nằm ở đường giao nhau giữa Hậu Hải và Bắc Hải, tọa chính long mạch nên phong thủy cực kì tốt.

Mời bạn đọc thêm: Long mạch dưới góc nhìn khoa học.
  Đã có rất nhiều bậc danh tướng, đại nguyên soái của Trung Hoa có phủ đệ gần với Cung Vương Phủ và đều là những người sống trường thọ. Nghe nói nơi có nhiều người sống thọ nhất Bắc Kinh chính là khu vực xung quanh Cung Vương Phủ. Nơi này được ví như bảo địa phong thủy vậy.


dia the tran giu long mach o cung vuong phu
 
  Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là người rất am tường về thuật phong thủy, đương thời đã không tiếc lời khen cho phủ Hòa Thân. Cổ nhân coi Thủy là Tài, mà trong Cung Vương Phủ nơi nơi đều thấy nước, mà nước ở hồ lớn nhất trong phủ chính là được dẫn về từ Ngọc Tuyền Hồ. Tương truyền chỉ có Hoàng Thượng mới được dẫn nước ở đây về hoàng cung. Ấy vậy mà phủ Hòa Thân dám làm điều đó, mà nước chỉ chảy vào trong phủ chứ tuyệt đối không lọt ra ngoài, điều này càng phù hợp với học thuyết phong thủy liệm tài (giấu tài).  

2. Kiến trúc “Tiền trách hậu khoan”

  Theo phong thủy, tiền trách hậu khoan, tức trước hẹp sau rộng thì phú quý dư thừa. Cung Vương Phủ là ví dụ điển hình cho lối kiến trúc này. Khi Hòa Thân lựa nơi này để làm phủ đệ thì địa khí của nó đang chính vượng, mà như chúng ta đều biết, Hòa Thân là người thông minh tuyệt đỉnh, lại tinh thông phong thủy nên dù là bối cảnh bên ngoài phủ hay bố cục nội phủ đều được Hòa Thân thiết kế vô cùng tỉ mỉ. 


hon da truoc cung vuong phu
 
  Một tòa phủ đệ xây lên được ví như một kiệt tác phong thủy, nâng đỡ Hòa Thân lên tới đỉnh cao danh vọng, cả nhân khí và tài khí đều lên đến đỉnh điểm. Con người có ba loại vận khí, Thăng – Vượng – Mộ, song Hòa Thân thăng nhanh, vượng đến cực hạn nên mộ lạc cũng nhanh vậy.  

3. Bài trí đá trong khuôn viên phủ

  Trong phủ Hòa Thân được bài trí nhiều phiến đá, đá tảng hình thù kì dị, song có hai điểm đặc biệt không thể không nhắc đến. Thứ nhất, nơi cổng vào đặt một hòn đá, nhọn và cao khoảng 2m, có hình giống một đứa trẻ. Hòa Thân lúc bấy giờ vừa nhìn thấy hòn đá này đã cực kì thích thú, bèn đem về đặt ngay trước cửa phủ.   Lý do là gì, có bí mật phong thủy gì ở đây không? Nghe nói hòn đá đó được dùng để chiếu bích, ngăn tà khí xâm nhập vào phủ, cũng chắn không cho tài khí thoát ra ngoài. Thêm nữa, Hòa Thân cả đời chỉ sinh được một người con trai, còn lại đều là nữ nhi nên cực kì khao khát có con trai, mà hòn đá đó lại có hình dáng giống một đứa bé trai nên còn được gọi là Tống Tử Thạch (đá tặng con). Hòa Thân đặt hòn đá trấn phủ là mong muốn nhờ nó mang lại phúc lộc đường con cái, giúp gia tộc càng thêm hưng vượng, đông con nhiều cháu.


tieu dinh trong phu hoa than
 
  Những hòn đá khác phần lớn đều được chuyển từ phương nam tới, mang đủ hình thù kì quái khác nhau. Chúng được nhân công vận chuyển theo đường sông, lựa những tảng băng kết lại khi mùa đông để đẩy lên đó. Số lượng nhiều đến nỗi mà nghe nói đá được chất bên sông từ năm này qua năm khác, mùa đông này chưa chuyển hết thì chờ đến mùa đông sang năm, khi nước đóng thành băng thì tiếp tục chuyển. Tới năm Hồng Lịch thứ 7, công trình Cung Vương Phủ mới được hoàn thành.   Người xưa quan niệm rằng đá mang theo phúc khí, chính vì thế mà Cung Vương Phủ cũng là vương phủ có nhiều đá nhất, thậm chí người ta còn truyền nhau rằng, số lượng đá trong hoàng cung cũng chẳng là gì so với số lượng đá ở phủ Hòa Thân.   Trong phủ có hai hòn giả sơn rất lớn, hình dáng kì vĩ. Đặc biệt hơn, thời đó vẫn chưa có chất kết dính tốt để gắn kết các tảng đá với nhau, hòn giả sơn đã được làm nhờ dùng cơm nếp hòa với phèn trắng để gắn lại, xếp đặt các tảng đá lên nhau tạo nên hình dáng.  

4. Một vạn con nhện

  Trong phủ Hòa Thân, bạn có thể nhìn thấy nhện với đủ mọi hình dáng, giống loài ở khắp nơi nơi. Người xưa tin rằng nhện là biên phúc, đồng âm với chữ phúc nên cũng mang tới phúc lành, mang theo may mắn. Nhện trong phong thủy mang theo điềm may mắn về tài lộc.   Hòa Thân không chỉ tham tài hám lợi mà còn cực kì mê tín. Trong Cung Vương Phủ, từ chậu cây, chậu hoa hay đá tảng đều được chạm khắc hay xếp đặt thành hình con nhện. Đi vào trong phủ, bạn sẽ bị hoa mắt bởi đủ hình thù của đá đều na ná hình con nhện. Thậm chí trên cửa hay vách nhà cũng có nhện, có con được khắc chìm, có con được khắc nổi, tổng cộng có tới 9999 con. 9999 con nhện tức là 9999 chữ Phúc, thêm một chữ Phúc mà Khang Hy ngự bút nữa là 1 vạn chữ phúc, Cung Vương Phủ vạn phúc.  

3. Bóng người ở vườn cây Ngô đồng

  Trong phủ Hòa Thân có một khu vườn nhỏ nằm tách biệt hẳn ra ngoài. Nơi đó trồng đầy những cây ngô đồng to cao song lại rất yểu điệu thướt tha, nhìn đẹp vô cùng. Mỗi khi gió thổi qua là rừng cây xào xạc, tựa như tiếng khóc than nỉ non của phụ nữ và trẻ em. Nơi đó được gọi là Ngô đồng viện.   Khu vườn nhỏ xinh đẹp như vậy nhưng lại giấu phía sau mình câu chuyện không hề đẹp. Ngô đồng viện chính là lãnh cung trong Cung Vương Phủ, tất cả những thê thiếp thất sủng đều bị Hòa Thân đem nhốt ở nơi đây. Họ cô đơn héo mòn không ai hay biết, cuối cùng lấy nước mắt rửa mặt, u buồn mà chết.


bong ma trong Cung vuong phu
 
  Cả khu vườn bị âm khí bao trùm. Âm khí nặng tới nỗi hễ ai bước vào trong đều bất giác nổi da gà, thấy lạnh toàn thân, trước kia nghe nói không một ai dám đặt chân vào trong đó. Tối đến, người ta nghe thấy từ trong Ngô đồng viện vọng ra tiếng khóc than ai oán. Thậm chí vào những đêm mưa gió bão bùng, nhiều người khẳng định họ tận mắt nhìn thấy bóng phụ nữ mặc trang phục triều Thanh xuất hiện trong khu vườn, lả lướt đi lại như đang nhảy múa. Cái bóng thường được phản chiếu lên vách tường gần cổng viện, hình ảnh sống động như người thật.   Sau khi Trung Quốc được giải phóng khỏi tay quân Nhật, một người lính gác đêm từng đi qua nơi này, vô tình nhìn thấy có cô gái đang đứng trước cổng viện khóc lóc thảm thiết, người này sợ tới hồn bay phách lạc, bỏ chạy về phòng trực ban. Ngay sau đó, người lính này lập tức đổ bệnh, thần trí điên cuồng. Chuyện này kinh động tới cả Quốc vụ viện, lãnh đạo cho phái rất nhiều bác sĩ, chuyên gia đến khám nhưng đều không tìm ra bệnh của người lính mắc phải là gì, cuối cùng người đó sợ hãi quá mà chết.   Quốc vụ viện bèn cử rất nhiều binh lính cùng chuyên gia đến đóng quân ở trong Cung Vương Phủ để tìm lời giải cho câu đố ghê người này. Sau cùng chuyên gia đưa ra kết luận như sau: Ngày xưa, đây là nơi ẩm ướt, trên vách tường tích tụ rất nhiều kali nitrat, đêm mưa bão sấm chớp có cô gái đứng khóc trước tường, kali nitrat và tia lửa điện sấm sét nảy sinh phản ứng hóa học, in hình người lên bức vách. Đó là lý do mà từ đó về sau, cứ mỗi khi trời mưa bão, có sấm chớp thì hình cô gái trên bức vách lại hiện ra. Đây là hiện tượng khoa học chứ hoàn toàn không có chút ma quỷ nào cả.   Tuy lời chuyên gia giải thích có lý như vậy như vẫn có rất nhiều chuyện khác ở phủ Hòa Thân không thể lý giải được bằng khoa học. Sau này, để trấn áp dư luận, Quốc vụ viện đã lệnh đầu tư quay một bộ phim tài liệu có tên “Bóng ma nơi vương phủ” để giải thích rõ về hiện tượng này.    Song trong thời gian quay phim ở Ngô đồng viện cũng xảy ra rất nhiều sự việc kì bí không lời giải đáp. Ví dụ, mọi người rõ ràng đều nhìn thấy máy quay được đặt trên bậu cửa nhưng chớp mắt đã thấy nó biến mất, sau đó lại thấy nó xuất hiện bên cạnh bức vách có bóng ma.   Mãi về sau, do lâu ngày không được tu sửa, bức vách mục ruỗng và đổ sập, tới tận khi ấy người ta mới dám đặt chân vào tham quan trong khu vườn này.  

4. Tiểu đình

  Trong Cung Vương Phủ, Hòa Thân cho xây một tiểu đình nhỏ làm nơi hóng mát. Cứ mỗi độ giao mùa xuân hạ thu đông, chỉ cần thời tiết đẹp là Hòa Thân lại cho vời bạn bè thân hữu đến uống rượu ngâm thơ, nghe ca múa. Thông thường, Hòa Thân sẽ chọn chỗ ngồi ở hướng Nam.   Nền của tiểu đình được lát bằng những phiến đá lớn. Song sự kì diệu ở tiểu đình này nằm ở chỗ Hòa Thân đã cho người khắc lên bàn đá vô số rãnh nước, dòng nước sẽ đẩy chén rượu trôi về phía trước. Nước chảy rất chậm, chén rượu trôi tới trước mặt ai mà dừng lại thì người đó sẽ phải làm một bài từ, nếu làm không được thì phạt uống 3 chén rượu.   Bí mật phong thủy ở đây là gì? Những đường rãnh nước đó được thiết kế rất tinh xảo. Nếu nhìn từ hướng Đông thì các rãnh tụ lại thành hình chữ Thủy (水), còn nhìn từ hướng Nam thì lại thấy chữ Thọ (寿). Chỉ vậy thôi cũng đủ để người đời trầm trồ thán phục trí tuệ của Hòa Thân.  

5. Hòn giả sơn

  Trong vườn hoa Hòa Thân cho xây một hòn giả sơn. Đá để làm hòn giả sơn này toàn bộ là đá Thái Hồ, được vận chuyển trực tiếp từ Thái Hồ tới. Đặc điểm của đá Thái Hồ chính là tính hút nước rất mạnh, nó là một loại Thượng Thủy Thạch - đá phong thủy mang tới sung túc, ấm no, nếu được đặt ở nơi nhiều nước thì trên đá sẽ mọc đầy rêu xanh.    Hòa Thân lại cho xây một cái hồ nhỏ trước hòn giả sơn, dẫn nước vào đó, để nước lưu thông quanh năm, nhờ thế mà trên các phiến đá mọc đầy rêu xanh mướt, Hòa Thân gọi đó là Trích thúy nham. Hai bên hồ có 2 cái đầu rồng quay hướng chụm vào nhau, ở giữa là Long Châu, song kì lạ là ở chỗ chỉ nhìn thấy đầu rồng chứ không thấy đuôi rồng.   Vậy hòn giả sơn đó để làm gì, nó có ẩn giấu bí mật phong thủy gì bên trong không? Hóa ra Hòa Thân sớm đã đem long mạch và long vĩ (đuôi rồng) chạm khắc vào dưới Trích thúy nham bên trong động giữa hòn giả sơn, mà nơi long mạch trấn giữ là một bức bích họa bằng ngọc, chính xác hơn là chữ Phúc được khảm vào ngọc. 


Bia chu Phuc trong phu Hoa Than
Bia chữ Phúc trong phủ Hòa Thân
  Chữ Phúc đó chính là chữ do đích thân Khang Hy ngự bút song lại bị Hòa Thân chiếm làm của riêng. Nó được coi là vật trấn trạch trong Cung Vương Phủ. Thậm chí sau này khi Hòa Thân bị vua Gia Khánh bãi chức và kiểm kê gia sản, người ta đã phát hiện ra vật trấn trạch này nhưng do đó là bút tích của Càn Long nên không ai dám phá, bởi phá nó tức là khiến cho Phúc tan. Hơn nữa, nếu lấy cả khối đá về thì long mạch không có gì trấn giữ, là điều đại kị. Đó cũng chính là điềm báo vua Gia Khánh tha chết cho cả nhà Hòa Thân.   Vốn dĩ Hòa Thân bị ghép vào trọng tội, phải lăng trì, tru di tam tộc. Song tới cuối cùng, dù phạm nhiều tội lỗi tày đình nhưng Hòa Thân chỉ bị xử chết bằng cách tự vẫn, cả nhà được tha bổng, người ta cho rằng phần lớn là nhờ có chữ Phúc trấn trạch này. Sau này, vua lệnh người dùng đá tảng phong bế toàn bộ hòn giả sơn, để không ai nhìn thấy chữ Phúc đó mà được hưởng phúc khí nữa, mãi về sau này nơi đó mới được khai thông, mọi người vào tham quan mới có dịp chiêm ngưỡng vật phẩm phong thủy trấn trạch nổi tiếng đó.   Ngoài ra, trong Cung Vương Phủ còn có một hòn giả sơn nữa, trong đó giấu một con tỳ hưu cũng nhằm trấn trạch, hút tài lộc về nhà. Tương truyền khi vua Gia Khánh cho lục soát phủ Hòa Thân đã phát hiện ra vật báu này. Con tỳ hưu được làm bằng ngọc phỉ thúy, trong khi con tỳ hưu của Càn Long cũng chỉ được làm bằng bạch ngọc. Hơn nữa, tỳ hưu của Hòa Thân còn lớn hơn của vua, cũng có mông và bụng rất to. Người ta cho rằng chính vì thế mà của cải trong nhà Hòa Thân còn nhiều gấp mấy lần của cải nhà vua có trong ngân khố. Dân gian truyền rằng “Những gì vua có Hòa Thân cũng có, những gì Hòa Thân có chưa chắc vua đã có” cũng chính là vì thế.    Song suy cho cùng số phận của Hòa Thân cũng không khác gì con tỳ hưu đó, ăn vào bụng quá nhiều tiền vàng nhưng lại không có chỗ để thải ra, lâu ngày tích tụ thành đại họa. Đó là cái họa đã được báo trước, là quả báo nhãn tiền mà những kẻ tham lam sớm muộn sẽ phải gánh chịu.   An An

Nhà ở trên 30 năm, không thể thiếu những vật phẩm phong thủy trấn dương khí Tiền về như nước khi đặt bảo vật phong thủy ở đây 9 món đồ vật hút tiểu nhân nhà nào cũng có, xem ngay để tránh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Chùa Bà Đanh - Hà Nam

Chùa Bà Đanh tuy vắng vẻ, tĩnh mịch nhưng lại tạo nên vẻ đẹp bình yên và thanh khiết cho ngôi chùa mà không phải nơi nào cũng có được.
Chùa Bà Đanh - Hà Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trái ngược với không khí đông đúc, chen lấn trong những ngày đầu xuân ở hàng trăm ngôi đền chùa khắp cả nước, Chùa Bà Đanh địa phận thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam vẫn hết sức vắng lặng, yên tĩnh.

Từ thành phố Phủ Lý rẽ vào quốc lộ 21, qua cầu Hồng Phú đi khoảng 10 km, du khách sẽ nhìn thấy ngôi chùa thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây. Ngôi chùa u tịch nhìn ra con sông Đáy hiền hòa. Chùa Bà Đanh tên chữ là Bảo Sơn Tự cạnh hòn núi Ngọc nổi tiếng thơ mộng và linh thiêng.

“Vắng như chùa bà Đanh” dường như là thương hiệu có một không hai, biến Bảo Sơn Tự (Kim Bảng, Hà Nam) trở thành điểm tham quan gây tò mò cho nhiều du khách. Từ bao đời nay, ngôi chùa này được thêu dệt với nhiều truyền thuyết lạ kỳ mà tâm điểm là tượng Bà Đanh.

Lịch Sử: Theo truyền thuyết, chùa thờ nữ thần linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là chùa Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh như tên gọi ngày nay.

Trước đây, khu vực chùa Bà Đanh là rừng rậm hoang vu, xa khu dân cư, có nhiều thú dữ nên không ai dám vào. Muốn vào đó an toàn chỉ có cách đi thuyền qua sông Đáy để tránh thú dữ, vì bất tiện nên khách thập phương muốn đến lễ bái cũng không có điều kiện… Cây cối um tùm, nhiều thú dữ, không có nhà dân ở, do vậy cảnh chùa càng thêm thâm nghiêm, vắng vẻ, ít người qua lại, nên mới có câu “vắng như chùa Bà Đanh”.

Kiến Trúc: Chùa Bà Đanh mang những nét chung của các ngôi chùa dòng phật giáo đại thừa lại có nét riêng độc đáo. Điện thờ phong phú với các tượng phật, bồ tát, hộ pháp và các tượng của đạo giáo như Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu… Nhà thờ tổ sư phái thiền tông. Phủ mẫu thờ các tượng tam hòa, tứ phủ. Đặc biệt trong chùa có pho tượng của tín ngưỡng dân gian là pháp phong trong “tứ pháp”. Ban đầu dân làng lập đền thờ pháp phong còn đơn sơ trong khu rừng đầu làng ven sông đáy. Đến năm Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông (1676 – 1680) thì xây dựng ngôi chùa mới khang trang.

Chùa quay mặt hướng Nam ra mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng tiếp giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Tam quan có ba gian và được làm thành hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái lợp bằng ngói, xung quanh sàn gỗ hàng lan can là những trấn song con tiện. Tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu vào giữa. Đối diện với cổng, ở chính giữa về phải hai bên cách một đoạn tường ngắn là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượn cong hình bán nguyệt. Hàng ngày, khách ra vào chủ yếu đi bằng hai cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cổng chính giữa mới được mở.

Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và Thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.

Chùa Bà Đanh gồm nhiều hạng mục lớn nhỏ tạo thành quần thể kiến trúc liên hoàn với Tam Quan, ngôi chùa chính, tả vu, hữu vu, nhà tổ, phủ mẫu, nhà khách, nhà ni và các công trình phụ trợ ngoài khuôn viên chùa. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Pháp Phong, tượng phật, bồ tát, khánh đá, đại tự, câu đối, nhang án.

chua ba danh
Chánh điện – Chùa Bà Đanh

Lễ hội chùa Bà Đanh được tổ chức từ ngày mồng chín đến ngày mười một, tháng hai (âm lịch) hàng năm (9/02). Trong những ngày diễn ra lễ hội tại di tích diễn ra nhiều nghi thức tế lễ truyền thống. Đặc biệt, có lễ cầu an, rước kiệu, đồng thời còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: Chọi Gà, Kéo Co, Bơi Thuyền Chải, Cờ Người…

Chùa Bà Đanh tuy vắng vẻ, tĩnh mịch nhưng chính sự vắng vẻ, tĩnh mịch này lại tạo nên vẻ đẹp bình yên và thanh khiết cho ngôi chùa mà không phải nơi nào cũng có được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bà Đanh - Hà Nam

Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Bài viết chủ đề luận về việc so đôi tuổi vợ chồng của tác giả Ân Quang. Đây là một chủ đề rất hấp dẫn!
Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Anh Việt

Từng được đọc những sách chỉ về việc so đôi tuổi cách đây mấy chục năm, chúng tôi rất lấy làm lạ rằng tại sao hai tuổi khắc kị lấy nhau mà có thể đi đến một sự suy bại tàn bạo, đi đến sự sanh ly tử biệt, sự không con, sự suy bại trong việc làm ăn và cho cuộc đời con cái, như các sách đó đã nói (cả sách Tàu và cả sách ta dịch theo sách Tàu)

Tôi nghĩ, có thể vợ chồng khắc nhau, là khắc khẩu, khắc trong hành động, thì vợ chồng sẽ giảm sức làm ăn, giảm sự yêu thương khiến cho bớt con, giảm sự chăm non con cái khiến cho chúng bị khổ, hoặc là vợ chồng khắc khẩu nhau, bất bình nhau rồi từ đó đi dần đến chỗ bỏ nhau; hoặc một ông tức mình mà “phơ” bà hoặc một bà tức mình mà “đốt” ông. Nghĩa là trong sự giải đoán các tuổi khắc nhau rồi vợ chồng sanh ly tử biệt, làm ăn suy sụp, mất đường con cái…thì cái lời giảng đó vẫn có chỗ hợp lý khoa học. Tuy nhiên, những lời giảng đó vô ly quá, theo tôi. Vì chẳng lẽ cứ khắc nhau về tuổi là phải tước lấy những hậu quả thảm thê trong tình vợ chồng như vậy?

Thắc mắc cho nên đi tìm hiểu

Vì thắc mắc nên đi tìm hiểu. Sự tìm hiểu này tiến theo hai con đường: một mặt là cố xét tuổi các vợ chồng để quan sát cuộc sống của họ (sức là tìm kinh nghiệm), mặt khác là đi hỏi các vị am hiểu về tướng số để hỏi cho rõ.

Sau mấy chục năm tìm hiểu, chúng tôi đã đi đến những kết quả tương đối khác với những lời giải đoán trong sách, ít nhất cũng khác đi phần nào. Chúng tôi muốn nói là sách có nói đúng, nhưng chỉ đúng phần nào thôi. Có vợ chồng đáng lẽ phải sanh ly, tử biệt theo như sách nói, thì lại không có gì xẩy ra. Có vợ chồng mà sách nói là làm ăn suy bại, thì sự suy bại đó không đến, họa chăng có sự giảm kém mà thôi.

Còn các cụ am hiểu về tử vi, nghĩa là những vị có nhiều kinh nghiệm, cho rằng sự khắc kị về tuổi chỉ đúng một phần theo sách, vì còn những yếu tố khác ảnh hưởng vào mỗi trường hợp. Nhận xét giản dị của các cụ như sau:

1- Lá số tử vi mà chúng ta cầm ở tay không phải là một con đường số mạng khẳng định như vậy và cố định, và còn những sự thay đổi do con người lựa chọn đường (sự tự do của con người trước định mạng, điều này được cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần giải thích rõ và chúng tôi sẽ đăng bài của cụ để khoa Tử vi thêm phần giá trị). Do con người biết tu và sự tu đó ảnh hưởng tốt vào số mạng, do các yếu tố địa lý ảnh hưởng vào định mạng, do phúc đức của cha mẹ truyền cho con cái, và cũng do sự kết hợp hai mạng số của vợ chồng (thí dụ: chồng nghèo, vợ giầu, hoặc chồng nhiều con, vợ ít con, thì kết cuộc là số mạng của vợ chồng về tiền của và con cái được ở quãng trung bình của hai số mạng, cộng lại chia đôi) như vậy tức là cũng có sự đổi thay số mạng. Một yếu tố nữa làm thay đổi mạng số là sự khắc kị tuổi hoặc hợp tuổi của vợ chồng.

2- Tuy nhiên, các cụ cho rằng những sự đổi thay ấy chỉ có một phần thôi, chứ không thể là đổi thay hoàn toàn. Nói vậy, nghĩa là số mạng theo lá số Tử vi vẫn có, và có sự thay đổi nào thì cũng chỉ có một phần mà thôi, và không thể có sự thay đổi đảo ngược. Thí dụ sách nói là sự làm ăn có thể suy sụp, thì ta có thể tin được là giảm kém, sách nói là con cái suy bại, ta cũng chỉ có thể tin được một phần nhỏ, nghĩa là việc chăm nom con cái bị bu ông trôi và vợ chồng thay vì để nhiều tiền cho con, chỉ để lại một phần nào thôi. Là vì mỗi đứa con cũng có cái số mạng riêng của nó, chứ không phải là kết chặt vào số mạng của cha mẹ.

Những câu hỏi đặt ra

Chúng tôi mới đặt ra những câu hỏi như thế này:

  • Tại sao không đúng hẳn mà sách ghi lại ghi như vậy?
  • Tại sao cũng có những cặp vợ chồng khắc kị về tuổi mà rồi sanh ly tử biệt, suy sụp về sự làm ăn và đường con cái?

Cụ TDĐ đã cho hay: sách nói ra một cách theo cái nghĩa mộc mạc của nó, còn chúng ta suy đoán thì phải gia giảm.

Thí dụ: hai vợ chồng ông Long kia gặp trường hợp tuổi khắc kị nặng đến độ vợ chồng sanh ly tử biệt nhưng ta phải gia giảm đoán thêm bằng những yếu tố khác. Nếu xem số hai ông bà Long đều thấy hai người long đong về đường vợ chồng (phải thành hôn mấy lần), hoặc nếu thấy số một người là yểu và một người là sớm ở góa, thì cái lẽ sanh ly tử biệt là đúng (đúng theo số nhiều hơn). Nhưng nếu cả hai ông bà Long cùng có số tốt về đường hôn nhân, cùng sống lâu, thì sự khắc kị kia đâu có thể đoán mộc mạc là sanh ly tử biệt được à. Vì chẳng lẽ có sự khắc kị tuổi vợ chồng, mà rỗi phải đem se cả hai lá số vợ chồng đó sao? Khi đó, không thể nói rằng sự khắc kị tuổi có sự sanh ly tử biệt, mà phải đoán theo thế khác (thí dụ: khắc khẩu, giảm kém trong sự làm ăn…)

Chúng tôi mới hỏi: Nếu hai ông bà Định cùng có số xấu về hai ba lần hôn nhơn, hoặc một người yểu, một người sớm góa, mà tuổi hai người lại hợp nhau, thì có thể cứu vãn được không?

Cụ T.V.T. cho biết: Làm sao cứu vãn được, chẳng lẽ một sự hợp tuổi biết đổi được hai lá số thật xấu thành hai lá số thật tốt hay sao.

  • Vậy thưa cụ, trong trường hợp đó, phải giải thế nào?
  • Phải coi rằng hai vợ chồng ý hợp tâm đầu, thế thôi. Chứ cái số mạng khe khắc của họ theo như lá số của họ cho biết thì vẫn có thể xảy ra.

Như vậy chúng tôi đã được sự giải đáp: có những vợ chồng khắc kị về tuổi, rồi bị sanh ly tử biệt, thì đó là vì lá số của họ đi đúng cách đó. Còn như hai lá số của họ đều tốt về đường hôn phối thì chẳng sao. Lá số vẫn là nòng cốt để giải đoán một cuộc sống vợ chồng tốt hay xấu hơn là sự hợp hay khắc kị.

Một thắc mắc khác: trời se duyên lộn

Nhưng giải thích sao được trường hợp trời se duyên một ông Văn, có số chết yểu, với một bà (Văn) có số về hôn nhân rất tốt, không thể ở góa sớm?

Chúng tôi có một số kinh nghiệm ly kỳ. Như cụ Xuyên, thuở nhỏ mấy lần xây dựng tình yêu, có lễ ăn hỏi rồi mà vẫn hỏng, vì nhà gái sanh sự. Ít lâu sau, các cô suýt làm vợ của cụ đều bị mạng vong.

Về sau, cụ Xuyên cưới vợ, hai cụ sống với nhau đến đầu bạc răng long, hiện vẫn còn sống và tâm đầu ý hợp. Tôi cố xin lá số của hai cụ, thấy đường hôn phối rất tốt, và hai cụ đều sống lâu. Như vậy, Trời đã không se duyên lầm, vì hai cô chết yểu kia đã không thành được vợ của cụ Xuyên.

Nói cho vui, cũng có những trường hợp Trời đi vắng, nghĩa là có sự se duyên lầm, thì sao? Cụ T.V.T cho biết: thì lúc đó sẽ có những biến cố cởi gỡ ra cho đúng số mạng.

  • Nhưng thưa cụ, đó là những biến cố nào?
  • Khó mà biết được, mỗi trường hợp có một biến cố lạ xẩy ra, và các biến cố đó khác nhau. Có ông chồng sắp gặp cảnh sắp ở góa, tự nhiên đi mèo và đi thật xa, bỏ vợ ở lại. Bà vợ thoát chết và mười năm sau, ông kia lại quay về tái hợp với vợ. Số đã khác đi rồi. Ông kia đáng lẽ có số chết vợ, lại thành ra chết…mèo vì sau mấy năm ở với nhau, cô mèo đã chết. Xét số của cô mèo thấy cô ta yểu thật, trong thật tế, số đã đổi khác đi, hoặc đúng ra là những người đoán không ra. Còn bà vợ nọ, có số yểu, mà lại thoát chết, thì chỉ có nghĩa là bà bị hạn nặng, đã mất chồng rồi, thì cũng kể như bị một lần chết.

Trong những tập sau, chúng tôi sẽ xin kể các cách so đôi tuổi và các lời giải đoán đúng mực.

KHHB số 29


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về việc so đôi tuổi vợ chồng

Ý nghĩa sao Kình Dương - Đặc tính sát phạt và cô đơn

Cung Mệnh có Kình Dương đơn thủ thì thân mình cao và thô, mặt choắt, da xám, hầu lộ, mắt lồi, có sức khỏe. Đặc tính sát phạt và cô đơn là một hung tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Kình Dương - Đặc tính sát phạt và cô đơn

Ý nghĩa sao Kình Dương - Đặc tính sát phạt và cô đơn

Hành: Kim

Loại: Hình Tinh, Hung Tinh

Đặc Tính: Sát phạt, cô đơn, bần hàn, bệnh tật, tai nạn

Tên gọi tắt thường gặp: Kình

- Còn có tên là Dương Nhận. Thuộc bộ sao đôi Kình Dương và Đà La. Gọi tắt là bộ Kình Đà.

- Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).

- Nếu sao Kình Dương tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.

Vị Trí Ở Các Cung của sao Kình Dương:

Đắc Địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Hãm Địa: Tý, Dần Mão, Tỵ, Ngọ, Mùi, Hợi.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Mệnh:

 Tướng Mạo:

Cung Mệnh có Kình Dương đơn thủ thì thân mình cao và thô, mặt choắt, da xám, hầu lộ, mắt lồi, có sức khỏe.

Tính Tình:

Kình Dương đắc địa: tính khí cương cường, quả quyết, nóng nảy dũng mãnh, lắm cơ mưu, thích mạo hiểm nhưng cũng hay kiêu căng, tự đắc.

Kình Dương hãm Địa: tính khí hung bạo, liều lĩnh, bướng bỉnh, ngang nhạnh và gian trá.

Công Danh Tài Lộc

Sao Kình Dương đắc địa thủ mệnh, nên chuyên về quân sự, có uy quyền hiển hách.

Sao Kình Dương hãm địa, không có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa hội hợp cứu giải, thì tránh thoát được tai họa, tuổi thọ cũng bị chiết giảm.

Nếu chẳng may Kình Dương gặp thêm Đà, Hỏa, Linh, Kiếp, Sát hội hợp thì nguy đến tính mạng.

Phúc Thọ Tai Họa

Cung Mệnh an tại Ngọ có Kình Dương tọa thủ là "Mã đầu đới kiếm" Rất độc, có nghĩa như yểu, chết bất đắc, bị tai nạn dữ và bất ngờ hoặc tàn tật.

Kình tọa thủ tại Mão, Dậu: rất tai hại cho tuổi Giáp, Mậu, thường phá tán tổ nghiệp, mang tật, lao khổ, có xa nhà mới sống lâu.

Sao Kình tọa thủ tại Mão, Dậu: chân tay có thương tích và mắt rất kém.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng sao Kình Dương:

Kình đắc địa gặp Tử, Phủ cũng đắc địa đồng cung, thì buôn bán lớn và giàu có.

Kình Dương, Hỏa Tinh miếu địa: Số võ nghiệp rất hiển hách.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng sao Kình Dương:

Sao Kình Dương gặp Linh Tinh, Hỏa Tinh: Lưng gù, có bướu hay chân tay có tật, nghèo khổ, chết thê thảm (nếu cùng hãm địa).

Sao Kình Dương đi vơí Không, Kiếp, Binh: Người đó là côn đồ, đạo tặc, giết người.

Sao Kình Dương, Hình, Riêu, Sát: Gái giết chồng.

Sao Kình Dương, Nhật (hay Nguyệt) đồng cung: Bệnh hoạn liên miên, có tật lạ (nếu thêm Kỵ), trai khắc vợ, gái khắc chồng.

Sao Kình Dương, Liêm Trinh, Cự Môn, Hóa Kỵ: Người có ám tật. Nếu cùng hãm địa thì ngục hình, kiện cáo, thương tích tay chân, nhất là tuổi Thìn, Tuất.

Sao Kình Dương, Tuế, Khách: Sát phu, thê, xa cách cha mẹ.

Kình Dương, Thiên Mã: Người đó gặp nhiều truân chuyên, thay đổi chỗ ở luôn, hoặc nếu là quân nhân thì phải chinh chiến luôn.

Sao Kình Dương, Lực Sĩ đồng cung: Có sức khỏe địch muôn người; bất đắc chí về công danh, có công nhưng bị người bỏ quên.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ và con cái không hợp tính nhau.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phúc Đức:

Họ hàng ly tán, cuộc đời may rủi thường đi liền nhau, trong gia tộc có người đau bệnh, tàn tật, chết non, cô độc.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Điền Trạch:

Sự nghiệp, đất đai, nhà cửa, dù có tạo dựng sớm cũng phải thay đổi, sau mới yên ổn, lúc nào cũng lo toan về nơi ăn chốn ở hoặc hay sửa sang, bù đắp vật dụng trong nhà.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Quan Lộc

Công danh chật vật, nhọc nhằn.

Kình Dương đắc địa gặp Thiên Mã chiếu: Người có võ có chức nhưng trấn ở xa.

Kình Dương, Lực Sĩ, bất mãn, bất đắc chí, bất đắc dụng ở quan trường, có xin nghỉ giả hạn hay bị ngồi chơi xơi nước.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Nô Bộc

Bè bạn, người giúp việc đắc lực.

Nếu có thêm các sao Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu thì bè bạn, người giúp việc không ích lợi gì cho mình.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Thiên Di

Ra ngoài buôn bán làm ăn hoặc làm thợ khéo, chuyên gia thì phát tài, gặp quý nhân nhưng vẫn có tiểu nhân, nếu có thêm sao xấu thì hay gặp tai họa, thị phi, tai nạn.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Tật Ách

Thường có bệnh kín như trĩ, xuất huyết dạ dày, hoặc phải mổ xẻ, chân tay có tì vết.

Sao Kình Dương, Thái Tuế thì hay bị kiện cáo, vu cáo.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Tài Bạch

Sao Kình Dương đắc địa: Dễ kiếm tiền lúc náo loạn.

Sao Kình Dương hãm địa: Thiếu thốn và phá tán, dùng bạo cách.

Ý Nghĩ a sao Kình Dương Ở Cung Tử Tức

Nếu không có sao xấu thì sinh nhiều nuôi ít hoặc sau này con không ở gần, nếu có sao xấu như Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu, con cái ly tán, hay có bệnh tật, khó chữa hoặc chết non.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phu Thê

Kình Dương nếu đắc địa thì vợ chồng hay bất hòa, gián đoạn một dạo.

Nếu hãm địa thì hôn nhân trắc trở, hình khắc dễ xảy ra, vợ ghen, chồng bất nghĩa.

Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Huynh Đệ

Anh chị em ly tán, bất hòa. 

Sao Kình Dương nếu gặp thêm các sao như: Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Linh Tinh, Hỏa Tinh, không có anh chị em hoặc anh chị em cô độc, chết non, tàn tật, hai giòng.

Kình sao Dương Khi Vào Các Hạn

Sao Kình Dương, Thiên Hình ở Ngọ: Bị tù, có thể chết nếu gặp lục Sát.

Sao Kình Dương, Vũ Khúc, Phá Quân: Bị hại vì tiền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Kình Dương - Đặc tính sát phạt và cô đơn

Li kỳ hành trình tìm kiếm cây thánh giá chúa Giê - su bị hành quyết

Chúa Giê – su và những điều liên quan tới cái chết của người luôn là bí ẩn với những người mộ đạo. Cây thánh giá mà chúa bị đóng đinh đã trở thành một câu
Li kỳ hành trình tìm kiếm cây thánh giá chúa Giê - su bị hành quyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chuyện li kỳ hấp dẫn.


► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Li ky hanh trinh tim kiem cay thanh gia chua Gie - su bi hanh quyet hinh anh
 
Cũng như hài cốt của Thánh John, các mảnh của cây thập giá từng đóng đinh chúa Giê-su hiện còn đang được lưu giữ ở nhiều nơi. Một trong những nơi quan trong nhất là nhà thờ Thánh giá ở Jerusalem, Ý. Ngoài ba miếng gỗ được cho là lấy từ cây thập giá, hiện nhà thờ còn lưu giữ những di vật khác như vòng gai trên đầu chúa Kitô, một cây đinh đóng vào bàn tay. Các di vật này được tập hợp bởi Thánh Helena, tên tuổi nổi tiếng đã giúp hợp thức hóa Thiên Chúa giáo.
 
Lịch sử Thiên Chúa giáo thường xoay quay thời điểm chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, tuy nhiên vẫn có nhiều chi tiết khác không được lưu truyền rộng rãi. Năm 1250 sau Công Nguyên, Tổng Giám mục dòng Genoa là Jacopo de Voragine, người cất công thu thập các thánh tích và lịch sử có liên quan đã tổng hợp thành cuốn “Huyền thoại hoàng kim” gồm 177 chương, ghi chép lại tất cả những nhân vật và điển tích trong kinh thánh, trong đó có ghi lại câu chuyện về Adam (trong Adam và Eva) và con trai Seth.
 
Chuyện kể sau khi sinh ra Seth, Adam đã sống thêm 800 năm, Adam đã gửi Seth lên lại thiên đường mong lấy được quả từ Cây Thương Xót (Tree of Mercy). Nhưng khi Seth trở xuống thì chỉ có hạt giống trên tay, thấy vậy Adam nhìn Seth cười rồi ngã xuống chết đi. Seth sau đó đã đem các hạt giống đặt vào miệng cha mình rồi chôn cất, nơi này sau đó mọc ba cây lớn, nhiều năm sau gỗ của chúng đã được xẻ ra để đóng thánh giá xử tử chúa Giêsu.
 
Việc tìm lại được thánh giá cũng ly kỳ không kém. Truyền thuyết kể rằng sau khi thân thể chúa Kitô được đưa xuống từ thập giá, nó đã bị chôn xuống một cái hố để ngăn các tín đồ tìm kiếm. Hoàng đế Constantine, một đạo hữu, đã khẩn cầu sự trợ giúp của Đức Chúa trong chiến tranh. Ông nhận được điểm hóa vào năm 312 về việc lấy thánh giá làm hình ảnh đại diện cho đội quân La Mã của ông, khi ông mơ thấy biểu tượng này xuất hiện trên bầu trời. Đến năm 326, mẹ của ông dưới sự hướng dẫn của một trưởng lão Do Thái, người lưu giữ bí mật gia tộc, đã đến được nơi cây thánh giá bị chôn vùi.
 
Điều kì lạ là vùng đất nơi chôn cây thánh giá là trung tâm xảy ra chiến tranh liên miên qua bao thế hệ, bao gồm cả việc thành Jerusalem bị vua Ba Tư đánh chiếm vào năm 614. 
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Li kỳ hành trình tìm kiếm cây thánh giá chúa Giê - su bị hành quyết

Quẻ Quan Âm: Cát Bình Ngộ Nạn hay Cát Bình gặp nạn

Quẻ Quan Âm thứ 98 Quẻ Quan Âm: Cát Bình Ngộ Nạn đoán rằng vốn đợi quý nhân xuất hiện. Nếu như hỏi về bình tĩnh, chậm mà chắc, không nên nôn
Quẻ Quan Âm: Cát Bình Ngộ Nạn hay Cát Bình gặp nạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 98 được xây dựng trên điển cố: Cát Bình ngộ nạn hay Cát Bình gặp nạn.

Quẻ hạ thuộc cung Hợi. Nên giữ trạng thái bình thường vốn có, biến đổi tùy cơ duyên, chờ đợi quý nhân trợ giúp. Mọi việc nên bình tĩnh, chậm chắc, không nên nôn nóng vội vã lại thành hỏng chuyện của mình.

Thử quái thủ cựu tùy duyên chi tượng. Phàm sự bất như ý chủ hung dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Cát Bình Ngộ Nạn

Cát Bình, tự Xứng Bình, là người Lạc Dương sống vào cuối thời Đông Hán. Năm sinh không rõ, mất vào năm Kiến An thứ 5, tức là năm 200. Trong thời kỳ Hán Hiến Đế Lưu Hiệp (181 – 234) ở ngôi, ông giữ chức Thái y lệnh.

Năm Kiến An thứ nhất (năm 196), sau khi Tào Tháo đón Hán Hiến Đế dời đô đến Hứa Xương, đã nắm giữ triều chính. Lưu Hiệp mấy lần âm mưu giết Tào Tháo, nhưng đều không thực hiện được.

Năm Kiến An thứ 3 (năm 198), Lưu Bị bị Lã Bố đánh bại, tạm thời đến nương nhờ Tào Tháo. Tào Tháo cho Lưu Bị làm Tả tướng quân, cho Quan Vũ làm Trung lang tướng (chức quan võ sau tướng quân). Lưu Bị ôm ấp hoài bão lớn, nhưng giấu giếm không thể hiện. Lúc này Quốc cữu, Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa mang tờ chiếu thư giấu trong đai áo hoàng đế, cùng với Lưu Bị và quan Hiệu úy Chủng Tập ờ Trường Thủy, Tướng quân Ngô Tử Lan, Vương Phục ngầm âm mưu đợi thời cơ trừ bỏ Tào Tháo.

Tháng giêng năm Kiến An thứ 5 (năm 200), Tào Tháo đã làm Thừa tướng, lại càng không coi hoàng đế ra gì. Quốc cữu Đống Thừa từ sau khi đọc xong tờ chiếu thư trên chiếc đai áo của hoàng đế, khổ vì không có kế sách gì trừ bỏ được Tào Tháo, trong lòng vừa tức giận lại vừa lo lắng, không lâu sau thì ngã bệnh. Hiến Văn Đế sai Thái y Cát Bình đến trị bệnh cho Đống Thừa. Cát Bình đã đọc chiếu thư mật của hoàng đế, quyết tâm muốn diệt trừ Tào Tháo, vì thế hai người liền bàn bạc mưu kế giết Tào Tháo. Không ngờ tai vách mạch rừng, vốn là gia nô của Đống Thừa là Tần Khánh Đồng có quan hệ mờ ám với vợ bé của Đổng Thừa, bị Đổng Thừa đánh cho bốn mươi trượng, Tần Khánh Đồng vì thế mà ôm hận trong lòng. Hắn nghe được việc đó, liền lập tức tố cáo chuyện của Đống Thừa và Cát Bình với Tào Tháo.

Vốn Đổng Thừa và Cát Bình lập mưu rằng, do Tào Tháo thường mức bệnh đau đầu, khi bệnh này phát tác thì không có thuốc nào chữa được, chỉ có gọi Cát Bính kê cho đơn thuốc, mói có thể tạm thời thuyên giảm. Cho nên họ quyết định ngầm cho thuốc độc, để sát hại Tào Tháo.

Sau khi Tào Tháo nhận được tín mật báo thì vô cùng tức giận. Nhưng Tào Tháo lại không lập tức sai binh lính đi bắt Đổng Thừa và Cát Bình, mà lại tương kế tựu kế, đợi Cát Bình mang thuốc đến.

Hôm đó, bệnh đau đầu của Tào Tháo lại phát tác, bèn sai người đến mời Thái y Cát bình đến trị bệnh. Cát Bình theo kế, cho độc vào trong thuốc, chuẩn bị đầu độc chết Tào Tháo. Không ngờ Tào Tháo bảo Cát Bình nếm thử xem thang thuốc có còn nóng không. Cát Bình nói: “Thuốc đã hết nóng, Thừa tướng mau uống đi.” Tào Tháo nhất định bắt Cát Bình uống thử rồi sau mới uống. Thấy sự việc bất lợi, Cát Bình đành phải liều mạng túm lấy tai Tào Tháo, định đổ thuốc vào miệng Tào Tháo. Nhưng Tào Tháo khỏe mạnh, hất đố chén thuốc, hô lớn: “Người đâu, bắt lấy hắn!” Vệ binh nấp sau bức màn liền bắt Cát Bình lại. Tào Tháo dùng đủ loại cực hình tàn khốc, muốn truy ra người chủ mưu phía sau, nhưng Cát Bình đến chết cũng không nhận, chỉ nói rằng mình sớm đã có âm mưu đầu độc giết chết tên nghịch tặc. Cát Bình luôn miệng mắng chửi Tào Tháo, vì thế Tào Tháo hạ lệnh cát lưỡi của Cát Bình. Nhưng Cát Bình vẫn dùng tay chỉ vào Tào Tháo, tỏ vẻ căm hận mắng chửi, Tào Tháo sai người chặt ngón tay của Cát Bình. Cát Bình ngẩng cao đầu dậm chân, vẫn ra vẻ mắng chửi không ngớt, cuối cùng đâm đầu vào cột tự vẫn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Cát Bình Ngộ Nạn hay Cát Bình gặp nạn

Phòng thân tháng cô hồn, tránh hồn xiêu phách lạc

Theo dân gian, tháng 7 Âm lịch hay còn gọi là tháng Cô Hồn, vào tháng này, quỷ môn quan được mở ra, âm khí có thể tràn lên dương gian mà ngày 14 tháng 7 âm lịch là ngày âm khí nặng nhất.
Phòng thân tháng cô hồn, tránh hồn xiêu phách lạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thuyết thì vào nửa đêm ngày này, nếu tới những địa điểm hoang vu, hiu quạnh sẽ nhìn thấy cảnh tượng hàng trăm linh hồn đi trên một cây cầu hướng vế phía dân gian, có một linh hồn cầm đèn lồng đỏ dẫn lối, vì vậy, vào đêm ngày 14 âm lịch, chớ nên ra khỏi nhà.    Vào tháng “cô hồn”, có những điều kiêng kị bạn cần phải nhớ để biến hung thành cát, vạn sự an khang.
 
 30 điều kiêng kị trong tháng cô hồn:
 
1. Đầu giường treo chuông gió: Chuông gió treo đầu giường dễ chiêu nhiễu các vong linh và thời điểm ngủ là thời điểm linh hồn dễ xâm nhập vào giấc ngủ của bạn.
 
2. Đi tắm buổi đêm: Khuyên bạn không nên đi tắm quá khuya, điều này sẽ mang lại rất nhiều phiền toái.
 
3. Đốt tiền vàng bừa bãi: Hành động đốt tiền vàng là hành động gửi tiền vàng và đồ dùng cho các vong linh, bởi vậy, càng đốt nhiều tiền vàng thì vong linh tới càng nhiều.   4. Ăn vụng đồ cúng: Nếu chưa thắp hương xong, hương chưa tàn, chưa vái lạy mà đã ăn vụng đồ cúng bái thì ngay lập tức sẽ gặp xui rủi.   5. Huýt sáo vào buổi tối: Buổi tối huýt sáo sẽ dễ “dẫn dụ” các vong linh bởi các vong linh rất “thích” tiếng sáo.
 
6. Gọi tên: Ban đêm không nêu kêu tên, nếu bắt buộc thì có thể gọi biệt danh, đề phòng các vong linh nhớ tên bạn.
 
7. Bơi lội: Lúc này, các vong linh rất thích chơi trò kéo chân bạn, nguy cơ tử vong là rất lớn.
 
8. Trốn tìm: Các vong linh rất thích dọa người, thời điểm bạn đang trốn một mình trong bóng tối là thời điểm bạn dễ bị “dọa” nhất.   9. Trồng cây đa cổ thụ trước cửa nhà: Cây là đa là nơi âm khí tích tụ, là nơi mà các vong linh rất “thích”, trừ khi bạn muốn các vong linh vào nhà mình thì có thể trồng cây đa trước cửa nhà.
 
10. Thức khuya: Lúc cơ thể con người mệt mỏi nhất là đêm khuya, lúc này âm khí lại là lúc vượng nhất, vì vậy bạn không nên thức quá khuya.
 
11. Dựa vào tường: Các vong linh bình thường rất thích chốn lạnh lẽo nên thường ngự trên tường để nghỉ ngơi, đứng dựa vào tường đồng nghĩa với việc rất có thể bạn đang đứng cạnh một “ai đó”.
 
12. Nhặt tiền lẻ rơi trên đường: Tiền này là của các vong linh, nếu bạn nhặt nghĩa là xâm phạm vào đồ của các vong linh ấy, bạn sẽ gặp rủi ro.
 
13. Dễ dàng quay đầu lại: Khi bạn đang đi ngoài đường ở nơi hiu quạnh, chợt cảm thấy giống như có người gọi mình, không nên quay đầu lại, bởi rất có thể là một linh hồn nào đó đã gọi bạn.
 
14. Tùy tiện bá vai bá cổ: Con người có 3 ngọn lửa trên đầu và hai bên vai, nếu mà khoác vai nhau thì ngọn lửa hai bên vai sẽ bị dập tắt và các vong linh nhân cơ hội này sẽ trèo lên vai.  
 
15. Để dép lê ở đầu giường: Các vong linh nhìn vào đôi dép sẽ biết bạn đang ở chỗ nào, nếu dép lê hướng vào giường thì các vong linh sẽ lên giường và ngủ cùng với bạn. 
 
16. Cắm đũa giữa bát cơm: Đây là hình thức tế bái, tương tự như cắm hương ở bát hương, khi bạn cắm đũa vào giữa bát cơm thì sẽ có ý là mời các vong linh tới “ăn cùng”.
 
17. Đi một mình: Khi bạn đi một mình thì dễ bị các vong linh “chú ý”, tốt nhất là đi đâu thì nên rủ người đi cùng nhé.
 
18. Chụp ảnh buổi tối: Chụp ảnh vào buổi tối đôi khi vô tình thu lại được hình ảnh của các vong linh, các vong linh sẽ chụp ảnh cùng bạn và theo về nhà.
 
19. Chơi bói chén: Bình thường chơi bói chén đã có nhiều chuyện không tưởng rồi, huống chi lại chơi bói chén trong tháng cô hồn.   20. Dép lê đặt ngay ngắn bên giường: Khi ra ngoài du lịch, bạn đặt dép lê ngay ngắn bên giường thì đồng nghĩa với việc dẫn lối cho các vong linh, họ sẽ làm náo loạn giường bạn.
 
21. Nửa đêm không nên phơi quần áo: Quần áo ướt dễ làm cho sóng điện tích tụ, phơi quần áo ướt chẳng khác nào tạo ra hãm tịnh trảo quỷ (cạm bẫy), như vậy, các vong linh sẽ tìm tới bạn để gây rắc rối. 
 
22. Không nên để tóc tai bù xù khi ngủ: Tháng cô hồn, khắp nơi đều là cô hồn dã quỷ, nếu tóc tai bù xù họ sẽ cho rằng bạn là đồng loại, và sẽ gọi bạn để “tám chuyện”.
 
23. Không nên “đến tháng”: Dân gian cho rằng khi phụ nữ “tới tháng” là lúc cơ thể không thuần khiết, xúc phạm tới thần kinh như vậy sẽ bị làm cho bất hạnh. Tuy nhiên, cách nói này chưa có căn cứ, mặc dù vậy bạn vẫn nên cẩn thận.
 
24. Không nên mừng sinh nhật vào buổi tối: Những người có sinh nhật vào tháng 7 âm lịch thì thật xui xẻo, bởi khi tổ chức sinh nhật vào buổi tối thì sẽ có “nhiều người” tới dự sinh nhật cùng, tốt nhất là nên tổ chức vào ban ngày.
 
25. Không nên bắt chuồn chuồn và châu chấu: Dân gian cho rằng hai loài côn trùng này là hóa thân của quỷ hồn, nếu tùy tiện bứt chúng thì cần thận, bạn đang dẫn âm linh về nhà đó.
 
26. Không nên nói từ “Quỷ”: Trong những ngày này, trên dương gian âm khí cực mạnh, có ở khắp nơi vì vậy, nên thận trọng từ lời nói tới việc làm, kị nói những từ xui xẻo, cũng không nói linh tinh đề phòng âm linh ngay bên cạnh.
 
27. Không dẫm đạp lên tro bụi tiền vàng mã: Vàng mã là tế phẩm cho cõi Âm, khi đốt cháy, các vong linh sẽ tụ tập xung quanh để thưởng thập. Nếu bạn nhảy, dẫm lên tro của vàng mã thì là xâm phạm với các vong linh, bạn sẽ không thể tránh khỏi xui xẻo.
 
28. Không nên khoác vai người khác: Dân gian quan niệm, trên mỗi người đầu có ba ngọn lửa, ở hai bên vai và trên đỉnh đầu, như vậy, các linh hồn sẽ không dám tới gần bạn. Nhưng khi bạn khoác vai người khác, vô tình dập tắt ngọn lửa trên vai họ đi, như vậy bạn sẽ gặp phải phiền toái.
 
29. Lễ cầu siêu mở cửa âm phủ: Từ ngày 1 tháng 7 âm lịch, Quỷ môn sẽ mở và tất cả các vong linh được phép trở về dương gian thăm người thân. Bởi vậy, vào buổi chiều các nhà phải đặt trước cửa nhà mình một mâm đồ cúng gọi là lễ cúng chúng sinh, để cho các vong linh có cái ăn, không quấy nhiễu người nhà. Tế phẩm cũng không cần nhiều quá, chỉ cần vài món là được.
 
30. Thả đèn hoa đăng: Thả đèn hoa đăng là thả những ngọn đèn hình hoa sen trôi sông, đèn có thể là bằng gỗ hoặc giấy. Tuy nhiên, nguồn gốc của việc thả đèn hoa đăng là để cho những người chết đuối tìm được đường về nhà, để hưởng vật phẩm tế lễ.

Trên đây là những điều còn lưu truyền trong dân gian, chưa có khoa học nào chứng minh sự đúng đắn của nó. Thiếu cơ sở khoa học, thiếu bằng chứng xác thực nhưng thói thường vẫn cho rằng “có kiêng có lành”. Vì vậy mọi người chỉ nên tham khảo, đừng để những điều trên ảnh hưởng quá nhiều tới cuộc sống của chính mình. 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng thân tháng cô hồn, tránh hồn xiêu phách lạc

Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Ngọ –

Nhâm Ngọ (1942, 2002) 1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một
Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Ngọ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhâm Ngọ (1942, 2002)

nham-ngo.jpg
1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một cách đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Cái chết cũng có thể đến với người hoàn toàn khoẻ mạnh qua tai nạn hoặc thiên tai. Ký hiệu X không ám chỉ cái chết nhưng có thể có một tai nạn nghiêm trọng hoặc một sự kiện xấu nào đó gây nguy hiểm cho tính mạng. Lúc này, cần đeo biểu tượng Phật bản mệnh, vị Phật bảo vệ con giáp của bạn. 2. Sức khỏe XX: Sẽ có rất nhiều rắc rối về sức khoẻ, làm ảnh hưởng tới lịch công tác của bạn, thậm chí còn gây phiền não về tinh thần. Bạn dễ bị ngộ độc thức ăn và nhiễm bệnh lây truyền theo gió (người xưa tin rằng, những rắc rối liên quan tới sức khoẻ sinh ra bởi gió). 3. Tài chính 0X: Vận may này phản ánh sự ổn định về tài chính của bạn trong suốt năm tới. Nó cho thấy bạn sẽ khá hơn hay kém đi về mặt tiền bạc. Ký hiệu 0X ám chỉ tình hình kinh tế tương đối ổn định, sẽ không có mất mát. 4. Thành công X: Vận may này phản ánh triển vọng trong công việc và cơ hội thành công. Cần chú ý đến vận may này nếu bạn còn đi học, đang làm việc cho một công ty hoặc vừa mới bắt đầu một công việc mới. Vận may này cũng phản ánh sự tỉnh táo về trí tuệ và khả năng phát huy tối đa lợi thế của năm. Ký hiệu X ám chỉ bạn sẽ là đối tượng của những lời thị phi, điều này ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của mọi người về bạn. Những lời nói xấu có thể gây hại cho bạn. Cách tốt nhất để tránh vận xấu này là sơn nhà màu trắng, hiến tặng tiền để nhà chùa quét vôi lại. Việc này hàm ý rửa sạch tường để tẩy bỏ tất cả bụi bẩn. 5. Tinh Thần X: Vận may này cho thấy liệu bạn có gặp những trở ngại về tinh thần trong năm hay không, và liệu bạn có thể tránh bị tổn thương nặng nề hay không. Người xưa tin rằng, tổn thương này có thể do bạn vô tình gặp phải các vong xấu lang thang trên thế gian, hay vô ý xúc phạm hoặc làm cáu giận một vị thần linh nào đó, ví dụ nói điều xấu ở chùa hay những nơi linh thiêng, vô tình đi tiểu ngoài trời mà không xin phép, vô tình làm đau những thần linh ẩn nấp trong các bụi rậm hay cây già. Kết quả là một số người đổ bệnh không rõ lý do. Điều bất hạnh này có thể xảy ra với những người mà sức mạnh tinh thần trong năm đó thấp. Ký hiệu X ám chỉ khả năng xảy ra điều bất hạnh này trong năm nhưng nguy cơ không cao. Giáp Ngọ (1954)
giap-ngo.jpg
1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một cách đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Cái chết cũng có thể đến với người hoàn toàn khoẻ mạnh qua tai nạn hoặc thiên tai. Ký hiệu X không ám chỉ cái chết nhưng có thể có một tai nạn nghiêm trọng hoặc một sự kiện xấu nào đó gây nguy hiểm cho tính mạng. Lúc này, cần đeo biểu tượng Phật bản mệnh, vị Phật bảo vệ con giáp của bạn.  2. Sức khỏe X: Có rắc rối về sức khoẻ, cần cẩn trọng. Một trong những cách hiệu quả để đề phòng trở ngại này là đặt cho mình một tên ở nhà, tốt hơn nữa hãy yêu cầu bạn bè và người thân trong gia đình thôi không gọi bạn bằng tên thật trong suốt cả năm. 3. Tài chính X: Vận may này phản ánh sự ổn định về tài chính của bạn trong suốt năm tới. Nó cho thấy bạn sẽ khá hơn hay kém đi về mặt tiền bạc. Chỉ cần có một X trong vận may thì đã phải hết sức chú ý về tiền bạc. Tuyệt đối không nên bắt đầu một hình thức kinh doanh mới và không đầu tư mới, tốt nhất là bảo toàn lực lượng. 4. Thành công X: Vận may này phản ánh triển vọng trong công việc và cơ hội thành công. Cần chú ý đến vận may này nếu bạn còn đi học, đang làm việc cho một công ty hoặc vừa mới bắt đầu một công việc mới. Vận may này cũng phản ánh sự tỉnh táo về trí tuệ và khả năng phát huy tối đa lợi thế của năm. Ký hiệu X ám chỉ bạn sẽ là đối tượng của những lời thị phi, điều này ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của mọi người về bạn. Những lời nói xấu có thể gây hại cho bạn. Cách tốt nhất để tránh vận xấu này là sơn nhà màu trắng, hiến tặng tiền để nhà chùa quét vôi lại. Việc này hàm ý rửa sạch tường để tẩy bỏ tất cả bụi bẩn. 5. Tinh Thần X: Vận may này cho thấy liệu bạn có gặp những trở ngại về tinh thần trong năm hay không, và liệu bạn có thể tránh bị tổn thương nặng nề hay không. Người xưa tin rằng, tổn thương này có thể do bạn vô tình gặp phải các vong xấu lang thang trên thế gian, hay vô ý xúc phạm hoặc làm cáu giận một vị thần linh nào đó, ví dụ nói điều xấu ở chùa hay những nơi linh thiêng, vô tình đi tiểu ngoài trời mà không xin phép, vô tình làm đau những thần linh ẩn nấp trong các bụi rậm hay cây già. Kết quả là một số người đổ bệnh không rõ lý do. Điều bất hạnh này có thể xảy ra với những người mà sức mạnh tinh thần trong năm đó thấp. Ký hiệu X ám chỉ khả năng xảy ra điều bất hạnh này trong năm nhưng nguy cơ không cao. Bính Ngọ (1966)
binh-ngo.jpg
1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một cách đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Cái chết cũng có thể đến với người hoàn toàn khoẻ mạnh qua tai nạn hoặc thiên tai. Ký hiệu X không ám chỉ cái chết nhưng có thể có một tai nạn nghiêm trọng hoặc một sự kiện xấu nào đó gây nguy hiểm cho tính mạng. Lúc này, cần đeo biểu tượng Phật bản mệnh, vị Phật bảo vệ con giáp của bạn. 2. Sức khỏe 000: Bạn sẽ có một năm yên lành không rắc rối về sức khoẻ. Với người đã mắc bệnh trong năm trước thì năm nay sức khoẻ sẽ có dấu hiệu bình phục. Sức khoẻ tốt cũng có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, ít buồn chán về tinh thần. Cách nhìn nhận về các vấn đề của bạn trong năm nay mang tính tích cực, vì vậy bạn sẽ chung sống tốt với đồng nghiệp, người thân trong gia đình. 3. Tài chính 000: Vận may này phản ánh sự ổn định về tài chính của bạn trong suốt năm tới. Nó cho thấy bạn sẽ khá hơn hay kém đi về mặt tiền bạc. Ký hiệu 000 ám chỉ có thể có thêm của cải đáng kể trong năm. Công việc làm ăn phát đạt, việc mở rộng kinh doanh gặt hái kết quả tốt. Tất cả các dự án, thoả thuận trong lĩnh vực này sẽ diễn ra trôi chảy, làm gia tăng khả năng tài chính của bạn. 4. Thành công X: Vận may này phản ánh triển vọng trong công việc và cơ hội thành công. Cần chú ý đến vận may này nếu bạn còn đi học, đang làm việc cho một công ty hoặc vừa mới bắt đầu một công việc mới. Vận may này cũng phản ánh sự tỉnh táo về trí tuệ và khả năng phát huy tối đa lợi thế của năm. Ký hiệu X ám chỉ bạn sẽ là đối tượng của những lời thị phi, điều này ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của mọi người về bạn. Những lời nói xấu có thể gây hại cho bạn. Cách tốt nhất để tránh vận xấu này là sơn nhà màu trắng, hiến tặng tiền để nhà chùa quét vôi lại. Việc này hàm ý rửa sạch tường để tẩy bỏ tất cả bụi bẩn. 5. Tinh Thần X: Vận may này cho thấy liệu bạn có gặp những trở ngại về tinh thần trong năm hay không, và liệu bạn có thể tránh bị tổn thương nặng nề hay không. Người xưa tin rằng, tổn thương này có thể do bạn vô tình gặp phải các vong xấu lang thang trên thế gian, hay vô ý xúc phạm hoặc làm cáu giận một vị thần linh nào đó, ví dụ nói điều xấu ở chùa hay những nơi linh thiêng, vô tình đi tiểu ngoài trời mà không xin phép, vô tình làm đau những thần linh ẩn nấp trong các bụi rậm hay cây già. Kết quả là một số người đổ bệnh không rõ lý do. Điều bất hạnh này có thể xảy ra với những người mà sức mạnh tinh thần trong năm đó thấp. Ký hiệu X ám chỉ khả năng xảy ra điều bất hạnh này trong năm nhưng nguy cơ không cao. Mậu Ngọ (1978)
mau-ngo.jpg
1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một cách đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Cái chết cũng có thể đến với người hoàn toàn khoẻ mạnh qua tai nạn hoặc thiên tai. Ký hiệu X không ám chỉ cái chết nhưng có thể có một tai nạn nghiêm trọng hoặc một sự kiện xấu nào đó gây nguy hiểm cho tính mạng. Lúc này, cần đeo biểu tượng Phật bản mệnh, vị Phật bảo vệ con giáp của bạn.  2. Sức khỏe 00: Bạn sẽ có một năm yên lành không rắc rối về sức khoẻ. Với người đã mắc bệnh trong năm trước thì năm nay sức khoẻ sẽ có dấu hiệu bình phục. Sức khoẻ tốt cũng có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, ít buồn chán về tinh thần. Cách nhìn nhận về các vấn đề của bạn trong năm nay mang tính tích cực, vì vậy bạn sẽ chung sống tốt với đồng nghiệp, người thân trong gia đình. 3. Tài chính XX: Vận may này phản ánh sự ổn định về tài chính của bạn trong suốt năm tới. Nó cho thấy bạn sẽ khá hơn hay kém đi về mặt tiền bạc. Ký hiệu XX ám chỉ có sự bất ổn lớn về tình hình tài chính. Công việc làm ăn có thể đột nhiên xoay chuyển theo hướng xấu, lợi nhuận đột ngột giảm vì một tai hoạ nào đó. Doanh thu có thể lên xuống bất thường. Để tránh vận xấu này, bạn cần làm từ thiện ngay lập tức. Đóng góp cho một tổ chức từ thiện đáng tin cậy là cách tốt nhất để vượt qua sự bất ổn về tài chính. 4. Thành công X: Vận may này phản ánh triển vọng trong công việc và cơ hội thành công. Cần chú ý đến vận may này nếu bạn còn đi học, đang làm việc cho một công ty hoặc vừa mới bắt đầu một công việc mới. Vận may này cũng phản ánh sự tỉnh táo về trí tuệ và khả năng phát huy tối đa lợi thế của năm. Ký hiệu X ám chỉ bạn sẽ là đối tượng của những lời thị phi, điều này ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của mọi người về bạn. Những lời nói xấu có thể gây hại cho bạn. Cách tốt nhất để tránh vận xấu này là sơn nhà màu trắng, hiến tặng tiền để nhà chùa quét vôi lại. Việc này hàm ý rửa sạch tường để tẩy bỏ tất cả bụi bẩn. 5. Tinh Thần X: Vận may này cho thấy liệu bạn có gặp những trở ngại về tinh thần trong năm hay không, và liệu bạn có thể tránh bị tổn thương nặng nề hay không. Người xưa tin rằng, tổn thương này có thể do bạn vô tình gặp phải các vong xấu lang thang trên thế gian, hay vô ý xúc phạm hoặc làm cáu giận một vị thần linh nào đó, ví dụ nói điều xấu ở chùa hay những nơi linh thiêng, vô tình đi tiểu ngoài trời mà không xin phép, vô tình làm đau những thần linh ẩn nấp trong các bụi rậm hay cây già. Kết quả là một số người đổ bệnh không rõ lý do. Điều bất hạnh này có thể xảy ra với những người mà sức mạnh tinh thần trong năm đó thấp. Ký hiệu X ám chỉ khả năng xảy ra điều bất hạnh này trong năm nhưng nguy cơ không cao. Canh Ngọ (1929, 1990)
canh-ngo.jpg
1. Sinh lực X: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện một cách đột ngột không có dấu hiệu báo trước. Cái chết cũng có thể đến với người hoàn toàn khoẻ mạnh qua tai nạn hoặc thiên tai. Ký hiệu X không ám chỉ cái chết nhưng có thể có một tai nạn nghiêm trọng hoặc một sự kiện xấu nào đó gây nguy hiểm cho tính mạng. Lúc này, cần đeo biểu tượng Phật bản mệnh, vị Phật bảo vệ con giáp của bạn. 2. Sức khỏe 0X: Ít lý do để lo lắng về sức khoẻ. Năm nay nói chung sẽ thuận buồm xuôi gió. 3. Tài chính 00: Vận may này phản ánh sự ổn định về tài chính của bạn trong suốt năm tới. Nó cho thấy bạn sẽ khá hơn hay kém đi về mặt tiền bạc. Ký hiệu 00 ám chỉ bạn có thể có thêm của cải đáng kể trong năm. Công việc làm ăn có khả năng tiến triển tốt. Tất cả các dự án, thoả thuận trong lĩnh vực này sẽ diễn ra trôi chảy, làm gia tăng khả năng tài chính của bạn. 4. Thành công X: Vận may này phản ánh triển vọng trong công việc và cơ hội thành công. Cần chú ý đến vận may này nếu bạn còn đi học, đang làm việc cho một công ty hoặc vừa mới bắt đầu một công việc mới. Vận may này cũng phản ánh sự tỉnh táo về trí tuệ và khả năng phát huy tối đa lợi thế của năm. Ký hiệu X ám chỉ bạn sẽ là đối tượng của những lời thị phi, điều này ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của mọi người về bạn. Những lời nói xấu có thể gây hại cho bạn. Cách tốt nhất để tránh vận xấu này là sơn nhà màu trắng, hiến tặng tiền để nhà chùa quét vôi lại. Việc này hàm ý rửa sạch tường để tẩy bỏ tất cả bụi bẩn. 5. Tinh Thần X: Vận may này cho thấy liệu bạn có gặp những trở ngại về tinh thần trong năm hay không, và liệu bạn có thể tránh bị tổn thương nặng nề hay không. Người xưa tin rằng, tổn thương này có thể do bạn vô tình gặp phải các vong xấu lang thang trên thế gian, hay vô ý xúc phạm hoặc làm cáu giận một vị thần linh nào đó, ví dụ nói điều xấu ở chùa hay những nơi linh thiêng, vô tình đi tiểu ngoài trời mà không xin phép, vô tình làm đau những thần linh ẩn nấp trong các bụi rậm hay cây già. Kết quả là một số người đổ bệnh không rõ lý do. Điều bất hạnh này có thể xảy ra với những người mà sức mạnh tinh thần trong năm đó thấp. Ký hiệu X ám chỉ khả năng xảy ra điều bất hạnh này trong năm nhưng nguy cơ không cao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Ngọ –

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Lễ Hội Quan Lạn được tổ chức vào ngày 10 tới ngày 20 tháng 6 âm lịch tại Bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Lễ Hội Quan Lạn

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tới ngày 20 tháng 6 âm lịch (chính hội vào ngày 18 tháng 6).

Địa điểm: Bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Khánh Dư (tức Nhân Huệ Vương) là võ tướng nhà Trần.

Nội dung: gày 10 tháng 6: khoá làng (một tục làm trong lễ hội của người Việt), dân trong làng không được đi bất cứ đâu nhưng những người làm ăn ở xa và khách thập phương lại có thể về làng dự hội. Lễ hội Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị thuyền đua. Thuyền đua thường là thuyền đi biển trọng tải 5 đến 6 tấn, rộng và sâu lòng, được hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền.

Ngày 16 làm lễ nghinh thần. Dâng lễ rước bài vị của Trần Khánh Dư từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dưới bến, đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tưng bừng náo nhiệt.

Ngày 18 tháng 6 vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thường lúc này nước triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên văn áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh, lính bên võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình, quân lính cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tướng múa những đường đao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tượng trưng cho ba lần đánh thắng quân Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập hợp trước miếu, hai vị tướng vào tế, khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu.

Lễ hội Quan Lạn diễn ra từ ngày 10 – 20/6 âm lịch, tại bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh mang dấu ấn của một hội làng truyền thống nhưng rất hoành tráng thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nước của những người dân vùng biển.

Đây là dịp người dân huyện đảo Vân Đồn và du khách thập phương tụ hội về ôn lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha ta đã bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, đồng thời cũng là ngày hội cầu ngư của cư dân vùng biển. Và với người dân xã đảo Quan Lạn, đây còn là ngày hội làng để bà con, anh em lâu ngày xa quê có dịp gặp mặt nhau tại quê hương.Nét mới của lễ hội năm nay được người xem thích thú đó là chương trình biểu diễn múa lân của đoàn lân Từ Long Đường đến từ TP Hạ Long. Cùng với đó là các chương trình như giao lưu văn hoá văn nghệ, hoạt động thể thao và trò chơi dân gian… Điểm nhấn quan trọng được người dân và du khách chờ đón nhiều nhất tại lễ hội đó là phần thi bơi chèo truyền thống diễn ra giữa 2 giáp Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ tại Bến Đình.

Trong tiếng reo hò náo nhiệt, tưng bừng khí thế, lễ hội Vân Đồn thực sự mang dấu ấn của một hội làng truyền thống thể hiện tinh thần thượng võ, chống giặc ngoại xâm của dân tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 6 âm lịch - Lễ Hội Quan Lạn

Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nữ mang chi tiết

Bính Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bính Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CHẤN
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Xương CON CHUỘT. Tướng tinh CON RẮN

Bà Chúa Ngọc độ mạng

Bính Tý Cung Càn sinh ra,
Mạng Thủy là nước mà ta nhờ nguồn.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Kẻ đưa người rước người mong chuyện tình.
Tuổi này lúc nhỏ khó nuôi,
Hai lần chết hụt nổi trôi nhiều lần.
Cũng nhờ âm đức cha ông,
Nghi đâu có đó khó mong ai lường.
Bính Tý người nữ thì sang,
Nhưng mà lở dở chẳng an một đời.
Đầu tiên trắc trở lôi thôi,
Duyên sau mới họp, mới thôi lỡ làng.
Số này cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán cửa nhà làm nên.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Cuộc sống có nhiều may mắn, khôn lanh, nhưng năm 31 tuổi lại gặp nạn hay trở ngại về cá nhân và thân thể. Năm này tức là năm 31 tuổi, không được hay đẹp lắm. Cuộc đời gặp nhiều may, nhưng ít rủi, có thể tạo được công danh một thời gian, đời sống có phần sung túc, việc gia đình êm ấm và thuận hòa.

Tóm lại: Cuộc đời nhiều sung sướng về cá nhân và thể xác. Bao giờ cũng có thể hưởng được những ân huệ của bạn bè. Tình thương yêu bạn bè cũng như tình thương yêu gia tộc. Số tốt gặp nhiều may mắn trong cuộc đời sắp tới.

Tuổi Bính Tý có nhiều cơ hội phát triển về sự nghiệp. Số hưởng thọ trung bình từ khoảng 54 đến 64 tuổi, nhưng ăn ở hiền lành thì gia tăng niên kỷ, gian ác thì giảm kỷ, đó là luật định của tạo hóa vậy.

TÌNH DUYÊN

Về vấn đề tình duyên, tuổi Bính Tý có qua một giai đoạn khổ lòng hồi tuổi nhỏ. Nhưng qua giai đoạn đó, tuổi Bính Tý cũng gặp nhiều trường hợp may mắn về vấn đề nầy. Tuy nhiên theo sự nghiên cứu về khoa học chiết tự và huyền bí thì tuổi Bính Tý có ba trường hợp như sau:

Nếu sanh vào những tháng nầy thì tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời sẽ phải hai lần thay đổi về tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5,8 và 10 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng sau đây bạn sẽ được hưởng trọn hạnh phúc, cuộc đời không có thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo, lại gặp nhiều trớ trêu, nhưng có thể giải quyết được tất cả, cuộc sống về phần gia đạo không đến đỗi phải đau buồn, tuy nhiên được hưởng nhiều thú vui của tình hạnh phúc, gia đạo được yên hòa phải ở vào năm mà tuổi bạn ở vào tuổi 36 trở đi. Công danh nếu có cũng chỉ ở trong mức độ bình thường, nếu không có công danh, thì việc tâm tư không có gì mới lạ.

Sự nghiệp phải do một người khác phụ giúp mới làm nên, cá nhân khó mà hoàn thành sự nghiệp. Tiền bạc vẫn trong mức bình thường của cuộc sống, có khi thâu nhiều kết quả về vấn đề này. Nhưng sau đó lại hao tài tốn của. Tuổi nhỏ khó cầm tiền. Phải ở vào 34 tuổi sắp lên mới có thể nắm chắc về vấn đề tiền bạc được.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trong việc làm ăn hay bất cứ việc gì có liên quan đến, nhất là sự làm ăn, nên lựa được những tuổi hạp với tuổi mình thì tốt. Những tuổi nầy rất hạp với tuổi Bính Tý bất kỳ trong công việc làm ăn hay những việc liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ. Những tuổi này là những tuổi rất hạp với tuổi Bính Tý trong bất cứ công việc gì có liên quan đến cuộc đời mà không bao giờ sợ thất bại.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong cuộc hôn nhơn nếu gặp những tuổi nầy, thì sự làm ăn được phát đạt, cuộc đời có nhiều sung sướng, kết quả và thành công trong mọi công việc. Theo sự nghiện cứu về chiêm tinh học, thì tuổi Bính Tý hợp với những tuổi nầy, chẳng những hợp về lương duyên mà còn hợp về đường tài lộc, đó là các tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Ất Dậu, Ất Hợi, Quý Dậu. Những tuổi nầy rất hợp với tuổi Bính Tý, nếu kết hôn sẽ có nhiều dịp may trong cuộc sống, cũng như đẩy mạnh cuộc sống của hai tuổi lên đến mức độ tột cùng của danh vọng và tiền bạc.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống bạn chỉ có thể sống một đời tầm thường. Nghĩa là chỉ đủ sống mà thôi, vì tuổi này chỉ hợp về lương duyên mà không hợp về đường tài lộc, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Mậu Dần, Giáp Thân. Kết hôn với những tuổi trên bạn chỉ có thể tạo lấy được một cuộc sống trung bình mà thôi.

Nếu kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn khó tạo ra nhiều hy vọng mà chỉ sống trong sự nghèo khổ triền miên, làm ăn không bao giờ tạo được cơ hội, đó là các tuổi: Canh Thìn, Bính Tuất, Giáp Tuất.

Trên đây là các tuổi nếu bạn kết duyên sẽ xảy ra hoàn cảnh thiếu thốn và cuộc đời khó mà có thể thảnh thơi được.

Có những năm rất xung khắc tuổi, nếu tính việc hôn nhơn sẽ không thành tựu, hay thành thì về sau phải chịu cách xa, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 15, 21, 26, 27, 33, 38 và 39 tuổi. Nếu những năm này kết hôn sẽ có thể xảy ra những trường hợp trên.

Sanh vào những tháng nầy, có số đa phu hay ít ra cũng phải qua đau khổ về chồng con, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4 và 5 Âm lịch.

Bản nhận xét tuổi Bính Tý qua những năm khó khăn, gặp nhiều trở ngại trong cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 21, 24, 28 và 32 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng bịnh hoạn và tai nạn.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Sau đây là các tuổi đại kỵ với tuổi bạn, nếu kết hôn hay hợp tác làm ăn sẽ gặp nhiều cay đắng, cuộc đời ở vào vì sao tuyệt mạng hay gặp cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là các tuổi rất đỗi xung khắc trong việc kết hôn và trong mọi công việc khác có liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Quý Mùi, Tân Mão và Tân Mùi. Nên tránh những tuổi này thì tốt hơn.

Gặp tuổi kỵ trong vấn đề tình duyên nên tránh việc làm lễ hôn nhân hay ra mắt gia đình thân tộc. Gặp tuổi kỵ trong việc làm ăn nên tránh việc giao dịch về tiền bạc. Trong gia đình nên cúng sao giải hạn thì sẽ được giải hạn ngay.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

T uổi Bính Tý xuất hành vào những ngày chẵn, giờ chẵn thì tốt, làm ăn hay giao dịch đều được có nhiều kết quả, không sợ bị thất bại. Và ngày, giờ và tháng như trên được áp dụng trong suốt cuộc đời sẽ luôn luôn được toại nguyện như ý.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 21 đến 25 tuổi: Năm 21 tuổi, có tài lộc đôi chút, toàn năm đều tốt cho mạng số, năm này không có thay đổi nhà cửa, việc làm. Nhưng sẽ có bịnh hoạn vào tháng tám trở đi. 22 tuổi, năm này gặp nhiều xung khắc trong những tháng 4, 7 và 10 Âm lịch, ngoài ra, những tháng khác bình thường. Ba tháng nói trên kỵ đi xa, có hao tài tốn của, 23 và 24 tuổi, năm 23 nên đề phòng cẩn thận sẽ hao tài, hay tốn hao nhiều cách khó hiểu. Không thì gặp tai nạn, hay cũng bịnh hoạn, nhứt là những tháng giêng, 4 và 7 Âm lịch. 24 tuổi mới được yên vui và mới có cơ hội phát triển nghề nghiệp. 25 tuổi, toàn năm đều tốt, trừ những trường hợp nhỏ nhen trong gia đình, không quan trọng.

Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lợi to vào những tháng 8 và 11 Âm lịch. Năm 27 tuổi bình thường, việc làm ăn được điều hòa, không có gì quan trọng trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, hy vọng thành công về sự nghiệp gia đình. Năm nầy nếu lập gia đình có sanh quý tử thì phát tài mau. Năm 29 và 30 tuổi, không lo ngại gì nữa, cuộc sống cứ như thế mà tiến lên mức độ cao của sự nghiệp, tiền tài.

Từ 21 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi xấu, có hao tài và bịnh nặng. Năm 32 tuổi được khá, năm này nên đi xa hay làm ăn thì kết quả tốt. Năm 33 và 34, không nên làm việc lớn có liên quan đến tiền bạc, hai năm này nên kỹ lưỡng để mang tai tiếng không tốt. Năm 35 tuổi, được việc, cứ tiếp tục phát triển thì làm ăn tốt.

Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi, năm này có 6 tháng đầu năm tốt, sáu tháng sau xấu, nên làm ăn những việc tầm thường mà thôi. Năm 37 và 38 tuổi, hai năm này không có những biến chuyển mạnh mẽ trong cuộc đời. Năm 39 và 40 tuổi, không được tốt về bổn mạng, nên cẩn thận thì hơn, tài lộc hơi sút kém.

Từ 41 đến 45 tuổi: Khoảng thời gian năm năm nầy có phần phát triển về tài lộc tình cảm, cần mẫn và nên đề phòng con cái trong gia đình. Cá nhân có bịnh liên miên. Coi chừng bị thiệt hại về tài lộc trong những năm nầy.

Từ 46 đến 50 tuổi: Khoảng thời gian nầy không có gì đáng nói, về phần tình cảm, gia đình thì nhiều hơn, nên nhẫn nại và nhịn nhục tránh những điều tiếng thị phi để cho gia đình thân tộc được vui vẻ hơn.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nữ mang chi tiết

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Nghệ thuật xem tướng TÓC, RÂU, LÔNG

Xem tóc Sợi tóc là gốc con người. Tóc dài tới gót chân mà rậm đen, sợi tóc to như mây là nghèo cực vất vã. Đàn bà truân chuyên về duyên nợ, goá chồng, Ít con về sau tái giá cũng nghèo. Đàn ông tóc dài cứng như râu cũng là khắc sát với vợ con.
Nghệ thuật xem tướng TÓC, RÂU, LÔNG

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tóc mềm mại óng ả vừa phải thì ân tình chồng vợ đậm đà hạnh phúc, sanh con ngoan đẹp thông tuệ. Tóc vàng như râu bắp, đàn ông thì nghèo hèn, đàn bà thì dâm đảng đa tình.

Tóc như bị cháy nám rậm nắng là nghèo cực vất vả tới già, có khi không nhà mà ở,phải tạm trú hiên chùa ngoài chợ.

Tóc hay rụng là không con, già mà tóc đen là thọ, nữa đen nữa bạc cũng sống lâu, ít tuổi mà tóc bạc khắc cha mẹ, con gái sói đầu khắc chồng hại con, có tướng như vậy chỉ là hạng đứng bóng. Đàn ông đến già không sói đầu là trường thọ.

Xem râu

Râu cũng là hoa lá của cội cây. “Đàn ông không râu kém uy, đàn bà không vú lấy gì nuôi con.” Râu rậm quá thường bị ganh ghét, nếu làm quan có thể bị giáng chức, mất chức, nhưng cằm mép không có râu lại là người tánh nết đàn bà không nên công nghiệp.

Công thương kỹ nghệ gia mà râu thưa vừa, lại màu mở tốt đẹp lại phát tài lộc tốt: Mọc quanh bên tả quanh bên hữu là hay sợ vợ.

Râu rẻ lệch là khổ về già. Râu như râu dê là đa dâm, như râu mèo là nịnh bợ, như râu chuột là xảo quyệt hay đâm thọc, như râu cọp có rìa rậm là nóng nảy, râu rậm mày rậm có mục ruồi ở cằm là thường bị thủy tai.

Râu đỏ mặt hồng hào, mày thưa sém là bị hoả hoạn, râu vàng mặt vàng cũng thế, râu nỏn nà xanh đẹp hoặc ngả màu bạc râm là vẻ tiên phong cốt đạo, không làm giàu được cũng nhàn hạ.

Trán sói

Đàn bà mà trán sói là khắc phu khắc tử. Đàn ông trán sói có nhiều cách quí tiện khác nhau. Sói có hình dáng như mồng trâu là quí cách, dù nghèo cũng được người nể trọng, sói hình móng ngựa là bần hèn, đi làm mướn kiếm ăn chớ không có danh vọng gì.

Sói hình trái bầu là tham lam, sói hình trái bí lại có thể đói.

Tướng hình mập, mặt địa mà sói trái bí là hay ăn chực. Tướng hình gầy, mà sói móng trâu là làm quan hay cũng làm giàu lớn.

Xem lông

Trong thân thể trước là lông mày chủ về tuổi thọ. Sách nói lông mày thanh tú dài mướt là sống lâu. Nhưng lại nói lông mày không bằng lông mũi, lông mũi lại không bằng lông lỗ tai. Vậy người có lông từ trong lỗ tai mọc ra dài là tuổi thọ 100 đó.

Đôi mày thanh tú là thông minh, mày dài quá mắt là giàu sang, mày rậm có xoáy, tánh khí ương ngạnh, háo sát, bất đắc kỳ tử, rậm dài to bản không có xoáy thì sống lâu và hiền đức. Mày quá ngắn là nghèo mà lại yểu.

Đầu mày mà dính liền nhau là đa dâm mà khắc sát anh em. Mày chữ bát là thông quan võ, nếu thất đức thì làm tướng cướp. Lông mày mọc ngược là người bạo ác. Mày cao mọc xa mắt là phú quí, mày tròn có mục ruồi cũng là bậc phú ông.

Lông mày pha sợi bạc là sống lâu, lông dài mà xụ xuống cũng là đại thọ. Lông mày mỏng thưa là xảo quyệt gian ngoan nịnh bợ, ăn ở không ngay.

Mày vòng cung là tánh khí đàn bà. Tóm lại lông mày là biểu hiệu của tuổi thọ và tính nết khí tiết nhiều hơn.
Xem lông ngực và tay chân

Tục ngữ nói : “Râu rìa lông ngực làm tôi phản thần” không đúng lắm.
Vì lông ngực là sự phát lộ của khí huyết, người có lông ngực là khoẻ mạnh nóng nảy và dĩ nhiên cũng đa dâm.

Cho nên nếu có lông ngực thì quí ở chỗ ít thôi, không nên rậm rà và co xoắn lại. Rậm và xoắn là chết bắt đắc kỳ tử. Vậy tốt hơn là không có lông ngực.

Lông chân cũng quí nhuyễn, không nên to cứng mà thô, dưới rún có lông mọc lằn giáp hạ mao là khoẻ mạnh, nhưng đa dâm.

Nếu sau ót từ dưới cái xương cổ xuống tới lưng mà có lông mọc là người hạ tiện, thất phu thô bỉ bần cùng, vú có năm ba cộng là tốt, nhiều lông là xấu.

Phụ nữ có lông vú là đa dâm vô tử khắc phu.

Tay có lông mịn màng tươi mướt là tốt, vẻ sang có chồng đẹp thương yêu, nếu to xoắn lại vẻ thô cứng là hạ tiện, bạc phước về chồng con, đa tình chỉ lấy được chồng vũ phu, chớ không lấy được chồng thanh nhã. Nách cũng cần có lông, vừa và mịn mùi thơm là tốt. To thô và hôi là bạc phước về tình duyên.
Tóm lại tóc, lông, râu: Quí mịn màng tươi mướt. Tiện là thô cứng rậm v.v…


(St).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng TÓC, RÂU, LÔNG

"Thủy pháp Dịch mã" thúc đẩy tài vận

Thủy pháp Dịch mã là phương pháp xác định năm cát vượng trong phong thủy. Phép này dùng để xác định năm vượng vận của các tuổi. Có thể tham khảo để thúc đẩy
"Thủy pháp Dịch mã" thúc đẩy tài vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tài vận cho công việc làm ăn của mình.

Thuy phap Dich ma thuc day tai van hinh anh
 

Khẩu quyết tìm Dịch Mã như sau:

Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Dịch mã cư Thân niên.

Tuổi Thân, Tí, Thìn: Dịch Mã cư Dần niên.

Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Dịch Mã cư Tỵ niên.

Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Dịch mã cư Hợi niên.

Chỉ cần vào năm Dịch mã, vận thế của người có tuổi tương ứng sẽ có sự biến động, di chuyển theo chiều hướng tốt lên, vận khí, tài khí gia tăng.

Khi vận dụng Thủy pháp Dịch mã để xác định hướng tốt cho văn phòng thì thay đổi chữ “tuổi” bằng chữ “hướng” (hướng của công ty), vị trí Dịch mã là phương vị nên đặt văn phòng làm việc của Giám đốc.

Dưới đây là vị trí 12 con giáp trên la bàn. Dựa vào đó có thể xác định được công ty của bạn đang ở hướng nào để tìm hướng Dịch mã cho chuẩn.
 

Thuy phap Dich ma thuc day tai van hinh anh 2
 

Chọn vị trí văn phòng đúng hướng Dịch Mã thì công việc làm ăn sẽ có nhiều thăng tiến. Đặc biệt là các lĩnh vực liên quan tới di chuyển như xuất nhập khẩu, du lịch, giao thông vận tải, hàng không,… thì văn phòng ở hướng Dịch mã lại càng đại cát, thúc đẩy tài vận càng mạnh.

Theo Phong thủy Cát tường


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: "Thủy pháp Dịch mã" thúc đẩy tài vận

Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

Có những sự thật về ma quỷ, về thế giới tâm linh mà khoa học chưa giải thích được, ngay đến cả nhà khoa học đại tài Albert Einstein cũng tin rằng có ma.
Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những sự thật về ma quỷ, về thế giới tâm linh mà khoa học chưa giải thích được, ngay đến cả nhà khoa học đại tài Albert Einstein cũng tin rằng có ma.
 

Bạn có biết vì sao ma quỷ thường xuất hiện vào buổi tối không? Bạn có biết tại sao những linh hồn lại không thể đầu thai và có thể giao tiếp được với thế giới thực tại thông qua việc nhập vào một người đang sống không? Trên đời này thực sự có ma hay không?… Hãy  cùng xem qua 10 sự thật về ma quỷ dưới đây nhé:   1. Albert Einstein tin rằng có ma   Khi bạn nói với bất kì nhà khoa học nào rằng ma quỷ là những điều có thật, họ sẽ không ngần ngại gì mà cười vào mặt bạn; nhưng không phải với Einstein. Ông đã đưa ra những giả thuyết có thể nói là nền tảng cho hiện tượng siêu nhiên bí ẩn này. Như bạn đã biết, cơ thể chúng ta mang theo một năng lượng, năng lượng này không hề tự sinh ra hay tự mất đi, mà chuyển từ dạng này sang dạng khác. Vậy chuyện gì xảy ra với khối năng lượng đó khi chúng ta chết? Rất có thể nó sẽ trở thành trạng thái… linh hồn.  
Co the ban chua biet Su that ve MA QUY hinh anh
Nhà bác học Albert Einstein
  Nhiều người săn ma nói rằng họ có thể phát hiện ra điện trường mà ma quỷ tạo ra. Thực tế là những quá trình chuyển hóa của con người và những sinh vật khác cũng tạo ra những dòng điện yếu, nhưng những dòng điện này mất đi sau khi sinh vật chết. Vì khi nguồn năng lượng bị mất thì dòng điện cũng ngừng – giống như bóng đèn ngưng sáng sau khi chúng ta ngắt công tắc điện để tắt nguồn điện cung cấp.   Hầu hết năng lượng mà người chết để lại được tái nhập vào môi trường sau nhiều năm dưới dạng thức ăn; phần còn lại bị tiêu tan đi ngay sau khi chúng ta chết, và đây không phải là dạng mà chúng ta có thể phát hiện ra sau nhiều năm nhờ các thiết bị săn ma phổ biến hiện nay, như máy phát hiện điện trường (EMF). Những người săn ma viện dẫn lý thuyết của Einstein thực ra chỉ chứng tỏ họ hiểu biết chưa sâu sắc về khoa học cơ bản. Ma quỷ có thể thực sự tồn tại, nhưng bản thân Einstein hay lý thuyết của ông không khẳng định ma quỷ là có thật.   2. Ma thường xuất hiện vào lúc nào?
 
Trong bất kì một bộ phim kinh dị nào, chúng ta thường thấy ma quỷ xuất hiện trong bóng tối, nhất là vào ban đêm. Tại sao? Hiện tượng này được giải thích rất đơn giản. Vào ban đêm, hầu hết các thiết bị điện – điện tử đều đã được ngắt kết nối. Điều này đồng nghĩa với việc những tín hiệu, những loại sóng điện từ không còn ngăn cản sự xuất hiện của những linh hồn nữa. Vì thế không lạ gì khi bóng đêm là nỗi sợ hãi kinh hoàng của con người.   Nhưng điều này không có nghĩa là ban ngày không có ma bạn nhé… Thực tế vẫn có những trường hợp bị ma nhập vào giữa ban ngày.   3. Ma quỷ có hình dạng như thế nào?   Ai cũng tò mò muốn biết ma quỷ trông như thế nào? Không ít những thước phim tài liệu hay những hình ảnh đáng sợ được công bố trên những tạp chí khoa học, thậm chí cả một số ảnh chụp bằng điện thoại được cho là có ma. Vậy ma thì ở đâu? Nó có hình dạng như thế nào? Câu trả lời là vô định. Ma có thể là một bóng người màu trắng hay đen bất chợt lướt qua bạn, cũng có thể là một vệt sáng lờ mờ thoắt ẩn thoắt hiện như sương mù. Có khi họ lại không hiện hữu mà chỉ gây ra một số tiếng động bất thường khiến bạn thót tim. Cũng có trường hợp ma quỷ hiện nguyên hình người rất rõ rệt, nhưng các hiện tượng đó chỉ là hi hữu. Thực tế ai đã từng nhìn thấy ma và ma thật sự trông ra sao thì không ai trả lời được, những câu chuyện về ma vẫn chỉ được đồn thổi một cách vô cùng ly kỳ và huyền bí.   4. Ma đã có "niên đại" từ thời... Ai Cập cổ?
 
Từ xa xưa, người Ai Cập cổ đại đã luôn tin rằng sau khi chết con người sẽ trở thành linh hồn và sống một cuộc sống khác với chúng ta. Đó chỉ đơn giản là một dạng hóa kiếp của con người.   5. Ma quỷ bị thu hút bởi mùi hương   Đừng để nơi bạn ở tỏa ra mùi hương quá thơm hoặc quá hôi thối nếu bạn không muốn rước những hồn ma về nhà mình. Điều này được giải thích rằng ma quỷ… có khứu giác rất nhạy và thường thích ở lại những nơi có mùi nặng. Điều này cũng đã từng được nhắc đến trong bộ phim kinh dị nổi tiếng The Conjuring.   6. Tên của người đã chết   Hãy cẩn thận khi nhắc tên người đã chết quá thường xuyên, vì khi đó, linh hồn người chết sẽ lưu luyến mãi không thể rời khỏi thế gian này.   7. Ma quỷ thích đi theo phụ nữ   Theo một nghiên cứu nhỏ, 8/10 người bị ma ám đều là phụ nữ! Các chuyên gia không thể giải thích được tại sao phụ nữ lại có “sức hút” với ma quỷ hơn là đàn ông. Ở Việt Nam cũng có rất nhiều trường hợp ở nơi Âm Thịnh Dương Suy (phụ nữ nhiều hơn đàn ông) thường có ma nhiều hơn!   Nhiều người lý giải bằng việc tâm lý phụ nữ thường yếu đuối và dễ tưởng tượng hơn đàn ông nên khả năng họ gặp ma hay bị ma nhập cũng cao hơn.   8. Ma quỷ và mối liên hệ với mèo   Theo dân gian, mèo là loài vật có một mối gắn kết với thế giới tâm linh mà chúng ta không thể tưởng tượng ra được. Mèo có khả năng đuổi mọi linh hồn ma quỷ xung quanh nơi nó sống.   9. Ma quỷ trong những giấc mơ  
Co the ban chua biet Su that ve MA QUY hinh anh
Ma quỷ trong những giấc mơ
  Bạn từng nghĩ rằng khi gặp điều lạ thường, chỉ cần đi ngủ là xong! Nhưng hãy cẩn thận, ma quỷ hoàn toàn có thể giao tiếp với chúng ta bằng cách xâm nhập vào giấc mơ. Họ dùng những suy nghĩ ở cấp bậc siêu nhiên để có thể tiếp xúc với con người khi ngủ.   10. Ký ức của những linh hồn   Tại sao ma quỷ lại thích vất vưởng lưu lại nơi họ đã ra đi? Sau khi chết, những linh hồn vẫn giữ lại được ký ức và cảm xúc lúc còn ở thế gian, vì thế họ thường làm lại các hành động họ hay làm khi còn sống. Điều đó giải thích tại sao những địa điểm có nhiều người chết lại bị ám nặng đến nổi tiếng như thế.

Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.

► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả

ST.

Sự thật về tồn tại ma quỷ trong đời? Bóc mẽ việc giả thần giả quỷ của hiện tượng bóng đè Tự chế bùa hộ mệnh cho mình, đơn giản mà vẫn hiệu quả

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

Mơ thấy lái xe –

Trong xã hội hiện đại, chiếc xe đã trở thành phương tiện thông dụng và tiện ích đối với việc đi lại hàng ngày của mỗi gia đình. Mơ thấy xe cộ ở trong các trường hợp khác nhau là dấu hiệu dự báo những sự việc tốt, xấu có thể xảy ra với bạn trong cuộc
Mơ thấy lái xe –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy lái xe –

Top 4 con giáp sống cả đời hạnh phúc

Tại sao lại có những con giáp có cuộc sống nhẹ nhàng hơn? Đó là do chòm sao chiếu mệnh mà quan trọng hơn là cách họ cư xử với mọi người xung quanh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Người tuổi Hổ

Người tuổi Hổ có tinh thần xông pha, có lý tưởng, có hoài bão, thuộc loại càng trắc trở càng kiên cường. Cho dù gặp phải bất cứ khó khăn nào thì họ cũng không dễ dàng bỏ cuộc. Những người tuổi Hổ có sự quyết đoán và cả ngang ngược. Họ nói được làm được, lời nói đáng tin, rất có phong thái của một bậc đế vương.

Bọn họ sở dĩ có cảm giác hạnh phúc rất mãnh liệt, là bởi vì họ có tấm lòng rộng mở, không chấp nhặt. Những điều đã qua đều để cho qua, tâm thái vô cùng tốt. Họ đối xử với ai cùng đầy nhiệt tình, cho nên cảm giác hạnh phúc cũng theo đó mà tới.

2. Người tuổi Trâu

Những người tuổi Trâu đa số tính tình thẳng thắn, lòng dạ quang minh chính đại. Họ hướng nội, nho nhã, chăm chỉ làm việc, quan niệm đạo đức bảo thủ khá mạnh. Bọn họ thường sẽ đối xử lịch sự với mọi người,  thuộc kiểu người bị động, không thích chủ động tiếp đón người khác, không thích đi nịnh nọt, lấy lòng người khác. Do đó, chỉ cần là những người thật sự hiểu người tuổi Trâu sẽ có thể bước vào trái tim của họ.

Những người tuổi Trâu rất “biết đủ”, không đuổi theo danh lợi. Trong lòng họ gia đình hòa thuận, con cháu thảo hiền mới là hạnh phúc lớn nhất cả đời. Để gia đình hòa thuận, những người tuổi Trâu sẽ hi sinh và nhượng bộ hết sức. Chỉ cần người nhà bình an vui vẻ, điều gì họ cũng bằng lòng làm.

3. Người tuổi Rồng

 top 4 con giap song ca doi hanh phuc - 1

Chỉ một cử chỉ nhỏ cũng có thể khiến người tuổi Rồng cảm thấy hạnh phúc.

Người tuổi Rồng hoạt bát phóng khoáng, cử chỉ lời nói phi phàm, có phong cách hài hước. Chúng ta thường thấy sự lạc quan và vui vẻ ở người tuổi Rồng, thường ít khi thấy họ đau buồn. Đó là bởi vì những người tuổi Rồng rất biết cách che giấu và bảo vệ bản thân mình, họ không chỉ nghiêm túc trong công việc, mà còn rất biết hưởng thụ cuộc sống, cho nên luôn luôn vui vẻ.

Họ thường rất tinh tế, một câu quan tâm, một lời hỏi thăm của bạn hoặc đôi khi là một phần quà nhỏ sẽ khiến họ cảm động mãi. Họ rất dễ cảm thấy hạnh phúc.

4. Người tuổi Mèo

Người tuổi Mèo có lòng tự tôn cao, đa số đều có lòng hướng về sự nghiệp mạnh mẽ. Vệc gì họ cũng muốn làm, không cần tốt nhất, chỉ cần tốt hơn. Tuy nhiên những người tuổi Mèo lại rất có phúc, bởi vì bạn đời của họ thường đối xử rất tốt với họ, biết nhường nhịn, tâm lý và quan tâm. Đặc biệt, điều lãng mạn nhất là sẽ ở bên cạnh họ cả đời. Nhiều lúc những người tuổi Mèo ngang ngược vô lý, nhưng lại có người đối xử với họ quá tốt, đúng là hạnh phúc khó kiếm. Trừ bạn đời quan tâm, con cháu cũng đối xử với họ rất hiếu thuận, cho nên những người tuổi Mèo sẽ sống cuộc sống tuổi già hạnh phúc mỹ mãn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp sống cả đời hạnh phúc

Phạm Hương: Cô nàng Xử Nữ điên nhưng thú vị

Phạm Hương hiện đang là một cái tên rất hot của làng showbiz Việt, là một cô nàng Xử Nữ có tính cách vô cùng độc đáo và thú vị.
Phạm Hương: Cô nàng Xử Nữ điên nhưng thú vị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn

Sự kết hợp của Mặt Trời Xử Nữ, Mặt Trăng Cự Giải, Sao Thủy Sư Tử và Sao Hỏa Thiên Bình khiến Phạm Hương trở thành một cô gái có tính cách độc đáo và thú vị.

Pham Huong Co nang Xu Nu dien nhung thu vi hinh anh 2
 
Sau khi đạt ngôi vị Hoa hậu Hoàn Vũ Việt Nam 2015, Phạm Hương là một trong những cái tên hot, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo bạn trẻ. Từ một giảng viên cao đẳng, bằng tài năng và sắc đẹp của mình cô nàng đã trở thành một trong những cái tên hot của showbiz Việt.
 
Đặc biệt, khi trở thành một trong 3 giám khảo quyền lực tại The Face, Phạm Hương đã nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều từ cộng đồng mạng.
 
Là một người thích nghiên cứu và tìm hiểu về bản đồ sao, độc giả Bảo Nhung đã nghiên cứu một vài nét về Phạm Hương và có một bài viết ngắn thú vị. Hãy cùng nghiệm lại một vài đặc điểm tính cách của cô nàng này ở bài viết này nhé!
 
Thân thiện là ấn tượng đầu tiên của mọi người khi nhìn thấy nụ cười tươi sáng của Phạm Hương - Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015. Tuy nhiên cũng có không ít người cho rằng ở cô nàng có một sự kiêu ngạo và xa cách. Fan của cô lại cho rằng cô nàng có tính cách kỳ quái vì những biểu hiện khá dễ thương. Vậy đâu là tính cách thật sự của Phạm Hương?
 
Về cách thể hiện ra bên ngoài, Phạm Hương (4/9/1991) cho thấy mình là một Xử Nữ khá điển hình: Khéo léo, thông minh, có tư duy logic và hệ thống, siêng năng và chăm chỉ nhưng cũng có phần kỹ tính và cầu toàn.
 
Nhớ lại trong cuộc thi Hoa hậu hoàn vũ thế giới 2015, cô nàng đã nhận được rất nhiều lời ngợi khen từ khán giả thế giới, trước hết là việc tách hàng, tiến lên phía trước để chọn cho mình một vị trí đẹp, tiếp cận gần với đương kim Hoa hậu hoàn vũ thế giới.
 
Phần trình diễn kiểu lượn sóng của cô nàng với phần thi áo tắm trong đêm chung kết cũng được đánh giá là một sự lựa chọn hay và đặc sắc. Rõ ràng, cô nàng Xử Nữ này rất thông minh và tự tin.
 
Nhiều người cho rằng nhận lời làm giám khảo The Face là một bước đi sai lầm của cô, nhưng đừng vội lo lắng, với sự thông minh của Xử Nữ, HHHV sẽ biết cách mình phải làm gì.

Pham Huong Co nang Xu Nu dien nhung thu vi hinh anh 2
 
Cũng vì là Xử Nữ, có thể Phạm Hương sẽ không được nhiều người yêu thích bởi cô luôn đòi hỏi cao trong công việc, khó tính và khá bảo thủ, tin vào những điều mình làm, mình cho là đúng và sẽ tỏ ra khó chịu nếu có ai đó phản ứng và công kích. Cô nàng thường xuyên suy nghĩ và lo lắng, gây áp lực cho bất kỳ người nào làm việc chung với mình. Khả năng gây tổn thương bằng lời nói, nhận xét ở cô nàng lá khá cao.
 
Với Mặt Trăng thuộc cung Cự Giải, Phạm Hương có thể dễ dàng nhận biết được cảm xúc của bản thân mình. Đôi khi vì để đáp ứng nhu cầu cảm xúc của bản thân, cô nàng này có thể khiến người khác có chút khó chịu.
 
Ví dụ, khi mong muốn có được một thí sinh nào đó về đội của mình, Phạm Hương sẽ không ngần ngại động chạm tới "đối thủ" để đạt được mong muốn của mình. Trong The Face, cô nàng cũng từng "mắc lỗi" với 2 HLV khác khi nói với thí sinh: "Về đội Hà Hồ chỉ đi hát" mà thôi, còn "Đội Lan Khuê quá yếu".
 
Điều này cũng nói nên điểm yếu thường thấy ở những người có Mặt Trăng Cự Giải, đó là đôi chút vụng về trong giao tiếp xã hội đặc biệt là khi bị đặt trong những tình huống bất ngờ, không có sự chuẩn bị kỹ (như tham gia một cuộc thi, tranh cãi về một vấn đề nào đó...). Tuy nhiên, họ luôn có mục tiêu cho mình và quyết tâm đi theo con đường đó.
 
Cũng đừng hỏi vì sao Phạm Hương lại có những nhận xét và phát ngôn như vậy, bởi cô là một Xử Nữ, cô ghi nhớ hầu như tất cả những sai lầm, những điểm xấu của người khác và có thể mạnh dạn nói ra những điểm ấy nếu cần thiết.
 
Mặt Trăng Cự Giải cũng là một người rất tích cực trong việc làm tình nguyện, quan tâm và chăm sóc người khác. Nên đừng cảm thấy lạ hay đặt câu hỏi nghi vấn cho Phạm Hương khi cô nàng này tham gia nhiều hoạt động xã hội.   Cách ứng xử và giao tiếp đang là một trong những vấn đề khiến Phạm Hương gặp phải rắc rối. Khi có nhiều ý kiến cho rằng cô nàng đang tỏ ra tự tin thái quá khi liên tiếp thể hiện cái tôi của mình với một loạt những phát ngôn gây sốc như: "Bản thân tôi chưa bao giờ thấy thất vọng hay mất niềm tin vào bản thân", "Với kinh nghiệm của tôi so với Hồ Ngọc Hà, tôi chắc chắn sẽ khiến em giống như tôi lúc này và có được những gì mà tôi có ngày hôm nay", "Bên trong em có một sức sống mạnh mẽ, giống như tôi"...
 
Điều này chính là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của người có Sao Thủy (hành tinh chủ trì về giao tiếp) nằm ở cung Sư Tử.
 
Những người có Sao Thủy ở cung Sư Tử như Phạm Hương là những người có tài hùng biện và lãnh đạo, có chút khoe khoang, kiêu căng và hơi khoa trương. Họ cũng có thể dễ "phát điên" nếu mọi việc diễn ra không như ý mình muốn.
 
Kết hợp với Mặt Trời Xử Nữ, Phạm Hương khó có thể kiểm soát được hành vi cũng như lời nói của mình, đặc biệt trong những tình huống có sự cạnh tranh như cuộc thi The Face.
 
Tuy nhiên, đó chỉ là những gì Phạm Hương thể hiện ra trong một game show có tính cạnh tranh. Sau cánh gà, sự vui vẻ nhiệt tình và ấm áp của cô nàng sẽ khiến mọi người xung quanh cô dễ dàng quên đi hành động và lời nói được cho là "thái quá" của cô.   Với sao Hỏa nằm ở cung Thiên Bình, đằng sau vẻ dịu dàng mềm yếu, Phạm Hương là một người khá cứng rắn, có ý chí sắt đá ẩn sau nụ cười lúc nào cũng thường trực trên môi. Điều này cũng chính là điểm khiến mọi cô nàng phải học tập ở Phạm Hương để có một sự bản lĩnh và cá tính. Thỉnh thoảng họ sẽ có một vài biểu cảm "khó đỡ" chẳng giống với những gì họ thể hiện thường ngày, cũng có khi còn bị cho là "tăng động".
 
Tóm lại, Phạm Hương là một cô nàng xinh đẹp, thông minh, bản lĩnh và cá tính. Những gì các bạn nhìn thấy trên truyền hình không phải là tất cả tính cách của cô. Hãy tin tưởng vào cảm nhận của bạn và chờ đợi những bất ngờ mà cô nàng này sẽ đem lại trong thời gian tới.

ST.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phạm Hương: Cô nàng Xử Nữ điên nhưng thú vị

Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Việc phạm phải ngày hung là vô cùng xấu. Để tránh ngày hung, chọn ngày cát, ta cần xem ngày thật cẩn trọng vì điều đó quyết định tới sự thành bại của công việc.
Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


Xem ngay tot xau thang Muoi Hai theo Dong cong tuyen trach nhat hinh anh
12 con giáp 9




Nguyệt kiến Sửu: Tiểu hàn - Đại hàn. (Từ ngày 5-6 tháng 1 DL)  Sau Tiểu hàn là Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. 
 
Trực Kiến - ngày Sửu: 
Vãng Vong, Hồng Sa. 
 
Ất Sửu, Kỷ Sửu nên làm các việc khai sơn, phạt cỏ, hưng công, động thổ, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, là ngày thứ cát.
 
Đinh Sửu là Sát nhập trung cung, không nên khua nhạc, trống, làm ồn ào, hôn nhân, mọi việc đó hại gia trưởng, trạch mẫu. 
 
Quý Sửu tuy vượng nhưng lục sát nhập trung cung, tổn thương nhân khẩu, hung. 
 
Trực Trừ ngày Dần: 
Canh Dần là Hỏa Tinh, Thiên Đức, Nguyệt Đức. 
 
Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Dần, đều có Hỏa Tinh, và Hoàng La, Tử Đàn, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Bảo Liễu (xe ngọc quý), Khố Châu phúc lộc, Văn Xương, Lộc Mã Quan Ích là những sao tốt chiếu lâm, nên tốt cho các việc khởi tạo, hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, xuất hành, trăm việc thuận lợi, dùng ngày đó gia môn phát đạt, động thổ thấy tiến tài sản, tên là "Đăng hổ bảng". 
 
Mậu Dần cũng có Hỏa Tinh nhưng là thứ cát, ngày đó có thể dùng. 
 
* * * * *  Theo "Thích kỷ biện phương", Dần ở tháng chạp là thiên tặc, là ngày Dần trong tháng có Hỏa Tinh thì không ghi, đó là hai thuyết nên tồn lưu để tham khảo.  * * * * * 
 
Trực Mãn - ngày Mão: 
Thiên Phú, Thổ Ôn, không nên động thổ, Thiên Ôn một năm. 
 
Nếu dùng ngày Mão vào việc cưới, gặp cha mẹ, ăn hỏi, cũng thứ cát  nhưng có lục bất thành, lục bất hợp, cái đó không nên.
 
Duy có Tân Mão có thể tạo tác, hưng công, nhưng là thứ cát. 
 
Trực Bình - ngày Thìn: 
Có Đáo Châu tinh, bị dính líu tới kiện tụng nhưng sau cũng ổn thỏa. 
 
Duy có Nhâm Thìn nên mai táng, cưới vợ, gặp cha mẹ, hưng công, động thổ, xuất hành, nhập trạch là thứ cát.
 
Canh Thìn là Thiên Đức, Nguyệt Đức, nên làm nhỏ cũng được thứ cát. 
 
Mậu Thìn thảo mộc điêu linh, lúc đó ngũ hành vô khí, và là thoái tinh, lại kiêm Sát nhập trung cung, mọi việc bất lợi, hung. 
 
Trực Định - ngày Tị: 
Thiên Thành.  Một thuyết nói là Quan Phù Tinh Phi, nhưng nói là ngày Tử Khí, nếu phương tu tạo trực với Phi Cung Châu Bách, Quan phù thì sẽ thấy ngay, nếu như phương đó hợp với cát thần tụ tập thì có thể cứu được sự hung và dùng cũng được.
 
Quý Tị tuy là gặp lúc kinh sinh thủy được tinh khiết nhưng may ra chỉ có thể khai sơn, phạt cỏ, ngày đó là thứ cát, nếu cưới vợ chồng hoặc khai trương, xuất hành, nhập trạch, đặt móng, buộc giàn thì lại là ngày Thiên Thượng Đại không vong nạp âm Tị, tuyệt đối không nên dùng. 
 
Đinh Tị là Chính tứ phế, xấu, một năm bốn mùa (quý), dùng ngày Tị chủ khẩu thiệt, tuy có Hỷ Thần hoá giải cũng thuộc khó thoát, nếu như cát vượng còn hưng suy thì cần xét rõ mệnh tuổi và sơn hướng không phạm xung khắc thì mới có thể dùng. 
 
Trực Chấp - ngày Ngọ: 
Canh ngọ :Thiên-Nguyệt. Như năm Canh Ngọ mà làm ở Canh “sơn”, Giáp “hướng”, có thể thâu về là nạp âm. Phương chi ngày đó có người dùng giờ Canh Thìn, giờ gặp tam hợp chiếu Giáp, Canh, mà Canh thì Lộc ở Thân, Thìn Mã (ngọ), lại gặp Nhâm Thân. Ở đây sinh ra thành ngày Lộc Mã. Long Mã gặp Lộc Tinh là Thanh Nhân Nam Diện Tinh(sao phía Nam là sao Thánh nhân), còn có cát tinh Huỳnh La, Tử Đằng, Thiên Hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Khố lâu đồng chiếu: chủ ích cho con cháu, vượng gia môn, tấn điền sản, thay đổi lộc vị.
 
Nhâm Ngọ cũng tốt. Các ngày Ngọ khác thứ cát. Bính Ngọ thì Chính tứ phế hung không dùng.   Trực Phá ngày Mùi: 
Đinh Mùi là "Thủy cư cự mẫn" (trong nước có con cá bể to tên là mẫn). 
 
Quý Mùi là "Thủy nhập Tần châu nội", "Văn Xương quý hiển tinh", động thổ, hưng công, xuất hành, nhập trạch, cưới vợ, khai trương, trăm việc rất tốt. 
 
Kỷ Mùi, Tân Mùi là Sát nhập trung cung, xấu.  Ất Mùi cũng bất lợi. 
 
Trực Nguy - ngày Thân: 
Canh Thân có Thiên Đức, Nguyệt Đức, nên là các việc sửa chữa, an táng, làm ăn nhỏ là thứ cát (tốt vừa), nếu nhà to, có hàng nghìn, hàng trăm thợ trở lên, thì những việc khởi tạo, khai trương, nhập trạch, hôn nhân, lại không nên, vì là ngày Sát nhập trung cung, không lợi cho người gia trưởng. 
 
Mùa xuân tuy có Thiên Đức, Nguyệt Đức cũng không có tác dụng gì, tổn thương tay, chân, người thợ phá mất, tổn hoại khí huyết, làm lớn thì nhanh thấy, làm nhỏ thì ứng chậm. 
 
Nếu làm chuồng trâu, dê, lợn, thì trong 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy hổ lang làm bị thương, lại sinh ôn dịch thời khí. 
 
Giáp Thân, khởi tạo, an táng tốt.  Bính Thân, Nhâm Thân, chỉ nên mai táng. 
Trực Thành - ngày Dậu: 
Thiên hỉ.  Ất Dậu, Quý Dậu là khi kim vượng. 
 
Ất Dậu là lúc nước trong sạch, có Hoàng La, Tử Đàn, Kim Ngân Khố Lâu, Tụ Lộc Đới Mã, là những cát tinh che, chiếu, tốt cho việc cưới vợ, khởi tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, là ngày tốt trọn vẹn, chủ về con cháu hưng vượng, trăm việc vừa lòng (xứng tâm). 
 
Đinh Dậu cũng thuộc kim vượng, nhưng chỉ có mai táng là đại cát, những việc còn lại là thứ cát.  Tân Dậu là Kim loan (nhạc ngựa bằng vàng), thứ cát.
 
Trực Thu - ngày Tuất: 
Có Đáo Châu tinh, có việc liên quan tới tòa án nhưng sau cũng ổn thỏa. 
 
Canh Tuất có Thiên Đức, Nguyệt Đức, tám vị Kim tinh, có "Nam tử chi hoan" (cái hang của con trai), trước bị thị phi nhưng sau đó lại đại cát. 
 
Giáp Tuất tám phương đều bạch, ở 24 hướng mọi thần đều chầu trời Nguyên nữ, ngày đó trộm sửa có thể dùng. 
 
Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều kị.  Ngày Mậu Tuất cũng không thể dùng. 
 
Trực Khai - ngày Hợi: 
Thiên Tặc, Nguyệt Yểm.  Ất Hợi có Văn Xương tinh. 
 
Kỷ Hợi có Hỏa Tinh, có Văn Xương hiển quý tinh, nên làm các việc đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, trù mưu làm mọi việc, đều tốt trọn vẹn. Nên dùng giờ Mậu Thìn. Ngày đó tuy phạm Thiên tặc nhưng lại có Thiên cẩu huyên, cho nên được thượng cát. Nếu như gặp ngày này mà mạng không khắc thì dùng được.
 
Đinh Hợi: trăm việc không nên làm.  Ngày Tân Hợi âm khí rất bạo, không phải là chỗ dùng của dương gian. 
 
Quý Hợi là ngày cùng của lục giáp, không thể dùng.  Mà Kỷ Hợi vì có Hỏa Tinh nên mọi việc có thể dùng, không thể không thuận mà xứng lòng, như ý.    Trực Bế - ngày Tý: 
Hoàng sa.  Canh Tý tuy có Thiên Đức, Nguyệt Đức nhưng lại là lúc Thiên Địa chuyển Sát. 
 
Nhâm Tý, Bính Tý là Thiên Địa chuyển trục, không nên làm các việc hưng công, động thổ, phạm cái đó rất hung.  Giáp Tý là Thiên xá, là Tiến thần. 
 
Và Mậu Tý chỉ nên làm việc nhỏ thì thứ cát, không nên làm việc lớn, sẽ bị vạ triền miên, chẳng lành, không biết Đại Mã Nạp Âm, hung sát và Bắc phương tạo độc chi thần (thần làm cờ lớn ở phương Bắc), thuần âm hắc sát chi khí Dư tào túc lệnh (chủ quản đông người nghiêm chỉnh lệnh), không phải là rất quý, không nên dùng, phải cẩn thận.   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Trang sức hình Phật: Nên đeo hay không, suy ngẫm thế nào

Đeo trang sức hình Phật bằng ngọc, đá quý, vàng bạc… đang ngày càng phổ biến trong xã hội. Không những Phật tử mà cả những người ngoại đạo cũng rất chuộng đồ
Trang sức hình Phật: Nên đeo hay không, suy ngẫm thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trang sức này. Điều này có nên hay không?   Tương truyền khi sinh thời, Đức Phật yêu cầu các đệ tử không vẽ tranh hoặc tạc tượng. Ngài không mong muốn được mọi người tôn sùng hay sùng bái. Xem thêm Tóm lược cuộc đời của Đức Phật để thấu hơn về cõi nhân sinh. Tuy nhiên, về sau này, các Phật tử vẫn vẽ tranh, tạc tượng, điêu khắc ra chân dung Ngài.    Đây là điều bình thường, bởi khi đã tôn sùng, sùng bái ai đó, mọi người đều mong muốn ghi lại hình ảnh của họ. Hơn thế, có người còn tin rằng, đeo trang sức hình Phật sẽ mang lại cho họ nhiều may mắn, bình an.    Ngoài việc đeo trang sức khắc hình Phật, một số người còn xăm cả hình Phật hay những hoa văn liên quan đến Phật giáo kín lưng, xăm lên tay hoặc cả trên bắp đùi… Việc này nên suy ngẫm thế nào cho đúng?

Trang suc hinh Phat Nen deo hay khong, suy ngam the nao hinh anh 2
 
 

1. “Chiếc áo không làm nên thầy tu”

  Trên con đường tu tập về tâm linh, ngoại trừ những người thực sự yêu thích hình ảnh tượng Phật muốn sử dụng với mục đích trang trí, chúng ta không nên để vật chất ảnh hưởng đến bản thân mình quá nhiều.   Không nên đeo trang sức có hình Phật, đeo vòng, chuỗi, mua những món đồ mang tính Phật giáo để trưng quanh nhà và cho rằng mình đang “tu tập”, đang rất “tinh tấn”.   “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, những đồ vật này không phải phương tiện giúp chúng ta tu tập, cũng không phải “bằng chứng” về sự tinh tấn của chúng ta.  
Trang suc hinh Phat Nen deo hay khong, suy ngam the nao hinh anh 2
 
Việc xăm hình ảnh Chư Phật lên kín lưng, trên tay, trên cả bắp đùi… cũng là điều không nên. Phật nào ngự ở nơi bắp tay, bắp đùi hay trên lưng vậy?    Có người thanh minh xăm hình như thế giúp tĩnh tâm hơn những lúc sân hận. Lúc cơn sân nổi lên thì liệu có ai đủ bình tĩnh để vén quần, vén áo lên để nhìn Phật cho “hạ hỏa” không? Muốn thế có khi lúc nào cũng phải cởi trần, mặc quần đùi để nhìn thấy Phật suốt. Nếu vậy, cớ sao họ không xăm luôn hình Phật ngự ngay giữa mặt để mỗi khi soi gương lại một lần nhắc nhở bản thân và “khuyến tấn” người khác tu tập nhỉ?   Dù thế nào đi nữa, tất cả chỉ là những lời nói trên đều là ngụy biện, do trí tuệ của chúng ta bị vô minh che lấp mà thôi.   Một cách nghĩ sai lầm nữa là: chúng ta đeo trang sức gắn hình Phật, đeo chuỗi hạt chỉ để mọi người biết chúng ta là Phật tử thuần thành. Việc trở thành một Phật tử không phải một danh hiệu để khoe, để “treo biển thông báo”, để khoe khoang bằng cách đeo những món đồ liên quan đến Phật giáo. Đó là một quá trình tu tập, tu dưỡng lâu dài, không ngừng nghỉ.   Việc đeo những món trang sức có hình Phật, tính Phật giáo để khoe khoang việc tu tập của mình thực ra chính là một biểu hiện của cái Tôi ngã mạn. Đây là điều mà Phật tử cần tránh.   

2. Coi trang sức hình Phật là một thứ bùa chú – Hoàn toàn sai lầm

  Đeo trang sức có hình Đức Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát,… không phải để “xua đuổi ma quỷ” hay là cầu may mắn, cầu che chở. Không nên coi những món đồ có hình ảnh tâm linh này là một thứ bùa chú bởi như vậy là đi ngược lại tinh thần Phật giáo. Đọc thêm Bùa chú: Quan điểm và cách hóa giải theo Phật giáo.   Đức Phật đã dạy rằng: “Hãy tự nương tựa vào bản thân mình, không dựa vào ai khác. Hãy thắp lên mà đi với ngọn đuốc chánh pháp, không phải phi pháp!”  
Trang suc hinh Phat Nen deo hay khong, suy ngam the nao hinh anh 2
 
Việc chuyển hóa tâm tính là do tự lực của mình, không phải dựa vào người khác, dù đó là đức Phật hay hình ảnh của Người đi chăng nữa. Chúng ta cần siêng năng nỗ lực tu tập để dẹp trừ dần bản ngã, hoàn thiện bản thân để đến được với con đường giác ngộ và giải thoát.   Chứ chúng ta lại dựa vào sợi dây chuyền mang hình Phật mà muốn được thành tựu thì chẳng khác gì “nấu cát thành cơm”. Nếu thực sự mấy sợi dây chuyền mang mặt Phật có tác dụng như vậy thì chúng ta chẳng cần tu tập làm gì, chỉ cần đeo hình Phật là đủ.   Tuy nhiên, khi gặp những khó khăn hay những tình huống không thuận lợi trong cuộc sống, do tâm trạng tiêu cực, cay đắng, uất hận, chúng ta có thể nóng nảy, làm những việc sai lầm.   Nếu có mang bên người món đồ có hình ảnh của Đức Phật, của các vị Bồ tát thì trong lúc nóng nảy, nhìn những món đồ này, chúng ta có thể bình tâm lại, kiềm chế được những hành động không có lợi, nhờ đó có thể tránh làm những việc sai lầm.   Vậy nên, tác dụng của những món đồ mang ý nghĩa tôn giáo là như vậy, chứ không phải những món đồ này sẽ tạo ra “phép thuật” nào đó để thay đổi tình huống trong cuộc sống mà ta gặp phải.   

3. Sử dụng trang sức hình Phật thế nào mới đúng?

  Khi thỉnh một món đồ mang tính Phật giáo để mang theo bên mình, mục đích quan trọng nhất là: Dùng để nhắc nhở chúng ta phải tu tập nhiều hơn, sâu hơn nữa.    Khi đeo trang sức gắn hình Đức Phật, chúng ta sẽ luôn tự nhắc mình phải có những cử chỉ, lời nói đúng mực, khuyến khích bản thân kiên nhẫn, từ bi và luôn thận trọng trong từng ý nghĩ cũng như lời nói.   
Trang suc hinh Phat Nen deo hay khong, suy ngam the nao hinh anh 2

Đeo trang sức hình Phật để nhắc nhở chúng ta phải tu tập nhiều hơn, sâu hơn 

 

Khi đeo trang sức có hình bông hoa sen, chúng ta sẽ tự nhắc nhở mình rằng mỗi ngày là một cơ hội để nuôi dưỡng, tăng trưởng lòng từ bi, trí tuệ và tình yêu ngát hương như đóa sen này. Bạn đã biết vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác?   Khi chúng ta giữ được suy nghĩ (ý), lời nói (khẩu) và hành động (thân) đều lương thiện, cao đẹp thì tự khắc sẽ gieo những thiện duyên, cuộc sống sẽ an lành. Với ý nghĩa này, chúng ta có thể thỉnh những món đồ này về cho bản thân hoặc để tặng người thân, bằng hữu… như một món quà vô giá về tinh thần.    Nhiều người thắc mắc: khi đeo trang sức có hình Đức Phật hoặc các hình ảnh tâm linh khác trong những hoạt động đời sống thường ngày như nấu nướng, làm việc, tắm gội,… thì có bị tội hay không, có mất phước hay không. Như đã phân tích ở trên, những món đồ có các hình ảnh tâm linh này không hề mang ý nghĩa tâm linh thật sự mà chỉ là ý nghĩa giáo dục, tinh thần.    Tóm lại, việc có nên đeo trang sức có gắn hình Phật hay những hình ảnh tâm linh hay không là chuyện của từng cá nhân, tuy nhiên, cần phân biệt việc này khỏi những trò mê tín dị đoan, tin lời xằng bậy, coi những trang sức gắn hình ảnh tâm linh là bùa chú.    Chẳng có thứ trang sức nào có thể giúp được ta gặt hái thành tựu bằng việc chính ta tự đúc một tượng Phật trong tâm mình, luôn ghi nhớ những lời Phật dạy mà y giáo phụng hành. Bấy giờ dù bạn có mang theo mình hình ảnh Phật hay không cũng không quan trọng nữa. Bởi chúng ta luôn có Phật bên người, chính tại nơi đây, ngay trong trái tim mình.   T.H   Thấm thía lời Phật dạy về cuộc sống Lời Phật dạy: Đẹp từ Tâm là cái đẹp vẹn toàn Hà cớ gì cổ nhân có câu “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra”
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang sức hình Phật: Nên đeo hay không, suy ngẫm thế nào

Phong thủy ban công cát tường hơn nhờ 3 lưu ý nhỏ

Phong thủy ban công không được nhiều người chú trọng, nhưng thực chất chỉ với một số lưu ý nho nhỏ ở ban công là phong thủy ngôi nhà đã tốt lành hơn.
Phong thủy ban công cát tường hơn nhờ 3 lưu ý nhỏ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy ban công không được nhiều người chú trọng, nhưng thực chất chỉ với một số lưu ý nho nhỏ ở ban công là bạn có thể biến phong thủy ngôi nhà của mình trở nên tốt lành hơn đáng kể.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

Phong thuy ban cong cat tuong hon nho 3 luu y nho hinh anh
 
Phong thủy ban công chủ yếu tập trung ở cách bố trí thực vật hoa cỏ, một số ít nhà bày cả vật phẩm phong thủy cát tường ở đây. Điều này vùa có tác dụng chắn sát, giảm hung lại mang tới không gian thoáng đãng, đẹp mắt cho ngôi nhà. Nhưng bày phong thủy không thể bày bừa, nhất là không thể phạm một trong 3 cấm kị về phong thủy ban công dưới đây.  

1. Kị trồng nhiều cây cỏ, hoa tươi có mùi thơm nồng đậm

  Phong thủy ban công không khuyến khích trồng hoặc bày quá nhiều các loại cây có mùi hương mang tính kích thích như hoa lan, hoa hồng, hoa bách hợp, dạ lan hương,…  Mùi hương của cây hoa khiến thần kinh hưng phấn, quá nhiều sẽ dẫn tới đau đầu, mất ngủ, nhất là trong không gian kín. Với ban rộng rộng, có thể trồng 2 hoặc 3 chậu, phân tán đều để mùi hương lan tỏa thoang thoảng, với ban công hẹp, chỉ nên trồng một chậu nho nhỏ. Các loài hoa tulip, thiên trúc quỳ dễ gây mẩn ngứa, hại da cũng không nên trồng trong nhà.  

2. Kị bày quá nhiều

  Ban đêm, cây cỏ thải ra CO2, hấp thu dưỡng khí nên ảnh hưởng tới quá trình hô hấp của con người. Tuy ban công ở bên ngoài nhưng vẫn rất gần với các phòng, khiến chủ nhân không đủ khí, khó thở, mất ngủ, gặp ác mộng.
Phong thuy ban cong cat tuong hon nho 3 luu y nho hinh anh
 

3. Kị bày hoa cỏ độc hại

  Tất nhiên, không ai cố ý bày những loại hoa cỏ độc hại ở ban công nhà mình, nhưng có thể vô tình, do không biết nên phạm phải. Vì thế, trước khi có ý định bày hay trồng bất cứ loại cây nào, cũng phải tìm hiểu kĩ càng về tính chất của chúng. Một số loại cây có độc, nhất thiết không trồng trong nhà, bày ngoài ban công như trúc đào lá và hoa đều có độc, lỡ ăn nhầm sẽ mất mạng; thủy tiên trong củ chứa độc tố gây nôn mửa, da dẻ sưng đỏ, vào mắt sẽ khiến mù lòa; hoa trinh nữ nếu tiếp xúc nhiều sẽ gây rụng lông mày, rụng tóc, viêm da,…. 
Phong thủy ban công - đừng thờ ơ Những lưu ý quan trọng trong phong thủy cho ban công phòng khách Bố trí ban công hợp phong thủy

Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy ban công cát tường hơn nhờ 3 lưu ý nhỏ

Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Đôi khi trong giấc mơ, bạn mơ thấy mình làm việc nhà, cụ thể là giặt quần áo, vậy giấc mơ này là điềm dữ hay điềm lành? Đừng quá lo lắng nhé, mọi điều tốt đẹp
Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sớm hay muộn cũng sẽ đến với bạn.

 

Thu vi voi giac mo giat do hinh anh
Ảnh minh họa

Nếu nằm mơ thấy giặt quần áo của chính mình, là bạn đang cố gắng để hòan tất một công việc nào đó hoặc đang lo lắng và tìm cách thay đổi vẻ bề ngoài của bản thân.

 

Nếu mơ thấy có người giặt quần áo cho mình có nghĩa rằng bạn sẽ bị ai đó tiết lộ chuyện riêng tư. Hãy thận trọng những lời đồn thổi và tìm cách thoát ra khỏi chúng.

 

Mơ thấy mình đang chọn quần áo đưa đi giặt biểu thị rằng bạn chưa có quan điểm sống rõ ràng và bạn đang phân vân và loay hoay tìm hướng đi đúng.

 

Nằm mơ thấy túi lưới giặt đồ của máy giặt trong mơ ám chỉ rằng bạn không thích người khác ra lệnh cho mình, bạn muốn làm việc độc lập. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa là bạn đang có những suy nghĩ tiêu cực. Hãy tích cực hơn, gạt những lo lắng, muộn phiền sang một bên, tương lai tươi sáng sẽ đến với bạn.

 

Mơ thấy mình đang ở tiệm giặt ngụ ý sắp có một sự thay đổi trong con người bạn. Bạn sẽ sớm thoát khỏi những nỗi đau trong quá khứ và sẵn sàng bước vào một tương lai tốt đẹp.

 

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Mơ thấy chim công: Tin vui đến –

Chim công xòe cánh, tức tin vui sẽ đến. Phụ nữ đã kết hôn mơ thấy chim công xòe cánh, nghĩa là không bao lâu nữa sẽ thụ thai và cho ra đời một cậu bé khỏe mạnh thông minh. Nam giới chưa kết hôn mơ thấy chim công xòe cánh, dự báo sẽ chóng tìm được bạn
Mơ thấy chim công: Tin vui đến –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chim công: Tin vui đến –

Xem xét một cách khoa học cách sắp xếp và bố trí trong nhà ở –

Thông thường, khi tiến hành trang trí nhà cửa, các gia đình luôn đặt các tiêu chí đẹp mắt, mới lạ, và có giá trị sử dụng lên hàng đầu mà quên mất một yếu tố cũng không kém phần quan trọng khác, đó chính là tính khoa học. Trong xã hội khoa học tri th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

25_DOOL_20110310_YEN_TT_38

ức ngày nay, quan niệm này cần phải được thay đổi. Chẳng hạn như những chiếc ghế và bàn làm việc trước khi được bán ra thị trường đều phải trải qua giai đoạn thiết kế sao cho phù hợp với chiều cao trung bình của người sử dụng, những người quá cao hay quá thấp nếu sử dụng các sản phẩm này chắc chắn sẽ không cảm thấy thoải mái. Để giải quyết vấn đề này cần có những bộ óc tư duy sáng tạo một cách khoa học của nhà sản xuất cũng như cách lựa chọn thông minh của người tiêu dùng.

Việc sản xuất và chọn mua đồ dùng gia đình phải phù hợp với yêu cầu của việc phát triển bình thường của cơ thể con người. Không nên chỉ quan tâm quá đến kiểu dáng, màu sắc và chất lượng của sản phẩm mà còn phải chú ý đến đặc điểm cơ thể của từng thành viên trong gia đình cũng như những yêu cầu đặt ra về chức năng của thứ đồ dùng mà mình sắp mua. Cụ thể hơn, cần căn cứ the0 quy luật hoạt động, kích thước từng bộ phận cũng như tư thế của từng người khi sử dụng sản phẩm để xác định kết cấu, kích thước và vị trí đặt sản phẩm. Chẳng hạn, với một ngưòi có nhu cầu nghỉ ngơi hoặc đọc sách thì cần một chiếc ghế sôpha mềm và hơi thấp, như vậy đôi chân có thể co duỗi tự do, tạo cảm giác thoải mái và quên hết mệt mỏi. Khi viết chữ thì một chiếc ghế có độ cao vừa phải so với bàn làm việc là lí tưởng nhất. Nếu đã nắm rõ những quy luật trên thì có nghĩa là bạn đã kết hợp thống nhất được các tiêu chí về chức năng, tính ứng dụng và tính thẩm mĩ trong quá trình sản xuất cũng như lựa chọn các sản phẩm đồ dùng gia đình. Như vậy không những tăng cường được hiệu quả nghệ thuật trong trang trí nội thất mà còn có thể bảo vệ được sức khỏe và tránh mắc phải những khiếm khuyết về hình thể.

Với tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh hiện nay, các tòa nhà cao tầng mọc lên san sát, trong khi đó, có những cặp vợ chồng mới cưới lại không xoay sở nổi một mảnh đất để xây nhà. Họ phải sống trong những ngôi nhà tồi tàn và thiếu thốn về mọi thứ. Tuy vậy, trên thực tế, chỉ cần để tâm một chút đến cách bài trí các vật dụng trong nhà thì vấn đề trên sẽ không còn là chuyện gây đau đầu nữa, thậm chí ngôi nhà của bạn sẽ trở nên “hấp dẫn” hơn.

Đối với các phòng ngủ có mái nghiêng, tốt nhất nên trang trí bằng các vật dụng làm từ mây tre đan, khăn trải bàn hay trải ghế có thể dùng vải bông hoặc vải thô sơ chế. Cách tô điểm căn phòng bằng những vật dụng có nguồn gốc thiên nhiên như vậy làm cho người ta có cảm giác đang được hòa mình trong không khí của một vùng quê thanh bình. Đây cũng là một trong những phong cách thiết kế nội thất thịnh hành hiện nay. Nếu trần nhà bạn hơi thấp thì họa tiết của các bức tường bao quanh nên là dạng kẻ carô, còn với một căn phòng có các đồ dùng không quá cao, cũng có thể áp dụng phong cách trang trí theo lối đồng quê.

Phong cách trang trí đối với các phòng ngủ có trần nhà cao cũng có điểm thú vị riêng. Có một số kiến trúc cổ, diện tích thì hẹp, nhưng trần nhà lại quá cao, làm cho ngưòi ta có cảm giác về một nơi chật hẹp và âm u tĩnh mịch. Với những căn phòng như vậy, nên đặt vài chiếc dầm ngang ở độ cao cách mặt đất khoảng 2,5 m, chú ý sao cho vân gỗ lộ ra ngoài, ngoài ra có thể trang trí thêm vải màu, treo vài giỏ quả nhựa như nho, táo, hoặc trải vài tấm thảm, như vậy không khí trong phòng sẽ trở nên ấm áp hơn.

Nếu độ sáng không tốt, có thể tạo ra một không khí yên tĩnh bằng nhiều kỹ xảo khác nhau, phương pháp chủ yếu là sơn màu các bức tường hơi đậm một chút, trần nhà mặt đất và đồ dụng trong nhà đều sử dụng tông màu sáng, ánh đèn có thể chiếu lên trên hoặc hướng xuống mặt đất, làm cho căn phòng có vẻ thoáng hơn. Đương nhiên các màu sử dụng trong phòng nên càng đơn giản càng tốt, và căn phòng nên có độ thông gió nhất định.

Việc tạo dựng một góc không gian vui chơi giải trí không những làm tăng tính nghệ thuật và cá tính riêng của căn phòng, mà còn có tác dụng khá tốt đối với việc làm phong phú đời sống của trẻ nhỏ, đồng thời góp phần vào quá trình phát triển trí não của chúng. Nếu cảnh tưởng thiên nhiên bên ngoài đẹp mắt, bạn hãy nghĩ cách đưa cảnh tượng ấy vào trong nhà của mình, hoặc cũng có thể dùng những vật liệu có sẵn ở bên ngoài để trang trí bên trong, thậm chí có thể vẽ lên tường các hình tượng thiên nhiên như cây xanh, hoa cỏ, chim bay bướm lượn…, tạo cho căn phòng một không khí sống động như bên ngoài. Như vậy, bạn có thể ngồi trong phòng mà tận hưởng cảm giác như đang sống giữa thiên nhiên.

Trong đời sống thường ngày, chúng ta thường hay giữ lại những thứ đồ đựng khác nhau như bình rượu, vò rượu, hay các đồ vật khác như bộ đổ trà, dụng cụ để ăn, đĩa đựng hoa quả, gạt tàn thuốc lá, ống đựng bút hay lọ đựng trà… Có thể nói, chúng tạo một thể thống nhất không những đẹp về mặt thẩm mĩ mà còn có giá trị sử dụng. Bỏi thế chúng ta không nên xem nhẹ vai trò của những vật này trong trang trí nhà cửa. Nhờ có chúng mà căn phòng của chúng ta mới trở nên có hồn và có sức sống. Giá trị sử dụng của chúng làm cho căn phòng trở nên tiện nghi hơn, đồng thời với cách tạo hình đẹp mắt và độc đáo có vai trò làm điểm nhấn cho cả căn phòng.

Còn về các bức thư họa, hàng thủ công mĩ nghệ hay các thứ đồ chơi quý hiếm… vốn đã là những thứ dùng để trang trí, chúng có kiểu dáng bắt mắt và được chế tác với nhiều phong cách rất riêng. Vẻ đẹp tiềm ẩn của chúng nằm ở chỗ có thể khơi dậy ở người thưởng thức những cảm xúc, những ý tưởng và lí tưởng riêng.

Đặc điểm của phong cách thiết kế nội thất truyền thống là đưa lí tưởng cũng như hoài bão thực hiện lí tưởng của con người vào thể hiện trong không gian bài trí nội thất, mục đích là để thể hiện quyết tâm thực hiện lí tưởng của chính con người, ngay cả khi ở trong môi trường sống thường ngày.

Với kiểu thiết kế này thì thư pháp là một công cụ khá phù hợp. Thư pháp có tính biểu đạt, nó có thể diễn đạt rất chuẩn xác một tâm trạng hay tư tưởng nào đó cũng có thể miêu tả một sự vật và ranh giới của nó. Treo một bức thư pháp trong phòng, vừa có tính thẩm mỹ vừa có tác dụng mở lối cho người thưỏng thức chúng.

Để ngôi nhà của bạn tăng thêm ý vị và tràn đầy sức sống thiên nhiên thì vài chậu cây cảnh hay một lọ hoa tươi được xem là lựa chọn sáng suốt. Điều đó không những tạo không khí trong lành, mà còn làm cho ngôi nhà của bạn thêm sống động, nhiều màu sắc. Đây cũng là một trong những phương pháp trang trí nội thất lí tưởng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem xét một cách khoa học cách sắp xếp và bố trí trong nhà ở –

Cách nhận diện bản thân trong cuộc sống

Một bài viết hướng dẫn cách nhìn lá số để nhận diện nhanh. Mời các bạn cùng đọc tham khảo.
Cách nhận diện bản thân trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi có bản linh khu đồ (lá số tử vi) với đầy đủ chi tiết: năm tháng - ngày - giờ sinh âm lịch chính xác, cần lưu ý tuần tự theo các bước sau:

Bước 1

Quan sát 3 cung "mệnh - quan - tài" đóng ở thế tam hợp nào? Tam hợp thủy, tam hợp hòa, tam hợp kim hay tam hợp mộc? Rồi theo luật ngũ hành mà luận thế tương sinh, tương khắc! Rõ ràng, sự ưu đãi chỉ dành cho tam hợp thủy là tốt nhất (vì chỉ có Thổ mới khắc chế Thủy, mà cấu trúc bản linh khu đồ lại không có tam hợp nào thuộc hành Thổ). Cho nên, tam giác "mệnh - quan - tài" đóng ở các cung "Thân - Tý - Thìn" là mẫu cá nhân luôn được sự ưu đãi, may mắn trong cuộc sống, khi gặp khó khăn luôn được giúp đỡ bất ngờ. Còn tam hợp hành Kim và hành Hỏa thì phải tự thân vận động. Đặc biệt, tam hợp mộc "Hợi - Mão - Mùi" có thế mạnh là lấy nhu thắng cương, tức là biết mềm mỏng, hòa nhã với mọi người (kể cả với đối thủ khắc chế mình) thì vẫn thu hút được người đó làm theo ý mình, bất kể tam giác, "Mệnh - Quan - Tài" đóng ở tam hợp: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn hay Thiếu âm.

Bước 2

Cần xem tam giác "Mệnh - Quan - Tài" đóng ở vòng nào? vòng Thái tuế, vòng Thiếu dương, vòng Tang môn hay vòng Thiếu âm? Để nhận định bước đầu nhân cách của người đó, cụ Thiên Lương năm xưa đã thường đề cập trong các sách do cụ biên soạn (khi nghiệm lý về linh khu thời mệnh học).

Bước 3

Cần xem các bộ dữ kiện chính tinh "VIP" như: "Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay bộ Cự Nhật" đóng ở tam giác Mệnh - Quan - Tài ra sao? Để nhận định khả năng ứng biến, cũng như công việc mà họ đảm nhận có phù hợp với sở trường, sở đoản của họ hay không?

Bước 4

Cần lưu ý chữ "THỜI" trong đại vận 10 năm đang ở vận hội nào? Có "đắc thiên thời" là vòng Thái tuế? Hay đang vào thời vận của thủ đoạn, lấn lướt ở vòng Thiếu dương? Hay đang ở trong thời vận vòng Tuế phá không mấy hài lòng và gặp nhiều bất mãn? Hay đang ở thời vận "lẫy nhu thắng cương" của vòng Thiếu âm, cam chịu nhiều thiệt thòi? Khi xem tiểu hạn 1 năm cũng theo cách thế này để tiên lượng có thuận lợi hay không?

Bước 5

Nhận định thêm các dữ kiện "trung tinh" và "sát tinh" nằm ở cung tương ứng: vì các dữ kiện trung tinh và sát tinh luôn nằm ở thế giằng co, đan xen nhau tại 1 cung, hoặc sát tinh đối đầu (xung chiếu) với chính tinh an cư vượng địa, đắc địa (bởi không bao giờ có cung nào thật sự hoàn hảo, tức là cung chỉ toàn dữ kiện đắc địa + trung tinh, mà lại không có sát tinh nào dòm ngó cả).

Đặc biệt chú ý

Các cung nào có các dữ kiện mang chữ "THIÊN" như: Thiên khôi, Thiên việt, Thiên quan, Thiên tài, v.v... điều này hàm ý cung đó có nỗi buồn, mất mát, và đang được "Ông Thiên" cảnh báo hoặc an ủi mà thôi.

Khá mừng cho ai mà tam giác "Mệnh - Quan - Tài" chỉ thấy dữ kiện sát tinh độc thủ, điều này hàm ý cần có sự giáo huấn khắc nghiệt từ lúc thiếu thời của đương số, mục đích để cho "Tâm - Đức" luôn thức tỉnh, kể cả lúc tuổi về chiều.

Bước 6

Khi luận giải linh khu đồ, cần chú ý xem tam giác "Mệnh - Quan - Tài" (hay đại hạn 10 năm) và tiểu hạn 1 năm phải tính theo hệ Âm - Dương, ngũ hành so với bản mệnh.

Ví dụ: dương nam hay âm nam (tương tự cho âm nữ và dương nữ), thì xem "Mệnh - Quan - Tài" hay đại hạn 10 năm, tiểu hạn 1 năm, an cư tại cung dương hay âm có đúng cách hay không? Vì nghịch thế âm - dương thì chỉ bộc phát nhất thời mà thôi.

Trong các thế tam hợp của linh khu đồ, thì thế dương là thế động, còn thế âm là thế tĩnh.

TẠM KẾT

Mỗi bản linh khu đồ đều có 12 cung và được chia ra làm 4 tam hợp cục là "kim - mộc - thủy - hỏa" với đặc tính chỉ có tương sinh và tương khắc (về mặt tâm lý học, thì chỉ có "THƯƠNG và GHÉT"). Do vậy, mà bản linh khu đồ nên được hiểu như lãnh vực "nhân học và giáo dục học", giúp con người hướng thiện và biết chấp nhận cuộc sống (luôn có niềm vui và nỗi buồn xảy ra); còn như niềm vui hoặc nỗi buồn xảy ra nặng hay nhẹ là do "Tâm - Đức" của quá trình mọi người đã ứng xử trong cuộc sống của mình vậy.

(Linh khu thời mệnh lý - Lê Hưng VKD)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách nhận diện bản thân trong cuộc sống

Bạn thường thu hút và được yêu thích bởi kiểu người nào?

Chọn bức hình có dáng ngón út giống hoặc gần giống nhất với ngón tay út của bạn!
Bạn thường thu hút và được yêu thích bởi kiểu người nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ban-thuong-thu-hut-va-duoc-yeu-thich-boi-kieu-nguoi-nao
A. Phần đầu ngón út nhọn và nhỏ hơn phần thân
B. Phần đầu ngón út tròn
C. Ngón út phồng ở các khớp
D. Phần đầu ngón út vuông
E. Phần đầu ngón út to hơn phần thân

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn thường thu hút và được yêu thích bởi kiểu người nào?

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mão

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Kỷ Mão thấy chí tiến thủ trong sự nghiệp, tuy nhiên đến trung vận công việc gặp trở ngại. Đường tình duyên của họ kém, hôn
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Kỷ Mão thấy chí tiến thủ trong sự nghiệp, tuy nhiên đến trung vận công việc gặp trở ngại. Đường tình duyên của họ kém, hôn nhân dễ thất bại.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Ky Mao hinh anh
 
Trụ ngày Kỷ Mão có Thất Sát tọa Mão Mộc, Ất Mộc, tạo nên tính cách Nhân - Tín. Đường đời mệnh chủ tất gặp Tý Thủy, nên kết hợp với Giáp Tuất.   Người sinh ngày Kỷ Mão tuy siêng năng cần cù, tuy nhiên đến trung vận gặp trở ngại, công việc có sự chuyển biến thay đổi. Họ hiểu giá trị của đồng tiền nên hết mình phấn đấu trong sự nghiệp.
Điểm danh con giáp càng về già càng may mắn
Khổ cực cả đời, ai cũng hy vọng về già được hạnh phúc vui vẻ, nhận nhiều may mắn. Hãy cùng lichngaytot. com điểm danh những con giáp sẽ gặp may mắn khi về già.

Trụ ngày Kỷ Mão thuộc tuýp người lãng mạn, nhiều tình cảm nhưng lại gặp nhiều tranh chấp. Vậy nên, trong cuộc sống mệnh chủ không tránh khỏi việc tìm thị phi cho bản thân
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Kỷ Mão thấy đường tình duyên kém, gặp nhiều trắc trở, vợ chồng không hòa thuận. Người có bát tự ngày Kỷ Mão thường ly dị, thất bại trong hôn nhân, đặc biệt nữ mệnh hy sinh nhiều về gia đình, long đong về con cái.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Ky Mao hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Kỷ Mão thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Tý. Giáp Thìn, Giáp Dần, Giáp Ngọ, Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ, Ất Hợi, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Tuất, Đinh Mão, Đinh Sửu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ, Mậu Tý, Mậu Ngọ, Mậu Thân, Mậu Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Dậu, Kỷ Tỵ, Kỷ Mùi, Canh Dần, Canh Tý, Canh Tuất, Canh Thân, Taan Hợi, Tân Dậu, Tân Tỵ, Nhâm Dần, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý, Quý Tỵ, Quý Hợi, Quý Mão
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Mão

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd