Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Cùng tìm hiểu xem Can Chi là gì, được sử dụng như thế nào trong tử vi phương Đông,và cách tính Can Chi và mệnh năm sinh như thế nào.
Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cach-tinh-can-chi-menh-nam-sinh-trong-tu-vi-phuong-dong

Thiên Can Địa Chi, hay Can Chi, là hệ thống đánh số thành chu kỳ 60 năm trong Âm lịch để xác định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, tháng, năm). Theo PGS, TS Đàm Đức Vượng, Can Chi còn được áp dụng để nghiên cứu về Trời - Đất ứng dụng vào số phận của từng người qua 12 con giáp.

1. Thiên Can

Thiên Can bao gồm 10 yếu tố có mối liên hệ với Âm-Dương và Ngũ hành:

Can Âm-Dương Hành
Giáp Dương Mộc
Ất Âm Mộc
Bính Dương Hỏa
Đinh Âm Hỏa
Mậu Dương Thổ
Kỷ Âm Thổ
Canh Dương Kim
Tân Âm Kim
Nhâm Dương Thủy
Quý Âm Thủy

2. Địa Chi

Địa Chi bao gồm 12 chi, là 12 con vật trong hoàng đạo của tử vi phương Đông, hay còn gọi là 12 con giáp theo thứ tự dưới đây:

Chi Hoàng đạo Hành
Chuột Thủy
Sửu Trâu Thổ
Dần Hổ Mộc
Mão Mèo Mộc
Thìn Rồng Thổ
Tỵ Rắn Hỏa
Ngọ Ngựa Hỏa
Mùi Thổ
Thân Khỉ Kim
Dậu Kim
Tuất Chó Thổ
Hợi Lợn Thủy

3. Hướng dẫn tính Can Chi theo năm sinh

Can: Số cuối cùng trong năm sinh âm lịch của bạn chính là hàng can. Lấy số đó đối chiếu với bảng quy ước các số tương ứng Thiên Can theo năm sau:

Số quy ước 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Can Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ  

Chi: Lấy hai số cuối trong năm sinh âm lịch của bạn chia cho 12, số dư của phép chia tương ứng với Địa Chi năm sinh đó theo bảng quy ước số sau:

Số quy ước 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Chi Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi

Ví dụ: Bạn sinh năm 1990

Số cuối trong năm sinh của bạn là số 0. Đối chiếu với bảng Can, ta được kết quả là Canh.

Tiếp tục, lấy hai số cuối năm sinh là 90 chia cho 12. Ta được:

90 : 12 = 7 dư 6.

Đối chiếu với bảng Chi, kết quả là Ngọ.

=> Can - Chi năm sinh 1990 của bạn là năm Canh Ngọ.

4. Hướng dẫn tính mệnh năm sinh theo Can Chi

Để tìm được mệnh năm sinh, ta lấy trị số quy ước của Can cộng với trị số quy ước của Chi, áp dụng công thức: Can + Chi = Mệnh năm sinh.

Bảng quy ước trị số Thiên Can:

Số quy ước 1 2 3 4 5
Can Giáp, Ất Bính, Đinh Mậu, Kỷ Canh, Tân Nhâm, Quý

Bảng quy ước trị số Địa Chi:

Số quy ước 0 1 2
Chi Tý, Sửu, Ngọ, Mùi Dần, Mão, Thân, Dậu Thìn, Tỵ, Tuất, Hợi

Sau khi cộng hai trị số quy ước Can - Chi vào, ta được kết quả. Đối chiếu kết quả đó với bảng trị số quy ước mệnh năm sinh dưới đây (Nếu kết quả phép tính > 5, trừ đi 5 để ra trị số mệnh tương ứng):

Số quy ước 1 2 3 4 5
Mệnh Kim Thủy Hỏa Thổ Mộc

Ví dụ: Bạn sinh năm 2013, Quý Tỵ.

Trị số quy ước hàng Can năm sinh của bạn theo bảng trên là số 5.

Trị số quy ước hàng Chi năm sinh của bạn theo bảng là số 2.

Áp dụng công thức: Can + Chi = Mệnh, ta được:5 + 2 = 7.

Do 7 > 5, ta tiếp tục làm phép trừ: 7 - 5 = 2.

Kết quả cuối cùng là số 2. Đối chiếu kết quả với bảng trị số quy ước mệnh năm sinh, kết quả là Thủy.

=> Mệnh năm sinh của bạn là mệnh Thủy.

                                                                                                       Alexandra V (Nguồn tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính Can Chi, mệnh năm sinh trong tử vi phương Đông

Chọn ngày cưới hợp bát tự cho trăm năm hạnh phúc

Hôn nhân là chuyện trăm năm, chọn ngày đẹp tháng tốt là bước khởi đầu cuộc sống vợ chồng viên mãn. Chọn ngày cưới hợp bát tự sẽ may mắn.
Chọn ngày cưới hợp bát tự cho trăm năm hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôn nhân là chuyện trăm năm, chọn ngày đẹp tháng tốt là bước khởi đầu cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, viên mãn. Chọn ngày cưới theo bát tự sẽ giúp đôi trẻ có ngày hợp hôn ưng ý.


Chon ngay cuoi hop bat tu cho tram nam hanh phuc hinh anh
 
Để đi tới hôn nhân, đôi trẻ phải trải qua quá trình khảo nghiệm lâu dài và nhiều khó khăn, thật không dễ dàng. Vì thế, ngày diễn ra lễ cưới phải lựa chọn thật tỉ mỉ, kĩ lưỡng, vừa là ngày đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, vừa là lời chúc phúc cho đôi vợ chồng. Chọn ngày cưới theo bát tự của cô dâu, chú rể  nhấn mạnh chọn ngày gặp sao đào hoa.
 
Sao đào hoa bao gồm Hồng Loan, Hàm Trì, Thiên Hỷ, Thiên Yêu, là những sao mang tới may mắn về hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc cho vợ chồng, đôi lứa. Gặp sao đào hoa thì nhân duyên tốt đẹp, sở cầu như sở nguyện, vợ chồng hòa hợp. Vì thế, bát tự hợp hôn của đôi trẻ nên chọn ngày có những sao này.
 
Ngày tốt để kết hôn còn căn cứ vào mệnh để chọn ngày sao đào hoa được hướng. Dựa vào tuổi của cô dâu chú rể để chọn. Ví dụ, sao đào hoa tuổi Tý ở năm Ngọ, sao đào hoa tuổi Ngọ ở năm Tý, sao đào hoa tuổi Dậu ở năm Mão, sao đào hoa tuổi Mão ở năm Dậu, sao đào hoa tuổi Thân ở năm Dần, sao đào hoa tuổi Dần ở năm Thân, sao đào hoa tuổi Tị ở năm Hợi, sao đào hoa tuổi Hợi ở năm Tị, sao đào hoa tuổi Sửu ở năm Mùi, sao đào hoa tuổi Mùi ở năm Sửu, sao đào hoa tuổi Thìn ở năm Tuất, sao đào hoa tuổi Tuất ở năm Thìn. Đối chiếu theo đó mà chọn thời điểm kết hôn tốt nhất.
 
Năm tốt để thành gia thất là năm Lục Hợp, Tam Hợp với bản mệnh của cô dâu chú rể. Lục Hợp không phải chỉ là 6 con giáp mà còn là 6 vị quý nhân. Cụ thể, Mão – Tuất hợp Hỏa, Tị - Thân hợp Thủy, Dần – Hợi hợp Mộc, Ngọ - Mùi hợp Thổ, Tý – Sửu hợp Thổ, Thân – Dậu hợp Kim. 
 
Tam Hợp là Hợi – Mão – Mùi hợp Mộc, Thân – Tý – Thìn hợp Thủy, Tị - Dậu – Sửu hợp Kim, Dần – Ngọ - Tuất hợp Hỏa. 
► ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Trần Hồng (Theo 12ky)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn ngày cưới hợp bát tự cho trăm năm hạnh phúc

Tướng phụ nữ sát chồng |

Trán có xoáy ốc - Trán có ngấn lằn - Trán cao, mặt hãm. Mặt dài, miệng lớn - Mặt gầy (ốm) nổi gân - Mặt như ba khuỷu - Mặt nhọn, eo hẹp - Mặt như Vân mẫu (trắng) - Mặt trệ như bùn. Tướng đàn bà khắc sát chồng con o Trán có xoáy ốc o Trán có ngấn lằn
Tướng phụ nữ sát chồng |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ sát chồng |

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Hội Bơi Làng Võng La được tổ chức vào ngày 20 tháng 7 và ngày 10 tháng 10 âm lịch tại Thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Hội Bơi Làng Võng La

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 7 và ngày 10 tháng 10 âm lịch.

Địa điểm: Thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn ba vị đại vương là: Cung Mạc, Linh Khôn và Minh Chiêu (là những người có công giúp vua Hùng thứ 8 đánh giặc).

Nội dung: Theo các cụ, hội làng xưa được tổ chức một năm hai lần. Tháng bảy và tháng mười. Hội tháng bảy từ ngày 19 đến ngày 21, chính hội là ngày 20. Đó là hội tưởng niệm công đức bà mẹ đã sinh ra ba anh hùng. Hội có trò vui nhất là thi bơi chải như để nhắc nhở nghề chài lưới của làng.

Thuyền thi đấu được làm bằng một cây gỗ to đục rỗng, thuyền độc mộc. Đầu thuyền chạm rồng, đuôi thuyền vuốt lại như đuôi tôm. Mỗi thuyền có 7 người gồm 6 tay bơi và 1 lái mặc gọn ghẽ. Trước cuộc đua, các lái lên đình lễ cáo thánh. Mỗi thuyền đại diện một giáp và xếp thành hàng ngang chờ lệnh xuất phát. Tiếng trống vừa nổi lên các tay bơi ra sức thi tài, tiếng hò reo của nhân dân cổ vũ cho đội của mình náo nhiệt cả một khúc sông. Thuyền đoạt giải nhất thì sung sướng đã đem lại danh dự cho phe giáp mình và thấy xứng đáng là con cháu của người mẹ đã sinh ra ba vị thành hoàng làng. Người thua cuộc cũng yên tâm là mình đã đem hết sức đua tài để giữ gìn truyền thống thượng võ của làng.

“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thày,

Vui thì vui vậy không tày Chài bơi”

Hội tháng mười mở ra từ mồng 10 tới 13 mà chính hội là ngày 11. Ngày 10, mở hội là lễ mộc dục.

Lễ rước nước cử hành từ đình. Đám rước đi trong tiếng nhạc trầm hùng. Tới bờ sông có thuyền rồng chờ sẵn, chỉ có người khiêng kiệu nồi choé, chủ thuyền và quan tế được lên thuyền, ra giữa lòng sông lấy nước vào choé rồi bơi quay vào bờ. Đám rước đi đến chùa Chài. Trong khi đó ở đình cũng đã tổ chức một đám rước khác mang kiệu ở đình xuống chùa để rước nước về đình làm lễ mộc dục. Đám rước này vui vẻ náo nhiệt. Đi đầu là múa sênh tiền, múa lân, tiếp đến là đội cờ thần, rồi phường bát âm với sáo nhị, kèn trống tấu nhạc râm ran… sau nữa là kiệu bát cống rồi tới quan tế và nhân dân. Lúc này cả vùng quê ven sông Hồng rộn trong tiếng nhạc, tiếng trống hội. Tới chùa làm lễ nhận choé nước rước về đình làm lễ mộc dục. Sáng ngày 11 có tổ chức tế lễ từ sáng tới trưa để dân làng tưởng nhớ công đức các thánh.

Hội làng Chài hàng năm đó là dịp hội tụ con dân các dòng họ, phe giáp đồng đua tài trong tinh thần tưởng nhớ tổ tiên và cùng hợp quần chung sống trong tình thương yêu đùm bọc nhau, đúng như bốn chữ lớn trên bức đại tự ở đình thắm nét: “Đồng tôn hợp khánh”, ý nói con cháu cùng sống trong niềm vui chung, sự đoàn kết toàn dân mới có sức mạnh chiến thắng thiên nhiên và giặc ngoại xâm.

Uống nước nhớ nguồn, hội thi bơi chải tuy ngày nay chưa khôi phục được song dưới luỹ tre làng các cụ già vẫn ru cháu bằng câu ca nghe sao đầm ấm mà bình dị biết bao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Mơ thấy cổ tượng trưng cho ý chí và nhu cầu muốn kiểm soát cảm xúc bản thân trong cuộc sống hiện tại. Giấc mơ này cũng dự báo trong tương lai gần,
Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngủ mơ thấy cổ tượng trưng cho ý chí và nhu cầu muốn kiểm soát cảm xúc bản thân trong cuộc sống hiện tại. Giấc mơ này cũng dự báo trong tương lai gần, bạn sẽ gặp rủi ro, bạn nên thận trọng.

 

Mo thay co la cam xuc rac roi hinh anh
Ảnh minh họa

Thấy cổ họng của bạn trong mơ, biểu tượng cho khả năng bộc lộ bản thân và truyền đạt suy nghĩ, ý tưởng của bạn.

 

Mơ thấy bạn đau cổ họng, ám chỉ việc những điều bạn nói ra sẽ không được người khác ủng hộ. Thậm chí, khi bạn thể hiện bản thân mình sẽ có kẻ đe dọa bạn nữa đấy. Hơn thế nữa, điều này cũng cho thấy bạn đang bị người khác đè nén, kìm hãm.

 

Thấy cổ của bạn trong mơ tượng trưng cho mối quan hệ giữa trí não, tinh thần và cơ thể, thể xác. Cổ biểu thị cho sức mạnh ý chí, sự hạn chế bản thân và nhu  cầu kiểm soát cảm giác và giữ chúng trong cổ họng của bạn.

 

Thấy một cái cổ cao, thanh nhã, yêu kiều trong mơ, làn da trắng ngần dự báo sắp tới bạn sẽ được thăng quan tiến chức.

 

Thấy một cái cổ to, da sậm trong mơ là điềm báo tâm trạng bạn đang rối bới, bạn rất dễ cáu gắt và nóng nảy.

 

Chiêm bao thấy cổ bị thương hoặc bị đau, thậm chí là gãy cổ thì bạn đang có một sự mâu thuẫn không hề nhỏ giữa trái tim và lý trí. Cảm xúc và suy nghĩ của bạn đối lập với nhau, bạn không thể điều khiển nổi con tim cũng như cảm xúc của mình.

 

Mơ thấy cổ mình bị sưng lớn biểu thị ở cuộc sống hiện tại tính cách và cảm xúc của bạn thay đổi thất thường và cực kỳ nhanh chóng.

► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tổng hợp

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cổ là cảm xúc rắc rối

Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

Khi đặt tên cho người tuổi Mùi, bạn nên tránh các chữ thuộc bộ Tý, Sửu, Ngọ, Khuyển vì Mùi tương xung với Sửu và Ngọ, tương hại với Tý, không hợp với Tuất.
Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Do đó, bạn cần tránh các tên như: Mâu, Mục, Khiên, Long, Sinh, Khổng, Tự, Tồn, Hiếu, Mạnh, Tôn, Học, Lý, Hài, Du, Hưởng, Tuất, Thành, Quốc, Tịch, Do, Hiến, Hoạch…

Nhung kieng ky khi dat ten cho nguoi tuoi Mui hinh anh
Tuổi Mùi

Dê là động vật ăn cỏ, không ăn thịt và không thích uống nước. Do vậy, những chữ thuộc bộ Tâm, Nhục, Thủy như: Đông, Băng, Trị, Chuẩn, Tuấn, Vĩnh, Cầu, Tân, Hải, Hàm, Hán, Hà, Nguyên, Tất, Nhẫn, Chí, Niệm, Tính, Trung, Hằng, Tình, Tưởng, Hào, Tư, Hồ, Năng… không thích hợp với người tuổi Mùi.

Theo văn hóa truyền thống Trung Quốc, dê là một trong ba loài thường được dùng làm vật hiến tế khi đã đủ lớn. Trước khi hành lễ, dê thường được làm đẹp bằng những sắc phục rực rỡ. Để tránh điều đó, bạn không nên dùng những chữ thuộc bộ Đại, Quân, Vương, Đế, Trưởng, Thị, Cân, Sam, Y, Mịch để đặt tên cho người tuổi Mùi.

Những tên cần tránh gồm: Thiên, Thái, Phu, Di, Giáp, Hoán, Dịch, Mai, Trân, Châu, Cầu, San, Hiện, Lang, Sâm, Linh, Cầm, Lâm, Kì, Chi, Chúc, Tường, Phúc, Lễ, Hi, Lộc, Thị, Đế, Tịch, Sư, Thường, Bạch, Đồng, Hình, Ngạn, Chương, Ảnh, Viên, Bùi, Biểu, Hệ, Tư, Thống, Tông…

Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày Tết

Nếu bạn còn đang lóng ngóng với việc bếp núc trong những ngày Tết thì hãy tham khảo kinh nghiệm của các bà nội trợ lâu năm dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết cổ truyền 2016 đang đến gần, theo phong tục của người Việt trong 3 ngày Tết việc nấu ăn là điều vô cùng quan trọng giúp mang đến những bữa ăn sum họp đầm ấm và ngon miệng cho cả gia đình. Để công việc này được thực hiện dễ dàng hơn bao giờ hết, chị em có thể tham khảo một chút kinh nghiệm nhỏ của những bà nội trợ lâu năm cóp nhặt được để các mẹ các chị lo Tết được chu toàn.

1. Ngâm măng khô cho mau nở

10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày tết - ảnh 1

Dùng nước gạo để ngâm măng rất mau nở và khi nấu lại chóng nhừ. Nếu muốn để lâu, đầu tiên cho măng vào nồi nước đun sôi 30 phút sau đó chuyển sang lửa nhỏ đun tiếp một lát rồi vớt ra, cắt bỏ những chỗ già, rửa sạch. Dùng nước gạo hoặc nước sôi ngâm ăn dần. Cứ 2 - 3 ngày thay nước một lần.

2. Giữ hoa quả tươi lâu

- Cam, chanh, bưởi: Dùng vôi quét lên đầu cuống.

- Dưa chuột: Lấy một cái tô đựng nước, pha chút muối nhạt, cắm phần cuống trái dưa xuống nước ngập độ 1/3 trái dưa, để nơi thoáng mát hoặc ngăn mát của tủ lạnh. Mỗi ngày nhớ thay nước một lần, đảm bảo dưa của bạn sẽ tươi cả tuần.

- Táo, chuối, nấm, lê: Sẽ không biến màu nâu, nếu tưới lên một chút nước chanh.

- Hồng: Ngâm quả trong nước muối trong khoảng 5 phút (không ngâm lâu vì làm biến đổi chất trong quả). Dùng vải mềm rửa sạch phần núm quả vì đây là nơi vi khuẩn, nấm mốc xâm nhập vào quả gây hỏng, thối sớm. Lau khô và gói quả thật kín trong túi nilông và cho vào ngăn mát tủ lạnh khoảng 15 độ C.

- Dưa hấu: Ngâm cả quả vào dung dịch nước muối ăn có nồng độ 15% trong nửa giờ. Lấy ra lau khô vỏ dưa và bỏ vào túi màng polyethyene bảo quản ở nơi mát.

3. Để bánh chưng vẫn xanh sau khi luộc

10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày tết - ảnh 2

Sau khi luộc và ép thì bạn tháo bỏ dây lạt ra và gói thêm vào hai lớp lá mới. Bỏ lại vào nồi và nấu thêm một lần nữa nhưng chỉ luộc sơ qua để lá ngoài vừa hơi đổi sang màu xanh dầu. Đem bánh ra ngâm nước lạnh rồi ép nước và ép thật khô lại thêm một lần nữa.

4. Cách rã đông nhanh

10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày Tết - Ảnh 3

Nếu cần phải rã đông gấp, bạn hãy đưa thực phẩm vào lò vi sóng. Cách này rất tốt vì điện trường cao tần sẽ gây nên nội ma sát trong bản thân thực phẩm, khiến thực phẩm nóng lên, tan đông nhưng không làm vỡ tế bào. Nếu không có lò vi sóng hãy dùng nước lạnh pha thêm muối để rã đông cho nhanh.

5. Cách giữ hoa tươi lâu

- Cho vào lọ cắm một ít nước chè nguội.

- Nghiền nát viên aspirin cho vào nửa lít nước, lắc cho tan, cắm hoa vào nước này.

- Cho một ít rượu hoặc bia vào bình nước cắm hoa. Chất cồn trong rượu có thể khử trùng, tiêu diệt vi khuẩn trong lọ hoa đồng thời bổ sung một số thành phần dinh dưỡng khác làm hoa tươi lâu.

Đối với một số loại hoa như đào, mai, bạn có thể áp dụng cách đốt gốc.

6. Bí quyết luộc gà cúng

Cứ mỗi lít nước cho vào 20gr hành tím đã được nướng sơ, lột vỏ ngoài cùng 1 muỗng cà phê muối. Hành sẽ làm thơm nước luộc gà. Cho gà vào lúc nước nguội để da gà không bị nứt vỡ. Sau đó luộc gà trong nước sôi lăn tăn không sủi bọt.

10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày Tết - Ảnh 4

Để tạo cho gà có màu vàng óng, trông ngon mắt, tránh tình trạng luộc xong da bị sạm, xỉn màu thì khi gà vừa chín tới, bạn vớt ra khỏi nước sôi và ngâm ngay vào thau nước sạch, lạnh. Ngâm đến khi nào thịt gà nguội hẳn mới nhấc ra để giữ màu da không bị sậm xuống. Sau đó, để thịt ráo nước một chút, dùng mỡ gà đã thắng quệt một lớp lên da, da gà sẽ có màu vàng bóng và căng mượt.

7. Khử mùi tanh của cá

Dùng nước muối để rửa hay dùng muối hột xát lên cá hoặc ngâm cá đã làm sạch vào nước lạnh có pha ít giấm, hoặc trộn vào cá một ít hạt tiêu hay lá nguyệt quế. Như thế, khi nấu nướng, cá không còn mùi tanh.

Trước khi rán, bạn cho cá vào ngâm cùng một ít sữa bò, như vậy sẽ làm cá hết mùi tanh và tăng thêm độ tươi.

Sau khi làm sạch cá nước ngọt, bạn cho cá vào ngâm với rượu nếp khoảng 10 - 15 phút, sau đó tẩm bột để rán, cá sẽ thơm và hết mùi tanh của bùn.

Ngoài ra, nếu bạn muốn đánh vẩy cá được nhanh, sạch, trước hết, cho cá vào ngâm nước lạnh có pha giấm theo tỉ lệ một lít nước với hai thìa giấm, khoảng hai giờ. Như thế, khi bạn đánh vảy, vảy cá sẽ rơi ra dễ dàng.

8. Khử mùi hôi tủ lạnh

- Lấy 500gr quýt tươi rửa sạch, lau khô và đặt nhiều nơi trong tủ lạnh.

- Cắt chanh thành lát mỏng đặt vào các tầng ở tủ lạnh, mùi hôi sẽ bị hút hết.

- Lấy 50gr chè ướp hao đựng vào túi vải xô cho vào trong tủ lạnh, mùi hôi cũng sẽ được khử hết.

- Lấy ít giấm đựng vào lọ thủy tinh mở nắp đặt trong tủ lạnh, mùi hôi cũng sẽ bay đi.

9. Làm sạch đồ gia dụng

Phích đựng nước dùng lâu cũng thường có cặn bám ruột phích, làm khả năng giữ nhiệt bị giảm. Để tẩy các cặn đó, bạn hãy rót 0,5 l giấm đã đun nóng vào phích, đậy nắp ngâm một lúc rồi đổ đi, rửa sạch, các cặn bám trong phích sẽ bong ra hết.

Để việc rửa chén trở nên dễ dàng hơn, bạn hãy thêm vài muỗng giấm vào nước rửa chén. Giấm sẽ giúp tẩy sạch dầu mỡ nhanh hơn, đồng thời khiến chén đĩa trông sáng và sạch hơn.

Để rửa sạch những vết dơ của đồ ăn trong lò vi sóng, hãy rải một chút muối lên vết dơ khi nó vừa dính lên lò. Đợi đến khi lò nguội, dùng miếng bọt biển ấm chùi sạch.

Để làm sạch những vết ố trên ly, tách hoặc ấm nước, hãy cho vào một ít giấm và đun sôi. Giữ cho giấm sôi nhẹ khoảng 10 phút rồi rửa sạch lại bằng nước sạch.

10. Một vài mẹo vặt khác

- Lột vỏ cà chua: Cắt nhẹ vài đường vào nhiều chỗ trên vỏ, sau đó nhúng sơ cà chua vào nước nóng thì sẽ dễ lột vỏ hơn.

- Hành phi dễ giòn hơn khi rắc lên trên hành một chút đường trước lúc phi.

- Muốn dầu, mỡ không bị bắn ra ngoài khi rán, xào, rắc một ít muối ăn vào mỡ hoặc dầu.

Theo Ngôi sao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 mẹo vặt hữu dụng cho ngày Tết

Hướng bếp hợp người sinh năm 1983 Quý Hợi –

Hướng bếp tuổi quý Hợi 1983: Năm sinh dương lịch: 1983 - Năm sinh âm lịch: Quý Hợi - Quẻ mệnh: Cấn Thổ - Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp tuổi quý Hợi 1983:

2-2

Năm sinh dương lịch: 1983

– Năm sinh âm lịch: Quý Hợi

– Quẻ mệnh: Cấn Thổ

– Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);

– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1983 Quý Hợi –

Phương pháp hóa giải bát tự vượng Thủy khuyết Hỏa

Người mà bát tự có Thủy vượng thì ngũ hành khuyết Hỏa, cần phải điều chỉnh cho hài hòa. Có thể sử dụng một số biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh dưới đây.
Phương pháp hóa giải bát tự vượng Thủy khuyết Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi mà bát tự không cân đối thì là không tốt. Người mà bát tự Thủy vượng thì ngũ hành khuyết Hỏa, cần phải điều chỉnh cho hài hòa. Có thể sử dụng một số biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh dưới đây.


 
Phuong phap hoa giai bat tu vuong Thuy khuyet Hoa hinh anh 2
 
Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 yếu tố tự nhiên có quan hệ đăng đối, sinh khắc với nhau. Lá số tử vi của một người mà vượng ngũ hành này thì tất phải khuyết thiếu ngũ hành kia, đều là không tốt, mất đi sự cân bằng. Điều này khiến cho số mệnh của người đó gặp bất lợi về phương diện tương ứng với ngũ hành khuyết thiếu, ngũ hành không lưu thông.
  Ngũ hành lưu thông thì sinh vượng khí, phát tài khí. Bát tự Thủy vượng thì tức là khuyết Hỏa thì cần thỉnh Tài Thần thêm vào bùa hộ mệnh Âm Dương Ngũ Hành để thúc giục Âm Dương Ngũ Hành bảo hộ nguyên thần, bình an cát tường, tăng cường vận khí. Nên mang bùa theo người hoặc treo ở nơi làm việc, phòng ngủ, có tác dụng trấn trạch, hóa sát, bảo hộ. Bùa dựa vào ngũ hành khuyết thiếu. Thiếu yếu tố nào thì bổ sung yếu tố đó để lấy lại cân bằng trong số mệnh.
Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân Lá số tử vi của phụ nữ lấy chồng giàu sang Phá Quân lâm cung Nô Bộc - đừng quá tin bạn bè

Biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh
tiếp theo là tiến hành thay đổi ngũ hành bát quái. Chủ yếu là ở phòng khách, phòng ngủ tăng cường ngũ hành mà bát tự của mình bị thiếu để lưu thông sinh khí, điều tiết âm dương cho hài hòa. 
  Ví dụ như, bát tự khuyết Hỏa mà phía Nam ngôi nhà tương ứng với ngũ hành Hỏa, nên trang trí màu đỏ ở vị trí này, sẽ có lợi cho bản mệnh, hóa giải Thủy vượng, tăng cường Hỏa khí. 
Phuong phap hoa giai bat tu vuong Thuy khuyet Hoa hinh anh 2
 
Ngũ hành lấy cân bằng là cát lợi, nên phải điều chỉnh độ mạnh yếu của ngũ hành một cách tương xứng, hài hòa. Ví như, năm sinh Thủy vượng thì trrong cuộc sống hàng ngày không nên bổ sung ngũ hành Thủy, tránh cho Thủy khí quá phát.
 
► Xem ngày tốt xấu để tiến hành các việc đại sự
Luận giải lá số Thái Dương đóng tại cung Người có số nhờ chồng vì lá số Thân cư Phu Thê Xem ngay cách tránh lỗi mùa sinh trước khi có em bé
Thái Vân
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp hóa giải bát tự vượng Thủy khuyết Hỏa

Nguyên lý luận giải Lá Số

Bài viết của tác giả Long Quang Nguyen trình bày nguyên lý luận giải lá số Tử Vi. Đây là một bài viết rất hay. Mời bạn đọc cùng tham khảo!
Nguyên lý luận giải Lá Số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: long nguyen quang – vietlyso.com

Trước tiên ta hãy tìm hiểu những đặc tính cơ bản của môn tử vi. Môn tử vi chắc chắn có nền tảng là thuyết âm dương, ngũ hành, lịch pháp và đặc biệt là Thần sát. Theo tôi Thần sát không phải là những hành tinh đang bay vèo vèo trong vũ trụ, mà xét cho cùng Thần sát cũng là sự kết tinh của nguyên lý Âm dương, Ngũ hành cùng với sự mô phỏng qui luật của tạo hóa theo quan điểm của người xưa. Như vậy môn tử vi dựa trên các nguyên lý âm dương tích hợp (Thần sát ) và các yếu tố âm dương rời rạc theo toạ độ không gian và thời gian để đoán số mệnh. Người giỏi đoán số chính là giỏi phân tích và phán đoán sự kết hợp và tương tác giữa các yếu tố trên.

Điều cần lưu ý là trong một lá số tử vi có rất nhiều bài toán chồng chéo, cần phải phân biệt rõ các bài toán đó để định hướng luận đoán!

Bây giờ tôi xin đi sâu phân tích các cung trên lá số, vì người luận giải tử vi phải hiểu rõ ngọn nguồn hình thành các cung số thì mới rộng đường luận đoán.

1/ Cung Mệnh và cung Thân

Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận "Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân"; "Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt"... Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hỗ với nhau. Mệnh và Thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng. Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người. Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó.

Do vậy khi đoán cung mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào? Mệnh Thân chọi nhau như thế nào? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số. 

Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm. Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau. Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm: Nhóm thân cư Mệnh, Tài, Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc, Phối (Phu, Thê). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật... thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi, độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt Thân cư Mệnh. Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều! (vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau). Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chọi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc!

2/ Cung Thiên Di

Như đã trình bày ở phần trên Cung mệnh và cung Thân có mối quan hệ thể và Dụng nhưng đây là mối quan hệ nội tại của Mệnh, vẫn còn một Dụng của Mệnh nữa, đó là cung Thiên Di. Thiên Di và Mệnh là mối tương hổ nội ngoại đi kèm với tính chất đối xung của địa chi. Như vậy cung Thiên Di có thể xem là cung Thân thứ hai.

Do vậy cũng nên xoá bỏ quan niệm đơn giản cung Thiên Di là chỉ sự di chuyển! Phải hiểu rằng cung Thiên Di chính là một cung tương hổ với mệnh, ở cung này cũng đem nguyên lý thể Dụng ra xem xét mà định lượng cát hung, lợi hại. Nếu Thân cư Thiên Di thì ý nghĩa chế hoá tương hổ với cung Mệnh càng tăng. Góc độ nội ngoại, chủ khách nên được đặc biệt xét đến đối với cung thiên di.

Mệnh có Chính tinh, bàng tinh sáng sủa cung thiên Di cũng vậy coi như trong ngoài đều đẹp, độ số tốt tăng cao. Mệnh vô chính Diệu, Thiên di sáng sủa chỉ là tốt bậc thứ, vì như vậy là khách lấn chủ, chủ chỉ "có tiếng mà không có miếng", như vậy thà rằng Mệnh sáng sủa tốt đẹp cung thiên di vô chính Diệu thì đương số gặp nhiều may mắn do tự thân có, ngoài xã hội ít người chống đối mà cũng ít người nâng đỡ. Nếu thân cư Thiên di thì người hướng ngoại, ảnh hưởng xã hội nhiều hơn gia đình, điều này phải quyết đoán chắc chắn. Thân cư Mệnh thì ít ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài, chủ động về tư tưởng và hành động, nếu mệnh sáng sủa, cát tinh ứng hợp thì địa vị cao thăng, nếu thêm Cô thần, quả tú, trong mệnh nữa thì thường chuyên quyền, chủ quan. Nếu mệnh tối hảm thì trở thành người tự kỷ, thường hay cam chịu nhưng xem ra vẫn có lập trường...

Ngoài ra còn phải để ý đến thế Sao hay nhóm Sao của mệnh và Di để luận đoán. Ví dụ Mệnh có Phá quân + Tuế phá, Di có Tử vi - Thiên Tướng + Thái tuế thế là không thuận rồi, Dụng quá mạnh lấn áp Thể, cuộc đời có nhiều ức chế, khó thành công lớn, nếu làm chính trị thường hay thất bại! Chỉ nên an phận làm công nghệ, doanh thương thì tuỳ vào bàng tinh sáng sủa hay không để luận thành đạt hay thất bại.

Sự việc muôn màu muôn vẽ, nhưng cứ bám theo nguyên lý đối đãi của Thể dụng mà luận đoán thì ít khi sai lệch. Như vậy thì cung Thiên di và cung Thân chính là môi trường của Mệnh, cung Di cũng là tượng trưng cho xã hội, là sự di chuyển... Luận Mệnh,Thân, Di có thể biết tiền đồ của đương số, phùng thời hay thất thời, hoạ hay phúc tìêm ẩn trong đó, chỉ chờ vận hạn thích hợp là xảy ra. Nghiên cứu kỹ Mệnh,Thân, Di là bước cơ bản để định hướng cho luận giải vận hạn của tương lai!

3/ Cung Phúc đức

Nhiều sách thường cho rằng xem số thì đầu tiên phải xem cung phúc đức. Nhiều môn phái rất đề cao cung phúc đức, cho rằng cung phúc đức tốt xấu là độ số gia giảm tốt xấu cho lá số. Việc này đúng hay sai? Chúng ta hãy khoan triết lý sâu xa cái đã! Trước tiên chúng ta hãy giải quyết một vấn đề to bằng cái tủ đứng thường kê vào miệng các bậc cao thủ tử vi! Đó là thứ tự sắp xếp các cung! Đây là vấn đề mà tôi thấy cần phải làm rõ trước khi đi sâu vào luận giải các cung.

Gần đây trong một quyển sách của một học giả tiếng tăm đã cố gắng giải thích thứ tự các cung số bằng qui luật của vòng tràng sinh, theo tôi thì lý thuyết này chưa vững và còn nhiều gượng ép! Trước quyển sách này thì còn một vài quyển của một vài vị tiền bối cũng đã cố gắng giải thích nhưng tôi không muốn nêu ra e rằng gây những cuộc tranh cãi vô bổ! Theo tôi thứ tự các cung số có một cái lý rất hiển nhiên và giản đơn và tôi sẽ trình bày như dưới đây.

Trong lá số tử vi tôi nhận thấy có 3 nhóm người được thể hiện trên các cung số như sau:

  • Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức.
  • Huynh đệ, Phu - Thê, Tử tức.
  • Thiên Di, Nô bộc.

Trong tử vi thì lấy Mệnh làm chuẩn để xét các cung số khác, đó là nguyên tắc thứ nhất. Nguyên tắc thứ hai đó là áp dụng chiều thuận là chiều từ âm sang dương, trong đó mệnh làm ranh giới giữa âm và dương. (Chắc các bạn cũng có cảm nhận tương tự trong phần giải thích về cách an Tiền Kình hậu Đà mà tôi đã trình bày).

Nhóm thứ nhất là nhóm người tiền định ắt phải có trước, do đó đặt phía trước mệnh theo chiều thuận. (Trước đây tôi đã dùng giả thiết khí đi theo chiều nghịch để giải thích sự hình thành các cung từ cung phúc đức nhưng tới bây giờ thấy gượng ép và không nhất quán!) Do vậy nên, đầu tiên phải có Mệnh, tiếp theo là Phụ mẫu những người hiển nhiên phải có trước ta, tiếp theo phụ mẫu là cung phúc đức (ông bà,giòng họ, âm phần ), những người hiển nhiên có trước cha mẹ của ta. Cha mẹ, ông bà là những người mà ta không có quyền lựa chọn, do căn duyên mà ta tự tìm đến, do đó những lực lượng này ứng với phần dương.

Nhóm thứ hai là nhóm người đến sau, một người có thể không có anh em, vợ con cũng được. Những đối tượng do căn duyên giữa họ và ta mà họ tìm đến ta, cũng có thể có, cũng có thể không do đó ứng với phần âm, lần lượt ở phía sau cung mệnh. Một người từ nhỏ lớn lên phải có anh em, sau đó mới lấy vợ, chồng, sau đó mới có con cái. Do vậy sự xếp đặt các đối tượng này theo các cung số như một điều hiển nhiên cơ bản.

Nhóm thứ ba, nhóm này không đi theo qui luật của nhóm thân nhân của đương số, nhóm này tuân theo nguyên tắc nội ngoại, lấy cung Thiên di làm trung tâm. Như đã nói ở trên, cung thiên di chính là hoàn cảnh xã hội, thể hiện các hoạt động con người bên ngoài của đương số. Cung Nô đối cung huynh đệ, đó là anh em, cộng sự bên ngoài xã hội, do đó có lần tôi đã ví huynh đệ như tỷ kiên còn nô bộc như là kiếp tài trong môn tử bình. Còn cung tật ách thì sao? Cung này đối xung với cung phụ mẫu, nếu phụ mẫu là một đối tượng tích cực đối với ta thì Tật ách mang tính tiêu cực, nó không thể hiện là cha mẹ của ta ở ngoài xã hội, mà là thể hiện những yếu tố mà ta phải gánh chịu như một nghiệp quả - những yếu tố tiêu cực! Như vậy chúng ta có thứ tự sắp xếp cho các cung như sau: Lấy mệnh làm chuẩn, tiến về trước 1 cung là cung phụ mẫu, tiến về trước 1 cung nữa là cung phúc đức; Cũng lấy mệnh làm chuẩn, lùi về sau 1 cung là cung huynh đệ, lùi thêm cung nữa là cung phối (Phu Thê), lùi thêm một cung nữa là cung tử tức.

Còn các cung Điền trạch, quan lộc và tài bạch nữa nhưng để dành kỳ sau, bây giờ chúng ta quay lại chủ đề cung Phúc đức.

Ý nghĩa sâu xa của cung Phúc đức là gì? Phúc đức chính là phần âm của mệnh, cung Mệnh chính là phần dương. Cung Phúc đức và Cung Mệnh là một cặp phạm trù âm dương. Trong tướng pháp có phép xem âm chất và dương chất của một con người. Đã có dương tất có âm, âm dương hài hoà tương hổ mới tốt đẹp lâu bền. Đây là quan niệm cơ bản của các môn tướng số, dựa trên thuyết âm dương. Con người chúng ta đang hiển hiện với các hoạt động sống chính là phần dương, như vậy ắt có phần âm tương ứng phối hợp với phần dương thì sự vật mới gọi là sự sống! Vậy phần âm đó chính là cung Phúc đức của mỗi người. Do đó chúng ta cũng không lạ gì khi có người xem số thì xem cung phúc đức trước, cho rằng cung phúc đức ảnh hưởng độ số của lá số cũng không sai, nhưng cho rằng cung phúc đức quyết định sự tốt xấu của lá số là phiến diện và chưa nhận thức rõ bản chất vấn đề, bởi vì cung phúc đức chỉ thể hiện phần âm của mệnh mà thôi!

Như vậy, ngay trên 12 cung số thôi cũng đã có lắm cặp phạm trù, cặp thể dụng, xác định đúng đối tượng để mà so sánh, phân tích thì chúng ta mới hiểu và luận giải lá số trọn vẹn được.

4/ Cung Tài bạch và cung Quan lộc

Từ khi con người hình thành cuộc sống cộng đồng, rồi phát triển thành xã hội thì cái khái niệm Tài và Quan mới len lỏi hình thành theo! sự phân chia giai cấp càng mạnh mẽ thì khái niệm Tài Quan càng trở thành đối tượng rõ nét, là tiêu chuẩn đánh giá địa vị xã hội của con người! Nếu đem tử vi mà chấm cho người nguyên thuỷ thì Tài Quan có nghĩa là gì? Lúc đó người có mệnh Đế vương ắt sẽ làm Tù trưởng của một bộ lạc! Người có cung tài bạch rực rỡ chắc sẽ sở hữu nhiều cái vỏ sò! Còn cung thê Đào hoa mỹ mãn thì sao nhỉ? Lúc đó gặp đâu lấy vợ đó! Chỉ riêng cung Thê thì lúc nào cũng đúng!

Nói chơi vậy thôi! Chứ rõ ràng là môn tử vi lấy cái lý của tạo hoá mà diễn ra cái cuộc sống con người của chúng ta, vậy cái lý đó như thế nào? 

Nằm trong thế tam hợp với cung mệnh,Tài bạch và Quan lộc là hoá thân của cung Mệnh, phản ánh hai khía cạnh lớn của cuộc sống, đó là tinh thần và vật chất. Xét theo chiều thuận, cung quan ở trước cung mệnh ứng với phần dương, cung tài bạch ở sau cung mệnh ứng với phần âm. Phần dương thiên về tinh thần, do đó Phần dương ứng với cung quan lộc, phần âm thiên về vật chất do đó ứng với cung tài bạch.

hihi, chỉ đơn giản vậy thôi! Trở về với bản chất sâu xa của sự việc thì mới thấy mọi hình tướng phức tạp đều do con người tự bày vẽ ra mà thôi!

Người có thân cư tài bạch thì cuộc sống nặng về phần vật chất, thân cư quan thì cuộc sống nặng về tinh thần, sự nghiệp. Lượng định số Sao ở hai cung này, loại Sao gì để đoán định cho chuẩn. Xương Khúc, Tả Hữu, Long Phương, Khoa Quyền... tại cung quan thì cuộc sống thiên về tinh thần, đầu óc thoáng rộng, các sao này lạc vào cung tài bạch thì không hợp cách. Các Sao Lộc đóng ở cung Tài bạch thì đắc cách, tự nhiên giàu có thường thiên về kinh doanh, buôn bán, hay tính chuyện thiệt hơn, nặng về vật chất!Tuần triệt cung quan lộc thì công danh trắc trở, đời sống tinh thần có nhiều phiền muộn, âu lo! Tuần triệt cung tài bạch thì vật chất hao tổn, tài sản không nhiều, phúc về vật chất không có bao nhiêu!

Nắm rõ ý nghĩa các cung số thì quí vị tuỳ nghi rộng đường mà tán lá số cho hay!

5/ Cung Điền Trạch

Theo dòng suy luận sự hình thành các cung, chúng ta thấy Mệnh rồi đến phụ mẫu, tiếp theo là Phúc đức, tiếp theo Phúc đức là Điền trạch. Vậy Điền trạch đóng vai trò gì mà nối tiếp sau cung Phúc đức, nối tiếp ở đây có nghĩa là có trước cả cung Phúc đức?

Xin trả lời: Cung điền trạch chính là quê hương, bản xứ của đương số, là nơi phát tích của giòng họ. Nghĩa thứ hai của nó mới là nhà cửa, điền sản của đương số! Người xưa, nhất là người Tàu họ thường quan trọng đất phát tích của giòng họ, nói đến người nào đó là họ thường nói đến quê quán gốc tích, Họ nào thì thường có Quê hương của Họ đó, trong quyển Bách tính có thể hiện rất rõ điều này. Như vậy sự sắp xếp của cung điền trạch kế tiếp theo cung phúc đức là có ý nghĩa rõ ràng: Quê hương rồi mới đến giòng họ, rồi tiếp theo là cha mẹ của ta, rồi mới đến bản thân ta là cung Mệnh. Đó là một trình tự logic mang đậm tính đạo lý và văn hoá.

Tôi, trong quá trình chấm số nhận thấy người nào có cung Điền trạch bị tuần triệt là không được hưởng điền sản của tổ tiên và phải tha hương lập nghiệp. Nếu cung Thiên di bị Tuần triệt nữa thì ý nghĩa đó càng rõ ràng. Nhưng chuyện tha hương lập nghiệp ngày nay đôi khi lại là vinh dự đấy nhé!

Như vậy là trên đây tôi đã trình bày vài dòng suy luận về sự hình thành các cung trên lá số và các tính chất đặc trưng của một số cung số. Việc bàn rông hơn về ý nghĩa các cung thì quí vị có thể tham khảo ở rất nhiều sách tử vi đã xuất bản.

Tôi trình bày đôi điều về Tử vi là nhằm khơi gợi tư duy về môn học này ở một số bạn có tâm nghiên cứu. Vì như chúng ta đã biết, muốn luận giải đúng số tử vi thì phải hiểu rõ ngọn nguồn của tử vi, phải hiểu vì sao có cung Thân, cung Mệnh vì sao từ tháng sinh tính ngược theo giờ là cung Mệnh mà thuận theo giờ là cung an Thân, Vì sao tiểu hạn năm nào không coi tại cung đó mà nhảy sang cung khác để coi... Phải hiểu cho rõ thì mới linh động mà luận số chứ cứ bắt chước theo sách xưa thì cũng có ngày đoán trật!

Có thể nói rằng lý thuyết về tử vi tôi đã tinh thông và hiểu tận ngọn nguồn! Nhưng tôi chưa trình bày ngay một lúc là vì tôi e rằng đọc giả sẽ có người bội thực! Và tệ hơn nữa là "Thực bất tri kỳ vị", các bạn thử tưởng tượng có một người đầu bếp chuẩn bị những món ăn công phu, hấp dẫn nhưng người ăn chẳng biết ngon hay dở, món nào cũng như món nào, nhiều khi lại chê bai này nọ thì có uổng công người đầu bếp kia không?!

Tôi xin hứa với các bạn yêu thích tử vi tôi sẽ tìm cách trình bày cho các bạn lĩnh hội được môn tử vi dưới nhiều góc độ khác nhau, nếu các bạn thường xuyên theo dõi ắt cũng được một số tuyệt chiêu! Sở dĩ tôi hứa với các bạn là vì tôi yêu thích môn tử vi và do đó tôi cũng yêu mến các bạn- những người nghiên cứu tử vi, thế thôi!

Tuần Triệt

Chủ đề Tuần Triệt mà tôi đã hứa trình bày với các bạn là một chủ đề rất phức tạp, từ xưa đến nay các sách nói đến rất lờ mờ!

Theo tôi Tuần và triệt là hai con Xúc Xắc chơi trò sấp ngửa - đỏ đen với số mệnh của con người, Mệnh có chính tinh sáng sủa gia thêm tuần triệt thế là hỏng! Mệnh chính tinh hảm địa, vô chính diệu đóng thêm tuần triệt thế lại hay! Rồi vận hạn cũng như thế!

Vậy cơ chế của tuần và triệt là gì? Tôi đã có lần viết về chủ đề Tuần và Triệt nếu các bạn đã theo dõi chắc cũng có một vài ý niệm về" Hai con xúc xắc " này. Nhưng Tuần và triệt không đơn giản như một vài sự định nghĩa nôm na trên một số sách! Và tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy có những môn phái tử vi không quan trọng về Tuần Triệt!

Hiện nay có nhiều môn phái ứng dụng Tuần triệt theo những góc độ khác nhau, nổi bật lên đó là hai trường phái: Tuần Triệt cố định và Lưu Tuần Triệt. Tôi dám chắc rằng những người đang sử dụng các phương pháp này vẫn đang lúng túng trong quá trình ứng dụng vì trong thực tế thấy có khi đúng thật đúng, có khi lại sai. Vậy nguyên nhân vì sao?

Do vậy một lần nữa tôi đề nghị chúng ta hãy nắm thật rõ cơ chế của Tuần và Triệt trước khi giải đoán lá số.

Chắc có nhiều bạn thắc mắc tại sao? Tôi phải trình bày lý thuyết xong mới giải đoán số, sở dĩ như vậy là vì tôi nhận thấy rằng môn tử vi tồn tại trong một hoàn cảnh thiếu khoa học!!! Thật vậy, tôi đọc các sách từ trước đến giờ, chằng có sách nào trình bày cho ra trò về lý thuyết tử vi, giỏi lắm thì một vài quyển sách cố gắng giải thích nguồn gốc một số sao theo kiểu "lấy thịt lợn nuôi lợn", gần đây có quyển "Tử vi hoàn toàn khoa học" của Đằng Sơn, mượn lý thuyết của ông Tạ Phồn Trị để giải thích mà cũng chẳng tới đâu! Người mới học tử vi mà đọc quyển này thì "ngơ ngác như con nai vàng đạp trên lá vàng khô"! Những lý thuyết được trình bày trong quyển sách này chỉ là sự gượng ép vào những hiện tượng, chỉ thể hiện những bước cuối của một chuỗi vấn đề mà thiếu hẳn sự suy nguyên ngọn nguồn một cách nghiêm túc. Đã vậy còn luôn mồm kêu gọi mọi người biết ơn cái ông Tạ Phồn Trị xa lạ nào đó!!!

Thử hỏi dựa trên một mớ lý thuyết chưa được chứng minh rõ ràng thế kia thì việc ta đoán đúng một lá số sẽ có mấy phần lý thuyết đúng? Có mấy phần ngộ nhận? Trước đây tôi đoán số cho người ta, nhiều trường hợp thấy rất đúng thì tôi cũng chẳng mừng, có nhiều khi đoán sai thì tôi cũng chẳng buồn, đó là vì tôi thấy môn Tử vi còn thiếu một hệ thống phương pháp luận chuẩn xác nên những cái đúng sai lẫn lộn kia chỉ là những hệ quả tất nhiên! Đã vậy có những người đưa lá số của mình ra như là một câu đố để rồi đánh giá vị thầy nào hay, vị nào dở! Nhưng họ có biết đâu, chính sự thành tâm hợp tác với người đoán số mới là cách làm hay nhất để hiểu biết về số mạng của mình.

Do vậy, trong thời gian gần đây tôi cố gắng nghiên cứu và hệ thống lại lý thuyết môn tử vi. Trên diễn đàn này, tôi muốn trình bày cho các bạn một hệ thống lý thuyết về môn tử vi mà tôi đã nghiên cứu được, những phần lý thuyết này cũng được trích từ bản thảo của quyển sách mà tôi sẽ xuất bản. Tôi mong rằng khi các bạn hiểu rõ lý thuyết và phương pháp luận tử vi một cách chính xác thì chính các bạn sẽ tự chấm lá số của chính mình, chỉ có các bạn mới tự khám phá ra chính bản thân các bạn, không ai khác có thể làm điều đó cho các bạn! Qua đó môn tử vi mới được các bạn trân trọng đúng mức và có một chổ đứng vững chắc trong xã hội như những ngành khoa học khác. Đó là điều mà những người yêu thích môn tử vi như chúng ta cần phải làm!

Xác định vai trò của Mệnh và Cục

Tôi trong quá trình nghiên cứu về tử vi đã nhận thấy rằng trong môn tử vi nếu thiếu phương pháp luận về ngũ hành thì việc luận giải sẽ mất phương hướng, muốn luận ngũ hành thì việc đầu tiên phải xác định vai trò của mệnh và cục.sau đây tôi xin định nghĩa ngắn gọn về mệnh cục

1/ Thế nào là mệnh?

Ví dụ: một người sinh năm Bính tuất có mệnh là hành thổ, có nghĩa là năm Bính tuất có Bính và tuất nạp âm là hành thổ, hành khí này bao trùm suốt cả năm, do đó người sinh trong năm này bị ảnh hưởng bởi khí thổ - mệnh thổ.

2/ Thế nào là cục?

Ví dụ: Người sinh năm Bính tuất đó có lá số là thổ ngũ cục có nghĩa là vị trí mà cung mệnh đóng có nạp âm là hành thổ. Vị trí này được thể hiện là vị trí của tháng canh tí hoặc tháng tân sửu trong năm Bính tuất đó, nếu cũng là người sinh năm Bính tuất đó mà là mộc cục thì do mệnh đóng tại các tháng dần mão, tuất hợi.

Như vậy cách xác định hành khí của cục là cụ thể hơn mệnh, và hành khí của mệnh là bao trùm cục. Ta cũng có thể nói nạp âm của năm sinh là Đại Mệnh và hành của cục là Tiểu mệnh. Lúc này ta thấy rằng hành khí của một con người (theo quan niệm của tử vi) được xác định bởi Mệnh và Cục, nhưng hai vị trí hành khí đó có đặc trưng riêng và không hòa lẫn nhau được. Và điều quan trọng là hành khí của cung mệnh khác hành khí của tháng sinh. Theo tôi người ta có thể so sánh mệnh với tháng sinh để biết được mùa sinh hay không, tháng sinh có khắc mệnh hay không thì được chứ không nên so sánh sinh khắc giữa mệnh và cục vì cục là hành khí có tính chất vi mô, bằng chứng là từ cục ta xác định được các chính tinh, do đó hành khí của cục liên quan đến hành khí của chính tinh thì đúng hơn.

Vì hành khí của mệnh là bao trùm tất cả nên hành khí của mệnh liên quan đến hành khí của các sao là đương nhiên, do đó chúng ta có hai trung tâm điểm về ngũ hành khi luận sự tương tác ngũ hành của các sao, cũng như ảnh hưởng của các sao đến số mạng con người. Hai trung tâm điểm đó là mệnh và cục, độ tương hợp ngũ hành của các Sao với hành của mệnh và Cục là điều rất quan trọng ! Có thể nói nôm na là sự ảnh hưởng của các sao đối với số mạng của đương số giống như một ảnh hưởng thuận nghịch hai chiều, chiều của mệnh và chiều của cục.

Để cho dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ: một người Thổ mệnh và Mộc cục, hạn đến các sao hành Thổ đương nhiên là ảnh hưởng đến đương số, khi hạn đến các sao thuộc Mộc, người Thổ mệnh đó có một thời gian ngắn bất ổn sau đó Mộc cục phát huy tác dụng, phản ứng thuận nghịch đổi chiều,các sao mộc vẫn giúp cho đương số thành công. Đây là một trong những trường hợp tôi đã gặp rất nhiều trong thực tế.

Qua những điều trên, tôi có thể nói rằng chuyện cục khắc mệnh không thể gọi là xấu, cục sinh mệnh chưa thể gọi là tốt mà hãy kết luận điều này phối hợp với các sao của mệnh và vận để kết luận. có như vậy mới tránh được những kết luận sai lầm gây ấn tượng xấu cho đương số!

3/ Thêm một kinh nghiệm về Mệnh và Cục

  • Dùng nạp âm của tuổi tức là Hành của mệnh (Đại mệnh) so với Lệnh tháng sinh để biết độ vượng suy của Mệnh. Từ đó so nạp âm của mệnh với nạp âm của các năm hạn, nếu thấy vượng hay suy thì tính chất của vận hạn cũng phức tạp hay đơn giản tương ứng theo. Ví dụ: Mệnh Hỏa, sinh tháng tí thế là Mệnh bị khắc, nếu gặp nạp âm của năm vận là thủy thì Mệnh càng bất lợi, nếu bộ Sao của vận xấu thì độ số xấu càng tăng, nếu gặp Sao tốt thì độ số tốt cũng giảm!
  • Dùng hành của Cục để so với lệnh tháng để biết độ ứng của số có thể hiểu nôm na là độ "ăn số" của lá số. Ví dụ: Hành của Cục bị lệnh tháng khắc thì độ ăn số giảm, có nghĩa là gặp bộ sao tốt mà thấy không tốt bao nhiêu, thấy sao xấu nhưng cũng chẳng xấu bao nhiêu!

Trên đây là các kinh nghiệm mà nhiều khi chấm số thấy hạn của đương số trên lá số tốt quá liền phán là đương số đại phát tài, thăng quan tiến chức nhưng thực tế thì chẳng được bao nhiêu! do đó mà các "Thầy" cũng nên cân nhắc trước khi "phán"!

Vòng Tràng sinh của Cục

Hôm nay tôi xin nối tiếp chủ đề Nguyên lý luận giải Lá số bằng một mục rất quan trọng là Vòng Tràng sinh của Cục. Từ trước đến nay có nhiều trường phái về cách an vòng tràng sinh, chính vì nhiều trường phái thì tranh cãi về vấn đề này cũng nhiều! Xin trình bày vắn tắt một số trường phái đó như sau:

1/ Tràng sinh chỉ khởi từ bốn vị trí Dần, Thân, Tỵ, Hợi Thuận cho Dương nam âm nữ, Nghịch cho âm nam đương nữ.

2/ Tràng sinh khởi từ dần thân tỵ hợi cho dương nam âm nữ và từ tí ngọ mão dậu cho âm nam dương nữ.

3/ Tràng sinh và đế vượng đồng cung cho trường hợp âm nam dương nữ.

Có thể là còn nhiều cách nữa nhưng chốn giang hồ mênh mông nên chưa thể biết hết được! Tuy nhiên theo tôi các cách an tràng sinh trên chưa đúng! Và tôi xin được trình bày cách an vòng tràng sinh mà bản thân tôi đã kiểm chứng nghiệm lý được như sau:

- Vòng tràng sinh cho các Cục đều khởi thuận.

- Mộc cục khởi tràng sinh từ hợi.

- Hỏa cục khởi tràng sinh từ Dần.

- Kim cục khởi tràng sinh từ tỵ.

- Thủy cục khởi tràng sinh từ Thân.

- Riêng Thổ cục không nên xét theo quan điểm một vòng tràng sinh liên tục mà chỉ xét độ vượng suy: Vượng tại tỵ ngọ, Tướng tại Thìn tuất sửu mùi, Hưu tại thân dậu, Tù tại Hợi tí, Tuyệt tại dần mão.

Sở dĩ vòng tràng sinh an theo chiều thuận là do hành khí của các Cục là hành khí nạp âm, mà hành khí nạp âm là do tổ hợp số của 4 yếu tố can chi đứng cạnh nhau cấu thành, từ số quí về hành khí, đây là loại hành khí phức tạp khi đã nhìn rõ bản chất của loại hành khí nạp âm thì không có chuyện phân âm dương cho hành khí, cụ thể là hành khí của cục số, chính vì khí nạp âm là một loại khí không thuần nên Vòng tràng sinh của hành khí đặt nặng điểm Sinh, còn mười một vị trí còn lại cứ tự nhiên nối tiếp nhau. An vòng tràng sinh như thế này rất rõ ràng, đơn thuần là xét vị trí vượng hoặc suy của ngũ hành Cục từ đó đánh giá độ số của lá số. Đây cũng là dấu hiệu sử dụng ngũ hành trong tử vi rõ ràng nhất. Tuân thủ đúng nguyên tắc vượng suy của ngũ hành chúng ta sẽ dễ dàng đánh giá sự suy vượng của mệnh và vận đồng thời cũng có phương hướng rõ ràng cho việc Lưu Cục hàng năm khi tính tiểu hạn.

Vòng tràng sinh ứng với mười hai cung số là nguyên tắc cơ bản của môn tử vi. Chỉ cần đánh giá vị trí cung mệnh đóng nằm ở vị trí nào của vòng tràng sinh và độ vượng suy hành khí của nạp âm tuổi với tháng sinh là đủ đánh giá tổng quát cuộc đời của một con người thuộc cấp bậc nào. Do vậy nhìn nhận đúng đắn về vòng tràng sinh là một điều cơ bản quan trọng của người nghiên cứu tử vi!

Đối với những người nghiên cứu tử vi chuyên nghiệp thì bước đầu tiên để luận giải lá số là phán đoán và định hướng lá số này có những tính chất gì phú, quí thọ hay bần hèn yểu...Tìm yếu tố mầm mống trong mệnh thân là những yếu tố nào, điều kiện nào sẽ trở thành hiện thực giống như đã có nhân thì cần phải có duyên rồi mới có quả được. Muốn phán đoán được thì phải tổng quan các cường cung, định tính, định lượng các Sao... Đó là phương pháp chính thống.

Nay tôi xin cung cấp cho các bạn một phép coi ngắn gọn, có thể trả lời sau 5 phút kể từ lúc nhận được thông tin ngày giờ sinh của đương số mà vẫn đảm bảo độ chính xác khả dụng.

1/ Ngựa chạy về đâu?

Thiên mã trong mệnh tượng trưng cho cái động của con người, động mà có lợi thì có thể đoán là tốt, công việc hanh thông. Động mà bất lợi thì...dĩ nhiên là thất bại, cuộc đời thua thiệt, sự nghiệp ắt có lúc ách tắc.

Thiên mã nghĩa đen là xe cộ, "you are what you drive", đoán xe cộ sang hèn cũng nói lên chuyện giàu nghèo, sang trọng.

Thiên mã gặp hung họa thì đời có tai biến, nghĩa đen gặp nạn giao thông...

Con ngựa lợi hại lắm đó! Coi số là phải tìm con ngựa ngay.

Thiên mã gặp Hóa lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa kỵ là dễ thấy nhất. Cứ trên lá số, lưu đại vận, tiểu vận thấy Mã có lợi là chuyện vui đang tới còn Mã gặp hóa kỵ là chuẩn bị mất việc, thất bại rất rõ ràng.

Cái chiêu này là tuyệt chiêu chuyên trị xem vận hạn từng năm. Nếu ai luyện kỹ thì mới thấy hết cái diệu dụng.

Sau khi đã xem ngựa hay dỡ thế nào rồi thì tiếp tục xác định đó thực sự là ngựa của ai?

Xét tổng quan, ngựa nằm bất cứ đâu trong 12 cung số thì rồi cũng có lúc mình phi ngựa thôi, đó là tới vận mượn ngựa mà chạy. Nhưng Ngựa nằm ở Mệnh Thân, Tài. Quan, Di mới là ngựa thật sự của mình.

- Ngựa ở Mệnh và Di là ngựa chạy mạnh nhất.

- Cung Quan, Tài, cung Thân có ngựa thì tính chất di chuyển yếu đi và cần phải phụ luận thêm cung Mệnh như thế nào. Tuy nhiên các cung này có Mã thì luôn thể hiện sự tài năng, sự sinh động theo ý nghĩa từng cung.

Ví dụ:

- Mã ở cung Tài thì tiền bạc lưu chuyển tốt, nói lên sự buôn bán.

- Mã ở cung Quan, công việc có tính cách lưu động, thuyên chuyển tùy sự phối hợp các Sao để đoán.

Đó là xem lá số tĩnh. Cần phải xem lá số động, tức là theo dõi đại vận và tiểu vận với Lưu Thiên mã tương ứng.

- Lưu vận, có Thiên mã gặp Thái dương là "ngựa về với chủ" tức gặp được người đở đầu, bậc đàn anh, về làm việc phò tá cho người đó.

- Lưu Thiên mã đại vận còn thấy được bóng dáng sự biến chuyển của cả đại vận.

Ví dụ: Đại vận tới cung Dần, Lưu Thiên mã đại vận tại cung Thân gặp Tả phù, Hữu Bật chiếu thì đại vận đó được quí nhân giúp đỡ, có bạn hiền phò trợ.

Ví dụ: Thiên mã gặp Thanh long là có cơ chuyển biến cuộc đời, "Ngựa mọc cánh"...

- Thiên mã gặp Hóa Kỵ mới là "ngựa cùng đường" chứ không phải là Mã ở cung Hợi đâu!

Điều quan trọng, nếu ngựa là của mình như đã nói trên thì sự chuyển biến sẽ rất mạnh mẽ và thực sự tác động đến cuộc đời đương số. Nếu các bộ cách của Thiên mã liên quan đến lục thân thì lục thân có biến chuyển. Do vậy việc phân tích Mã của ai rất quan trọng trong luận đoán. Đoán có chính xác hay không cũng tùy vào đó.

Như các phần trên đã nói về Thiên mã, phần động của lá số. Bây giờ nói đến phần tĩnh của lá số. Chú ý đây là phép phán đoán nhanh, chứ phần động và phần tĩnh của lá số không chỉ có vậy.

Sao Thái tuế chính là phần tĩnh của lá số. Thái tuế ví như Hoàng đế, phải yên vị mới tốt, Thái tuế đi với cách cục đầy đủ, vững vàng thì tốt vô cùng, còn Thái tuế gặp cách cục lỏng chỏng, hắc hảm thì báo hiệu vua lưu vong, triều đình tan nát, kết cuộc là bản thân của người có lá số đó bị vạ lây: Nếu mệnh cung sáng sủa thì độ số tốt cũng giảm, nếu mệnh cung xấu thì cầm chắc cuộc đời điêu linh!

Ví du 1: Thái tuế đóng tai ngọ, mệnh cũng đóng tại ngọ có Tử vi miếu địa thủ chiếu. Tử vi tại ngọ là chính vị sáng sủa, Thái tuế đóng tại đấy thì Thái tuế đắc chính vị, độ số may mắn của lá số lớn vô cùng! Ví dụ lá số của Lưu Bang tuổi giáp ngọ hoặc một lá số thực tế cũng tuổi giáp ngọ và Tử vi tai ngọ mà tôi biết, người nay ít học, tuổi trẻ gian khổ nhưng tay trắng lập nghiệp, hiên nay rất giàu có, là một tay chơi đồ cổ có số má...

Tính thêm thì thấy tuổi ngọ Thiên mã ở cung Thân gặp Hóa quyền, là ngựa oai phong quyền hành cho nên năng nổ tháo vát và có uy thế.

Ví dụ 2: Lá số của vua Quang Trung, tuổi nhâm thân, Thất sát tại cung thân thủ mệnh. Thiên mã tại cung di gặp Tử vi Hóa quyền nên công danh và địa vị cái thế!

Chính vì vậy xem qua lá số, coi phần tĩnh phải tĩnh, phần động phải động, cách cục sáng sủa là lá số may mắn, gặp thời, có đất dụng võ. Nếu ngược lại thì cầm chắc gian nan, trở ngại!

Đúng là Phần Tĩnh là cung Mệnh, phần Động là cung Di. Nhưng không chỉ có thế, trong là số còn nhiều yếu tố nói lên điều đó, ví dụ như Thái tuế là phầ tĩnh, Thiên mã là phần động. Nhưng tôi đang nói đến vấn đề phán đoán nhanh lá số nên đang bàn về Thiên mã và Thái tuế thôi.

Thiên mã trong mệnh là nói lên tính chất năng động của Mệnh, ở môi trường nào cũng năng động, dĩ nhiên bao gồm ý nghĩa đi xa.

Thiên mã cung di nói lên tính chất giao tiếp, đi ra bên ngoài, sự đi xa,..nhưng chưa chắc là người hoạt bát năng động!

Nên nhớ cung mệnh là gốc nói lên những thuộc tính của bản thân còn các cung còn lại là những nhân duyên của Mệnh mà thôi!

Một trao đổi ngắn với KhiemVan

Chào bạn Khiem Van thân mến!

Rất cảm ơn bạn vì những nhận xét tinh tế của bạn! Sau đây xin trích dẫn và trả lời những vấn đề bạn nêu ra.

1, Tôi thấy từ một số luận đoán thời gian gần đây của anh em (kể cả vụ Tuần châu) thì Tử vi thời hậu công nghiệp này có lẽ đi quá xa sách vở căn bản.

Cũng tại vì sách vở xưa không bày ra hết, nên người hậu học cứ phải suy luận hoài, nhiều khi luận không ra đành biến thành biết bao chiêu mới.

Ví dụ luôn: Nhiều bạn nghiên cứu sâu vào từng sao nhỏ, phụ tinh càng làm phong phú thêm; nhưng đồng thời lại trệch luôn, thành ra nâng tầm các sao này lên làm "chính", không lý giải sao người này làm vua, người kia làm tướng bằng các sao chính... lại đi tìm câu trả lời trong sao nhỏ.

Hay là sự gán gượng theo trường phái Thiên Lương, cái gì cũng áp vòng này vòng kia, để tìm cho được có "được ưu đãi", có "giấc mộng hoàng lương không"...

Cụ TL áp nhân sinh quan sinh động vào TV nhưng vận dụng ở đâu lại là một lẽ khác.

Quả là tử vi thời hậu công nghiệp này biến hóa đủ thứ mà chẳng ra sao cả! Ngay cả thứ tử vi "nâng bi" các sao nhỏ như: Thiên trù, Thiên tài, Thiên thọ, Lưu Hà, Kiếp sát, Đào hoa, Hồng Loan... thành những Siêu Sao mang đầy triết lý hơn Chính tinh thì tôi đã không chấp nhận từ lâu!

Tôi chính là một tay chế biến đủ thứ chiêu thức trong tử vi, tôi đã chế ra tới 14 cách tinh tiểu hạn và nguyệt hạn! Ngay cả vụ bà Tuần châu tôi cũng đã ứng dụng một trong 14 cách mà kết quả cũng chẳng ra sao! Nhưng cuối cùng tôi đã quay về với những kiến thức cơ bản, nhờ cuộc hành trình biến hóa va chạm đủ thứ thì lần quay về của tôi lại với một góc nhìn khác, cái nhìn đã ngộ ra nhiều điều mà sách vở chưa từng nói hoặc là đã bị dấu nghề bời các tiền bối! qua đó tôi thấy rằng, việc chế ra chiêu thức này nọ là một điều rất bổ ích và thể hiện đẳng cấp tử vi vì mỗi lần sáng chế như vậy chính là một lần chuyển mình để nhìn nhận tử vi theo nhiều góc độ, có khi nhìn sai nhưng cũng có khi phát hiện ra cái mới, chính những cái mới đó mới làm chúng ta tiến bộ trong học thuật! Và những cái sai mà cuối cùng ta phát hiện ra là ta sai lại khẳng định những kiến thức đã có để chúng ta tự tin mà phán đoán những lá số khác!

Vậy thì những cái sai hay còn gọi những thứ sáng chế không ra sao đó cũng là một thứ có ích, một thứ tất yếu phải có trong quá trình phát triển tư duy học thuật như một con sâu lột bỏ cái xác cũ để hóa thành bướm! Và những cái mới đó là đúng đắn đã được nghiệm lý kỹ càng sẽ được đưa vào sách vở cho hậu thế nghiên cứu! Chẳng hạn bây giờ tôi đã chắt lọc ra được một chiếu thức tính vận hạn rất xuất sắc, nhờ nó mà tôi đã kiểm chứng được rất nhiều dữ kiện của nhiều lá số mà chỉ bằng những kiến thức trong sách vở chúng ta không thể thấy được!

2, Nghiên cứu văn hóa Phương Đông, cần sự suy ngẫm cả lý luận và thực tế có bề dày; hãy khoan viết sách trước 40s.

Bạn hãy đi hỏi hàng trăm nông dân, thợ cày, ông đạp xích lô, bác vá xe lá số của họ...

để tìm hiểu xem Cũng từng ấy sao chính phụ, từng ấy cung, lá số của họ như thế nào. Cung tài quan của họ ra sao, chính tinh phụ tinh (Tam hóa, XK, KV, TP, vòng Thái Tuế, vòng Lộc tồn... ) của họ ở đâu? Nứơc VN, đa phần là nông dân, nghèo, và không chức vị, học hành.

Giải thích cùng một lá số lại sướng khổ khác nhau, chúng ta thường giải thích sự khác nhau về điều kiện sinh sống. Nhưng cụ thể như thế nào. Sao có người vẫn sinh ra ở vùng nghèo khó và lên đô thị học và phát triển, sao người khác cùng quê lại không? Cả một trường học, cả một làng quê nghèo thì số như thế nào?

Bạn hãy dùng cả phương pháp thông kê, và phỏng vấn cho nghiên cứu của mình... Chỉ nhớ tránh đừng hỏi cô nông dân là số cô có phải Vua đang đi ra ngoài cung/ vua của cô gặp cướp/ gặp tướng hay không, thôi.

Một vài lời nếu không phải xem như tôi chưa nói gì.

Đến giờ phút này tôi dám nói rằng tử vi là một khoa học nghiên cứu về con người hoàn chỉnh nhất, nó tự mang trong mình cả môn Triết học,tâm lý học, Nhân tướng học, xã hội học, thời sinh học, văn học...Chứ không phải đơn giản là một môn Dự đoán học đâu! Nói như vậy để nói rằng Tử vi dư sức phân biệt được những con người có lá số khác nhau và những lá số có ngày giờ sinh giống nhau, thậm chí trường hợp sinh đôi cùng trứng!

Có nhiều người hay lấy trường hợp sinh đôi cùng trứng để bắt bẻ văn vẹo môn tử vi nhưng tôi thấy tội nghiệp cho họ vì họ không hiểu được vấn đề mà họ đặt ra, tôi xin trả lời vấn đề này như sau:

- Cùng một ngày giờ sinh thì trên một đất nước có cả trăm ngàn người cùng sinh ra, vậy vai trò của tử vi là gì? Tử vi chính là Thiên cơ, người nào sinh vào thời điểm nào tức là gia nhập vào chu trình biến hóa âm dương ngũ hành vào thời điểm đó. Nhưng mỗi con người có những đặc trưng riêng: Về cấu tạo di truyền, kiểu gen, về vận khí của ông bà cha mẹ, anh em, vợ con, vận khí và phong thủy của địa phương... Mỗi con người mang cái vốn liếng khác nhau đó tương tác với thiên cơ thì dĩ nhiện vận khí của họ cũng khác nhau chứ? Ngay cả trường hợp sinh đôi cùng trứng thì quá trình phát triển của tế bào trên hai cơ thể sinh đôi này cũng đâu có giống nhau, mà chu trình phát tiển tế bào khác nhau này dẫn đến hai cơ thể đâu có giống nhau mặc dầu nhìn bằng mắt thường vẫn thấy giống nhau! Ở đây chưa nói đến chuyện Linh hồn khác nhau vì e rằng phải chứng minh thêm chuyện tồn tại của linh hồn! Thế thì hai cơ thể khác nhau thì làm sao có số phận giông nhau, nhưng những điểm giống nhau của hai cơ thể sinh đôi này cũng đưa đến những số phận tương tự nhau! Ví dụ thực tế: Tại thời điểm này có hai anh em sinh đôi người Ba lan một người làm tổng thống còn người kia làm thủ tướng, như vậy thì tử vi cũng phản ánh đúng thực tế đấy chứ!?

Vài dòng chia sẻ!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên lý luận giải Lá Số

Hình xăm tatoo ở chỗ kín của phái đẹp –

Các “tín đồ” của hình xăm tìm mọi cách để che giấu bằng cách xăm hình vào những “chỗ hiểm” trên cơ thể, không phải vì họ ngại dư luận hay sợ cái nhìn khắt khe của người khác, mà đơn giản xăm chỗ kín nhằm thể hiện sự sành điệu và cả mức độ gan lì của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

người mang hình xăm.

Chuyện xăm hình ở cổ, tay, chân, lưng giờ đã trở nên lỗi thời, thay vào đó các bạn trẻ tìm đến những nơi kín đáo mà không phải ai nhìn vào cũng thấy. Lý do không phải vì ngại ngần mà đơn giản đó đang là trào lưu hot, có như vậy mới thể hiện đẳng cấp “số má” của các khách chơi tattoo.

Các mẫu hình xăm ở chỗ kín đẹp của phụ nữ:

20121128images107429312jpg1354077347Muốn khoe được hình xăm này hoặc là diện áo hở rốn,hoặc là mặc quần cạp trễ

hinhxam13jpg1354077347Thiếu nữ hóa công

Fairy Tattoo (108)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm tatoo ở chỗ kín của phái đẹp –

Lựa chọn địa điểm và đầu tư có hiệu quả –

Khi lựa chọn địa điểm cho cửa hàng, văn phòng công ty, thường phải hết sức cẩn thận. Nhưng tuyệt đối chúng ta không thể coi việc địa điểm kinh doanh là yếu tốt quan trọng nhất. Nhiều khi, vị trí đất, cửa hàng, văn phòng rất tốt, nhưng chỉ tốt và ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ù hợp với loại hình kinh doanh cụ thể. Không phải bất kì loại hình kinh doanh nào cũng phù hợp với những nơi tập trung đông đúc, trung tâm đô thị. Nhiều người vì tìm vị trí đất tốt mà phải tiêu tốn rất nhiều tiền về chi phí giao dịch, phí thuê nhà, mà không tính đến nơi đó có hợp với ngành nghề kinh doanh của mình hay không. Vị trí được gọi là tốt chỉ khi vị trí đó phù hợp với loại hình, ngành nghề kinh doanh của mình mà thôi.

951ec68746233e.img

“Đầu tư sẽ có kết quả”. Quan điểm sai lầm này lại không phải là cách nghĩ của nhà đầu tư, mà do các của hàng bán lẻ và hệ thống đại lý đưa ra, dần dần trở thành suy nghĩ bình thường của người đầu tư (tiêu dùng). Giá cả hàng hoá của các cửa hàng không ngừng tìm cách tăng giá, điều đó càng thúc đẩy sức tiêu dùng mạnh, người tiêu dùng phải chỉ ra ngày càng nhiều, mà phương pháp kích cầu là con đường duy nhất để tăng trưởng lợi nhuận, nó cũng đồng nghĩa tăng cao lợi ích cho các nhà đầu tư. Như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư và giới kinh doanh quan tâm, nâng cao giá trị sản phẩm.

Người đầu tư thấy giá trị ngày càng cao, thì trong đầu luôn hy vọng vào lợi ích gặt được nhiều. Trong khi tâm lí mong đợi vào lợi nhuận cao và những lời hứa của nhà cung cấp cũng được cường hoá sẽ hình thành một định thức tâm lí: Giá tiêu thụ cao = Tiền lãi cao = Lợi nhuận thu về cao, người đầu tư sẽ tin rằng, bỏ ra nhiều sẽ thu lợi nhiều. Với tư duy giản đơn như vậy, rất phù hợp để đầu tư kinh doanh nhỏ lẻ. Nhưng việc đầu tư và các hộ kinh doanh cá thể có độ rủi do cao, không phải mọi khoản tiền khi đầu tư ra đều thu được lợi nhuận. Hơn nữa, giá cả hàng hoá, tiền thuê cửa hàng, nhân viên và lợi nhuận không phải bao giờ cũng tỉ lệ thuận. Nói một cách khách quan, trong trường hợp khi gian hàng của bạn có giá trị hàng hoá cao, thì chi phí sẽ cao.

Nhưng giá bán thường không phải là do giá trị của nó quyết định, có nhiều mức độ được quyết định bởi sự ảnh hưởng của cung cầu trên thị trường, cùng có những quan hệ mật thiết trong các hoạt động mở rộng về đóng gói sách lược hay tuyên truyền của nhà mở rộng, nhà đầu tư thường bị những nhân tố này làm lung lay, không có cách nào nhận biết được giá trị đầu tư chân thực của cửa hàng. Một nguyên nhân quan trọng tạo nên tiền thuê, giá bán khác là sự nhạy cảm về địa đoạn và vị trí của cửa hàng đó. Những cửa hàng có địa điểm gần nhau, vị trí gần nhau khi định giá cũng đều có sự đối chiếu lẫn nhau, sự sai lệch về giá cả là rất lớn. Nhưng tiền thuê lại khác nhau, chúng không phải là không thể như nhau, vách ngăn của một con phố có thể có sự phân biệt rõ rệt, có gần phố hay không có phố có thể có sự không đồng nhất.

Cho nên có thể nói rằng: Đầu tư cửa hàng không thể căn cứ vào sự phán đoán cao thấp giá bán giá trị đầu tư đó, chỉ cần không kiểm tra một chút có thể sẽ mua được “cửa hàng giá bán cao, giá thuê rẻ”, dự kiến thu lợi không thể đối diện, mà còn phải mang một gánh nặng tiền vay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn địa điểm và đầu tư có hiệu quả –

Thăng Long Tứ Trấn - Hà Nội

Thăng Long tứ trấn để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, và là di sản quý báu của dân tộc
Thăng Long Tứ Trấn - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh thành Thăng Long xưa – Thủ đô Hà Nội nay là mảnh đất thiêng ngàn năm văn vật, nơi hội tụ, kết tinh những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời, nơi đây, còn lưu giữ những giá trị truyền thống, những di sản quý báu của dân tộc với hàng loạt các công trình kiến trúc cổ vô giá và độc đáo – Tiêu biểu phải kể đến “Thăng Long tứ Trấn”.

Thăng Long tứ trấn để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long đó là:

  • Trấn Đông: đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ – thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9
  • Trấn Tây: đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Lệ), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang – một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11
  • Trấn Nam: đền Kim Liên, trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17
  • Trấn Bắc: đền Quán Thánh (đúng ra là đền Trấn Vũ), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10.

Thăng Long tứ trấn còn một cách hiểu khác đó là bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ vòng ngoài khi kinh thành trực tiếp bị đe dọa. Ngoài ra, vì ở gần kinh thành nên bốn trấn còn là những lực lượng có nhiệm vụ “cứu giá” và dẹp yên nội loạn khi kinh thành có biến. Đó là các trấn:

  • Kinh Bắc: bao gồm 4 phủ (20 huyện) các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Phúc Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, Võ Giàng, Quế Dương (5 huyện – thuộc phủ Từ Sơn) Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài (5 huyện – thuộc phủ Thuận An) Kim Hoa, Hiệp Hoà, Yên Việt, Tân Phúc (4 huyện – thuộc phủ Bắc Hà), và cuối cùng là: Phượng Nhãn, Hữu Lũng, Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn (6 huyện – thuộc phủ Lạng Giang). Vì trấn lỵ ở Đáp Cầu, huyện Võ Giàng (phía Bắc kinh thành), nên Kinh Bắc cũng được gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm =>> Thành Bắc Ninh đặt tại Bắc Ninh.
  • Sơn Nam: Gồm 11 phủ (42 huyện) tương đương các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Hưng Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên (3 huyện – thuộc phủ Thường Tín) Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An (4 huyện – thuộc phủ Ứng Thiên) Nam Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục (5 huyện – thuộc phủ Lý Nhân) Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi, Phù Dung (5 huyện – thuộc phủ Khoái Châu) Nam Chân, Giao Thuỷ, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên (4 huyện – thuộc phủ Thiên Trường) Đại An, Vọng Doanh, Thiên Bản, Ý Yên (4 huyện – thuộc phủ Nghĩa Hưng) Thuỵ Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đông Quan (4 huyện – thuộc phủ Thái Bình) Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê, Thanh Lan (4 huyện – thuộc phủ Tân Hưng) Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định (3 huyện – thuộc phủ Kiến Xương) Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (3 huyện thuộc phủ Trường An) và cuối cùng là: Phụng Hoá, An Hoá, Lạc Thổ (3 huyện – thuộc phủ Thiên Quan). Vì trấn lị ở phía Nam kinh thành, nên Sơn Nam cũng được gọi là trấn Nam hay trấn Ly=>> Thành Nam đặt tại Nam Định.
  • Hải Dương: Gồm 4 phủ (18 huyện) bao gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đường Hào, Đường An, Cẩm Giàng (3 huyện – thuộc phủ Thượng Hồng) Gia Phúc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại (4 huyện – thuộc phủ Hạ Hồng) Thanh Hà, Thanh Lâm, Tiên Minh, Chí Linh (4 huyện – thuộc phủ Nam Sách) và cuối cùng là: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi Dương, Kim Thành, Thuỷ Đường, An Dương (7 huyện – thuộc phủ Kinh Môn). Vì trấn lị ở phía Đông kinh thành, nên Hải Dương cũng được gọi là trấn Đông hay trấn Chấn =>> Thành Đông -Thành Hải Dương đặt tại Hải Dương.
  • Sơn Tây: Gồm 6 phủ (24 huyện) tương đương các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên và Sơn Tây sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, Thạch Thất, Đan Phượng (5 huyện – thuộc phủ Quốc Oai) An Lãng, An Lạc, Bạch Hạc, Tiên Phong, Lập Thạch, Phù Khang (6 huyện – thuộc phủ Tam Đái) Sơn Vi, Thanh Ba, Hoa Khê, Hạ Hoà (4 huyện – thuộc phủ Lâm Thao) Đông Lan, Tây Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương (5 huyện – thuộc phủ Đoan Hùng) Tam Nông, Bất Bạt (2 huyện – thuộc phủ Đà Dương) và cuối cùng là: Mỹ Lương, Minh Nghĩa (2 huyện – thuộc phủ Quảng Oai). Vì trấn lị ở phía Tây kinh thành, nên Sơn Tây cũng được gọi là trấn Tây hay trấn Đoài, Thành Tây – Thành cổ Sơn Tây đặt tại Sơn Tây.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thăng Long Tứ Trấn - Hà Nội

Hiếu thảo với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất

Nhân sinh như mây, ai cũng tìm mọi cách cuộc đời thật tốt đẹp hanh thông mà ít biết rằng, cách tốt nhất để cải vận chính là hiếu thuận với cha mẹ.
Hiếu thảo với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân sinh như mây, ai cũng tìm mọi cách cuộc đời thật tốt đẹp hanh thông mà ít biết rằng, cách tốt nhất để cải vận chính là hiếu thuận với cha mẹ.


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác

Hieu thao voi cha me la cach cai thien so menh tot nhat hinh anh
 
Phật dạy cách cải thiện số phận là hành thiện làm việc tốt, chăm giúp đỡ người khác, mà trong đó, hiếu thuận với cha mẹ là việc căn bản nhất. Còn bất hiếu với cha mẹ là nghiệp ác phải gánh nợ nhiều nhất.   Phật giáo lấy chữ hiếu làm đầu, hiếu thuận với cha mẹ là nghĩa vụ hàng đầu của con cái, là đạo lý làm người cơ bản. Tình cảm với cha mẹ là tình cảm từ tâm, càng nhiều càng phát tiết ra ngoài.    1. Hiếu thuận với cha mẹ là việc tích đức tốt nhất   Tích đức hành thiện thì lấy giúp đỡ người khác làm đầu. Nhưng nếu ngay cả cha mẹ mình còn chưa đối tốt thì còn có thể trợ giúp được ai? Mà cha mẹ còn không phải người dưng, có công sinh thành dưỡng dục to lớn, nên tốt với cha mẹ chính là hành thiện. Trước khi có thiện nguyện phát tâm giúp đỡ người khác thì hãy đem thiện tâm đặt trên người cha mẹ mình.   5 chòm sao hết mực hiếu kính cha mẹ
Những chòm sao hiếu thuận luôn quan tâm, chăm lo cho cha mẹ rất nhiều. Sự yêu thương của họ thể hiện rất cụ thể và thường xuyên.

2. Hiếu thuận với cha mẹ có thể xây xựng trường khí vững mạnh
  Cha hiền con hiếu, mẹ thiện con thuận sẽ tạo ra bầu không khí ấm áp, thoải mái, vui vẻ. Chính điều này sẽ ảnh hưởng tới tất cả mọi người trong nhà, nhất là con trẻ. Gia đình hòa ái, kính trên nhường dưới thì đứa trẻ lớn lên cũng tự khắc biết hiếu thuận, ngoan ngoãn và mang bản tính thiện lương.    Từ đó mà phong thủy cùng vận khí của gia đình cũng được cải thiện theo chiều hướng tích cực, tràn đầy năng lượng. Tự dưng người trong nhà cũng cảm thấy vận mệnh của mình khá lên rõ rệt. Người hiền có phúc báo của người hiền, điều này không thể sai.   3. Hiếu thuận với cha mẹ, vận may tìm đến cửa   Cầu thần bái Phật mong may không bằng đối tốt với cha mẹ ở nhà. Kinh Phật cũng đã chỉ ra, hiếu thảo là cách tốt nhất để cải vận. “Cha mẹ là trong nhà Phật”, cầu cha mẹ thiết thực hơn là lễ lạt đền này chùa nọ. Hơn nữa, “phúc đức tại mẫu”, con cháu hưởng ân đức của cha mẹ, chính cha mẹ sẽ mang tới tốt lành, tài phú cho con trẻ.   Trần Hồng (Theo 14944)
Xem Clip Cách làm chủ giận dữ để thanh tâm bình an

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiếu thảo với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất

Chùa Tiên - Hà Nam

Chùa Tiên là danh thắng nổi tiếng của huyện Thanh Liêm với nhiều huyền tích, chùa tọa lạc trên xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Chùa Tiên - Hà Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tiên tọa lạc trên núi Đụn, thôn Đồi Ngang, xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Đây là danh thắng nổi tiếng của huyện Thanh Liêm với nhiều huyền tích.

Tương truyền Chùa Tiên là vùng núi địa linh – nơi có 99 con phượng hoàng bay về cư ngụ trên đồi thông 99 ngọn và bàn cờ tiên. Đêm đêm trăng thanh gió mát, tiên thường hạ giới đánh cờ và thưởng ngoạn núi non. Tưởng nhớ các bậc tiên thánh, nhân dân trong vùng đã lập chùa thờ tự.

Hiện nay xung quanh khu vực chùa Tiên còn lưu giữ nhiều ngọc phả, sắc phong quý và có ý nghĩa lịch sử lớn của vùng đất Thanh Liêm. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, danh thắng chùa Tiên được người Pháp chọn là nơi nghỉ dưỡng và phát triển du lịch sinh thái. Trải qua hàng trăm năm, ngôi chùa đã được tu sửa nhiều lần.

Lễ hội chùa Tiên được phục dựng từ năm 1992, lễ hội diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Cùng với nghi thức rước mẫu lên chùa, nghi thức tế lễ cầu quốc thái dân an, lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ thu hút đông đảo tín đồ phật tử và khách thập phương tham gia.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tiên - Hà Nam

Những đại kỵ trong đám tang cần tránh tuyệt đối

Cưới hỏi, ma chay đều quan trọng như nhau. Nếu phạm phải những điều đại kỵ trong đám tang dưới đây, cả người sống và người đã khuất đều khó mà yên ổn.
Những đại kỵ trong đám tang cần tránh tuyệt đối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người xưa có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.


1. Người dự đám tang ăn mặc lòe loẹt, hở hang

Trang phục phù hợp nhất khi đi dự lễ khâm liệm, an táng hay cải táng là màu đen hoặc trắng. Mặc những đồ lố lăng, lòe loẹt, hở hang là điều cần tránh.

Ngoài ra, phụ nữ có thai, trẻ em hoặc những ai bị chó dại cắn không nên đi tới đám tang. Họ có thể bị nhiễm hơi lạnh từ thi thể người mất vì ốm đau, bệnh tật, không tốt cho sức khỏe và cả mặt phong thủy.

Trong trường hợp nhà có trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai sống gần gia đình có tang, nên đặt lò than đốt vỏ bưởi hoặc bồ kết để trừ uế khí.

2. Chó mèo nhảy qua thi thể người chết

Khi thi thể người chết chưa được đặt vào quan tài, phải cử người coi giữ ngày đêm, vừa tỏ lòng thương tiếc, lại ngăn không cho chó hay mèo nhảy qua xác. Bởi như vậy dễ xảy ra hiện tượng quỷ nhập tràng (người chết bật dậy để bắt người sống). Đây là một trong những điều đại kỵ trong đám tang, cần phải tránh tuyệt đối.

Nhung dai ky trong dam tang can tranh tuyet doi hinh anh
 
3. Nước mắt rơi vào thi hài khi khâm liệm


Người xưa quan niệm rằng, nếu để nước mắt rơi xuống khi khâm liệm sẽ khiến con cháu làm ăn khốn khó. Vì thế, dù thương xót người quá cố tới đâu cũng phải đứng xa một khoảng nhất định, tránh để nước mắt nhỏ vào thi hài.

4. Đi thật nhanh khi khiêng linh cữu

Dân gian có tục giữ cho thi hài người chết được nằm yên, vì thế, khi khiêng linh cữu cần phải nhẹ nhàng, cẩn thận, tránh đi nhanh. Thậm chí, những người khiêng linh cữu phải cố tình đi thật chậm để thể hiện sự lưu luyến với người đã khuất.

5. Khi về vẫn cố quay đầu lại

Hạ huyệt người đã khuất xong, khi ra về, những người đưa tang phải tuyệt đối tránh quay đầu lại.

6. Cưới gả trong thời gian để tang cha mẹ


Trong thời gian để tang cha mẹ phải kiêng kị việc cưới hỏi, lấy chồng lấy vợ để tỏ lòng kính trọng, thương tiếc người đã khuất.

Theo quan niệm xưa, thời gian để tang là 3 năm. Nhưng ngày nay, việc kiêng cữ không còn kỹ lưỡng như trước. Một số gia đình có thể lấy vợ, gả chồng cho con sau giỗ đầu.

Nhung dai ky trong dam tang can tranh tuyet doi hinh anh 2
 
7. Chôn đồ dùng của người sống cùng người chết hay dùng đồ thừa của người chết


Khi chôn cất người chết, kiêng dùng quần áo hay đồ dùng của người còn sống cho người mất vì như vậy là người mất đã mang đi một phần của người sống, khiến người đó có thể bị ngớ ngẩn, hay quên.

Ngoài ra, người sống cũng kiêng nằm giường thừa, mặc quần áo thừa, dùng đồ thừa của người chết để lại.

8. Để ánh sáng mặt trời soi trực tiếp khi cải táng

Trước khi cải táng (sang cát), thông thường các đình sẽ xem ngày, giờ tốt. Việc cải táng luôn được thực hiện về đêm để tránh ánh sáng mặt trời. Vì có nhiều trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh sáng mặt trời chiếu vào, thi thể sẽ rữa ngay và teo lại.

9. Dùng quan tài bằng gỗ liễu

Theo quan niệm của dân gian, quan tài kỵ dùng gỗ cây liễu. Bởi cây liễu không có hạt, sợ đời sau không có người nối dõi. Chất liệu tốt nhất để làm quan tài là gỗ cây tùng hoặc cây bách.

Điều tu dưỡng lớn nhất trong mỗi cuộc đời con người (P1)
– Có câu “Nghiêm dĩ luật dĩ, khoan dĩ đãi nhân”, nghĩa là: Lấy nghiêm khắc làm kỉ luật cho mình, lấy khoan dung rộng lượng để đối xử với
10. Không chọn ngày tổ chức tang lễ và vị trí chôn cất


Xem ngày, xem giờ và vị trí chôn cất là việc làm vô cùng quan trọng, để tránh những điều không may xảy ra. Vị trí của mộ tốt hay xấu có thể ảnh hưởng đến con cháu đời sau. Dưới đây là một số kiêng kỵ khi chọn vị trí chôn cất:

– Không được chôn cất ở nơi có tảng đá lớn

– Không chôn cất ở nơi có bãi cát và nước chảy xiết

– Không chôn cất ở kênh rạch và nơi hoang vắng

– Không chôn trên đỉnh núi cô độc

– Không chôn xung quanh đền, chùa, miếu

– Không chôn gần nhà tù

– Không chôn nơi đồi núi hỗn loạn

– Không chôn nơi phong cảnh u sầu

– Không chôn nơi ẩm ướt hoặc địa hình không ổn định.

11. Một số điều kiêng kị khác

Người chết vì treo cổ tự tử: Theo tục lệ xưa, người thân phải chém đứt dây mà không tháo dây vì như vậy mối oan nghiệt mới dứt, tránh bị họa chết chóc sau này.

Người chết ngoài đường, chết đuối: Thân nhân người chết phải tổ chức tang lễ tại nơi chết hoặc dựng lán ngoài đồng để làm lễ, kiêng đưa xác về nhà vì có âm khí sẽ không có lợi cho việc làm ăn, sinh sống của những người trong nhà.

Con cái mất trước cha mẹ: Kiêng việc cha mẹ đích thân đưa tang con, vì con cái mất trước là nghịch cảnh, bất hiếu, gây nhiều đau thương. Cha mẹ có thể đau buồn mà ngất trên đường đi đưa ma, ảnh hưởng tính mạng, nên phải làm vậy để vơi nỗi buồn, tránh trùng tang.

=> Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất

Ngọc Điệp

Điều tu dưỡng lớn nhất trong mỗi cuộc đời con người (P2)
– Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đại kỵ trong đám tang cần tránh tuyệt đối

Tại sao phòng ngủ lại là “khu vực vận may” của chủ nhà? –

Người xưa khi xây dựng nhà, phần nhiều thường dùng căn phòng lớn nhất làm phòng ngủ của chủ nhà, một mặt có thể bày tỏ sự tôn quý và địa vị của chủ nhà, mặt khác đó cũng là nơi vượng khí, vượng vận nói chung trong phong thủy học truyền thông.  

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa khi xây dựng nhà, phần nhiều thường dùng căn phòng lớn nhất làm phòng ngủ của chủ nhà, một mặt có thể bày tỏ sự tôn quý và địa vị của chủ nhà, mặt khác đó cũng là nơi vượng khí, vượng vận nói chung trong phong thủy học truyền thông.

anhsang_phongngu1

 

Lý thuyết nền tảng của thuyết phong thủy cổ đại cho rằng nếu chủ nhà hấp thu được khí vận may đầy ắp trong không trung thì có thể rước về vận may, mà khí vận may tồn tại ở nơi có luồng khí mạnh nhất, đậm đặc nhất trong nhà, do vậy nên đặt phòng ngủ tại đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao phòng ngủ lại là “khu vực vận may” của chủ nhà? –

Cấm kị tài vị, quên là thoái tài

Hãy vận dụng một chút biện pháp phong thủy chiêu tài để ý nguyện sớm thành hiện thực. Trước hết là 6 điều cấm kị đối với tài vị, cần hết sức lưu ý.
Cấm kị tài vị, quên là thoái tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai chằng mong vận may của mình dồi dào, nhưng nếu chỉ ngồi chờ sung rụng thì biết bao giờ mới có. Hãy vận dụng một chút biện pháp phong thủy chiêu tài như tài vị để ý nguyện sớm thành hiện thực. Trước hết là 6 điều cấm kị đối với tài vị, cần hết sức lưu ý.


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Cam ki tai vi, quen la thoai tai hinh anh
 

1. Tài vị kị ép

  Phong thủy học nhấn mạnh tài vị bị ép rất không may mắn. Nếu đặt tủ quần áo, giá sách hoặc kệ tủ lớn ở tài vị thì tài vận của chủ nhân sẽ cực kì kém. Vì lẽ đó, tài vị chỉ nên kê giường ngủ, bàn làm việc, ghế sofa mà thôi.  

2. Tài vị kị nước

  Theo quan điểm phong thủy, Thủy đại diện cho Tài nhưng tài vị lại kị nước trầm trọng, không khác gì đẩy tài thần xuống nước. Không nên bày bể cá, cây thủy sinh, bố trí đài phun nước,…. ở vị trí này  

3. Tài vị kị không có chỗ dựa

  Tài vị nên có chỗ dựa chắc chắn ở sau lưng, coi như tài lộc có chỗ dựa dẫm, đảm bảo, củng cố phía sau, sẽ tàng phong tụ khí, mang tới may mắn. Mặt khác, nếu phía sau tài vị là cửa kính, cửa thủy tinh, cửa nhựa trong suốt thì sẽ khó tích tụ của cải, hơn nữa chủ nhân vì nhụt chí mà hay gặp rủi ro trong đầu tư.
Cam ki tai vi, quen la thoai tai hinh anh
 

4. Tài vị kị xung

  Có người bố trí tài vị rất thỏa đáng nhưng quên mất vị trí đối diện và vùng phụ cận của tài vị. Phong thủy tối kị góc nhọn, vật nhọn đối diện với tài vị, tạo thành sát khí, ảnh hưởng đến tài vận.  

5. Tài vị kị bẩn

  Nhà vệ sinh, nhà tắm hoặc nhà kho mà đặtở tài vị thì sẽ tạo ra tổn hại, làm giảm giá trị của tài vị. Không thể khiến tài vị không thể chiêu tài mà còn khiến tài lộc tổn hao, có ra và không có vào.  

6.Tài vị kị tối

  Tài vị nhất định phải sáng sủa, ấm áp, không nên tối tăm, âm u, sẽ khiến tài lộc ngưng trệ, vận trình đi xuống, chủ nhân gặp nhiều xui rủi. Nếu tài vị không đón được ánh sáng tự nhiên, hãy bố trí thêm đèn có ánh sáng màu vàng để thu hút tài lộc, sáng rỡ tài vận.
Xác định phương vị Thần Tài trong năm 2017 3 cách xác định Tài vị trong nhà chuẩn không cần chỉnh Tài vị - trọng yếu trong tài vận của gia đình
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cấm kị tài vị, quên là thoái tài

Phong thủy khi xây dựng nhà –

Khi xây nhà, mọi người thường sợ sẽ gặp phải rủi ro khi "động thổ". Tuy nhiên nếu để ý một chút đến các yếu tố phong thủy, bạn có thể hạn chế được những rủi ro thường thấy. 1. Phong thủy cho ngôi nhà đẹp Phong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xây nhà, mọi người thường sợ sẽ gặp phải rủi ro khi “động thổ”. Tuy nhiên nếu để ý một chút đến các yếu tố phong thủy, bạn có thể hạn chế được những rủi ro thường thấy.

1. Phong thủy cho ngôi nhà đẹp

Phong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì địa khí sẽ quyết định được mảnh đất đó có tốt cho việc phát triển công danh tài lộc, sức khỏe hay không. Nếu mảnh đất đó mà có “xạ khí” tức là tử khí thì cần phải hóa giải khí đất trước khi xây dựng. Nếu gia chủ không kiểm tra địa khí và thiết kế phong thủy trước khi xây dựng thì khi làm nhà trên đó sẽ rất nguy hiểm và khó hóa giải.

Thiết kế phong thủy trước khi xây dựng là để việc phân phòng, phân cổng, cửa, hướng nhà, hướng bếp, hướng ban thờ, phòng ngủ, đường nước vào và ra đúng với nguyên lý và kỹ thuật phong thủy, nhằm đảm bảo ngôi nhà xây xong thì mọi người sống trên đó được khỏe mạnh, tinh thần luôn ở trạng thái tốt.

kieng-ky-khi-xay-nha1(1)

Thiết kế phong thủy trước cũng là việc lựa chọn được các số đo đẹp cho cửa cổng, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ, ban thờ sao cho lấy được các số đẹp mang lại may mắn. Ngoài ra, bạn sẽ không phải phá gian nhà này để làm phòng bếp hay thay đổi thiết kế lại ngôi nhà trong quá trình sử dụng. Việc chuẩn bị trước còn tạo cho bạn tư tưởng yên tâm và thỏa mãi để công việc cũng như cuộc sống được tươi mới hơn.

Ngôi nhà đẹp trước tiên phải được tọa lạc trên miếng đất bằng phẳng nằm ở địa thế cao, tránh xậy nhà trên miếng đất nghiêng như thế sẽ khiến những người sống trong căn hộ đó cảm giác lo lắng. Nhà ở nơi đất thấp ngoài việc bị lụt lội mùa mưa, còn bị ẩm mốc mùa hè.

Xét từ góc độ khoa học, ngôi nhà được xây trên thế đất bằng phẳng sẽ có khả năng chịu lực tốt và công trình sẽ có tuổi thọ lâu hơn. Nhưng nếu phải xây nhà trên mảnh đất dốc thì lựa chọn cần chú ý quan sát môi trường xung quanh.

Ngôi nhà đẹp hợp phong thủy không chỉ hài hoà từ hướng nhà, hướng cửa mà còn tử tổng thể phối cảnh xung quanh ngôi nhà.

Khi xây nhà nên có một chút đất trống ở hướng Nam, điều này sẽ rất tốt đối với gia chủ. Dù cho mảnh đất đó để không hoặc sử dụng làm vườn hoa đều đem lại những điều tốt cho mọi nhà. Nếu mặt phía Nam của ngôi nhà đối diện với một vườn hoa thì càng tốt. Nó sẽ tạo ra một không gian thư thái, thoáng mát để nghỉ ngơi cho nhà bạn và đặc biệt cát lợi về mặt phong thủy .

Mái che mưa (thường ở sân trước nhà) nên làm thành hình vòng cung, tránh làm thành mũi nhọn nếu không sẽ làm bất lợi cho chủ nhà, đặc biệt về sức khỏe.

Khi làm nhà, bạn nên cân đối tỉ lệ giữa diện tích nhà và cửa chính, cổng chính. Không nên thiết kế cống chính và cửa chính quá lớn so với diện tích căn nhà. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ ngôi nhà mà còn khiến nhà bị hao tài, tán của…

kieng-ky-khi-xay-nha3

2. Một số trường phái trong thiết kế phong thủy trước khi xây nhà

Phong thủy địa khí: đo khí đất, đo năng lượng của đất, từ đó sẽ biết mảnh đất đó là mảnh đất phát về kinh doanh, về quan trường, hay là mảnh đất bình thường, đất gây bệnh… Từ đó, bạn có phương pháp hóa giải nếu không may gặp đất xấu.

Phong thủy bát trạch: dựa trên cung mệnh của mệnh chủ và hướng đất để tính toán xem hướng nhà có hợp không, không hợp thì hóa giải như thế nào, tính toán các hướng: giường ngủ, hướng bếp, hướng bàn thờ, hướng bàn học, bàn làm việc, hướng cửa, hướng cổng sao cho được các khí tốt.

Phong thủy loan đầu: khảo sát, phân tích các con đường, ngôi nhà, dòng sông, ao hồ, ngọn núi, cao ốc chung quanh mảnh đất để xem tác hại hay tác dụng tốt đến ngôi nhà, từ đó đưa ra phương pháp hóa giải.

Huyền không phi tinh: dựa vào năm xây dựng và nhập trạch, dựa vào số độ la bàn của sơn – hướng ngôi nhà để xác định các thế trận sao (khí của các vì sao trong chòm sao bắc đẩu) ảnh hưởng như thế nào, từ đó các phương án mở cửa chính, cửa phụ, làm non bộ, làm tiểu cảnh nước, làm cửa cổng.

An thần sát: đây là trường phái tính toán phải đạt đến độ tuyệt đối và khi đó sắp xếp phân phòng, mở cửa cổng, cửa chính để đạt được sự ứng nghiệm. Đây có thể coi là nghệ thuật và cũng là đỉnh cao trong phong thủy.

kieng-ky-khi-xay-nha2

Các trường phái trên không thể tách rời trong thiết kế phong thủy cũng như xem phong thủy cho cơ quan, doanh nghiệp, ngôi nhà. Chúng phải được kết hợp một cách hài hòa và có chung các yếu tố tốt.

3. Những vị trí xây nhà theo phong thủy nên tránh

Không nên xây nhà ở giữa hoặc gần đường cái

Theo thuyết phong thủy, không nên xây nhà ở cuối đường vì ở địa phận này, khả năng xảy ra trộm cắp là khá lớn. Xây nhà ở cuối ngõ cũng không nên vì địa điểm này không thuận tiện, khi xảy ra sự cố không có lối thoát, rất phiền phức và nguy hiểm.

Theo cổ nhân, xây nhà ở ngã tư đường sẽ gặp họa sát thương. Hiện nay, nhiều người vẫn tin vào quan niệm này vì nhà ở vị trí này không an toàn, dễ gặp tai nạn giao thông, ảnh hưởng đến sự an toàn của những người trong nhà.

kieng-ky-khi-xay-nha4

Kiêng xây nhà trên mảnh đất hình tam giác

Theo phong thủy, không nên xây nhà trên mảnh đất hình tam giác (nơi hai con đường gặp nhau) vì vị trí này dễ khiến người trong nhà không yên ổn, xảy ra nhiều tranh chấp và dễ gây hỏa hoạn. Hơn nữa, xây nhà trên mảnh đất hình tam giác không kinh tế vì lãng phí nhiều đất và gây khó khăn trong việc thiết kế các phòng.

Kiêng xây nhà ở chân núi và đầu hẻm núi

Không nên chọn vị trí dưới núi đá, nơi chân núi nối liền với mặt đất, hay giữa hai đầu hẻm núi làm địa điểm xây nhà vì nguy cơ núi lở hoặc nước lũ là rất lớn. Những nơi này phong cảnh khá đẹp, nhưng do hai ngọn núi hình thành hẻm núi hình dẻ quạt, qua nhiều năm mưa gió, đáy sông lắng đọng nhiều cát, khu vực nền móng yếu và tiềm ẩn nguy cơ sạt lở, ngập lụt cao.

Kiêng trồng cây to trước cửa nhà

Cổ nhân nói trước cửa có cây to hay cột điện là điềm dữ vì cây cổ thụ gây khó khăn trong việc đi lại, chắn khí dương vào nhà, để âm khí tích tụ khó thoát ra. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để kẻ xấu lợi dụng sự che chắn của cành lá, dễ quan sá và trèo vào nhà, gây phiền toái cho gia đình.

Không nên xây nhà quá cao

Nhà quá cao bốn bề không được che chắn, thiếu kín đáo, tạo tâm lý bất ổn cho người trong nhà đồng thời tạo sự cách biệt với xung quanh. Kiểu nhà này cũng không có điều kiện được che nắng, dương thịnh âm yếu, âm dương không điều hòa cũng ảnh hưởng đến sức khỏe những người trong gia đình.

Tường bao quanh nhà không xây quá cao

Tường bao quanh nhà xây quá cao không những làm hỏng bố cục nhà mà còn khiến cho người trong nhà có cảm giác như bị nhốt, sẽ dẫn đến nghèo túng. Việc xây tường cao để chống trộm cắp nhưng nếu xây cao quá sẽ che tầm nhìn từ bên trong nhà và tạo cơ hội cho kẻ trộm “làm ăn”.

Về thẩm mỹ, tường xây quá cao còn che mất cửa sổ, mái nhà và nóc nhà, tạo cảm giác bức bách, khó khăn trong việc lấy ánh sáng và thông gió. Vì vậy, khi xây nhà, không nên để tường bao quanh nhà cao quá 1,5m và cách nhà khoảng 50cm trở lên.

Không xây nhà gần đền chùa

Nên kiêng xây nhà ở những khu vực đền chùa vì linh khí sẽ bị chùa hút hết, không có lợi cho con người. Trong thực tế, gần đền chùa có nhiều người đến cúng bái, thắp hương, bầu không khí bị ô nhiễm, không có lợi cho sức khỏe. Chính vì thế, khi chọn vị trí xây nhà ở, nên tránh xa khu vực đền chùa, miếu…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy khi xây dựng nhà –

Con giáp nữ được phú quý bao bọc suốt đời

Phúc khí là ngưỡng vọng nhiều người phải gom nhặt cả cuộc đời, song có người từ khi sinh ra đã được hưởng sự may mắn đó. Vậy bạn có phải là con giáp nữ đó?
Con giáp nữ được phú quý bao bọc suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phúc khí là sự ngưỡng vọng mà nhiều người phải gom nhặt cả cuộc đời mới có được, song có người từ khi sinh ra đã được hưởng sự may mắn đó. Vậy bạn có phải là con giáp nữ được phúc khí bao bọc cả cuộc đời?


Con giap nu duoc phu quy bao boc suot doi hinh anh
 
Tuổi Dần

Con gái tuổi Dần cho rằng chuyện tình cảm là thuận theo tự nhiên, tuy nhiên cũng cần cân nhắc đến chuyện tiền tài. Họ coi trọng việc giao lưu tình cảm với người mình yêu, người đàn ông của họ không nhất thiết nhiều tiền nhưng phải biết nỗ lực, tài năng. Khi người bạn đời gặp khó khăn, họ sẽ luôn ở bên cổ vũ động viên, khi thành công thì sẽ ở bên nhắc nhở. Con người thật thà tự nhiên như vậy rất có phúc khí, nếu họ làm mẹ hiền vợ đảm, sợ gì phúc khí không tăng thêm?
Thăng quan tiến chức trong năm Bính Thân chỉ nhờ các vật phẩm phong thủy
Dù là nhân viên tư nhân hay các công chức nhà nước đều mong muốn thăng quan tiến chức trong năm Bính Thân. Vậy nên bài trí vật phẩm phong

Tuổi Ngọ

Đặc điểm lớn nhất của con giáp Ngọ là chân thành, độ lượng. Dân gian ta thường có câu "Người ngốc có cái phúc của người ngốc", chính là chỉ niềm hạnh phúc của người không đố kỵ, rộng lượng. Con gái tuổi Ngọ thẳng thắn, không "bắt cá hai tay", nói xa nói gần, nhìn vẻ bề ngoài tùy tiện nhưng rất hiểu ý của người khác. Vậy nên, đừng lầm tưởng họ phóng đãng, mà ngược lại họ dùng sự chân thật, độ lượng của mình để làm người bạn đời vui vẻ thoải mái. Nếu có thể làm bạn đời với con giáp nữ này, sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi.
Tuổi Mùi

Khi tiếp xúc với người tuổi Mùi sẽ bị ấn tượng bởi sự vui vẻ chỉ với những thứ họ đang có. Con gái tuổi Mùi hòa nhã, không đòi hỏi vì họ biết nhiều thứ còn đáng trân trọng hơn vật chất. Đặc biệt họ không vì lợi quên nghĩa, khi người mình yêu rơi vào hoàn cảnh khó khăn họ sẽ ở bên giúp đỡ. Những người như vậy luôn được phúc khí bao bọc, khi bên cạnh họ luôn được nhận niềm hạnh phúc giản đơn.
Con giap nu duoc phu quy bao boc suot doi hinh anh 2
 
Tuổi Thìn

Mệnh trụ năm Ngọ được mệnh danh là bình rượu, phảng phất hương thơm của trí tuệ và tư tình. Con gái tuổi Thìn không làm ra vẻ, thiếu chút ngông cuồng của tuổi trẻ nhưng nhiều thêm sự chín chắn, càng trưởng thành càng có sức hút riêng. Họ biết cách bao dung người đàn ông của mình, họ hiểu nhu cần nội tâm của mình, không sa đà vào cuộc chơi trụy lạc. Với sự thông minh của mình, phúc khí tự nhiên đến với con gái tuổi Thìn, khi bên họ được hưởng phúc khí, vận thế cũng sẽ thay đổi theo hướng tốt.
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn


Xem Clip thu nạp kiến thức về Nghi thức cúng bình thường


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nữ được phú quý bao bọc suốt đời

Ma quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữ

Ma quỷ trong Phật giáo là khái niệm rất khác so với quan điểm ma quỷ trong tâm linh dân gian. Vì thế, khi nhà Phật nhắc tới ma quỷ thì hãy hiểu sâu xa hơn.
Ma quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ma quỷ trong Phật giáo là khái niệm rất khác so với quan điểm ma quỷ trong tâm linh dân gian. Vì thế, khi nhà Phật nhắc tới ma quỷ thì hãy hiểu sâu xa hơn, có tính triết lý hơn nhé.   Ma quỷ trong tâm linh là một dạng năng lượng kì bí, ma quỷ có thể là vong linh người chết chưa siêu thoát hoặc những năng lượng xấu xa tích tụ, thường xuyên quấy nhiễu khiến con người hoảng sợ. Ma quỷ tượng trưng cho cái xấu và cái ác, có thể làm hại hoặc ám ảnh linh hồn.   Ma quỷ trong Phật giáo cũng có một số nét tương đồng, là năng lượng xấu nhưng nhà Phật không cho rằng có ma thực sự mà đó là “quỷ sứ cám dỗ”. Ma quỷ không phải linh hồn mà nảy sinh trong chính mỗi con người, tượng trưng cho xu hướng tâm thần bấn loạn và sự lầm lẫn, u mê cản trở con đường tu tập của hành giả.

Ma quy trong Phat giao - u me con dang so hon quy du
 
Trong kinh sách nhà Phật thường nhắc tới ma nữ - quấy nhiễu người tu hành bằng nhan sắc, ma chướng – quấy nhiễu người tu hành bằng dục vọng, ma tâm – tham, sân, si nổi lên trong chính mỗi tâm hồn. Người hướng Phật tin rằng có ma, thứ ma quỷ đưa lối dẫn đường lầm lạc, làm lung lay ý chí tu dưỡng.

Xem thêm bài viết Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào?
  Một số kinh Phật điểm danh các loại ma mà con người cần tránh.  

1. Thừa Kinh điển

  Trong Thừa Kinh điển có ghi, ma được thành 4 loại: ma cấu hợp, ma dục vọng, ma thần chết và ma con trời.   Ma cấu hợp hay còn gọi uẩn ma là những nỗi đau khổ và cái chết mà con người phải gánh chịu trong vòng quay luân hồi của tạo hóa. Bất cứ ai cũng không thể thoát khỏi con ma này, từ khi sinh ra đã định sẵn “đời là bể khổ”.   Ma dục vọng gồm những ham muốn, thèm khát khiến con người đi vào đường sai lầm, phạm phải những hành vi xấu, ác gây ra nghiệp báo, đau khổ. Đây là ma phiền não, lúc nào cũng làm cuộc sống khó khăn và bế tắc.   Ma thần chết là sự hủy hoại, là kết quả của mọi mọi sự vật hiện tượng trên đời, có sinh có tử, quy luật vô thường, không ai, không sự vật hiện tượng nào có thể thoát khỏi.   Ma con trời là những thứ làm tâm trí ta xao nhãng, phân tâm, sinh ảo giác mà lơ là tu dưỡng, làm ta bấn loạn, không thấy ánh sáng của Phật pháp. Trên con đường tu đạo, bất cứ ai cũng có lúc cảm thấy hoang mang, đó là khi ma con trời hoành hành, phải vượt qua được mới thực sự đi vào cõi tu.
Xem thêm bài viết Xua ma đuổi quỷ từ Đông sang Tây
 

2. Kim Cương thừa

  Theo Kim Cương thừa, cũng có 4 loại ma nhưng bao gồm ma xiềng xích, ma thả lỏng, ma khánh hỷ và ma kiêu căng.   Ma xiềng xích hung tợn và lộ liễu, bám víu vào linh hồn khiến con người ghét bỏ, bị trói buộc như tiền bạc, tình cảm, danh vọng, danh tiếng, địa vị,… Đây là con ma phiền não, lúc nào cũng quẩn quanh bên trong con người.   Ma thả lỏng là dục vọng để con người buông thả, tự cho phép bản thân càn quấy. Đây là tâm ma, có tâm ma sẽ sinh hành động sai trái, không có phép tắc khuôn khổ, dễ tha thứ cho lỗi lầm của chính mình.   Ma khánh hỷ là con ma đội lốt hân hoan vui sướng, thỏa mãn và biết hài lòng, dễ nghe lời người khác xúi dục sa đà vào hưởng lạc, quên mất con đường tu dưỡng chân chính.   Ma kiêu căng là con ma ngạo mạn, đố kị, tự mãn, đó là “cái tôi” lớn nhất trong lòng mỗi người, cái tôi dần lớn, ma kiêu căng dần xâm chiếm, không nhìn nhận thấy đúng sai.
Xem thêm bài viết Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

3. Kinh Hoa Nghiêm


ma quy trong kinh sach phat giao
 
Kinh Nghiêm Hoa liệt lê 10 loại ma quỷ trong Phật giáo, có nhiều loại đã được liệt kê ở trên:   - Uẩn ma – ma cấu hợp    - Ma phiền não – ma xiềng xích   - Nghiệp ma: nghiệp ác cảm trở việc tu tập, nghiệp này do chính những sai lầm trong quá khứ tích tụ thành, phải vượt qua thì mới hóa giải được nghiệp ác, gieo trồng thiện hạnh.   - Tâm ma  - ma thả lỏng   - Tử ma – ma thần chết   - Thiên ma – ma con trời   - Thiện căn ma – ma khánh hỷ   - Tam muội ma – ma kiêu căng   - Thiện trí thứ ma: người thông hiểu đạo lý, có tri thức, có trí tuệ nhưng ích kỉ, giữ riêng cho mình, không chia sẻ với những người khác chính là vì thiện trí ma quấn quanh. Ma này làm con người trở nên tối tăm, tù túng, cô độc, giết chết tâm thiện và sự cởi mở.   - Bồ đề pháp trí ma: những người tuy có trí tuệ, thấy đường sáng nhưng không theo chính đạo, tự mình mù mắt, từ bỏ tu dưỡng.   Như vậy, ma quỷ trong Phật giáo chính là một loại tinh thần sai lệch, trong người có ma tức là tâm ý không đúng đường. Muốn loại bỏ ma, không cần làm phép, chỉ cần bồi dưỡng trí tuệ, đạo hạnh, chăm chỉ tu dưỡng và tu hành, ma nào cũng tự động biến mất.
Áp dụng phương pháp xua đuổi tà khí, không ma quỷ nào dám tới gần Có đúng là tích cực niệm Phật thì sẽ trừ được ma ám không? Sau khi chết, bạn sẽ thành MA hay thành THIÊN THẦN?
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ma quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữ

Luận giải vận số của người tuổi Tỵ theo ngày sinh

Người tuổi Tỵ sinh ngày Tý có sao Tử Vi chiếu mệnh, cuộc đời nhiều may mắn, mọi sự thuận lợi. Tuy có nạn nhưng không bị tổn hại lớn.
Luận giải vận số của người tuổi Tỵ theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Người tuổi Tỵ sinh ngày này có sao Tử Vi chiếu mệnh, cuộc đời nhiều may mắn, mọi sự thuận lợi. Tuy có nạn nhưng không bị tổn hại lớn.

(Ảnh minh họa)

Sinh ngày Sửu: Được sao Hoa Cái chiếu mệnh nên là người hiền thục, thông minh, có năng lực trong lĩnh vực kỹ thuật và nghệ thuật. Tuy nhiên, bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên phải thận trọng trong mọi chuyện.

Sinh ngày Dần: Là người khỏe mạnh, có số may mắn, mưu sự đều thành, kinh doanh phát đạt.

Sinh ngày Mão: Số ít may mắn, hay gặp khó khăn, trở ngại, buồn nhiều hơn vui.

Sinh ngày Thìn: Sinh vào ngày này là người hay lo nghĩ nhưng gia đình êm ấm. Đề phòng mắc bệnh kinh niên.

Sinh ngày Tỵ: Là người có cuộc sống không yên ổn, thành đạt muộn. Bị sao Chỉ Bối chiếu mệnh, cần thận trọng trong việc kết giao bạn bè.

Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Tỵ sinh giờ này có số vui vẻ. Tuy có lúc gặp chuyện buồn phiền nhưng được sao Thái Dương chiếu mệnh nên gặp hung hóa cát.

Sinh ngày Mùi: Sinh vào ngày này số phận không thuận lợi, gia đình thường không hòa thuận.

Sinh ngày Thân: Là người ít may mắn, hay gặp chuyện tranh cãi, may được quý nhân phù trợ nên vận xui được hóa giải.

Sinh ngày Dậu: Nhờ có sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số có địa vị, quyền lực, tiền của dồi dào, buôn bán phát đạt, mọi việc thuận lợi.

Sinh ngày Tuất: Số phải bôn ba, vất vả và ít gặp may mắn. Sức khỏe không tốt nhưng nhờ sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên có bệnh sẽ khỏi.

Sinh ngày Hợi: Người sinh ngày này bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên cuộc đời thiếu ổn định, thường nay đây mai đó, gặp nhiều vất vả.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Tỵ theo ngày sinh

Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Nếu không được sử dụng đúng cách thì đồ lưu niệm sẽ không còn là vật kỷ niệm đơn thuần, mà ngược lại, còn mang tới cho gia chủ những điều xui rủi.
Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường chúng ta chỉ coi những món đồ lưu niệm như là một vật kỷ niệm hoặc vật may mắn. Tuy nhiên, nếu không được sử dụng đúng cách thì chúng sẽ không còn là vật kỷ niệm đơn thuần, mà ngược lại, còn mang tới cho gia chủ những điều xui rủi.

  7. Mặt nạ

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh
Có một số khu du lịch có bày bán những loại mặt nạ như mặt nạ nhân vật hoạt hình, mặt nạ ông Địa, mặt nạ lễ hội… và khách du lịch thường cảm thấy thích thú muốn mua về làm đồ kỷ niệm. Tuy nhiên, mặt nạ là một vật phẩm không thể trưng bày bừa bãi, nếu không gia chủ sẽ mắc các bệnh như đau đầu, thiếu máu, vướng vào chuyện thị phi…
 
Nên treo mặt nạ ở trên cao, nhìn hướng về phía cửa phòng hoặc cửa nhà, lối ra vào, tuy nhiên, tuyệt đối không được treo mặt nạ ở phía trên đầu giường hoặc đối diện gương chiếu.
 
8. Con rối, móc khóa búp bê

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 2
 
  Rất nhiều người sử dụng con rối, con thú nhỏ hoặc búp bê làm móc chìa khóa hay móc điện thoại… Thực ra đây cũng không phải là vấn đề quá nghiêm trọng nếu như con búp bê đó không hồng hào quá hoặc không quá đen đúa. 
 
Các món đồ này cũng không nên đặt ở đầu giường, nếu không bạn sẽ gặp phải các vấn đề như mất ngủ, tinh thần không được phấn chấn, bi quan, thường xuyên gặp trắc trở trong chuyện tình cảm.
 
9. Quạt 

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 3
 
Quạt cũng là món đồ lưu niệm được bày bán nhiều ở các khu du lịch, thế nhưng, nếu bạn mua về mà treo không chuẩn phong thủy thì trẻ nhỏ trong nhà sẽ học hành sa sút, tinh thần của bạn cũng không tốt, khó tập trung, dễ nổi nóng. 
 
Tốt nhất là nên treo quạt trong phòng khách hoặc trong phòng làm việc, treo cao và đối diện cửa phòng, lối ra vào. Tối kỵ treo đầu giường hoặc đối diện gương.
 
10. Tượng điêu khắc gỗ

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 4
 
Có nhiều loại tượng gỗ như hình người, hình động vật… giá rẻ cũng có và giá cao cũng có. Nhưng trong phong thủy nhà ở thì không nên bày biện quá nhiều đồ vật bằng gỗ, vì điều này dễ làm cho tình cảm gia đình bất hòa, chìm đắm trong những thú vui mê muội, công việc cho dù có lao động tích cực cũng không đạt được hiệu quả cao.
 
11. Bình hoa

Meo su dung do luu niem chuan phong thuy hinh anh 5
 
Nhiều người thích trang trí, trưng bày bình hoa trong nhà, không chỉ là để cắm hoa mà còn là một thú chơi, ví dụ như thích sưu tầm những bình hoa cổ. Trong phong thủy thì không có nhiều cấm kỵ nhưng tốt nhất là không trưng quá nhiều bình hoa trong nhà, dễ gây ra vận đào hoa hoặc gia chủ tính tình nóng nảy, lỗ mãng.
 
Chỉ nên đặt bình hoa ở góc phòng và những vị trí ít người qua lại.
 
Trong cuộc sống, chúng ta nên để ý tới một số hiện tượng, thông qua các hiện tượng chúng ta có thể phát hiện ra rất nhiều các quy luật phong thủy, từ đó điều tiết cuộc sống để không chỉ vận khí mà cả thể xác lẫn tinh thần đều được tốt đẹp, khỏe mạnh.
 
Hết

► Xem thêm: Phong thủy số điện thoại hợp tuổi với bạn

Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo sử dụng đồ lưu niệm chuẩn phong thủy

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Tỵ

Tử vi tháng Hai của người tuổi Tỵ rất ổn thỏa, quý nhân xuất hiện, hỷ sự lâm môn đại cát đại lợi.
Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng Hai của người tuổi Tỵ rất ổn thỏa, quý nhân xuất hiện, hỷ sự lâm môn đại cát đại lợi. Chuyện tình cảm cuối cùng bạn cũng trút được gánh nặng bấy lâu, người độc thân dễ có tin vui, người đã kết hôn thì gương vỡ lại lành, mâu thuẫn hóa giải.


Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc
 
Người tuổi Tỵ bước vào tháng Tân Mão may nhờ Tỵ Hỏa sinh Mão Mộc mà vận trình có nhiều bước phát triển. Công việc được lãnh đạo trọng dụng, bạn nên tranh thủ thời gian trong tháng mà phát huy khả năng bản thân. Cơ hội nhận nhiều ưu đãi sẽ giúp bạn thăng tiến nhiều mặt của cuộc sống.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Đồng thời, bạn nên giao lưu nói chuyện nhiều hơn với người thân trong nhà, hãy trọng đạo lý “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.

Tử vi tháng Haicủa người tuổi Tỵ rất ổn thỏa, quý nhân xuất hiện, hỷ sự lâm môn đại cát đại lợi. Chuyện tình cảm cuối cùng bạn cũng trút được gánh nặng bấy lâu, người độc thân dễ có tin vui, người đã kết hôn thì gương vỡ lại lành, mâu thuẫn hóa giải. Người độc thân sẽ may mắn hơn nên phải nhanh chóng nắm lấy hạnh phúc của mình, ngoài ra cần phải dừng ngay suy nghĩ bắt cá hai tay.

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2


Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 2
 
SỰ NGHIỆP

Vận trình công việc người tuổi Tỵ bước đầu đi vào quỹ đạo, người làm ăn nên cẩn trọng kinh doanh thì bình an vô sự. Những suy nghĩ mới như mở rộng thị trường, khai thác khả năng nghiệp vụ mới đều cần tính toán kỹ càng. Tiểu nhân và quý nhân cùng xuất hiện nên người tuổi Tỵ phải xử lý cẩn thận các mối quan hệ xã giao. Nếu quá hồ đồ bạn sẽ không nhận được sự giúp đỡ từ đối phương, nên lùi lại và làm tốt nhiệm vụ trong ranh giới của mình.

TÀI LỘC

Dù không có nhiều cơ hội về thu nhập mới nhưng chi tiêu trong tháng ổn định, dù ra Tết còn nhiều khoản chi tiêu lớn nhưng người tuổi Tỵ không phải lo nguy cơ phá tài. Thứ Tài được quan hệ Nguyệt Lệnh và Thái Tuế che chở nên có không ít thu nhập nho nhỏ. Cuối tháng, bạn có thể nghiên cứu một nghành nghề mới sẽ có cơ hội gia tăng thu nhập.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 3
 
TÌNH CẢM

Xem tử vi thấy chuyện tình cảm có hỷ có bi, điều đáng vui mừng bạn sẽ gặp nhiều điều kỳ diệu trong tình yêu. Người độc thân dễ dàng hưởng một tình yêu khác biệt và lạ lùng nhất. Nên kiềm chế suy nghĩ tự cao tự đại, làm tổn thương tới những người dành tình cảm cho bạn. Đồng thời tránh suy nghĩ quá nhiều về tương lai, tình yêu của bạn sẽ ổn định, không có nhiều biến cố trong tháng. Người đã kết hôn dễ gặp chuyện đối phương không cảm nhận được sự chăm sóc từ bạn, nhưng quý nhân sẽ xuất hiện để tạo ra điều kỳ diệu.

SỨC KHỎE

Trong tháng, người tuổi Tỵ phải đề phòng đường ăn uống, tốt nhất bạn nên ăn uống thường xuyên tại nhà. Bệnh tật đến từ các quán ăn đường phố, dạ dày của bạn cũng không được tốt trong tiết Xuân. Người tuổi Tỵ trẻ tuổi còn có nhiều buổi gặp mặt ăn uống nên trọng lượng cơ thể dễ dàng tăng nhanh. Dân văn phòng đối diện với vấn đề đau lưng mỏi gối. Nếu được, bạn nên dành 10-15 phút mỗi ngày để đi lại quanh văn phòng.

Vượt qua được khó khăn tháng 1, người tuổi Tỵ bước vào tháng 2 âm lịch thuận hòa đúng quỹ đạo làm việc. Công việc như ý, tài lộc ổn định chỉ cần học cách hài lòng với chính mình, không quá kén chọn, đây có thể coi như một tháng vui vẻ bình yên. Vào giữa tháng công việc và chuyện gia đình khiến bạn khá bận rộn, một mặt phải làm việc quá giờ lại thường xuyên tụ họp gặp gỡ bạn bè khiến việc ăn uống mất cân bằng, dễ gặp các vấn đề về tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 4
 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Tỵ

Những câu nói dối 'kinh điển' ngày Cá tháng Tư

Những câu nói dối 'kinh điển' ngày Cá tháng Tư. Chắc chắn bạn cũng đã từng là 'nạn nhân' của những trò đùa quái đản ngày Cá tháng Tư này đúng không?
Những câu nói dối 'kinh điển' ngày Cá tháng Tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói dối ‘kinh điển’ ngày Cá tháng Tư. Chắc chắn bạn cũng đã từng là ‘nạn nhân’ của những trò đùa quái đản ngày Cá tháng Tư này đúng không?

Những câu nói dối ‘kinh điển’ ngày Cá tháng Tư

Bạn chưa kéo khóa quần kìa

Chắc chắn rồi, bạn sẽ ngay lập tức hoảng hốt mà ngó xuống, hoặc nhẹ nhàng đưa tay túm lấy chiếc khóa quần để kéo lên. Dù có biết chắc hôm nay là ngày Cá tháng Tư thì bạn cũng không dám đánh liều.

Anh yêu em

Câu nói này được rất nhiều chàng trai dùng để tỏ tình người phụ nữ mà mình theo đuổi. Hên xui thôi! Nếu như cô nàng tin và cũng nói yêu bạn thật, bạn có được người con gái của mình. Còn nếu cô nàng không đồng ý, bạn sẽ coi như đó là một trò đùa. Chẳng sợ mất sĩ diện nữa phải không các chàng trai.

Em ơi, cúc áo bị tuột kìa

Cũng giống như chuyện tuột khóa quần, các cô gái cực kì sợ điều này. Sẽ ngay lập tức nhìn xuống và lấy tay đóng cúc. Nhưng, bạn bị lừa rồi đó!

Xin lỗi, anh là gay

Điều này khiến bạn hoang mang vì hôm nay là ngày Cá tháng Tư. Bạn không biết có nên tin điều này không, nhưng ít ra nó cũng khiến bạn thấy sợ hãi.

Xuống đi, anh đợi trước cửa

Nhiều người quên mất hôm nay là ngày Cá tháng Tư nên đã vội vàng chạy xuống trước cửa để ngóng ‘người thân’. Nhưng chờ hoài, đợi mãi không thấy ai cả. Lúc đó, họ mới phát hiện ra mình bị lừa.

Hôm nay tớ mời cậu đi ăn nhé

Bạn thường rất háo hức với lời mời này nhất là khi người mời lại chắc như đinh đóng cột là nói thật, không lừa đâu. Nhưng kết quả vẫn ăn vố lừa khủng khiếp và hậu quả là phải một mình ngồi trong nhà hàng mà lòng đau như cắt.

Có ai tìm cậu ở bên dưới ấy

‘Ai vậy, có biết là ai không?’. Bạn sẽ hỏi liên tục như vậy vì bạn bán tín bán nghi, không biết có nên tin hay không. Nhưng rồi bạn vẫn quyết định chạy xuống vì sợ, nếu mình không xuống thì người ta sẽ bỏ đi… Thật là một trò đùa thành công..

Em có thai rồi

Các anh chàng đã từng qua lại với người yêu mà chưa có ý định cưới chắc chắn hốt hoảng vô cùng vì câu nói này của phụ nữ. Không muốn tin nhưng vẫn không thể nào yên lòng…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói dối 'kinh điển' ngày Cá tháng Tư

Mơ thấy hoa nhài: Sẽ có tình yêu dịu ngọt –

Hoa nhài là tượng trưng của tình yêu mỹ mãn hay cơ thể khoẻ mạnh. Mơ thấy hoa nhài sắc trắng cho thấy bạn đang có một tâm trạng nhẹ nhàng ấm áp. Mơ thấy hoa nhài, dù nam hay nữ, bạn cũng sẽ có một tình yêu dịu ngọt, hồn nhiên chẳng khác nào đóa nhài
Mơ thấy hoa nhài: Sẽ có tình yêu dịu ngọt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hoa nhài: Sẽ có tình yêu dịu ngọt –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd