Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Lời nói gió bay, vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.
Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời nói gió bay, miệng nói mà tay không làm thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.


► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Song Tử   Chòm sao bạo miệng Song Tử tất nhiên là nói giỏi, khua môi múa mép giỏi nhưng làm thì chưa chắc đâu nhé. Có một số việc, Song Tử rất nhanh nhẹn nhận phần, hứa hẹn hùng dũng khiến người khác thập phần tin tưởng công việc sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng cuối cùng chỉ nhận về thất vọng. Độ chém gió thành thần của Song Tử đã cao tới mức, có 1 nói thành 100, có 10 nói thành 1000 rồi nên điều đó có gì là lạ đâu.
Nhân Mã   Lạc quan mù quáng và tin tưởng quá độ chính là điều biến Nhân Mã thành chòm sao giỏi chém gió. Do không cân nhắc năng lực cùng điều kiện thực tế, quá coi trọng bản thân, không lường trước khó khăn, nhìn nhận sự việc đơn giản nên Mã Mã tự tin sẽ làm tốt, hứa hẹn rất hoành tráng. Cuối cùng, sóng gió ập tới, thực tế phũ phàng khiến họ thất hẹn. Dù không cố lừa đảo hay khoác lác nhưng kết quả lại biến thành người như vậy.
4 chòm sao có trí thông minh hơn người 3 chòm sao nữ có tấm lòng vị tha, độ lượng 3 chòm sao nói KHÔNG với tình một đêm

Bạch Dương
  Bạch Dương là chòm sao thành thật, tại thời điểm hứa hẹn họ thật sự là muốn làm tốt, nhưng bản tính khoác lác, khoe mẽ không sao bỏ được nên thêm mắm dặm muối, thổi phồng năng lực lên nhiều lần khiến đối phương cảm thấy rất tín nhiệm. Dẫu cố gắng trân trọng sự tin tưởng ấy bao nhiêu nhung vì năng lực thực chất có hạn nên bạch Dương vẫn không thể hoàn thành sự việc hoàn hảo, tốt đẹp như họ từng chém gió trước đây. Cũng vì thế mà mác khoác lác cứ đeo bám mãi thôi.
Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Sư Tử
  Chòm sao kiêu ngạo như Sư Tử dễ gì mà có 1 nói 1, có 2 nói 2. Họ phải thể hiện bản lĩnh, tâng bốc bản thân để người khác phải trọng vọng. Thói ham hư vinh đến chết không chừa ấy đã nhiều lần mang tới rắc rối cho Sư Tử và những người khác khi mà hoàn thành công việc không đúng với hứa hẹn ban đầu thì họ lại quay ra đổ lỗi xằng bậy chứ nhất định không chịu nhận trách nhiệm về mình. Một vài lần, người khác sẽ tự khắc hiểu lời nói có Sư Tử có mấy phần đáng tin.    3 chòm sao lúc nào cũng vui vẻ như trẻ thơ Chỉ điểm cách giải tỏa áp lực trước kì thi cho 12 chòm sao Chỉ số thông minh của 12 cung hoàng đạo Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Đền Trần - Thái Bình

Đền Trần Thái Bình là một khu di tích bao gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua Trần trên đất phát tích Thái Bình
Đền Trần - Thái Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu như du khách đã từng biết đến Đền Trần của Hải Phòng hay Đền Trần tại Nam Định thì ắt hẳn sẽ không nên bỏ qua Đền Trần Thái Bình – Một quần thể di trúc đền thờ và lăng mộ tọa lạc trên làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Đền Trần Thái Bình là một khu di tích bao gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua Trần trên đất phát tích Thái Bình (còn gọi là Thái Đường Lăng).

Lịch Sử: Lịch sử ghi chép lại, vương triều nhà Trần có nhiều vị vua anh minh tuấn kiệt như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và rất nhiều tướng kiệt xuất như Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư… Thái Bình là vùng đất phát tích của vương triều Trần, vì cách đây hơn 700 năm, tại đây các vị vua khai nghiệp nhà Trần được sinh ra, gia tộc nhà Trần dựa vào đây dấy nghiệp.

Các vua Trần đã cho xây dựng một hành cung Long Hưng để tổ chức những đại lễ mừng chiến thắng và Tam đường là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, Thái tổ Trần Hấp, Nguyên tổ Trần Lý, Thái thượng hoàng Trần Thừa…

Khi các vị vua và hoàng hậu băng hà thì có tới trên một nửa được an táng tại quê nhà và đều được xây lăng miếu phụng thờ, trong đó Thái Đường Lăng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp tác tại các lăng mộ như Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng.

Năm tháng qua đi, lăng mộ ba vị vua đầu triều Trần và dòng sông Thái Sư vẫn còn đó. Hơn 7 thế kỷ, những di vật nằm sâu trong lòng đất Tam Đường đã được khai quật, giúp hậu thế tìm lại một quần thể kiến trúc lăng mộ, kiến trúc hành cung Long Hưng uy nghi, tráng lệ.

Đền Trần - Thái Bình
Trước điện – Đền Trần – Thái Bình

Kiến Trúc: Đền có diện tích rộng khoảng trên 5175m2. Đền thờ các vua Trần và Đức thánh Trần Hưng Đạo đã được xây dựng công phu, uy nghi bề thế toạ lạc trên nền phế tích nằm giữa trung tâm xã Tiến Đức với các hạng mục đã hoàn thành là toà hậu cung, toà bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hoá vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình kiến trúc liên quan.

Đây là một tổng thể kiến trúc rộng lớn, là nơi thờ tự các vua Trần. Các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian, như: không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến trúc dân tộc – kiến trúc đình làng. Riêng Toà hậu cung đền Trần là một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu chữ đinh, gồm hai toà tám gian, trên diện tích 359m2, được khởi dựng bởi sự tài hoa của những người thợ; sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động.

Lễ hội đền Trần Thái Bình đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào ngày 27/1/2014. Lễ hội đền Trần diễn ra vào ngày 13 đến 18 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Lễ hội Đền Trần Thái Bình là lễ hội lớn của tỉnh, được tổ chức hàng năm vào dịp đầu Xuân nhằm khẳng định và tôn vinh công lao dựng nước, giữ nước của Nhà Trần – triều đại phong kiến Việt Nam đã làm nên những trang lịch sử hào hùng ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên – Mông. Đây cũng là dịp để các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh thể hiện lòng tri ân với các bậc liệt tổ, các vị vua, các vị tướng, hoàng thân quốc thích Nhà Trần có công với đất nước, qua đó, giáo dục thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Trần - Thái Bình

Đa dạng hệ thống kiến trúc thờ thần linh của người Việt

Cùng là nơi thờ thần linh nhưng tên gọi khác nhau và không nhiều người thực sự phân biệt được đền, miếu, điện, phủ, am.
Đa dạng hệ thống kiến trúc thờ thần linh của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điều đó cho thấy sự đa dạng và đa thần trong đời sống tâm linh của người Việt.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Da dang he thong kien truc tho than linh cua nguoi Viet hinh anh
Miếu Bà Chúa Sứ núi Sam

Chùa

Chùa là nơi thờ Phật lớn nhất trong hệ thống những nơi thờ thần linh của người Việt nói riêng và các tín đồ Phật giáo nói chung. Ngày nay, do tín ngưỡng đa thần của người Việt nên nhiều chùa có cả ban thờ mẫu và điện thờ thánh trong khuôn viên.

Đền

Đền là nơi thờ Thánh hoặc những nhân vật lịch sử đã được thần thánh hoá. Các đền thờ dân dã gắn với việc thờ các thần linh hoặc những nhân vật của địa phương được thiêng hoá.
 
Miếu

Thường là ngôi đền nhỏ như miếu Thổ Địa, miếu Cô, miếu Cậu,.. không phải là nơi thờ thần linh có vai trò to lớn. Tuy nhiên trong một vài trường hợp cụ thể có thể thấy miếu là một kiến trúc khá lớn, đôi khi chiếm một diện tích mặt bằng đáng kể, ví như Văn Miếu, Võ Miếu. 
 
Điện

Điện là một hình thức của đền, nơi thờ thánh trong tín ngưỡng dân gian Việt. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…
 
Phủ

Da dang he thong kien truc tho than linh cua nguoi Viet hinh anh
Phủ Tây Hồ -  Hà Nội 

Phủ là một nơi thờ tự thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). 

Am

Am là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Ngày nay, am là nơi thờ các bậc thánh hiền, những nhà giáo có công đức và tài năng lớn.   ST    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đa dạng hệ thống kiến trúc thờ thần linh của người Việt

Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O, tu vi Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O

Tính cách của người nhóm máu O

Nhóm máu O phổ biến hơn cả, chiếm 44% dân số. Đây là nhóm máu cổ xưa nhất, phản ánh lối sống của con người trong thời kỳ nguyên thuỷ, khi còn phải săn thú, hái lượm để sinh sống, tồn tại. Những người thuộc nhóm máu này thường mạnh mẽ, tự tin, thẳng thắn, quyết đoán và vững vàng trong cuộc sống. Họ cũng là những người nhẫn nại, duy tâm, gợi cảm, tư duy lôgic và có óc chiến lược. Với thiên hướng thích lãnh đạo, họ luôn tìm kiếm danh vọng, có tính hướng ngoại và thỉnh thoảng hay ghen.

Người nhóm máu O rất rộng lượng, sống vị tha với mọi người. Khi họ nổi giận thì rất đáng sợ, nhưng họ chẳng trả thù ai bao giờ. Những người này lại có nhu cầu quảng giao, thích trò chuyện và kết bạn với nhiều người. Họ rất dễ hòa nhập vào một cộng đồng vì luôn nở nụ cười, sống hào hiệp và phóng khoáng. Hoàn toàn ngược lại với người nhóm máu A, nhóm máu O khi bên cạnh người nhà hay bạn bè thân thiết thường tỏ ra phiền muộn, lo lắng, bất an và ức chế thần kinh, ngày chủ nhật thường ngồi không chẳng làm gì, nhưng khi bên cạnh những người không quen thân thì khác hẳn, trở nên nhanh nhẹn hoạt bát, nói chuyện bao nhiêu cũng không biết chán, miệng nói thao thao bất tuyệt, giao tiếp hết sức nhiệt tình, gây nên một ấn tượng vô cùng sinh động đối với người khác. Và họ không bao giờ từ chối nói chuyện với những người lạ mặt.

Tuy nhiên, so với người biết tự chủ của nhóm máu A thì họ kém hơn trong việc điều khiển ngôn ngữ và hành vi của mình. Trong những cuộc “đụng độ”, họ nói vô tội vạ, làm tổn thương những người khác dù không cố ý. Nhưng sau đó, họ quên ngay. Họ rất kiên trì theo đuổi mục tiêu và không bao giờ bỏ cuộc với bất kỳ lý do nào. Những khó khăn và vướng mắc chỉ là thuốc kích thích cho họ. Sự năng động và lòng nhẫn nại đôi lúc đẩy họ lên tột đỉnh vinh quang, đó là trường hợp của tổng thống Pháp Jacques Chirac. Đôi lúc, họ rất cực đoan, sẵn sàng gạt bỏ lời góp ý của người khác. Tuy rất thân thiện với mọi người, đôi khi họ tỏ ra kiêu hãnh, thậm chí xem thường người khác. Làm việc với họ, những người chỉ huy có vẻ rất khổ sở, vì họ có thể là trung tâm đoàn kết của cơ quan, là sứ giả hòa bình. Nhưng ngày một ngày hai, họ sẽ là ngòi nổ. Tuy nhiên, dù sao, vẫn nhớ một điều là họ không biết thù oán ai bao giờ.

Nhóm O thuộc loại người có thể gọi là “thủ lĩnh”, dung hoà các thành viên trong nhóm, giữ vai trò là nguời tạo ra sự vui vẻ giữa các thành viên. Nhóm O gồm những tính cách tiêu biểu cho sự hào phóng, hoà bình và vô tư. Hình ảnh của họ được xem là trung tâm nhóm và “được biết đến nhiều”. Tuy vậy, thật ngạc nhiên là những người nhóm máu này thường cứng đầu, ý chí cao và có khuynh hướng đặt ra quan điểm riêng cho mình và mọi việc. Sẵn sàng chấp nhận cái mới và ít bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài. Nhóm O thường được đánh giá là có đầu óc và được tin tưởng. Tuy nhiên họ lại hay phạm sai lầm lớn.

Họ rất rộng luợng và nhân từ, họ có thể chia sẻ với nguời khác một cách hào phóng. Nguời nhóm O đuợc tất cả mọi người yêu mến, nhưng cũng thật ngạc nhiên là họ khá buớng bỉnh và có ý chí mạnh mẽ, có những quan điểm riêng mà không nói ra. Mặt khác, họ có phần linh hoạt và dễ thích nghi trong công việc, nhanh chóng chấp nhận cái mới. Họ dễ bị ảnh huởng bởi nguời khác và những gì xem trên ti vi. Họ có vẻ bình tĩnh và đáng tin, nhưng lại là dạng nguời hay mắc lỗi linh tinh. Nhóm máu O thường là những nhà lãnh đạo quyền thế, luôn hướng về mục tiêu, nhiệt tình, lạc quan, và có khả năng kinh doanh tốt.

Những người thuộc nhóm máu O một khi đã hạ quyết tâm thì cảm thấy rất khó thay đổi. Do những người thuộc nhóm máu O là những người quá ngoan cố, họ có thể làm bản thân mình đi hết từ sai lầm này đến sai lầm khác do tính ngang ngạnh cố chấp quá mức của bản thân. Ngoài việc thiếu tính dung hòa ra, khi bị người khác phê bình, người thuộc nhóm máu O có thể có những phản ứng kịch liệt và họ khó bình tĩnh lại để tránh các tác hại.

Người nhóm máu O cũng thích gây ấn tượng phô trương thanh thế đối với người khác. Họ có thể tỏ ra hết sức nỗ lực, chăm chỉ trước mặt những người khác để che đậy sự tự ti và lòng tham của bản thân.

Đối với những người thuộc nhóm máu O không có cách nào xử lí một cách thoả đáng khi phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp với người khác, khi có những nỗi mệt mỏi, vất vả trong công việc,   những vướng mắc về mặt tinh thần, thường thu mình lại và họ thà bí mật cất giấu những điều đó vào tận cùng trái tim, có thể đôi khi họ cũng để cho tình cảm bộc phát mà cam chịu thụt lùi, nếu như không may bị mất đi lòng tự tin, rất có thể họ sẽ bị mắc các chứng suy nhược thần kinh mà ngay cả các bác sĩ cũng không muốn vướng vào.

Những người thuộc nhóm máu O không dễ dàng dựa vào cảm giác, họ có thể nhìn thấu bản chất của các sự vật, vì vậy, khi không may gặp phải những vấn đề chồng chéo, phức tạp, hoặc các vấn đề đòi hỏi phải vắt kiệt trí tuệ, họ thậm chí có thể phản ứng kịch liệt để “giữ được cái đầu”. Họ rất ít khi bị ảnh hưởng bởi môi trường, hoàn cảnh, bao gồm cả những người thân xung quanh và những người kết giao đã lâu năm. Lại càng ít bị chi phối, thao túng ý chí của bản thân chỉ bởi những lời nói và hành vi của người khác. Lời nói, hành động biểu hiện ở những người nhóm máu O đôi khi trông có vẻ như quá bạo dạn không biết sợ, thậm chí lỗ mãng, cục cằn. Trên thực tế, tất cả những điều này trong thâm tâm của họ đã có những suy nghĩ, tính toán từ đầu, hoàn toàn hợp tình, hợp lý.

Ưu điểm của họ là sống có lý tưởng, sáng suốt, có sức sống dồi dào, chơi thể thao giỏi, ý chí kiên cường, tự tin, trọng lí tính, lí luận, điềm đạm, khách quan, tích cực, đồng thời cũng có tính thực tế nhưng có nhược điểm là tính cách ngoan cố, thiếu khiêm tốn, quá cá nhân chủ nghĩa đến nỗi dẫn tới thái độ lãnh đạm, lạnh lùng, kém nhạy bén, hay mưu cầu địa vị, đố kỵ và ham danh lợi. Nghề thích hợp với người nhóm máu O là chính trị gia, giám đốc hoặc quản lý ngân hàng, môi giới đầu tư và vận động viên. Người có nhóm máu O nên làm việc theo chương trình đã vạch sẵn cho từng ngày, tránh bốc đồng, tùy hứng.

 

Các đặc trưng chính trong tính cách của người mang nhóm máu O.

 1. Ý chí và hành động kiên định, vững vàng

Những người thuộc nhóm máu O rất lý tính, có thể dũng cảm tiến lên phía trước khi họ cho rằng đó là hướng đúng. Họ không ngừng nỗ lực để thực hiện những ước mơ của bản thân, để đạt được mục đích, thì cho dù có phải thay đổi chủ ý họ cũng không ngần ngại. Chỉ đến khi tinh thần hăng hái đó bị thất bại, thì sự thất bại càng trở nên nặng nề hơn. Họ có ý chí kiên định, cảm xúc mãnh liệt, chăm chỉ, nỗ lực nhưng rất khó thích ứng và tiếp nhận những quan niệm trái ngược với quan niệm giá trị của bản thân. Đây là khí chất thẳng thắn của những người nhóm máu O biểu hiện thành tính cách tự khắng định mình ở họ, gây nên tình trạng không hòa hợp với những quan niệm của người khác khi luôn coi những quan niệm và giá trị của người khác là nhận thức kém cỏi. Đặc điểm này hoàn toàn không thể mang lại niềm vui cho người nhóm máu O mà ngược lại chỉ mang đến đau khổ cho họ mà thôi.

 2. Người rất khách quan

 Bất kể là người bạn thân thiết đến mức nào ra sức mê hoặc, dụ dỗ, anh ta vẫn không quên trả lời bằng một câu “Đợi chút có được không?” để hòa hoãn lập trường của bản thân. Họ không thể sơ suất để một chút cảm động nhất thời mà lỡ lời do không suy xét kĩ lưỡng. Họ có thể xem xét vấn đề theo logic thông thường, không đưa ra nhận xét với những sự việc không xác định. Những người thuộc nhóm máu O là túyp người sống rất lí tính. Những người nhóm máu O thường thiên về tính tri thức, có thể nỗ lực tích lũy tri thức, lí luận của bản thân để tìm hiểu chân tướng sự việc. Họ thường hay tự giảm bớt: “Cách nhìn nhận, đánh giá này chẳng phải là rất quen thuộc hay sao?” Nhưng một khi nhận thức rõ ràng ý nghĩa trong đó, thì họ lại rất dũng cảm và có những hành động quyết đoán.

 Những người thuộc nhóm máu O rất chú trọng đến nhận thức khách quan, bất cứ một việc gì trước hết cũng được đại não thanh lọc, kiểm tra, phán đoán rồi mới thừa nhận tính chân thực của nó. Những người luôn mang trong đầu khái niệm về thế giới với những thông lệ được tạo nên trên cơ sở tầng tầng lớp lớp những lí luận và học thuyết khoa học chính là những người bảo thủ, cố chấp của nhóm máu O. Phương pháp tư duy đối với nhiều sự việc của những người nhóm máu O đều rất khách quan nhưng trong quá trình nhận định bản chất của hiện tượng thường thiếu cảm giác chân thực. Khi lý giải một cách đầy đủ về hiện tượng khách quan, họ sẽ nỗ lực phân tích, bóc tách vấn đề với mục đích khám phá ra được chân tướng sự việc từ đó. Sau khi đã nhanh chóng đưa ra định luận, họ bắt đầu ra sức vận hành, thao tác để lấy thực tế chứng minh. Họ thường cần có thời gian để suy nghĩ, phán đoán và sau khi họ đã hạ quyết tâm thì họ không còn phải lăn tăn suy nghĩ nữa. Trong mọi việc, họ luôn chú trọng đến tính lý luận và sẽ tìm mọi cách để bảo vệ lý luận. Nếu đối chiếu với cuộc sống hiện thực, sẽ thấy những người nhóm máu O có cảm giác không nhạy bén, ngay cả khi họ làm việc gì mà xuất phát từ ý tốt cũng sẽ bị người khác hiểu sai là ý xấu. Nhưng họ vốn có ý chí, có thể đè nén cảm xúc, còn có cách suy nghĩ thông suốt.

 3. Cố chấp trong chuyện xử lý các mối quan hệ

Khi xử lý các mối quan hệ nảy sinh mâu thuẫn cũng như khi đối mặt với thách thức trong công việc, những người nhóm máu O thường không có biện pháp nào để điều tiết tâm lý một cách hợp lý. Họ lại hay tự lừa dối mình về mặt tình cảm, đến mức không có cách nào để giải quyết sự việc một cách khéo léo. Mặc dù họ theo chủ nghĩa hiện thực, nhưng về phương diện tình cảm vẫn là người khá cố chấp, câu nệ. Hơn nữa, khi không chịu đựng được những căng thẳng, áp lực do cuộc sống hiện thực mang lại, họ sẽ mất đi niềm tin vào bản thân và tình trạng thần kinh mất cân bằng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn những nhóm máu khác.

 4. Khả năng mô phỏng tốt

 Khi có một tri thức mới hay kỹ xảo mới, những người nhóm máu O thường có thể nắm chắc được nguyên tắc lớn, nghiên cứu thảo luận từ các góc độ để đi đến tiến hành vận dụng. Họ rất có khả năng mô phỏng nhưng hoàn toàn không phải là mô phỏng y nguyên mà chỉ sau khi đã chiếm hữu riêng một số phương pháp mới cho mình. Họ sẽ phát hiện ra những khuyết điểm trong đó và xóa bỏ những khuyết điểm đó để đưa thêm vào những khái niệm mới khiến cho nó phù hợp với nhu cầu hiện thực. Đó là sức mạnh năng lực sáng tạo lớn nhất ở nhóm máu này. Trong số những người thuộc nhóm máu O cũng có thể phát hiện ra một số người thiên về tồn tại thể phức hợp với nhóm máu A. Họ có thể cảm thấy rất khó ứng phó với các vấn đề thuộc về tình cảm, trực giác và sức lĩnh hội. Bởi vậy, những người thuộc nhóm máu O sẽ chăm chỉ học hành để bổ khuyết những thiếu hụt của bản thân; đồng thời ra sức cải biến những tri thức đã học tập được thành những thứ cho phù hợp với khả năng mô phỏng của bản thân họ. Có thể nói những người thuộc nhóm máu O là những người có tính thực tế và khả năng sáng tạo. Họ có thể sử dụng một cách linh hoạt kiến thức để đạt tới hiệu quả cao nhất. Khả năng mô phỏng thực sự là tài năng của những người thuộc nhóm máu O, nhưng nếu chỉ dựa vào điều này, người ta thường hay quên mất cảm giác bất an khi phải đối mặt với những điều chưa biết và làm nảy sinh phương thức sinh tồn tự tại.

 5. Những người bảo thủ luôn muốn là người đi đầu

Những người thuộc nhóm máu O có lòng tin mãnh liệt vào bản thân, có nguyện vọng được tự khẳng định bản thân, vì vậy họ tuyệt đối không chịu thừa nhận thất bại mà luôn bứt lên phía trước, nhưng bất kể trải qua mấy lần bứt phá mà mục tiêu vẫn ở phía trước đòi hỏi không thể ngừng nghỉ. Những người thuộc nhóm máu O không thể nào khẳng định được bản thân trước khi giành được mục tiêu có thể thúc ép bản thân phải đánh giá, nhận thức chính xác tình hình hiện tại, không ngừng cổ vũ, khuyến khích bản thân, làm tăng sự kiên cường của bản thân. Những người nhóm máu O không thích những điều không tưởng. Họ khá coi trọng cuộc sống mang tính xã hội, luôn muốn tranh thủ mọi cơ hội để làm sao có thể đứng vững trong xã hội. Vì vậy họ rất năng động, hoạt bát, luôn hiểu được khả năng của bản thân mình. Thông thường người nhóm máu O có năng lực bao quát, có thể phán đoán sự vật với tầm mắt rộng lớn. Có thể thấy được lòng tin kiên định vững chãi ở những người thuộc nhóm máu O với trạng thái tâm sinh lí khỏe mạnh, tốt đẹp. Nếu lúc đó tích cực thúc giục, động viên thì tinh thần đang cố gắng phấn đấu của anh ta có thể phát huy đến mức cao nhất. Càng trong hoàn cảnh khắc nghiệt thì họ càng cảm thấy động lực của cuộc sống và sức sống của sự sinh tồn.

 6.  Tính phức hợp

Bình thường những người thuộc nhóm máu O luôn cảm nhận được sự tồn tại của những người khác một cách mẫn cảm. Nếu chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài của những cử chỉ rộng rãi, thoải mái của những người có nhóm máu O, thì thật khó có thể tưởng tượng ra rằng kì thực họ không thể trực tiếp biểu đạt tình cảm của bản thân họ. Họ lại rất hay để ý cách sử dụng từ ngữ, cách ăn nói của những người khác, đồng thời cố gắng quan sát xem thái độ của những người xung quanh là có ý tốt, ý xấu hay cố ý… Nếu nhìn nhận từ góc độ này thì những người có nhóm máu O vốn là những người nhạy cảm, có tinh thần cảnh giác cao độ đồng thời lại rất có lý tính. Nhìn bên ngoài trông họ vui vẻ, náo nhiệt nhưng rất có thể khi ấy bên trong lại âm ỉ một cảm giác đau buồn. Bởi những người nhóm O có khả năng tự kìm chế mạnh và không dễ bộc lộ cảm nhận trong lòng ra ngoài. Trong quan hệ với những người xung quanh, họ rất điềm tĩnh. Ngay cả khi họ nhận ra ý xấu, ý tốt hay thái độ thù địch của người khác biểu hiện ra bên ngoài thì họ vẫn tỏ ra phớt lờ chuyện đó. Vì vậy, về căn bản thì những người nhóm máu O tương đối mẫn cảm với những phản ứng và sự vật xung quanh. Khả năng kiềm chế mạnh cũng có ưu nhược điểm của nó. Mặt tốt thể hiện người nhóm máu O luôn luôn biểu hiện lý tính thuần chất. Mặt xấu thể hiện ở chỗ những áp lực tình cảm tích tụ lâu ngày một khi phát ra sẽ vô cùng mạnh mẽ.

 7. Người hay khoe khoang

Bản thân những người thuộc nhóm máu O là những người theo chủ nghĩa hiện thực, đôi khi có thể tranh luận để mà tranh luận, có biệt tài khoe khoang những danh tiếng mà họ đã đạt được. Thường thể hiện ra triết lí lời nói chí lí và “những lời nói từ trái tim”, vốn có khả năng làm cho người khác kinh ngạc, có lúc còn có thể trở thành nhân vật trung gian không chịu nhân nhượng. Những người nhóm máu O thường luôn cho rằng bản thân chỉ có sức hấp dẫn về mặt tinh thần chứ không thể nào lãnh đạo người khác. Đôi khi họ có thể nói ra những lời lẽ không hợp thời, sau đó lại càng hay khoác lác, khoe khoang, thổi phồng mọi thứ, để nâng cao giá trị của bản thân, cũng có khi có người tạm thời bị mê hoặc bởi những lời lẽ hào nhoáng đó. Nhưng một khi họ đã phát hiện ra chân tướng sự việc, thì có thể khiến cho mọi người quay lưng lại, những nỗ lực ban đầu đã làm cũng sẽ tan biến như bọt nước mà thôi.

 8. Không hành động theo tình cảm

Thế giới hiện thực chính là vũ đài của bản thân họ – đây là cảm giác số mệnh mà tất cả những người thuộc nhóm máu O cảm nhận thấy. Khi họ giác ngộ thấy không được phép tùy tiện thỏa hiệp, họ sẽ càng nghiêm túc thúc giục bản thân cố gắng vươn lên, những người nhóm máu O thường có bản lĩnh trong việc rao giảng lí luận để củng cố địa vị của bản thân, họ không dễ dàng hành động theo những tình cảm bột phát. Đương nhiên trong đầu óc những người thuộc nhóm máu O, hòan toàn không thể xuất hiện những ý nghĩ kì quái, lạ lùng kiểu như có ánh sáng linh thiêng đột nhiên chiếu rọi; sức tưởng tượng của họ không thể bay lượn thoải mái trong không gian như con ngựa thần trong truyện cổ tích được. Tuy rằng việc suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi hành động có những ưu điểm, nhưng đối với một số người muốn đạt được kết quả nhanh chóng, gấp gáp  thì cung cách đó dễ khiến cho người ta chẳng thể kiên nhẫn chờ đợi; mà có cảm giác xấu về những người nhóm máu O; thậm chí còn còn bị suy đoán một cách không thiện chí là cố tình làm mất miếng ăn của người khác. Mất bao nhiêu công sức, dường như không dễ gì đưa ra kết luận, lại thường chỉ là những nhận thức thông thường, thế là đối phương rất dễ biểu lộ những tình cảm không vừa ý, cho rằng “Điều này thì tôi đã biết từ lâu rồi”. Sau này thì dù có kính trọng cũng tránh xa ra, không thèm đánh giá cao con người này nữa.

 

Tình yêu của những người nhóm máu O

Họ là những người mạnh mẽ, giao thiệp rộng, có duyên giao tiếp và biết cách nói chuyện để thu hút người khác. Họ yêu sâu sắc, bề ngoài hơi lạnh lùng, kiêu hãnh nhưng bên trong là trái tim nồng cháy, đầy khao khát. Họ rất chung thuỷ và cũng hay ghen. Tình yêu của nhóm máu này luôn rõ ràng, minh bạch. Khi chia tay với tình yêu cũ, họ sẽ không nảy sinh bất cứ tình cảm nào nữa. Mặc dù họ vẫn còn chút ký ức về tình yêu đã qua nhưng tuyệt đối sẽ không tìm về quá khứ ấy nữa. Họ luôn lạc quan nhìn về phía trước, không hối hận chính là thái độ sống của nhóm máu O. Sau khi trải qua nỗi đau chia tay, người có nhóm máu O vẫn dũng cảm để đối mặt với cuộc sống mới.

 Xét ở góc độ nào đó, người có nhóm máu O luôn lạnh lùng với người yêu cũ, cho dù đã yêu nhau thế nào nhưng khi kết thúc tình cảm, cả hai bên đều rất khó để giữ mối quan hệ bạn bè. Không liên lạc cũng không có bất cứ sự hỏi thăm nào chính là thái độ của người nhóm máu O đối với tình cảm cũ. Cho dù bạn đi tìm, họ cũng giữ một khoảng cách nhất định. Nhưng điều đó không có nghĩa là người có nhóm máu O tuyệt tình mà họ muốn cuộc sống của mọi người được tốt hơn nên mới có thái độ lạnh lùng như thế.

Điểm nổi bật ở người nhóm máu O là tính tình phóng khoáng, suy nghĩ đơn giản và thoáng về tư tưởng. Họ vui vẻ dễ hoà đồng, thích giao tiếp và dễ kết bạn, họ tạo cho mọi người xung quanh cảm giác về sự cởi mở, chân thật và đáng tin cậy. Giống như nhóm máu chuyên cho của mình, người nhóm máu O tỏ ra khá hào hiệp và thích giúp đỡ người khác. Người nhóm máu O khá cân bằng trong cuộc sống, không có quá nhiều kỳ vọng, họ lạc quan và hài lòng với cuộc sống thoải mái của mình. Nhược điểm của những người này là thích giúp đỡ người khác trong khi lại không mấy để tâm chăm sóc chính bản thân mình, đôi khi họ tỏ ra vô tâm chỉ đơn giản vì họ cho rằng việc đó nhỏ và dễ bỏ qua. Họ có thể dễ nổi nóng nhưng mau chóng vui vẻ trở lại như chưa hề có chuyện gì.

Khi nhận được lời cầu hôn, người nhóm máu O thường đắn đo suy nghĩ về hoàn cảnh kinh tế cũng như gia thế của đối phương. Sau khi nghiên cứu, kiểm nghiệm một cách tổng thể mới đi đến quyết định đây có phải kết hôn thích hợp hay không. Đặc biệt người nhóm máu O hay tính toán tỉ mỉ và nặng về vật chất. Người vợ thường cảm thấy đứng ngồi không yên đối với vấn đề hôn nhân và gia đình, song nếu được người chồng định hướng, họ có thể cùng nhau đi trên một con đường. Trong đời sống chăn gối vợ chồng, người nhóm máu O dửng dưng, hờ hững, thích bầu không khí trong đó hơn là hành động thực tế. Hơn nữa còn hay cảm thấy e ngại, xấu hổ và có xu thế hướng nội.

Người có nhóm máu O rất chú trọng đến ấn tượng đầu tiên. Do đó, khi tiếp xúc với người thuộc nhóm máu này, trước tiên trong lòng phải có thành ý. Nên ngắn gọn rõ ràng và chân thành trong cách biểu đạt ý, như vậy mới khiến họ giao lưu với bạn. Nhóm máu O tình cảm khá lãng mạn. Vì thế trong khi nói chuyện, nếu có thể vẽ ra một tình yêu trong sáng lãng mạn thì càng tốt. Đối với tính tự tôn khá cao ở kiểu người này, tuyệt đối đừng lơ đãng khi nói chuyện với họ, luôn tỏ ra quan tâm chú ý tới mỗi đối tượng nói. Người mang nhóm máu O thích những món quà mang giá trị kỉ niệm.

Đàn ông nhóm máu O có thể quên ngày sinh nhật người yêu nhưng lại không bao giờ quên một bông hồng trong ngày 8-33. Nếu chàng của bạn thuộc nhóm máu này thì rất tuyệt vời. Chàng là người sống nhiệt tình, thiết tha và hết lòng với công việc, cuộc sống và đời sống tình cảm cá nhân của mình. Đàn ông có nhóm máu O được đánh giá là người chung thủy, ít ngoại tình. Tuy nhiên, những người đàn ông có nhóm máu này lại đặc biệt hay ghen.

Nếu bạn lấy người phụ nữ nhóm máu O, hãy tin rằng bạn đang có một bà nội chợ hoàn hảo hay ít ra là một người phụ nữ thích chăm sóc gia đình. Cô nàng có nhóm máu O có tính độc lập cao, thích tự làm và quyết định cuộc đời mình. Ngoài ra người nhóm máu O có lòng tự trọng rất cao, hiểu rất rõ về bản thân, ghét người khác tỏ ra tâng bốc và cũng không thích người khác nói chuyện ân nghĩa với họ. Hẹn hò với người nhóm máu O nên chọn những công việc mà cả hai thích nhất để nói đến và cùng làm. Nên nhớ trong cuộc nói chuyện, nên dùng ngữ khí xin ý kiến chỉ bảo, sẽ tạo ấn tượng tốt và thoải mái với người thuộc nhóm máu này.

 

Sự tương hợp giữa người nhóm máu O và những nhóm máu khác

 O+O

Một nước không thể có hai vua, một nhà không thể có hai chủ. Là những người có tình cảm sét đánh, yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên nhưng khi kết hôn rồi cả hai lại vô tình đặt mình vào thế xung khắc. Tính hiếu thắng, không chịu nhường nhịn khó sửa của cả hai rất dễ dẫn đến cảnh tan đàn, xẻ nghé. Vì vậy, khi bắt đầu cuộc sống gia đình không có cách nào khác là cả hai vợ chồng phải thận trọng và cố gắng nhường nhịn nhau. Nhưng nếu cả hai người đặt ra một mục tiêu chung, to lớn, cao cả và cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu ấy nên lại dễ hòa hợp và hiệu quả thành công rất cao.

Dù tính độc tôn là bản chất của người nhóm máu O, tuy nhiên hai người cần nên nhớ về đặc tính chuyên cho – một đặc tính rất đáng quý của nhóm máu O để tự răn mình. Những ích kỷ, nhỏ nhen sẽ biến tình yêu thành “dấm”. Hãy biết tự kiềm chế cái tôi để biết rằng người bạn đời vẫn đang song hành bên cạnh mình. Sự kết hợp của nhóm máu O là cặp đôi cá tính và mạnh mẽ. Tình cảm của hai người đến rất nhanh và có thể “tan” cũng chóng vánh. Một khi bị đối phương làm tổn thương tình cảm thì họ sẵn sẵn sàng từ bỏ chứ không níu kéo.

O+A

Yếu tố cơ bản duy trì mối quan hệ giữa con người với nhau là tin cậy tín nhiệm lẫn nhau. Cảm giác tín nhiệm nảy sinh từ thái độ thành khẩn, do hành vi, do năng lực, và tình cảm bình thường của con người ở chính bản thân đối phương. Nếu như bạn là người nhóm máu O và mong muốn giành được tín nhiệm của đối phương, thì bạn không thể không bày tỏ những điểm mấu chốt này trước đối phương. Nhưng, tuyệt đối không được hấp tấp, nóng vội, bởi vì nếu quá nôn nóng, e rằng sẽ không kịp bày tỏ những ưu điểm tốt đẹp của mình thì đối phương đã chủ động xa lánh bạn từ bao giờ rồi, điều đó chẳng phải là “khôn ba năm dại một giờ” đó sao?

Lúc ban đầu, khi những người nhóm máu O giao tiếp với người nhóm máu A, thường tỏ ra suồng sã, bỗ bã, khoác lác, lớn tiếng mà không sợ hổ thẹn, thực ra làm như vậy chỉ có tác dụng ngược lại mà thôi. Giao tiếp với bất kì người nào, dù người đó thuộc nhóm máu nào mà sử dụng cách này đều không thể làm cho đối phương có cảm tình với mình, đặc biệt là đối với những người nhóm máu A. Thái độ lớn tiếng không thẹn cộng với thái độ nhiệt tình mặc dù là đặc điểm nổi trội của những người nhóm máu O nhưng lại là điều dễ dẫn tới thất bại nhất. Phương thức giao tiếp hiệu quả nhất của những người nhóm máu O với những người nhóm máu A đó là thái độ tự nhiên. Tiếp xúc một cách tự nhiên, nói chuyện trao đổi với nhau một cách tự nhiên. Bởi vì thái độ tự biểu hiện mình đối với những người nhóm máu O mà nói, không phải là một chuyện khó đối với họ, trong tình huống giao tiếp đó những người nhóm máu O cũng thường là chủ thể nói nhiều nhất. Chỉ có trong những cuộc diễn thuyết tự nhiên của những người nhóm máu O trước công chúng, thì những người nhóm máu A mới cảm nhận được những ưu điểm đáng quí của những người nhóm máu O đó là năng lực hành vi, thái độ thành khẩn, năng lực đa tài và cả ý chí nỗ lực không mệt mỏi… Để có thể duy trì được mối quan hệ lâu dài bền chặt bạn chỉ có thể áp dụng cách thức đó thì mới giành được sự tín nhiệm của những người nhóm máu A.

Đàn ông nhóm máu O có tính cách rất mạnh mẽ, quyết đoán và hành động theo lý trí. Tuýp người này là chỗ dựa vững chắc cho người con gái có nhóm máu A vốn nhẹ nhàng, yếu đuối cần được bảo vệ của người có nhóm máu O. Khi kết duyên cùng nhau sẽ thuận vợ thuận chồng, tương hợp như cánh én gặp mùa xuân, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Với cặp vợ chồng này thì người có nhóm máu O thường làm chủ, cai quản gia đình và thường quyết định các công to việc lớn trong gia đình. Người có nhóm máu A thường là người có tính nhu mì, dịu dàng nhiều khi đến mức nhu nhược, trong khi người có nhóm máu O có tính quyết đoán, vì vậy nếu họ không vùng lên cầm chắc tay chèo con thuyền gia đình thì sẽ hỏng việc hoặc làm chậm trễ, mất thời cơ. Người có nhóm máu O thường can đảm, tự tin nên họ thường có tính quyết đoán trong công việc. Bởi vậy trong trường hợp này nếu người chồng thuộc nhóm máu A thì phải vui lòng nhường quyền quản gia cho người vợ và đôi khi chịu cảnh “thân cư thê”.

O+B

Ở lần đầu, thông thường mong muốn tiếp cận của những người mang nhóm máu B tương đối mạnh mẽ, nhưng khi chính thức quan hệ thì những người nhóm máu O lại là người nắm chịch trong quan hệ này. Mặc dù những người mang nhóm máu O là nhân vật chỉ đạo, nhưng không phải là tôi làm theo cách của tôi ai nói mặc ai, không tôn trọng đối phương. Những người mang nhóm máu O nếu thực lòng tốt với người nhóm máu B, thì cho dù những người nhóm máu O là người chủ động, đối với nhìn nhận của những người thứ ba, người nhóm máu B cũng sẽ đáp lại những người nhóm máu O với lòng thành tâm như thế và quan hệ tốt đẹp đã được hình thành. Giữa những người bạn tốt với nhau, có những chỗ không bằng lòng, có chỗ không thỏa mãn là điều khó tránh khỏi, những người nhóm máu O luôn nhìn nhận với ánh mắt bình thường trước tất cả những khuyết điểm của người nhóm máu B và coi khuyết điểm làm ưu điểm. Nhưng đáng tiếc là những người nhóm máu B dường như luôn thấy không thỏa mãn với những người nhóm máu O, và kết quả hai người sẽ có những xích mích, cãi cọ và người gây chuyện hầu như là những người mang nhóm máu B.

Cãi cọ thì cãi cọ, hai người cũng có những việc chung cần quan tâm, một khi cần đến sự hợp lực để hoàn thành công việc, thì mọi chuyện sẽ lại tốt đẹp. Khi những người nhóm máu O có ý muốn lợi dụng những người nhóm máu B vì lợi ích cá nhân thì quan hệ tin cậy giữa hai bên sẽ mất đi và rạn vỡ. Bởi vì những người nhóm máu B rất mẫn cảm với thái độ chủ nghĩa bản vị ở những người mang nhóm máu O, những người mang nhóm máu O nếu muốn xây dựng quan hệ tốt đẹp bền lâu với những người mang nhóm máu B thì phải bỏ ngay thói quen đó đi.

Cả hai người đều có cá tính khá giống nhau, rất tự tin, độc lập và quyết đoán nên nhiều khi đời sống tình yêu không có cảm thông, kết hợp hài hòa. Vì vậy, người có nhóm máu O nên học hỏi và tán thưởng những điểm mạnh của người có nhóm máu B, và ngược lại người có nhóm máu B cũng không được quên rằng người bạn của mình cũng rất mạnh mẽ, thông minh và quyết đoán. Chỉ có sự cảm thông, nhường nhịn và tôn trọng nhau mới bảo đảm hạnh phúc cho hai người thuộc nhóm máu này. Người nhóm máu O thường yêu ghét rõ ràng và giận cũng gớm kinh khủng. Khi hai người giận nhau thì người nhóm máu O nhất định không chịu làm lành mà luôn muốn được người kia chủ động. Thế nên, nếu bạn là nhóm máu B hãy nhường nhịn nhé.

O+AB

Người nhóm O cảm nhận và đánh giá cao ma lực trí tuệ của nhóm AB. Đặc biệt, nhóm O dễ nảy sinh cuồng nhiệt, thích thú sự thành thực, chính trực, thoải mái của nhóm AB. Khi gặp trở ngại trong cuộc sống, cả hai dễ hình thành mối quan hệ thân thiết. Nếu nữ giới nhóm máu O gặp nam giới nhóm AB khi đã trở thành nô lệ cho kiểu tình yêu này thì dù có phải hy sinh bao nhiêu đi chăng nữa vẫn không bao giờ cảm thấy hối hận. Nhưng việc bạn tình nguyện hy sinh cũng sẽ tạo thành gánh nặng đối với người kia. Mặc dù anh ta luôn thận trọng nhưng cũng rất quyết đoán, mọi hành động đều mang lại cảm giác tin cậy đối với người khác. Trong gia đình, người chồng luôn để người vợ nhóm máu O phải gánh vác trách nhiệm nặng nề về mặt tinh thần nhưng thực tế đây cũng là con đường chung sống của các bạn. Đây là một cặp vợ chồng rất hiểu nhau. Đời sống tình cảm rất lai láng, dạt dào và sung túc. Chỉ có một khiếm khuyết nhỏ là người có nhóm máu O hơi nóng vội, bốc đồng. Vì thế, nếu một trong hai người khắc phục được nhược điểm này của nhau thì cuộc sống vợ chồng sẽ hết sức lý tưởng. Khá nồng nàn về đời sống tình cảm, hai người có lúc nên dành thời gian cho những mối quan tâm cá nhân. Điều đó giúp cân bằng về mặc cảm đồng thời bổ sung cho mối quan hệ hôn nhân dài lâu.

Nếu nữ giới nhóm máu AB gặp người đàn ông nhóm O thì đây chính là ý trung nhân của bạn, là người đàn ông đáng tin cậy và có thể thẳng thắn đón nhận tình yêu của bạn, là người giàu nghị lực trong công việc, có ý chí kiên cường, biết cân bằng tình cảm nên rất dễ có cảm nhận anh ta nổi trội lên trong đám đông như một người tài giỏi nhất. Còn trong con mắt của người đàn ông, phụ nữ nhóm máu AB cũng thực sự cuốn hút vì sự mực thước, cẩn thận, dễ cảm động và rất nữ tính. Tuy nhiên người nữ cũng hay bắt bẻ người đàn ông nhóm máu O rằng anh ta không có ước mơ, hoài bão, thiếu năng động và luôn mang chủ nghĩa cá nhân, không chút dịu dàng mơ mộng và quá thực tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy, đối với phụ nữ nhóm máu AB, đấng mày râu nhóm máu O là đối tác tuyệt vời, vì thế bạn hãy rộng lượng với những khuyết điểm cỏn con của anh chàng. Khi kết hôn, người ngoài nhìn vào tưởng rằng quyền làm chủ nằm trong tay người đàn ông nhưng trên thực tế lại nằm trong tay phụ nữ nhóm máu AB.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tính cách, tình yêu của người nhóm máu O - Xem bói - Xem Tử Vi

4 cách nhìn thấu tâm can của 1 con người

Trong cuộc đời, người ta phải gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều người. Việc nhìn thấu tâm tính của người đó rất quan trọng đối với chúng ta.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Học cách nhìn thấu tâm tính một người, không phải để phán xét người ta, mà là để bản thân mình biết cách  đối nhân xử thế, thiết lập quan hệ phù hợp với người đó, có thể thân thiết hay chỉ để xã giao.

Dưới đây là 4 cách nhìn thấu tâm tính người khác cổ nhân truyền "cực chuẩn"
Dùng thời gian để hiểu tính cách
Cách dùng thời gian để "nhìn người" là cách nhìn người lâu dài, có quá trính chứ không đưa ra kết luận vội vàng ngay lần đầu gặp mặt. Người xưa có câu: “Thức lâu mới biết đêm dài, chơi lâu mới biết là người cố nhân”. Dù là thời khắc quá khứ hay hiện tại thì điều đó vẫn đúng. Đừng để định kiến làm lu mờ đầu óc, hãy để thời gian trả lời tất cả.

Khi dùng thời gian để nhìn người, bạn nên tập trung vào một số điểm sau:

Người không thật lòng: Ban đầu rất nhiệt tình, thân thiện nhưng sau đó lại tỏ ra thờ ơ. Người nói dối: Cây kim trong bọc thì cũng có ngay lòi ra, nói dỗi mãi cuối cùng cũng bị lộ sơ hở. Kẻ nói suông: Một lần, hai lần rồi ba lần. Khi nào bạn cũng thấy họ nói nhưng chẳng bao giờ họ làm. Thế thì tốt nhất lánh xa vì những người này chỉ được cái ba hoa, khoác lác.

Dùng tiền tài để thử thách con người Phàm là con người, sinh ra ai cũng có máu tham lam, tham quyền, tham lợi. Dùng tiền để thử lòng người là cách được nhiều người xưa hay dùng. Gia Cát Lượng cho rằng, một người liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, làm việc liêm khiết vô tư, thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, chú trọng tiết kiệm, không hám giàu sang, không mê tửu sắc, tự khép mình vào kỷ luật.

mô tả ảnh.
Ảnh minh họa

Dùng đánh giá của người khác để nhìn nhận con người
Tuy rằng cách dùng thời gian nhìn người là đúng đắn nhất, nhưng không phải lúc nào ta cũng có đủ thời gian để nhìn nhận một người. Trong trường hợp này, ta cần vận dụng các mối quan hệ xung quanh người đó, từ gia đình, bạn bè, quan hệ xã hội. Cân nhắc để đưa ra đánh giá con người đó thế nào.

Dùng mưu kế của mình nhìn thấu đối phương Cách này được rất nhiều các bậc tiền bối xưa ưa chuộng. Tức là dùng chính mưu kế của mình để đấu trí đối phương, xem đối phương xử lý như nào. Từ đó đưa ra đánh giá về con người, về khả năng của người đó.

7 Cách Dùng Người Của Gia Cát Lượng – Khổng Minh

1. Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết “chí hướng”
2. Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết “biến thái”
3. Lấy mưu trí trị họ để trông thấy “kiến thức”
4. Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét “đức dũng”
5. Cho họ uống rượu say để dò “tâm tính”
6. Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng “liêm chính”
7. Hẹn công việc với họ để đo “chữ tín”

Theo Phunutoday
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 cách nhìn thấu tâm can của 1 con người

Những con giáp dễ bị lừa cả tình và tiền

Do quá cả tin và tốt bụng, những con giáp Sửu, Mão và Mùi rất dễ rơi vào cái bẫy lừa lọc cả tiền và tình.
Những con giáp dễ bị lừa cả tình và tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Sửu: Dễ tin lời hứa của người khác

Chân thành, điềm đạm là tính cách nổi bật của người tuổi Sửu. Bên cạnh đó, con giáp này cũng rất dễ tin người khác, đặc biệt là khi đã được hứa hẹn điều gì đó. Với họ, lời hứa rất thiêng liêng và vô cùng quan trọng.

suu-9370-1417014845.jpg

Khi đã hứa với ai điều gì, chắc chắn họ sẽ thực hiện bằng được. Ngược lại, khi nhận được lời hứa của ai đó, người tuổi Sửu sẽ tin tưởng tuyệt đối, không chút hoài nghi, ngay cả khi mới quen thân. Sự tin tưởng ngây thơ khiến họ phải trải qua không ít lần bị lừa gạt, cả tiền bạc lẫn tình cảm.

Tuổi Mão: Quá tin tưởng vào khả năng quan sát và phán đoán của mình

Người tuổi Mão thông minh, nhạy bén, có khả năng quan sát và đánh giá vấn đề rất tốt. Cộng với lối sống đơn giản, lương thiện, trọng chữ tín, con giáp này rất dễ chiếm được lòng tin của mọi người. Bản thân họ cũng khá tin tưởng vào khả năng phán đoán của chính mình nên thường mắc chứng chủ quan, dễ rơi vào bẫy lừa của kẻ tiểu nhân. 

mao-2517-1417014845.jpg

Để tránh rơi vào tình huống khó xử, người tuổi Mão nên học cách tiết chế bản thân hơn nữa. Tự tin vào bản thân là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, nếu thái quá, không nghe ý kiến của mọi người xung quanh lại là điều không nên. Bởi người chịu thiệt thòi cuối cùng chính là bạn.

Tuổi Mùi: Lòng tốt dễ bị lợi dụng

Tâm hồn người tuổi Mùi trong sáng, giản đơn và vô cùng lương thiện. Dù cuộc sống có biết bao trở ngại, gian khổ, họ vẫn nhìn đời bằng ánh mắt lạc quan, đơn giản hóa mọi vấn đề. Thậm chí, bản thân họ đã trải qua không ít tình huống bi thảm, dở khóc dở cười, nhưng vẫn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.

mui-2317-1417014845.jpg

Con giáp này thường đối xử rất tốt với mọi người xung quanh với mong muốn ai ai cũng có được cuộc sống bình yên, đầm ấm trong tình người. Lòng tốt của họ phần lớn đều được đền đáp xứng đáng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bị kẻ xấu lợi dụng để lừa gạt tình cảm và tiền bạc.

Nếu thuộc tuổi Mùi, bạn nên đề cao cảnh giác hơn nữa, tránh để lòng tốt của mình đặt không đúng chỗ, gây hại cho cả người khác và chính mình.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ bị lừa cả tình và tiền

Những kiểu nhà không mang lại sự thịnh vượng cho gia chủ

Những yếu tố phong thủy có ảnh hưởng không nhỏ đến vận mệnh của những thành viên sống trong ngôi nhà đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi mua nhà đa số chúng ta, ai cũng có một số tiêu chí riêng để lựa chọn, ngoài tiêu chí giá cả, thuận lợi đi lợi, vị trí,.. các bạn nên xem phong thủy, vì phong thủy là kiến thức lựa chọn nơi ở được vẫn có nguyên giá trị.

Những ngôi nhà có yếu tố phong thủy tốt là nền tảng cho gia chủ ngày một thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên có một số bố cục phong thủy nhà ảnh hưởng bất lợi về sức khỏe, công việc và tài lộc của người ở, do vậy, trước khi mua bạn nên cân nhắc thêm.

Nhà kiểu chữ L, số 7

Ở Việt Nam, rất nhiều khu nhà xây theo hình chữ L, số 7, thậm chí các khu nhà chung cư cũng không tránh được, nhất là những ngôi nhà trong góc chung cư. Những căn nhà hình dạng như thế này sẽ hạn chế rất nhiều nguồn vượng khí, cơ hội thịnh vượng đến với gia chủ. Nhà kiểu này còn gọi là nhà “dao” vì nó cắt đi cơ hội phát triển tài lộc.

cách hóa giải khí xấu cho căn nhà hình chữ l | ảnh 1

Nhà có hình chữ khẩu (口)

Theo quan niệm phong thủy, ở trong loại nhà có hình dạng này được ví như “người trong giếng”, không thể phát phúc, phát quý. Theo các chuyên gia phong thủy, kiểu nhà này không thể tàng phong tụ khí, chủ về bần hàn.

Nhà bị khuyết góc

Trong phong thủy Bát Trạch ngôi nhà được chia ra làm tám phương vị khác nhau. Mỗi cung nào trên đó bị khuyết hãm sẽ ảnh hưởng tới từng mặt của đời sống gia chủ. Chẳng hạn khuyết góc Tây Bắc thì kém về may mắn, khuyết góc phía Bắc ảnh hưởng công danh, khuyết góc Đông Nam thì tiền tài dễ gặp sự xui xẻo, thậm chí phá sản hết lần này đến lần khác.




Nhà có kết cấu không cân xứng


Nhà ở quá hẹp về chiều dài hoặc chiều rộng sẽ gây tác hại cho chủ nhân. Trong phong thủy, chiều dài là dương, chiều rộng là âm, chiều dài và chiều rộng không cân xứng sẽ gây mất cân bằng âm dương. Như vậy sự mất cân bằng âm dương về mặt phong thủy gây ra hậu quả tiêu cực cho chủ nhân mất đi nguồn tài lộc, tiền bạc cạn kiệt dần.

Nhà thóp hậu

Nhà thóp hậu là căn nhà có phía sau nhỏ còn phía trước thì lớn, hay trước rộng sau hẹp, có hình dạng như một chiếc quan tài mà quan tài được cho là phong thủy xấu. Nhà ở hình quan tài là thu nhập khí xấu, phía sau căn nhà bị hẹp như vậy chứng tỏ tiền sẽ không vào được, phía trước lớn tiền sẽ ra nhiều hơn. Như vậy, kiểu nhà quan tài gây hậu quả xấu cho gia đình bạn, gây khó khăn cho việc thu hút tài lợi vào.



Nhà có minh đường nhỏ hẹp

Nhà có khoảng trống phía trước (gọi là Minh Đường) nhỏ hẹp, như một đường kẻ vạch. Theo phong thủy hình thế “đường kẻ” này tạo ra luồng khí sát, không thể tụ khí vì vậy ngăn giàu có vào trong nhà, nếu nhà có minh đường rộng lớn, gia đình phúc lộc đầy đủ.

Nhà bị che chắn bởi tòa nhà cao tầng

Theo phong thủy, nhà ở nếu gần tòa nhà cao tầng rất dễ bị áp chế, bởi vì nó sẽ che chắn dương khí, âm dễ xuất hiện; Riêng nhà cao tầng ở phía sau lưng thì lại là cách cục tốt.

Nhà gần đền, chùa, miếu

Phong thủy nhà ở tránh gần đền, chùa, miếu mạo, nơi đặt bình đựng di cốt, nghĩa trang, lăng mộ, bệnh viện, nhà giam, vì  những nơi này âm khí quá vượng, không tốt cho sức khoẻ, dễ bệnh tâm thần.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiểu nhà không mang lại sự thịnh vượng cho gia chủ

Mặt trăng và nguồn năng lượng âm

Trong phong thủy thực hành, năng lượng âm và năng lượng dương đều phải được cân bằng ở mức độ tối ưu để tạo ra những dao động tốt cho ngôi nhà.
Mặt trăng và nguồn năng lượng âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong nhà ở, năng lượng dương được xem là quý và quan trọng nhất, nhưng điều đó không có nghĩa là bỏ qua năng lượng âm.

Phòng ngủ và phòng nghỉ ngơi, thư giãn phải được hưởng lợi ích từ năng lượng âm tươi mới. Mặt trăng và ánh trăng thường mang năng lượng âm may mắn, không phải loại năng lượng ứ trệ đi kèm với sự chết chóc.

Vì thế, khi không muốn năng lượng âm phát ra từ những cây chết chẳng hạn, bạn nên chào đón năng lượng âm của trăng tròn.
Có nhiều huyền thoại liên quan đến mặt trăng, trong đó huyền thoại phổ biến nhất cho rằng trăng là nơi trú ngụ của Nguyệt Lão, ông tiên chủ về hôn nhân.

Người ta tin rằng những cô gái muốn có hôn nhân tốt đẹp nên sử dụng năng lượng của mặt trăng để cung cấp năng lượng cho cung tình duyên.

Một số nghi thức của Lão giáo sử dụng năng lượng của mặt trăng để kích hoạt đường tình duyên cho những cô gái trẻ, giúp họ tìm được tình yêu chân thật.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mặt trăng và nguồn năng lượng âm

Cách đặt bàn thờ hợp phong thủy, phát may mắn

Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong mỗi gia đình thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên.
Cách đặt bàn thờ hợp phong thủy, phát may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong mỗi gia đình thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên, do đó bàn thờ luôn là một không gian quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của con người.

Cach dat ban tho hop phong thuy, phat may man hinh anh
Phòng thờ và bàn thờ phải luôn có đủ ánh sáng
Những điều kiêng kỵ   Không đặt bàn thờ sát nhà tắm, nhà vệ sinh (hoặc hướng nhìn vào). Bởi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm.   Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ: Hướng Đông Bắc, hướng Tây Nam (Không đặt bàn thờ hướng Đông Bắc nhìn Tây Nam hoặc ngược lại). Không đặt bàn thờ trên nóc tủ. Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ.   Kiêng kỵ về thời gian lập bàn thờ: Việc lập bàn thờ thường được tiến hành đồng thời với nhập trạch, nên việc lựa chọn thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống sau này. Ngoài thời gian phù hợp với nhập trạch, cúng tế hay hợp tuổi gia chủ, người ta còn chú ý đến thời điểm có sao Bát Bạch để hóa giải sát khí.   Kiêng kỵ về người lập bàn thờ: Người xưa cho rằng phụ nữ mang thai có nhiều tạp khí, không nên động chạm vào bàn thờ hay bát hương. Hơn nữa, người bốc bát hương nên là gia chủ, chứ không nhất thiết phải nhờ người khác, cốt sao là sự thành tâm và tay chân sạch sẽ khi thực hiện.   Kiêng kỵ về bố trí trên bàn thờ: Bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày, những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa. Nếu thờ gia tiên cùng Phật hay thờ mẫu, cần tách riêng bàn thờ Phật hay thờ mẫu, bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt.   Kiêng kỵ về đồ lễ trên bàn thờ: Quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, hoa tươi và nước sạch. Tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Không nên để lễ mặn, hay tiền mặt lên bàn thờ.   Bố trí hợp phong thủy để phát may mắn   Phòng thờ của gia đình phải tạo được không khí trang nghiêm, ấm cúng, gần gũi tránh tạo cảm giác lạnh lẽo. Bàn thờ phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp hương. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bàn thờ hướng trực tiếp ra cửa chính. Tượng thần thánh hoặc vật thể thiêng liêng phải đặt trên bàn kệ cao. Đèn trên bàn thờ luôn thắp sáng để thu hút năng lượng dương.  
Cach dat ban tho hop phong thuy, phat may man hinh anh 2
Kết cấu bàn thờ Thần Tài, Ông Địa
Thông thường bố trí trên bàn thờ 1 đến 3 bát hương, bát hương ở giữa thờ chung thần linh thổ địa, bát hương hai bên là thờ gia tiên và bà cô ông mãnh; Phía trước bát hương: Ở giữa bày cái đài nhỏ, với ba chén đựng nước sạch. Hai bên là hai đĩa bày hoa quả tươi và trầu cau, hoặc tiền vàng mã; Phía sau bát hương: Là bộ bình để hoa tươi, hương và nến.   Hoành phi thường được sơn son chữ vàng, có bức hoành phi hình cuốn thư. Chữ viết trên hoành phi đều tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên, ghi tụng công đức của tổ tiên, ghi lại những lời răn dạy con cháu, hoặc thể hiện ước nguyện cầu mong sự bình an, thái bình. 2 bên bàn thờ còn có đôi câu đối.

Ngoài dùng trang trí, đôi câu đối còn ghi lại những lời răn dạy con cháu những giá trị đạo đức truyền thống, ca ngợi truyền thống của dòng họ hoặc cầu mong thái bình, thịnh vượng.
  Đặc biệt, vật liệu và màu sắc của bàn thờ cúng cũng phải phù hợp, nên sử dụng các màu trầm, tổt nhất là màu gỗ nâu sậm. Các chi tiết kiến trúc, nội thất (lát sàn, trần, chiếu sáng…), các vật dụng, đồ thờ (bát nhang, đèn nến, lọ hoa…) nên bày theo lối cân đối.

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đặt bàn thờ hợp phong thủy, phát may mắn

Tháng trong tứ trụ

Tháng trong tứ trụ ví như thân cây, thân mạnh khỏe to lớn thì cành lá tươi tốt. Trụ tháng là do can và chi của tháng hợp thành. Chi tháng tức là lệnh tháng, là
Tháng trong tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tiêu chuẩn để đo sự vượng suy của can chi năm, ngày, giờ. Nó có thể trợ giúp yếu hoặc khống chế mạnh, là cương lĩnh của tháng, chủ tể quyền sinh sát của một tháng. Cho nên bàn về tứ trụ trước hết phải xem lệnh tháng, sau đó mới xem nhật nguyên (trụ ngày). 

Tháng sinh được ví như hình ảnh cành cây

Tháng chủ về anh chị em (trong sách cổ cũng có nói chủ về cha mẹ). Nếu can chi của tháng tương sinh cho nhau hoặc can của tháng gặp vượng địa lại được những trụ khác (năm, giờ, ngày) đến sinh trợ, không bị xung khắc phá hại thì đó là tượng anh chị em hòa thuận.

Nếu can tháng bị khắc hoặc can chi của tháng xung khắc nhau thì đó là tượng anh chị em không nương tựa vào nhau hoặc bất hòa.

Tháng có quan hệ mật thiết với mệnh suốt cả đời người. Trong suốt cuộc đời, bất kể là nam hay nữ, vận thuận hay ngược, thời kỳ từ 50-69 tuổi đều xảy ra vận cả tháng xung khắc với 10 năm trong gia đoạn ấy, cho nên trong thời gian đó nói chung là xảy ra nhiều việc và phức tạp, biến động nhiều. Người mà mệnh cục mạnh, trụ ngày mạnh thì ít gặp biến động hoặc vô sự, ngược lại trụ ngày yếu thì sẽ gặp nhiều bất trắc.

(Theo Dự đoán tứ trụ)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng trong tứ trụ

Đếm trên đầu ngón tay những con giáp nhiều phúc đức

Có câu ngốc nghếch có cái phúc của ngốc nghếch, câu này có vẻ khá đúng với trường hợp của người tuổi Sửu. Họ là con giáp nhiều phúc đức.
Đếm trên đầu ngón tay những con giáp nhiều phúc đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Có câu “ngốc nghếch có cái phúc của ngốc nghếch”, câu này có vẻ khá đúng với trường hợp của người tuổi Sửu. Họ cứ sống vô tư thoải mái, hết lòng vì người khác, tới lúc gặp hoạn nạn sẽ có quý nhân đưa tay giúp đỡ, gặp dữ hóa lành.


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh
  Dưới đây là 3 con giáp nhiều phúc đức luôn gặp dữ hoá lành:
1. Tuổi Sửu   Có câu “ngốc nghếch có cái phúc của ngốc nghếch”, câu này có vẻ khá đúng với trường hợp của người tuổi Sửu. Họ cứ sống vô tư thoải mái, hết lòng vì người khác, tới lúc gặp hoạn nạn sẽ có quý nhân đưa tay giúp đỡ.  
Dem tren dau ngon tay nhung con giap nhieu phuc duc hinh anh
 
Số mệnh của con giáp này khá tốt, cho dù đứng trước khó khăn, bản thân thiếu sự sáng suốt cần thiết, nhưng lại được quý nhân giúp đỡ, gặp dữ hóa lành, biến hung thành cát, biến thách thức thành cơ hội để chinh phục thành công.   Bản chất tuổi Sửu chất phác, thật thà, có gì nói nấy chứ không có kiểu nói một đằng làm một nẻo. Vì quá thẳng thắn nên đôi khi con giáp này bị người khác cho là cố chấp. Nhưng sau khi tiếp xúc một thời gian, mọi người lại càng yêu mến sự cố chấp ấy, bởi chính nó giúp họ làm được những việc mà người khác không làm được.   3 con giáp sinh ra để hưởng chức cao vọng trọng Cặp đôi con giáp có duyên gặp mặt nhưng vô duyên cưới hỏi 3 con giáp có “tiền vào như nước sông Đà” trong tháng 7
2. Tuổi Ngọ
  Ngay từ khi sinh ra, những người cầm tinh con Ngựa đã được phúc tinh cao chiếu, là một trong những con giáp nhiều phúc đức, các mối quan hệ xã giao trong cuộc sống khá hài hòa và rộng lớn. Đó chính là nền tảng cơ bản giúp tuổi Ngọ vượt qua mọi sóng gió, thăng trầm trong cuộc sống.  
Dem tren dau ngon tay nhung con giap nhieu phuc duc hinh anh 2
 
Ai cũng biết rằng tuổi Ngọ thích tự do bay nhảy, đi đó đây để khám phá và trải nghiệm thế giới xung quanh. Đi tới đâu, sức sống tràn trề, nhiệt huyết của họ cũng lan tỏa tới đó, khiến ai nấy đều yêu mến.   Dù tính tình thẳng thắn, bộc trực, lại có phần thích thể hiện và ham hư vinh, đôi khi đắc tội với người khác, nhưng trên hết, phúc đức của người tuổi Ngọ rất lớn, vận quý nhân dồi dào, lúc cần thiết lập tức có người hóa giải nguy nan, biến hung hiểm thành cát lành, thuận lợi.   3. Tuổi Tuất   Chân thành, trung thực, trọng nghĩa khí và tình cảm là điều mà ai cũng có thể cảm nhận được từ người tuổi Tuất. Đôi khi họ bị kẻ xấu lợi dụng, họ biết chứ, nhưng vẫn mở lòng bao dung.  
Dem tren dau ngon tay nhung con giap nhieu phuc duc hinh anh 3
 
Với họ, sống sao cho thoải mái là điều quan trọng nhất. Vì thế, con giáp này luôn tìm cách đơn giản hóa mọi vấn đề để cảm nhận cuộc sống ở khía cạnh tốt đẹp hơn. Họ chịu đôi phần thiệt thòi cũng không sao, miễn là giữ được các mối quan hệ hài hòa.   Tuổi Tuất cũng là một trong những con giáp nhiều phúc đức, tài lộc dồi dào, có thể vượt qua hoạn nạn, khó khăn bằng chính thực lực và ý chí của mình, thêm vào điểm tựa vững chắc từ những người thân thiết giúp họ hóa giải mọi nguy nan khi cần thiết.   Hoàng Lam Con giáp cẩn thận đào hoa quá thành ra bị “đào mỏ” trong tháng 7
Đôi khi vận đào hoa quá vượng sẽ biến thành đào hoa sát, khiến chủ nhân một phen tình trường lao đao, ảnh hưởng tới hạnh phúc suốt cả cuộc đời. Những con giáp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đếm trên đầu ngón tay những con giáp nhiều phúc đức

Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Bật mí những loại cây tốt cho văn phòng giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông. Đâu là những cây
Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn phòng là nơi mà chúng ta tiếp xúc thường xuyên mỗi ngày nên càng chăm chút thì càng có lợi. Những loại cây vượng tài giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông.

 
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 
Không gian sống nào “xài” cây cảnh ấy để hút tài vượng lộc. Với những văn phòng lớn, không gian thoáng rộng, nên trưng các loại cây vượng tài lớn như cây hạnh phúc, trầu bà, thiết mộc lan, cây phát tài, cây móng rồng, trúc phú quý, cây dừa cảnh, cây hoàng tâm diệp,…   Với những văn phòng hoặc góc làm việc nhỏ nên trưng các loại thực vật nhỏ gọn như vạn niên thanh, lan da hổ, lô hội, cây lưỡi hổ, lan điếu, hoàng kim cát, cây bạch chưởng, văn trúc, vạn tuế…   Cây tốt cho văn phòng có tác dụng chắn sát, hấp thụ năng lượng xấu, điều tiết phong thủy, còn có thể thanh lọc không khí, mang đến bình an, thịnh vượng cho chủ nhân.   Tác dụng cụ thể cho từng trường hợp như sau:  

1. Vượng Văn Xương

  Để cải thiện phong thủy văn phòng của những người làm công việc liên quan tới văn vở, chữ nghĩa, hành chính thì đẹp nhất là thúc đẩy Văn Xương tinh. Nên dưỡng các loại cây như trúc phú quý, tuyết lan, trúc vĩ, sơn trúc – có khả năng khơi thông suy nghĩ, đẩy mạnh năng lực, tập trung trí lực. Đọc thêm: Những lý do theo phong thủy khiến bạn muốn mua trúc phú quý ngay lập tức  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

2. Cát tinh tụ tài

  Với người kinh doanh, buôn bán hoặc làm việc trong lĩnh vực tài chính, kế toán, liên quan tới tiền bạc thì nên trưng cây phong thủy vượng tài. Tiêu biểu như cây tốt cho văn phòng: Cây phát tài, trúc phú quý, cây móng rồng, tùng Bồng Lai, lan quân tử, hoa anh thảo – có tác dụng tụ tài, thúc đẩy tài lộc.  

3. Bình an, ôn hòa

  Muốn văn phòng khoáng đạt, yên bình, thanh nhã thì chủ nhân nên chọn bách hợp, lan điếu, hoa hồng, tuylip – có tác dụng tâm bình khí hòa, mang đến tốt lành.  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

4. Khỏe mạnh, khoan khoái

  Để cầu sức khỏe, mang sinh khí đến cho phòng làm việc, hãy bày hoa hồng, hải đường, hoa trà, hoa phăng – có tác dụng nhẹ nhàng, thư giãn, tăng cường vận trình sức khỏe cho chủ nhân.  

5. Hóa sát, trừ hình

  Phòng làm việc phạm sát hoặc có hình thì bày thực vật giải trừ như ngọc kỳ lân, xương rồng, cây dây nhện – có tác dụng khắc chế ngoại sát, bảo hộ bình an.
Muốn cải thiện phong thuỷ, gia tăng tài lộc và thăng tiến, đừng quên những loại cây tốt cho văn phòng trên đây nhé!
Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài Nằm lòng kiến thức phong thủy về trồng cây trước nhà
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Cẩm nang phong thủy tuổi Tân Dậu 1981 –

Như chúng ta đã biết Gà là đại biểu của tuổi Dậu, được xếp ở vị trí thứ 10 trong 12 địa chi. Xét về thời gian, là vào khoảng từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối. Về phương vị là hướng chính Tây. Nếu lấy 4 mùa để phân chia thì vào khoảng tháng 9 Dương lịch,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tháng 8 Âm lịch.

Bằng cách vận dụng phong thủy hợp lý, người tuổi Tân Dậu sinh năm 1981 có thể dùng linh vật phong thủy, đá phong thủy để thu hút vận may, rước tài lộc vào nhà. Vậy vận dụng linh vật hay đá phong thủy bằng cách nào, đó là những linh vật gì, hay đá quý đó gồm những loại nào không phải ai cũng biết. Cho nên hãy cùng chúng tôi khám phá câu trả lời trong bài viết về cẩm nang phong thủy tuổi Tân Dậu 1981.

Theo tín ngưỡng dân gian, Bất Động Minh Vương là Phật bản mệnh của người tuổi Dậu.

Nội dung

  • 1 Đá quý phong thủy cho tuổi Tân Dậu
  • 2 Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Tân Dậu
  • 3 Hướng tốt, hướng xấu cho nam tuổi Tân Dậu
  • 4 Hướng tốt, hướng xấu cho nữ tuổi Tân Dậu

Đá quý phong thủy cho tuổi Tân Dậu

Người tuổi Tân Dậu sinh năm 1981, có ngũ hành năm sinh là Thạch Lựu Mộc

Đeo các loại đá quý màu đen, xanh nước biển, xanh da trời (hành thủy) để được tương sinh (thủy sinh mộc), như: aquamarine, iolite, lapis lazuli, sapphire lục, spinel lục, tanzanite, topaz xanh nước biển, zircon lục, thạch anh khói, thạch anh tóc đen…

Đeo các loại đá quý màu xanh lá cây (hành mộc) để được tương hợp, như: alexandrite, fancy diamond (kim cương màu), emerald ngọc lục bảo, garnet xanh, cẩm thạch, ngọc phỉ thúy, đá mặt trăng (loại có hiệu ứng ánh trăng xanh), peridot, sapphire xanh, tourmaline xanh, turquoise và zircon xanh…

Tránh đeo các loại đá quý màu trắng, xám, ghi (hành kim) vì kim khắc mộc, như: thạch anh trắng, mã não trắng, sapphire ghi, tourmaline trắng, garnet trắng, topaz trắng,…

Tránh đeo các loại đá quý màu vàng, nâu (hành thổ) vì mộc khắc thổ, như: thạch anh tóc vàng, mắt hổ, thạch anh vàng, sapphire vàng…

Không nên đeo các loại đá quý màu đỏ, cam, hồng, tím (hành hỏa) vì mệnh cung bị sinh xuất, làm giảm năng lượng (mộc sinh hỏa), như: amber hổ phách, thạch anh ametrine, thạch anh citrine, thạch anh tím amethyst, fancy diamond (kim cương màu), garnet ngọc hồng lựu, kunzite, morganite, opal lửa, thạch anh hồng, ruby, sapphire hồng, đá mặt trời sunstone, topaz đỏ, tourmaline hồng, zircon (đỏ, cam, hồng)…

Lưu ý

Các loại đá quý đa sắc có thể đeo cho tất cả các mệnh như tourmaline đa sắc, thạch anh đa sắc, đá melody (super seven)…
Các loại đá quý không màu như kim cương, zircon không màu… có thể đeo cho tất cả các mệnh
Các loại đá quý có nguồn gốc hữu cơ như ngọc trai, ngà voi, mai rùa có thể đeo cho tất cả các mệnh
Ruby (hồng ngọc) cũng là loại đá quý đặc biệt phù hợp với tất cả các mệnh.

Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Tân Dậu

Phật Tổ Như Lai
Phật Di Lặc
Bất Động Minh Vương (Phật bản mệnh tuổi Dậu)
Tỳ Hưu
12 con giáp
Vòng tay phong thủy
Thiềm thừ Cóc tài lộc
Chúa gê-su…

Hướng tốt, hướng xấu cho nam tuổi Tân Dậu

Nam tuổi Tân Dậu

Năm sinh: 1981

Cung mệnh: Khảm thuộc đông tứ trạch

Mệnh nạp âm: Thạch lựu Mộc


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng chính Bắc (Khảm): Được Phục vị, Phù Bật Thủy tinh.
Hướng Đông Nam (Tốn): Được Sinh khí, Tham lang Mộc tinh.
Hướng nhà, giường ngủ, bàn thờ, hướng cửa phòng bếp: Bắc, Đông Nam.
Nhà vệ sinh, bếp nấu: Dậu, Tân, Càn, Hợi.
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: thuộc Đông tứ mệnh.

Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Nên đặt bình hoa to ở cát phương ( trừ bốn sơn là Tý, Ngọ, Mão, Dậu), treo ba hồ lô bằng gỗ ở ba phương Sinh khí, Thiên y và Phúc Đức.

Về mặt trí tuệ: Đặt một bức tượng Văn Thù Bồ Tát, Tâm kinh hoặc Văn Xương Đế Quân theo hướng sao tốt.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt tượng Mã thượng phong hầu bằng ngọc, đặt ấn thăng quan (làm bằng đá ngọc: ấn kỳ lân, ấn thiên ngọc, ấn rồng).

Về mặt tài lộc: Đặt con cóc ba chân, ngọc hình trụ vuông có lỗ tròn hoặc treo một xâu tiền cổ ở hướng sao tốt.

Hướng tốt, hướng xấu cho nữ tuổi Tân Dậu

Nữ tuổi Tân Dậu

Năm sinh: 1981

Cung mệnh: Cấn thuộc Tây tứ trạch

Mệnh nạp âm: Thạch lựu Mộc


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng chánh Tây (Đoài): Được Phước Đức, Vũ Khúc Kim tinh.
Hướng Tây Bắc (Càn): Được Thiên Y, Cự Môn Thổ tinh.
Hướng nhà, giường ngủ, hướng cửa bếp và bàn thờ: Tây, Tây Bắc.
Nhà vệ sinh, bếp nấu: Đinh, Ất.
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Tây tứ mệnh.

Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Treo bức tranh chữ Phúc hoặc Ngọc Pháp luân theo hướng sao tốt.

Về mặt trí tuệ: Đặt Tâm kinh hoặc tháp Văn Xương hoặc ngọn Trường minh đăng theo hướng Đông Bắc để hóa giải sinh khí kỵ.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt tượng Mã thượng phong hầu bằng ngọc ở hướng Phúc đức, Phục vị.

Về mặt tài lộc: Đặt bể cá cảnh ở hướng Tây Nam, nuôi 5 hoặc 8 con cá vàng, đặt một con nghê bằng đồng quay đầu ra cửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩm nang phong thủy tuổi Tân Dậu 1981 –

Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Người cầm tinh con Trâu trông có vẻ hiền hòa, chậm chạp, nhưng khi tức giận hay tâm trạng không tốt thì lại rất khó lường.
Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuoi-suu-5749-1432636523.jpg tuoi-ho-9857-1432636523.jpg tuoi-rong-1543-1432636523.jpg tuoi-ran-4937-1432636523.jpg tuoi-ngua-5945-1432636523.jpg
1. Tuổi Sửu 2. Tuổi Dần 3. Tuổi Thìn 4. Tuổi Tỵ 5. Tuổi Ngọ

Tuệ Anh (theo Diyixz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Đoán tính cách qua cách bắt tay - Xem bói - Xem Tử Vi

Đoán tính cách qua cách bắt tay, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đoán tính cách qua cách bắt tay, tu vi Đoán tính cách qua cách bắt tay, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đoán tính cách qua cách bắt tay

1.Cái Bắt Tay Hời Hợi , Lỏng Lẻo :

Như chỉ đưa tay cho có lệ , rất miễn cưỡng , cầm vào thấy gần như bất động , chủ nhân bàn tay này gần như hoàn toàn giao phó cho người đối diện cho đến khi rời tay nhau

Đây là lối bắt tay của con người chỉ biết nghĩ về mình hoặc cho gia đình vợ con Ngoài ra chẳng vì ai cả. Loại người này không thể tin tưởng và nhờ cậy gì nơi họ cả .

2. Cái Bắt Tay Quá Mạnh

Làm cho người được bắt tay phải nhăn mặt, rút vai vì không chịu nổi cái bóp quá mạnh; gây đau đớn . Đây lại là lối bắt tay của con người lúc nào cũng thích biểu lộ sức mạnh của cơ bắp, thích tỏ rõ uy lực , ưa áp đảo người khác, háo thắng .

3. Cái Bắt Tay Siết Chặt (Không Gây Đau )

Đôi khi lại dùng tay còn lại vỗ vào vai hoặc cầm vào cổ của người mà họ đang bắt nữa một cách đầy nhiệt tình.

Đây là lối bắt tay của người có nhiệt tình, đáng tin cậy và có thể trông nhờ họ một việt gì. Hạng người ngày đối nghịch hẳn với người bắt tay lỏng lẻọ

4. Cái Bắt Tay Mau Rút Tay Về :

Có người khi vừa đưa tay cho người khác bắt, chưa cầm trọn bàn tay để rung rung cho đúng điệu thì họ đã có vẻ nôn nóng rút tay về . Loạn người có lối bắt tay này thiếu nhiệt tình, tình cảm lạnh nhạt và có thể bạc tình cũng như nhút nhát trốn lánh sự đời nữa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách qua cách bắt tay - Xem bói - Xem Tử Vi

Văn khấn thần linh trong nhà mùng một tết

Văn khấn lễ thần linh trong nhà ngày mùng một Tết âm lịch đầu năm. Ngoài việc cúng Gia tiên trong ngày mùng 1 Tết, thì việc cúng Thần linh trong nhà c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn lễ thần linh trong nhà ngày mùng một Tết âm lịch đầu năm.

Ngoài việc cúng Gia tiên trong ngày mùng 1 Tết, thì việc cúng Thần linh trong nhà của ngày này là điều không thể thiếu để cầu mong bình an những điều tốt lành trong năm mới.

Sắm lễ cúng thần linh mùng một tết

Lễ vạt dâng cúng thần linh năm mới gồm:

văn khấn thần linh mùng một tết

Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
Trầu cau;
Rượu;
Đèn, nến;
Lễ ngọt, bánh kẹo;
Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.

Văn khấn thần linh trong nhà ngày mùng một tết

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Kính lạy:
• Đức Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
• Hoàng Thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn Thần.
Hôm nay là ngày mồng 1 tháng Giêng, nhằm ngày Tết Nguyên Đán đầu xuân, giải trừ gió đông lạnh lẽo, hung nghiệt tiêu tan, đón mừng Nguyên Đán xuân thiên, mưa móc thấm nhuần, muôn vật tưng bừng đổi mới. Nơi nơi lễ tiết, chốn chốn tường trình.
Tín chủ con tên là ……………Tuổi:………
Ngụ tại ………………………………………
Nhân tiết minh niên sắm sửa hương hoa, cơm canh lễ vật bày ra trước án, dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần. Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng lòa, ân đức rộng lớn.
Ngôi cao vạn trượng uy nghi, vị chính mười phương biến hiện. Lòng thành vừa khởi, Tôn Đức càn thông. Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con mọi người hoan hỷ vinh xương, con cháu cát tường khang kiện. Mong ơn Đương Cảnh Thành Hoàng, đội đức Tôn Thần Bản xứ hộ trì tín chủ, gia lộc gia ân, cứu khổ trừ tai. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo!

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn thần linh trong nhà mùng một tết

Xác định phương vị may mắn của 12 con giáp để kích hoạt tài lộc

Phương vị may mắn của 12 con giáp: Căn cứ vào đó có thể bài trí vật phẩm phong thủy phù hợp để kích hoạt tài lộc vượng phát. Đâu là phương vị trong nhà may mắn
Xác định phương vị may mắn của 12 con giáp để kích hoạt tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mỗi con giáp có phương vị may mắn trong nhà khác nhau. Căn cứ vào phương vị may mắn của 12 con giáp có thể bài trí vật phẩm phong thủy phù hợp để kích hoạt tài lộc vượng phát, công thành danh toại, may mắn liên tiếp.
 

  Nhắc tới phong thủy nhà ở không thể không nói tới vai trò, mối tương quan giữa vận số của chủ nhà và những phương vị trong nhà. Phong thủy là tổng hòa giữa yếu tố tự nhiên và con người. Mỗi con giáp có phương vị may mắn riêng, căn cứ vào đó có thể bài trí những vật phẩm phong thủy phù hợp để kích vượng tài lộc, trợ lực công danh, hút điềm may mắn, xua đuổi xui xẻo.   Khi nắm rõ phương vị may mắn rơi vào góc nào trong ngôi nhà, gia chủ sẽ chủ động trong việc bài trí ngôi nhà. Nếu phương vị này ở phòng khách, có thể tận dụng để tìm cách kích hoạt tài lộc. Nếu rơi vào khu vực không tốt như nhà vệ sinh, nhà tắm, cần có biện pháp để hóa giải. Phương vị may mắn trong nhà của 12 con giáp được xác định như sau:


 
Con giáp Độ trên la bàn Phương vị Con giáp hợp Con giáp xung
337.5-352.5 Bắc Thân, Thìn Ngọ
Sửu 22.5-37.5 Đông Bắc Tị, Dậu Mùi
Dần 37.5-52.5 Đông Bắc Ngọ, Tuất Thân
Mão 67.5-97.5 Đông Mùi, Hợi Dậu
Thìn 112.5-127.5 Đông Nam Thân, Tý Tuất
Tị 142.5-157.5 Đông Nam Dậu, Sửu Hợi
Ngọ 172.5-187.5 Nam Dần, Tuất
Mùi 202.5-217.5 Tây Nam Mão, Hợi Sửu
Thân 232.5-247.5 Tây Nam Tý, Thìn Dần
Dậu 262.5-277.5 Tây Tị, Sửu Mão
Tuất 292.5-307.5 Tây Bắc Dần, Ngọ Thìn
Hợi 322.5-337.5 Tây Bắc Mão, Mùi Tị
 

1. Dùng la bàn xác định phương vị may mắn của 12 con giáp trong nhà

  Căn cứ vào bản thiết kế mặt bằng chung ngôi nhà, đánh dấu các hướng la bàn ở phía Bắc, Nam, Đông, Tây. Xác định vị trí cửa nhà và đánh dấu lại. Tiếp đó, vẽ một vòng tròn xung quanh nhà trên bản đồ và chia cho 12.   Tiến hành xoay la bàn cho tới khi mũi kim màu đỏ trùng khít với hướng Bắc (chữ N trên la bàn). Đọc con số ghi trên vòng ngoài của la bàn, nằm trên cùng đường thẳng với mũi tên trên thước nhựa. Phương vị của bạn nằm ở các độ tương ứng như trong bảng trên.

Xac dinh phuong vi may man cua 12 con giap de kich hoat tai loc hinh anh
 

2. Phương vị may mắn kị nhà tắm, nhà vệ sinh, nhà kho

  Sau khi xác định phương vị may mắn, đảm bảo vị trí đó không phải là nhà tắm, nhà vệ sinh hay nhà kho. Nếu bị những không gian này chèn ép, vận may của gia chủ sẽ bị ảnh hưởng xấu. Điều đó có thể gây ra một số điềm hung hại ảnh hưởng sức khỏe, khả năng tài chính.   Trường hợp phương vị may mắn ở trong phòng ngủ, cửa trước ngôi nhà hay phòng khách, phòng làm việc, có thể sẽ mang tới nhiều may mắn vượt trội cho chủ nhân ngôi nhà.  

3. Bài trí vật phẩm phong thủy phù hợp theo phương vị may mắn

   - Tránh bài trí vật phẩm phong thủy là hành xung của con giáp: Ví dụ, gia chủ tuổi Tý không nên bài trí con ngựa ở hướng Bắc (phương vị may mắn) của ngôi nhà, bằng không sẽ gặp không ít điều trở ngại trong các mối quan hệ xã giao, sự nghiệp hay tài lộc.   - Vật phẩm phong thủy hút vận đào hoa cho 12 con giáp: Nếu đặt biểu tượng 12 con giáp phù hợp với từng mối quan hệ tam hợp tại phương vị may mắn sẽ kích vượng vận đào hoa, mang tới nhân duyên tốt đẹp. Cụ thể như sau:
 
 
Xac dinh phuong vi may man cua 12 con giap de kich hoat tai loc hinh anh
 
- Tý - Thân - Thìn: Biểu tượng con Gà sẽ mang đến vận đào hoa. Có thể đặt một bức tranh hoặc tượng con gà ở góc phía Tây của phòng khách hay phòng ngủ.   - Dậu - Sửu - Tị: Biểu tượng con Ngựa sẽ mang đến vận đào hoa. Có thể đặt một bức tranh con ngựa ở góc phía Nam của phòng khách hay phòng ngủ.   - Mão - Mùi - Hợi:  Biểu tượng con Rắn sẽ mang đến vận đào hoa. Đặt tranh hoặc tượng con chuột ở góc phía Bắc của phòng khách hay phòng ngủ.   - Ngọ - Tuất - Dần: Biểu tượng con Mèo sẽ mang đến vận đào hoa. Đặt  tranh hoặc tượng con mèo ở góc phía Tây của phòng khách hay phòng ngủ.   Thiên Lam

Cách xác định phương vị sự nghiệp, tài lộc và hôn nhân
Nếu còn băn khoăn và chưa thể xác định các phương vị chủ về sự nghiệp, tài lộc, hôn nhân, công danh… bạn tham khảo nội dung dưới đây sẽ rõ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định phương vị may mắn của 12 con giáp để kích hoạt tài lộc

Tướng người nhân hậu –

Cằm Những phụ nữ có cằm tròn đầy là những người nhân hậu, tốt bụng, đây cũng là biểu thị của người có hậu vận tốt, có cuộc sống vật chất đầy đủ và sung túc. Những người này hiếm khi phải lo lắng về kinh tế của gia đình. Họ biết cách linh hoạt trong c
Tướng người nhân hậu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người nhân hậu –

Thần tài đặt như thế nào mới có thể đón thần tài –

Văn thần tài nên đặt ở vị trí hai bên trái phải ở gần cửa ra vào. Cho dù là tam tinh Phúc Lộc Thọ hay Văn thần tài Tý Can và thần tài trí tuệ Phạm Lãi đều cần phải đặt ở vị trí quay mặt vào trong nhà. Như vậy mới có thể rộng mở đón tài lộc vào nhà; n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

gược lại, nếu mặt đối diện với cửa ra vào thì sẽ tự đưa tiền tài ra ngoài cửa, khi sắp xếp phải cẩn thận.

Vũ thần tài như các vị thần Quan Công hoặc Triệu Công Minh cần phải đổi mặt ra ngoài cửa chính, vừa có thể chiêu tài, lại vừa có thể trấn trạch bảo vệ gia chủ bình an, tài lộc vào nhà.

Tà thần tài như là Tứ diện Phật cần phải thờ cúng bên ngoài như vườn hoa, khoảng không trên sân thượng, khoảng không trước nhà, ngoài cửa, có tác dụng trị hung chiêu tài. Kỵ nhất là đặt trong những bàn thờ Phật kín hoặc trong nhà, càng không thể đặt cùng hàng với Phật tổ, Quan âm, Hoàng đại tiên, Quan đế, Tổ tiên, nếu không thì tai hoạ sẽ ập đến lập tức.

images1033408_than_tai_kienthuc.net.vn

Thông thường lấy góc chéo của bức tường đối với cửa ra vào, chọn nơi kín, sâu làm “tài vị” (vị trí tài lộc), cũng có người cho rằng “tài vị” trong nhà là không đổi, nó ở những nơi kín đáo tròn đầy… những quan điểm này hoàn toàn không đúng.

Phong thủy học cho rằng: “Sơn quân nhân đinh, thủy quân tài”, chính vì vậy nhìn tài vị là nhìn những đồ vật có tính chất thuộc thủy. Tài vị ở mỗi một nguyên vận đều có sự biến đổi khác nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thần tài đặt như thế nào mới có thể đón thần tài –

Chú trọng đến đặc điểm tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng –

Chú trọng đến đặc điểm tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng cũng giống như việc chú trọng đến bao bì hàng hóa. Hàng hoá trên thị trường có thể tiêu thụ dễ dàng hay không, ngoài việc chú trọng vào chất lượng sản phẩm còn phải chú trọng đến hàng hoá có b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ao bì bắt mắt.

7ui787jpg1380157266

Bởi vì, bao bì thể hiện hình thức của san phẩm, khách hàng khi lựa chọn hàng hóa trên quầy hàng, đầu tiên sẽ nhìn vào hình thức bên ngoài của hàng hoá. Người kinh doanh tiêu thụ hàng hoá phải thông qua hình thức bên ngoài này để nắm bắt tâm lý khách hàng, làm cho khách hàng tăng lượng cầu hàng hóa, mấu chốt là ở chỗ thể hiện ra một phần hình thức bên ngoài hàng hóa như mới mở, đẹp mắt, đặc biệt… hay không.

Xét một cách toàn diện, cửa hàng có thể thu hút được khách hàng hay không, ngoài việc coi trọng đến chất lượng sân phẩm và thái độ phục vụ tốt, thì tạo dáng bên ngoài cửa hàng cũng rất quan trọng. Theo điều tra không đầy đủ, một cửa hàng có hiệu quả kinh doanh tốt, đa số đều là các cửa hàng có hình dáng bên ngoài đặc sắc. Một cửa hàng thiên về kinh doanh, trong đối sách kinh doanh hàng hóa của họ, đều có một điểu liên quan đến nguyên tắc thiết kế tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng. Bời vì, họ coi tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng chính là một bao bì thể hiện nội dung bên trong hàng hoá, họ tin tưởng rằng một bao bì đẹp thì có thể chiếm được cảm tình của khách hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú trọng đến đặc điểm tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng –

7 trường hợp tuyệt đối không được kích hoạt vận đào hoa

Các phương pháp kích hoạt vận đào hoa sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ giúp tình yêu, hôn nhân mau gõ cửa nhà. Nhưng 7 trường hợp sau thì tuyệt đối đừng dụng
7 trường hợp tuyệt đối không được kích hoạt vận đào hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các phương pháp kích hoạt vận đào hoa thông qua kích hoạt sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ giúp tình yêu, hôn nhân mau gõ cửa nhà, rất cát lợi. Nhưng 7 trường hợp sau thì tuyệt đối đừng dụng đến cách này.


7 truong hop tuyet doi khong duoc kich hoat van dao hoa hinh anh
 
1. Tại vị trí (phòng, hướng) vượng của các sao Đào Hoa, Hồng Loan và Thiên Hỷ, không được đặt các linh vật thúc đẩy tài vận như nghê đồng, tỳ hưu, chó đá,... sẽ làm cản trở việc kích hoạt vận đào hoa.
 
2. Kích hoạt vận đào hoa chỉ dành cho những người cô đơn, lẻ bóng, những người đã có gia đình hoặc đang có tình yêu “thuận buồm xuôi gió” thì tuyệt đối không được áp dụng. Trường hợp này, nếu dùng biện pháp kích hoạt, tăng vận đào hoa không những không có lợi cho hạnh phúc đôi lứa, ngược lại còn có hại, vì vô tình sẽ đẩy người bạn đời (người yêu) vào tay kẻ khác, hoặc tự chuốc lấy những rắc rối, phiền muộn về tình cảm cho bản thân.
 
3. Những người thuộc diện “yêu và được yêu” như mọi người nhưng mãi không thể tiến tới hôn nhân được, thì không nên kích hoạt sao Đào Hoa mà chỉ kích hoạt sao Hồng Loan hoặc sao Thiên Hỷ để hỷ sự sớm thành.
 
4. Những người có số giang hồ lãng tử hoặc thuộc diện là người phong tình thì chỉ cần kích hoạt vận đào hoa qua sao Hồng Loan hoặc sao Thiên Hỷ, không nên kích hoạt vận đào hoa với sao Đào Hoa, vì nếu kích hoạt sao Đào Hoa sẽ khiến dâm tính của đương số thêm hoang đàng, đĩ điếm.
 
5. Những người có số tu hành, số không vợ không chồng (lá số tử vi có Cô Thần – Quả Tú) thì tuyệt đối không nên kích hoạt, tăng vận đào hoa với bất kỳ sao nào, biện pháp nào vì chỉ khiến cho đời sống tình dục của đương số thêm hoang dâm, nghịch cảnh.
 
6. Những người thuộc diện “đồng cô bóng cậu” cũng không tùy tiện dùng biện pháp tăng vận đào hoa vì vốn dĩ người này không mấy “mặn mà” chuyện nam nữ nên việc kích hoạt vận đào hoa với những người này không khác gì hành động “lửa đổ thêm dầu” cho nhân duyên thêm nghịch cảnh. 
 
7. Trong thời gian kích hoạt tăng vận đào hoa với các sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ, nếu chưa thấy hiệu nghiệm cũng không nên dùng các biện pháp tăng vận đào hoa khác để thúc đẩy hạn cưới hỏi nhanh đến, vì làm vậy chỉ đẩy đời sống tình dục và cơ duyên hôn nhân của đương số thêm bế tắc.
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Theo Tử vi kiến giải

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 trường hợp tuyệt đối không được kích hoạt vận đào hoa

Chọn vị trí đặt hũ gạo và tủ lạnh đúng theo khoa học phong thủy

Trong bếp có hai vật dụng chính là hũ gạo và tủ lạnh, cần bài trí như thế nào để tránh được những điều không tốt do những vật dụng này gâyra ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hũ gạo:

Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.


Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp ? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị “thổ” đương vượng là có lý, vì rằng:

(1) Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.

(2) Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất.

Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.

Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt chỗ kín đáo, nên đặt nó ở trong chum chôn dưới đất.

Tủ lạnh

Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình, nay xin nói về những điều cấm kỵ khi đặt tủ lạnh.

Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?

Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!


Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:

(1) Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.

(2) Tủ lạnh là máy móc nó vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, kích động nó đi gây rối vì thế đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. Trong phong thủy học có nói rằng: “Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động” cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.

Nguồn: Phong Thuy – Phong Thuy Nha O – Tu Bep



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vị trí đặt hũ gạo và tủ lạnh đúng theo khoa học phong thủy

Tìm hiểu tướng mạo qua tử vi: những vị có Liêm Trinh tại mạng, tướng mạo như thế nào?

Một bài viết tiếp theo về tìm hiểu tướng mạo qua tử vi. Bài viết này trình bày về tướng mạo của đương số qua sao Liêm Trinh thủ mệnh.
Tìm hiểu tướng mạo qua tử vi: những vị có Liêm Trinh tại mạng, tướng mạo như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơn Phương

Trong bài trước tôi đã có dịp trình bầy cùng quý độc giả sao Tử vi qua 12 cung để tìm hiểu về tướng mạo, nay xin bàn lần lượt các chính tinh khác thuộc nhóm sao Tử vi, rồi mới tới sao Thiên Phủ để cho khỏi lộn xộn. Và trước khi thảo luận tiếp tôi cần nêu ra một điểm mà tôi đã quên không đề cập tới trong bài trước để tránh mọi sự lầm lẫn đối với những bạn mới biết tử vi: khi tôi nói Tử vi cư Tý, Sửu…tức là phải hiểu rằng Mệnh đóng tại cung đó, chứ không phải cung nào khác, kể cả cung có “Thân”, vì Mệnh mới là vai trò chính. Nhiều người coi tử vi cứ cho rằng có thể xét “thân” để tìm ra hình dáng đích thực sau khi phối hợp với Mệnh. Kể ra cũng có phần hợp lý, nhưng dù sao lúc sinh ra đời tướng dạng con người được thể hiện ở cung mệnh, cho nên về sau (từ 30 tuổi trở đi) “Thân” chỉ làm thay đổi phần nào thể xác, hình dáng con người mà thôi, nghĩa là một người gầy có thể thành mập, trắng có thể thành đen, nhưng thấp không thể thành cao được, hoặc đã có nước da đen rồi thì khó trở nên trắng.

Vậy trong bài này tôi vẫn theo cách thức cũ, nghĩa là không cần nêu rõ là cung Mệnh để khỏi nhắc đi nhắc lại nhiều lần thêm rườm rà. Sao tôi tiếp tục bàn tới là Liêm Trinh.

- Liêm Trinh cư Tý: khi sao này cư Tý bao giờ cũng có Thiên Tướng đồng cung, xung chiếu có Phá Quân (tọa thủ tại cung Ngọ) và hợp chiếu có Tử Phủ (cư Thân), Vũ Khúc (cư Thìn). Ở cung này Liêm trinh (Hỏa) không phát huy được năng lực vì bị thủy của cung kết hợp với thủy của Thiên Tướng lấn át hết, và do đó Thiên Tướng coi như ảnh hưởng mạnh tại cung này. Vì vậy nói chung người nào có Liêm Trinh cư Tý thường thường cao, vẻ mặt uy nghi, hơi dài, lông mày hơi xếch, thân hình không được mập mấy nhưng không gọi là gầy ốm được, nước da hơi ngăm ngăm. Đó là nói tổng quát, vì còn cần phối hợp với ngũ hành của mệnh cùng các sao phụ nữa. Thí dụ người mạng Hỏa, Thổ thì vẫn cố bám lấy Liêm Trinh cho nên không cao nhiều được mà còn gầy dài ra: người mạng Kim, Thủy, Mộc thì chịu ảnh hưởng nhiều của Thiên Tướng với sự trợ lực của Phá Quân xung chiếu (tôi không nói tới các sao hợp chiếu vì ảnh hưởng không mạnh mẽ về tướng dạng) nên cao thêm và người đầy đặn hơn. Còn về sao phụ nếu có Đào Hồng chẳng hạn thì nước da vẫn có thể trắng trẻo được, nhất là đối với phụ nữ, và lại còn thêm chút “da thịt” nữa; nếu chẳng may có thêm Không Kiếp, Hỏa Linh thì khó lòng trắng được, mà lại còn gầy bớt đi nhiều. Còn trường hợp có Khôi Việt thì thực là con người “có tướng” lắm, lại còn đẹp trai nữa; đối với phụ nữ cũng khá kiều diễm nhưng không hợp bằng phía nam…

- Liêm Trinh cư Sửu: Nếu Liêm Trinh cư tại cung này bao giờ cũng có Thất Sát đồng cung, xung chiếu có Thiên Phủ (cư Mùi) hợp chiếu có Tử Tham (Dậu), Vũ Phá (Tỵ) (tôi vẫn nêu ra các sao hợp chiếu mà không bàn tới mục đích để quý bạn nhớ rõ cách cục cố định của các chính tinh qua 12 cung). Ở cung nầy tuy không bị khắc nhưng Liêm Trinh cũng vẫn bị yếu, vì Hỏa sinh cung Thổ là sinh xuất, trong khi Thất Sát là Kim lại được cung (Thổ) sinh và sao Thiên Phủ (Thổ) nuôi dưỡng thêm, cho nên tuy bàn tới Liêm Trinh mà thực ra Thất Sát đóng vai trò chính. Do đó về hình dáng, người nào có Liêm Trinh cư Sửu thế nào cũng phải gầy, trừ phi có các sao phụ như Quan Phúc, Đào Hồng…đồng cung thì mới giảm bớt được phần nào, chứ nếu có Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp, Kiếp Sát…thêm vào thì thực là “gầy đét như cá mắm”. Ngoài ra nước da cũng không trắng, có thể nói là đen, và lại ít khi có nhan sắc, đối với phái nam tương đối đỡ xấu hơn, chỉ vì vẻ mặt lúc nào cũng u buồn (nhất là khi có thêm Tang Hổ, Khốc Hư…) như muốn khóc, có nhiều khi lại hay nhăn nhó. Trường hợp này người mạng Hỏa lại đỡ bị ảnh hưởng của Thất Sát, như thế là hay hơn về phương diện diện mạo (rất có thể kém hay về phương diện công danh, tài lộc chẳng hạn, nhưng đó là vấn đề khác) còn người mạng Kim hay Thủy thì nhất định là có vẻ mặt khó thương nổi.

- Liêm Trinh cư Dần: Trường này Liêm Trinh độc thủ tại cung Dần (tức là không có chính tinh nào khác đồng cung), xung chiếu có Tham Lang (cư Thân) hợp chiếu có Tử vi Thiên Tướng (cư Tuất) và Vũ Khúc, Thiên Phủ (cư Ngọ). Khi Liêm Trinh cư Dần tôi thấy câu phú tổng quát ứng nghiệm nhiều (miệng rộng cổ cao) vì lúc đó sao này một mình tung hoành, huống chi lại được cung (Mộc) sinh sao. Ngoài điểm miệng rộng, cổ cao, tôi cần thêm là tay chân, mặt cũng dài rõ rệt, giống như con cò hương vậy. Tôi chưa thấy ai có Liêm Trinh cư Dần lại lùn và mập (trừ phi sai giờ sanh là chuyện khác) dù có các sao phụ chế hóa đi chăng nữa, nhất là đối với người mạng Hỏa hoặc Thổ lại càng ứng nghiệm nhiều. Người mạng Thủy hoặc Kim tuy ít bị ảnh hưởng của Liêm Trinh nhưng lại chịu ảnh hưởng của Tham Lang cũng là sao có chiều cao cho nên cũng không khác được nhiều. Vì vậy ta không thể nào cho người có Liêm Trinh cư Dần lại đẹp đẽ về bề ngoài được, dù cho vẻ mặt cũng có khi duyên dáng, dễ coi, nhưng khi nhìn tới thân hình thì dù gái hay trai cũng lòng ngồng xấu xí, thiếu sự cân đối, nhất là con gái mà ứng về miệng rộng thì sợ các cụ chê là “tan hoang cửa nhà” mất. Do đó nếu chẳng may ở trường hợp Liêm Trinh cư Dần thì rất cần có nhiều sao phụ chủ về mập đồng cung hay xung chiếu cho giảm bớt chiều cao đi và cần tránh được những sao làm gầy thêm.

- Liêm Trinh cư Mão: Liêm Trinh trong trường hợp này phải đồng cung với Phá quân xung chiếu có Thiên Tướng (Dậu), hợp chiếu (Mùi), Tử vi Thất Sát (Hợi). Ở cung Mão (mộc) Liêm Trinh lại được tung hoành nữa, nhất là có Phá Quân (Thủy) dưỡng cung Mộc để cung này sinh Liêm Trinh mạnh mẽ thêm. Do đó, người nào có Liêm Trinh cư Mão thế nào cũng cao lớn lắm, có khi cũng khá mập (nhất là về già) nhưng dù sao vẫn không lấn át được chiều cao, thành ra trông vẫn là gầy.

Tuy thật là cao nhưng may nhờ có vai rộng và cũng không gầy lắm (lúc trẻ tuổi vẫn gầy) nên về hình dáng tổng quát vẫn có vẻ trội hơn Liêm Trinh cư Dần nhiều. Nhưng đối với phụ nữ không nên có Liêm Trinh cư Mão vì người Việt Nam mình, nhất là các cụ, ít ai ưa con gái cao lênh khênh. Chẳng thế mà các cụ có câu “dài lưng tốn vải, ăn co lại nằm” đấy sao. Còn đối với phái nam lại rất hay, vì nếu làm lớn trong xã hội trông người cao và to thật là bệ vệ, khỏi sợ ai chê (nhất lé nhì lùn)…” Ngoài ra, tôi còn xin nói thêm là phái nam trong trường hợp Liêm Trinh cư Mão thường có trán rất cao và khi già hay bị hói, đến nỗi trông từ đằng xa cũng đã nhận thấy cái trán rồi. Còn đối với phụ nữ điểm này tôi không bao giờ thấy ứng nghiệm, cũng là may cho họ. Về vẻ mặt nhan sắc, thì chỉ có phái nam được lợi vì tôi nghiệm thấy nhiều người rất bảnh trai, duyên dáng, nhưng đa tình lắm (lúc đó Liêm Trinh thật đúng là sao Đào hoa thứ hai).

- Liêm Trinh cư Thìn: Nếu cư cung này phải có Thiên Phủ đồng cung xung chiếu có Thất Sát (Tuất), hợp chiếu có Vũ Tướng (Thân) Tử Vi (Tý). Ở cung Thìn là Thổ nên Liêm Trinh vừa sinh sao Thiên Phủ cho nên bị yếu hẳn đi và nhường chỗ cho Thiên Phủ phát huy năng lực của mình đến mức tối đa. Vì vậy đối với người mạng Thổ và Kim khó có thể cao và gầy ốm nhưng cũng không mập được nhiều vì dù sao Liêm Trinh cũng cản lại phần nào, hơn nữa gương mặt cũng vẫn thấy hơi dài hoặc cằm hơi nhọn một chút. Về nước da tương đối trắng hơn và nhan sắc, diện mạo cũng dễ coi hơn các trường hợp khác, nhưng không phải đẹp một cách lộng lẫy, duyên dáng mà đẹp một cách nghiêm trang và hơi kiêu kỳ. Đối với người mạng Thủy thì không được như vậy, vì chẳng hợp với Thiên Phủ mà cũng chẳng chịu ảnh hưởng của Liêm Trinh, thành ra sao Thất Sát xung chiếu tự nhiên đóng vai trò chính, do đó người này thường thường gầy gò, cũng hơi cao, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt kém tươi tỉnh. Còn người mạng Hỏa và Mộc thì trung dung, nghĩa là ở giữa hai loại người kể trên, quý bạn cứ việc phối hợp mà đoán.

- Liêm Trinh cư Tỵ: Luôn luôn có Tham Lang đồng cung trong trường hợp này, xung chiếu không có chính tinh vì cung Hợi vô chính diệu, hợp chiếu có Vũ Sát (Dậu), Tử vi Phá quân (Sửu). Nếu nói riêng về Liêm Trinh ở cung này (hỏa) thì Liêm Trinh cũng tung hoành được, nhưng vì có Tham Lang là Thủy làm hỏa giảm bớt đi cho nên dáng người không cao được nhiều và cũng không gầy và dài theo đặc tính của Liêm Trinh vì Tham Lang làm cho mập ra và có chiều cao vừa phải, nhưng mập ra đây chỉ có nghĩa làm cho thân hình vạm vỡ chứ không bao giờ béo bệu dù cho có thêm các sao phụ chỉ về mập. Và ngược lại dù cho có gặp sao gầy ốm (như Đại tiểu hao, Kiếp sát, Hỏa Linh…) thân hình vẫn không bị coi là gầy, có khi trông lại thon đẹp hơn. Tuy nhiên, người mạng Thủy thường đẫy đà hơn người mạng Hỏa và các người mạng khác thì trung bình, còn về chiều cao thì bất cứ mạng nào cũng chỉ tầm thước thôi vì cả hai sao Liêm Tham đều không cao lắm, và cung xung chiếu lại không có chính tinh nào để chế hóa hoặc ảnh hưởng thêm cho các mạng thuộc ngũ hành khác. Do đó, tôi đã nghiệm thấy nhiều người trong trường hợp này có thân hình rất vừa, nếu tập thể thao thêm lại còn đẹp hơn, nhưng đương nhiên vẻ đẹp này không có tính cách nho nhã (vì thường phải hoạt động nhiều bằng tay chân dù thuộc hạng trí thức) mà cũng chưa phải có vẻ lực sĩ. Đó là nói về phái nam, còn phụ nữ nếu có Liêm Trinh tại Tỵ cũng rất hợp về phương diện hình dáng (tôi không nói đến khía cạnh khác có thể coi là hơi bất lợi), thân hình dễ cân đối và nở nang, đầy đặn.

- Liêm Trinh cư Ngọ: về cách bố cục của chính tinh cũng giống như trường hợp cư Tý, nghĩa là có Thiên Tướng đồng cung, xung chiếu có Phá quân, hợp chiếu có Tử Phủ (Dần), Vũ Khúc (Tuất). Tuy các sao chính bố cục y hệt nhau nhưng hình dáng vẫn không thể giống nhau hoàn toàn được (vì thế không bao giờ ta có thể áp dụng một câu phú về một chính tinh để luận hình dáng cho đúng được)

Ở cung Ngọ Liêm Trinh lấn áp được Thiên Tướng vì cung Ngọ thuộc Hỏa nên hợp với Liêm Trinh mà kỵ Thiên Tướng, và do đó Phá quân ở ngoài cũng không trợ lực được cho Thiên Tướng để chế ngự Liêm Trinh. Vì vậy hình dáng bị Liêm Trinh chi phối nhiều nên gầy hơn, gương mặt cũng dài hơn, nhất là đối với người mạng Hỏa, Mộc, nhưng nước da không được trắng mấy, nếu có Không Kiếp đương nhiên là đen. Tuy vậy vẫn có thể khả ái được nhờ có chút ảnh hưởng của Thiên Tướng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Xương Khúc, Đào Hồng…

- Liêm Trinh cư Mùi: Cách bố cục sao cũng như Liêm Trinh cư Sửu (để cho khỏi dài dòng từ cung này trở đi tôi chỉ nêu ra đơn sơ như vậy). Về cách phân tách sự khác nhau, quý bạn cứ theo như trường hợp Liêm Trinh cư Ngọ để suy luận; tôi chỉ nói thẳng về hình dáng để khỏi choán nhiều chỗ trong KHHB. Tuy nhiên riêng về trường hợp cư Mùi vì cung này cũng thuộc Thổ như cung Sửu nên cũng chẳng tìm ra được gì khác biệt, nếu có chẳng qua vì ảnh hưởng của các sao phụ. Do đó tôi tạm coi hình dáng của Liêm Trinh cư Mùi cùng một loại với Liêm Trinh cư Sửu. Rất có thể có những nhà tử vi giỏi đã tìm ra được những dị biệt, nhưng đó lại là vấn đề khác.

- Liêm Trinh cư Thân: Cũng như Liêm Trinh cư Dần về cách bố cục các chính tinh. Ở cung này tương đối hình dáng không cao lòng ngòng, chân tay và mặt cũng không dài như Liêm Trinh cư Dần vì Tham Lang đã “cướp ngôi” Liêm Trinh rồi. Tuy nhiên, phải người mạng Kim, Thủy mới đỡ, chớ còn những người mạng khác vẫn bị ảnh hưởng sao Liêm Trinh nhiều. Phụ nữ ở trường hợp này tương đối còn khá hơn trường hợp cư Dần, thân hình có thể đầy đặn được một chút.

- Liêm Trinh cư Dậu: Vị trí của các chính tinh cũng y hệt Liêm Trinh cư Mão. Tuy hai cung Mão Dậu thuộc ngũ hành khác nhau nhưng về hình dáng vẫn khá giống nhau, nghĩa là vẫn cao lớn, vai rộng, trán cao (và nói về già). Chỉ có điểm là nước da sáng và mịn hơn trường hợp cư Mão.

- Liêm Trinh cư Tuất: Quý bạn có thể tạm coi như giống trường hợp cư Thìn vì hai cung đều thuộc thổ. Đây tôi chỉ nói về hình dáng giống nhau chứ thực ra về các phương diện khác không thể giống nhau được.

- Liêm Trinh cư Hợi: Cũng giống như Liêm Trinh cư Tỵ về cách bố cục các chính tinh, nhưng hình dáng của người có Liêm Trinh cư Hợi vạm vỡ dễ dàng hơn và gương mặt cũng phúc hậu, đầy đặn hơn. Chỉ có giống nhau về tầm thước và nước da.

Bài hôm nay về chính tinh Liêm Trinh được chấm dứt nơi đây và nhân dịp này tôi cần nêu ra sớm một điều chung cho tất cả những bài thuộc về tướng mạo, hình dáng: quý bạn hẳn đều nhận thấy rằng giải đoán hình dáng tổng quát (như cao, thấp, mập, ốm, đen, trắng…) còn dễ dàng chứ tìm hiểu về nhan sắc, vẻ đẹp của phái nam cũng như nữ rất khó khăn vì nhiều khi thấy nhiều yếu tố không thuận lợi cho sắc đẹp mà trên thực tế đương số vẫn bảnh trai hoặc mỹ miều, rất có thể chỉ vì một vài yếu tố khác trong tử vi đã chế hóa đi mà mình tìm không ra. Ngược lại cũng vậy, tôi đã từng thấy những lá số phụ nữ rất diễm lệ mà bề ngoài thực tế lại làm cho mọi người thất vọng. Tôi xin lấy một thí dụ đơn giản: Đồng Lương cư Dần hội Đào Hồng, Khôi Việt ai mà chẳng cho là đẹp, là trắng trẻo, duyên dáng, thân hình đầy đặn, nẩy nở, cân đối, nhưng trên thực tế đương số bị trán gồ, răng vổ và mắt hơi lé thì các yếu tố đẹp trên kia làm sao mà khen. Vẫn biết rằng một nhà tử vi giỏi phải tìm hết mọi khía cạnh để cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết đoán về nhan sắc, nhưng điều đó mấy ai đã đạt được. Vì vậy về phương diện vẻ đẹp quý bạn cần phải thận trọng lắm, chứ đừng áp dụng một cách mù quáng những điều tôi đã nêu ra, những điều này chỉ nên coi là một ước lệ tương đối mà thôi.

KHHB số 41


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu tướng mạo qua tử vi: những vị có Liêm Trinh tại mạng, tướng mạo như thế nào?

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Ý nghĩa những nốt ruồi đặc biệt trên khuôn mặt

Mỗi nốt ruồi xuất hiện trên mặt bạn đều có những ý nghĩa khác nhau đấy nhé.
Ý nghĩa những nốt ruồi đặc biệt trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa những nốt ruồi đặc biệt trên khuôn mặt

Người mắt to có tính cách như thế nào –

Người có đôi mắt to tính cách cương trực, mạnh mẽ, nhiệt tình, cởi mở và rất có sức lôi cuốn. Người có đôi mắt to đa phần tính cách cương trực, mạnh mẽ. Họ sống nhiệt tình, cởi mở và rất có sức lôi cuốn với người khác giới. Tuy nhiên, tùy thuộc sự kế
Người mắt to có tính cách như thế nào –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người mắt to có tính cách như thế nào –

Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng

Có một sự thật về 12 sao nữ mà không phải ai cũng biết, đó chính là trong 12 cung hoàng đạo thì có 8 sao nữ có sở thích nude.
Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có một sự thật về 12 sao nữ mà không phải ai cũng biết, đó chính là trong 12 cung hoàng đạo thì có 8 cung thích gợi cảm, 4 cung còn lại thì... không dám nói ra.
 

Điều này có thể dẫn tới một thực trạng khá dễ hiểu khi lệnh cấm chụp ảnh "nude" vừa được gỡ xuống, hàng loạt sao Việt đã không ngừng tung những bức hình nóng bỏng của mình lên mạng. Việc tìm ra được top cung hoàng đạo của các sao Việt thích chụp ảnh "nude" vì thế cũng trở nên khá khó khăn vì dường như xác suất này trải dài trên vòng tròn hoàng đạo.
 
Cùng điểm danh các gương mặt đại diện của sao nữ 12 cung sở hữu những tấm hình khỏa thân nghệ thuật nhất và hãy đoán xem tại sao họ lại có sở thích nude.
 
Lan Khuê (01/04/1992) – Bạch Dương

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Thuộc nhóm Lửa – Tiên Phong (Fire – Cardinal), các quyết định của Bạch Dương thường được đưa ra chớp nhoáng, bất chấp hậu quả, giống hệt khi một tia sét rạch trời đánh xuống. Các "shot" hình của Bạch Dương Lan Khuê phải chăng cũng ra đời trong hoàn cảnh đó?   Ngọc Quyên (24/04/1988) – Kim Ngưu

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Ưa chiều chuộng, ưa vuốt ve là những từ thích đáng để nói về sở thích của Kim Ngưu trong chuyện tình cảm. Việc sở hữu những bức hình gợi cảm của Kim Ngưu Ngọc Quyên trong bộ sưu tập ảnh của mình ngoài các mục đích bên lề, có lẽ cũng nhằm thỏa mãn sở thích này.   Trúc Diễm (24/05/1987) – Song Tử

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Song Tử luôn hiếu kỳ trước mọi điều mới lạ, không ngại thử những thú vui mới xuất hiện theo trào lưu. Điều này có thể cũng là động lực mạnh nhất dẫn cô nàng Song Tử Trúc Diễm thử nghiệm với dòng ảnh "nude" này.   Minh Hằng (22/06/1987) – Cự Giải

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Mọi hành động của Cự Giải đa phần đều xuất phát từ cảm xúc. Liệu có chăng một phút xúc động nào đó, dù vui – buồn – hào hứng hay phấn khích thái quá, Cự Giải Minh Hằng mới quyết định chụp những "shot" hình đầy nóng bỏng như thế này?   Thanh Hằng (22/07/1983) – Sư Tử

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Là một Sư Tử đồng nghĩa với việc mang trong mình một cái tôi đầy kiêu hãnh. Trong khi các mỹ nhân trong "showbiz" thi nhau chụp ảnh "nude" khoe thân hình gợi cảm, không có lý gì Sư Tử Thanh Hằng lại ngồi yên mà không chứng tỏ vẻ đẹp của bản thân mình.   Phạm Hương (04/091991) – Xử Nữ

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Đối với Xử Nữ, mọi việc đều luôn có sắp xếp từ trước và có mục đích rõ ràng. Xu hướng chụp ảnh "nude" trong làng giải trí vốn chẳng thể tác động nhiều tới Xử Nữ Phạm Hương. Đơn giản, có thể trên con đường đi tìm sự toàn mỹ cho hình ảnh cá nhân, ảnh 'nude' cũng là một phần để hoàn tất miếng ghép hoàn hảo đó với cô gái đa tài này.   Đinh Ngọc Diệp (11/10/1984) – Thiên Bình

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Cuộc sống với Thiên Bình luôn cần một sự cân bằng tuyệt đối. Vậy nên, có lẽ việc tìm về với tự nhiên, với những gì trần trụi nhất sẽ là việc đem tới cho Thiên Bình sự cân bằng đến hoàn hảo. Phải chẳng Thiên Bình Đinh Ngọc Diệp cũng là vì lẽ này mà tìm đến với chụp ảnh nude?   Tăng Thanh Hà (24/10/1986) – Bọ Cạp

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Bản thân của Bọ Cạp đã sở hữu sự quyến rũ chết người, họ cũng biết cách phô bày ưu điểm đó của bản thân. Điều đó dĩ nhiên không ngoại lệ với Bọ Cạp Tăng Thanh Hà. Cô không ngại diện những bộ bikini nóng bỏng trong Đẹp từng centimet, hay chụp những tấm ảnh nude đầy lôi cuốn. Nhưng điều đó không phải là tất cả, vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của ngọc nữ này mới là điều khiến cô được lòng người hâm mộ.   Hồ Ngọc Hà (25/11/1984) – Nhân Mã

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Tham vọng bứt phá ra khỏi các khuôn thước đời thường và đạt tới cảnh giới của sự tự do có lẽ là thứ thôi thúc nhất bên trong mỗi Nhân Mã. Điều này có thể đã khiến cho Nhân Mã Hà Hồ không ngần ngại, bạo dạn cho ra bộ ảnh "nude" của mình.   Lê Kiều Như (24/12/1983) - Ma Kết

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Ma Kết luôn mang trong mình những ẩn ức không tên. Tình dục, xác thịt là những thứ mãnh liệt mọi Ma Kết luôn hướng đến nhưng lại chẳng bao giờ dám thể hiện. Có chăng, những bức bối đó chỉ có thể gửi vào những bức hình khỏa thân của Ma Kết Kiều Như?   Thúy Hạnh (04/02/1978) – Bảo Bình

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Vốn sở hữu con mắt nhìn nhận, đánh giá các trào lưu trong xã hội vô cùng độc đáo, khác người, Bảo Bình Thúy Hạnh bước vào trào lưu chụp ảnh "nude" với cách thể hiện rất lạ và sáng tạo với con gái của mình.   Ngô Thanh Vân (26/02/1979) – Song Ngư

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Song Ngư là cung hoàng đạo mang trong mình nhiều mối tình day dứt nhất. Nhu cầu được sống và trải nghiệm với cảm xúc luôn trào dâng mãnh liệt trong mọi Song Ngư. Có lẽ cũng chính vì vậy, Song Ngư Ngô Thanh Vân không nằm ngoài trào lưu chụp ảnh "nude" của "showbiz" Việt.
ST.

Tình duyên mở cửa với 3 chòm sao đào hoa trong Giáng Sinh 2016 Doctor: Liệu Bọ Cạp có hợp cạ với Thiên Bình? Cảnh báo 4 chòm sao xui xẻo trong tháng 12, đi đâu cũng gặp tiểu nhân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd