Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám

Người tuổi Sửu chính là một trong những con giáp đào hoa nhất tháng 7. Bạn bè tri kỉ tìm ra nhau, đôi lứa xứng đôi đưa tình yêu thăng cấp bất ngờ.
Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Lichngayot.com) – Nếu chưa tìm được đối tượng ưng ý trong tháng 6, tới tháng 7 này là cơ hội hiếm có của những con giáp dưới đây. Nếu có mặt trong danh sách này, bạn kê cao gối mà ngủ, sợ gì kiếp FA đeo bám.


Những cặp đôi con giáp dễ ngán nhau theo thời gian Top 4 con giáp nắm tiền đồ sự nghiệp xán lạn trong tầm tay Không thể tin được những con giáp “xuất khẩu hành nhân”
1. Tuổi Thân   Bính Thân cũng chính là năm tuổi của những ai cầm tinh con Khỉ. Trong năm tuổi, vận khí biến động không ngừng, thăng trầm bất ổn. Tuy nhiên, bước vào tháng 7, vận đào hoa của con giáp này nở rộ, công cuộc kiếm tìm nửa kia của bạn bắt đầu bước sang trang mới, thuận lợi và bay bổng vô cùng.   Người tuổi Thân có ngũ hành mệnh cách thuộc yếu tố Kim. Những tháng cuối năm 2016, Kim khí lại rất vượng, ắt đẩy vận đào hoa thăng cấp, ví như ở thế nước đẩy thuyền lên, tình cảm lứa đôi dạt dào cảm xúc.    Đây chính là cơ hội để người độc thân thoát khỏi sự đeo bám dai dẳng của kiếp FA. Hãy tự tin là chính mình, thể hiện cá tính cũng như phô diễn sức hút mãnh liệt của bản thân. Chắc chắn bạn sẽ không phải hối tiếc vì điều đó.  
Con giap dao hoa nhat thang 7, so gi kiep FA deo bam hinh anh 2
 
2. Tuổi Sửu   Thời gian vừa qua, chuyện tình cảm của người tuổi Sửu không quá lý tưởng. Có người đến rồi lại biến mất không một dấu tích trong cuộc đời bạn, khiến trái tim bạn như vỡ ra từng mảnh.    Nhưng sang tháng 7 này, bạn có thể tìm lại niềm vui đã tuột mất bằng các mối quan hệ hữu hảo, trong đó bạn bè tri kỉ tìm ra nhau, đôi lứa xứng đôi kề vai sát cánh, đưa tình yêu thăng cấp bất ngờ. Đây chính là một trong những con giáp đào hoa nhất tháng 7.   Hãy gạt bỏ mọi gánh nặng vật chất cũng như những vết thương lòng trong quá khứ, người tuổi Sửu chỉ cần sống vui tươi, lạc quan cho hiện tại. Khi suy nghĩ thông thoáng, tư tưởng hanh thông, ắt nhân duyên tốt đẹp sẽ tới. Cộng thêm vận đào hoa lên như diều gặp gió, không khó để bạn kiếm tìm nửa kia đích thực của đời mình.

Con giáp càng không biết tiêu tiền càng nghèo rớt mồng tơi 12 con giáp và những ngôi sao mùa Euro 2016: Người tuổi Dậu 3 con giáp giấu nhẹm chuyện thất tình, cấm ai đả động

Con giap dao hoa nhat thang 7, so gi kiep FA deo bam hinh anh 2
 
3. Tuổi Thìn   Nhờ vận đào hoa khởi sắc, người tuổi Thìn sẽ có những trải nghiệm vô cùng thú vị trong tình cảm ở tháng 7 này. Nhất là nữ giới, đào hoa thăng cấp như thể nắng hạn gặp mưa rào, có ngăn cũng chẳng thể ngăn nổi.    Nếu đã có đôi có cặp, tình yêu sẽ sớm “kết trái” bằng một đám cưới linh đình, hạnh phúc. Những mâu thuẫn, bất đồng đôi bên ngày càng giảm đi trông thấy, nhường chỗ để tình yêu thăng hoa, cảm xúc lãng mạn ngập tràn.    Ngân Hà
Tử vi thứ Ba ngày 14/6/2016 của 12 con giáp
Theo tử vi thứ Ba của 12 con giáp, người tuổi Thân có một ngày dễ chịu, ít áp lực, thoải mái làm việc và nghỉ ngơi, không cần căng sức ra.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám

Giáp Thìn mệnh gì –

Người sinh 1964, Giáp Thìn, có Ngũ hành năm sinh là Phú Đăng Hoả, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung LY, hành HOẢ, hướng Nam, quái số 9, sao Cửu Tử, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Đông, Đông Nam, Bắc, Nam ). Đeo đá màu Xanh lá cây để
Giáp Thìn mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giáp Thìn mệnh gì –

Đặt tên hay cho con quyết định vận mệnh cuộc đời

Đặt tên hay không chỉ quyết định sự may rủi và còn ảnh hưởng đến số mệnh mỗi người.
Đặt tên hay cho con quyết định vận mệnh cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Khổng Tử viết: “Ban cho ngàn vàng chẳng bằng một cái tên hay”, ý chỉ tầm quan trọng của việc đặt tên phù hợp với mỗi người.


Các học giả nghiên cứu chuyên sâu về “Kinh Dịch”, “Nguyên lý Tính danh học”, “Mệnh lý học”... đã phát hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa tên gọi với tính cách cũng như cuộc sống của mỗi người.

Tên gọi cũng quan trọng như bát tự, ngũ hành, số lý... Cái gọi là “Danh không chính thì ngôn không thuận” chính là để chỉ điều đó. Đặt tên hay không chỉ hàm chứa ý nghĩa, mong ước đơn thuần, nó còn ảnh hưởng phần nào tới số mệnh của mỗi người.

ten hay quan trong1
 
1. Bát tự


Bát tự chỉ ngày tháng năm sinh của mỗi người. Bước đầu tiên của việc đặt tên chính là phân tích bát tự để biết được điểm thiếu khuyết và tìm ra Hỉ dụng thần. Cho nên, dự đoán hung cát của họ têncách đặt tên đều lấy bát tự làm chuẩn.

2. Ngũ cách

Ngũ cách chỉ Thiên cách, Địa cách, Nhân cách, Ngoại cách và Tổng cách. Nó chiếm vị trí chủ đạo trong Tính danh học, nên có mối quan hệ mật thiết với tên gọi của mỗi người.

ten hay quan trong2
 
Thiên cách: xuất hiện độc lập, không ảnh hưởng nhiều tới nhân sinh.

Nhân cách: là số lý tồn tại trong họ tên con người, nên ảnh hưởng lớn nhất tới nhân sinh. Số lý của Nhân cách liên quan tới Thiên, Địa cách, biến hoá vô cùng.

Địa cách: còn gọi là Tiền vận (trước 30 tuổi), anh hưởng đến cuộc đời mỗi người trong giai đoạn từ 1-39 tuổi.

Ngoại cách: là phúc vận của mỗi người, hòa hợp hay lạc lõng với thế giới bên ngoài là do ngoại cách xác định.

Tổng cách: ảnh hưởng đến cuộc đời mỗi người trong giai đoạn từ 40 trở đi, còn gọi là Tổng cách hậu vận.

3. Tam tài


Tam tài chỉ Thiên, Địa và Nhân, triết lý hành sự theo Thiên thời, Địa lợi và Nhân hòa. Trong việc đặt tên, có số lý tên họ đẹp nhưng tam tài lại không tốt, dẫn tới vận khí tương phản, làm việc gặp trở ngại, tình duyên và tài vận cũng không tốt. 

Ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không?
– “Ví tiền đi liền khúc ruột”, ai ai cũng có nhưng chưa chắc mọi người đã biết sử dụng đúng phong thủy để hút thêm nhiều tài nhiều lộc.
4. Ngũ hành


Ngũ hành chỉ 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi sự vật đều được phân chia theo ngũ hành như can chi, mùa, phương vị, cơ thể con người, màu sắc... Ngũ hành có đặc tính tương sinh, tương khắc. Sự biến chuyển, thay đổi của các sự vật xung quanh ảnh hưởng tới vận trình hung cát, tốt xấu của mỗi người.

5. Số lý

Trong Tính danh học, số lý sản sinh ra nhiều lực linh động quy định hung cát, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của con người. Việc đặt tên phù hợp với số lý cũng mang tới điều may rủi cho chủ nhân.

► Tham khảo cách đặt tên cho con hợp tuổi bố mẹ

Ngọc Điệp


Xem thêm video: Xem thuyết giáo về nuôi dạy con cái thời hiện đại


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho con quyết định vận mệnh cuộc đời

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Phi tinh màn đàm

Một đoạn chép lại bài dịch của anh Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org. Mời các bạn cùng tìm hiểu.
Phi tinh màn đàm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. "Quan Kị nhập Phụ xung Tật" - người nhẫn tâm

"Quan Kị phi nhập", tức là cung Quan Lộc có thiên can mà khiến cho tinh đẩu ở 1 cung nào đó hóa Kị. Ví dụ như, Quan lộc cung có thiên can là Giáp mà Phụ Mẫu cung có Thái Dương tọa thủ, thì gọi là "Quan Kị nhập Phụ". Bởi vì Kị tinh xung vào cung xung đối, mà Phụ Mẫu chính là cung xung đối với Tật Ách, nên tạo thành thế "Quan Kị nhập Phụ xung Tật".

"Quan Kị nhập Phụ xung Tật", bị coi là hành vi (của người làm Quan / trong công việc đối xử với người khác) mai một lương tâm, nhẫn tâm (đây là cái tật). Là người khẩu độc, tâm cũng độc. Gặp việc thì né tránh, đùn đẩy, thậm chí còn thừa cơ hội để lấy cớ trách mắng, vặn vẹo luôn người khác.

Tất nhiên, điều này không nhất thiết có thể khẳng định (về toàn diện) con người đó là xảo quyệt, thâm hiểm, nhưng chắc chắn khẳng định (về cư xử trong công việc) thì đó là kẻ tồi (nguyên văn đoạn này dùng từ "ác nhân" nhưng Hai Chén sửa đi thành "kẻ tồi" cho phù hợp mức độ hành vi).

Trải qua kiểm chứng thực tế, quả nhiên là không sai. Khi thấy có cách "Quan Kị nhập Phụ xung Tật", nhìn xem có (tướng mạo) điển hình của ác nhân như vẻ ngoài hung dữ, thâm hiểm hay không, hoặc là nhìn "ngoài cứng trong mềm" tức là chỉ mạnh mồm nhưng nhát gan, thì phân biệt được ngay mức độ ác hiểm hay là tồi, kém cư xử.

2. "Thời cơ mua nhà lầu" - Tài Kị nhập Điền, Điền tự hóa Lộc.

Trên đã nói về cách dùng "Kị xung" rồi nói về xem cách "kẻ nhẫn tâm". Giờ ta thảo luận tới cách "Kị nhập" nhé.

Phi Kị, bản thân nó đại diện cho ý nghĩa là "thu hồi nợ, lấy lại, dẹp bỏ nợ, hoặc là được hưởng lợi tức, được hưởng lương, lĩnh lương, thu về, hấp thụ,..."

Cho nên, nếu bạn phát giác Lưu Niên (tiểu hạn) có "Tài Kị phi nhập Điền" và "Điền tự hóa Lộc" thì đó là lúc bạn có thể được lợi nhuận lớn từ việc mua bán, giao dịch nhà đất, bất động sản.

Bởi vì "Kị nhập" đại biểu cho sự hấp thu, thụ hưởng. Vì vậy mà Tài Bạch cung phi Kị nhập Điền Trạch, lại gặp được Điền Trạch tự hóa Lộc, thì Lộc xuất tiết ra tiền tài vừa vặn đúng lúc cho cung Tài Bạch hấp thụ được.

Thế nhưng, nhất thiết phải không được sai lầm về phương hướng đi: Có người thấy thân chủ có cách "Tài Lộc nhập Điền" liền kêu thân chủ bán nhà, còn giục: "Có Lộc nhập rồi! Không ngờ sự lại tốt đến thế! Mau bán nhà nhanh đi!".

(QNB chú: "thân chủ" ở đây có nghĩa là để chỉ đương số theo cách gọi của người được thuê tư vấn mệnh lý. Giống như kiểu ông luật sư gọi người mà ông ta được thuê để bảo vệ là "thân chủ").

Thật là không may, trùng hợp làm sao mà thân chủ ấy liền gặp cách "Điền Trạch tự hóa Kị". Lộc của Tài bị Kị của Điền như tượng nước nhỏ bị cuốn phăng đi, thiết nghĩ trường hợp này không mất tiền, phá tán, thì kể cũng hơi khó.

(QNB chú: ví dụ này là để bàn đến sự phân biệt về hướng phi nhập của Kị, của Lộc.

Như cách mà Tài Bạch cung có thiên can khiến cho tinh đẩu ở Điền Trạch cung hóa Kị, đồng thời thiên can của Điền Trạch cung lại tự khiến cho tinh đẩu ở trong cung của nó hóa Lộc - đây mới là cách hấp thụ được tiền tài, là thời điểm thu được lợi lộc, hoặc là buôn bán bất động sản.

Còn cách (ngược lại) mà Tài Bạch cung có thiên can khiến cho tinh đẩu ở Điền Trạch cung hóa Lộc, đồng thời thiên can của Điền Trạch cung tự khiến cho tinh đẩu bên trong nó hóa Kị - thì đây là cách phá tán tiền tài, như kiểu gió vào nhà trống, đem ví Kị như dòng lũ cuốn phăng, nuốt chửng Hóa Lộc vừa phi nhập).

3, Mệnh Kị nhập Hữu - chính là người có nghĩa khí (can Mệnh phi Kị và cung Nô, tức Giao Hữu cung).

Nhắc lại, "Phi Kị" hay "Kị nhập" mang ý nghĩa của sự hấp thu. Cho nên "Mệnh Kị phi nhập Hữu" có ý nghĩa là sự "quan tâm", "sốt sắng" của người có nghĩa khí đối với bạn bè vậy.

Thí dụ như, "Mệnh Kị nhập Hữu", biểu hiện là coi trọng nghĩa khí, lại thêm Huynh đệ cung mà ở Khố vị (QNB chú: hiểu nôm na là ở Mộ cung) lại xung với Khố đối diện là thể hiện ý nghĩa không tiếc tiền và sẵn sàng cho bạn vay tiền tài, giúp đỡ bạn trong lúc khó khăn.

Có thực là vĩ đại như thế không? Trên thực tế, phải xét xem các yếu tố khác nữa. Còn quan trọng xét thêm tính tình của đương số qua sao chủ Mệnh và cung Mệnh để xác quyết thêm độ chắc chắn.

4. "Tài Lộc nhập Hữu, Hữu tự hóa Kị" là vì bạn bè mà sẽ gặp xui xẻo, phá tài, mất của.

Trước đã từng thảo luận qua cách người nghĩa khí chắc chắn sẽ là người đặt tình nghĩa cao hơn tiền bạc (như thành ngữ "sơ tài trượng nghĩa", "trọng nghĩa khinh tài" ), nhưng suy cho cùng thì đó cũng chính là vì bạn bè mà tốn tiền, hoặc gặp khó khăn, xui xẻo. Vậy lại yêu cầu phải xem thêm các cung vị khác và lưu niên vận nữa rồi nhỉ.

Thiên can của cung Tài mà khiến cho Hóa Lộc bay vào cung Nô (cung Hữu, Giao Hữu), cung Nô lại tự hóa Kị, có ý nghĩa là liên tục muốn/đòi hỏi bạn bè chi trả tiền bạc. Bản thân hiện tượng này chẳng có gì gây hại lớn cả, nhưng nếu như không có đúng mệnh cách của "người có nghĩa khí" mà trên lưu bàn gặp cách nói trên (tức gặp cách Tài Lộc nhập Hữu, Hữu tự hóa Kị) thì đó chính là biểu hiện của việc vì bạn mà ta bị mất của, gặp xui xẻo, phá tài,... Vào lúc đó không nên tùy tiện mà bảo lãnh cưu mang bạn bè hoặc không có đủ kiện để cho bạn bè vay tiền.

5. "Giao Hữu trùng phùng Mệnh, Thiên, Tật, Quan, Tài" - người trọng nghĩa mà lại đa tai đa nạn.

(QNB chú: chữ Thiên này là để chỉ cung Di, Thiên Di)

Tại mục thứ 3 của phi tinh mạn đàm đã nói tới cách cục của "người trọng nghĩa khí", và vì loạt bài này chỉ là "mạn đàm", cho nên không có dự định nói quá sâu thêm, cho nên bài này làm một tổng kết nhỏ.

Nếu mà bản Mệnh có hiện tượng "người có nghĩa khí", như thế cần xem Mệnh với cung Nô (giao Hữu):

- Cùng đại hạn hay lưu niên của Mệnh cung mà trùng điệp, thì sẽ chuốc lấy phiền não trong mối quan hệ với người khác.

- Cùng đại hạn hay lưu niên của Thiên Di cung mà trùng điệp, thì sẽ có thị phi hoặc là sẽ bị người ta bán đứng.

- Cùng đại hạn hay lưu niên của Tật Ách cung, Quan Lộc cung mà trùng điệp thì sẽ này sinh ra vấn đề không hay trong nhân sự.

- Cùng đại hạn hay lưu niên của Tài Bạch cung trùng điệp, sẽ bị phá tài.

6 - "Hóa nhập tái chuyển Hóa" - phi tinh chuyển di

(còn gọi là "Hóa đến rồi Hóa đi")

Đây cũng chẳng phải là bí kíp võ lâm cái quái gì cả...

Ở những bài trước, chúng ta đã thảo luận về "phi Hóa" (cụ thể là nói về cách "Kị nhập") của 2 cung, và cũng nói đến "xung chiếu" (cụ thể là nói về cách "Kị xung"). Thế nhưng đó cũng mới chỉ là mối quan hệ đơn giản của phi tinh giữa 2 cung với nhau mà thôi.

Trường hợp mà can cung Mệnh khiến cho tinh đẩu ở cung Thiên Di hóa thành Hóa Kị thì gọi là "Mệnh Kị nhập Thiên", mang ý nghĩa nghĩa hình tượng cá nhân ở bên ngoài môi trường hoặc khi ta đi ra bên ngoài thường thể hiện là người cương trực, liêm khiết, ngay thẳng. Và trường hợp "Mệnh Kị nhập Tật" cũng mang ý nghĩa chỉ tính tình của người ngay thẳng, chính trực. Loại tình huống kiểu này cùng với nơi mà có Hóa Kị gốc theo can năm sinh cũng có điểm tương tự.

Vậy nếu như mà trường hợp "Mệnh Kị nhập Tật" đồng thời lại có can cung Tật phi Kị vào Thiên Di (tức là "Tật Kị nhập Thiên") thì sao? Cách này được gọi là "Mệnh Kị nhập Tật, tái chuyển nhập Thiên), loại này ngược lại (với cách đơn thuần ở trên), nó mang ý nghĩa là lừa thày phản bạn, bất tín, bất nghĩa.

Biểu diễn dưới dạng: Mệnh -- Kị --> Tật -- Kị --> Thiên (Di).

Kỳ thực khá dễ thấy. Xét vế cuối "Tật Kị nhập Thiên", cái tật (tức là tâm tính, ưu sự) theo thiên (bản năng thiên phú) mà hành sự, với đơn thuần 2 cung như vậy thì thật khó mà thấy được bản chất vấn đề tốt xấu, bởi vì cặp 2 cung chẳng qua là hướng tới sự hỗ động của hiện tượng thôi. Nhưng mà, khi có thêm vế đầu (tức "Mệnh Kị nhập Tật") là Mệnh phi Kị vào tổ hợp này, thì nhất định việc diễn ra theo việc, mà mang ý nghĩa như trên.

Một yếu tố thêm vào tổ hợp, khiến cho có sự thay đổi lớn như vậy đấy.

7. "Theo Mệnh can của mệnh gốc mà định can cung của đại hạn" sẽ dịch chuyển thiên can của cung.

Ban đầu viết tiêu đề là "phi tinh mạn đàm" chỉ là mong muốn rằng lấy cái thú vị của hình thức đối thoại nhàn nhã một chút để trình bày kinh nghiệm cá nhân của tôi, cho bản thân có thêm hứng thú nghiên cứu "Phi tinh tử vi đẩu số". Nào ngờ lại khiến Tử Vi phi tinh gây được hứng thú với các đại gia (QNB chú: "đại gia" ở đây là là chỉ các chuyên gia, học giả, bực thầy,...), thực sự là khiến cho người ta vui mừng đó mà. (Lúc đầu) Tôi còn tưởng rằng sẽ không có ai có hứng thú với thể loại học thuyết phiền toái này.

Vốn dĩ không muốn ở trong khuôn khổ của "Mạn đàm" mà lại đi thuyết trình quá nhiều về các lý luận cơ bản, bởi vì nó có thể sẽ gây nhàm chán. Thế nhưng mà, tôi nhận thấy rằng ở các mục "phi tinh mạn đàm 2." cùng "phi tinh mạn đàm 5." của tôi nói bên trên đã đề cập tới ứng dụng của "hoạt bàn", nếu như mà chính bản thân tôi mà lại không có căn bản về lý luận của hoạt bàn theo "phi tinh phái" thì cũng rất có thể tôi đã áp dụng sai lầm mất thôi. Cho nên, tôi lại phải dài dòng mà nói sơ qua một chút về các yếu tố cơ bản. Hy vọng là các đại gia đừng chấp mà sẽ đại xá cho vậy.

Trong một số mục đã nói, tôi cũng đã bàn về sự Phi Hóa của Mệnh bàn. Bởi vì Can cung Mệnh gốc là cố định trọn đời, lại cũng không cải biến được, cho nên khỏi cần phải phiền toái với vấn đề của Can cung dịch chuyển.

Can của cung Đại Hạn cũng là dùng kiểu giống như Can của cung Mệnh gốc, ví dụ như Mệnh đóng tại cung Nhâm Ngọ, người Dương nữ Âm nam thì Đại Hạn thứ 2 sẽ đi theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, cũng chính là 13-22 Tân Tị, như vậy là Mệnh cung của Đại Hạn thứ hai ở ngay tại Tị, có Can cung là Tân.

Theo đó thì, cung Huynh đệ của đại hạn sẽ ở Canh Thìn, cung Phu Thê của đại hạn sẽ ở Kỷ Mão,... cứ thế mà suy ra.

Lưu ý, chỉ là cung vị di động, chứ cung Can không biến đổi, cũng cùng giống như một dạng của Mệnh gốc.

(QNB chú: độc giả lưu ý, tác giả loạt bài viết này cũng dùng phép khởi đại hạn từ cung Mệnh, như ở ví dụ trên là cung Mệnh Nhâm Ngọ thì ứng đại hạn đầu tiên 3-12 của Mộc 3 Cục. Và khi xét về hạn thì họ coi cung nhập hạn chính là nơi mà Mệnh đi đến, nên mới gọi là "Mệnh cung của đại hạn", tức là họ cũng sử dụng luôn phép Lưu Cung, di cung, hay gọi như ta thường nói là cung Lưu Mệnh.

Sau đó, đối với hệ quy chiếu đại hạn thì họ coi đây là 1 tầng lá số thứ 2 với các cung vị Mệnh, Bào, Phu Thê,... đủ cả 12 cung dịch chuyển nhưng Thiên Can của các cung khi xét đại hạn thì không hề có sự biến đổi so với cung Mệnh gốc).

Cái này thì Tam Hợp Phái cũng thường đều dùng như là những lý luận cơ bản vậy. Và đại đa số các trình an lá số cũng lấy lý luận này mà coi như là cơ sở.

Thế nhưng, đối với Lưu niên, Tiểu hạn, Nguyệt hạn, Nhật hạn cùng Thời hạn thì khác, không chỉ có Cung vị biến hóa mà còn có cả sự biến hóa của Can cung nữa. Điều này thì các trình an lá số trên máy tính chưa thể hiển thị được, bởi vì chỉ có các phái Phi tinh mới đặc biệt lưu ý tới sự biến hóa của Can cung.

Sự biến đổi của Can cung (lúc đó cần) sử dụng đến phép "Ngũ Hổ độn" cùng "Ngũ Tý độn" đấy.

8. "Lưu niên Thái Tuế Can Chi định lưu niên Mệnh cung" - cần lưu ý theo phép "Ngũ hổ độn"

Mọi người đều biết rằng Mệnh cung của lưu niên thì dùng "Chi" của lưu niên mà quyết định. Tỷ dụ như Lưu niên tại Dậu thì Mệnh cung lưu niên năm nay ở ngay tại Dậu cung.

Vậy thì Can của cung ấy sẽ là gì? Có thể dùng Can của lưu niên thái tuế mà xác định. Năm nay là năm Ất Dậu, như vậy Mệnh cung ở tại cung Dậu, và Can cung là Ất. Cứ thế mà suy rộng ra, Phụ Mẫu cung là Bính Tuất, Phúc Đức cung là Đinh Hợi, Điền Trạch cung là Mậu Tý, Quan Lộc cung là Kỷ Sửu,...

Như thế thì cung Giao Hữu (QNB chú: tức cung Nô Bộc) có phải là Canh Dần không?

Không phải, theo cách sắp xếp Mệnh bàn gốc thì cùng một dạng, bời vì theo Ngũ Hổ độn thì đó chính là khởi điểm, cho nên ta đã từng lặp lại trước đó 2 Can rồi.

Cho nên theo đó mà cung Giao Hữu là Mậu Dần, Thiên Di cung là Kỷ Mão, Tật Ách cung là Canh Thìn, Tài Bạch cung là Tân Tị, Tử Tức cung là Nhâm Ngọ, Phu Thê cung là Quý Mùi, Huynh Đệ cung là Giáp Thân.

Cũng không đơn giản à nha. Cần lưu ý rằng lá số an theo trình an sao từ máy tính sẽ không cho ta kiểu Can cung dịch chuyển như thế được, bởi vì Tam Hợp phái chú trọng vào Lưu niên Mệnh cung cung Can tứ Hóa mà thôi, cho nên Can cung dịch chuyển của cung khác (đối với Tam Hợp phái mà nói thì) dẫu không dịch chuyển cũng chẳng ảnh hưởng gì. Thế nhưng dưới nhãn quan của phái Phi Tinh thì có quan hệ và ảnh hưởng lớn đấy nhé.

(Chúng ta) còn chưa chính thức sử dụng đến "Ngũ hổ độn quyết" cùng Ngũ Tý độn quyết" nhỉ. Mục dưới đây sẽ mở đầu giảng về sự biến hóa của Can trong Tiểu hạn, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời hạn. Có khả năng là tương đối khó đấy, các đại gia hãy chuẩn bị tâm lý nhé.

(Người viết bài) chú: Trên thực tiễn "Phi tinh phái" có sử dụng Lưu niên Tuế can, cũng có sử dụng cả Lưu niên cung Can nữa. Cụ thể xin xem thêm ở mục "phi tinh mạn đàm 28." - cung Can độn quyết bổ chú.

Độc giả lưu ý:

Theo cách hành văn và thuật ngữ sử dụng của tác giả của loạt bài này thì "Phi tinh phái" sử dụng 2 cung để coi về vận hạn trong 1 năm. Đó là:

- Cung có Lưu Thái Tuế, được chỉ bởi cụm từ "Lưu niên" hoặc "Lưu niên Thái Tuế".

- Cung Tiểu Hạn, được chỉ bởi cụm từ "Tiểu Hạn". Cái này tương đồng ý nghĩa với "Lưu niên Tiểu Hạn" mà chúng ta vẫn thường dùng.

Ví dụ như, ở đề mục mạn đàm số 8., có nói về dùng Can-Chi của "Lưu niên Thái Tuế" để mà xác định Thiên Can của "Lưu niên Mệnh cung":

- Cụm từ "Lưu niên Mệnh cung" ở đây chính là chỉ cung Lưu Mệnh trong niên hạn 1 năm nào đó.

- Cách mà tác giả sử dụng là: lấy Địa Chi của niên hạn cần xét để mà xác định "cung nhập hạn", tức là lấy cung có "Lưu Thái Tuế" năm ấy đến đóng mà làm mốc, như xét năm Dậu thì Lưu Thái Tuế ở cung Dậu và người ta coi đây là "Lưu niên Mệnh cung" của năm Dậu. Tiếp đó, lấy ngay Thiên Can của năm đang xét mà làm Thiên Can của cung nhập hạn luôn, như đang xét năm Ất-Dậu thì lấy luôn Can Ất của năm này áp vào thành Can Ất cho cung Dậu trên lá số. Rồi từ cung Ất-Dậu ấy trên lá số, lần lượt xác định Thiên Can cho 11 cung còn lại, theo chiều thuận -> Bính Tuất -> Đinh Hợi -> Mậu Tý -> Kỷ Sửu --- đến đây phải dừng lại mà lưu ý đến quy tắc Ngũ Hổ độn, để không được chuyển liền từ Kỷ Sửu sang Canh Dần, bởi vì Dần cung luôn luôn phải được dùng làm điểm khởi đầu trong phép Ngũ Hổ Độn, cho nên phần sau đó tác giả mới giải thích về cung Dần mang Can là Mậu, rồi theo đó mà lần lượt thuận chiều Mậu Dần -> Kỷ Mão -> Canh Thìn -> Tân Tị -> Nhâm Ngọ -> Quý Mùi -> Giáp Thân -> (Ất-Dậu).

Chính vì thế cho nên tác giả cũng nói "chưa thực sự dùng đến phép Ngũ Hổ độn", mà tác giả mới nhắc nhở là khi xét Thiên Can cho cung Lưu Mệnh ở cung Lưu Thái Tuế thì đến chỗ cung Dần là cần phải lưu ý đến điểm khởi đầu trong phép Ngũ Hổ độn để mà đỡ có sai lầm thôi.

QNB lấy luôn trường hợp này làm ví dụ cho dễ hiểu:

Ví dụ, năm nay là Giáp Ngọ tại cung Ngọ là mệnh, sau đó Ất mùi = phụ mẫu.... chứ không tính can cung của đại vận đó? (Ngũ hổ độn).

Ta không cần quan tâm cung Mệnh gốc của đương số nằm ở đâu trên lá số, hễ cứ là xét hạn năm Ngọ theo Lưu niên Thái Tuế thì ta cứ lấy cung Ngọ (nơi có Lưu Thái Tuế của năm Ngọ đóng) làm "lưu niên Mệnh cung" - tức cung Lưu Mệnh.

Lại xét hạn năm nay là năm Giáp-Ngọ chứ gì, vậy thì cung Lưu Mệnh của đương số có Thiên Can là Giáp luôn.

Tức là lấy luôn Can-Chi của năm ấy mà ốp vào cung có Lưu Thái Tuế đóng.

Thế rồi lần lượt theo chiều thuận từ Lưu Mệnh là cung Giáp Ngọ -> (L. Phụ Mẫu) Ất Mùi -> (L.Phúc Đức) Bính Thân ->.... -> (L. Thiên Di) Canh Tý -> (L.Tật Ách) Tân Sửu --- tạm dừng lại nhớ đến điểm khởi đầu của Ngũ Hổ độn ---> (L.Tài Bạch) Canh Dần -> (L. Tử Tức) Tân Mão -> (L. Phu Thê) Nhâm Thìn -> (L. Huynh Đệ) Quý Tị -> (trở về Lưu Mệnh là cung Giáp Ngọ).

9. Can cung Đại Hạn gia thêm Ngũ Hổ độn quyết để xác định Can cung tiểu hạn.

Phần trước đã bàn qua về phép xác định của Can cung Đại Hạn cùng Can cung lưu niên. Còn đối với Tiểu hạn, lưu Nguyệt, cùng với lưu Nhật hạn sẽ cần dùng đến phép "Ngũ Hổ độn"; với lưu Thời hạn thì dùng đến phép "Ngũ Tý độn".

Phép khởi Tiểu Hạn, lấy Chi của năm làm chuẩn, không phân Âm Dương gì cả, cứ Nam thì thuận còn Nữ thì nghịch:

Thân Tý Thìn thì khởi tại Tuất

Hợi Mão Mùi thì khởi tại Sửu

Dần Ngọ Tuất thì khởi tại Thìn

Tị Dậu Sửu thì khởi tại Mùi.

Khi tìm được cung vị sở tại của Tiểu Hạn, cần tìm luôn Can cung nhé. Rất nhiều học thuyết đều dùng Can cung của Mệnh gốc mà tính Can cung của Tiểu Hạn, kỳ thực thì Can cung ấy lại phải dùng Can cung Mệnh bàn thông qua phép "Ngũ Hổ độn" mà xác định, chỉ có điều lần này dùng Can cung của nơi Đại hạn đóng.

Ngũ Hổ độn quyết:

Giáp Kỷ chi niên Bính Dần thủ

Ất Canh chi tuế Mậu Dần đầu

Bính Tân tiện do Canh Dần khởi

Đinh Nhâm hoàn tòng Nhâm Dần lưu

Duy hữu Mậu Quý hà phương lạc

Giáp Dần chi thượng hảo thôi cầu.

Mệnh bàn sau đây là ví dụ, năm Nhâm Tý lấy Tuất cung mà khởi Tiểu hạn đầu tiên, giả sử muốn tìm Tiểu Hạn của năm sau 34 tuổi, liền từ cung Tuất nghịch hành tới cung Sửu. Đồng thời Đại hạn 34 tuổi đang tại cung Bính Ngọ, có Can cung của Đại Hạn là Bính; với Ngũ Hổ độn quyết thì "Bính Tân tiện do Canh Dần khởi", cho nên từ cung Canh Dần khởi đếm thuận đến tận cung Sửu:

Canh Dần -> Tân Mão -> Nhâm Thìn ->... -> Kỷ Hợi -> Canh Tý -> Tân Sửu.

(Theo đó) Can-Chi của cung Tiểu Hạn năm 34 tuổi sẽ chính là Tân Sửu.

[QNB chú: độc giả lưu ý, tuy tác giả viết hơi vắn tắt nên có thể người đọc sẽ thấy lằng nhằng khó hiểu 1 chút, nhưng để ý kỹ theo suốt mạch văn thì sẽ thấy rất rõ ràng như sau:

Phía trên, ở mục 8., tác giả đang nói là "năm nay là năm Ất Dậu" thì ta hiểu rằng lúc tác giả viết loạt bài này chính là năm 2005 - Ất Dậu.

Rồi tác giả lấy ví dụ là một người sinh năm Nhâm Tý, và giả thiết muốn tìm Tiểu Hạn "năm sau" tức là Tiểu Hạn năm 2006 - Bính Tuất. Cái chữ "năm sau" là so với thời điểm tác giả đang viết bài. Và tính đến 2006 - Bính Tuất thì đương số Nhâm Tý (1972) được 34 tuổi (thực chất phải là 35 tuổi ta mới đúng).

Đương số Nhâm Tý này phải là Nữ nên Tiểu Hạn mới khởi từ cung Tuất - kể là Tý mà đi nghịch đến cung Sửu thì chính là cung Tiểu Hạn năm Tuất.

Con số tuổi 34 đưa ra chỉ là cái mốc liên quan đến Đại Hạn đang thuộc cung nào mà thôi, và tác giả cho biết Đại Hạn của đương số đang ở cung Bính Ngọ.

Sau đó, tác giả dùng ngay Can của cung Đại Hạn làm yếu tố để dùng Ngũ Hổ độn mà xác định Can của cung Tiểu Hạn năm Tuất vì cho rằng Tiểu Hạn năm 34 tuổi đó đang 1 năm thuộc về thời gian 10 năm của Đại Hạn trên cung Bính Ngọ (đẻ năm Nhâm nên cung Ngọ của lá số gốc có Can Bính).

Tóm lại, phương pháp của tác giả dùng là: Lấy Thiên Can của cung Đại Hạn (có chứa số tuổi tương ứng với năm Tiểu Hạn sẽ xét) mà dùng Ngũ Hổ độn để xác định Thiên Can của cung Tiểu Hạn năm đó].

(Tác giả) chú: Kỳ thực thì Can cung Dần Mão đồng dạng với Can cung Tý Sửu nên có thể đếm nghịch cũng tính ra được.

Nếu như mọi người còn chưa thấy chán thì dưới đây sẽ nói tiếp đến Lưu nguyệt hạn cùng với Lưu nhật hạn.

10. "Can cung Lưu niên gia thêm Ngũ Hổ độn để xác định Can cung Lưu nguyệt" - còn Lưu nhật thì sẽ xem theo Can cung lưu nguyệt.

Mấy bài trên đã từng đàm luận qua về cách xác định Can cung của Đại Hạn, rồi của Lưu Niên, cùng với của Tiểu Hạn ra sao, để lấy mà làm cơ sở cho Phi Tinh Phái có thể phi hóa trên hoạt bàn. Ngoại trừ Can cung Mệnh gốc với Can cung Đại Hạn ra thì các Can cung của Tiểu Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời đều không ngừng biến hóa. Như vậy, để vận dụng được Phi tinh thì cần phải đặc biệt chú ý đến điểm này.

Bây giờ sẽ tiếp tục nói đến Lưu Nguyệt và Lưu Nhật.

"Khởi Can cung của Lưu nguyệt hạn"

Từ "mệnh cung lưu niên" khởi nghịch đếm đến tháng sinh, lại từ cung ấy mà đếm thuận đến giờ sinh.

Dùng mệnh tạo sau đây để mà làm ví dụ, Lưu niên mệnh cung tại Dậu, can cung Thái Tuế là Ất (vừa khéo thế nào mà lại cùng với cung Mệnh gốc cùng 1 dạng Can là Ất) đếm nghịch đến tháng sinh là tháng 9 thì tới cung Sửu, lại từ cung Sửu kể là giờ Tý mà đếm thuận đến giờ sinh là giờ Hợi thì tới cung Tý. Cung Tý này chính là chỗ của Lưu niên đẩu quân của năm Ất Dậu, cũng chính là tháng đầu tiên của Lưu nguyệt hạn. Tháng thứ hai của Lưu nguyệt là ở cung Sửu, tháng thứ ba của Lưu nguyệt là ở cung Dần,... cứ thế mà suy rộng ra.

Lấy Can cung lưu niên là Ất để làm chuẩn, áp dụng Ngũ Hổ độn "Ất Canh chi niên Mậu Dần đầu", cho nên sự phân bố của 12 cung chính là từ cung Mậu Dần. Tại ví dụ này khá cá biệt, vừa khéo thế nào mà Can cung của cung Dần theo Mệnh gốc lại cũng là Mậu. Cho nên xem như là khá dễ dàng, Can cung của tháng 4 ở cung Mão chính là Kỷ.

"Khởi Can cung lưu nhật hạn"

Cung Lưu nhật thì ngày thứ nhất chính là ở tại cung vị của Lưu nguyệt, cứ thế mà thuận hành các ngày thứ 2, 3,... vân vân. Lấy hôm nay là ngày 20 làm ví dụ, do (lưu nguyệt hạn) tháng 4 từ Mão cung mà bắt đầu đếm thuận cho đến 20 thì sẽ đến cung Tuất.

Can cung lại dùng Ngũ Hổ độn để mà xác định, lần này thì ta dùng Can cung của cung lưu nguyệt mà làm chuẩn. (Vì) Cung Lưu nguyệt có Can là Kỷ, mà "Giáp Kỷ thì Bính Dần thủ" cho nên Dần cung sẽ mang Can là Bính, đếm thuận đến Tuất cung thì chính là can Giáp. Do đó mà hạn Lưu nhật của ngày 20 tháng 4 sẽ ở trên cung Giáp Tuất.

Còn như xác định "Lưu thời hạn" thì lại phải dùng đến "Ngũ Tý độn". Bài dưới đây sẽ tiếp tục nói đến.

11. Can cung Lưu nhật gia thêm Ngũ Tý độn để xác định Can cung Lưu thời.

Ngũ thử (Tý) độn quyết:

Giáp Kỷ chi nhật khởi Giáp Tý

Ất Canh chi nhật thành Bính Tý

Bính Tân chi nhật khởi Mậu Tý

Đinh Nhâm chi nhật khởi Canh Tý

Mậu Quý chi nhật khởi Nhâm Tý

Trước là phải tìm ra Can ngày rồi mới vận dụng Ngũ Tý độn quyết. Sử dụng luôn ví dụ Mệnh bàn ở ngay bên trên đây, đã biết là ngày 20 tháng 4 là Giáp Tuất, đếm thuận tới ngày 24 tháng 4 chính là: Giáp Tuất (20) -> Ất Hợi (21) -> Bính Tý (22) -> Đinh Sửu (23) -> Bính Dần (24 - khởi điểm của phép Ngũ Hổ độn, can Bính là trùng lặp lại).

(Vậy) ngày 24 tháng 4 là tại Dần cung, có Can cung là Bính.

Lấy "Ngũ Tý độn" mà khởi Can từ cung Tý, theo câu "Bính Tân chi nhật khởi Mậu Tý", cho nên giờ Tý của ngày 24 tháng 4 là ở tại cung Tý và Can cung là Mậu; giờ Sửu ở tại cung Sửu với Can cung là Kỷ,... cư thế mà suy ra.

Liền một mạch mà nói quá nhiều về các lý luận cơ bản thì khả năng sẽ làm cho mọi người khó mà tiêu hóa được, thành thực xin lỗi vậy. Nhưng để bắt đầu thảo luận về hoạt bàn phi tinh, thì những lý luận đó đúng là không thể không biết được.

Nếu như quý vị có lưu ý, thì ta chưa hề vận dụng "Ngũ hổ độn quyết" cùng "Ngũ thử độn quyết" của Phi Tinh phái để mà phân biệt ở tại Tiểu Hạn, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật cùng Lưu Thời.

Làm thế nào để biết thời cơ kiếm tiền? Các bài tiếp theo sẽ bàn tới ứng dụng phi tinh để biết thời cơ kiếm tiền.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phi tinh màn đàm

Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẻ cho những người kém may mắn.Tuy nhiên, không phải ai cũng biết ông già tuyết là ai và tại sao lại có ông già tuyết?
Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

1./ Nguồn gốc Lễ giáng sinh

Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta") là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.

Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6. Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12.

Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory (lịch dương).

Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.

Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.

Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2, 3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.

Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.

Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu. Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.

Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với Đông Chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.

2./ Ý nghĩa lễ giáng sinh

Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ: chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel…

Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em: một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.

Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình: ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” - đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu….

3./ Giáng sinh ở Việt Nam thường diễn ra như thế nào?

Giáng sinh du nhập vào Việt Nam và được đông đảo mọi người hưởng ứng rất nhiệt tình. Dù không phải là ngày nghỉ chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12.

Trong những ngày này, cây thông Noel được trang trí ở nhiều nơi, có thể là cây nhân tạo làm bằng nhựa, hoặc cây thật thường là thông ba lá hoặc thông đuôi ngựa, trong khi ở các nước phương tây dùng đa dạng các loài thông, vân sam, lãnh sam. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây.

Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp. Trong đêm Giáng Sinh, những đôi tình nhân tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke,... và đặc biệt là những người Công Giáo thì chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường giáo xứ hoặc giáo họ của mình.

3./ Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?

Một nhân vật không thể thiếu trong ngày Lễ giáng sinh là Ông già Noel. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu xem nhé.

** Nguồn gốc của Ông già Noel

Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ.

Người Pháp gọi là:  Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục, lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.

Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế.

Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen,đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.

Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà!  Một cách giáo dục hay!

Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.

Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.

Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel 

** Cuộc đời Thánh Nicôla

Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?

Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật.

Thánh nhân sinh năm 280 SCN, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ : “Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình”, Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là “chú nhóc Giám Mục”. Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào.

Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.

Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa.

Ngày 6 tháng 12 năm 343, Đức giám mục Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Một thời gian ngắn sau khi Đức giám mục Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài.

Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh.

** Lý do ông già Noel trở nên nổi tiếng?

Như vậy, có thể thấy câu chuyện về ông già Noel xuất phát từ Cơ đốc giáo. Tuy nhiên ngày nay, nhân vật này xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và nhiều người không theo tôn giáo này nhưng vào ngày lễ Giáng sinh vẫn thực hiện những phong tục giống những người theo đạo như: Tặng quà cho trẻ em hay hóa trang thành ông già Noel.

Vậy nhờ đâu mà người đàn ông bụng phệ mặc đồ đỏ này lại nổi tiếng đến vậy?

Trước hết, ông già Noel không chỉ là hóa thân của một vị thánh trong Cơ đốc giáo, mà ông còn là một hình ảnh tượng trưng cho lòng nhân từ, tình yêu thương giữa con người với con người. Câu chuyện về ông nhanh chóng lan truyền và được mọi người hưởng ứng.

Từ đó, ông già Noel cũng bắt đầu “làm việc” trong lĩnh vực quảng cáo. Hình ảnh ông già Noel trong chiến dịch quảng cáo của Cocacola. Cũng chính từ đây mà ông già Noel nổi tiếng khắp thế giới.

Tuy nhiên, hình ảnh về một nhân vật hiền hậu với chiếc bụng phệ trong bộ trang phục màu đỏ viền trắng cùng bộ râu trắng xóa chỉ trở nên nổi tiếng thế giới kể từ những năm 1930, khi hãng Cocacola sử dụng hình ảnh ông già Noel để thực hiện chiến dịch quảng cáo sản phẩm nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong quảng cáo này, ông già Noel trên chặng đường phát quà cho các bạn nhỏ đã dừng lại nghỉ chân và thưởng thức một chai Cocacola giải khát. Vì là một chiến dịch quảng cáo, nên nhờ đó mà hình ảnh ông già Noel tràn ngập khắp các phương tiện truyền thông đại chúng và dần trở nên quen thuộc.

Khi chiến dịch quảng cáo kết thúc, hình ảnh dễ thương này của ông già Noel vẫn được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác và kết quả là ngày nay, trên thế giới ai cũng biết tới ông già Noel với tạo hình là một ông lão râu trắng, bụng to, mặc đồ màu đỏ và có một điệu cười vô cùng thân thiện. Thú vị thay, trang phục của ông già Noel có màu sắc cũng tương ứng với logo của hãng nước giải khát này.

4./ Những biểu tượng trong ngày Lễ giáng sinh

** Vòng lá mùa vọng

Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.

Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là  màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng 

** Thiệp Giáng sinh

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên  thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.

** Quà Giáng sinh

Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.

Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.

Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.

Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

** Cây thông NOEL  

Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu.

Đến thế kỉ 19 thì cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.

** Quà tặng trong những chiếc bít tất

Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.

Câu truyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo bít tất bên lò sưởi dể hy vọng nhận được quà.

Trẻ em hy vọng nhận được nhiều quà nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh lò sưởi dể nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.

** Ngôi sao Giáng Sinh 

Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía,có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt. 

Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương và vàng bạc châu báu.

Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đem Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.

** Chiếc gậy kẹo

Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Giê su. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của chúa Giê su. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập ác. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì chúa Giê su chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên chúa Giê su (Jesus). Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.

** Bài hát Giáng sinh 

Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.

Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh. Bài Silent Night, Holy night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức – Áo - Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ... nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.

** Nến Giáng Sinh 

Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.

Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.

Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.

** Chuông Thánh Đường

Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Sơ lược lý thuyết âm dương ngũ hành

Trong quyển Triết HọcTrung Quốc Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Lý thuyết Âm Dương NgũHành đã được trình bày cặn kẽ. Có thể tóm lược lýthuyết này qua những nét chánh yếu sau đây :
Sơ lược lý thuyết âm dương ngũ hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1) Từ lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành đến khoa Tử Vi

a) Lý thuyết này có từ trước đời nhà Tần. Tác giả nguyên thủy là Trân Diễn, sinh vào khoảng giữa thế kỷ 3 trước Tây Lịch. Ông sáng lập một triết phái mà các sử học gọi là Âm Dương giả.

b) Đến đời nhà Tần, các sách triết đều bị đốt và bị cấm lưu hành. Muốn học thì chỉ phải học đám quan lại, muốn đọc thì chỉ còn đọc những sách bói toán. Việc cấm đoán tự do ngôn luận khiến các học giả phải dựa vào các sách bói toán mà nghị luận. Sách bói toán bấy giờ là Kinh Dịch, những nghị luận trong sách đó là Dịch truyện. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành được tập Dịch truyện này quảng diễn thêm.

c) Đến đời Hán, một triết gia nổi danh là Đổng Trọng Thư đã khai triển sâu rộng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vốn là sở trường của nền học của ông. Cái gì ông cũng ghép vào Âm Dương Ngũ Hành (như vua là dương, tôi là âm, cha là dương, con là âm, chồng là dương, vợ là âm… mùa xuân là mộc, hạ thuộc hỏa, thu thuộc kim, đông thuộc thủy, hướng Đông thuộc mộc, hướng Nam thuộc hỏa, hướng Bắc là thủy, trung ương là thổ). Luật biến hóa của Âm Dương Ngũ Hành được xem là luật biến hóa chung của vũ trụ và của cả con người, có thể áp dụng vào việc trị nước. Cho nên, đời Hán có các quan coi riêng về luật biến hóa này để khuyến cáo chính sách quốc gia, đề phòng tai trời ách nước. Việc khuyến cáo sai đưa đến sự huyền chức. Đó là tác dụng bói toán của lý thuyết này. Tác dụng đó đưa đến sự thành hình phái Tướng số, cũng do Đổng Trọng Thư dẫn đầu. Nhiều nho gia đã mượn thuyết Âm Dương Ngũ Hành này để chú thích Kinh Dịch thêm cho phong phú.

d) Phái học Tượng Số đó đến đời nhà Tống lại càng thịnh đạt và được phát huy mạnh mẽ để ứng dụng vào những môn học huyền bí. Công trình này do một đạo sĩ Trần Đoàn đã cụ thể hóa vào tướng số, trong đó khoa Tử – Vi là một ngành. Thành thử, tóm tắt có thể nói:

-    Trân Diễn là nguyên tổ của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

-    Đổng Trọng Thư là người khai triển và quảng bá lỗi lạc nhất.

-    Trần Đoàn là tác giả khai sáng khoa Tượng số của họ Đổng và lập ra môn Tử – Vi

Đó là lược dẫn nguồn gốc của khoa Tử – Vi.

2) Nội dung lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành

Trở lại phần lý thuyết nguyên thủy của Âm Dương Ngũ Hành, triết sử ghi rằng: thuyết này nằm trong phần Vũ trụ luận, nhằm tìm hiểu nguyên gốc, đặc tính, qui luật biến hóa của vũ trụ, vạn vận sự thể hiện của vũ trụ, dứt điểm của vũ trụ. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành bắt nguồn từ học thuyết Thái Cực và các nghị luận rút trong Kinh Dịch.

Học thuyết này cho rằng nguồn gốc sơ khởi nhất của vũ trụ vạn vật là Thái Cực. Thái Cực cùng với Âm Dương là những ý niệm cơ bản của Kinh Dịch. Âm Dương được thống nhất trong Thái Cực. Sự phát sinh của Âm Dương từ Thái Cực theo một đại lịch trình (gọi là Dịch, nói khác đi là quy luật chuyển động biến hóa – loi des mouvments hay dialectique). Đại lịch trình đó được diễn tả qua trích văn sau đây, lấy trong Hệ từ truyện:

“Dịch là Thái Cực, sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh ra Bát Quái”.

Khởi điểm của lịch trình là Thái Cực, từ đó mới sinh ra Lưỡng Nghi (tức là 2 khí Âm, Dương), kế đến mới sinh tiếp Tứ Tượng (là bốn mùa), từ Tứ Tượng mới tiếp sinh Bát Quái (tức tám hiện tượng lớn và cơ bản của vũ trụ). Đó là Càn (chỉ Trời), Khôn (chỉ Đất), Chấn (chỉ sấm sét), Tổn (chỉ gió), Khảm (chỉ nước), Ly (chỉ lửa), Cấn (chỉ núi), Đoài (chằm hay đồng cỏ thấp có nước).

Trong Thái Cực, tiềm phục 2 khí Âm Dương. Về tính chất, 2 khí này vẫn đối lập nhau khi còn ẩn trong Thái Cực. Vạn vật sinh thành là nhờ 2 khí Âm Dương và cũng nhờ 2 khí đó mà biến hóa. Một khi đơn độc thì không sinh phát được. Phải có sự giao hợp giữa 2 khí thì mới sinh được vạn vật: Đó là cái luật lớn của Trời Đất (gọi là Đức lớn). Đức này là Đức Sinh.

Cái đức đó chủ sự sinh trưởng, nó là cái đà sống, cái sức thúc đẩy cuộc sống. Luật sinh này theo một qui tắc nhất định gọi là Đạo: đó là quá trình diễn biến của sự vật từ lúc bắt đầu đến khi hình thành. Quá trình này phải qua bốn giai đoạn là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, hay là 4 hiện tượng, 4 trạng thái diễn biến:

-    Nguyên: là trạng thái tiên khởi của vật khí bắt đầu vào cuộc sống.

-    Hanh: là hanh thông, thông đồng, sự tiếp xúc của nguyên vật với ngoại giới.

-    Lợi: là nhuận lợi, tức là tình trạng của vật đã thích ứng được với hoàn cảnh khi tiếp xúc với ngoại giới của giai đoạn Hanh.

-    Trinh: là sự thành tựu hẳn hòi của sự vật.

Nói khác đi, Nguyên Hanh Lợi Trinh là một quá trình cấu tạo do sự chuyển động nội tại của 2 khí Âm Dương để sinh ra sự vật (processus dialectique) qua các bước nói trên của Đạo.

Khi vật thành hình, vật cũng biến động theo một chu kỳ (cycle dialectique) gồm 4 bước: Thành, Thịnh, Suy, Hủy, đánh dấu mức độ phát triển và suy tàn dần dần của 2 khí Âm Dương giao tiếp:

-    Thành: là giai đoạn của Thiếu Dương, giai đoạn Khí Dương vừa từ Thái Âm sinh ra.

-    Thịnh: là giai đoạn của Thái Dương, giai đoạn của khí Dương phát triển cao độ.

-    Suy: là giai đoạn Thiếu Âm, giai đoạn khí Âm vừa từ khí Dương sinh ra.

-    Hủy: là giai đoạn của Thái Âm, giai đoạn khí Âm phát triển cực độ, lấn át hết khí Dương.

Cứ như vậy mà Âm Dương tiếp tục xoay vần, khi thịnh, khi suy, theo một tuần hoàn sinh hóa mà không bao giờ đứt đoạn của luật Đạo.

Cũng theo đạo biến hóa của Âm Dương và dưới sự thúc đẩy của đức sinh, 4 mùa và ngũ hành được cấu tạo. Đổng Trọng Thư viết:

“Khí của Trời Đất hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương tác ra làm 4 mùa, bày sắp thành ngũ hành”.

Ngũ hành được các triết gia xem là 5 nguyên tố căn bản của vũ trụ. Đó là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy.

-    Mộc: là gỗ hay nói chung tất cả những loại cây.

-    Hỏa: là lửa (chất) hay hơi nóng (biểu tượng).

-    Thổ: là đất (chất) hay nói chung tất cả khoáng vật (trừ kim khí).

-    Kim: là vàng hay nói chung là tất cả các loại kim khí.

-    Thủy: là nước hay nói chung là chất lỏng.

Đổng Trọng Thư đã xếp ngũ hành theo thứ tự đó: “Một là Mộc, hai là Hỏa, ba là Thổ, bốn là Kim, năm là Thủy. Mộc là hành đầu của ngũ hành, Thủy là hành chót, Thổ là hành giữa. Đó là thứ tự tự nhiên”.

Thứ tự này có nhiều tác giả không đồng ý (như Ban Có đời Hậu Hán). Nhưng, quy tắc sinh khắc giữa 5 hành thì tương đồng giữa các tác giả. Qui tắc này là:

Hai Hành kế tiếp nhau thì sinh nhau, mà đứng cách nhau một hành thì khắc nhau.

Như vậy thì Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, theo chiều ấn định.

Qui tắc tương khắc là: Kim khắc Mộc, Thủy khắc Hỏa, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. (Có cách dùng chữ thắng thay cho chữ khắc, nhưng cùng đồng nghĩa với nhau).

Nếu Âm Dương có phương vị và đường lối lại riêng của Âm Dương thì ngũ hành cũng thế. Vậy, tất nhiên phải sinh mối quan hệ giữa Âm Dương và Ngũ Hành trong không gian và thời gian. Theo Đổng Tử thì gặp lúc khí dương đang thịnh mà hành Mộc thì hành Hỏa lại được khí Dương ấy giúp vào thì thành mùa xuân, mùa hạ và vạn vật sinh trưởng, gặp lúc khí Âm đang thịnh mà hành Kim, hành Thủy lại được khí Âm giúp vào thì thành mùa Thu, mùa Đông. Vì 2 cái khí Âm Dương đắp đổi thịnh suy và luôn luôn luân chuyển, cho nên ảnh hưởng của nó đối với ngũ hành không dứt và 4 mùa vì thế xoay vần bất tuyệt”.

Mỗi Hành làm chủ cái khí của một mùa.

“Mộc ở phương Đông là chủ khí Xuân, Hỏa ở phương Nam là chủ khí Hạ, Kim ở phương Tây làm chủ khí Thu, Thủy ở phương Bắc làm chủ khí Đông. Cho nên Mộc chủ sinh mà Kim chủ sát, Hỏa chủ nóng mà Thủy chủ lạnh. Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuận. Thổ là chân tay của Trời, đức của Thổ tươi tốt, không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được: cho nên có ngũ hành mà lại có tứ thời là vì Thổ kiêm cả Tứ thời.

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có một chức vụ, nhưng không nhờ nơi Thổ thì Kim, Mộc, Hỏa, Thủy không đứng vững.

Như vậy, Đổng Trọng Thư đã đặt cho Thổ một vai trò hết sức đặc biệt, vừa kiêm cả Tứ thời, vừa là chỗ dựa cho 4 hành còn lại. Điểm này được phản ảnh sau này trong khoa Tử – Vi.

Thuyết ngũ hành, nguyên được suy diễn từ pháp thuật ngũ hành của cổ nhân. Cổ nhân cho rằng có sự ảnh hưởng qua lại giữa con người và sự vật trong vũ trụ, cho nên quan sát các hiện tượng của vũ trụ có thể đoán phúc họa cho con người. Vì vậy, Phái Tượng Số mới ghép ngũ hành vào một trong 6 phép của thuật số. Sáu phép đó là: Thiên Văn, Lịch Phổ, Ngũ Hành, Thi Qui (bói có thi, bói rùa, Tạp Chiêm (đoán điềm), Hình Pháp (xem tướng). Thuyết ngũ hành được phổ cập rất nhiều ở thời chiến quốc, nhất là vào cuối thời này. Cái gì cũng được người ta ngũ hành hóa (bốn phương, bốn mùa). Trân Diễn còn đem ngũ hành vào triết học lịch sử, gán ngũ hành vào Ngũ đức. Nhưng cái dụng phổ biến nhất của thuyết ngũ hành là cái dụng bói toán của phái Tượng Số. Nhờ đó mà đạo sĩ Trần Đoàn mới khai sáng ra khoa Tử – Vi, dùng sao trên trời, được âm dương hóa và ngũ hành hóa, để xếp bày vận số của con người, để rồi từ đó, suy diễn trên qui luật biến hóa Âm Dương Ngũ Hành, những ý nghĩa trên con người.

Đến đây, tưởng cần xét về sự áp dụng qui luật biến hóa này vào khoa Tử Vi.





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơ lược lý thuyết âm dương ngũ hành

Vì sao cá chép lại được chọn trong ngày “Ông Táo về trời”

Theo truyền thuyết thì cá chép vàng (còn có tên là cá chép tiên) là loài động vật sống trên thiên đình. Do phạm phải lỗi nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian tu hành để chuộc lại tội lỗi của mình gây ra. Sau khi tu thành chính quả, cá chép sẽ được hóa thân thành rồng và bay lên trời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ông Táo là do Ngọc Hoàng phái xuống trần tục theo dõi loài người, xem ai là người thiện, người ác. Các Táo muốn lên báo cáo với Ngọc Hoàng thì phải nhờ đến cá chép mới có thể đi được. Chính vì thế, các gia đình thường cúng cá chép vào ngày 23 tháng Chạp.


Ngày trước, cúng ông Công, ông Táo phải dùng cá chép chín, tức là đã kho hoặc rán. Nhưng đến nay, tập tục này đã được “chuyển thể” thành cá chép sống và hiện đại hơn là cá giấy để đốt hoá vàng.

Ngoài ra, các bạn còn có thể dâng hoa quả, kẹo, bánh mứt… miễn là đồ ngọt. Tùy các vùng khác nhau, có nơi thì cúng bánh cốm hoặc bánh mè (còn gọi là “thèo lèo”). Ở nơi của ad thì thường mọi người mua những cây mía để cúng đấy. Thế còn gia đình bạn, Tết ông Công ông Táo thì như thế nào nè?!? Mình cùng chia sẻ nhé!!!

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao cá chép lại được chọn trong ngày “Ông Táo về trời”

Thầy phong thủy đoán vận mệnh 6 lãnh đạo thế giới năm Đinh Dậu

Năm Đinh Dậu được dự đoán là năm thuận lợi cho Putin và Tập Cận Bình, nhưng có thể đặt ra khó khăn với các lãnh đạo thế giới như Trump, Angela Merkel, Rodrigo
Thầy phong thủy đoán vận mệnh 6 lãnh đạo thế giới năm Đinh Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Duterte và Tayyip Erdogan.


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
  Priscilla Lam, sống tại Hong Kong, là một trong số ít thầy phong thủy đoán đúng việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ. Theo CNN, bà đã đưa ra những dự đoán về vận mệnh năm Đinh Dậu của 6 lãnh đạo thế giới của các nước Mỹ, Nga, Đức, Trung Quốc, Philippines và Thổ Nhĩ Kỳ.  

1. Tổng thống Mỹ Donald Trump

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh
 
Bà Lam cho rằng người tuổi Tuất như ông Trump thường rất tự tin và thường quyết định nhanh, có các hành động bột phát. Theo bà, mùa xuân và mùa hè sẽ thuận lợi cho tân tổng thống Mỹ nhưng ông sẽ gặp trở ngại vào mùa thu và mùa đông.  

2. Tổng thống Nga Putin

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh 2
 
Rồng là con vật mạnh mẽ và có thể đi bất cứ nơi nào - có thể bơi trong nước hoặc bay trên không. Tổng thống Nga Putin, người tuổi Thìn, là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ. Bà Lam dự đoán ông Putin sẽ có một năm thuận lợi và kinh tế Nga sẽ phát triển trong nửa sau 2017.

 

3. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh 3
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Ảnh: AFP
  Năm Định Dậu cũng được dự đoán là thuận lợi cho những người tuổi Tỵ. Bà Lam cho rằng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ có nhiều may mắn và kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển tốt trong năm nay.  

4. Thủ tướng Đức Angela Merkel

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh 4
Thủ tướng Đức Angela Merkel. Ảnh: russia-insider
Thủ tướng Đức Angela Merkel là người tuổi Ngọ và rất tốt bụng - điều giải thích cho chính sách tị nạn hào phóng của bà. Bà Lam dự đoán bà Merkel sẽ gặp nhiều khó khăn trong năm nay nhưng có thể vượt qua thách thức và thành công trong nỗ lực tái tranh cử.

 

5. Tổng thống Phhilippines Rodrigo Duterte

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh 5
Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte. Ảnh: Inquirer
  Ông Duterte là người tuổi Dậu, vì vậy năm nay là năm tuổi của ông. Bà Lam dự đoán ông sẽ gặp nhiều sự đối chọi, tức là phải đối mặt với rất nhiều sự phản đối về chính sách.   Cuộc chiến chống ma túy của ông Duterte có thể không được lòng nhiều người nhưng nó sẽ làm cho đất nước giàu và vững mạnh hơn. Bà Lam cho rằng ông Duterte nên giảm nhiệt cuộc chiến và thực hiện cách tiếp cận từ từ, từng bước một để đối phó với ma túy thì mới có thể nhận được sự ủng hộ của tất cả mọi người.

 

6. Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan

Thay phong thuy doan van menh 6 lanh dao the gioi nam Dinh Dau hinh anh 6
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan. Ảnh: AFP
Bà Lam đoán năm nay sẽ không phải là năm thuận lợi cho ông Erdogan, ông có thể thất bại trong cuộc trưng cầu dân ý để tăng quyền hạn tổng thống của mình, dự kiến diễn ra vào tháng 4. Ngoài ra, bà Lam còn xem tướng cho ông Erdogan và nói rằng lỗ mũi lớn của ông cho thấy ông không phải là người giỏi giữ tiền, đôi mắt cho thấy ông không nhận được nhiều sự ủng hộ.

Theo VnExpress

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thầy phong thủy đoán vận mệnh 6 lãnh đạo thế giới năm Đinh Dậu

Văn khấn Tết - Tổ tiên vào ngày mồng một Tết Nguyên Đán

Văn khấn tổ tiên ngày mồng một Tết. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn Tết - Tổ tiên vào ngày mồng một Tết Nguyên Đán

Văn khấn Tết - Tổ tiên vào ngày mồng một Tết Nguyên Đán

Nam mô A Di Đà Phật

Kính lạy:

- Đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật

- Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.

Hôm nay là ngày mồng một Tết, tháng giêng năm ................

Chúng con là:

....................................................................................................................

Hiện cư ngụ tại:

....................................................................................................................

Nay theo tuế luật, âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân, mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân. Do đó, chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng trước án.

Kính mời các cụ Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, bá thúc đệ huynh, cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội ngoại, cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sàng, phù hộ độ trì con cháu, năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, bốn mùa không hạn ách nào xâm hại, tám tiết có điềm lành tiếp ứng. Tín chủ lại mời các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong đất này cùng về hâm hưởng.

Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám

Cẩn tấu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Tết - Tổ tiên vào ngày mồng một Tết Nguyên Đán

Dưỡng sinh đúng cách khi vào tiết Tiểu Mãn

Vào tiết Tiểu Mãn, các yếu tố liên quan đến thời tiết đều thay đổi thất thường, điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của mỗi người. Cách dưỡng sinh đúng đắn chính là: sinh hoạt, tinh thần và thực phẩm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh hoạt dưỡng sinh
 
Vào tiết Tiểu Mãn nhiệt độ thường tăng cao, lượng mưa dần tăng, biên độ nhiệt trong ngày lớn. Để đối phó với sự thay đổi thời tiết này, theo phong thủy, sinh hoạt của gia chủ cũng nên thay đổi để phù hợp với thời tiết: ngủ sớm dậy sớm, hít thở không khí trong lành của ngày mới để nạp năng lượng làm việc trong ngày.
Tinh thần dưỡng sinh
  Sự thay đổi thời tiết khi vào tiết Tiểu Mãn luôn bất thường, điều này khiến nhiều người cảm thấy khó chịu. Khi gặp phải tình huống trên, gia chủ nên điều tiết cảm xúc, giữ tâm trạng thư thái nhằm tránh các bệnh liên quan đến cao huyết áp, đột quỵ. Gia chủ cũng có thể tham gia các hoạt động như: đi bộ, chơi cờ, đọc sách, câu cá, bái Phật, uống trà để thư giãn tinh thần, có ích cho hoạt động dưỡng sinh tinh thần.


Thực phẩm dưỡng sinh
 
Vạn vật đặc biệt sinh trưởng mạnh mẽ khi vào tiết Tiểu Mãn, đây cũng là lúc cơ thể con người đòi hỏi cần nạp nhiều chất dinh dưỡng. Nhiệt độ tăng lên nên mọi người nên tiêu dùng các thực phẩm thanh đạm, có tác dụng giải nhiệt như:  bo bo, đậu xanh, bí đao, mướp, dưa chuột, rau cần, mã thầy, mộc nhĩ, ngó sen, cà rốt, cà chua, dưa hấu, củ từ, cá trích,…Ngoài ra, mọi người cũng nên tránh các thực phẩm nhiều dầu mỡ, gây nóng và các đồ uống lạnh.
Chi Nguyễn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dưỡng sinh đúng cách khi vào tiết Tiểu Mãn

Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Có thể bạn đã từng thấy những bông hoa trong giấc mơ của mình, nhưng không hiểu hết được ý nghĩa ẩn sau giấc mơ ấy. Hãy thử một lần khám phá, rất nhiều điều
Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thú vị đang chờ bạn.

Hoa cúc

Mo thay hoa se co nhieu niem vui hinh anh
Giấc mơ về hoa cúc: may mắn và thịnh vượng




Hoa cúc là biểu tượng cho sự tươi mới, vẻ đẹp trong trắng, ngây thơ, tinh khiết và giản dị.
  Thật tuyệt vời nếu bạn mơ thấy đang đi dạo trên những cánh đồng hoa cúc. Giấc mơ này không chỉ mang đến cho bạn những phút giây lãng mạn quý giá mà còn đem đến những dự báo tốt lành bởi hai điều: may mắn và thịnh vượng.   Ngoài ra, nó còn ngầm cho biết có thể có ai đó sẽ đề nghị giúp bạn, cùng bạn vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.   Nếu thấy những đóa cúc vạn thọ trong mơ, cũng đồng nghĩa với sức khỏe và sự trường thọ sẽ đến với bạn.   Thấy những đóa hoa cúc zinnia trong mơ, đồng nghĩa với việc tiếng cười, tình bạn và niềm vui sẽ ngập tràn trong cuộc sống tương lai của bạn. Ngoài ra, nó còn ngụ ý niềm vui trong mùa hè.   Hoa hồng

Mơ thấy hoa bay trước gió, bạn đang có được tình yêu trọn vẹn.
 
Mơ thấy mình gom nhặt hoa hồng thường là điềm về cuộc sống ngập tràn niềm vui và tiếng cười.
 
Mơ thấy tặng hoa hồng cho người khác, nghĩa là bạn sẽ được thương yêu chân thành và sâu sắc.
 
Mơ thấy được nhận hoa hồng của người khác tặng, mang ý nghĩa hứa hẹn những thành công lớn trong lĩnh vực xã giao.
 
Mơ thấy hoa hồng nở với làn hương phảng phất, niềm vui mới sẽ đến bên bạn.
 
Hãy cẩn trọng hơn trong các mối quan hệ nếu bạn mơ thấy hoa hồng giả. Loại hoa này dự báo về mối quan hệ đố kị, ganh ghét và thiếu trung thực.

Hoa huệ

Những cánh hoa huệ trắng muốt là biểu tượng của sự trong sạch, thanh cao. Chính vì vậy, loài hoa này thường được chọn để thờ cúng trong những dịp lễ tết. Nếu bạn mơ thấy chúng, cũng có nghĩa tài lộc, may mắn sắp vào nhà. Mơ thấy hoa huệ nở, là điềm báo đại phát tài.   Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, mơ thấy hoa huệ còn mang điềm bị phụ bạc.

Hoa lan

Mo thay hoa se co nhieu niem vui hinh anh 2
Giấc mơ về hoa lan mang lại niềm vui

Là loài hoa đa dạng về màu sắc và hương thơm, lại rất biết chiều lòng người, mặc dù  không dễ trồng nhưng người ta sẵn sàng “chăm như chăm con mọn” chỉ để đợi đến ngày hoa lan khoe sắc. Vì lẽ đó, giấc mơ về loài hoa này luôn mang niềm vui đến cho mọi người.   Nằm mơ thấy hoa lan là điềm sinh con gái quý.   Mơ thấy cài hoa lan trên tóc, điềm báo có người đến xin dạm hỏi.   Mơ thấy hoa lan rụng hoặc rơi lác đác trên sân, điềm báo có đám cưới trong nhà.

Hoa mai

Theo quan niệm của người phương Tây, hoa mai biểu thị sự vô tình, nhưng trong văn hóa của người Việt, hoa mai là một trong bốn loài cây tượng trưng cho khí phách của người quân tử (tùng, cúc, trúc, mai).    Mơ thấy hoa mai cũng là một điềm lành. Mơ thấy hoa mai nở rộ, là điềm báo bước vào con đường thành công.

(còn nữa)

Theo Giải mã giấc mơ

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Giải nghĩa sao Thiên cơ trong lá số Tử vi

Trong tử vi sao Thiên cơ có tính chất là động, chủ về người giỏi vận động, phản ứng linh hoạt, hiếu học. Tuy nhiên thưòng học nhiều mà không hiểu sâu, tham vọng quá lớn dẫn đến thường không được như lý tưởng mà lo lắng bất an.
Giải nghĩa sao Thiên cơ trong lá số Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên cơ tọa Mệnh (hoặc Thiên cơ và tổ hợp của nó), hoặc đại hạn đến Thiên cơ, xử sự có lý.

Thiên cơ tọa Mệnh trong Lá số Tử vi không nên đơn độc hành động, nên giúp ngưòi khác lập kế hoạch (như Trương Lương là mưu sĩ cũng là văn thần có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán sở).

Thiên cơ kỵ nhất có sát tinh đồng cung, gặp đại, tiểu hạn dễ phát sinh hiện tượng không tốt.

Mệnh có Thiên cơ thêm sát tinh đồng cung không nên kinh doanh, chỉ nên làm công chức văn phòng hoặc nhân viên hành chính.

Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, Tham lang tọa thủ cung Thân, chủ về không có việc cũng bận rộn.

Thiên cơ tọa Mệnh là người mơ ước cao xa. Thiên cơ và tổ hợp tinh hệ của nó nếu tọa cung Điền trạch phải chú ý nhà cửa hoặc phong thủy văn phòng, lại chủ về không được kế thừa gia nghiệp tổ tiên. Nếu được kế thừa thì gia nghiệp cũng nhiều biến động.

Trong xem tử vi Đại, tiểu hạn gặp Thiên cơ chủ về có sự thay đổi, như: Môi trưòng biến động, điều chức, chuyển nhà, vị trí giường thay đổi… Thêm cát tinh chủ về thêm phúc thêm tài.

Thiên cơ hóa kỵ chủ về dễ bị ngã dẫn đến bị thương, thêm sát tinh chủ về mọi chuyện không thuận, phải cai rượu, dễ vì rượu mà hỏng chuyện. Lại chủ về trong nhà không yên, phiền não, chán nản, không được yên ổn.

Thiên cơ ưa nhất đồng cung với Thiên lương, sách có nói “giỏi bàn luận chuyện binh”. Nên làm tham mưu quân sự hoặc làm về máy tính, y học, xem mệnh…

Theo tử vi số mệnh Thiên cơ và Thái âm đồng cung chủ về mệnh coi trọng tình cảm, nên sớm rời xa quê ra ngoài lập nghiệp. Ngưòi có Thiên cơ tọa Mệnh có ưu điểm là linh hoạt, khuyết điểm là hay thay đổi mà không ổn định.

Thiên cơ không ưa đồng cung với Cự môn, sách có nói “gia đạo suy vong”. Bản thân có sự nghiệp và tình yêu đều gặp nhiều trắc trở, lận đận. Dù là nam hay nữ đều dễ phạm đào hoa.

Thiên cơ tại Tý, Ngọ chủ về mệnh nữ cát lợi, biết quản lý việc gia đình.

Người xưa không ưa mệnh nữ có Thiên cơ tọa cung Mệnh trong lá số tử vi  vì tình cảm có trắc trở hoặc nói tình cảm dễ có sự thay đổi, đa sầu đa cảm hoặc có bệnh thần kinh.

Thiên cơ tọa cung Tử nữ chủ về con cái không nhiều, chỉ có 1 đến 2 con hoặc sinh con muộn. Thiên cơ tọa cung Phúc đức chủ về mệnh coi trọng cuộc sống tinh thần hơn cuộc sống vật chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa sao Thiên cơ trong lá số Tử vi

Biết đủ chính là con đường tới hạnh phúc

Con người ai cũng có mong cầu hạnh phúc, nhưng không hề hiểu rằng chính cảm giác đủ và hài lòng với mọi thứcđã mang lại hạnh phúc trong cuộc sống
Biết đủ chính là con đường tới hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con người ai cũng có mong cầu hạnh phúc, nhưng không mấy người hiểu được con đường tới hạnh phúc ở nơi đâu. Thực ra, hạnh phúc không phải ở chỗ có được nhiều, mà đơn giản chỉ là cảm thấy đủ.

Một cô gái ban đầu mới tới Paris sinh sống đã rất ngạc nhiên với con người nơi đây. Nhưng sau nhiều năm sinh sống cùng họ, cô đã hiểu ra rất nhiều điều về văn hóa của người Paris. Hãy cùng đọc ba câu chuyện mà cô đã trải nghiệm:

Câu chuyện thứ nhất: Quán cà phê hơn 50 năm tuổi

Lần đầu tiên tới Paris, tôi mang theo lời ủy thác của ông nội tôi, đó là thay ông đến hỏi thăm quán cà phê năm xưa mà ông yêu thích nhất ở Paris.

Tôi thầm nghĩ, hương vị của cà phê Paris có thể lưu lại đến nửa thế kỷ sao? Tôi thực sự không tin! Tôi liền lên Google kiểm tra một chút về nó, thật không ngờ quán cà phê đó vẫn còn tồn tại, thậm chí ngay cả địa chỉ cũng không thay đổi. Tôi bị kích động rất mạnh và quyết định đi tới đó ngay lập tức.

Đi tới quán cà phê, bước vào cửa và nhìn xung quanh, điều khiến tôi giật mình chính là trong quầy ba, một bà lão tóc bạc đang chăm chú điều chế cà phê.

Tôi đi đến trước mặt bà và xúc động lấy ra bức ảnh mà năm đó ông tôi chụp ở đây. Bà cũng rất xúc động, rồi bà chỉ vào một cô gái bán cà phê trong tấm ảnh và nói đó là bà, tên là Sophia.

Lúc này tôi không chỉ là xúc động vì đã tìm được bạn cũ của ông nội, mà còn là cảm động về Paris.

Quán cà phê đã nửa thế kỷ, ngay cả nhân viên cũng không thay đổi, những bông hoa ở trước cửa vẫn là loài hoa năm xưa…

Tôi hỏi bà Sophia: “Bà ơi! Tại sao bà không mở rộng quán cà phê này ra? Ít nhất trước cửa cũng treo biển hiệu chữ vàng “Quán cà phê lâu năm” chẳng hạn?

Bà Sophia cười và nói: “Nếu làm như vậy, quán cà phê của ta còn có thể khiến ông nội cháu nhớ mãi được sao?”

Tôi chợt biết rằng, quán cà phê này cũng giống bà Sophia, giống cả Paris đều an phận với chính mình chứ không ào ào bắt chước hay làm theo người khác mà thay đổi điều mình mong muốn.

50 năm trước một người đàn ông trẻ tuổi ngồi đó thưởng thức cà phê, 50 năm sau cháu gái của ông ấy cũng ngồi ở chính nơi đó thưởng thức cà phê. Hơn nữa, chủ quán cà phê vẫn là người ấy chỉ khác là đầu bà đã bạc trắng, nhưng vẫn với thái độ vui tươi, say sưa điều chế cà phê như xưa.

Ngay lúc này, trong lòng tôi trào dâng một cảm giác thật khó tả…

Câu chuyện thứ hai: Ông chủ cửa hàng phomai nổi tiếng

Tại Paris, phô mai Matthew là loại thực phẩm duy nhất khiến tôi bỏ tiền mua ngay mà không cần phải suy nghĩ gì bởi hương vị tuyệt vời của nó.

Từ khi cửa hàng này được một vị đạo diễn nổi tiếng của Hollywood tới quay hình cho một buổi giao lưu doanh nhân thành đạt thì nó càng trở nên nổi tiếng hơn rất nhiều. Cũng chính vì vậy, tôi đã hoài nghi rằng mình có thể không còn được chứng kiến nụ cười sáng lạn của ông Matthew trước quầy hàng mỗi lần tới đây mua phô mai nữa.

Nhưng mà ông Matthew vẫn y như trước đây, vẫn tươi cười niềm nở với những sinh viên khi vào quán của ông mua hàng và giới thiệu: “Xin chào! Phô mai Matthew là tự tay Matthew làm nhé!”

Mặc dù bây giờ người đến mua phô mai Matthew đều phải đứng xếp hàng dài, nhưng ông Matthew vẫn chỉ nhận rằng: “Tôi chỉ là một người yêu thích làm phô mai, miệt mài làm việc, rời xa phiền toái.”

Ông thậm chí còn từ chối rất nhiều những đơn đặt hàng lớn tại các chuỗi siêu thị.

Ông nói: “Chúng tôi ở đây vô cùng vui vẻ, những gì đang có hiện tại tôi cảm thấy rất hài lòng, tôi cảm thấy đã đủ rồi!”

Ông Matthew cũng nói:

“Tôi cũng không giàu có! Nhưng tiền đối với tôi mà nói giống như bánh pudding vậy, nhiều quá nó sẽ phá hủy răng của tôi!”

Tôi đã hiểu rằng trong con người ông Matthew dường như luôn có tồn tại một loại cảm giác “thấy đủ rồi!”.

Câu chuyện thứ ba: Xưởng thêu truyền thống

Gia tộc nhà bạn tôi – Malena nổi tiếng với nghề kinh doanh hàng thêu, xưởng thêu nhà họ là một trong hai công xưởng thêu thủ công còn tồn tại của Paris. Một xưởng thêu kia mới bán lại cho hãng Chanel.

Hàng năm, các nhà thiết kế nổi tiếng ở nước Pháp sẽ gửi những bản vẽ phác thảo đến đặt hàng họ thêu. Những thương hiệu nổi tiếng như LV, Chanel, Dior… đều cho người đến đàm phán với xưởng thêu để ký kết hợp tác. Nhưng mẹ của Malena cho rằng: “Như vậy thì chúng tôi sẽ biến thành một mắt xích trong dây chuyền sản xuất hàng xa xỉ phẩm của các tập đoàn nổi tiếng và sẽ bận rộn hết ngày này sang ngày khác.”

“Sau đó, ngay cả thời gian để may váy cưới hay lễ phục tốt nghiệp cho con gái của mình tôi cũng không có nữa. Tôi còn muốn may cả váy cưới cho cháu gái của tôi nữa. Chúng tôi không cần phải khiến mình trở nên hùng mạnh, bởi vì chúng tôi luôn được làm điều mình muốn, thế là đủ rồi!”

Sau khi sống ở Paris một thời gian lâu dài, tôi phát hiện, mỗi người ở đây đều tự có vị trí riêng của mình. Sự tự tin của họ không phải nhờ so sánh với người khác, mà nằm ở chỗ họ có thể là chính mình bất kể lúc nào.

Thầy giáo của tôi thường nhắc nhở chúng tôi rằng: “Kỳ thực, hạnh phúc là khi chúng ta không có quá nhiều ham muốn.”

Một người sáng suốt luôn có một âm thanh trong lòng tự nhắc nhở mình: “Càng có nhiều không đồng nghĩa với càng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải nằm ở có bao nhiêu mà nằm ở ‘thấy đủ’ là được rồi.”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Biết đủ chính là con đường tới hạnh phúc

Ý nghĩa phong thủy các con số –

• Số Một (1) Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao - độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

• Số Một (1)

Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao – độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó có thể đơn độc và hiểm nghèo, bởi chúng ta không phải là thần thánh. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.

foam-numbers-set-10633-p

• Số hai (2)

Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.

• Số ba (3)

Được xem là con số vững chắc, như kiếng ba chân là một hình thức vững chắc nhất. Người Trung Quốc có câu “ba với ba là mãi mãi” (bất tận) và biểu tượng hy vọng trường thọ. Phong thủy dùng nhiều lĩnh vực số học trong việc bài trí các đồ vật và con số ba là con số đặc biệt hữu dụng cho việc tăng thêm vẻ vững chắc khi đập mắt vào và sự hài hòa của một môi trường.

• Số bốn (4)

Là sự hình thành của hai đôi. Hai cặp chắc hẳn phải tốt lành, thuận lợi nhưng trong cách phát âm tiếng Trung Quốc nó giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm. Thuật phong thủy tìm cách tránh bất cứ sự bài trí có liên quan đến con số bốn.

• Số năm (5)

Tượng trưng cho danh dự, uy quyền, quyền lực. Số năm còn có nghĩa là năm hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây và Trung tâm) là năm ngọn núi thiêng liêng của Trung Quốc. Số năm tượng trưng cho trường thọ và bất diệt. Con số năm cũng là sự kết hợp với căn nhà bằng vàng, nắm giữ sự thịnh vượng và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Số năm là một con số tuyệt vời dùng trong việc bài trí phong thủy.

• Số sáu (6)

Là gấp đôi của số ba và như thế là điềm lành, thuận lợi. Ba cộng thêm sáu là chín và cùng nhau tạo thành nhóm ba con số may mắn. Một sự bài trí dùng bất cứ đồ vật có 6, 9, 3 món đều tốt cho việc hòa giải những khu vực xấu hoặc những nơi hướng xấu.

• Số bảy (7)

Là con số có sức mạnh kỳ diệu với những nguồn gốc truyền thuyết sâu sắc. Đó là 7 sao và cây gươm 7 sao dùng trong nghi lễ đạo Lão, tượng trưng cho sức mạnh đẩy lùi ma quỷ trong phong thủy, một sự bài trí 7 món đồ vật được ban cho một sức mạnh kỳ bí và một cảm giác của sự bất khả xâm phạm.

• Số tám (8)

Cũng là con số có nhiều sự quan hệ tôn giáo, là tám điều bất tử trong đạo Lão và bát chánh trong Phật giáo. Một cửa sổ hình bát giác hoặc bình cắm hoa tám mặt và một bát quái (thường được treo trước ngưỡng cửa) cũng tốt, có thể ngăn chặn những ảnh hưởng xấu trước khi chúng muốn xâm nhập vào nhà.

• Số chín (9)

Và cuối cùng là con số chính, là con số hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Tiếng Trung Quốc, số chín đồng âm với từ “trường thọ và may mắn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy các con số –

Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa

Bạn gặp khó khăn khi đưa ra quyết định, khi xác định hung cát của vấn đề. Vậy thì hãy cùng lichngaytot.xom tìm cách giải quyết bằng hai cách bói thú vị với hai
Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn gặp khó khăn khi đưa ra quyết định, khi xác định hung cát của vấn đề? Vậy thì hãy cùng lichngaytot.xom tìm cách giải quyết bằng hai cách xem bói thú vị với hai đồ vật thân thuộc: lược và đũa


Day cach xem boi thu vi bang luoc va bang dua hinh anh
 
Xem bói bằng lược

Day cach xem boi thu vi bang luoc va bang dua hinh anh 2
 
Đồ dùng cần chuẩn bị: chiếc lược sạch sẽ, chưa từng được sử dụng 
Bước 1: Chuẩn bị lược, ngồi đối diện với gương, tạm nín thở tập trung tinh thần, sau đó hít thở sâu 3 lần, điều này giúp trấn tĩnh suy nghĩ.
Bước 2: Trong đầu suy nghĩ về những điều muốn hỏi, những điều liên quan đến con người sự vật,  những nguyên do và điều đã qua đều phải được giải thích rõ ràng Bước 3: Cầm lược, chải tóc liên tục 3 lần, sau đó quan sát số sợi tóc vương trên lược Bước 4: Cầm những sợi tóc vương trên lược, ba sợi đầu tiên không được tính, sợi thứ 4 ngụ ý "cát", sợi thứ 5 là "hung", tiếp tục là "cát" với sợi thứ 6 và "hung" khi có sợi thứ 7, cứ thế tiếp tục
Trong trường hợp đặc biệt:
Nếu sau khi chải đầu, số lượng sợi tóc vương trên lược không đủ 3 sợi, điều này có nghĩa bản mệnh giải thích không rõ ràng, cần phải làm lại. Trong trường hợp thực hiện cách xem bói này quá 3 lần, tuy nhiên số lượng sợi tóc trên lược vẫn không vượt quá 3 thì nên tạm dừng và đợi cách ngày mới có thể thực hiện tiếp.
Chọn chuẩn cách dưỡng sinh theo mùa
Mỗi mùa đều có sự thay đổi về nhiệt độ và thời tiết, để sống khỏe mạnh thì mọi người cần có cách dưỡng sinh phù hợp. 

Xem bói bằng đũa

Day cach xem boi thu vi bang luoc va bang dua hinh anh 3
 
Đồ dùng cần chuẩn bị: một đôi đũa sạch, có mấu liên kết giữa hai chiếc đũa
Bước 1: Đũa phải sạch sẽ, chưa từng được sư dụng, trước khi bói phải rửa tay sạch sẽ
Bước 2: Trong đầu suy nghĩ về những điều muốn hỏi, những điều liên quan đến con người sự vật, nguyên do, điều đã qua đều phải được giải thích rõ ràng Bước 3: Sau khi giải thích rõ những điều muốn hỏi, tách rời hai chiếc đũa, dựa vào phần đầu đũa nào lớn hơn để xác định hung cát Bước 4: Nếu nam mệnh xem bói thì chiếc đũa bên trái đại diện cho "cát", bên phải là "hung". Đối với nữ mệnh, chiếc đũa bên trái là "hung", còn bên phải đại diện cho "cát".
Ví dụ: nếu nữ mệnh muốn hỏi về vấn đề liệu nên  có tiếp tục mối quan hệ với người bạn trai hiện tại, sau khi tách hai chiếc đũa, phần đầu chiếc đũa bên phải lớn hơn chiếc bên trái, điều này có nghĩa là "cát".

Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt
► Xem tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa

Mơ thấy cỏ khô: Cảm giác cô quạnh trong lòng –

Cỏ khô trong mơ là hình ảnh tượng trưng cho sự gian khó. Mơ thấy cỏ khô, cho thấy lòng bạn đang cảm thấy cô quạnh. Nếu mơ thấy vài ngọn cỏ khô trên mặt đất, chứng tỏ bạn không hài lòng lắm về sự nghiệp và đời sống hiện tại. Nếu mơ thấy cỏ khô phủ kh
Mơ thấy cỏ khô: Cảm giác cô quạnh trong lòng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cỏ khô: Cảm giác cô quạnh trong lòng –

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Dương

Hành: Kim

Loại: Quyền Tinh, Dũng Tinh

Đặc Tính: Uy quyền, sát phạt

Tên gọi tắt thường gặp: Sát

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 7 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí sao Thất Sát ở các cung trên lá số tử vi:

Miếu địa ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.

Vượng địa ở các cung Tỵ, Hợi.

Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.

Hãm địa ở các cung Mão, Dậu, Thìn, Tuất.

Ý Nghĩa Thất Sát Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo:

Sao Thất Sát dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình nở nang, hơi cao nhưng thô xấu, da xám hay đen, mặt thường có vết, mắt to và lồi.

Tính Tình:

Sao Thất Sát ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa, vì là sao võ nên người can đảm, uy dũng, có oai phong, tánh nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, nên dễ cô độc, thích quyền lực, ưa được người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát, biết quyền biến.

Sao Thất Sát ở cung hãm địa cũng là người can đảm có oai phong, tánh nóng nhưng rất thâm, đôi khi độc ác, tàn nhẫn, mưu sâu, có óc độc tài, nhiều thủ đoạn, cô độc.

Tài Lộc Phúc Thọ:

Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý. Các tuổi khác thường gặp nhiều khó khăn, thăng trầm.

Người nữ thì tài giỏi, can trường đảm lược, được phú quý. Nhưng sao Thất Sát không mấy tương hợp với phụ nữ, cho nên dù đắc địa thì cũng gặp nhiều bất hạnh trong gia đạo như: muộn đường hôn phối, hay hình khắc, chia ly...

Sao Thất Sát nếu gặp sao xấu và nhất là sát tinh, dù đắc địa cũng đưa đến nhiều nghịch cảnh như:

Có nhiều bệnh tật.

Thường bị tai nạn khủng khiếp vì súng đạn.

Thường bị bắt bớ, hình tù.

Giàu sang cũng không bền.

Có giàu sang cũng giảm thọ.

Tóm lại, sao Thất Sát dù đắc địa cũng không đảm bảo công danh, tài lộc hay phúc thọ dồi dào hoặc lâu dài hoặc vẹn toàn nếu gặp phải hung sát tinh khác. Đặc tính của sao này là uy dũng, nhưng cũng hàm chứa nhiều bất lợi, hiểm nguy ẩn tàng.

Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thất Sát hãm địa, hoặc Thất Sát gặp sao xấu và nhất là sát tinh. Thường gây bất lợi về công danh, tài lộc, phúc thọ như:

- Cô độc, khốn khó, phiêu bạt nơi xa quê hương, bệnh nan y, bị ngục tù, bị tai nạn khủng khiếp, yểu tử.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng với sao Thất Sát:

Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Phú quý, uy quyền. (Thất Sát ở đây được ví như gươm báu của nhà vua).

Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung ở Sửu Mùi, Mệnh Ất, Kỷ, Âm: về nam là anh hùng quán thế, can đảm, thao lược.

Sao Thất Sát, Thiên Hình đồng cung hay hội chiếu: Liêm chính, ngay thẳng, chính trực, vô tư, hiển đạt về nghiệp võ, rất uy nghi lẫm liệt, nhưng tính nóng nảy khiến thiên hạ phải khiếp sợ.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng với sao Thất Sát:

Sao Thất Sát, LiêmTrinh ở Sửu, Mùi: Chết ở ngoài đường vì tai nạn xe cộ hay vì dao súng.

Sao Thất Sát hãm địa (hay Phá Quân hãm địa): Tha phương lập nghiệp, làm nghề nhưng không tinh thục.

Sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, nữ ở cung Mệnh tuổi Tân, Đinh gặp Văn Xương: Góa bụa, nghịch cảnh vì gia đạo, làm lẽ, sát phu, muộn chồng.

Sao Thất Sát gặp Tứ Sát (Kình, Đà, Linh, Hỏa): Bị tật, chết trận.

Sao Thất Sát, Kình ở Ngọ: Chết vì đao súng, không toàn thây nhất là đối với tuổi Bính, Mậu. Ngoại lệ đối với hai tuổi Giáp, Kỷ.

Sao Thất Sát ở cung Thân: Yểu.

Sao Thất Sát hãm gặp Hỏa Kình: Nghèo, làm nghề sát sinh.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phụ Mẫu:

Có sao Thất Sát ở Cung Phụ Mẫu thì bao giờ cha mẹ cũng bất hòa. Nếu không cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau.

Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Cha mẹ quý hiển, sống lâu.

Sao Thất Sát tại Tỵ, Ngọ: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm xa cách một hai thân.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Cha mẹ túng thiếu, vất vả. Gia đình ly tán.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh tại Sửu, Mùi: Cha mẹ nghèo khổ, xung khắc, khó sống chung với con cái.

Sao Thất Sát, Tử Vi tại Tỵ, Hợi: Cha mẹ phú quý nhưng bất hòa. Con thường không hợp tính với cha mẹ. Gia đình ly tán.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc tại Mão, Dậu: Cha mẹ vất vả hay mắc tai ương. Nếu không cũng phải mang tật bệnh, hay đau yếu.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phúc Đức:

Ở Triều đẩu và Ngưỡng đẩu: Đắc phúc nhưng phải ly hương lập nghiệp. Họ hàng khá giả về võ nghiệp, nhưng ly tán nếu ở Tý, Ngọ.

Sao Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải ly hương lập nghiệp mới thọ. Họ hàng danh giá, hiển đạt về võ nhưng tha phương.

Thất Sát, Liêm Trinh hay Thất Sát, Vũ Khúc hay Thất Sát ở Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt, xa gia đình, xa họ hàng, lao tâm khổ trí, họ hàng ly tán, nghèo.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Điền Trạch:

Sao Thất Sát đóng trong cung Điền Trạch thường gây bất lợi về điền sản, hoặc chậm có của, hoặc không có di sản, không hưởng di sản, hoặc phải bán điền sản, hoặc phải bị mất điền sản (truất hữu), hoặc phải tự lập mới khá.

Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Ít di sản. Nếu tự lập mới dồi dào.

Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Mua vô bán ra thất thường, phá di sản; tự lập thì mới bền vững, tạo lập nhiều nơi.

Sao Thất Sát, Tử Vi: Di sản nhiều nhưng phá sản.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh: Chậm điền sản, vất vả buổi đầu. Sau về già mới có nhà cửa.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc, hay Thất Sát ở Thìn Tuất: Không điền sản, rất ít điền sản, nhà nhỏ lúc về già.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Quan Lộc:

Sao Thất Sát tại tại Dần, Thân: Có uy quyền, thành công trong những việc khó khăn, khắc phục được nhiều trở ngại, tuổi trẻ tuy có trở ngại chút ít, hoặc phải thay đổi, nhưng lớn tuổi thì lại thành công, có sự nghiệp, được người nể trọng, có tay nghề khéo, hoặc có thú vui, thưởng thức đặc biệt.

SaoThất Sát tại Tý, Ngọ: Có nhiều tài năng, nhiều ngành nghề, nhưng thường hay gặp trở ngại, may rủi đi liền nhau.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Công danh dễ gặp rủi ro không lâu dài, hay gặp tai ương, nay đây mai đó.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Làm ngành nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh, nhưng không bền.

Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Thành công trong công danh sự nghiệp, nhưng phải đi xa mới tốt. Đường công danh thời tuổi trẻ lên xuống thất thường, hạp ngành nghề quân sự, kỹ thuật, công kỹ nghệ, thầu khoán, xây dựng, địa ốc.

Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Càng lớn tuổi thì công danh càng lớn, có uy quyền.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Thiên Di:

Sao Thất Sát tại Dần, Thân hoặc Tử Vi đồng cung: Hay gặp quý nhân giúp đỡ, được nhiều người tôn phục, kính nể, ở gần các nhân vật quyền thế.

Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Được nhiều người người nể sợ và tin phục. Thường gần nơi quyền quý nhưng may rủi đi liền nhau, dễ bị tai nạn, chết xa nhà.

Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Được người tin phục, nhưng hay bị nạn, bị nạn chết ở xa nhà.

Liêm Trinh đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp tai nạn giữa đường.

Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Ra ngoài bất lợi, chết xa nhà.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tật Ách:

Thất Sát vốn là một hung tinh dù đắc địa mà đóng ở Tật Ách thường gây bất lợi. Có Thất Sát ở Cung Tật Ách, thì lúc nhỏ hay đau yếu, ăn uống kém.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Bộ máy tiêu hóa xấu, thường bị trĩ, nếu không thì chân tay bị thương tích.

Sao Thất Sát, Không Kiếp: Bị ho lao, phổi yếu, sưng phổi có mủ.

Sao Thất Sát, Hóa Kỵ, Đà La: Bệnh tật ở tay chân.

Sao Thất Sát đi vơí Hao, Mộc, Kỵ: Bệnh ung thư.

Tùy theo Thất Sát đi với bộ phận cơ thể nào thì nơi đó bị bệnh tật. Mức độ nặng nhẹ còn tùy sự hội tụ với sát hung tinh khác.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tài Bạch:

Sao Thất Sát ở Dần, Thân: Kiếm tiền dễ dàng nhất từ trung niên trở đi.

Thất Sát ở Tý, Ngọ: Tiền bạc thất thường, hoạch tài.

Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Dễ kiếm tiền, dễ làm giàu.

Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Tiền bạc thất thường, khi có khi hết nhưng không thiếu, chậm giàu.

Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên lập nghiệp được, nhưng tự lực, vất vả buổi đầu.

Thất Sát ở Thìn, Tuất: Tiền bạc tụ tán thất thường nhưng hết rồi lại có.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tử Tức:

Sao Thất Sát ở Cung Tử Tức luôn là sự bất lợi về đường con cái, vì hiếm con, hoặc vì con chết, con khó nuôi, có ám tật, muộn con, con bệnh tật, xa con. Nếu không như vậy thì có con hai dòng, con nuôi, con lai. Trừ phi ở Dần, Thân: thì được ba con, khá giả, quý tử.

Thất Sát tại Tý, Ngọ: May mắn lắm mới có hai con.

Thất Sát tại Thìn, Tuất: sinh nhiều nuôi ít. May mắn lắm mới có một con.

Tử Vi đồng cung: nhiều nhất là ba con, rất khó nuôi. Về sau thường xa cha mẹ.

Liêm Trinh đồng cung: sinh nhiều nuôi ít, rất hiếm con.

Vũ Khúc đồng cung: cô đơn, hiếm con.

Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phu Thê:

Có bốn vị trí rất hay cho Thất Sát. Đó là bốn cung Dần, Thân, Tý, Ngọ. Ở Dần, Thân, gọi là Thất Sát triều đẩu, ở Tý Ngọ gọi là Thất Sát ngưỡng đầu. Bốn vị trí này bảo đảm phú quý tột bậc.

Sao Thất Sát ở Cung Phu Thê thì người hôn phối thường là con trưởng, đoạt trưởng, lấy người khác chủng tộc, hoặc có sự chắp nối. Hạnh phúc gia đình ít khi được trọn vẹn, hay bất hòa, xung đột, hoặc phải có sự xa cách một thời gian mới sống chung, tái hợp. Nếu không như vậy thì số cô độc, góa bụa, người hôn phối hay gặp tai nạn, có ám tật.

Sao Thất Sát ở Dần, Thân: nên muộn đường hôn phối. Vợ hay chồng đều có tài năng, đảm đang, danh giá, vợ hay ghen, chồng nóng nảy.

Sao Thất Sát ở Tý, Ngọ: Vợ hay chồng tuy có danh giá nhưng hay khắc khẩu, dễ chia tay. Nên muộn lập gia đình mới tránh được.

Sao Thất Sát ở Thìn, Tuất: Hôn nhân hay gặp trắc trở, khó khăn, hoặc dễ chia tay, nhiều lần lập gia đình.

Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải trắc trở buổi đầu, về sau mới tốt, phải muộn lập gia đình mới phú quý. Bằng không phu thê gián đoạn, hình khắc.

Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên hai vợ chồng đều có khả năng lập nghiệp được, nhưng phải tự lực, vất vả buổi đầu.

Thất Sát, Liêm Trinh: Thường không được tốt cho lắm như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách.

Thất Sát, Hóa Quyền: Người hôn phối có bản lĩnh, uy quyền, hoặc có danh giá mà mình phải nể, đôi khi có óc độc tài, chuyên quyền, nóng tánh, khó tánh.

Sao Thất Sát Khi Vào Các Hạn:

Nhập hạn ở vị trí Triều đẩu (Dần, Thân), Thất Sát rất hưng vượng về nhiều mặt tài, quan, gia đạo.

Gặp sát hay hung tinh hoặc khi hãm địa thì hay bị tai nạn, hình tù, súng đạn.

Sao Thất Sát, Liêm Trinh, HỏaTinh: Cháy nhà (nếu Hạn ở Điền càng chắc chắn).

Thất Sát Kình Hình ở Ngọ: Ở tù, chết.

Sao Thất Sát Hình Phù Hổ: Ở tù, âu sầu.

Thất Sát Phá Liêm Tham, Không Kiếp Tuế Đà: Bị kiện tù, chết (nếu đại hạn xấu).

Sao Thất Sát, Hao: Đau nặng.

Thất Sát, Hóa Kỵ: Bị bệnh, hay mang tiếng xấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thất Sát - Uy quyền và can đảm

Phong thủy trong nhà –

Đối với một ngôi nhà mà nói, nếu như coi môi trường bên ngoài là “đại phong thủy” thì bên trong nhà ở chính là “tiểu phong thủy”. Nói cách khác, có thể phân ra làm “môi trường bên ngoài” và “môi trường bên trong” của căn nhà. Nếu so sánh từ góc độ nă

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng lượng mạnh hay yếu, môi trường bên trong không mạnh bằng môi trường bên ngoài, tuy nhiên trong thực tế thì môi trường bên trong lại có ảnh hưởng trực tiếp lớn hơn môi trường bên ngoài ngôi nhà.

phongthuy014

Nhất là khi chúng ta ở trong trạng thái hoàn toàn không có chút phòng bị nào, ví dụ như khi ngủ thì môi trường trong nhà gần chúng ta nhất sẽ có ảnh hưởng vô cùng tập trung. Sự ảnh hưởng của nguồn năng lượng khoảng cách gần là rất lớn, bởi vậy cách bài trí trong phòng sao cho phù hợp với phong thủy là vô cùng quan trọng.

“Dương trạch tam yếu” là tác phẩm nổi tiếng của một nhà phong thủy học người TQ cổ, ông chủ yếu lấy 3 tổ hợp đại môn (cửa), chủ phòng (chủ), táo gian (bếp) để nghiên cứu cát hung của một căn nhà. 3 yếu tố này ứng với nhà cửa là mối quan hệ giữa các phương hướng của cửa chính, phương vị của phòng ngủ gia chủ và phương vị của gian bếp. Nói cụ thể, những người khác nhau thì cũng có yêu cầu về phương vị 3 yếu tố không giống nhau .

Cửa nhà:

– Hướng của cửa nhà: Cổ nhân dựa trên phương hướng của cửa nhà, phân căn nhà làm 8 loại. Mỗi loại nhà đều có sự phân biệt giữa tọa và hướng. Tọa và hướng được quyết định bới phương hướng của cửa nhà. Nói một cách đơn giản thì phần chủ thể phía sau ngôi nhà được gọi là tọa và phần phía trước mặt của cửa chính nhà hướng tới chính là hướng.

Ví dụ nếu như tòa nhà có cửa hướng Nam thì nằm ở phía Bắc, tục ngữ gọi là tọa Bắc triêu Nam. Tọa và hướng của căn nhà luôn luôn đối nhau. Tọa ở phương vị nào thì nhà được gọi là nhà đó, ví dụ như nhà tọa Bắc triêu Nam thì được gọi là Khảm trạch.

– Điều kỵ úy khi chọn hướng nhà: Chức năng chủ yếu của nhà ở là “nạp khí”, bởi vậy trước mặt cửa nhà tốt nhất nên sạch sẽ, vui vẻ và ấm cúng. Nếu như có rác, nhà vệ sinh, cống nước v.v.. thì sẽ hút những luồng khí ô nhiễm, không có lợi cho vận may chủ nhà. Ngoài ra, nhà đối diện với những cửa chính cửa sau, cửa sổ của các công trình khác; nhà đối diện với cột điện, góc tường cũng phạm phải đại kỵ.

Phòng ngủ:

Phương vị của phòng ngủ được dựa theo phương vị may mắn của bạn. Lấy phòng ngủ làm một đơn vị (coi phòng ngủ là 1 căn nhà nhỏ), nếu như cửa và giường cùng nằm trên phương vị may mắn thì tốt. Ngoài ra, có những vấn đề sau cũng không nên coi nhẹ:

phongthuy012

– Cửa phòng ngủ không nên quá rộng. Cửa là nơi người nhà và bạn bè đi qua đi lại, loại khí này không có lợi cho phong thuỷ phòng ngủ. Hơn nữa âm thanh từ bên ngoài vào cũng ồn ã , trong khi phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi, cần yên tĩnh riêng tư.

– Cửa phòng ngủ không được đối diện với nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh luôn có khí ô nhiễm và uế khí, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tài khí chủ nhà. Ngoài ra luồng khí ẩm lạnh cũng nguy hại đến sức khoẻ con người. Nếu gặp trường hợp này thì cần tiến hành xử lí dựa theo nguyên lý chuyển hoá năng lượng.

– Phòng ngủ không được liền hoặc đối diện với nhà bếp. Nhà bếp chứa nhiều khí nóng, theo lời cổ nhân, nhà vệ sinh là thuần âm chi địa, nhà bếp là thuần dương chi địa, đều là nơi âm dương không điều hoà. Bởi vậy cửa nhà bếp không nên đối diện với phòng ngủ. Phòng ngủ và nhà bếp liền cạnh cũng không có lợi cho phong thuỷ phòng ngủ, nếu đầu giường hướng về bếp thì còn nguy hơn.

– Hình dạng phòng ngủ nên vuông vắn. Có một số người tìm kiếm sự mới lạ thị giác, tạo những đường chéo/ dốc trong phòng ngủ, mà không biết rằng hình thái không vuông vắn bản thân nó là một loại năng lượng chuyển động. Điều này mâu thuẫn với yêu cầu yên tĩnh, an bình của phòng ngủ. Đơn giản, vuông vắn, bình ổn, yên tĩnh mới là tư tưởng chủ đạo cho phòng ngủ.

– Cửa phòng ngủ không được đối diện với gương. Gương trong phong thuỷ thường được gọi là công cụ “ hoá sát giải tai”, cũng là vật có thể tham gia cùng môi trường chuyển hoá năng lượng. Gương nằm đối diện phòng ngủ giống như một đôi mắt đang mở to, không hợp với phòng ngủ. Kỳ thực gương cũng không được đặt đối diện với giường. Cổ nhân gọi loại năng lượng này là “kính sát” và chỉ ra rằng: bất lợi cho phòng ngủ.

– Phòng ngủ không nên đặt quá nhiều thực vật: Cổ nhân cho rằng thực vật dễ tập trung “âm khí” (loại năng lượng không có lợi cho con người). Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh thực vật vào buổi tối sẽ hút khí 02 và thải CO2 do đó chỉ nên trang trí phòng ngủ bằng một vài chậu cây nhỏ để trang trí và làm cảnh là tốt nhất.

– Không để xà ngang ép đầu giường: Phong thuỷ coi xà ngang cũng là một loại sát khí (năng lượng ác tính) . Nó có năng lượng áp bức và chìm về dưới. Xà ngang ép đầu giường, khiến cho chủ nhà ngủ không ngon, thường gặp ác mộng, đau đầu, chóng mặt .v.v..

– Đầu giường nên dựa tường: Đầu giường cần ổn định. Hơn nữa khi đầu giường không tựa vào đâu cả thì sẽ có không gian cho luồng năng lượng lưu động. Khí lưu động là điều kị uý trong phong thuỷ phòng ngủ.

– Màu phòng ngủ nên nhẹ nhàng và dịu, nên tránh sử dụng các màu nóng, các gam màu dễ gây kích thích thần kinh.

Phong thuỷ nhà bếp:

– Nên đặt bếp ở hướng may mắn.

– Cửa nhà bếp kỵ đối diện với cửa chính và cửa nhà vệ sinh. Nguồn năng lượng của cửa chính, nhà vệ sinh, nhà bếp đều tương đối mạnh, giữa các phòng tốt nhất không nên có liên quan gì đến nhau, không động chạm gì đến nhau mới là tốt. Hơn nữa, luồng năng lượng của chúng đều có liên quan đến tin tức sinh mệnh của chủ nhân, nếu như năng lượng giữa các phòng gặp mâu thuẫn thì sự bất lợi sẽ chuyển sang chính chủ, dẫn đến vận may bay mất.

phongthuy013

– Nhà bếp kỵ gió. Tin tức năng lượng trong phòng bếp thuộc Hoả, là Dương kháng chi sở, Gió trong ngũ hành thuộc Mộc, Mộc sinh Hoả đáng ra là việc tốt, nhưng cổ nhân cho rằng, nhà bếp là Dương kháng chi sở, hay nói cách khác, “dương chi cực hĩ”, nơi này mà còn sinh thêm Hoả thì quá độ. Đứng trên phương diện khoa học mà nói, thì gió nhà bếp quá lớn không an toàn.

– Những kỵ uý khác: Thu gọn đơn giản trong nhà bếp là tốt nhất. Bếp lò không nên đặt dưới xà ngang. Bếp không được hướng về cửa…

Trên đây là những trình bày về cửa, chủ, bếp 3 nguyên tố chính, hi vọng rằng nó có thể giúp ích cho các bạn trong quá trình thiết kế bố trí nhà và phương vị các phòng sao cho hợp lý.

Phong thủy phòng khách:

Bố trí phong thủy phòng khách tương đối phức tạp, đầu tiên là vì diện tích phòng khách thường lớn, cần bài trí nhiều đồ gia dụng và những thứ khác như là bàn khách, cốc trà, đồ trang trí, thiết bị điện… Kì thực, nếu như nghiêm khắc dựa trên phương pháp bố cục phong thủy phòng khách, chủ nhân khác nhau thì có yêu cầu về cách sắp đặt sẽ khác nhau. Bởi vậy rất khó có thể nói rõ ràng từng trường hợp. Do đó, qua bài viết ngắn này chỉ có thể tường thuật lại những kiến thức cơ bản cho bạn đọc vậy.

phongthuy015

1. Phòng khách ưa vòng quanh, kỵ trực xung: Phái “lí khí” phong thủy cổ đại nghiên cứu sâu nhất về sự quay lại, vòng quanh, bao bọc của trường khí; cho rằng trường khí này có tác dụng tu dưỡng và bổ sung cho con người. Nếu như giữa cửa chính và phòng khách, có một khu đệm hoặc lối đi thì có thể đáp ứng được yêu cầu này. Nếu như cửa chính nối liền phòng khách, giữa cửa và phòng khách đặt bình phong, giá thấp để chặn lại, có thể hóa giải “xung”.

2. Phong thủy phòng khách trước tiên phải có đủ ánh sáng: Lan can không nên đặt quá nhiều đồ vật chặn ánh sáng, màu sắc trên tường cũng không quá thẫm quá tối, khí phải được thông suốt, tối kỵ đặt phòng khách ở nơi có không khí tù túng, chật hẹp.

3. Phòng khách không nên có xà ngang: Cổ nhân cho rằng phòng khách có xà ngang thì không may mắn. Bởi vì người đứng dưới xà ngang luôn cảm thấy bị đè nén, tinh thần hoảng hốt, vận may không được đánh thức. Tình hình này rất dễ giải quyết, chỉ cần dùng trần giả hay vật trang trí che xà ngang lại là được.

4. Màu sắc phòng khách: Màu sắc trong phòng khách không nên lòe loẹt phức tạp, nên dùng những gam màu cơ bản thống nhất. Phong thủy học dựa trên phương hướng khác nhau mà thiết kế màu sắc khác nhau cho phù hợp:

Cửa hướng Đông Nam: Phòng khách theo đuổi sự sáng sủa, có thể dùng gam màu trắng sáng

Cửa hướng Đông: Phòng khách theo đuổi sắc quang trung hoà, không nên qúa sáng . Gam màu trắng không chiếm hơn một phần tư tổng diện tích màu , 3 mặt đều có cửa sổ lớn thì không may mắn.

Cửa hướng Tây Nam: Thiết kế phòng khách không nên quá rộng, dùng màu lấy trắng, vàng đất và màu cà phê thì lợi.

Cửa hướng Bắc: Phòng khách không nên có quá nhiều khoảng trống, bởi vì nếu như không gian không dùng đến nhiều thì càng dễ đem lại khả năng tai nạn về lửa.

Cửa hướng Nam: Phòng khách có thể dùng gam màu lạnh, không cần quá bắt mắt.

Cửa hướng Đông Bắc: Gia dụng phòng khách cần phong cách đồ sộ, ưa dùng màu vàng, màu gỗ thuần, không gian ưa rộng rãi.

Cửa hướng Tây Bắc: Phòng khách nên rộng rãi, dùng màu xanh nhạt, thiên thanh.

5. Phòng khách nên dùng nhiều đồ trang trí dạng tròn: Vật dạng tròn sản sinh loại năng lượng viên hòa, dung hợp, hoạt bát, có lợi cho giao lưu giữa người với người

6. Phòng khách nên ở phía trước nhất của căn nhà: Bởi vì phòng khách là nơi tiếp đãi rất nhiều người, nhân tạp trường loạn, trường này không dung hợp với trường phòng ngủ hay nhà bếp, bởi vậy cần đặt nó ở ngay trước nhất của căn nhà.

Phong thủy phòng đọc sách:

Phòng sách là nơi người lớn và trẻ em đọc sách và học tập, ngoài cần yên tĩnh và sáng sủa thì còn cần chú ý những điểm sau:

1. Bàn không nên đặt giữa phòng: Nếu đặt giữa phòng, 4 bề đều trống, hữu hư vô thật, cô lập vô viên, khiến cho tinh thần con người khó tập trung, bay bổng đẩu đâu.

2. Bàn nên hướng về cửa: Cửa là khí khẩu, có thể nạp linh khí, sắp bàn hướng về cửa khiến đầu óc tỉnh táo thông minh. Nhưng có 1 điều, bàn không được trực tiếp đối diện với cửa.

3. Bàn không nên quay lưng về cửa hoặc cửa sổ: Bàn tốt nhất nên dựa vào tường làm núi tựa ( cổ gọi là Lạc san), nếu quay lưng với cửa hoặc cửa sổ, gọi là lưng không núi tựa, không thể thăng cấp, công việc học tập chậm trễ.

Phong thủy trong nhà và cuộc sống hàng ngày của chúng ta rất gần gũi, bởi vậy ảnh hưởng của chúng cũng mạnh mẽ và lâu dài. Có thể nói, thiết kế trong nhà đối với sự nghiệp, học vấn, sức khỏe.v.v. mang rất nhiều ý nghĩa. Mong rằng tài liệu tham khảo trên có thể giúp ích cho bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy trong nhà –

Tai họa 12 con giáp không tránh khỏi trong năm Bính Thân

Cùng với niềm vui chào đón xuân mới năm Bính Thân, các con giáp cũng cần phải tìm hiểu những tai nạn không tránh khỏi và chuẩn bị tâm lý thật tốt.
Tai họa 12 con giáp không tránh khỏi trong năm Bính Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với niềm vui chào đón xuân mới năm Bính Thân, các con giáp cũng cần phải tìm hiểu những tai nạn không tránh khỏi và chuẩn bị tâm lý thật tốt.


tai nan kho tranh khoi hinh anh
 
Tuổi Tý
Cung Lộc nguyên gặp mệnh cục phi liêm bại lộc, là điều không may mắn, điều này bắt nguồn từ việc liên tục phạm Thái Tuế, khiến cho Hung sát đến. Trong năm Bính Thân, người tuổi Tý dễ gặp tai nạn khó tránh như: kiện cáo, thị phi, lao ngục. Ngoài ra, về phương diện sức khỏe, năm nay gặp "Phi đao giáng tai", Bính Hỏa gặp Tý Thủy hình thành cục diện Thủy Hỏa không dung mang đến Phi Đao sát, tổn hại đến sức khỏe mệnh chủ, khó có thể đề phòng.   Tuổi Sửu
Sức khỏe trong năm nay xuất hiện Vong thần đại sát do Sửu gặp Thân tạo nên năm vong thần, tâm trạng  luôn bất an, mặt mày phờ phạc,  không tránh khỏi thị phi, nghiêm trọng còn có thể vào lao tù, phần nhiều liên quan đến tửu sắc, điều này đồng thời ảnh hưởng đến gia vận. Nam mệnh không có có lợi cho vợ con, nữ mệnh không thể phụ giúp chồng và sát con cái. Tài vận gặp cục diện "Thổ sinh thái tuế hao tài phá sản", Sửu thổ có thể sinh Thân Kim, tuy nhiên Thân Kim là Thái Tuế, tiền kiếm được không đủ dùng, việc kiếm tiền không dễ dàng, dễ phá sản bại sản.
Những con giáp gặp may mắn nếu đi du lịch đầu năm
Đầu năm là thời điểm vạn vật sinh sôi, thích hợp đi du lịch. Hãy cùng ## điểm danh những con giáp sẽ gặp may mắn nếu du lịch đầu
Tuổi Dần

tai nan kho tranh khoi hinh anh 2
 
Trong năm Bính Thân, người tuổi Dần phải chịu ảnh hưởng từ Thái Tuế, vận trình đại hung, nghiêm trọng chỉ kém người tuổi Thân. Thái Tuế trực tiếp phá hoại phúc vận, sức khỏe, tài vận của mệnh chủ.   Tuổi Mão
Người tuổi Mão bị tổn hại bởi Sát kiếp, chủ bệnh tai nạn hình pháp, thường đem đến tại họa phá hoại Thọ mệnh cung, sức mạnh của sát khí này rất lớn, ngoài tai nạn bất ngờ mà mệnh chủ gặp phải, còn ảnh hưởng đến người nhà.   Tuổi Thìn
Năm Bính Thân xuất hiện sự đồng hành của sao Quan Phù và Ngũ Quỷ, như vậy đi đâu cũng gặp điều không may, làm việc khó thành, chuyên gặp phá hoại. Nếu hình thành Quan Phù Ngũ Quỷ dẫn dến kiện tụng thị phi, sự nghiệp gặp khó khăn.   Tuổi Tỵ

tai nan kho tranh khoi hinh anh 3
 
Trụ năm Tỵ gặp phải sự phá hoại của Thái Tuế và Phi Ma sát, tạo nên tai nạn đổ máu, sự cố ngoài ý muốn, bệnh tật, nghiêm trọng còn ảnh hưởng đến Thọ Nguyên cung. Không chỉ có tác động đến Thọ cung và vận thế, mà còn đem đến tai nạn ngoài ý muốn cho các thành viên trong gia đình, sức khỏe không tốt. Ngoài ra, về phương diện hôn nhân, vợ chồng luôn mâu thuẫn, xích mích.   Tuổi Ngọ
Năm nay, người tuổi Ngọ gặp phải Dương Đao do Bính Hỏa, vậy nên sẽ gặp sự chia cắt, tán lộc, khó thành công. Đây là cung sát cực ác, điều đặc biệt là sự nóng nảy tự nhiên tạo cho vận trình gặp sóng to gió lớn.
Tuổi Mùi
Năm Bính Thân xuất hiện sao Hối khí, chuyên gây ảnh hưởng đến tài khí và vận may, gặp tai nạn đổ máu, sức khỏe suy giảm, mệnh chủ phạm nhiều sai lầm, làm việc không hanh thông, gặp nhiều chướng ngại, khó khăn không ngừng. Tài vận suy kiệt, khó khăn kiếm tiền, dù cố gắng nhưng không đạt được thành công.   Tuổi Thân
tai nan kho tranh khoi hinh anh 4
 
Bản mệnh tuổi Thân phạm Thái Tuế, là năm tuổi , vận trình cả năm được coi là khó khăn nhất trong 12 con giáp. Điều này được thể hiện trực tiếp từ sự ảnh hưởng trong phúc bận, sức khỏe, tài vận, quan hệ ngoại giao, vận thế,…Những người tuổi Thân tốt nhất không nên kết hôn trong năm nay vì sẽ không đem lại may mắn cho hôn nhân sau này.   Tuổi Dậu
Tài vận gặp phải "cướp tài đoạt kim", phải chia sẻ khoản tiền không nhỏ cho người khác. Dù có kiếm được nhiều tiền đều không vượt qua sức mạnh của Thái Tuế lưu niên, tiêu không ít tài sản, tài vận gặp trắc trở.   Tuổi Tuất
Năm Bính Thân đặc biệt ảnh hưởng đến tài vận của người tuổi Tuất, được gọi là "Thiên cẩu thực tài". Họ sẽ gặp khó khăn nếu  muốn kiếm khoản tiền lớn, dễ bị người khác lừa gạt, chiếm đoạt tài sản.
Tuổi Hợi

tai nan kho tranh khoi hinh anh 5
 
Mối quan hệ của người tuổi Hợi gặp phải "Kiêu thần phá vận", gặp nhiều rắc rối tai nạn, tiểu nhân xuất hiện phá hoại vận trình của họ. Do ảnh hưởng của Thái Tuế, vận khí của con giáp này trong năm nay rối ren mờ mịt, làm việc khó thành.
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác

Chi Nguyễn

Xem Clip tìm hiểu về Khánh tuế đầu Xuân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tai họa 12 con giáp không tránh khỏi trong năm Bính Thân

Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Ăn uống là biểu tượng cho sự quí tiện. Quí tiện đây không chỉ riêng về giàu sang, mà còn nghĩa là sung sướng hay cực khổ. Có những người giàu có sang trọng mà tướng ăn uống lại cực khổ vất vả, trái lại có người nghèo, nhưng tướng ăn uống lại sang, cho nên dầu sao tướng ăn uống cũng chỉ ảnh hưởng bề ngoài nhiều hơn.
Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đôi khi người ta giữ cách ăn cho thanh nhã cũng được. Nhưng ăn trái với tánh nết cố hữu sẽ mất ngon. Vậy muốn nhận xét về ăn uống cần chú ý về điều đó.

Ăn như chuột nghĩa là ăn uống lật đật, ăn không nhiều mà hay ăn, uống không nhiều mà hay uống là bần hàn mạng yểu.

Ăn nhỏ, ăn ít mà liếm láp, uống bằng lưỡi cũng là tướng cùng khổ đói khát mà yểu thọ.

Mạnh ăn, ăn nhiều, ăn miếng to, mồm há không thấy họng là người phước tướng, nhưng phải có tướng tốt là tam đình hợp, địa các tròn hoặc vuông nở nang, bằng tướng xấu mà ăn uống như vậy thì chỉ là kẻ ăn mày ăn xin mà thôi.

Xem mục ruồi (nốt ruồi) trong thân thể và chỗ kín

Mục ruồi mọc giữa cổ đỏ là thọ, đen là ăn hay trúng thực. Mục ruồi có lông dài nhiều sợi, mọc ở chỗ tốt thì thật tốt, mọc ở chỗ xấu tăng sự xấu hơn. Mọc ở 2 bên tai là gồng gánh nặng nề cực nhọc.

Mọc ở trước ngực là giàu có, đỏ lại có hoạnh tài. Mọc ở vú trái sanh trai quí, vú mặt có gái lành. Phụ nữ có mục đỏ mọc trong nhũ hoa là sanh con quí tử, thông minh tài tuấn. Nhưng có mục ruồi đen trên đầu nhũ hoa và núm vú hay trong quầng vú là khó nuôi con. Nếu có con cũng là nghịch tử.

Mục ruồi mọc giữa kẻ hở của đôi nhũ hoa, đỏ thì tình duyên nồng thắm, vợ chồng rất mực thương nhau, nếu đen là truân chuyên buồn khổ, có khi dang dở.

Mục ruồi mọc ở bụng là phú quí, mọc quanh rún, trong rún nếu đỏ là giàu có lớn, sanh con quí, đen là ăn uống trúng thực chột bụng.

Mục ruồi mọc ở hông, ngang 2 bên rún dưới cạnh sườn non. Bên mặt sanh toàn gái, bên trái sanh toàn trai. Mục ruồi đỏ quí hơn.

Mọc ở bắp đùi, vế là không con. Mọc ở bắp chuối, ống quyển là không vợ. Mọc ở kẹt háng là bôn tẩu tha phương, mọc ở dương vật và âm nang, đỏ sanh con quí tử, đen bị âm bịnh trúng phòng.

Phụ nữ chỗ kín âm hộ có mục ruồi đỏ là có chồng sang quí, có mục ruồi đen là tình duyên dang dở, sanh con ngu hèn, coi chừng mắc nạn vì người khác bị thượng mã phong.

Mục ruồi mọc sau gáy cổ ngay ót, bị người đời thường nói là mục ruồi “chết chém”, sự thật không hẳn đúng, mục ruồi mọc sau ót màu đỏ là rất tốt, có lợi cho sự thi cử, công danh. Nếu đen là ngang trái, trở ngại trong mọi công việc làm ăn, đại kỵ đối đường quan trường danh vọng.

Đàn bà sau ót có mục ruồi đen sanh con ra khó nuôi, mục ruồi đỏ là sang quí, không mệnh phụ phu nhân cũng là đại phú gia. Những mục ruồi mọc ở chỗ khác, ở sau lưng, bất kỳ ở chỗ nào mình không tự nhìn thấy, nếu đỏ là quí nhơn trợ giúp ngầm, đen là có nhiều tiểu nhơn mưu hại, có thể bị đánh, đâm chém lén.

Có như các dấu “bớt” là những vết lớn từ đồng xu cắc bạc trở lên mà là màu đỏ, hường, chu sa thì bất kỳ ở chỗ nào trong thân thể cũng tốt, đen u ám là xấu.

Đàn bà ở các chỗ kín trong thân như ngực, nhũ hoa, âm bộ mà có bớt son là nhứt định lại rất xấu. Đen mà chỗ bớt cợm lên mà lại mọc lông dài cứng như lông heo là dâm đãng, cộc cằn nóng nảy, làm việc ít suy nghĩ, không thủy chung.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Ý nghĩa của hình xăm bướm –

Bướm hay còn được gọi với cái tên bay bổng hồ điệp là loài côn trùng có đôi cánh đẹp, được mệnh danh như “đóa hoa biết bay”. Với màu sắc sặc sỡ và đôi cánh mỏng , đại diện cho vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính, nhiều cô gái đã chọn xăm hình con bướm trên cơ t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bướm hay còn được gọi với cái tên bay bổng hồ điệp là loài côn trùng có đôi cánh đẹp, được mệnh danh như “đóa hoa biết bay”. Với màu sắc sặc sỡ và đôi cánh mỏng , đại diện cho vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính, nhiều cô gái đã chọn xăm hình con bướm trên cơ thể.

Ý nghĩa của hình xăm bướm

1. Đối với các nước phương Đông, hình xăm con bướm thể hiện niềm hạnh phúc mãn nguyện trong cuộc sống hôn nhân. Đối với các nước phương Tây, hình xăm con bướm lại mang ý nghĩa về tạo vật đã trải qua nhiều thay đổi, biến hóa.

2. Trong văn hóa Hy Lạp , bướm chính là hình ảnh tượng trưng cho sự thanh khiết của người con gái. Người sở hữu trên mình hình xăm con bướm sẽ là những người duyên dáng, xinh đẹp và thanh khiết.

3. Theo người Aztec và Mexico cổ bướm tượng trưng cho các linh hồn chiến binh đã ngã xuống trên chiến trường và linh hồn người phụ nữ chết trong khi thực hiện nghĩa vụ sinh con thiêng liêng. Theo Kito giáo bướm là đại diện cho các linh hồn đã thoát khỏi giới hạn xác thịt. Ở phía Đông Nhật Bản , một con bướm tượng trưng cho một thiếu nữ trẻ , một đôi bướm tượng trưng cho hạnh phúc gia đình.

4. Trước khi hóa thân một con bướm xinh đẹp lộng lẫy, hồ điệp là một cái nhộng không mấy nổi bật nhưng ngày càng phát triển, lột xác rực rỡ hơn. Điều đó biểu hiện cho sự cố gắng, bền bỉ của phái nữ.
Một hàm ý khác , hồ điệp thăng hoa từ xấu đến đẹp, do đó cũng tượng trưng cho sự thành công.

5 .Hình ảnh 2 con bướm cùng tung cánh bay về một phía, hay còn được gọi là hồ điệp song phi biểu thị sự hướng về, theo đuổi tình yêu tự do, hơn nữa hồ điệp là loài chung thủy, cả đời chỉ có 1 bạn đời, là một loài trung trinh trong giới côn trùng. Do đó hồ điệp tượng trưng cho sự mỹ lệ, hạnh phúc và tự do.

6. Ngoài ra chữ “Điệp” trong từ hồ điệp gần âm với chữ “Điệt” có nghĩa trường thọ, do đó hồ điệp tượng trưng cho sự trường thọ.

Hình xăm đã trở thành một hình thức biểu hiện quan trọng của cá nhân. Hình xăm con bướm là một sự lựa chọn kinh điển cho nhiều phụ nữ do ‎ý nghĩa đơn giản và vì sự dễ thương không thể cưỡng lại của chúng. Những thiết kế dưới đây chắc chắn sẽ kích thích trí tưởng tượng và làm cho bạn ý thức hơn về những khả năng bạn có thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của hình xăm bướm –

Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo

Vì chủ quan hoặc thiếu hiểu biết mà đa phần chúng ta không biết cách cất dao kéo sao cho đúng, ảnh hưởng đến phong thủy và vận may của cả gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bất cứ gia đình nào đều không thể thiếu những vật dụng để cắt gọt quen thuộc như kéo, dao nấu ăn, dao gọt trái cây hay đơn giản nhất là kềm cắt móng... Tuy nhiên vì chủ quan hoặc thiếu hiểu biết mà đa phần chúng ta không biết cách cất sao cho đúng, ảnh hưởng đến phong thủy và vận may của cả gia đình.

1. Dao kéo để lộ ra ngoài dễ thất thoát tiền bạc

Dao kéo hay những vật sắc bén nếu để lộ ra ngoài là thế phá tài. Cần lưu ý 2 trường hợp thường gặp nhất: một là những lúc không sử dụng, tuyệt đối không được để dao nằm trên thớt; hai là không nên cắm dao trong giá. Lưỡi dao cắm xuống hay cắm hướng lên đều mang ý nghĩa hung hiểm, gia đình dễ gặp tai nạn, tiền tài hay thất thoát. Dao đặt trên thớt được ví như "cá nằm trên thớt", gia chủ dễ rơi vào tình huống nguy hiểm, khó hóa giải.

Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Cách tốt nhất để phòng tránh chính là nên cho dao kéo vào ngăn kéo hoặc ngăn tủ, đóng lại cẩn thận, mỗi cần sử dụng mới lấy ra.

2. Để dao kéo lung tung trong phòng ngủ, gia đình lục đục, bất hòa

Nhiều người mỗi lần sử dụng kéo hoặc kềm cắt móng chân đều có thói quen để lung tung. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình cảm của các thành viên trong gia đình. Theo các chuyên gia phong thủy, việc để dao kéo trong nhà hỗn loạn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc sinh nở, thường gặp nhất là 2 vợ chồng đều khỏe mạnh nhưng khó mang thai, mang thai dễ lưu sản hay con cái bị bệnh tật.

Không nên để dao kéo hay kềm cắt móng ở trong phòng ngủ, càng không được để ở gần đầu giường. Nhiều người vì an tâm nên để dao dưới gối để tránh ma quỷ hay ác mộng hoặc tránh những chuyện phiền não. Tuy nhiên việc này lại cực kỳ nguy hiểm. Xét về mặt khoa học, để dao kéo quá gần đầu nếu bất cẩn sẽ tự gây hại cho bản thân mình. Về phong thủy dao kéo sẽ cắt đứt vận may của mỗi người, khiến gia chủ làm gì cũng thất bại, lại bất lợi cho thai nhi, ảnh hưởng tình cảm vợ chồng.

3. Dao kéo để sai hướng ảnh hưởng đến quan hệ xã hội

Nếu trong năm tuổi của mình, bạn cảm thấy hay gặp xui xẻo, sức khỏe không tốt, các mối quan hệ xã hội cũng hay gặp trục trắc bất hòa, thì cũng đừng đổ lỗi vì đó là năm hạn. Cần kiểm tra lại xem dao kéo trong nhà bạn có đặt sai hướng hay không?

Nếu năm tuổi của mình mà bạn hay để dao ở hướng Bắc, hướng Tây hoặc hướng Đông Bắc thì rõ ràng bạn đang tự hãm hại bản thân mà không biết. Năm tuổi vốn đã là năm hạn của mỗi người, bạn lại bất cẩn để dao ở những hướng kị thì cái xấu cái xui lại càng nhân lên gấp nhiều lần.

4. Kềm cắt móng để trong túi xách, vận xui đeo bám không ngừng

Nhiều cô gái hay có thói quen mang theo lược, kềm cắt móng, kéo tỉa trong túi xách để tiện cho việc làm đẹp ở mọi nơi, mọi lúc. Theo phong thủy, mang những vật này theo người thường xuyên sẽ làm giảm vận may, tài lộc của bản thân. Thậm chí còn có thể khiến bạn hay gặp trục trặc trong cuộc sống, dễ tranh cãi với người xung quanh, hay mất tiền, mất đồ.


Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo - Ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Tốt nhất nên thu gom những vật dụng này cất ở nhà và hạn chế mang theo người. Còn nếu bạn vẫn muốn mang theo mình, vậy thì nên cho tất cả vào một chiếc hộp nhỏ hoặc một cái túi nhỏ, gói kín rồi mới bỏ vào túi xách.

5. Đừng tùy tiện để mũi dao, mũi kéo hướng về phía mình hay người khác

Mỗi lần sử dụng dao kéo, bạn cũng nên lưu ý: Tuyệt đối không hướng mũi dao hay mũi kéo về phía bản thân hay người khác. Đây vừa là phép lịch sự, vừa là sự cẩn thận để tránh những bất trắc xảy ra.

Đồng thời cũng nên kiểm tra xem các vật dụng này có để hướng về phía mọi người không. Mũi dao kéo hướng về người lâu dài sẽ sinh ra lo âu, nóng vội hay sợ hãi, ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của các thành viên trong nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để dao kéo trong nhà không đúng cách, đừng hỏi tại sao hay gặp xui xẻo

Để sách trong phòng ngủ - tốt hay xấu ?

Phòng ngủ vốn cần sự yên tĩnh và thoáng đãng. Hình ảnh những cuốn sách lớn bày ngổn ngang trên giường hay trên bàn không phải là khung cảnh lý tưởng cho không gian nghỉ ngơi của bạn, đặc biệt là phòng ngủ của vợ chồng. Sách báo với các thông tin hấp dẫn có thể gián tiếp cản trở sự khơi gợi tình cảm lãng mạn của 2 người. Điều này đi ngược lại mục đích của phòng ngủ là để ngủ và bồi đắp tình yêu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy chú ý đến những thông điệp mà sách mang lại cho bạn trong phòng ngủ. Liệu tựa sách bạn bắt gặp trước khi ngủ và lúc thức dậy có mang đến nguồn năng lượng tốt đẹp? Dòng chữ đầu tiên bạn nhìn thấy khi thức dậy là tiêu đề bài báo, cuốn sách mang tính tích cực như “Tình yêu cuộc sống” hay tiêu cực như “Chết trong túng quẫn” ?  


Không những thế, với những cuốn sách to, dày và được đóng bìa cứng, sát khí từ các góc nhọn của bìa sách chĩa về phía giường ngủ, ảnh hưởng xấu đến năng lượng của bạn. Giải pháp tốt nhất là cất sách vào thư phòng hoặc để sách trong tủ và đóng kín cánh tủ lại.

Nên nhớ, mọi vật đều chứa đựng nguồn năng lượng nhất định và có ảnh hưởng đến con người. Vì vậy, để tận dụng nguồn năng lượng tốt và hạn chế nguồn năng lượng xấu, hãy chú ý đến các điều kiện về phong thủy của không gian mà bạn đang sống.

(Theo About.com)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để sách trong phòng ngủ - tốt hay xấu ?

Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 20/10 tới ngày 24/10)

Mỗi người chúng ta đều có tính cách không giống nhau do ý nghĩa các ngày sinh khác nhau, mỗi ngày sinh lại mang một ý nghĩa không hề giống nhau.
Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 20/10 tới ngày 24/10)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người chúng ta đều có tính cách không giống nhau do ngày sinh khác nhau, mỗi ngày sinh lại mang một ý nghĩa không hề giống nhau. Giải mã ý nghĩa ngày sinh từ ngày 10/10 tới 14/10.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Giai ma y nghia cac ngay sinh Tu ngay 2010 toi ngay 2410 hinh anh
Ảnh minh họa

Ngày 20 tháng 10

  Những người sinh vào ngày này thường có trí tưởng tượng phong phú và luôn là người bắt kịp xu thế. Không chỉ vậy, những người này còn rất giỏi việc quản lý tài sản, năng lực kiếm tiền, có con mắt nghệ thuật và tính thẩm mỹ khá cao, cũng là người rất có năng lực.   Ưu điểm: Chuyên tâm với sự nghiệp, rất coi trọng cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, khả năng suy nghĩ cũng năng lực phán đoán rất tốt.   Khuyết điểm: Người này khá là cố chấp, không dễ dàng thay đổi hoặc tiếp nhận ý kiến của người khác.  

Ngày 21 tháng 10

  Thông minh, có chí tiến thủ lớn, tính cách hướng ngoại là những điểm dễ dàng nhận thấy ở những người sinh vao ngày 21 tháng 10. Họ có khả năng giao tiếp tốt, khéo mồm khéo miệng nên các mối quan hệ xã giao khá rộng, hơn nữa vẻ bề ngoài cá tính rất có sức hấp dẫn nên thường bị người khác đố kị.
Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 15/10 tới ngày 19/10) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 10/10 tới ngày 14/10) Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 05/10 tới ngày 09/10)
Ưu điểm: Lạc quan, độ lượng, rất coi trọng sự nghiệp, năng lực rất tốt, thường gặt hái được nhiều thành tích cao trong công việc.   Khuyết điểm: Hay phê bình người khác và thích tranh luận, tự cao tự đại, thường làm người khác khó chịu.

 

Ngày 22 tháng 10

  Hầu hết những người có sinh nhật vào ngày 22 tháng 10 thường rất hiếu kỳ, luôn tìm tòi và khám phá cái mới, thích sự phiêu lưu mạo hiểm. Những người này cũng có sức lôi cuốn đặc biệt, có khả năng thu hút sự chú ý của người khác.   Ưu điểm: Quả cảm, dũng cảm, đầu óc vô cùng sáng tạo.   Khuyết điểm: Dễ dàng bị kích động, dễ dàng bị lừa gạt.
Giai ma y nghia cac ngay sinh Tu ngay 2010 toi ngay 2410 hinh anh
Ảnh minh họa

Ngày 23 tháng 10

  23 tháng 10 không phải là ngày đặc biệt nhưng những người có sinh nhật vào ngày 23 tháng 10 lại có chút khác người. Họ chủ động, tích cực, linh hoạt, tinh lực dồi dào, sẵn sàng đối mặt với mọi lời thách thức. Ngoài ra, những người này có khéo ăn khéo nói, khả năng giao tiếp tốt, dễ gần và dễ kết bạn.   Ưu điểm: Tâm tư nhạy bén, quả quyết, hành động nhanh chóng, biết cách nắm bắt thời cơ, khá nhạy bén và linh hoạt.   Khuyết điểm: Quá cả tin, luôn lo lắng bất an, bất cứ việc gì cũng đều muốn tự tay mình làm hoặc mình kiểm soát.  

Ngày 24 tháng 10

  Những người sinh vào ngày 24 tháng 10 thường rất coi trọng tình cảm, họ lãng mạn vô cùng, nhiều lúc thường xử trí theo cảm tính, tinh lực dồi dào, ý chí kiên định. Những người này cũng có năng khiếu nghệ thuật, tuy nhiên, họ cũng theo đuổi chủ nghĩa hoàn hảo, mọi việc đều phải thập toàn thập mỹ tới từng chi tiết. Ưu điểm: Là người theo đuổi chủ nghĩa hoàn hảo, khi làm việc thì khả năng tập trung khá tốt, đời sống tình cảm phong phú.   Khuyết điểm: Tính sở hữu mạnh, hay ghen, đối với bất kỳ chuyện gì cũng rất để ý, không dễ dàng cho qua.   Lichngaytot.com Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân Xem tử vi quý nhân vận theo ngày sinh siêu chuẩn Biết trước tương lai, số mệnh dựa vào Thập cách
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa các ngày sinh (Từ ngày 20/10 tới ngày 24/10)

Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Chùa Kim Sơn còn có tên là Am Vạn Linh, chùa Tàu Mã, chùa Kim Mã, nằm ở 73 Kim Mã, quận Đống Đa.Trước đây, vào thời Lý, vùng Kim Mã là pháp trường.
Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Kim Sơn còn có tên là Am Vạn Linh, chùa Tàu Mã, chùa Kim Mã, nằm ở 73 Kim Mã, quận Đống Đa. Trước đây, vào thời Lý, vùng Kim Mã là pháp trường, nơi này trở thành nghĩa địa, người trong thôn Kim Mã lập ra một am nhỏ để thờ cúng. Sau này thi hài các chiến sĩ tử trận Đống Đa (1789) trong trận đánh chống giặc Thanh được đưa vào tử tang tại nghĩa địa Kim Mã. Am được sửa lại và gọi là Am Vạn Linh.

Năm 1831 người làng Kim Mã sửa lại am, bên trong dựng tượng Phật, linh vị thờ Vạn Linh đặt ra hai bên, gọi là chùa Tàu Mã. Năm 1897 đổi tên là chùa Kim Sơn. Năm 1932 xây dựng lại chùa, dựng tòa tam bảo, đền thờ Mẫu và đàn Vạn Linh. Năm 1952 nghĩa địa Kim Mã chuyển lên nghĩa trang Yên Kỳ 1953 xây ngũ môn quan. Năm 1952 chùa Linh Sơn ở phố Nguyễn Trường Tộ bị bom Mĩ tàn phá, toàn bộ tượng Phật của chùa Linh Sơn được chuyển về chùa Kim Sơn và đặt trong gian thờ Vạn Linh của chùa Kim Sơn.

Chùa được xây dựng gồm: giải Ngũ Môn ở trước chùa 50m. Trong ngũ môn có treo 1 quả chuông đồng khá lớn và có đặt 1 pho tượng Phật. Qua ngũ môn là một khu vườn trong có bể non bộ, 2 ngọn tháp và nhiều cây cau.

Tiếp đó là một sân gạch rồi đến chùa chính được bố cục ba phần tương đối độc lập. Chính giữa là toà Tam bảo thờ Phật, bên phải là Vạn Linh đàn, bên trái là đền thờ Mẫu. Toà Tam bảo được xây cao hẳn lên và thông sang Vạn Linh đàn và đền thờ Mẫu bằng 2 cửa ngách. Nóc đền thờ Mẫu và nóc Vạn Linh được đắp hình lưỡng long chầu nguyệt.

Nóc tam bảo thì chính giữa đắp bảng ghi ba chữ Kim sơn tự, hai bên bảng là 2 con rồng. Phần bên ngoài có hương án trên đặt 3 ngai thờ Hùng Vương ở giữa, hai bên là hai bệ thờ mỗi bên có 3 tượng nữ thị vệ và binh khí như long đao, kiếm.

Chùa Kim Sơn
Tam bảo Chùa Kim Sơn

Phía sau toà Tam bảo, Vạn Linh đàn và nhà Mẫu có nhà hậu để thờ các vị sư tổ trụ trì tại chùa Kim Sơn đã quá cố và cũng để cho sư ở. Cạnh nhà hậu là cổng hậu trông ra phố Kim Mã. Hiện nay ở chùa Kim Mã có một pho tượng Phật bằng đồng, cao 76,8 cm nặng khoảng trên 30 kg. Tượng được thể hiện tư thế đứng thẳng với tay ấn “vô ủy” trên một bệ dạng hình hộp gần vuông đúc liền khối với tượng. Mặt trước chân bệ có khắc chìm một dòng chữ Lào.

Sư cô Thích Đàm Tiến hiện nay là trụ trì chùa đã tổ chức nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhiều hạng mục của ngôi chùa. Chánh điện được bài trí trang nghiêm , Tam quan mới được xây dựng lại bề thế , nhà khách … . Chùa có nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật. Chùa Kim Sơn đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1985.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Bên trong phòng bếp hợp phong thủy

Phòng bếp là trái tim của ngôi nhà, nhất là trong lĩnh vực phong thủy. Không gian nấu nướng chính là nơi giúp bạn nuôi dưỡng và duy trì cuộc sống bằng cách chuẩn bị các bữa ăn từ ngày nay qua ngày khác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nghĩ về cách thiết kế phòng bếp mới hoặc cải tạo căn phòng hiện tại, phong thủy có thể giúp bạn tạo ra một không gian hài hòa, hỗ trợ sức khỏe và hạnh phúc. Màu sơn hợp phong thủy là một phần quan trọng trong việc tạo ra căn bếp tiện dụng, nơi "các đầu bếp" trong gia đình có thể phát triển mạnh mẽ.

 Màu trắng, vàng, xanh da trời, xanh lá cây, nâu, be, đỏ và cam đều là những màu sắc phù hợp với bếp theo phong thủy. Tuy nhiên, bạn cần hiểu rõ làm thế nào để sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Cụ thể:

Trắng là màu sắc được sử dụng phổ biến nhất cho hầu hết các phòng bếp, và là gam màu tuyệt vời để bắt đầu khi áp dụng phong thủy trong ngôi nhà của bạn.

Tượng trưng cho sự sạch sẽ và tinh khiết, màu trắng đánh thức mọi giác quan trong không gian bạn chuẩn bị thức ăn. Nhờ ưu điểm kết hợp rất tốt với tất cả các màu sắc khác, nó có thể trở thành lớp phông nền hoàn hảo cho các sắc thái màu ấm hơn, giữ cho căn phòng không quá lạnh lẽo, mờ nhạt.

Bạn nên sơn màu trắng trên tường, tủ bếp và thêm điểm nhấn thông qua quầy bếp, phụ kiện cửa sổ...

Các gam màu trung tính như màu be, kaki và nhóm màu đất cũng thích hợp trong phong bếp. Dựa vào nguyên tắc phong thủy, chúng có thể mang đến sự ổn định cho gia đình bạn và sự hài hòa cho khu vực nấu ăn. Ấm áp và sung túc, chúng ăn nhập với rất nhiều màu sắc khác nhau và sẽ làm cho gian bếp của bạn cảm thấy ấm cúng hơn.

Màu vàng là lựa chọn lý tưởng khác dành cho phòng bếp. Được đánh giá là có khả năng thúc đẩy sự xã hội hóa, màu vàng tạo ra không gian nâng cao tinh thần và sự vui vẻ cho bạn cũng cả gia đình khi thưởng thức bữa ăn cùng nhau. Bạn nên chọn màu vàng nhạt hoặc màu vàng trang sức nhẹ nhàng, tránh xa những màu quá rực rỡ, khiến bầu không khí căng thẳng, dễ nóng giận.

Nhiều người tin tưởng rằng màu xanh da trời giúp kiềm chế cơn đói nên nó luôn là lựa chọn thông minh cho các gia đình gặp vấn đề về cân nặng. Ở cấp độ nhạt, màu xanh da trời kiềm chế bớt sự nhộn nhịp, bận rộn trong bếp, định hình cảm giác thư thái. Nhưng bạn chỉ nên sử dụng màu này với liều lượng nhỏ. Các chuyên gia phong thủy cho rằng, quá nhiều màu xanh da trời sẽ lấn át vẻ đẹp, sức hấp dẫn của đồ ăn.

Màu xanh lá cây cũng có mặt trong danh sách những màu sắc hợp phòng thủy nên dùng cho phòng bếp vì tác dụng thúc đẩy tiêu hóa rất tốt. Chọn màu xanh lá cây mềm mại, gần với sắc thái đất để giúp hình thành không gian thư giãn. Nếu muốn tăng cường những tông màu đất, cố gắng trang trí tối thiểu 1 - 2 chậu cây cảnh tươi tốt trong phòng bếp.

Mặc dù xuất hiện khá nhiều trong phòng bếp, nhưng một số chuyên gia phong thủy đánh giá màu đỏ có thể gây mất cân bằng nếu được sử dụng quá nhiều. Bạn nên chọn lấy một màu sắc trung tính hơn làm chủ đạo và điểm xuyết màu đỏ nhằm tạo ấn tượng, thu hút sự chú ý của mọi người.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bên trong phòng bếp hợp phong thủy
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd