Mơ thấy ông chủ: Mối quan hệ đồng nghiệp lành mạnh hữu ích –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Lời chúc thọ hay nhất cho mọi thời đại. Tại nhiều miền quê ngày chúc thọ những người cao tuổi thường được diễn ra vào ngày mùng 4 tết nguyên đán, trong bài viết dưới đây sẽ giới thiệu đến bạn những câu chúc thọ hay và ý nghĩa nhất dành tặng cho ông/bà.
Bát tuần thả hiến bàn đào thụy
Tứ đại đồng chiêm bảo vật huy
(Tám chục vẫn ngời viên ngọc thọ
Bốn đời cùng ngợp ánh hào quang)
——–
Mai trúc bình an xuân ý mãn
Xuân huyên tịnh mậu thọ nguyên trường
(Mai trúc bình an tình xuân thắm
Xuân huyên tươi tốt tuổi thọ cao)
———-
Thọ đồng tùng bách thiên niên bích
Phẩm tự chi lan nhất vị thanh
(Thọ như tùng bách ngàn năm biếc
Đức tựa chi lan một đời trong)
10. Sinh vào năm một chín ba năm,
Hay bị vợ lườm vợ bảo hâm!
Đầu óc vẫn tường đâu có lẫn,
Mắt tai còn tỏng há chi nhầm.
Nhiều khi lộp cộp đôi giầy bóng,
Lắm lúc vênh vang cặp kính râm.
Thất thập lẻ lăm rồi chứ tưởng,
Nhưng còn phong độ khối em lầm.
Tuổi xưa nay hiếm vẫn lăm lăm
Lãng mạn yêu đời bởi khéo hâm
Mỗi sáng sát bên sao lạc được
Hàng đêm kề cận có đâu nhầm
Ông bà hạnh phúc ban gương rọi
Con cháu sum vầy hưởng bóng râm
Nề nếp gia phong gìn giữ mãi
Tiếp truyền hậu thế khó sai lầm.
Xuân an khang đức tài như ý
Niên thịnh vượng phúc thọ vô biên
Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp dương gian, phúc khắp nhà
Thủy chung giữ vẹn lời nguyền
Sáu mươi tuổi vẫn trọn duyên tình nồng
Vân hà huy ánh thiên niên hạc
Vũ lộ nhuận tư cửu uyển lan
(Tuổi hạc ngàn năm bừng mây sáng
Sắc lan chín chục đẫm sương trong)
Tuế số bát tuần nhân vị lão
Gia truyền thiên tải phúc vô biên
(Tám chục tuổi đời, người vẫn trẻ
Ngàn năm gia tộc, phúc vô biên)
Lan quế cụ phương phùng thịnh thế
Xuân huyên tịnh mậu hưởng cao linh
(Lan quế ngát thơm mừng đời thịnh
Xuân huyên tươi tốt hưởng thọ cao)
“Xuân tha hương sầu thương về quê mẹ
Tết xa nhà buồn bã nhớ quê cha”
“Xuân đáo hoa khai tài như ý
Hạ lai thịnh vượng phúc mãn đường
Thu khứ bình an lộc đắc chí
Đông hồi tứ quý thọ an khương.”
“Trúc báo bình an tài lội tiến
Mai khai phú quý lộc quyền lai.”
“An khang phú quý thái thái bình
Bách lão bá niên trường trường thọ”
“Phúc đầy nhà năm thêm giàu có
Đức ngập tràn ngày mộc vinh hoa”
“Ngày xuân hạnh phúc bình an đến
Năm mới vinh hoa phú quý về ”
“Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp mọi nơi phúc khắp nhà”
Tứ đức câu toàn phùng cửu trật (Tứ đức vẹn toàn lên chín chục)
Tam đa hàm bị chúc thiên thu (Tam đa đầy đủ chúc ngàn năm)
Cửu tuần hạc phát đồng kim mẫu (Chín mươi tóc hạc cùng kim mẫu)
Thất trật ban y học lão Lai (Bảy chục áo hồng học lão Lai)
Nhân thượng chinh đồ tâm bất lão (Người bước chặng dài lòng tươi trẻ)
Chí triều phong đỉnh cảnh trường xuân (Chí nhìn đỉnh chót cảnh thanh xuân)
Thọ đồng tùng bách thiên niên bích (Thọ như tùng bách ngàn năm biếc)
Phẩm tự chi lan nhất vị thanh (Đức tựa chi lan một đời trong)
Kim nhật chính phùng huyên thảo thọ (Hôm nay đúng gặp ngày sinh mẹ)
Tiền thân hợp thị hạnh hoa tiên (Kiếp trước hẳn là hạnh hoa tiên)
Niên chu hoa giáp vinh dao đảo (Tuổi tròn hoa giáp thơm danh tiếng)
Đình trưởng chi lan ánh ngọc đường (Sân mọc chi lan rạng cửa nhà)
Đường Sán trường canh Trưng thượng thọ (Nhà rạng tuổi cao lên thượng thọ)
Danh đăng sĩ tich thí hồng tài (Tên nêu bảng sĩ thử tài năng)
Đường bắc huyên hoa vinh trú cẩm (Nhà bắc hoa huyên tươi vẻ gấm)
Giai tiên quế tử phún thiên hương (Trước thềm cây quế tỏa hương trời)
Lĩnh thượng Mai hoa báo hỉ tín (Hoa mai đầu núi báo tin vui)
Đình tiền xuân thụ hộ phương linh (Cây xuân sân trước nâng cao tuổi)
Nguyện từ mẫu thiên niên bất lão (Mong mẹ hiền ngàn năm vẫn trẻ)
Chúc tùng bách vạn tải trường thanh (Chúc tùng bách muôn thuở còn xanh)
Hoa giáp sơ chu mậu như tùng bách (Hoa giáp vòng đầu, tốt như tùng bách)
Trường canh lãng diệu khánh dật quế lan (Lâu dài rực rỡ, tươi đẹp quế lan)
Tiền thọ ngũ tuần hựu nghinh hoa giáp (Đã thọ năm tuần lại thêm hoa giáp)
Đãi diên thập tuế tái chúc cổ hi (Đợi tròn chục nữa, sẽ chúc cổ hi)
Tam thiên tuế nguyệt xuân thường tại (Ba ngàn năm tháng xuân thường trú)
Thất thập phong thần cổ sơ hi (Bảy chục còn tươi cổ vốn hi)
Hưu từ khách lộ tam thiên viễn (Đừng ngại đường khách ba ngàn xa)
Tu niệm nhân sinh thất thập hi (Nên biết trên đời bảy chục hiếm)
Thử nhật huyên đình đăng thất trật (Ngày ấy nhà huyên nên bảy chục)
Tha niên lãng uyển chúc kỳ di (Năm khác vườn tiên đợi chúc thăm)
Nguyệt mãn quế hoa diên thất lý (Hoa quế trăng rằm hương bảy dặm)
Đình lưu huyên thảo mậu thiên thu (Cỏ huyên sân trước tốt ngàn năm)
Kim quế sinh huy lão ích kiện (Quế vàng rực rỡ già thêm mạnh)
Huyên đường trường thọ khánh hy niên (Nhà huyên trường thọ, chúc hiếm người)
Niên qúa thất tuần xưng kiện phụ (Tuổi ngoại bảy tuần khen cụ khỏe)
Trù thiêm tam thập hưởng kỳ di (Còn thêm ba chục lộc trời cho)
Vị thuỷ nhất can nhàn thí điếu (Bên giòng sông Vị thả câu chơi)
Vũ lăng thiên thụ tiếu hành chu (Rừng rậm Vũ Lăng cười thuyền dạo)
Bát tuần thả hiến dao trì thụy (Chốn Dao trì tám mười hiến thụy)
Kỷ đại đồng chiêm Bảo vụ huy (Chòm Bảo vụ mấy thuở cùng xem)
Bát trật khang cường xuân bất lão (Tám chục chưa già xuân vẫn mạnh)
Tứ thời kiện vượng phúc vô cùng (Bốn mùa khỏe sức phúc vô cùng)
Cửu trật tằng lưu thiên tải thọ (Chín chục hãy còn ngàn tuổi thọ)
Thập niên tái tiến bách linh thương (Mười năm lại chúc chén trăm năm)
Cửu thập xuân quang đường tiền hoạt Phật (Chín chục mùa xuân, trong nhà Phật sống)
Tam thiên giáp tý sơn thượng linh xuân (Ba ngàn giáp tý, trên núi xuân thiêng)
Thiên biên tương mãn nhất luân nguyệt (Chân trời rực rỡ một vành nguyệt)
Thế thượng hoàn chung bách tuế nhân (Dưới đất chuông mừng người chẵn trăm)
Cổ hy dĩ thị tầm thường sự (Đã nhàm câu nói: xưa nay hiếm)
Thượng thọ vưu đa Bách tuế nhân (Trăm tuổi ngày nay đã lắm người)
Gia trung tảo nhưỡng thiên niên tửu (Trong nhà sớm ủ rượu ngàn năm)
Thịnh thế trường ca bách tuế nhân (Đời thịnh luôn khen người trăm tuổi)
Nguyệt ế quế hoa diên thất trật (Hoa quế trăng soi mừng bảy chục)
Đình lưu huyên thảo mậu thiên thu (Cỏ huyên sân mọc rậm ngàn thu)
Huyên vinh bắc địa niên hy thiểu (Cỏ huyên đất bắc năm chừng ngắn)
Vụ hoán nam thiên nhật chính trường (Sao vụ trời nam ngày vấn dài)
Bích hán vụ tinh huy thất trật (Sao vụ sông Ngân sáng bảy chục)
Thanh dương huyên thảo mậu thiên thu (Cỏ huyên trời rạng rậm ngàn thu)
Tửu nhưỡng đồ tô thương thất trật (Rượu ngọt bày ra mừng bảy chục)
Đào khai độ sóc chúc tam thiên (Hoa đào chớm nở chúc ba ngàn)
Cáo bí ngũ hoa đường liên tứ đại (Rực rỡ năm màu nhà liền tứ đại)
Thương xưng cửu nguyệt phúc diễn tam đa (Rượu mừng tháng chín phúc đủ tam đa)
Cúc tửu khánh hy linh, tam tử hỷ canh tam chúc (Tuổi hiếm xưa nay, rượu cúc ba con mừng ba chén)
Huyên hoa thi cẩm thuế, cửu thu tần tụng cửu như (Khăn thêu rực rỡ hoa huyên chín tháng chúc chín như) (Tháng chín thọ, sinh ba con)
Thọ khánh bát tuần quang cẩm thuế (Thọ chúc tám tuần khăn rực rỡ)
Thời phùng ngũ nguyệt tuý bàn đào (Năm qua năm tháng rượu bàn đào)
Tứ đại ban y vinh điệt thọ (Bốn đời áo đỏ mừng thêm thọ)
Bát tuần bảo vụ khánh hà linh (Tám chục vụ tinh chúc tuổi cao)
Vụ tinh hiến huy tăng thu sắc (Sao vụ sáng ngời đẹp vẻ thu)
Huyên thảo phu vinh khánh điệt niên (Cỏ huyên thắm sắc mừng cao tuổi)
Huyên thảo điệt linh thiêm tú sắc (Cỏ huyên năm tháng thêm tươi đẹp)
Lê viên khách thọ bá huy âm (Vườn lê chúc thọ rộn âm thanh)
Thu dạ vụ tinh huy khúc chính (Sao vụ đêm thu ngời vẻ sáng)
Điệt niên huyên thảo khánh hà linh (Cỏ huyên năm tháng chúc lâu dài)
Bát tuần thả hiến dao trì thụy (Dao trì hiến điềm lành tám chục)
Tứ đại đồng chiêm Bảo vụ huy (Bảo vụ cùng soi tỏ bốn đời)
Huyên thảo phu vinh thọ diên bát trật (Cỏ huyên tươi tốt, tiệc thọ tám mươi)
Vụ tinh hoán thái khánh diễn thiên thu (Sao vụ sáng ngời chúc mừng ngàn tuổi)
Bát trật hoa diên hân vũ thái (Tám chục tiệc hoa mừng múa đẹp)
Thiên niên Bảo vụ hỷ sinh huy (Ngàn năm Bảo vụ rạng niềm vui)
Thịnh thế trường thanh thụ (Đời thịnh cây xanh mãi)
Bách niên bất lão tùng (Trăm năm tùng chẳng già)
Bách thuý tùng thương hàm ca ngũ phúc (Bách biếc, tùng xanh ngợi ca năm phúc)
Xuân vinh huyên mậu đồng chúc bách linh (Xuân tươi, huyên rậm, cùng chúc trăm tròn)
Thanh tùng tăng thọ niên niên thọ (Tùng xanh tăng thọ, năm thêm thọ)
Đan quế phiên hương hộ hộ hương (Quế đỏ hương bay, khắp chốn hương)
Tuế tự canh tân thiên thọ khảo (Năm dần đổi mới, tăng tuổi thọ)
Giang sơn cạnh tú hiển anh tài (Núi sông đua đẹp, rõ anh tài)
Báo quốc bất sầu sinh bạch phát (Báo nước chẳng buồn khi tóc bạc)
Độc thư na khẳng phụ thương sinh (Học chăm đừng phụ lúc đầu xanh)
Bạch phát chu nhan nghi đăng thượng thọ (Tóc bạc da mồi, cần lên thượng thọ)
Phong y túc thực lạc hưởng cao linh (Đủ ăn đủ mặc, vui hưởng tuổi cao)
Đường lệ tề khai thiên tải hảo (Đường, lệ nở hoa ngàn thuở đẹp)
Cần kiệm khởi gia do nội trở (Cần kiệm dựng nhà nhờ nội trợ)
Khang cường đáo lão hữu dư nhàn (Khang cường vào lão được an nhàn)
Phượng hoàng chi thượng hoa như cẩm (Trên cành hoa gấm Phượng Hoàng đậu)
Tùng cúc đường trung nhân tịnh niên (Trong nhà người thọ cúc tùng xanh)
Niên hưởng cao linh xuân huyên tịnh mậu (Trời cho tuổi thọ, xuân huyên đều tốt)
Thời phùng thịnh thế lan quế tế phương (Gặp thời thịnh trị, lan quế cùng thơm)
Bàn đào bổng nhật tam thiên tuế (Bàn đào ngày hội, ba ngàn năm)
Hãy chọn cho mình câu chúc hay và ý nghĩa nhất để gửi đến ông bà, các cụ cao tuổi nhé. Đừng quên lưu lại bài viết để dùng khi cần.
một trong những cách phụng dưỡng mà bạn không phải tốn nhiều thời gian công sức mà vẫn tỏ được lòng hiếu thảo của mình.

Trong cuộc sông, để thuận lợi cho sinh hoạt giải trí và mang lại cho người già giấc ngủ ngon, khi bố trí phòng ngủ của người già cần chú ý những điểm sau đây:
– Phòng ngủ cho người già phải yên tĩnh và có ánh nắng:
Theo tâm sinh lý, người già thích ánh sáng mặt trờiể Mặt khác, người già có thời gian ở nhà dài nhất nên phải bố trí phòng ngủ ở nơi có nhiều ánh nắng để họ có thể ngồi trong nhà mà vẫn hấp thụ được ánh sáng mặt trời.
Người già thường ít ngủ, khi ngủ cần phải có một không gian tuyệt đối yên tĩnh vì vậy cần phải bố trí phòng ngủ của người già ở nơi khuất nẻo, môi trường sạch sẽ, tĩnh lặng, cách xa phòng khách và phòng ăn, không quá xa phòng ngủ của người nhà để khi họ cần giúp đỡ bạn có thể đến kịp thời. Nếu bạn ở nhà tầng thì nên để phòng của người già ở tầng một, tránh cầu thang.
ý4
Bố trí phòng ngủ của người già ở phía Nam hoặc phía Đông là hợp với yêu cầu này.
Do đặc điểm sinh lý, người già hay dùng nhà vệ sinh, do đó cần bố trí nhà vệ sinh độc lập để người già dùng cho thuận tiện.
– Làm cho người già cảm thấy thoải mái nhất
Khi về già, xương cốt sẽ bị canxi hoá, trở nên cứng
và giòn, rất dễ gãy vì vậy khi trang trí phòng ngủ cho người già cần hết sức cẩn thận khi lựa chọn chất liệu, hình dáng, thậm chí là vị trí sắp xếp của đồ nội thất, tránh đặt các đồ vật cứng và có góc cạnh ở những nơi người già hay lui tới, đi lại. Những đồ vật họ thường hay sử dụng như ghế phải sắp xếp cố định sao cho họ cảm thấy thoải mái dễ chịu. Những đồ vật bày trên bàn cần để trong tầm với của người già để tiện sử dụng. Để tập trung tại một khu vực nhất định những đồ vật người già thường hay sử dụng.
– Tạo một không gian sáng nhưng không quá chói
Thị giác của người già không nên bị kích thích quá
mạnh. Sự phôi hợp màu trong phòng của người già phải lấy gam màu nhạt, dịu nhẹ. Đối với ánh sáng nên chọn cách có thể lợi dụng được ánh sáng tự nhiên để tạo ra một không gian sáng sủa mà vẫn dịu nhẹ.
g những trường hợp như vậy, việc chuyển đổi hướng khí nhờ hướng của ban thờ là giải pháp phong thuỷ dễ dàng áp dụng để xứ lý tối ưu nhất.
Những ngôi nhà rộng rãi có điều kiện dành một phòng làm phòng thờ cần áp dụng theo phép phong thủy:

1. Phòng thờ đặt ở nơi cao nhất, yên tĩnh nhất, trang nghiêm nhất trong ngôi nhà hay căn hộ
Trang trí phòng thờ ngoài một số đồ phong thủy cần thiết làm tăng sự tôn kính và tâm thức tâm linh của gia đình không treo tranh ảnh hay đồng hồ.
2. Ánh sáng phòng thờ nên mờ ảo bằng các bóng đèn đó với số công suất thâp để thắp sáng liên tục.
Không dùng các bóng đèn dài ne-ông bật sáng liên tục làm mất khung cảnh thâm nghiêm nơi thờ cúng; là tăng khí dương không phù hợp với nơi cần khí âm nhiều.
3. Đồ thờ cũng cần lưu tâm với các thứ thông dụng theo phong tục như:
Bát nhang, lư hương, mâm bồng, cây nến (bộ tam sự) bài vị hoặc ảnh người quá cố, bức đại tự, câu đối, hoành phi. Không để các thứ lung tung trên bàn thờ ngoài sách kinh, chuông mõ nếu cần.
Không có nhiều thứ hung khí tạo nên tâm lý sợ sệt khi vào một mình.
4. Phòng thờ tuy u tịch nhưng luôn gây tâm lý được phù hộ che chở, mỗi khi bước vào trong lòng thấy yên bình, tâm tịnh, được tháo gỡ các âu lo qua lời kêu cầu tụng niệm ông bà tổ tiên.
Năm 2021 mệnh gì? Năm 2021 là năm Tân Sửu, nạp âm Bích Thượng Thổ. Với những người đang có ý định sinh con trong năm này thì nên theo dõi ngay những đặc điểm chính về tử vi của tuổi để chọn lựa năm ra đời đẹp nhất cho em bé của mình.
![]() |
![]() |
| ► Mời các bạn tham khảo: Văn khấn ngày Rằm mùng một và Văn khấn Thần tài thổ địa theo truyền thống |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Sơn Phương
Trong bài trước tôi đã có dịp trình bầy cùng quý độc giả sao Tử vi qua 12 cung để tìm hiểu về tướng mạo, nay xin bàn lần lượt các chính tinh khác thuộc nhóm sao Tử vi, rồi mới tới sao Thiên Phủ để cho khỏi lộn xộn. Và trước khi thảo luận tiếp tôi cần nêu ra một điểm mà tôi đã quên không đề cập tới trong bài trước để tránh mọi sự lầm lẫn đối với những bạn mới biết tử vi: khi tôi nói Tử vi cư Tý, Sửu…tức là phải hiểu rằng Mệnh đóng tại cung đó, chứ không phải cung nào khác, kể cả cung có “Thân”, vì Mệnh mới là vai trò chính. Nhiều người coi tử vi cứ cho rằng có thể xét “thân” để tìm ra hình dáng đích thực sau khi phối hợp với Mệnh. Kể ra cũng có phần hợp lý, nhưng dù sao lúc sinh ra đời tướng dạng con người được thể hiện ở cung mệnh, cho nên về sau (từ 30 tuổi trở đi) “Thân” chỉ làm thay đổi phần nào thể xác, hình dáng con người mà thôi, nghĩa là một người gầy có thể thành mập, trắng có thể thành đen, nhưng thấp không thể thành cao được, hoặc đã có nước da đen rồi thì khó trở nên trắng.
Vậy trong bài này tôi vẫn theo cách thức cũ, nghĩa là không cần nêu rõ là cung Mệnh để khỏi nhắc đi nhắc lại nhiều lần thêm rườm rà. Sao tôi tiếp tục bàn tới là Liêm Trinh.
- Liêm Trinh cư Tý: khi sao này cư Tý bao giờ cũng có Thiên Tướng đồng cung, xung chiếu có Phá Quân (tọa thủ tại cung Ngọ) và hợp chiếu có Tử Phủ (cư Thân), Vũ Khúc (cư Thìn). Ở cung này Liêm trinh (Hỏa) không phát huy được năng lực vì bị thủy của cung kết hợp với thủy của Thiên Tướng lấn át hết, và do đó Thiên Tướng coi như ảnh hưởng mạnh tại cung này. Vì vậy nói chung người nào có Liêm Trinh cư Tý thường thường cao, vẻ mặt uy nghi, hơi dài, lông mày hơi xếch, thân hình không được mập mấy nhưng không gọi là gầy ốm được, nước da hơi ngăm ngăm. Đó là nói tổng quát, vì còn cần phối hợp với ngũ hành của mệnh cùng các sao phụ nữa. Thí dụ người mạng Hỏa, Thổ thì vẫn cố bám lấy Liêm Trinh cho nên không cao nhiều được mà còn gầy dài ra: người mạng Kim, Thủy, Mộc thì chịu ảnh hưởng nhiều của Thiên Tướng với sự trợ lực của Phá Quân xung chiếu (tôi không nói tới các sao hợp chiếu vì ảnh hưởng không mạnh mẽ về tướng dạng) nên cao thêm và người đầy đặn hơn. Còn về sao phụ nếu có Đào Hồng chẳng hạn thì nước da vẫn có thể trắng trẻo được, nhất là đối với phụ nữ, và lại còn thêm chút “da thịt” nữa; nếu chẳng may có thêm Không Kiếp, Hỏa Linh thì khó lòng trắng được, mà lại còn gầy bớt đi nhiều. Còn trường hợp có Khôi Việt thì thực là con người “có tướng” lắm, lại còn đẹp trai nữa; đối với phụ nữ cũng khá kiều diễm nhưng không hợp bằng phía nam…
- Liêm Trinh cư Sửu: Nếu Liêm Trinh cư tại cung này bao giờ cũng có Thất Sát đồng cung, xung chiếu có Thiên Phủ (cư Mùi) hợp chiếu có Tử Tham (Dậu), Vũ Phá (Tỵ) (tôi vẫn nêu ra các sao hợp chiếu mà không bàn tới mục đích để quý bạn nhớ rõ cách cục cố định của các chính tinh qua 12 cung). Ở cung nầy tuy không bị khắc nhưng Liêm Trinh cũng vẫn bị yếu, vì Hỏa sinh cung Thổ là sinh xuất, trong khi Thất Sát là Kim lại được cung (Thổ) sinh và sao Thiên Phủ (Thổ) nuôi dưỡng thêm, cho nên tuy bàn tới Liêm Trinh mà thực ra Thất Sát đóng vai trò chính. Do đó về hình dáng, người nào có Liêm Trinh cư Sửu thế nào cũng phải gầy, trừ phi có các sao phụ như Quan Phúc, Đào Hồng…đồng cung thì mới giảm bớt được phần nào, chứ nếu có Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp, Kiếp Sát…thêm vào thì thực là “gầy đét như cá mắm”. Ngoài ra nước da cũng không trắng, có thể nói là đen, và lại ít khi có nhan sắc, đối với phái nam tương đối đỡ xấu hơn, chỉ vì vẻ mặt lúc nào cũng u buồn (nhất là khi có thêm Tang Hổ, Khốc Hư…) như muốn khóc, có nhiều khi lại hay nhăn nhó. Trường hợp này người mạng Hỏa lại đỡ bị ảnh hưởng của Thất Sát, như thế là hay hơn về phương diện diện mạo (rất có thể kém hay về phương diện công danh, tài lộc chẳng hạn, nhưng đó là vấn đề khác) còn người mạng Kim hay Thủy thì nhất định là có vẻ mặt khó thương nổi.
- Liêm Trinh cư Dần: Trường này Liêm Trinh độc thủ tại cung Dần (tức là không có chính tinh nào khác đồng cung), xung chiếu có Tham Lang (cư Thân) hợp chiếu có Tử vi Thiên Tướng (cư Tuất) và Vũ Khúc, Thiên Phủ (cư Ngọ). Khi Liêm Trinh cư Dần tôi thấy câu phú tổng quát ứng nghiệm nhiều (miệng rộng cổ cao) vì lúc đó sao này một mình tung hoành, huống chi lại được cung (Mộc) sinh sao. Ngoài điểm miệng rộng, cổ cao, tôi cần thêm là tay chân, mặt cũng dài rõ rệt, giống như con cò hương vậy. Tôi chưa thấy ai có Liêm Trinh cư Dần lại lùn và mập (trừ phi sai giờ sanh là chuyện khác) dù có các sao phụ chế hóa đi chăng nữa, nhất là đối với người mạng Hỏa hoặc Thổ lại càng ứng nghiệm nhiều. Người mạng Thủy hoặc Kim tuy ít bị ảnh hưởng của Liêm Trinh nhưng lại chịu ảnh hưởng của Tham Lang cũng là sao có chiều cao cho nên cũng không khác được nhiều. Vì vậy ta không thể nào cho người có Liêm Trinh cư Dần lại đẹp đẽ về bề ngoài được, dù cho vẻ mặt cũng có khi duyên dáng, dễ coi, nhưng khi nhìn tới thân hình thì dù gái hay trai cũng lòng ngồng xấu xí, thiếu sự cân đối, nhất là con gái mà ứng về miệng rộng thì sợ các cụ chê là “tan hoang cửa nhà” mất. Do đó nếu chẳng may ở trường hợp Liêm Trinh cư Dần thì rất cần có nhiều sao phụ chủ về mập đồng cung hay xung chiếu cho giảm bớt chiều cao đi và cần tránh được những sao làm gầy thêm.
- Liêm Trinh cư Mão: Liêm Trinh trong trường hợp này phải đồng cung với Phá quân xung chiếu có Thiên Tướng (Dậu), hợp chiếu (Mùi), Tử vi Thất Sát (Hợi). Ở cung Mão (mộc) Liêm Trinh lại được tung hoành nữa, nhất là có Phá Quân (Thủy) dưỡng cung Mộc để cung này sinh Liêm Trinh mạnh mẽ thêm. Do đó, người nào có Liêm Trinh cư Mão thế nào cũng cao lớn lắm, có khi cũng khá mập (nhất là về già) nhưng dù sao vẫn không lấn át được chiều cao, thành ra trông vẫn là gầy.
Tuy thật là cao nhưng may nhờ có vai rộng và cũng không gầy lắm (lúc trẻ tuổi vẫn gầy) nên về hình dáng tổng quát vẫn có vẻ trội hơn Liêm Trinh cư Dần nhiều. Nhưng đối với phụ nữ không nên có Liêm Trinh cư Mão vì người Việt Nam mình, nhất là các cụ, ít ai ưa con gái cao lênh khênh. Chẳng thế mà các cụ có câu “dài lưng tốn vải, ăn co lại nằm” đấy sao. Còn đối với phái nam lại rất hay, vì nếu làm lớn trong xã hội trông người cao và to thật là bệ vệ, khỏi sợ ai chê (nhất lé nhì lùn)…” Ngoài ra, tôi còn xin nói thêm là phái nam trong trường hợp Liêm Trinh cư Mão thường có trán rất cao và khi già hay bị hói, đến nỗi trông từ đằng xa cũng đã nhận thấy cái trán rồi. Còn đối với phụ nữ điểm này tôi không bao giờ thấy ứng nghiệm, cũng là may cho họ. Về vẻ mặt nhan sắc, thì chỉ có phái nam được lợi vì tôi nghiệm thấy nhiều người rất bảnh trai, duyên dáng, nhưng đa tình lắm (lúc đó Liêm Trinh thật đúng là sao Đào hoa thứ hai).
- Liêm Trinh cư Thìn: Nếu cư cung này phải có Thiên Phủ đồng cung xung chiếu có Thất Sát (Tuất), hợp chiếu có Vũ Tướng (Thân) Tử Vi (Tý). Ở cung Thìn là Thổ nên Liêm Trinh vừa sinh sao Thiên Phủ cho nên bị yếu hẳn đi và nhường chỗ cho Thiên Phủ phát huy năng lực của mình đến mức tối đa. Vì vậy đối với người mạng Thổ và Kim khó có thể cao và gầy ốm nhưng cũng không mập được nhiều vì dù sao Liêm Trinh cũng cản lại phần nào, hơn nữa gương mặt cũng vẫn thấy hơi dài hoặc cằm hơi nhọn một chút. Về nước da tương đối trắng hơn và nhan sắc, diện mạo cũng dễ coi hơn các trường hợp khác, nhưng không phải đẹp một cách lộng lẫy, duyên dáng mà đẹp một cách nghiêm trang và hơi kiêu kỳ. Đối với người mạng Thủy thì không được như vậy, vì chẳng hợp với Thiên Phủ mà cũng chẳng chịu ảnh hưởng của Liêm Trinh, thành ra sao Thất Sát xung chiếu tự nhiên đóng vai trò chính, do đó người này thường thường gầy gò, cũng hơi cao, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt kém tươi tỉnh. Còn người mạng Hỏa và Mộc thì trung dung, nghĩa là ở giữa hai loại người kể trên, quý bạn cứ việc phối hợp mà đoán.
- Liêm Trinh cư Tỵ: Luôn luôn có Tham Lang đồng cung trong trường hợp này, xung chiếu không có chính tinh vì cung Hợi vô chính diệu, hợp chiếu có Vũ Sát (Dậu), Tử vi Phá quân (Sửu). Nếu nói riêng về Liêm Trinh ở cung này (hỏa) thì Liêm Trinh cũng tung hoành được, nhưng vì có Tham Lang là Thủy làm hỏa giảm bớt đi cho nên dáng người không cao được nhiều và cũng không gầy và dài theo đặc tính của Liêm Trinh vì Tham Lang làm cho mập ra và có chiều cao vừa phải, nhưng mập ra đây chỉ có nghĩa làm cho thân hình vạm vỡ chứ không bao giờ béo bệu dù cho có thêm các sao phụ chỉ về mập. Và ngược lại dù cho có gặp sao gầy ốm (như Đại tiểu hao, Kiếp sát, Hỏa Linh…) thân hình vẫn không bị coi là gầy, có khi trông lại thon đẹp hơn. Tuy nhiên, người mạng Thủy thường đẫy đà hơn người mạng Hỏa và các người mạng khác thì trung bình, còn về chiều cao thì bất cứ mạng nào cũng chỉ tầm thước thôi vì cả hai sao Liêm Tham đều không cao lắm, và cung xung chiếu lại không có chính tinh nào để chế hóa hoặc ảnh hưởng thêm cho các mạng thuộc ngũ hành khác. Do đó, tôi đã nghiệm thấy nhiều người trong trường hợp này có thân hình rất vừa, nếu tập thể thao thêm lại còn đẹp hơn, nhưng đương nhiên vẻ đẹp này không có tính cách nho nhã (vì thường phải hoạt động nhiều bằng tay chân dù thuộc hạng trí thức) mà cũng chưa phải có vẻ lực sĩ. Đó là nói về phái nam, còn phụ nữ nếu có Liêm Trinh tại Tỵ cũng rất hợp về phương diện hình dáng (tôi không nói đến khía cạnh khác có thể coi là hơi bất lợi), thân hình dễ cân đối và nở nang, đầy đặn.
- Liêm Trinh cư Ngọ: về cách bố cục của chính tinh cũng giống như trường hợp cư Tý, nghĩa là có Thiên Tướng đồng cung, xung chiếu có Phá quân, hợp chiếu có Tử Phủ (Dần), Vũ Khúc (Tuất). Tuy các sao chính bố cục y hệt nhau nhưng hình dáng vẫn không thể giống nhau hoàn toàn được (vì thế không bao giờ ta có thể áp dụng một câu phú về một chính tinh để luận hình dáng cho đúng được)
Ở cung Ngọ Liêm Trinh lấn áp được Thiên Tướng vì cung Ngọ thuộc Hỏa nên hợp với Liêm Trinh mà kỵ Thiên Tướng, và do đó Phá quân ở ngoài cũng không trợ lực được cho Thiên Tướng để chế ngự Liêm Trinh. Vì vậy hình dáng bị Liêm Trinh chi phối nhiều nên gầy hơn, gương mặt cũng dài hơn, nhất là đối với người mạng Hỏa, Mộc, nhưng nước da không được trắng mấy, nếu có Không Kiếp đương nhiên là đen. Tuy vậy vẫn có thể khả ái được nhờ có chút ảnh hưởng của Thiên Tướng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Xương Khúc, Đào Hồng…
- Liêm Trinh cư Mùi: Cách bố cục sao cũng như Liêm Trinh cư Sửu (để cho khỏi dài dòng từ cung này trở đi tôi chỉ nêu ra đơn sơ như vậy). Về cách phân tách sự khác nhau, quý bạn cứ theo như trường hợp Liêm Trinh cư Ngọ để suy luận; tôi chỉ nói thẳng về hình dáng để khỏi choán nhiều chỗ trong KHHB. Tuy nhiên riêng về trường hợp cư Mùi vì cung này cũng thuộc Thổ như cung Sửu nên cũng chẳng tìm ra được gì khác biệt, nếu có chẳng qua vì ảnh hưởng của các sao phụ. Do đó tôi tạm coi hình dáng của Liêm Trinh cư Mùi cùng một loại với Liêm Trinh cư Sửu. Rất có thể có những nhà tử vi giỏi đã tìm ra được những dị biệt, nhưng đó lại là vấn đề khác.
- Liêm Trinh cư Thân: Cũng như Liêm Trinh cư Dần về cách bố cục các chính tinh. Ở cung này tương đối hình dáng không cao lòng ngòng, chân tay và mặt cũng không dài như Liêm Trinh cư Dần vì Tham Lang đã “cướp ngôi” Liêm Trinh rồi. Tuy nhiên, phải người mạng Kim, Thủy mới đỡ, chớ còn những người mạng khác vẫn bị ảnh hưởng sao Liêm Trinh nhiều. Phụ nữ ở trường hợp này tương đối còn khá hơn trường hợp cư Dần, thân hình có thể đầy đặn được một chút.
- Liêm Trinh cư Dậu: Vị trí của các chính tinh cũng y hệt Liêm Trinh cư Mão. Tuy hai cung Mão Dậu thuộc ngũ hành khác nhau nhưng về hình dáng vẫn khá giống nhau, nghĩa là vẫn cao lớn, vai rộng, trán cao (và nói về già). Chỉ có điểm là nước da sáng và mịn hơn trường hợp cư Mão.
- Liêm Trinh cư Tuất: Quý bạn có thể tạm coi như giống trường hợp cư Thìn vì hai cung đều thuộc thổ. Đây tôi chỉ nói về hình dáng giống nhau chứ thực ra về các phương diện khác không thể giống nhau được.
- Liêm Trinh cư Hợi: Cũng giống như Liêm Trinh cư Tỵ về cách bố cục các chính tinh, nhưng hình dáng của người có Liêm Trinh cư Hợi vạm vỡ dễ dàng hơn và gương mặt cũng phúc hậu, đầy đặn hơn. Chỉ có giống nhau về tầm thước và nước da.
Bài hôm nay về chính tinh Liêm Trinh được chấm dứt nơi đây và nhân dịp này tôi cần nêu ra sớm một điều chung cho tất cả những bài thuộc về tướng mạo, hình dáng: quý bạn hẳn đều nhận thấy rằng giải đoán hình dáng tổng quát (như cao, thấp, mập, ốm, đen, trắng…) còn dễ dàng chứ tìm hiểu về nhan sắc, vẻ đẹp của phái nam cũng như nữ rất khó khăn vì nhiều khi thấy nhiều yếu tố không thuận lợi cho sắc đẹp mà trên thực tế đương số vẫn bảnh trai hoặc mỹ miều, rất có thể chỉ vì một vài yếu tố khác trong tử vi đã chế hóa đi mà mình tìm không ra. Ngược lại cũng vậy, tôi đã từng thấy những lá số phụ nữ rất diễm lệ mà bề ngoài thực tế lại làm cho mọi người thất vọng. Tôi xin lấy một thí dụ đơn giản: Đồng Lương cư Dần hội Đào Hồng, Khôi Việt ai mà chẳng cho là đẹp, là trắng trẻo, duyên dáng, thân hình đầy đặn, nẩy nở, cân đối, nhưng trên thực tế đương số bị trán gồ, răng vổ và mắt hơi lé thì các yếu tố đẹp trên kia làm sao mà khen. Vẫn biết rằng một nhà tử vi giỏi phải tìm hết mọi khía cạnh để cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết đoán về nhan sắc, nhưng điều đó mấy ai đã đạt được. Vì vậy về phương diện vẻ đẹp quý bạn cần phải thận trọng lắm, chứ đừng áp dụng một cách mù quáng những điều tôi đã nêu ra, những điều này chỉ nên coi là một ước lệ tương đối mà thôi.
KHHB số 41
Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:

Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!
Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:

Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.
Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Nguyễn Cường
Sacto 1/ 2003
Giỗ tổ Hùng Vương từ lâu đã trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc, in đậm trong tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ tổ, đều hướng về vùng đất xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt. Từ ngàn đời nay, đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
|
| Lễ hội đền Hùng |
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Lễ hội đền Hùng có đặc thù là phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc.
41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ) tham gia rước kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới.
Xưa kia, việc cúng tổ cử hành vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước 1 ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn 1 lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm.
Những năm hội chính thì phần lễ gồm phần tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng.
Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo - 2 làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất này.
Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.
Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức tổ tiên.
(Theo Vietbao)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
(1) Cách lắp đặt bình nước nóng dùng gas
– Bình nước nóng phái lắp bên ngoài phòng tắm, ở chỗ thông khí tốt.
– Lắp ở nơi để thao tác sử dụng và thuận tiện khi kiểm tra báo dưỡng, nhưng khó bị va chạm, hai bên bình có khoảng trống 20cm để tiện cho phòng hoả và thao tác sử dụng, bảo dưỡng.

– Cần lắp ổng khói, khoảng cách giữa ống khói và trần nhà phải trên 20cm; ống dẫn khói phải vươn ra bên ngoài nhà và phải có nón che đầu ống. Nếu như bình nước nóng bắt buộc phải lắp ở chỗ vách dễ cháy thì phải có tấm cách nhiệt hoặc tấm chống cháy để bảo đảm an toàn.
– Khi chọn địa điểm lắp đặt phải xem xét đến áp lực nguồn nước, nếu áp lực nước quá thấp có thể do tác dụng của van liên động thuỷ khí không tốt làm cho thiết bị đốt hoạt động không bình thường. Nơi lắp bình nước nóng phải cách xa vật dỗ cháy.
– Sử dụng van giảm áp và ống dẫn khí đốt có chất lượng tốt, đúng tiêu chuẩn; dựa theo hướng dẫn ghi trên tem dán ở mặt dưới bình, lắp chính xác ống nước lạnh, ống nước nóng và cửa khí đốt vào.
– Cách 30cm phía trên bình nước nóng khí gas không được có đường dây điện hay thiết bị điện hoặc vật dễ cháy. Khoảng cách chuẩn giữa bình nước, đồng hồ báo gas, thiết bị điện cần là 30cm. Khoảng cách giữa cửa ống khói bình nước nóng kiểu đứng và trần nhà không được dưới 60cm.
– Lắp bình nước nóng phải do nhân viên chuyên môn thực hiện, sau khi kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn mới có thế sử dụng.
(2) Cách sử dụng an toàn bình nước nóng khí gas
– Trước khỉ sử dụng, kiểm tra xem có các hiện tượng rò khí, rò nước không. Nếu phát hiện hiện tượng không bình thường cần đóng ngay van tổng hệ thống gas, báo cho công ty hoặc nhân viên chuyên môn biết để xử lý, cấm không được sứ dụng ép.
– Khi sử dụng bình nước nóng, không được đóng kín toàn bộ cửa sổ trong nhà, có không gian giãn cách giữa bình nước nóng và nơi tắm, không được đóng kín lỗ thông hơi trên tường, giữ lưu thông không khí giữa cửa sổ vào lồ thông hơi.
– Để sử dụng bình nước nóng được an toàn, không được tự ý tháo lắp bình, bình nước nóng nếu trong thời gian dài không dùng thì phải đóng chặt van gas lại.
![]() |
| Năm sinh | Mệnh | Ý nghĩa |
| 1948, 1949, 2008, 2009 | Tích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét |
| 1950, 1951, 2010, 2011 | Tùng Bách Mộc | Cây tùng bách |
| 1952, 1953, 2012, 2013 | Trường Lưu Thủy | Dòng nước lớn |
| 1954, 1955, 2014, 2015 | Sa Trung Kim | Vàng trong cát |
| 1956, 1957, 2016, 2017 | Sơn Hạ Hỏa | Lửa dưới chân núi |
| 1958, 1959, 2018, 2019 | Bình Địa Mộc | Cây ở đồng bằng |
| 1960, 1961, 2020, 2021 | Bích Thượng Thổ | Đất trên vách |
| 1962, 1963, 2022, 2023 | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạch kim |
| 1964, 1965, 2024, 2025 | Phú Đăng Hỏa | Lửa ngọn đèn |
| 1966, 1967, 2026, 2027 | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời |
| 1968, 1969, 2028, 2029 | Đại Dịch Thổ | Đất khu lớn |
| 1970, 1971, 2030, 2031 | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức |
| 1972, 1973, 2032, 2033 | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu |
| 1974, 1975, 2034, 2035 | Đại Khê Thủy | Nước dưới khe lớn |
| 1976, 1977, 2036, 2037 | Sa Trung Thổ | Đất lẫn trong cát |
| 1978, 1979, 2038, 2039 | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời |
| 1980, 1981, 2040, 2041 | Thạch Lựu Mộc | Cây thạch lựu |
| 1982, 1983, 2042, 2043 | Đại Hải Thủy | Nước đại dương |
| 1984, 1985, 2044, 2045 | Hải Trung Kim | Vàng dưới biển |
| 1986, 1987, 2046, 2047 | Lộ Trung Hỏa | Lửa trong lò |
| 1988, 1989, 2048, 2049 | Đại Lâm Mộc | Cây trong rừng |
| 1930, 1931,1990, 1991, 2050, 2051 | Lộ Bàng Thổ | Đất giữa đường |
| 1932, 1933, 1992, 1993, 2052, 2053 | Kiếm Phong Kim | Vàng đầu mũi kiếm |
| 1934, 1935, 1994, 1995, 2014, 2055 | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi |
| 1936, 1937,1996, 1997, 2056, 2057 | Giản Hạ Thủy | Nước dưới khe |
| 1938, 1939, 1998, 1999, 2058, 2059 | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành |
| 1940, 1941, 2000, 2001, 2060, 2061 | Bạch Lạp Kim | Vàng trong nến rắn |
| 1942, 1943, 2002, 2003, 2062, 2063 | Dương Liễu Mộc | Cây dương liễu |
| 1944, 1945, 2004, 2005, 2064, 2065 | Tuyền Trung Thủy | Nước giữa dòng suối |
| 1946, 1947, 2006, 2007, 2066, 2067 | Ốc Thượng Thổ | Đất trên nóc nhà |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Phong thủy nhà ở có âm trạch (xem nơi đặt mồ mả) và dương trạch (xem nơi làm nhà). Những thầy địa lý ngày trước thường rất quan tâm đến âm trạch. Họ chú ý đến việc đi tìm những nơi đất tốt để đặt mồ mả, tin rằng làm như thế các thế hệ sau sẽ gặp vận hội may mắn, làm ăn phát đạt. Tuy nhiên, ít có cơ sở để giải thích được mối liên hệ giữa nơi an táng người đã khuất với cuộc sống của con cháu họ sau này, nhất là đối với chuyện làm ăn, học hành, đỗ đạt, thăng quan tiến chức.
Vì vậy, các thầy địa lý thường bị phê phán và việc xem âm trạch bị coi là chuyện mê tín, nhảm nhí.
Sách “Chích di” chép: Trong một lần đi săn, vua Đường Huyền Tôn đến một cánh đồng, ngựa của vua phi nhanh chỉ có ngựa của Bạch Vân tiên sinh Trương Ước theo kịp. Khi qua đầu núi thấy một ngôi mộ, Trương Ước nhìn chăm chú rồi còn ngoái đầu lại, Đường Huyền Tôn hỏi nhìn cái gì thì Trương Ước đáp: “Chôn lệch đất, yên đầu rồng, gối lên sừng rồng, chưa đến 3 năm tự tiêu trầm”. Cạnh đấy có người tiều phu, Huyền Tôn hỏi ai chôn trong mộ. Tiều phu trả lời là nhà Thôi Tốn dưới núi. Huyền Tôn và Trương Ước đến nhà Thôi Tốn. Con Tốn không biết là vua cứ mặc áo thường ra tiếp. Huyền Tôn bảo: “Ngôi mộ trên núi không phải đất lành”. Con Tốn đáp “Trước khi lâm chung bố tôi có nói: Yên đầu rồng, gối tai rồng, chưa đến 3 năm Hoàng đế đến nhà”. Huyền Tôn vô cùng ngạc nhiên, còn Trương Ước tự than mình không bằng Thôi Tốn, sau đó bỏ lên núi tu hành.
![]() |
| Để tìm ra vượng khí, phong thủy quan niệm cửa giả được coi như là môi, miệng, mắt để chuyển khí vào nhà. Phòng lớn như là động mạch chính dẫn khí đi vào các phòng khác trong ngôi nhà. Đồ đạc, cây cối, các vật trang trí, cửa giả bên trong như là mạch máu nhỏ làm thông khí. |
Nhưng truyện “Quách Tấn” trong sách Hậu Hán thư cũng kể, đời Thuận Đế có người ở Hà Nam tên là Ngô Hùng lúc bé nhà nghèo, khi mẹ chết chẳng chọn đất cũng không chọn giờ, cứ thế đem mẹ đi chôn. Thầy cúng bảo: “Ngô Hùng sau này sẽ bị họa diệt tộc”. Nhưng Ngô Hùng và các con sau này đều làm quan đến chức Đình úy, chả thấy tai họa đâu. Nói vậy để thấy, ngay cả đời xưa nhiều người cũng không tin vào âm trạch.
Lại nói về dương trạch, người xưa cũng thường chú trọng đến ngoại thất hơn: xem thế đất, hướng đất để làm nhà là chính. Ngược lại trong cuộc sống hiện đại ngày nay, người ta lại cho rằng phong thủy trong nhà (nội thất) ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn núi sông bên ngoài. Điều này có lẽ bắt nguồn từ sự phát triển của xã hội. Xã hội hiện đại cuốn cuộc sống con người vào dòng chảy theo nhịp điệu của đời sống công nghiệp. Con người mải miết tất bật với công việc ở công sở, nhà máy. Hết giờ làm việc về nhà chỉ muốn đóng chặt cửa nghỉ ngơi, tìm sự yên tĩnh trong căn nhà của mình, quan hệ xã hội, sự tiếp xúc với thiên nhiên giảm đi. Vì vậy mà ngoại cảnh ít tác động hơn chăng? Vả lại con người ta sinh ra ngày càng nhiều nhưng đất đai lại không sinh sôi thêm. Vì vậy đất ở, nhất là đất ở các thành phố lớn ngày càng chật chội, nhà cửa san sát. Do đó, người ta cũng ít có cơ hội để tìm kiếm một lô đất (hình dáng, hướng, vị trí…) theo đúng ý mình. Đành phải chấp nhận lô đất có những khiếm khuyết nhỏ nào đó rồi tự cải tạo bằng cách bố trí cửa, các phòng sao cho có lợi nhất làm hạn chế hoặc triệt tiêu những bất lợi của ngoại cảnh. Vì vậy mà phong thủy đi sâu vào cấu trúc nội thất chăng?
Phong thủy ngày nay cho rằng, ảnh hưởng chính từ sự sắp đặt ở văn phòng, nhà ở và ảnh hưởng phụ là ra thế giới bên ngoài của chúng ta (nghĩa là âm tác động dương). Mẫu mực và đời sống của người ta là phản ánh trung thực từ sự cấu trúc, hình dạng và đồ đạc sắp đặt ở trong phòng.
Để tìm ra vượng khí, phong thủy quan niệm nhà cửa như một cơ thể có hoạt động bên trong của nó, cửa giả được coi như là môi, miệng, mắt để chuyển khí vào nhà. Phòng lớn như là động mạch chính dẫn khí đi vào các phòng khác trong ngôi nhà. Đồ đạc, cây cối, các vật trang trí, cửa giả bên trong như là mạch máu nhỏ làm thông khí. Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu cách bố trí các cửa (cửa chính, cửa thông gió, cửa sổ), cầu thang, sắp xếp đồ đạc trong các phòng… để bạn đọc tham khảo.
(Theo Xây dựng)
Sao Vũ khúc tại cung Mão, Dậu, cung Mệnh là sao Tử vi nhập miếu và sao Phá quân thế vượng, chủ có đặc điểm những năm trẻ tuổi thì tự phụ quật cường, không nghe theo những lời nói thật, tự cho mình là đúng, trung niên và cuối đời thì thay đổi hoàn toàn, thận trọng hay suy nghĩ, bình tĩnh, nhìn xa trông rộng và quyết đoán, thiết thực, chịu vất vả. Mặc dù không tránh khỏi vất vả khó nhọc nhưng lao động có thu hoạch. Thế nên mới nói tuổi này tiền tài thăng trầm, dễ phát tài cực thịnh nhưng cũng phá tài cực nhiều
Sao Vũ khúc tại cung Mão, Dậu là thế lợi tất có sao Thất sát thế vượng cùng tọa thủ, sao Thiên phủ tại cung Phúc đức triều chiếu (cung Dậu là thê vượng, cung Mão là thế địa). Cung Mệnh là sao Tử vi nhập miếu và sao Phá quân thế vượng, cung Quan lộc là sao Liêm trinh, Tham lang rơi vào thế hãm; cung Điền trạch là sao Thái âm (cung Tuất là thế vượng, cung Thìn là rơi vào thế hãm), cung Thiên di là sao Thiên tướng (cung Sửu là nhập miếu, cung Tý là thế địa).
Sao Vũ khúc mạnh mẽ quyết đoán, bảo thủ chín chắn, điềm tĩnh, vững vàng. Sao Thất sát dứt khoát dũng mãnh, hào phóng hấp tấp, thích hoạt động có thể thành công. Hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, thẳng thắn, có thành tích, bảo thủ, mục tiêu và tầm nhìn xa, có thể đảm đương trọng trách.
Tài vận không tồi, giỏi việc quản lý tiền nong, kiếm tiền nhiều, tiêu tiền nhanh, hành động mang tính tùy tiện, thích đầu cơ mạo hiểm, tự mình lập nghiệp, làm theo ý mình, công việc trong cuộc đời thay đổi nhiều, tiền tài thăng trầm lớn, có lúc gặp trắc trở nhiều, dễ phát tài cực thịnh, phá tài cực nhiều. Những năm trẻ tuổi thì tiền đến rồi lại đi, trung niên và cuối đời thì có thể lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, thành tích tốt.
Khi sao Vũ khúc tại cung Mão tọa cung Tài bạch, sao Thái âm tại cung Tuất tọa cung Điền trạch, là thế vượng, sao Thái dương thế vượng ở cung đối diện chiếu vào là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, gia nghiệp phong phú.
Tử vi đế tinh gặp Phá quân điện tiền tướng quân, những năm trẻ tuổi thì tự phụ quật cường, không nghe theo những lời nói thật, tự cho mình là đúng, trung niên và cuối đời thì thay đổi hoàn toàn, thận trọng hay suy nghĩ, bình tĩnh, nhìn xa trông rộng và quyết đoán, thiết thực, chịu vất vả. Mặc dù không tránh khỏi vất vả khó nhọc nhưng lao động có thu hoạch.
Sao Thiên phủ tọa cung Phúc đức, tấm lòng lương thiện, hài lòng với hiện tại, thu nhập không tồi, sống hưởng thụ, về tiền tài cần tránh dính líu đến bạn bè. Sao Thái âm tọa cung Điền trạch, nhà ở thường thích trang nhã thanh tịnh, thích nơi điền viên sơn lâm hoặc đặt những cây cối hoa cỏ. Cung Tuất sao Thái âm thế vượng tọa cung Điền trạch, sao Thái dương thế vượng tại cung đối diện chiếu vào, là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, nên đề phòng đào hoa kiếp.
Sao Thái âm tọa cung Điền trạch, nhà ở thường thích trang nhã thanh tịnh, thích nơi điền viên sơn lâm hoặc đặt những cây cối hoa cỏ. Cung Tuất sao Thái âm thế vượng tọa cung Điền trạch, sao Thái dương thế vượng tịa cung đối diện chiếu vào, là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, nên đề phòng đào hoa kiếp.
Sao Liêm trinh, Tham lang cùng tọa thủ cung Quan lộc, làm việc chăm chỉ, có biểu hiện tốt, giỏi việc giao tiếp xã giao, không thích công việc ràng buộc khuôn phép.
Sao Thiên tướng tọa cung Thiên di, quan hệ xã giao mạnh tốt nhân duyên tốt, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, vui khi giúp đỡ người khác, được người khác hoan nghênh, được đánh giá tốt.
– Nhiều người tin rằng, trong tháng cô hồn, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực để không bị linh hồn bắt đi làm vật tế hay kị nhặt tiền rơi vì sợ đó là bẫy của âm hồn... thực hư chuyện này thế nào, hãy cũng ## tìm hiểu.
| ► Bạn đã biết: Những điều kiêng kị trong tháng cô hồn? |
![]() |
![]() |
Danh sách những con giáp đại kị đi đêm trong tháng cô hồn
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| => Theo dõi: Tử vi hàng ngày của 12 con giáp được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
Để tạo phong thủy tốt cho phòng ngủ, bạn có thể sử dụng những thuật phong thủy đơn giản, thực tế dưới đây:
1. Không để TV, máy tính hay thiết bị tập luyện trong phòng. Nguồn năng lượng phong thủy có lợi sẽ bị vô hiệu nếu những vật dụng này được đặt trong phòng ngủ.
2. Thường xuyên mở cửa sổ hoặc sử dụng máy lọc không khí chất lượng tốt để giữ cho không khí sạch sẽ và đầy đủ oxy. Cần chú ý đến chất lượng không khí trong phòng ngủ. Phòng ngủ sẽ không có phong thủy tốt nếu không khí mà bạn hít thở cũ kỹ và ô nhiễm. Lưu ý rằng cây cảnh trong phòng ngủ cũng không tốt cho phong thủy, trừ khi phòng ngủ tương đối lớn và cây được đặt xa giường.

3. Phòng ngủ có nhiều cấp độ ánh sáng, hoặc có công tắc chỉnh độ sáng để điều hòa năng lượng phù hợp. Ánh sáng tốt và phù hợp rất quan trọng, bởi ánh sáng là “chất dinh dưỡng” số 1 và là một trong những cách biểu hiện năng lượng mạnh nhất. Nến là loại ánh sáng tốt nhất cho phong thủy phòng ngủ, nhưng nên nhớ cần mua loại nến không độc.
4. Sử dụng màu sắc nhẹ nhàng để cân bằng phong thủy trong phòng ngủ. Trang trí phòng ngủ theo phong thủy giúp thúc đẩy nguồn năng lượng tốt nhất cho những giấc ngủ dài, cũng như phục hồi khả năng giường chiếu. Màu phong thủy tốt nhất cho phòng ngủ là màu da, mà màu da người thường có nhiều loại khác nhau, từ màu trắng nhợt cho tới nâu socola. Hãy chọn những màu sắc phù hợp nhất với phòng ngủ của bạn trong phạm vi này.
5. Chọn tranh ảnh treo trong phòng một cách kỹ lưỡng, bởi tranh ảnh mang nhiều năng lượng phong thủy. Lời khuyên phong thủy tốt nhất cho phòng ngủ của bạn là lựa chọn những tranh ảnh thể hiện điều bạn mong muốn xảy ra trong đời mình. Tránh chọn những tranh ảnh buồn, cô đơn cho phòng ngủ nếu bạn không muốn cuộc đời bạn cũng buồn và cô đơn như vậy.
6. Thực hiện theo các hướng dẫn phong thủy cơ bản cho giường dưới đây:
• Để khoảng trống 2 bên giường để dễ dàng lên xuống
• Mỗi bên đầu giường để một chiếc bàn nhỏ
• Tránh để giường và cửa nằm trên cùng một đường thẳng
Một chiếc giường “ưa nhìn” và thăng bằng tốt rất quan trọng trong việc tạo nên phong thủy phòng ngủ hoàn hảo. Nệm tốt, đầu giường chắc chắn và ga trải giường chất lượng cao làm từ sợi tự nhiên rất quan trọng trong việc tạo ra năng lượng phong thủy hài hòa.
7. Đóng tất cả cửa phòng vào ban đêm, gồm cửa nhà vệ sinh (nếu có trong phòng), cánh cửa tủ quần áo và cửa phòng ngủ. Điều này giúp cho nguồn năng lượng nuôi dưỡng tăng cường sức khỏe của bạn cũng như mối quan hệ của bạn. Giữ tủ quần áo sạch sẽ và gọn gàng sẽ tạo thêm cảm giác yên bình, êm đềm trong phòng ngủ.
Khái niệm phong thủy phòng ngủ hoàn hảo có thể khác nhau đối với những người khác nhau, nhưng có cùng 1 điểm chung là: Vui vẻ và Mơ mộng chính là điều cốt yếu. Một phòng ngủ có phong thủy tốt sẽ đem lại vẻ yêu thương, gắn kết và thư giãn cho mọi vật trong phòng.
| ► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Các vì sao được xem như một vị thần hộ mệnh hay án mệnh mà không ai có thể cưỡng lại nổi. Và con người không thề chủ động tạo được tương lai của mình, mà phải chịu phó mặc cho thiên định.
Trái lại có người cho rằng Tử Vi là một dị đoan, mê tín, thậm chí là một tà thuật của những nhà bói tóan nhằm trục lợi trên tín ngưỡng của thiên hạ. Mọi luận đóan của Tử Vi đều là sai, không đáng tin cậy.
Hai ý kiến trên đều là những ý kiến phiến diện và hời hợt. Tử Vi thật sự không có một giá trị huyền bí nào, các vì sao trong Tử Vi không phải là những vị thần linh giám sát điều khiển vận mệnh con người gì cả. Đó chỉ là yếu tố có ảnh hưởng đến con người. Chứ không hề có sự điều khiển của đấng chí tôn nào cả. Các sao trong Tử Vi chỉ là các tên gọi biến kiến, mượn tên một vật thể để mệnh danh một yếu tố trong con người. Các sao trong Tử Vi là những danh từ chỉ mức năng lượng (*) trong cơ thể con người và chu kỳ họat động của nó, qua đó phân tích con người thành những yếu tố nhỏ rồi hợp lại.
(*) Hiện nay khoa học đã tìm được 3 mức năng lượng là: Trí Tuệ, Sức Khỏe và Tinh Thần, và có thể vẽ nó trên đồ thị hình SIN. Tử Vi có tất cả 118 mức năng lượng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Đã từ lâu hình tượng Thần Tài chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của nhiều quốc gia. Đó là hình ảnh rất đỗi quen thuộc, nhất là với những người kinh doanh, buôn bán. Thế nhưng không phải ai cũng tường tận về nguồn gốc cũng như những đức hạnh bố thí của hình tượng này trong Phật giáo.
![]() |
![]() |
![]() |
Infographic: 18 loại bố thí không sạch sẽ làm xấu chân lý nhà Phật
Địa Điểm: Đền Và tọa lạc tại thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Ngày Lễ Chính:
Vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu (3 năm 1 lần) thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính.
Đền Và còn gọi là Đông Cung trong hệ thống tứ cung của xứ Đoài (Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội) thờ thần núi Tản Viên, vị thần đứng đầu trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền được Nhà nước Việt Nam xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964.
Lịch Sử: Theo sử sách ghi chép, đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884. Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc.
Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Đền Và qua nhiều lân tu tạo: năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và năm 1932 (Bảo Đại thứ 7). Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay được làm vào các năm 1915-1919. Năm 2008 tỉnh Hà Tây cũ cho tu bổ lại đền như hiện nay.
Kiến Trúc: Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng 17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mít, thông, đại,muỗm… Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây đều là những loài nở hoa về mùa hè. Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15.
Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, mang đậm bản sắc kiến trúc phương đông. Quần thể đền Và gồm các công trình như: Nghi Môn, lầu Cô Chín, sân Long hoá, Gác Chuông, Gác Trống, Tả – Hữu mạc, Tiền Tế, Thượng Điện, Hậu Cung, Nhà kho, Nhà kiệu. Các hạng mục công trình được sử dụng các loại vật liệu quý như gỗ lim, gạch đá ong, gạch Bát Tràng, ngói mũi ri. Nhiều linh vật quý được trang trí như: bộ tứ linh (long – ly – quy – phượng), tứ quý (tùng – cúc – trúc – mai), hoa sen, hoa lan; các bức trạm bong, trạm nổi cách điệu, thể hiện bàn tay khéo léo, sức sáng tạo của những người thợ, lòng thành kính của muôn triệu người Việt với các bậc Thánh nhân tiên tổ.
Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích “Tản Viên Sơn Thánh”; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn Khản, Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân…
Lễ hội đền Và diễn ra “xuân thu nhị kỳ”. Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị “Tam vị Đức Thánh Tản” từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính. Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh.
Đền Và cùng với Thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm vùng đất Sơn Tây – trung tâm của xứ Đoài xưa nói riêng và một nét văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến nói chung.
| ► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
| ► Cùng bói cung hoàng đạo để tìm những điều thú vị về bạn |
![]() |
![]() |
Chùa Tiên tọa lạc trên núi Đụn, thôn Đồi Ngang, xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Đây là danh thắng nổi tiếng của huyện Thanh Liêm với nhiều huyền tích.
Tương truyền Chùa Tiên là vùng núi địa linh – nơi có 99 con phượng hoàng bay về cư ngụ trên đồi thông 99 ngọn và bàn cờ tiên. Đêm đêm trăng thanh gió mát, tiên thường hạ giới đánh cờ và thưởng ngoạn núi non. Tưởng nhớ các bậc tiên thánh, nhân dân trong vùng đã lập chùa thờ tự.
Hiện nay xung quanh khu vực chùa Tiên còn lưu giữ nhiều ngọc phả, sắc phong quý và có ý nghĩa lịch sử lớn của vùng đất Thanh Liêm. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, danh thắng chùa Tiên được người Pháp chọn là nơi nghỉ dưỡng và phát triển du lịch sinh thái. Trải qua hàng trăm năm, ngôi chùa đã được tu sửa nhiều lần.
Lễ hội chùa Tiên được phục dựng từ năm 1992, lễ hội diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Cùng với nghi thức rước mẫu lên chùa, nghi thức tế lễ cầu quốc thái dân an, lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ thu hút đông đảo tín đồ phật tử và khách thập phương tham gia.
Bài viết của tác giả Anh Việt
Trường Sinh
Sao phúc thọ. Ở Mạng là người nhân hậu, có độ lượng, thọ.
Hạn gặp thì lợi cho sự sanh nở, được phúc.
Tại Dần, Thân, Tỵ, gặp Mã đồng cung là tốt, được may mắn, thành công. Đó là cách Mã ngộ Trường Sinh.
Nếu Mã ngộ Trường Sinh tại Hợi là trắc trở.
Trường Sinh ở tật ách thì đau yêu lâu khỏi.
Mộc dục
Chủ sự dâm dục, u mê, mau chán, bỏ dở công việc, đi xa, làm dáng.
Gặp Đào Hồng Riêu Cái chủ về tai họa hoặc tật bệnh do dâm dục mà ra.
Về nghề nghiệp, Mộc dục tại Mệnh chủ về công nghệ, nếu không gặp các sao tốt khác.
Người mệnh VCD, mà có Mộc dục tọa thủ, là người mau chán, hay bỏ dỡ việc, học không thành.
Quan đới
Chủ về chức vị ở Mạng là người ham công danh. Nhưng gặp sao xấu, thì chẳng tốt đẹp gì. Gặp sao tốt mới là tốt.
Lâm quan
Chủ sự khoe khoang, làm dáng, kiểu cách.
Gặp các sao tốt khác thì mới tốt, còn gặp sao xấu vẫn xấu.
Đế vượng
Chủ sự nhân hậu, chủ về công danh, phúc thọ, sự giải trừ tai họa. Gặp hạn là sanh sản tốt hoặc được công danh tốt, được thịnh vượng.
Mệnh, Thân có Đế vượng và Tử vi, là có tài chỉ huy.
Suy
Chủ sự sa sút kém cỏi.
Bệnh
Chủ sự bệnh tật, sự suy yếu, buồn rầu.
Tử
Chủ sự thâm trầm, kín đáo, đa cảm, đa sầu.
Chiết giảm phúc thọ.
Ở những người mà vòng Trường Sinh theo vòng ngược, tức là Âm Nam, Dương Nữ, Tử lại là Sinh.
Tử ở Tài, Điền, chủ sự giữ được của cải.
Mộ
Chủ sự u mê, nhầm lẫn
Mộ ở Phúc tại Tứ mộ (các cung Thìn Tuất Sửu Mùi) lại là tốt, có mộ kết phát.
Tuyệt
Chủ sự tiêu tán chiết giảm phúc thọ.
Tuyệt tọa thủ tại Mệnh chủ sự khôn ngoan nhiều mưu kế.
Thai
Chủ sự nhầm lẫn, chơi bời, sự sinh nở, thụ thai, giao hợp.
Đào hoa ngộ Thai tại Mệnh, không có cách giải, là người có tình ái lung tung. Đào hoa ngộ Thai tại cung phối, là tiền dâm hậu thú. Cứ xem Thai bất cứ ở cung nào, nếu Thai đụng phải Tuần Triệt hoặc các bại tinh, sát tinh, là người sanh thiếu tháng, hoặc nhỏ hay đau yếu.
Dưỡng
Chủ sự nuôi nấng, chăm chỉ, bắt đầu trỗi dậy.
Cung Mệnh có Dưỡng thì nuôi súc vật tốt và được nhiều người yêu mến.
Dưỡng ở Thân thì có nhiều con. Dưỡng ở Phúc đức (hoặc Mệnh) là làm con nuôi. Dưỡng ở Tử tức là có con nuôi.
Kình dương (hay Dương nhận), Đà la
Tại Mệnh, ở nơi đắc địa, thì quyền uy can đảm. Ở nơi hãm địa thì hung bạo, hay phá hoại.
Hỏa tinh, Linh tinh
Chủ sự phá hoại, tai nạn, bệnh tật, giảm thọ
Địa không, Địa kiếp
Tại cung đắc địa (Dần Thân Tỵ Hợi) thì chủ sự hoạch phát, hoạch phá, xảo quyệt. Tại các cung hãm, thì phá tán, gây tai họa, tật bệnh.
Thiên không
Sao chủ sự phá tán. Hạn gặp Thiên không chẳng làm được gì, người có công danh lớn là mất hết.
Mệnh có Đào hoa, Thiên không đồng cung là người mưu mẹo.
Mệnh có Thiên không, Hồng loan, là người thích tu hành.
Hóa kỵ
Sao xấu, chủ sự đố kỵ, độc hiểm, ghen ghét, tai họa, kiện cáo. Nhưng lại chủ sự bền vững về tiền bạc.
Đắc địa thì bớt ngại tai họa, bệnh tật.
Đồng cung với Nhật Nguyệt như mây ngũ sắc làm Nhật Nguyệt sáng thêm.
Tọa thủ tại Tỵ, Hợi gặp Liêm, Tham, chế bớt sự hung của Liêm Tham.
Gặp Cự môn đồng cung gây nhiều tai họa.
Hoặc gặp Lương, Khúc, cũng gây họa, Gặp Tuế Đà là kiện cáo, tật bệnh, Kỵ Đà Riêu gặp nhau che mất Nhật Nguyệt.
Gặp Kỵ hãm thủ Mệnh là xấu. Nếu cung Mệnh là Dương, năm canh là Dương, thì Kỵ bị chế ngự.
Đại hao, Tiểu hao
Chủ sự hao hụt, phá tán.
Tại hạn thì sa sút. Nhưng tại Mão Dậu là chúng thủy triều đông, có phát tài lớn, dễ phát lớn.
Tang môn, Bạch hổ
Chủ sự bi thảm, tang thương, bệnh tật, tai họa, giảm tài lộc, phát công danh. Nhưng đắc địa ở Dần Thân Mão Dậu thì bớt phá bại.
Bạch hổ Tấu thư đồng cung lại tốt, hổ đội hòm sắc là thi cử tốt; cầu danh có lợi.
Bạch hổ Phi liêm đồng cung là hổ mọc cánh, có việc vui, may mắn, cầu công danh lợi.
Thiên khốc, Thiên hư
Chủ sự phá bại, phá tán, hỏng việc, buồn rầu, tang thương, bệnh tật. Khốc Hư tại Tý Ngọ là đắc địa, chủ công danh lên cao nếu đóng tại Mệnh.
Thiên hình
Hung tinh chủ về sự dũng mãnh, sự chém giết, cắt mổ, cũng là sao nhà quân sự. Chế ngự được tánh dâm của Đào Hồng.
Cung Mệnh có Hình tại Dần, là cách Hổ ngậm kiếm, được oai dũng, có võ nghiệp hay công danh lớn. Hình, thêm Binh, Tướng, Ấn là cách con nhà văn võ có tài. Hình, Thiên Y tại Mệnh, Quan hay Di là cách y sĩ giải phẫu.
Gặp Tuần Triệt là gãy hết cách tốt của Hình. Gặp các sát tinh là chịu những tai họa.
Thiên riêu
Chủ sự đa nghi, hãm địa tại Mệnh là chủ sự dâm đãng.
Nhưng nếu đắc địa, thì dù có dâm đãng cũng không bị tai vạ, họa hại. Hãm địa thì nguy khốn vì tửu sắc. Đàn bà có cả Riêu và Đào hay Hồng, là gái bất chính.
Riêu gặp Long Phượng chủ sự cưới hỏi, sanh nở, tin vui, tài lộc.
Đường phù
Chủ sự lợi ích về công danh, sự đường bệ uy nghi tại Mệnh, sự lợi lộc về nhà đất tại Điền.
Đường phù gặp Bạch hổ là chủ sự bắt bớ, tù đày.
Cô thần Quả tú
Chủ sự cô độc, khắc nghiệt, khó tính. Nhưng tại Tài lại là giữ của tốt. Gặp tại hạn là có hại cho sự cưới hỏi, có hại cho tình vợ chồng.
Đẩu quân
Khắc nghiệt. Không tốt cho sự sanh nở. Giữ gìn của cải được tốt. Cung Tử tức có Đẩu quân thì hiếm con. Cung Quan có Đẩu quân Tử vi, thêm những sao tốt, thì công danh, phú quý được tốt đẹp. Gặp sát tinh là xấu, gian xảo.
Thiên thương Thiên sứ
Chủ sự buồn thảm, thất bại, bệnh tật, tai họa. Gặp thêm Xương Khúc càng xấu.
Kiếp sát
Chủ sự nham hiểm, tai họa. Gặp Kiếp sát tại hạn thì hay bị họa hại. Mệnh có Lưu hà, phòng chết bất ngờ vì tai họa.
Phá toái
Chủ sự phá tán, tai vạ. Có cả Phá toái và Phá quân tại Mạng là dũng mãnh, có công danh về đàng võ.
Thiên la địa võng
Chủ sự giam hãm tai họa.
Thái tuế
Chủ sự lạnh lùng, kiêu kỳ, hay nói hay lý luận. Được thêm những sao tốt tại Mệnh, là người nói năng đâu ra đấy và được phú quý. Xương Khúc Khôi Việt Thái tuế tụ cả tại Mệnh là đủ bộ văn tinh tốt, lợi cho việc học, thi cử, công danh.
Gặp Đà, Kỵ là xấu, có ngăn trở, kiện cáo, tai vạ, bệnh tật. Hoặc gặp các sát tinh cũng vậy.
Người có Hoa cái và Thái tuế tại Mệnh là ăn nói kiêu kỳ.
Quan phủ
Sao này chủ sự thị phi, kiện cáo, cũng chủ về người biết lý luận và giúp đỡ người. Gặp sao tốt thì tốt, gặp sao xấu thì xấu.
Tử phù Trực phù
Chủ sự buồn thảm, tang thương, sự ngăn trở trong công việc.
Tuế phá
Chủ sự phá tán. Người có Tuế phá ở Mệnh hay đau răng.
Điếu khách
Chủ sự kiêu kỳ, khinh người, khoe khoang, ham chơi, hay bệnh, lắm tai nạn. Tại Hạn, gặp Tang Điếu Hình hay bị tai nạn.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
u gặp gió, có người thì gặp phải án “tử chết không toàn thây…

1. Một số quan niệm về thuật phong thủy đối với hình xăm trong nhân tướng học
Tứ thú là bộ hình xăm rất quen thuộc. Tứ thú bao gồm rồng xanh, hổ trắng, chim công và rùa đen. Theo thuật phong thủy thì bốn con vật này phải được xăm vào đúng vị trí của nó thì mới tốt. Do đó, người ta hay nói: “tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ”. Điều này có nghĩa là bên cánh tay trái nên xăm rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm chim công, sau lưng là xăm hình rùa đen có con rắn quấn quanh.
Bốn linh vật này vốn được coi là vật mang lại may mắn nhưng bạn nên nhớ rằng chúng không mang lại may mắn cho tất cả mọi người. May mắn chỉ có được khi mệnh của chủ nhân hợp với hình xăm đó. Ngược lại nếu mệnh không gánh được tứ linh thì chỉ gây tổn hao nguyên khí, lành hóa dữ, hợp hóa xung.

Những hình xăm phong thủy khó xăm nhất mà bạn nên cân nhắc kỹ trước khi tiến hành đó chính là hình rồng, hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long, chữ nhẫn, Quan âm ngồi đài sen… Mặc dù những hình xăm này rất phổ biến nhưng kỳ thực lại rất nguy hiểm đến vận mạng chủ nhân nếu không thích hợp. Những hình xăm này đòi hỏi mệnh của chủ nhân phải gánh rất nặng nề, bằng không mệnh nhỏ, mệnh yếu rất dễ gây hậu họa. “Chữ nhẫn” là một hình xăm không hề đơn giản, những người kinh doanh, những người giảo ngoạt, chua ngoa, thiếu thật thà, thiếu kiên trì nhẫn nại nếu cứ quyết xăm “chữ nhẫn” cho bằng được thì sớm muộn cũng gánh tai ương. Hình “Quan âm ngồi đài sen” cũng vậy, nếu kẻ xăm hình không một lòng hướng phật, tâm tà thì ắt hẳn sẽ gặp vận xui.
2. Những vị trí xăm hình đầy nguy hại
Vẫn phải nhắc lại hình xăm phong thủy cần phù hợp với tính cách, vận mạng của chủ nhân. Những hình xăm không thích hợp sẽ gây ra những hậu họa nhất định phụ thuộc vào tưng vị trí khác nhau.

Xăm ngực và phần dưới cơ thể: Đây là vị trí xăm nguy hiểm. Với những ai chưa lập gia đình sẽ lận đận tình duyên. Sau khi lập gia đình dễ vô sinh, xung khắc với con với cháu.
Xăm hình ở ngón tay: Với nữ nếu xăm ở ngón tay bên bàn tay trái thì chồng bạc duyên, nếu xăm bên bàn tay phải thì nhân duyên kém. Ở nam thì ngược lại.
Hình xăm ở mông: Dễ gặp những điều thị phi thường xuyên, không dứt.
Hình xăm ở đùi: Dễ khiến đường đời gập ghềnh, trúc trắc
Hình xăm che sẹo: Trong thuyết phong thủy nơi có sẹo là nơi tổn hao đến khí, nếu xăm hình lên vết sẹo sẽ càng khiến khí loạn, khí rối hơn.
Hình xăm trên vai, cổ: Những hình xăm nếu không hợp mệnh được xăm ở vị trí này dễ gây mệnh khổ, ngoài ra ảnh hưởng đến đường hô hấp, khí huyết lưu thông.

Xăm hình động vật: Dễ bị người khác sai khiến, lợi dụng. Ngoài ra nếu không cẩn thận còn có thể gây xung khắc trong bộ 12 con giáp.
Xăm hình cây cỏ: Da vốn mang tính thổ, thực vật mang tính mộc, mộc lại khắc thổ nên hay gây sự cố bất thường, dễ bị thương tích, tai bay vạ gió
Xăm hình ở tay chân: Dễ gặp điều thị phi suốt đời. Đặc biệt xăm ở bắp chân dễ ảnh hưởng đến chuyện tình duyên, nam nữ.
Nếu vận mạng, sự may mắn, tài lộc của bạn thay đổi theo chiều hướng xấu sau khi xăm hình thì ắt hẳn là hình xăm của bạn đã phạm, không hợp mệnh. Cách khắc phục duy nhất là hãy xóa bỏ hình xăm.