Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lưu ý về phòng ngủ trẻ em –

Phòng ngủ phải là nơi thư giãn đối với trẻ em. Các màu gối đậm, giấy dán tường rối mắt và đống bừa bộn gồm đồ chơi, sách vở tạo ra một môi trường kích động vốn không phù hợp với phòng ngủ của trẻ em. Sử dụng các nguyên tắc phong thủy để tạo ra môi tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ường dễ chịu hơn cho con trẻ, nhất là đối với trẻ thường khó trấn tĩnh và khi đi ngủ vào ban đêm:

twj1197901621

– Chọn các màu nhẹ nhàng phủ lên các gam màu chính.
– Sử dụng tủ đồ chơi và các hộp đựng để hạn chế sự lộn xộn
– Giữ cho khoảng không dưới giường thông thoáng; nếu có thế, không sử dụng khoảng không này làm nơi chứa đồ.
– Kê giường ở vị trí chỉ huy; đối với trẻ nhỏ, kê giường sát tường có thể hồ trợ chúng trong quá trình phát triển.
– Đưa cúp thể thao ra khỏi khu vực quanh giường; đưa cả các đồ chơi hình nhân vật (trong phim, trò chơi…) ra khỏi khu vực giường ngủ, trừ phi chúng mang lại cho con trẻ cảm giác an toàn và được bảo vệ.

Trẻ em ở độ tuổi thanh thiếu niên luôn muốn khám phá, vì vậy nhu cầu khẳng định khả năng độc lập của chúng nên được tôn trọng. Hãy để trẻ làm những gì chúng muốn trong không gian riêng (tất nhiên là trong giới hạn hợp lý). Nếu trẻ tỏ ra quan tâm đến phong thủy, điều đó thật tuyệt; bạn hãy giúp đỡ những đừng yêu cầu những thay đổi cụ thế. Sử dụng phong thủy trong không gian của người khác mà không được người đó cho phép là việc làm không thích hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý về phòng ngủ trẻ em –

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai. Đừng quên gửi những lời chúc thi tốt hay đến bạn trai của mình để đông viên anh ấy vượt qua kỳ thi
Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai. Trong cuộc sống chúng ta phải trải qua rất nhiều các kỳ thi khác nhau, kỳ thi nào cũng đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực, vì thế nếu nhận được những lời động viên tinh thần kịp thời thì đó chính là nguồn sức mạnh vô giá cho chúng ta vươn tới ước mơ.

Bạn trai của bạn sắp phải bước vào kỳ thi cam go, đừng quên gửi những lời chúc thi tốt đầy ý nghĩa cho anh ấy. Một lời chúc của bạn chính là nguồn động viên quý giá nhất cho anh ấy ngay thời điểm này đấy nhé.

Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Tránh Xa Điểm 1 ,
Dẹp Điểm 2,
Bye Điểm 3,
Xa Điểm 4,
Trốn Điểm 5,
Căm Điểm 6,
Quý Báu Gì điểm 7,
Quyết Nhảy Qua Điểm 8,
Bám Chặt Điểm 9,
Vịn Chắc Điểm 10
Tự tin thi tốt nhé ox!

——–

Hãy bình tĩnh, tự tin để làm bài thật tốt, tất cả mọi người đều tin tưởng ở anh đó

——-

Ngày mai anh thi rồi, anh cố gắng làm bài thật tốt để thi đỗ nhé, chỉ cần đủ điểm đỗ là được, không cần thừa quá nhiều đâu ^^

Chúc anh có một kỳ thi thật tốt! Đừng tạo áp lực cho mình, cứ để tâm trí bình thản, đừng quá căng thẳng,…cứ thư giản nhé rồi anh sẽ có một kỳ thi thật tốt cho xem!

Nếu có bất cứ thứ gì mình muốn nói ngay lúc này thì nó chỉ có thể là “Cố lên”. Cố lên anh ơi. I Love You

Mai thi rồi, anh iu nhớ đi ngủ sớm để chuẩn bị một tinh thần thoải mái để mai làm bài tốt nhất. Chúc anh mai thi tốt, ngủ ngon nha ox!

Cuộc sống cũng giống như những kỳ thi vậy. Hãy cố gắng vượt qua các kỳ thi thật tốt để vững bước trong cuộc sống sắp tới. Tương lai nằm trong tay em đấy nhóc ạ.

Kỳ thi sắp tới đó em ơi

Gắng sức học ngoan rồi ngủ sớm

Chúc em thi đạt kết quả tốt

Ngày mai vững bước trên đường đời

 

Em biết trời đang rất lạnh giá, nhưng anh hãy cố gắng vì tương lai tươi sáng mà ôn thi thật tốt anh yêu nhé. Chúc anh đạt được kết quả cao nhất trong kì thi của mình.

Dù thế nào, học hành vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất của anh lúc này, nên hãy cố gắng ôn thi thật tốt anh nhé, đừng làm phụ lòng cha mẹ và những người đã yêu thương anh – trong đó có em

Thi cử là những thử thách đầu tiên trên con đường đời sắp tới anh đi. Chỉ còn một kỳ thi cuối cùng này nữa thôi là anh hoàn thành sự nghiệp học tập. Hãy cố gắng lên anh nhé. Em sẽ luôn ở bên cỗ vũ, động viên anh. Chúc anh thi tốt!

Chúc anh có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này anh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc anh đạt được điều mình mơ ước.

Hãy coi như mỗi cuộc thi là một cuộc chơi, nhưng dù là cuộc chơi em vẫn hi vọng anh sẽ chơi hết mình anh nhé.

Không có em bên cạnh, anh phải ôn thi thật nghiêm túc đấy, không được lười biếng, không được ngủ nướng đâu nhé. Hãy nghĩ đến em để có động lực thi tốt anh nhé!

Em có thể giúp em làm mọi chuyện, nhưng việc học và việc thi anh phải tự mình làm thôi. Anh hãy cố gắng vì tương lai của chúng ta, thế nên trước hết anh hãy học tập và thi thật tốt vì tương lai bản thân mình.

Em tin vào anh, tin vào sự thông minh và bản lĩnh của anh. Nhưng em vẫn muốn gửi lời chúc anh thi thật tốt, đạt kết quả thật cao trong kỳ thi sắp tới anh nhé.

Gửi ngàn vì sao lấp lánh trên trời đến anh lời chúc “chúc anh thi tốt nhé”. Em tin người yêu của em sẽ thi tốt và có một tương lai tươi sáng sau kỳ thi này. Cuộc sống giống như những kỳ thi vậy, thế nên anh hãy thi thật tốt nhé.

Hãy tin rằng không có sự thất bại, con người luôn luôn có đủ khả năng để chinh phục những đỉnh cao! Hãy bình tĩnh, cẩn thận, và làm bài một cách thông minh như anh vẫn vậy.

Con đường danh vọng lắm gian truân

Đòi hỏi người ta tính chuyên cần

Muốn sắt thành kim phải bỏ sức

Mong mình thành đạt phải rèn thân

Chúc anh yêu mã đáo thành công

Kỳ thi sắp tới đó anh ơi

Gắng sức học thi rồi ngủ sớm

Chúc anh thi đạt kết quả tốt

Ngày mai vững bước trên đường đời.

 “Chúc anh có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này anh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc anh đạt được điều mình mơ ước.”.

Chúc tình yêu của em tự tin, chiến thắng, thi đỗ mọi kỳ thi! Cố lên nào


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn trai

Bí quyết phong thủy cho hôn nhân hạnh phúc và bền lâu

Mỗi cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền lâu cần có sự cố gắng giữ gìn và vun đắp của hai vợ chồng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến một yếu tố khá quan trọng và tác động lớn đến tình cảm vợ chồng đó là phong thủy.
Bí quyết phong thủy cho hôn nhân hạnh phúc và bền lâu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình có thể đơn phương do người chồng, hoặc do người vợ, hoặc do cả hai vợ chồng. Bởi vậy, ở đây, chúng ta bàn đến những trường hợp mà cả hai vợ chồng phải lưu ý, cũng như những trường hợp mà người vợ nên lưu ý để giữ gìn người chồng, và ngược lại, những trường hợp mà người chồng cũng không nên hờ hững.

Những trường hợp mà hai vợ chồng phải lưu ý:

Nhà không nên xây về hướng Ngũ Quỷ: Nhắc lại ở đây, mỗi người có 4 hướng tốt là Sinh Khí, Thiên Y, Niên Duyên, Phục Vì, và 4 hướng xấu là Họa Hại, Ngũ Quỷ, Lục Sát, Tuyệt Mạng. Trong đó, Ngũ Quỷ là hướng mà vợ chồng thường hay bất hòa, cãi vã nhau hằng ngày. Đó chính là một trong những mầm mống làm cho hạnh phúc dần tan vỡ.

– Người chồng sinh năm 1915, 1924, 1933,1942, 1951, 1960, 1969, 1978, 1987, 1996… có hướng Tây-Nam là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1917, 1926, 1935, 1944, 1953, 1962, 1971, 1980, 1989, 1998… có hướng Đông-Nam là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1919, 1928, 1937, 1946, 1955, 1964, 1973, 1982, 1991… có hướng chánh Tây là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1918, 1927, 1936, 1945, 1954, 1963, 1972, 1981, 1990, 1999… có hướng Đông-Bắc là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1916, 1925, 1934, 1943, 1952, 1961, 1970, 1979, 1988, 1997… có hướng Tậy-Bắc là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1920, 1929, 1938, 1947, 1956, 1965, 1974, 1983, 1992… có hướng chánh Bắc là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1922, 1931, 1940, 1949, 1958, 1967, 1976, 1985, 1994… có hướng chánh Đông là hướng Ngũ Quỷ.

– Người chồng sinh năm 1921, 1930, 1939, 1948, 1957, 1966, 1975, 1984, 1993… có hướng chánh Nam là hướng Ngũ Quỷ.

Nếu nhà có dạng hình chữ U, thì không nên đặt phòng ngủ của hai vợ chồng ở phần hai cạnh chữ U : Phòng ngủ đặt tại vị trí này sẽ làm cho vợ chồng thường hay có những suy nghĩ và hành động xung khắc nhau, từ đó vợ chồng hay bất hòa và tình nghĩa dầ dần phai nhạt.

Nhà không nên thiếu cung Tình Duyên: Trong khoa Phong Thủy, góc ở hướng Tây-Nam của căn nhà chính là vị trí của cung Tình Duyên và Hôn Nhân. Cung này tượng trưng cho tình yêu, tình nghĩa vợ chồng cũng như hạnh phúc giữa hai vợ chồng có được bền vững hay không. Khiếm khuyết cung này sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với gia chủ: nhẹ thì vợ chồng khắc nhau hay chia ly, nặng có thể là tử biệt.

Chúng ta không phải chỉ lưu ý đến góc Tây-Nam của căn nhà, mà còn phải lưu ý đến góc Tây-Nam trong phòng ngủ của hai vợ chồng gia chủ nữa. Nếu góc này bị khuyết, thì ảnh hưởng cũng như vừa nêu trên, nhưng mức độ sẽ nhẹ hơn. Cung Tình Duyên bị khuyết sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ cho gia chủ khi còn trẻ. Khi về già, ảnh hưởng sẽ nhẹ hơn, chỉ còn là sự xung khắc giữa hai vợ chồng, nhưng lúc đó lại ảnh hưởng nhiều hơn cho con cái. Cho nên bậc cha mẹ không thể coi nhẹ điều này nếu con cái đã đến tuổi trưởng thành.
– Toilet không thể ở ngay cung Tình Duyên: Nếu một cái toilet ở ngay góc Tây-Nam của căn nhà hay phòng ngủ của hai vợ chồng gia chủ, thì tình nghĩa giữa hai vợ chồng dần dần sẽ bị nước cuốn trôi đi.

– Không nên có kính trong phòng ngủ: Phòng ngủ của vợ chồng gia chủ không nên có kiếng, nhất là kiếng đối diện ngay với giường ngủ. Khoa Phong Thủy cho rằng, có kiếng trong phòng ngủ như có mặt người thứ ba, khiến cho vợ chồng từ chỗ hay bất hòa đến chia tay là chuyện có thể xảy ra.

– Không nên đặt giường ngủ của hai vợ chồng ngay dưới một cây xà, mà cây xà này “chia đôi” giường ngủ của hai vợ chồng ngay ở giữa theo chiều dọc. Đó là biểu hiệu một sự chia cắt có thể xảy đến trong tương lai nếu không biết những cách để hóa giải.

– Nếu biết và có thể tránh được thì không nên thuê hoặc mua một căn nhà, mà chủ nhà đã ở trong tình trạng đổ vỡ, hoặc là chia tay, hoặc là nửa đường đứt gánh. Những tà khí từng hủy hoại hạnh phúc của đời chủ trước vẫn còn lưu lại trong căn nhà và tiếp tục ảnh hưởng đến người kế tiếp. Trường hợp đó, khoa Phong Thủy gọi là Luật Lưu Truyền, người Mỹ gọi là Predecessor Law, còn người Việt thì gọi một cách bình dân là có “huông”.

Nguồn: phongthuynhao.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết phong thủy cho hôn nhân hạnh phúc và bền lâu

Thú chơi hoa Tết của người Việt

Tết có ý nghĩa rất thiêng liêng đối với người Việt. Bên cạnh việc ăn Tết, nghỉ Tết bao giờ cũng gắn liền với thưởng Tết, chơi hoa Tết.
Thú chơi hoa Tết của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người Việt Nam luôn hướng về ngày Tết với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng. Bên cạnh việc ăn Tết, nghỉ Tết bao giờ cũng gắn liền với thưởng Tết. Trong đó, thú chơi hoa, cây cảnh ngày Tết đã trở thành một nghệ thuật, một nét đẹp gắn với bản sắc văn hóa dân tộc.


Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, mọi người lại đi tìm những khóm hoa, chậu cây cảnh đẹp để trang trí trong nhà với hy vọng một năm mới với nhiều may mắn và tốt lành. Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai. Đây là 2 loại hoa tượng trưng cho phước lộc đầu Xuân của mọi gia đình người Việt.

Thu choi hoa Tet cua nguoi Viet hinh anh
Miền Bắc có hoa đào
 
Cành đào, cành mai nở rộ đúng vào đêm giao thừa hứa hẹn cho gia đình có một năm mới vui vẻ, hạnh phúc. Màu đỏ của hoa đào, vàng của hoa mai còn tượng trưng cho khí dương ấm áp. Hoa đào thường nở rộ vào tiết Đông - Xuân, trời se lạnh và có mưa bụi nên thích hợp với khí hậu miền Bắc. Hoa mai lại nở rộ vào tiết trời nắng hanh vàng nên thích hợp với khí hậu miền Nam.

Chơi mai vào ngày Tết không những vì mai nở rộ, mà còn vì người miền Nam đọc mai thành “may” trong may mắn. Mai đại diện cho mùa xuân trong tranh tứ quý (mai, lan, cúc, tùng), còn tượng trưng cho người có tài đức và nhân cách cao thượng trong tứ quân tử (mai, lan, cúc, trúc). Một cành mai đẹp phải có: cành Văn (nhánh ngang), cành Vũ (nhánh đứng), cành Phụ (cành lớn), cành Tử (cành nhỏ), cành Quân (cành dài), cành Thần (cành ngắn).

Ngoài ra, ngày Tết người Việt còn chơi thêm cây quất chín đầy quả vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng của sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc. Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, những cành phát lộc… với ý nghĩa thể hiện ước vọng của mọi người là năm mới khỏe mạnh, trường thọ, phát tài phát lộc hơn năm cũ.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú chơi hoa Tết của người Việt

Luận về Xương Khúc

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất ...
Luận về Xương Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.
> Luận về sao Văn Xương> Luận về sao Văn Khúc
Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)
Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm tư”
Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở. Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.
Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc. Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa. Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chương Đẩu số phát vi luận viết: “Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm” nghĩa là Xương Khúc hãm gặp Không Kiếp thì chán nản việc đời muốn ở ẩn.
Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:
- "Tam hợp Văn Khoa củng chiếuGiả Nghị thiếu niên đăng khoa"(Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)
- Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần(Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương hơn là theo đuổi chức vụ)
- Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài(Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù Hữu Bật)
- Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm(Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa dâm)
- Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết(Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó thọ nhất là đối với nữ mạng)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng(Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)
- Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông(Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)
- Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương(Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa(Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian giảo, hay nói một tấc tới trời)
- Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba(Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa Kị suốt đời bôn ba)
- Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang(Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà nhan sắc)
- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng(Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)
- Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân(Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)
- Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự(Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)
- Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên(Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)
- Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương(Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)
- Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu(hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)
- Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại khí(Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc thủy) lại nên hay)
- Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng(Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)
- Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc(Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)
- Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo(Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là những nghề có dính líu đến nghệ thuật)
- Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi(Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp mê hồn như Dương Quý Phi).
- Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa(cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư khoa(Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình, Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)
"Khúc Xương nữ mệnh chẳng lànhVườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao"(Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)
- Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân(Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)
- Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển(Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì sang trọng, hiển đạt)
 "Khúc Xương là đấng thanh nhànThật thà đứng đắn là làng Đồng Lương"
"Khúc Xương Thương Sứ hợp bàiPhải phòng tai họa bên ngoài bên trong"(Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)
"Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp SátChốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao"
"Mấy người hiếu sắc hoang tìnhVì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y"
"Khúc Xương Sửu Mùi hợp thànhNếu không cát diệu hữu danh vô dùng"(Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có tiếng mà không có miếng)
"Thói dâm dật xướng hòa kém phúcẤy Văn Xương, Văn Khúc ai khen"
"Vũ không gặp đất miếu viênKhác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng"
"Phượng Long nhan sắc dịu dàngKhúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa"
"Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàngRa tay bẻ quế đông sang thiềm cung"
"Thê cung Xương gặp tam KhôngCon nhà danh giá tổ tông kết nguyền"
- "Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồiChưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn"(cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)
- "Vũ Tham tài phát phương ngoàiKhúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân"(Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên Di)
- "Khúc Xương Long Phượng phát vănVũ Tham Sát Phá thì rằng võ công"(câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)
- "Tử cung mà gặp Khúc XươngTuồng gì con gái những phường chơi hoang"(cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới như vậy)
- "Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồiSinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa"
- "Khúc Xương Tả Hữu có dưThiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên"(câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)
- "Tấu Thư Xương Khúc rành rànhVào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài"
- "Tấu Thư Xương Khúc tương phùngTôn thân có kẻ thần đồng hiện ra"(câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)
- "Khôi Khoa Xương Khúc Tấu ThưPhát đà văn học có dư anh tài"(cũng ở cung Phúc Đức)
- Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá ngụy(Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)
- Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí(Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý luận quá mức mà chùn bước trước hành động)
- Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô danh thiệt biện chi đồ(Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép, chẳng làm được chuyện gì)
- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo(Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá rối kỷ cương)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Xương Khúc

Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Mơ thấy cánh tay là giấc mơ cát mộng, nhưng những ngón tay xuất hiện trong giấc mơ lại có thể khiến bạn lo lắng một chút. Tuy nhiên, nó vẫn là giấc mơ đẹp.
Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Mong tay trong giac mo am chi dieu gi hinh anh
Ảnh minh họa

Chiêm bao thấy bạn bị gãy móng tay ám chỉ rằng bạn đang phải đảm đương một công việc nào đó nhưng vì một lý do nào đó bạn không thích công việc ấy và đang cố tình trốn tránh trách nhiệm.

 

Phụ nữ mơ thấy mình sơn móng tay, điều này có ý nghĩa rằng bạn đang ngày càng đẹp hơn, quyến rũ hơn trong mắt mọi người đấy.

 

Bạn đang phải đối mặt với một vấn đề khó khăn hoặc vướng mắc nào đó mà lại mơ thấy mình đang gặm móng tay là điềm báo bạn đang thực sự lúng túng trong việc tìm ra hướng đi đúng để giải quyết khó khăn ấy.

 

Chiêm bao thấy móng tay của mình mọc nhanh, ngụ ý rằng bạn đang muốn bày tỏ lòng tốt của mình tới một ai đó, bạn mong muốn thể hiện sự nhiệt tình của mình cũng như sẵn lòng giúp đỡ người ấy.

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Hợp Thập

Trong vấn đề chọn phương hướng cho nhà cửa hay phần mộ thì có 2 cách thông thường là chọn chính hướng sao cho được cuộc “Vượng Sơn, Vượng Hướng”, hoặc chọn kiêm hướng để dùng Thế Quái hầu đem vượng khí tới tọa-hướng. Ưu điểm của 2 cách này là sẽ giúp cho tài, đinh của 1 căn nhà được vượng phát nhanh chóng, nếu chọn thời điểm xây nhà, lập mộ đúng lúc thì có phát, Đó là tháng 1 và tháng 2 âm lịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhưng khuyết điểm của nó là thời gian hưng vượng lại rất ngắn ngủi, đa số chỉ phát trong khoảng 1 vận (tức 20 năm) mà thôi. Nếu muốn tiếp tục phát thì thường là cứ sau 1 vận phải tu sửa lại nhà cửa hay phần mộ, kẻo nếu không thì tai họa sẽ ập tới như trường hợp Liêu kim Tinh (tức Liêu công) thời Tống.

Liêu kim Tinh xuất thân hàn vi, phải đi ở cho nhà của 1 đại quan là Trương minh Thúc. Vợ của họ Trương là con gái của Ngô cảnh Loan, 1 danh sư Phong thủy thời đó, thấy Liêu công thông minh, tướng mạo khôi vĩ mà phải chịu cảnh cơ cực, nên mới đem những bí lục của phụ thân truyền cho. Sau khi học xong, vì quá nghèo, Liêu công bèn tìm địa huyệt đắc “Vượng sơn, vượng hướng” mà cải táng mồ mả cho tổ tiên. Từ đó, gia đình ông đinh, tài đều vượng phát, danh tiếng nổi như cồn, được dân chúng vùng đó coi như 1 vị thánh, ngày nào cũng mời ông đi xem Phong thủy. Chuyện này đến tai 1 gia đình thế phiệt, họ liền mời ông về, dùng lễ thượng khách mà hậu đãi, chỉ mong ông tìm cho họ những cuộc đất tốt. Trong 18 năm trời, Liêu công đã tìm được 74 cuộc đất quý. Lúc đó cũng đã gần hết thời hạn vượng phát mồ mả của tổ tiên mình, nên Liêu công mới muốn xin về để tìm đất tu sửa hay cải táng lại. Nhưng nhà kia tham lam, cứ nhất quyết giữ ông ở lại thêm 4 năm nữa mới cho về. Khi ông về đến nơi thì đại họa đã xảy ra, tất cả các con đều đã chết, chỉ còn bà vợ già và 2 đứa cháu nhỏ. Liêu công vì quá đau buồn nên từ đó sinh bệnh rồi chẳng bao lâu cũng tạ thế.

Nói như vậy không phải là mọi cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” đến khi thất vận đều sẽ bị tai họa thảm khốc như thế, mà điều đó còn tùy thuộc vào địa hình và Phi tinh của từng địa huyệt. Nhưng nó cho thấy khuyết điểm của cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” là không được lâu dài, và vì vậy những nhà Phong thủy sau này đã tìm kiếm những cách cục khác có khả năng bảo đảm sự vượng phát của 1 gia đình lâu dài hơn cuộc “Vượng sơn, vượng hướng”. Một trong những cách cuộc đó là tình huống “HỢP THẬP”.

Nói “Hợp Thập” là khi trong các vận-sơn-hướng tinh, có 2 trong 3 số đó cộng với nhau (hợp) thành 10 (thập). Có 2 tình thế “Hợp Thập” xảy ra giữa Vận, Sơn và Hướng tinh như sau:

1/ Vận tinh và Sơn tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 9-1-3, thì vận tinh 9 + Sơn tinh 1 = 10, nên đó là tình huống “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Sơn tinh.

2/ Vận tinh và Hướng tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 8-6-2. Vì Vận tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên là sự “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Hướng tinh.

Cả 2 trường hợp kể trên đều đòi hỏi tất cả các cung phải có sự “Hợp Thập” thì mới có hiệu lực. Những trường hợp này còn được gọi là “toàn bàn Hợp thập”. Nếu trong trạch bàn chỉ có sự “Hợp Thập” ở 1, 2 cung thì không đáng kể lắm.
- Thí dụ 1: Nhà tọa TÝ, hướng NGỌ (tức 180 độ), nhập trạch trong vận 7.


Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Sơn tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh.
- Thí dụ 2: Nhà tọa NGỌ hướng TÝ (tức 0 độ), nhập trạch trong vận 7.


Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Hướng tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.

Có tất cả 12 tình huống toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh với Sơn tinh, cũng như 12 tình huống Hợp thập giữa Vận tinh với Hướng tinh như sau:

* Giữa Vận tinh với Sơn tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

* Giữa Vận tinh với Hướng tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.

Ngoài hai tình huống Hợp thập giữa Vận-Sơn-Hướng tinh như ở trên thì còn một tình huống Hợp thập đặc biệt khác. Đó là khi trong một trạch bàn, Sơn tinh của một cung cộng với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Trường hợp này cũng đòi hỏi Sơn tinh của tất cả 8 cung (tức chỉ trừ Sơn tinh tại trung cung) đều phải “hợp” với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Sơn và Hướng tinh.

- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta thấy:



- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.


Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.

Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.


TÁC DỤNG CỦA HỢP THẬP

Hợp thập tức là dùng Thập số (số 10) để thông với Ngũ Hoàng ở trung cung mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm - Dương, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “tượng trưng cho sự thần diệu, sự thần diệu dùng số để biểu hiện, một Âm, một Dương là đạo vậy. Hai khí giao cảm mà hóa sinh vạn vật, sinh sinh không ngừng, biến hóa vô tận...công dụng của Hợp thập đều ghi cho sức của Mậu-Kỷ, khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”.

Cho nên nơi nào có Hợp thập là có thể làm cho thông khí (còn gọi là Thông quái), toàn bàn đắc Hợp thập tức có thể làm cho thông khí hết 8 cung, khiến cho toàn cục đang suy (vì không đắc vượng khí tới tọa-hướng) lại chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc song toàn.

Tuy nhiên,không phải tất cả mọi nhà đắc cách Hợp thập đều có thể xử dụng được nó, mà phải kết hợp với loan đầu mới có thể vượng phát được, còn nếu không thì cũng chỉ tầm thường hoặc suy bại mà thôi.

Một số người cho rằng những nhà có sự Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh thì sẽ vượng về nhân đinh, nếu có Vận tinh với Hướng tinh Hợp thập thì sẽ phát về tài lộc. Điều này có lẽ chỉ là sự suy diễn theo quan điểm “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc” mà ra. Nhưng họ không để ý rằng 1 khi đã có tình huống Hợp thập (bất kể giữa Vận tinh với Sơn hay Hướng tinh) thì toàn bàn đã thông khí được với trung cung (tức Thiên tâm), 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại. Chính vì vậy mà Thẩm trúc Nhưng mới nói ”khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”, chứ không chỉ thuần 1 vấn đề là vượng đinh hay vượng tài không được.

Sau cùng, ngoài những cách Hợp thập của Phi tinh đã nêu trên thì còn có cách Hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này thì nếu lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa-hướng của căn nhà (hay mộ huyệt) để tạo thành 1 đường thẳng, nhà lại nằm tại trung tâm của thế đất để lấy Thiên tâm, tức địa thế 2 bên đã được phân ra đồng đều thì cũng là cách Hợp thập theo địa hình. Tuy nhiên cách này đòi hỏi tọa-hướng của căn nhà cũng phải đắc vượng khí của Sơn-Hướng tinh, tức là trong thực chất cũng chỉ là 1 trường hợp “Vượng sơn, vượng hướng” mà thôi. Nhưng do hình cục đắc “Thiên tâm thập đạo” nên lúc đương vận có thể phát mạnh hơn những cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” bình thường, mà đến lúc thất vận cũng không đến nỗi suy tàn nhanh chóng. Nhưng muốn đắc cách Hợp thập theo hình cục thì nhà cũng phải lập tọa-hướng theo đơn hướng, chứ không thể dùng kiêm hướng. Nếu kiêm hướng ắt thế Thiên tâm thập đạo sẽ bị phá bể mà phát sinh ra nhiều hung họa. Cho nên chẳng thà là lập theo nguyên tắc “Vượng sơn, vượng hướng” như bình thường, hoặc dùng phương pháp Thế quái, chứ đừng quá tham lam chọn cách Hợp thập để chuốc lấy nhiều tai họa sau này.

Nguồn Phong Thủy tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp Thập

Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm.

Những ngày giáp Tết, theo phong tục truyền thống mọi gia đình người Việt thường ra mộ tổ tiên để lễ tạ Thổ thần, đắp thêm đất lên mộ, sửa sang mộ, rước vong linh Gia tiên về đón năm mới.
Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai sẽ XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé! >>

1./ Hiểu đúng về Lễ Tạ mộ vào những ngày cuối năm và phân biệt với việc Tảo mộ.

Những ngày giáp Tết, theo phong tục truyền thống mọi gia đình người Việt thường ra mộ tổ tiên để lễ tạ Thổ thần, đắp thêm đất lên mộ, sửa sang mộ, rước vong linh Gia tiên về đón năm mới.

Đây là một tục lệ truyền thống của người Việt có ý nghĩa vô cùng. Nó thể hiện sự hiếu thuận, đạo tình của con cháu đối với những người thân đã khuất. Đồng thời, cầu mong các vị này phù hộ cho các vong linh người thân quyến thuộc đắc an cư nơi mộ địa và không bị ngoại quỷ vô danh vọng hành chiếm đoạt mộ phần.

Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm

Nói về vấn đề này, Đại đức Thích Minh Định (TP.HCM) cho hay: “Mặc dù tạ mộ là một phong tục tập quán, không phải là nghi lễ của đạo Phật nhưng nó thể hiện sự hiếu thuận biết ơn và nhớ ơn tới ông bà, tổ tiên thì cũng đâu ngoài Phật pháp.

Theo đó, nếu Phật tử có lòng nghĩ nhớ đến ông bà tổ tiên mà đi viếng mộ thì để bày tỏ lòng hiếu thuận và biết ơn thì đâu có gì là không đúng, đâu có gì là không được. Đồng thời, chính việc này cũng giúp giáo hóa lòng người để họ biết hiếu thuận”.

Song mọi người cũng cần phân biệt rõ tảo mộ và tạ mộ.

Lễ tảo mộ còn có nghĩa đen là quét mộ, được diễn ra vào ngày mùng 3 tháng Ba ( theo lịch âm). Với công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ.

Còn tạ mộ hay còn gọi là lễ Chạp được diễn ra vào những ngày giáp Tết. Các gia đình thường ra mộ tổ tiên và người thân đã khuất để lễ tạ Thổ thần, đắp thêm đất lên mộ, sửa sang mộ, rước vong linh gia tiên về đón năm mới.

Nếu gia đình không có điều kiện ra mộ thì có thể rước gia tiên về đón năm mới theo cách: bày cỗ lên bàn thờ, đèn, hương hoa dâng cúng vào trưa (giờ Ngọ) ngày 30 Tết, rồi khấn Tổ tiên về dự hưởng Tết với gia đình.

Tuy nhiên, theo Đại đức Thích Minh Định thì mọi việc tùy duyên. Nếu họ biết nhớ ơn hiếu thuận thì vẫn có thể thăm mộ người thân như ông bà, cha mẹ mà cúng, lễ lạy. Song không nhất thiết phải “mâm cao cỗ đầy”.

Chỉ cần sửa soạn lễ cúng gia tiên, bao gồm hương thơm, hoa, quả, trầu cau, một ít vàng mã và mâm cỗ chay hay mặn thì tùy vào từng gia đình. Mọi cái phải được bày biện cẩn thận rồi mang ra ngoài mộ hoặc bày lên bàn thờ gia tiên.

Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm

Lễ tạ mộ có thể làm độc lập vào tất cả các ngày tốt trong tháng Chạp hoặc nhiều gia đình cũng thường kết hợp với lễ mời gia tiên về ăn Tết sau ngày 23 tháng Chạp.

Thông thường, tùy vào điều kiện mỗi gia đình và phong tục từng miền, mỗi nơi mỗi nhà có cách sắm lễ tạ mộ phần khác nhau.

Bài viết này viết về cách sắm lễ và văn khấn tạ mộ phần mang tính chất chung nhất cho những ai quan tâm để mọi người có thể thực hiện lễ tạ mộ vào dịp cuối năm được đầy đủ lễ nghi nhất.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất! Để biết bạn sang năm mới 2016 như thế nào nhé >>

2./ Sắm lễ tạ mộ:

Một lễ tạ mộ phần, phần hương hoa đồ mặn đầy đủ cần có:

10 bông hoa hồng đỏ tươi

3 lá trầu, 3 quả cau có cành dài và đẹp

1 đĩa trái cây

1 đĩa lớn xôi trắng có gà trống thiến luộc nguyên con đặt lên trên

Rượu

Chè

Thuốc lá

2 nến cốc màu đỏ

Phần đồ mã cần có:

1 cây hoa vàng hoa đỏ

5 con ngựa (mỗi con 1 màu)

5 bộ (mũ, áo, hia) loại to có kèm ngựa, cờ lệnh, kiếm và roi

Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm

* Lưu ý:

Mỗi con ngựa trên lưng đều có 10 lễ tiền vàng (mỗi lễ bao gồm: tiền xu, tiền vàng lá, tiền âm phủ). Tất cả có 4 đĩa để tiền vàng riêng. Trong đó lưu ý vong nam, phụ, lão, ấu mà dâng áo quần sao cho phù hợp.

Tất cả đồ lễ phải bày biện đàng hoàng. Nếu phần mộ nhỏ thì cần có bàn kê, mâm đỡ.

Ngoài ra, tùy điều kiện gia chủ có thể thêm bớt lễ vật, quan trọng nhất là lòng thành tâm nhớ tới ông bà, tổ tiên.

3./ Bài văn khấn lễ tạ mộ phần:

(Theo Văn khấn cổ truyền Việt Nam, NXB Văn Hóa – Thông Tin)

Nam mô a di đà Phật!

Nam mô a di đà Phật!

Nam mô a di đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương

- Con kính lạy ngài Địa tạng vương bồ tát.

- Con kính lạy ngài Kim Niên Đương cai Thái Tuế Chí đức Tôn thần, Kim niên hành binh, Công tào Phán quan.

- Con kính lạy ngày Bản cảnh Thành Hoàng Chư vị Đại Vương quản cai nơi nghĩa trang.

- Con kính lạy Ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa Tôn thần.

- Con kính lạy các ngài Ngũ phương, Ngũ thổ Long Mạch Tôn thần, các ngài Tiền Chu tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ cùng liệt vị Tôn Thần cai quản trong nơi nghĩa trang này.

- Con kính lạy hương linh cụ:…………………..

Hôm nay là ngày…..... tháng Chạp, năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến.

Tín chủ (chúng) con là:…………..

Ngụ tại:…………..

Chúng con sắm sanh phẩm vật, hương hoa trà quả,kim ngân tài mã, dâng hiến trình cáo Tôn thần.

Kính rước vong linh bản gia tiên tổ chúng con là:...............

Kỵ nhật là…

Có phần mộ táng tại…………

Được về với gia đình đón mừng năm mới, để cho cháu con được phụng sự trong tiết xuân thiên, báo đáp ân thâm, tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin Tôn thần, Phủ thùy doãn hứa.

Âm dương cách trở

Bát nước nén hương.

Thành tâm kính lễ

Cúi xin chứng giám

Phù hộ độ trì

Nam mô a di đà Phật!

Nam mô a di đà Phật!

Nam mô a di đà Phật! .

>> Sang năm 2016 bạn gặp VẬN HẠN gì? Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất! Để chúng ta cùng tránh nhé >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sắm lễ, văn khấn Lễ tạ mộ phần vào những ngày cuối năm.

Giường ngủ đối cửa gây đau đầu, hại dạ dày,...

Trong phong thủy, vị trí giường ngủ có chuẩn mới góp phần hạn chế được những điểm xấu do hướng nhà chưa tốt gây ra.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là một không gian tối quan trọng trong ngôi nhà. Mỗi chúng ta đều giành một phần ba cuộc đời cho giấc ngủ. Giấc ngủ có vai trò rất quan trọng giúp mỗi người nghỉ ngơi, thư giãn và lấy lại năng lượng sau một ngày lao động vất vả. Vì thế, trong nhà ở, phong thủy phòng ngủ luôn là một nơi cần chú ý nhiều nhất để tạo ra các khí trường phù hợp, đưa mọi người vào giấc ngủ ngon.

Nhắc đến phòng ngủ, không thể quên đồ vật quan trọng nhất - giường ngủ, Trong phong thủy, cấm kị không bao giờ được để bất kỳ phần nào của giường đối diện với cửa bởi vì nó sẽ gây ra vấn đề sức khỏe đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 1

Các tác động gây ra khi cửa đối diện giường ngủ

- Cửa đối diện với đầu: Nó sẽ gây ra đau đầu, đau nửa đầu hoặc thậm chí dẫn đến những cơn ác mộng

- Cửa đối diện với dạ dày: Nó sẽ gây ra vấn đề về dạ dày và hệ tiêu hóa

- Cánh cửa đối diện bên phải của cơ thể của bạn: Nó sẽ gây ra đau ngực phải và vấn đề gan

- Cánh cửa đối diện bên phải của cơ thể của bạn: Nó sẽ gây ra đau ngực trái và vấn đề dạ dày

- Cửa đối diện với chân: Nó sẽ gây ra vấn đề liên quan đến phần cơ thể dưới, ví dụ như đau chân, thấp khớp hoặc thậm chí tai nạn.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 2

Lưu ý: Vị trí giường ngủ phạm cấm kị nếu giường trực tiếp đối diện với cửa. Nếu chỉ là do nhìn thấy cánh cửa từ giường của bạn thì không có vấn đề gì.

Cách hóa giải khi giường ngủ đối diện cửa

Đầu tiên, các chuyên gia phong thủy luôn luôn khuyến khích di chuyển giường của bạn đến một vị trí khác không đối diện trực tiếp với cửa. Nhưng thông thường, giải pháp đầu tiên này là không thể vì hạn chế các không gian trong phòng.

Tiếp theo, bạn có thể cân nhắc việc đặt một tấm bình phong giữa giường và cửa để chặn các luồng sát khí.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 3

Cuối cùng, nếu tất cả các giải pháp nêu trên là không khả thi, bạn có thể treo một dải xu ngũ đế trên khung cửa.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 4
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giường ngủ đối cửa gây đau đầu, hại dạ dày,...

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Ngày tam nương –

Ngày tam nương (tam nương nhật ) theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc là những ngày rất xấu. Do đó, mỗi khi khởi sự làm một việc quan trọng (như khai trương, xuất hành, cưới hỏi, sửa chữa hay cất nhà, v.v...) để khỏi chuốc lấy thất bại, phải tránh khở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày tam nương (tam nương nhật ) theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc là những ngày rất xấu. Do đó, mỗi khi khởi sự làm một việc quan trọng (như khai trương, xuất hành, cưới hỏi, sửa chữa hay cất nhà, v.v…) để khỏi chuốc lấy thất bại, phải tránh khởi sự vào các ngày tam nương, gồm ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22, và 27 trong mỗi tháng Âm lịch.

Tam nương là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng Muội Hỉ, Đát Kỷ và Bao Tự. Hầu hết sách sử Trung Quốc đều kết tội ba giai nhân tuyệt sắc này là nguyên nhân làm sụp đổ ba triều đại Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên (TCN). Các sử gia đều phỏng chừng ba sự kiện “tan nhà đổ nước” này lần lượt xảy ra trong các năm như sau:

bao-tu

1. Muội Hỉ mê hoặc vua Kiệt (tức Lý Quý , cai trị? – 1600 TCN), làm sụp đổ nhà Hạ (khoảng 2100 TCN – 1600 TCN).

2. Đát Kỷ (người Việt quen gọi Đắc Kỷ) mê hoặc vua Trụ (tức Đế Tân , cai trị khoảng 1154 TCN – 1066 TCN), làm sụp đổ nhà Thương (khoảng 1600 TCN – 1066 TCN). Huyền thoại đề quyết nàng Đát Kỷ là con cáo cái thành tinh (hồ ly tinh), có phép hoá ra mỹ nhân.

3. Bao Tự (?-771 TCN) mê hoặc vua U vương (tức Cơ Cung Niết , cai trị 781 TCN – 771 TCN), làm sụp đổ nhà Tây Chu (khoảng 1066 TCN – 771 TCN). Vua U vương chưa bao giờ thấy Bao Tự cười, ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ được thưởng ngàn lạng vàng. Nàng thích nghe tiếng lụa bị xé, vua U vương cho xé lụa ngày đêm để nàng vui, thậm chí còn cho đốt lửa trên các hoả đài để đánh lừa các chư hầu đem quân về cứu Thiên tử nhà Chu (vua U vương). Bao Tự đứng trên lầu cao, nhìn cảnh chư hầu mắc lỡm, cười ngặt nghẽo. Hậu quả, khi bị quân Khuyển Nhung vây khốn nguy ngập, vua U vương cho đốt lửa trên hoả đài thì các chư hầu không thèm về cứu vì đinh ninh đó là trò lừa bịp cốt làm vui lòng người đẹp.

Theo dân gian Trung Quốc, ngày tam nương là ngày ba nàng Muội Hỉ, Đát Kỷ, Bao Tự được đưa vào nội cung của ba ông vua bị mang tiếng là rất hiếu sắc, tham dâm, bạo ngược vô đạo nói trên. Nhưng vì sao chỉ có ba nàng mà lại kể ra sáu ngày nhập cung? Ngày nào liên quan tới nàng nào? Xưa nay chẳng thấy ai giải thích!

Dù là truyền thuyết, hoang tưởng nhưng tín ngưỡng dân gian lâu đời này đã truyền từ Trung Quốc sang Việt Nam, ảnh hưởng tới không ít quần chúng xưa nay. Thiếu cơ sở khoa học, thiếu bằng chứng xác thực nhưng thói thường vẫn cho rằng “có kiêng có lành”!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày tam nương –

Đức Phật nói về bốn niềm vui của người tu tại gia

Để phát huy trách nhiệm của phật tử tu tại gia, trước hết phải quan niệm sâu sắc lời Đức Phật dạy qua kinh sách và những lời giảng Pháp của các thầy
Đức Phật nói về bốn niềm vui của người tu tại gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đạo Phật từ khởi nguyên cho tới bây giờ luôn tồn tại hai giới tu hành, đó là giới xuất gia và giới tại gia. Người tu xuất gia cũng gọi là xuất gia đầu Phật. Xuất gia – là đến chốn hông nhà.

Chữ “nhà”, là nhà ở cửa người thế tục. Người thế tục nào bỏ nhà ở của mình để đến ở nhà của Như Lai, là chùa để giữ gìn mạng mạch Phật pháp trường tồn và phát triển được, gọi là người trụ trì. Trụ, nghĩa ở; còn: Trì, nghĩa là giữ, giữ gìn. Thế nên Trụ Trì là ý nghĩa cao cả trong câu: Trụ Pháp Vương gia – Trì như Lai Tạng. Người tu xuất gia là người lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm, khoác y Phật, đưa Phật Pháp vào lời nói, là người trưởng tử của Như Lai, tuyên dương giáo pháp làm lợi ích cho đời; bởi giáo pháp nhà Phật là giáo pháp bất ly thế gian để giác ngộ thế gian (chữ Hán biểu thị bằng câu: Phật pháp bất ly thế gian giác).

Cho nên tu xuất gia mà dân gian gọi là tu chùa là lối tu cao tuột, hơn hẳn các lối tu khác.

Người tu tại gia là người thực hiện các pháp tu ngay tại nơi ở, nơi sinh sống của mình cùng với gia đình (tại gia là tại nhà). Người tu tại gia gọi là Ưu bà tắc; là giới nữ gọi là Ưu bà di. Cũng có thể gọi chung là phật tử, tức con của đức Phật Thích Ca, và chính đức Phật đã chế định và khai mở đường lối tu này khi Ngài còn tại thế.

Lịch sử Phật giáo ghi nhận người tu tại gia đầu tiên là một nhà triệu phú ở gần thành Ba-la-nại, khi ông ta đi tìm người con trai của mình tên là Yasa đã bỏ nhà ra đi vì chán cảnh sống thế gian tầm thường, vô vị. Ông đã tìm được người con trai của mình tại Vườn Nai, con trai ông đang nghe Phật thuyết pháp.

Đến nơi, được nghe pháp, nhà triệu phú nọ cũng bị thuyết phục bởi những lời giảng của đức Phật về Tứ Đế và Bát Chính đạo. Thế rồi thể theo lời cầu xin của nhà triệu phú, đức Phật đã cho ông được quy y, trở thành người đệ tử tại gia đầu tiên. Nhà triệu phú nọ đã hoan hỷ trở lại nhà mình, tiếp tục công việc làm ăn, buôn bán. Còn người con trai của ông là Yasa thì được Phật cho xuất gia.

Từ mẫu hình của người tu tại gia đầu tiên từ thời đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ ấy, thì các pháp tu này vẫn còn nguyên giá trị. Đó là, người phát nguyện tu tại gia nhất thiết phải được nhà chùa chấp thuận và làm lễ Quy y Tam bảo cho.

Trong buổi lễ ấy, nhà chùa có thể đặt Pháp danh (tên đạo) cho người được Quy y. Sau buổi lễ người phật tử đó được trở lại nhà ở, gia đình của mình và làm ăn, sinh sống bình thường trong công đồng dân cư và tự giác thực hiện những điều đã phát nguyện trước Tam Bảo trong buổi lễ Quy y.

Để phát huy trách nhiệm của người phật tử tu tại gia, trước hết phải quan niệm sâu sắc lời Phật dạy qua kinh sách và những lời giảng Pháp của các thầy với các khóa học dành cho người tu tại gia; và không chỉ học hiểu mà còn biết kiến giải đúng nghĩa các thuật ngữ Phật học phổ thông như Tam Bảo, vô ngã, tứ vô lượng tâm, Phật tính v..v…Thực hành Bát chính đạo, sống có giá trị và ý nghĩa hướng thiện để đời sống của mình có giá trị và ý nghĩa, trở thành tấm gương sống đẹp, thực hành đời sống đạo đức, tâm linh, đồng thời Phật tử tu tại gia phải có tình thần hộ trì hoằng dương Chính Pháp, lợi lạc chúng sinh. Bên cạnh đó, người phật tử tu tại gia nếu có điều kiện sẵn sàng thực hành Pháp thí và Vô úy thí – tức là trao truyền kiến thức tu tập và bảo vệ che chở, đem niềm vui, hạnh phúc tới cho người khác, góp phần làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau trên cuộc đời, trong xã hội.

Trong văn hóa dân gian Việt Nam từng truyền tụng câu thơ cửa miệng về “sự tu” thật sâu sắc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa

Chớ hiểu lầm về sự sắp xếp thứ tự.. nơi tu trong câu lục bát này. Bởi vì: Tu tại gia được xếp “thứ nhất” ấy chỉ là bước đầu tiên trong việc thâm nhập và khai mở tri kiến Phật, chưa phải là lối tu cao tuột của người xuất gia mà trong bài viết này đã đề cập, đã Kiến giải và mặc dù vậy, ngay từ buổi đầu tiên chế định ra đường lối tu này; sau lời truyền Pháp, đức Phật đã hoan hỷ, tuyên dương với đại chúng về bốn niềm vui chính đáng của người Phật tử tu tại gia.

Đó là:

1. Niềm vui có của cải: Là do lao động chuyên cần bằng mồ hôi và những việc làm chính đáng của mình trong kinh doanh, làm khoa học kỹ thuật, hoặc lao động phổ thông. Sống lành mạnh, có đạo đức nghề nghiệp. được cộng đồng và pháp luật thừa nhận.

2. Niềm vui được giàu có: Được giàu có là do lao động siêng năng, lại khéo léo sắp xếp công việc hợp lý, có kế hoạch vì thế tạo ra những lợi nhuận ngày một cao. Khi thụ hưởng giàu sang mà vẫn không quên làm việc lành.

3. Niềm vui không có nợ nần: Là do có nghị lực kiềm chế. Thực hành “thiểu dục tri túc”, ít ham muốn, tự biết đủ. Không cờ bạc, rượu chè, giữ ngũ Giới… cho nên không có nợ nần, sống tự tại

4. Niềm vui không bị chê trách: Là do các hành động của thân – khẩu – ý luôn thanh tịnh, không có điều gì đáng chê trách cho nên cuộc sống luôn thảnh thơi, tri thức thăng hoa, tâm thường hoan hỷ.

Trong bốn niềm vui của người tu tại gia, thì niềm vui thứ tư được đức Phật tán dương nhất; Ngài cho rằng: niềm vui không bị chê trách là niềm vui ưu việt hơn cả.

Ở nước ta, trong giới tu tại gia – các cư sĩ, phật tử ở thời nào cũng rất đông đảo. Họ là những thường dân, là thương gia giàu có, nhà khoa học, những nghệ sỹ tài năng và có cả những danh tướng, quân vương… nơi thế tục nhưng hết thảy những việc làm của họ đều xứng danh là các Hộ pháp ở thế gian còn nhiều những khổ đau này.

Trong đó có những ngọn đuốc thiền sáng chói rất đáng tự hào, như nhà Trần (1225 – 1400) có Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung – vị thiền sư lại là một cư sỹ tại gia, một nhà tư tưởng, nhà quân sự và cũng là một nhà thơ. Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám (1897 – 1969) cũng là một cư sỹ tại gia mẫu mực, làm nhiều phật sự lớn như dịch Kinh Phật, mở các trường Phật học đào tạo tăng tài trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đầu những năm 30 thế kỷ 20.

Vậy là may mắn cho tôi và hết thảy những ai đó chưa hội đủ duyên lành để được làm người tu xuất gia, thì cũng chớ bỏ lỡ cơ hội Quy y Tam bảo, làm người tu tại gia, thực hiện các hạnh lành mà thụ hưởng bốn niềm vui mà đức Phật đã hoan hỷ chỉ bày.

Nam mô Công đức lâm Bồ Tát Ma ha tát!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đức Phật nói về bốn niềm vui của người tu tại gia

Người có mệnh Lục Bạch Vũ Khúc tinh thích hợp làm nghề gì? –

Lục Bạch tinh đại diện cho sự quyết đoán và sức sống mạnh mẽ, nghề thích hợp là nhân viên công vụ, pháp luật, chính trị, cảnh vệ, bảo an, thiên văn, nghiên cứu hàng không vũ trụ, hạt nhân, nguyên tử, phóng xạ, vi tính, dầu khí, khoáng sản, đá quý, s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ở giao dịch chứng khoán, ngành bảo hiểm, vận động viên, sở thú, võ thuật, cố vấn…

p8

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người có mệnh Lục Bạch Vũ Khúc tinh thích hợp làm nghề gì? –

Mê mẩn với những mẫu sofa siêu đẹp cho nhà chung cư

Với những căn hộ chung cư, ghế sofa giúp cho phòng khách trở nên sinh động, đẹp mắt mà không kém phần hiện đại và sang trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại ghế sofa với nhiều kiểu dáng và màu sắc khác nhau. Tùy thuộc vào phong cách và màu sắc của phòng khách mà bạn sẽ chọn bộ sofa sao cho hài hòa với tổng thể.

Để có được một bộ ghế sofa hợp với phòng khách, người ta thường chú ý đến các vấn đề về: bề ngoài, kích thước và sắc màu của ghế. Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố này trong một bộ sofa sẽ làm cho căn phòng trở nên lịch lãm và sang trọng.

Xu hướng chọn sản phẩm sofa ngày nay phần nhiều hướng đến những loại ghế có kiểu dáng sang trọng, những mẫu ghế mới ra mắt. Với diện tích rộng rãi, bạn có thể trưng bày những bộ ghế sofa to hoặc ghế sofa góc chữ L với kích thước rộng. Còn ở không gian phòng khách nhỏ hơn như phòng khách ở chung cư thì sofa góc chữ L nhỏ là sự chọn lựa tốt nhất.

Những mẫu sofa siêu đẹp dưới đây hi vọng sẽ mang đến cho bạn nhiều sự lựa chọn:

sự hài hòa về màu sắc của bộ sofa sẽ khiến không gian phòng khách nhà bạn trở nên lịch lãm và sang trọng. Sự hài hòa về màu sắc của bộ sofa sẽ khiến không gian phòng khách nhà bạn trở nên lịch lãm và sang trọng. sử dụng chiếc sofa dài sát tường vừa tiết kiệm diện tích lại phù hợp với không gian phòng khách hẹp. đây là sự lựa chọn thông minh và khéo léo. Sử dụng chiếc sofa dài sát tường vừa tiết kiệm diện tích lại phù hợp với không gian phòng khách hẹp. Đây là sự lựa chọn thông minh và khéo léo. những chiếc ghế sofa được đặt đối diện nhau có thể nói chuyện thoải mái mang lại sự gần gũi, ấm áp giữa các thành viên trong gia đình. Những chiếc ghế sofa được đặt đối diện nhau có thể nói chuyện thoải mái mang lại sự gần gũi, ấm áp giữa các thành viên trong gia đình.

Với những chiếc gối ôm tối màu, bạn có thể vừa ôm vừa gác chân, có thể ngủ mang lại cảm giác thoải mái, thư giãn.

bộ ghế sofa màu cam là điểm nhấn của căn phòng. màu sắc bộ ghế mang đến cảm giác yên bình, thư thái cho căn phòng. Bộ ghế sofa màu cam là điểm nhấn của căn phòng. Màu sắc bộ ghế mang đến cảm giác yên bình, thư thái cho căn phòng. với chiếc ghế sofa dáng dài vừa là không gian cho gia đình nghỉ ngơi, thư giãn vừa là nơi đón khách quý rất thuận tiện. Với chiếc ghế sofa dáng dài vừa là không gian cho gia đình nghỉ ngơi, thư giãn vừa là nơi đón khách quý rất thuận tiện. với bộ ghế sofa màu trắng mang kiểu dáng hiện đại sẽ khiến cho không gian phòng khách gia đình bạn bừng sáng. Với bộ ghế sofa màu trắng mang kiểu dáng hiện đại sẽ khiến cho không gian phòng khách gia đình bạn bừng sáng. bộ ghế sofa màu xám nhẹ nhàng kết hợp cùng với những chiếc gối ôm đủ màu sắc mang lại sự tiện lợi và ấm cúng cho căn phòng. Bộ ghế sofa màu xám nhẹ nhàng kết hợp cùng với những chiếc gối ôm đủ màu sắc mang lại sự tiện lợi và ấm cúng cho căn phòng. căn phòng trở nên vô cùng ấm cúng với bộ ghế sofa màu kem. Căn phòng trở nên vô cùng ấm cúng với bộ ghế sofa màu kem.


Tuệ Minh
Theo Trí thức trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mê mẩn với những mẫu sofa siêu đẹp cho nhà chung cư

Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Nếu mơ thấy mình đứng yên trên một tấm gỗ, dự báo người nằm mơ sắp phải gánh lấy những hiểm nguy trong vấn đề tình cảm. Hình ảnh tấm gỗ trong mơ cho thấy người nằm mơ chỉ có thể an toàn và ổn định khi tự thân giải quyết những yêu cầu của cuộc sống. &
Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tấm gỗ: Chỉ an toàn khi tự giải quyết vấn đề –

Bí quyết chọn đá quý, đá phong thủy hợp mệnh

Đeo trang sức đá quý, đá phong thủy hợp mệnh, có màu sắc phù hợp với mệnh thì sẽ đem lại sức khỏe, may mắn, hưng vượng cho người đeo.
Bí quyết chọn đá quý, đá phong thủy hợp mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành tương sinh, tương khắc cũng là một quy luật. Có những quy định về nhiều mặt của ngũ hành, trong đó phải kể đến màu sắc. Dùng trang sức bừa bãi, không theo màu sắc ngũ hành cho hợp với mệnh người đeo, sẽ đem lại những điều không may mắn cho họ. Ngược lại, nếu đeo trang sức đá có màu sắc phù hợp với mệnh thì sẽ đem lại sức khỏe, may mắn, hưng vượng cho người đeo.

Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì? để hiểu hơn về nguyên lý ngũ hành âm dương. 

1. Người mệnh THỦY nên đeo đá gì? 

  Người mệnh Thủy khi mua đá phong thủy hợp mệnh cần lưu ý: Tốt nhất cho người mệnh Thủy là BẠC và ĐÁ MÀU TRẮNG. Vì các màu sắc trên theo quy định của ngũ hành là thuộc Kim, mà Kim sinh Thủy nên khi đeo Bạc và Đá màu Trắng, người mệnh Thủy sẽ được Tương sinh.

Tốt thứ nhì cho người mệnh Thủy là sự hòa hợp giữa người mệnh Thủy với màu sắc của viên đá. Đó là họ nên dùng các màu ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN như saphiare, aquamarin, tactit... 

Thứ ba, người mệnh Thủy khắc được Hỏa ( Nước sẽ dập tắt được Lửa), tức là họ dùng được các màu mà họ chế ngự được như ĐỎ, HỒNG, TÍM.
Bi quyet chon da quy, da phong thuy hop menh hinh anh
 
Nên dùng: Người mệnh Thủy được đeo đá quý với các màu sắc như sau: * Được tương sinh: Đá trắng, vàng, bạc  * Được tương hợp: Đá màu đen, màu xanh nước biển  * Chế khắc được đá các màu: Đỏ, hồng, tím
 
Không nên dùng: Tuyệt đối không nên dùng các màu sau: * Đá vàng sậm, nâu đất
 
Vì đó là màu thuộc hành Thổ. Chặn được nước lớn ở sông, ở biển tràn vào, người ta phải đắp đê điều bằng đất, đá , cát. Thổ sẽ chế ngự được Thủy. Chính vì vậy, người mệnh Thủy không nên đeo đá có các màu thuộc Thổ, sẽ bất lợi cho họ.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Người mệnh Thủy trồng cây gì để tài lộc chạy thẳng vào nhà?
 

2. Người mệnh HỎA nên đeo đá gì?

  Tính chất mệnh Hỏa: Đá quý loại nào cũng tỏa ra rất nhiều năng lượng tốt cho người dùng. Nhưng tốt cho người mệnh Hỏa nhất phải là đá có màu thuộc hành Mộc, tức là xanh lá cây. Vì gỗ khi cháy sẽ thành ngọn Lửa, nghĩa là Mộc sẽ sinh Hỏa. Chính vì vậy, đá có màu xanh lá cây là màu đá lý tương số 1 mà người mệnh Hỏa nên dùng.

Cũng như các mệnh khác, người mệnh Hỏa sẽ tốt nếu dùng đá phong thủy hợp mệnh là đá quý có màu tương hợp, tức là cùng hành Hỏa với các màu đặc trưng của Hỏa là Đỏ, Hồng, Tím. Còn nếu họ thích dùng đá màu trắng thì cũng được, vì mệnh của họ chế khắc được màu của viên đá, tức là Hỏa khắc được Kim. Nung kim loại chảy ra thành nước- điều đó chỉ có Lửa mới làm được mà thôi!
 
Nên dùng: Người mệnh Hỏa được đeo đá quý với các màu sau: * Được tương sinh khi họ dùng đá màu Xanh lá cây. * Được hòa hợp nếu họ dùng đá màu Đỏ, hồng, tím.  * Chế khắc được những viên đá có màu Trắng.
 
Không nên dùng:
 
* Đá màu đen, màu xanh nước biển.
 
Vì đó là màu của Nước( THỦY). Khi dùng họ gặp xui, vì THỦY- HỎA giao đấu, thì phần thua sẽ thuộc về họ, bởi Nước sẽ dập tắt Lửa.
 
Mời bạn đọc xem thêm: Cây hợp mệnh Hỏa giúp gia chủ giàu có, thịnh vượng?
 

3. Người mệnh MỘC nên đeo đá gì?

  Để người mệnh Mộc được khỏe mạnh, may mắn, tài lộc, phát đạt, thì việc chọn mua một viên đá hợp mệnh theo màu sắc ngũ hành là điều rất quan trọng. Nguời mệnh Mộc nên đeo đá quý như sau: Để được tương sinh: Thủy dưỡng Mộc. Màu đá tốt nhất dành cho người mệnh Mộc là màu nước, bao gồm: đen, xanh nước biển, xanh da trời, xanh Lam.

Để được tương hợp: Lưỡng mộc thành Lâm. Có nhiều cây là có rừng. Hòa hợp với người mệnh Mộc chính là màu Mộc, gồm: gỗ hóa thạch, xanh lá cây.

Để chế khắc được viên đá: Người mệnh Mộc chế được Thổ gồm các màu vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch. Như vậy đeo viên đá có màu Thổ, người mệnh Mộc được an toàn và không phải lo lắng.
Bi quyet chon da quy, da phong thuy hop menh hinh anh 2
 
Nên dùng: Tóm lại, người mệnh Mộc được đeo đá quý có các màu sắc: * Tương sinh: đen, xanh lam, xanh da trời, xanh nước biển * Tương hợp: gỗ, xanh lá cây  * Chế ngự: vàng sậm, nâu đất, các loại hóa thạch
 
Không nên dùng: * Tuyệt đối không nên dùng các loại đá màu của Kim như trắng và bạc.
 
Vì dao chặt được cây gỗ cho nên khi đeo trang sức với viên đá màu tượng trưng cho Kim sẽ không tốt cho người đeo. Ta nên tránh đá màu trắng cho người mệnh Mộc.

Tham khảo thêm bài viết: Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Mộc
 

4. Người mệnh KIM nên đeo đá gì?

  Người mệnh Kim nên đeo đá quý như sau: Tốt nhất là được tương sinh:Kim là do Thổ sinh ra. Đất sinh ra vàng bạc nên dùng các màu thuộc Thổ như vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch như mắt hổ. Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Hợp với mệnh Kim là Kim. Đó là trắng (bạc kim), vàng tươi (vàng trang sức) và bạc. Thứ ba mới đến sự chế khắc: Kim sẽ chế khắc được Mộc. Chủ thể là người mệnh Kim sẽ chế khắc được viên đá mình đeo có các gam màu xanh lá cây.
Bi quyet chon da quy, da phong thuy hop menh hinh anh 3
 
Tóm lại, người mệnh Kim được đeo đá quý có các màu sau: * Tương sinh: đá vàng sậm, nâu đất, mắt hổ  * Hòa hợp: đá bạc, trắng, vàng tươi  * Chế khắc: xanh lá cây
 
Không nên dùng: * Đá có màu thuộc hành Hỏa như đá đỏ, hồng, tím. Vì Hỏa khắc Kim cho nên khi đeo đá có màu tượng trưng cho lửa sẽ gây bất lợi cho chủ nhân của nó.

Mời các bạn xem thêm bài viết: Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Kim
 

5. Người mệnh THỔ nên đeo đá gì?

  Tính chất mệnh Thổ: Khi mọi vật bị đốt cháy, sẽ thành tro, bụi, đất, cát. Vậy HỎA sẽ sinh ra THỔ. Cho nên, người mệnh Thổ hãy dùng những viên đá quý có màu của Hỏa, sẽ được tương sinh. Đó là các màu: ĐỎ, HỒNG, TÍM. Có câu:"Lưỡng Thổ thành Sơn". Nếu họ dùng đá có màu VÀNG SẬM, NÂU ĐẤT, sẽ rất tốt cho họ, vì người và đá cùng mệnh có sự tương hợp với nhau. Đất đá chế ngự được nước, người mệnh Thổ sẽ chế ngự được viên đá có màu của hành Thủy là ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN.
 
Nên dùng: Người mệnh Thổ sẽ dùng được những viên đá quý có màu sắc: * Để được tương sinh: màu ĐỔ, HỒNG, TÍM (Hỏa) * Để được hòa hợp: màu NÂU ĐẤT, VÀNG SẬM.(Thổ)  * Để chế khắc được: ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN (Thủy)
 
Không nên dùng: * Đá có màu XANH LÁ CÂY, vì đó là đá có màu cùa hành Mộc.
 
Cây sống trên đất, hút hết sự màu mỡ của đất, khiến đất suy kiệt. Người mệnh Thổ nếu dùng đá có màu xanh lá cây sẽ bị suy yếu về sức khỏe, khó khăn về tài chính.

Mời các bạn xem thêm bài viết: Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thổ

Trâm Anh


Mua vật phẩm phong thủy nhưng không biết cách dùng cũng bằng không
– Đa phần mọi người chỉ hiểu ý nghĩa vật phẩm phong thủy đã mua chứ ít khi chú ý tới cách dùng. Mà một khi đã dùng sai thì tác dụng cũng như
Nguyên nhân vợ chồng xung khắc là xuất phát từ phòng ngủ
Phòng ngủ là nơi chúng ta dành 1/3 thời gian trong ngày để ở và thư giãn. Phòng ngủ không nên quá rộng so với phòng khách bên ngoài nhưng cũng không nên quá

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết chọn đá quý, đá phong thủy hợp mệnh

Ngũ hành của vật liệu xây dựng trong phong thủy hiện đại

Thông qua các giác quan, vật liệu xây dựng có thể gây tác động đến con người. Vậy nên, đây cũng là một trong những yếu tố quyết định tới sự an lành của gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào thời điểm ngôi nhà đang chuẩn bị hoàn thiện việc xây dựng, không ít gia chủ băng khoăn về chuyện nên chọn vật liệu như thế nào cho bền, đẹp lại phù hợp về mặt phong thuỷ với bản thân và gia đình. Nếu có thể nắm bắt thêm thông tin về đặc tính ngũ hành của các loại vật liệu khác nhau, chúng ta sẽ không còn lúng túng trước việc bố trí cũng như lựa chọn nội thất phù hợp với ngôi nhà của mình.

Trong quá trình chế tác, tạo thành bề mặt cho tới hoàn thiện, không có một ngôi nhà nào trên thực tế chỉ là một hành mà luôn có sự phối hợp giữa nhiều hành khác nhau. Trong phong thuỷ, vật liệu cũng được phân chia theo các tính chất khác nhau: Vật liệu mang tính Kim (như thép, sắt, inox..), vật liệu mang tính Mộc (tre, gỗ, giấy...), vật liệu mang tính Thuỷ (thuỷ tinh, kính...), vật liệu mang tính Hoả (mika, nhựa...), vật liệu mang tính Thổ (gốm, đá, gạch...). 

phong thuỷ cho nhà ở
Vật liệu xây dựng cũng là một trong những yếu tố quyết định tới sự an lành của gia chủ

Vật liệu mang tính Kim

Những vật liệu thuộc loại này bao gồm thép, đá hoa cương, sắt, inox....và rất thông dụng trong kiến trúc. Đặc điểm của những vật liệu này đó là bề mặt sáng bóng và mang tính dương giúp cho khí có thể di chuyển một cách nhanh hơn. Những khu vực cần thiết có sự năng động như phong khách, văn phòng ở công sở đều rất phù hợp với những chất liệu này.

Dù vậy, không nên quá lạm dụng loại vật liệu thuộc nhóm này. Trong nhà cũng nên hạn chế sử dụng kim loại trong những dạng thức trang trí như giường bằng kim loại, thang inox bởi điều này dễ tạo cảm giác lạnh lẽo, cô đơn, không phù hợp cho đời sống gia đình cần sự sẻ chia, ấm áp.

Những vật liệu thuộc hành Kim sẽ rất hợp với gia chủ có mệnh Kim, Thuỷ nhưng lại khắc với những người mệnh Mộc và vượng nhờ người mệnh Thổ.

Những vật liệu thuộc mệnh Mộc

Những vật liệu thường gặp trong nhà và thuộc nhóm này đó là mây tre, gỗ, vải. Một ngôi nhà với nhiều cây cối hoặc hành Mộc sẽ dễ khiến con người ta cảm thấy dễ chịu, thư thái. Chúng mang tới một vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, dân dã và mộc mạc. Không những vậy, gỗ cũng là một loại vật liệu mang tính âm cao nhất, dễ hoà hợp, thông khí với môi trường tự nhiên. Vậy nên, với những khu vực hay căn phòng cần có sự yên tĩnh như phòng thờ, phòng ngủ nên sử dụng những vật liệu mang tính âm như tre, mây, gỗ...

Vật liệu thuộc mệnh Mộc sẽ phù hợp cho gia chủ có mệnh Hoả, Mộc; vượng nhờ người mệnh Thuỷ và khắc với người mệnh Thổ.

Những vật liệu thuộc hành Thuỷ.

Các loại kính, thuỷ tinh là những vật liệu thuộc hành Thổ vừa có sự dẫn truyền ảnh sáng của hành Thuỷ, lại vừa có đặc tính sắc bén, sáng bóng của hành Kim.

Đặc tính dễ nhận biết nhất của kính đó là nhẵn bóng và cứng. Cũng bởi sự trong suốt của kính nên nắng sẽ dễ dàng xuyên qua vật liệu này và giúp sinh khí xâm nhập vào trong từ bên ngoài. Bởi vậy, chủ nhà có thể sử dụng kính trong thiết kế bàn làm việc, bàn trà hay bàn ăn nhưng nên sử dụng những loại kính màu thay vì kính trong suốt. Hiện tại, có không ít gia đình đang sử dụng tấm kính làm bậc cầu thang, song việc này nên hạn chế bởi kính không hề có tác dụng dẫn và giữ khí.

Những vật liệu thuộc hành Thuỷ sẽ phù hợp với gia chủ có mệnh Mộc, mệnh Thuỷ; vượng nhờ người mệnh Kim và khắc với người thuộc mệnh Hoả.

Những loại vật liệu thuộc hành Thổ

Hầu hết mọi vật liệu xây dựng như đá ốp lát, sứ, gốm hay gạch đều thuộc hành Thổ. Nhóm vật liệu này thường đem đến cảm giác nguyên sơ mà ổn định, vững bền. Với nhiều khả năng biến đổi và phối ghép đa dạng của mình, loại vật liệu này được sử dụng rất nhiều trong trang trí và xây dựng ở hầu hết mọi không gian nội ngoại thất.

Những gia chủ mệnh Kim hoặc mệnh Thổ sẽ phù hợp với vật liệu hành Thổ, song vật liệu này lại khắc với những người mệnh Thuỷ và vượng nhờ những người thuộc mệnh Hoả.

Những vật liệu thuộc hành Hoả

Nhựa và những loại vật liệu nhân tạo khác hầu hết đầu thuộc hành Hoả bởi chúng thường được tạo ra nhờ những phương pháp xử lý nhiệt. Nhựa ngăn cả khí, toả ra hơi cũng như hoá chất độc hại gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, vậy nên hãy hạn chế sử dụng chúng. 

Ngoài ra, những loại vật liệu có bề mặt màu cam hay đó cũng được xếp vào nhóm này. Chẳng hạn như một lan can hay bức tường sơn màu đỏ thì tính hoả sẽ ở trên bề mặt nhưng tính kim hoặc tính thổ lại nằm trong kết cấu, có ảnh hưởng đến tâm lý và thị giác của người sử dụng.

Những vật liệu thuộc hành Hoả sẽ phù hợp với chủ nhà mệnh Thổ và mệnh Hoả, vượng nhờ người mệnh Mộc nhưng lại khắc với người mệnh Kim.

Có thể thấy được rằng, với mỗi tính chất ngũ hành của mình, mỗi gia chủ sẽ có nhiều khả năng gia giảm cũng như phối kết những chủng loại vật liệu khác nhau chứ không chỉ sử dụng một vài loại vật liệu đơn điệu nào đó.

(Theo Trí thức trẻ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành của vật liệu xây dựng trong phong thủy hiện đại

Con giáp nữ càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà

Xuất hiện trong danh sách con giáp càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà là những ai? Hãy cùng ## khám phá nhé!
Con giáp nữ càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Xuất hiện trong danh sách con giáp càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà là những ai? Hãy cùng ## khám phá nhé!



No1. Cô nàng tuổi Sửu


Dẫn đầu trong danh sách những con giáp càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà chính là cô nàng tuổi Sửu. Ấy vậy mà, thời còn “trẻ trâu”, con giáp này lại không mấy nổi bật trước đám đông đâu nhé. Bởi phần lớn thời gian họ chuyên tâm chuyện học hành, thi cử, công việc… nên chẳng mấy khi chăm chút cho vẻ bên ngoài.

Con giap cang lon tuoi cang dep man ma hinh anh
 
Nhưng thời gian trôi đi, trải qua không ít thăng trầm trong cuộc sống, họ nghiệm ra một điều, phải thay đổi bản thân để thích ứng với hoàn cảnh. Tất nhiên, sự thay đổi đó mang tính tích cực, thông thường càng giúp họ đẹp mặn mà và dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.

Bên cạnh đó, nữ giới tuổi Sửu có cá tính mạnh mẽ, kiên trì theo đuổi mục tiêu, giá trị bản thân được nâng lên theo thời gian. Càng lớn tuổi, bạn càng thấy họ đẹp một cách kiêu sa, vị trí trong công việc, địa vị trong xã hội cũng thăng tiến không ngừng.

Top 3 con giáp chào đón điều may mắn trong 3 năm tới
Trong những năm qua, một số con giáp gặp nhiều khó khăn, nhưng 3 năm tới là thời điểm rất tốt. Sau đây là 3 con giáp may mắn ba năm tới.
No2. Cô nàng tuổi Thìn


Hơn ai hết, người tuổi Thìn luôn ý thức được giá trị bản thân. Tự hào mang trong mình dòng dõi cao quý, họ không ngừng nỗ lực để hoàn thiện chính mình, từ vẻ bề ngoài đến nội tâm, thành công trong cuộc sống.

Con giap cang lon tuoi cang dep man ma hinh anh 2
 
Với nhiều người phụ nữ, cuộc sống sau hôn nhân thật vất vả, thậm chí có người phải hy sinh rất nhiều, không còn thời gian để trau chuốt vẻ bề ngoài. Nhưng với cô nàng tuổi Thìn thì sẽ không có trường hợp đó xảy ra.

Dù ở nhà hay đi ra ngoài, họ luôn biết cách ăn vận, trang điểm phù hợp. Để đi tới đâu mình cũng dễ dàng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý. Vậy mới nói, người tuổi Thìn càng lớn tuổi lại càng đẹp mặn mà, sang trọng.

No3. Cô nàng tuổi Tuất

Những cô nàng tuổi Tuất nổi tiếng với lối sống phóng khoáng, không câu lệ tiểu tiết, dám làm dám chịu, vô cùng thủy chung trong tình yêu và coi trọng gia đình.

Con giap cang lon tuoi cang dep man ma hinh anh 3
 
Chính nét đẹp xuất phát từ nội tâm đã dần được bộc lộ ra khuôn mặt. Chính vì thế, nhìn họ càng lớn tuổi lại càng đẹp kiêu kỳ, mặn mà.

Một số nàng giáp tuổi Tuất tuy gặp không ít trở ngại, thăng trầm trong cuộc sống, tình yêu khi còn trẻ. Nhưng theo thời gian, vận khí được cải thiện tốt hơn, không những vẻ bề ngoài của họ càng ngày xinh xắn, mà giá trị bản thân cũng được nâng cao, ai nấy đều phải “ngả mũ” thán phục, ngưỡng mộ.

Phải chăng cứ không biết là không có tội?
– Nhân gian chính tà bất phân, thiện ác bất minh, “không biết không có tội” chỉ là lời nói dối lừa mị, cách thoái thác tội lỗi mà thôi, hậu
No4. Cô nàng tuổi Tý


Cô nàng tuổi Tý thông minh, lanh lợi, nắm rõ đâu là ưu và nhược điểm của chính mình, để từ đó tìm cách hoàn thiện bản thân. Họ luôn biết cách làm chủ cuộc sống, hiếm khi để mình rơi vào thế bị động.

Theo dòng chảy thời gian, sắc đẹp và giá trị của những cô nàng cầm tinh con Chuột ngày càng được thăng cấp. Họ trở nên quý phái, sang trọng và nắm trong tay quyền lực nhất định, thật đáng để người khác ngưỡng mộ.

Hoàng Lam
 
Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
– Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nữ càng lớn tuổi càng đẹp mặn mà

Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

Là một vật phẩm có tác dụng khắc phục, bảo vệ, hóa giải các lỗi phong thủy nhà ở rất công hiệu, nhưng nếu dùng gương bát quái sai cách thì chủ nhà sẽ phải lãnh
Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hậu quả không ngờ.


Treo guong bat quai sai cach ruoc hoa vao nha hinh anh
 

Treo trong nhà là cách dùng gương bát quái rất sai lầm. Bởi đây là vật có tác dụng phản sát, khuếch tán năng lượng xấu chứ không phải đồ nội thất hay tăng cường phong thủy. Những trường hợp treo gương trong nhà đều phải có ý kiến của thầy phong thủy.

Sai lầm trong cách dùng gương bát quái tiếp theo là treo quá nhiều gương trong nhà, khiến phản tác dụng. Nhà chỉ nên treo hai chiếc gương, một ở mặt trước, một ở mặt sau là đủ. Không phải càng treo nhiều càng tốt.

Gương bát quái có khắc hình thần tướng cưỡi hổ với tay cầm binh khí hay hổ phù ngậm binh khí tạo ra sát khí mạnh. Nếu treo gương này thì hung khí ở khắp nơi cũng kéo đến nhà với sức mạnh áp đảo khiến gương không chống chọi được. Có thể khẳng định, đây là một trong những cách dùng gương bát quái sai lầm nhất, nhiều người mắc phải bởi cho rằng gương bát quái có thần hổ phụ trợ thì càng thêm mạnh.

Bên cạnh đó, có những cách dùng gương bát quái sai tuy không ảnh hưởng tới gia đình mình nhưng có hại cho nhà đối diện như treo gương bát quái khi không cần thiết, treo gương bát quái lồi, treo gương bát quái có hình mũi tên bắn thẳng, hình nòng pháo ở trước cửa,... Như vậy thì bao nhiêu sát khí mà gương phản lại đều chạy thẳng vào nhà đối diện, rất không nên.

Gương bát quái là vật phẩm phong thủy mạnh, không phải cứ mua về treo lên là được, cần có lễ đàng hoàng để phát huy khả năng của nó. Gương mua về nên được bọc kín trong vải đỏ, đặt lên ban thờ, người có chuyên môn sẽ đọc trì chú để khai quang rồi mới tiến hành treo. 

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Đặt tên các bé sinh đôi là một việc rất quan trọng, bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng. Dưới đây là gợi ý cho bạn để các bé yêu có cơ hội được sở hữu những cái tên hay,
3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên các bé sinh đôi là một việc rất quan trọng, bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng. Dưới đây là gợi ý để con bạn có cơ hội được sở hữu những cái tên hay, ý nghĩa trong suốt cuộc đời.

Đặt 2 tên theo dạng có vần
Hầu hết tên gọi của các bé song sinh đều có tên chính hoặc tên đệm giống nhau. Điều này giúp tạo sự gắn kết giữa các bé trong cuộc sống. Vì thế, cha mẹ cũng nên nghĩ đến phương án đặt tên này cho các con.

Theo đó, bạn có thể đặt 2 tên có vần, hay 2 cái tên bắt đầu bằng chữ cái hoặc có cùng một kết thúc tên giống nhau. Chẳng hạn như Tuấn Anh và Tú Anh hoặc Thúy Hằng và Thúy Hạnh, Thanh Minh và Thanh Nhàn...

3 meo hay dat ten cho cap song sinh hinh anh
Việc đặt tên cho bé sinh đôi cần được cân nhắc kỹ lưỡng






Đặt 2 tên hoàn toàn khác biệt
Trong thực tế, nếu 2 bé song sinh có tên gọi hoàn toàn khác biệt nhau sẽ tạo được ấn tượng mạnh hơn. Điều này sẽ giúp phân biệt 2 bé một cách dễ dàng.

Theo đó, bạn hãy đặt tên cho 2 em bé song sinh với 2 cái tên mà âm thanh, hình ảnh hoàn toàn khác nhau. Điều này sẽ tạo nên bản sắc độc đáo cho em bé nhà bạn khi chúng lớn lên sau này.

Không đặt những cái tên quá ngộ nghĩnh
Hãy nhớ rằng 2 em bé sinh đôi sẽ phải lớn lên, sẽ đi học, đi làm và sẽ trở thành những chàng trai hoặc các quý cô xinh đẹp trong tương lai. Vì thế, bạn không nên đặt những cái tên quá ngộ nghĩnh, oái oăm hoặc gây cười vì cái tên có thể là một trở ngại cho con bạn sau này.

Cha mẹ trẻ nên nhớ rằng, đặt tên làm sao để 2 em bé song sinh nhà bạn sẽ không bị bạn bè trêu chọc hoặc để cho chúng luôn cảm thấy tự tin, hãnh diện khi giao tiếp với mọi người.

Theo Socola.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Thế nào là thuật phong thủy –

Thuật phong thủy còn gọi là Kham dư học, Tướng địa thuật, Địa lý, Tướng trạch thuật, Thanh ô, Thanh nang thuật, Hình pháp... là bộ phận tạo nên phương thuật cổ đại Trung Quốc quan trọng, cùng là nội dung quan trọng trong kho tàng văn hóa truyền thông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuật phong thủy còn gọi là Kham dư học, Tướng địa thuật, Địa lý, Tướng trạch thuật, Thanh ô, Thanh nang thuật, Hình pháp… là bộ phận tạo nên phương thuật cổ đại Trung Quốc quan trọng, cùng là nội dung quan trọng trong kho tàng văn hóa truyền thông Trung Quốc.

phongthuy

Kham Dư: Kham là thiên đạo, Dư là địa đạo. Phong thủy khi bắt đầu đã có duyên nợ gắn kết giữa thiên văn lịch pháp và địa lý, ngửa mặt quan sát thiên văn, cúi xuống quan sát địa lý chính là hai đặc trưng cơ bản của bộ môn huyền bí này.

Tướng địa: Là chi quan sát hình thể Đất đai.

Thanh ô: Được lấy tên từ ô tử gia thanh tướng địa đời Hán, còn gọi là Thanh ô tiên sinh.

Thanh nang: Xuất hiện bắt đầu từ Quách Phác thời Đông Tấn có được 9 cuốn Thanh nang và từ đó trước tác ra cuốn sách kinh điển về tướng địa Thanh Nang Kinh.

Nhưng trong dân gian thường gọi là “phong thủy”, từ “phong thủy” này khi mới xuất hiện là ở trong Táng thư của Quách Phác: “Táng giả, thừa sinh khí đã; kinh viết: khí thừa phong tức tán, giới thủy tắc dừng, tụ chỉ khiến bất tán, hành chi khiến hữu dừng, có vị chi phong thủy”. Chính vì vậy mà người sau này coi Quách Phác là bậc thánh triết, tiên hiền của phong thủy học, mà phải phong thủy truyền thừa lại đều tôn Cừu thiên huyền nữ là tôn sư của âm dương viên (cửa phong thủy). Bởi vì theo truyền thuyết thì Cửu thiên huyền nữ đã giúp cho Hoàng đế chiến thắng Hung ưu, giải cứu trăm họ khỏi khốn khố mà đã truyền thụ cho họ số thuật huyền học, trong đó bao gồm thuật phong thủy. Trong thuật phong thủy thì một số nguyên tố lớn quan trọng là:

Phong: Hiện tượng không khí chuyển động.

Thủy: Dòng nước chảy, đường đi.

Khi: ra khi mà địa khí và không trung không thể nhìn thấy.

Ngoài ra còn có những nội dung quan trọng như: Long, cát, huyệt, thủy, toà hướng…

Những người có học thời xưa đều thông hiểu phong thủy, rất nhiều đại quan thậm chí còn đặt đến mức độ tinh thông phong thủy, thời tiên Tần ờ Trung Hoa là thời kỳ thai nghén của phong thủy học: thời kỳ Nguy Tề Nam Bắc Triều, phong thủy học đã được truyền bá; thời nhà Tống là thời kỳ thịnh hành của phong thủy: thời kỳ Minh Thanh thì mọi người không ai không biết đến phong thủy.

Trong lịch sử cận đại, phong thủy học rất thịnh hành ở Trung Quốc, sau khi giải phóng và thời kỳ Cách mạng văn hoá, phong thủy học của Trung Quốc đã phải chịu sự tấn công và phá vỡ của ngọn lửa cách mạng lúc bấy giờ: nhưng trong thực tiễn dân gian, vẫn còn tiềm tàng những cao nhân và thị trường vận dụng phong thủy học. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành kiến trúc xây dựng và môi trường học sinh thái, quan điểm quốc tế cũng hết sức coi trọng phong thủy học, khiến cho phong thủy học một môn khoa học lâu đời lại có thể phát triển lên và bừng lên sức sống mới.

Người xưa đã nói: “Bù ô bất tinh, điều vu nhất sự: y được bất tinh, hại vu nhất nhân: địa lý bất tinh, khuynh gia diệt tộc” (Làm việc không suy nghĩ thì hỏng một việc, làm thuốc không giỏi thì chết một người, thầy Phong thủy không giỏi thì hại chết một dòng họ). Có thể thấy rằng thuật phong thủy trong lòng mọi người chiếm một vị trí quan trọng như thế nào.

Chính vì vậy, thuật phong thủy thực chất là một loại quan niệm văn hoá truyền thống, một loại dân tục lưu truyền rộng rãi, một môn số thuật tránh hung tìm cát, một môn học vấn có liên quan môi trường và con người. Từ góc độ lý luận khoa học hiện đại xem xét, phong thủy học là một môn khoa học tổng hợp của vật lý học địa cầu, địa chất học, cảnh quan môi trường học, kiến trúc sinh thái tự nhiên, phương vị vận hành thiên thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nào là thuật phong thủy –

Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

Lòng bàn chân phẳng hay lõm, ngón chân cái hay ngón trỏ dài hơn... đều có thể cho biết những điều bất ngờ về chủ nhân của nó.
Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

foot2-7675-1409895300.jpg

Theo Vnexpress


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lắng nghe bàn chân bật mí tính cách chủ nhân

3 cách xác định Tài vị trong nhà chuẩn không cần chỉnh

Tài vị hay vị trí thờ thần Tài trong nhà là một trong những vị trí đặc biệt quan trọng. Biết cách xác định Tài vị sẽ giúp việc chiêu tài, tụ lộc có hiệu quả
3 cách xác định Tài vị trong nhà chuẩn không cần chỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tốt hơn.


3 cach xac dinh Tai vi trong nha chuan khong can chinh hinh anh
 
Phong thủy chia làm 3 trường phái lớn: Bát Trạch, Huyền Không và Mệnh Lý. Mỗi trường phái có cách xác định Tài vị khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, bạn có thể lựa chọn cách phù hợp với mình để áp dụng.
1. Phái Bát Trạch
 
Phong thủy Bát Trạch xác định vị trí thờ thần Tài trong nhà khá đơn giản, lấy cửa chính là cơ sở. Một ngôi nhà có thể có một tới hai tài vị, tùy theo cửa chính.
 
Nếu cửa nhà nằm chính giữa căn nhà thì sẽ có hai Tài vị là 2 góc đáy nhà.

3 cach xac dinh Tai vi trong nha chuan khong can chinh hinh anh
 
Nếu cửa nhà nằm lệch về một bên so với ngôi nhà thì Tài vị sẽ nằm tại vị trí chéo góc với cửa nhà, cửa nhà nằm lệch bên trái thì tài vị nằm tại góc đáy bên phải của ngôi nhà, cửa nhà nằm lệch bên phải thì góc đáy bên trái chính là tài vị. 
 
3 cach xac dinh Tai vi trong nha chuan khong can chinh hinh anh
 
Cách xác định vị trí phát tài trong nhà này khá đơn giản, ai cũng có thể dễ dàng làm được, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia thì hiệu quả hơi kém một chút so với hai phái còn lại.
 
2. Phái Huyền Không
 
Cách xác định Tài vị theo phái Huyền Không phức tạp hơn, chủ yếu dành cho người có am hiểu sâu về phong thủy và mang lại hiệu quả chiêu tài khá tốt. 
 
Hiện tại đang là giữa vận 8 của hạ nguyên (2004 - 2023), thời kì của sao Bát Bạch đương thời đắc vận. Theo Huyền Không Phi Tinh thì tất cả các cục phong thủy nói chung đều nên đặt các bộ phận quan trọng tại vị trí sao Bát Bạch đương thời đắc vận. Vận 9 ( do sao Cửu Tử chủ quản từ năm 2024 tới năm 2043) là ngôi sao của vận tiếp theo, tiến vận nên cũng được coi là sao mang lại cát tường, tốt lành. 
 
Vì thế, Tài vị được xác định là ở vị trí sao bát Bạch và sao Cửu Tử trên trạch bàn nhà. Dựa vào hướng nhà, chuyên gia phong thủy sẽ đo đạc và vẽ được trạch bàn nhà rồi dựa vào đó bố trí các vị trí của 9 ngôi sao từ 1 đến 9. Cách vẽ trạch bàn rất phức tạp và chuyên môn, người không chuyên sâu thì khó có thể làm được, nên tốt nhất là mời thầy phong thủy tới trợ giúp.
  
Tuổi Tỵ tuyệt đối không nên hợp tác với con giáp nào?
Theo tử vi, tuổi Tỵ và tuổi Dần vốn tứ hành xung, hợp thì ít mà xung thì nhiều, hai bên tính cách trái ngược, chí hướng và quan niệm cũng

3. Phái Mệnh Lý

 
Trong các phái thì cách xác định Tài vị của Phái Mệnh Lý cho hiệu quả mạnh nhất, mang tới sung túc và thành công cho gia chủ, cũng là cách khó xem nhất.
 
Tài vị theo Mệnh Lý học chính là vị trí đại diện cho Thiên Tài và Chính Tài trong lục thân. Trước tiên xác định can chi ngày sinh của gia chủ rồi dựa vào đó để xác định Tài vị. 

3 cach xac dinh Tai vi trong nha chuan khong can chinh hinh anh
 
Với can ngày là Giáp hoặc Ất thì Tài vị nằm tại vị trí cung Thìn (từ 112,5 tới 127,5 độ) và Tuất (292,5 tới 307,5 độ).
 
Với can ngày là Bính hoặc Đinh thì Tài vị nằm tại vị trí cung Thân, Dậu, Canh, Tân (232,5 tới 292,5 độ).
 
Với can ngày là Mậu hoặc Kỷ thì Tài vị nằm tại vị trí cung Hợi, Tí, Quý, Nhâm (322,5 độ tới 22,5 độ).
 
Với can ngày là Canh hoặc Tân thì Tài vị nằm tại vị trí cung Dần, Mão, Giáp, Ất (52,5 độ tới 112,5 độ).
 
Với can ngày là Nhâm hoặc Quý thì Tài vị nằm tại vị trí cung Tị, Ngọ, Bính Đinh (142,5 tới 202,5 độ).
 
Chú ý lấy tâm nhà làm gốc tọa độ để đo đạc.
 
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Trần Hồng

Xem Clip Ăn ở phúc đức, không lo đói kém

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 cách xác định Tài vị trong nhà chuẩn không cần chỉnh

Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Máy tính có mặt trong hầu khắp các ngôi nhà. Đặt máy tính hợp phong thủy sẽ góp phần làm cho ngôi nhà tăng may giảm rủi, tránh những điều xấu không đáng có.
Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Máy tính có mặt trong hầu khắp các ngôi nhà. Đặt máy tính hợp phong thủy sẽ góp phần làm cho ngôi nhà tăng may giảm rủi, tránh những điều xấu không đáng có.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

 
Theo quan niệm phong thủy, bên phải là Bạch Hổ, bên trái là Thanh Long, Long sợ xú uế, Hổ sợ động. Máy tính đặt ở bên phải – hướng Bạch Hổ sẽ bất lợi, nên đặt máy tính ở phía bên trái bàn làm việc.
 
Tương tự như gương hay màn hình tivi, tránh để màn hình máy tính đối diện với giường ngủ vì sẽ ảnh hưởng đến tinh thần con người và chất lượng giấc ngủ. Màn hình máy tính như đối tượng thứ ba chen vào cuộc sống gia đình bạn, đặt ở thế ấy là lỗi phong thủy nặng, khiến vợ chồng lục đục. Nếu không di chuyển được vị trí đặt máy tính hợp phong thủy hơn thì sau khi dùng phải lấy vải phủ lên.
 
Vị trí đặt máy tính hợp phong thủy là không đối diện cửa sổ, cửa ban công, cửa chính để tránh ánh sáng chiếu trực diện. Ở thế ấy thì gia chủ bị soi mói, gặp thị phi, điều tiếng. Cũng tối kị đặt máy tính ở góc tối, thiếu sáng, vừa không tốt cho mắt khi làm việc lại dễ khiến chủ nhân rơi vào trạng thái bất an, trầm uất.
 
Máy tính thuộc Hỏa, khi đặt gần nơi có nước như bể cá, tiểu cảnh, bình hoa,…sẽ gây nên tình trạng Thủy – Hỏa tương khắc, bất lợi cho chủ nhân, gây xung đột và tai họa bất ngờ trong nhà.
 
Vị trí xung quanh máy tính cũng như bàn làm việc cần luôn giữ gọn gàng, sạch sẽ. Tình trạng bừa bộn sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung cho công việc.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Xem tuổi có con –

Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ là điều ai cũng mong muốn, không chỉ vì sự tốt đẹp cho con cái mà còn là phúc lộc cho cả gia đình. Chính vì vậy, những năm Dê Vàng, Lợn Vàng hay Trâu Vàng khiến tỷ lệ sinh con tăng vọt bởi ai cũng nghĩ rằng đó là năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tốt. Nhưng có thật sự là ai sinh vào năm đó cũng tốt không?

Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Ngũ Hành

Ngũ Hành của bản mệnh là yếu tố đầu tiên được xem xét đến khi chọn năm sinh con. Quy luật tương sinh tương khắc của Ngũ Hành rất đơn giản và dễ nhớ:

  • Kim sinh Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ – Thổ sinh Kim
  • Kim khắc Mộc – Mộc khắc Thổ – Thổ khắc Thủy – Thủy khắc Hỏa – Hỏa khắc Kim

ngu-hanh1

 

 

Như vậy, khi sinh con cần lựa chọn năm sinh để con không khắc với bố mẹ và ngược lại. Ví dụ: Bố mệnh Kim, mẹ mệnh Hỏa thì có thể chọn con sinh năm có bản mệnh Thổ là hợp tương sinh nhất.

Thông thường con khắc bố mẹ gọi là Tiểu Hung, bố mẹ khắc con là Đại Hung, nếu không tránh được Hung thì nên chọn Tiểu Hung sẽ đỡ xấu rất nhiều.

Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Thiên Can

Thiên Can (hay còn gọi là Can) là cách đánh số theo chu kỳ 10 năm (Thập Can) của người Trung Hoa cổ. Can cũng phối hợp được với Ngũ Hành và Âm Dương:

Can Năm Hành Âm – Dương
Giáp Cuối cùng là 4 (94,04,14…) Mộc Dương
Ất Cuối cùng là 5 (95,05,15…) Mộc Âm
Bính Cuối cùng là 6 (96,06,16…) Hỏa Dương
Đinh Cuối cùng là 7 (97,07,17…) Hỏa Âm
Mậu Cuối cùng là 8 (98,08,18…) Thổ Dương
Kỷ Cuối cùng là 9 (99,09,19…) Thổ Âm
Canh Cuối cùng là 0 (00,10,20…) Kim Dương
Tân Cuối cùng là 1 (01,11,21…) Kim Âm
Nhâm Cuối cùng là 2 (02,12,22…) Thủy Dương
Quý Cuối cùng là 3 (03,13,23…) Thủy Âm

Trong Thiên Can có 4 cặp tương xung (xấu) và 5 cặp tương hóa (tốt), làm cơ sở để lựa chọn năm sinh phù hợp:

4 cặp tương xung (xấu) 5 cặp tương hóa (tốt)
  • Giáp xung Canh
  • Ất xung Tân
  • Bính xung Nhâm
  • Đinh xung Quý
  • Giáp – Kỷ hoá Thổ
  • Át – Canh hoá Kim
  • Bính – Tân hoá Thuỷ
  • Đinh – Nhâm hoá Mộc
  • Mậu – Quý hoá Hoả

Như vậy, năm sinh của con sẽ có thể dùng Thiên Can để so với bố mẹ dựa vào các cặp tương xung và tương hóa. Nếu Thiên Can của con và bố mẹ có tương hóa mà không có tương xung là tốt, ngược lại là không tốt. Ví dụ: Bố sinh năm 1979 (Kỷ Mùi), mẹ sinh 1981 (Tân Dậu), con sinh 2010 (Canh Dần) thì bố mẹ và con không có tương xung cũng như tương hóa và ở mức bình thường.

Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Địa Chi

Địa Chi (hay còn gọi là Chi) là cách đánh số theo chu kỳ 12 năm (Thập Nhị Chi) và nói đơn giản là 12 con giáp cho các năm. Chi từng được dùng để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm, giờ ngày xưa và Chi gắn liền với văn hóa phương Đông.

Khi xem hợp – xung theo Chi, có các nguyên tắc cơ bản sau:

  • Tương hình (12 Địa Chi có 8 Chi nằm trong 3 loại chống đối)
  • Lục xung (6 cặp tương xung)
  • Tương hại (6 cặp tương hại)
  • Lục hợp (các Địa Chi hợp Ngũ Hành)
  • Tam hợp (các nhóm hợp nhau)

Tương hình: 
– Tý chống Mão

– Dần, Tỵ, Thân chống nhau

– Sửu, Mùi, Tuất chống nhau

– Hai loại tự hình: Thìn chống Thìn, Ngọ chống Ngọ.

Lục xung:

– Tý xung Ngọ (+Thuỷ xung + Hoả)

– Dần xung Thân (+ Mộc xung + Kim)

– Mão xung Dậu (-Mộc xung -Kim)

– Thìn xung Tuất (+Thổ xung +Thổ)

– Tỵ xung Hợi (-Hoả xung -Thuỷ)

Tương hại:

– Tý hại Mùi

– Sửu hại Ngọ

– Dần hại Tỵ

– Mão hại Thìn

– Thân hại Hợi

– Dậu hại Tuất

Thông thường để đơn giản trong Tương Hình, Lục Xung, người ta thường ghép thành 3 bộ xung nhau gọi là Tứ Hành Xung:

  • Dần – Thân – Tỵ – Hợi
  • Tí – Dậu – Mão – Ngọ
  • Thìn – Tuất – Sửu – Mùi

Tuy nhiên cũng không hoàn toàn chính xác. Ví dụ: Dần và Hợi không xung, Mão và Ngọ không xung, Ngọ và Dậu không xung, Tí và Dậu không xung, Thìn và Mùi không xung, Thìn và Sửu không xung.

Lục hợp Tam hợp
  • Tý-Sửu hợp Thổ
  • Dần-Hợi hợp Mộc
  • Mão-Tuất hợp Hoả
  • Thìn-Dậu hợp Kim
  • Thân-Tỵ hợp Thuỷ
  • Ngọ-Mùi: Thái dương hợp Thái âm.
  • Thân-Tí-Thìn hoá Thuỷ cục
  • Hợi-Mão-Mùi hoá Mộc cục
  • Dần-Ngọ-Tuất hoá Hoả cục
  • Tỵ-Dậu-Sửu hoá Kim cục

Như vậy, nếu dựa theo Địa Chi, việc chọn năm sinh, tuổi sinh cần chọn Lục Hợp, Tam Hợp và tránh Hình, Xung, Hại. Ví dụ: Bố tuổi Dần thì tránh con tuổi Thân, Tỵ, Hợi sẽ tránh được Xung của Địa Chi.

Nói tóm lại, lựa chọn năm sinh con để hợp tuổi bố mẹ có thể dựa vào Ngũ Hành, Thiên Can hoặc Địa Chi, cũng có thể dựa vào cả 3 yếu tố trên và lựa chọn phương án tốt nhất. Tuy nhiên, các yếu tố này cũng chỉ là một phần trong cuộc đời con người, cũng có nhiều trường hợp bố mẹ khó chọn được 1 dải năm để sinh con hợp tuổi do vậy không nên nhất thiết phải chọn năm để sinh, còn rất nhiều yếu tố khác như môi trường, xã hội, gia đình… hay kể cả về lý số cũng còn yếu tố Tử Vi để xem hung cát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi có con –

Hóa giải nhân duyên không thuận lợi từ gốc đến ngọn

Những cách hóa giải nhân duyên không thuận lợi đưới đây sẽ giúp bạn giải quyết mọi lo lắng về tình cảm.
Hóa giải nhân duyên không thuận lợi từ gốc đến ngọn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đường tình duyên của một người quyết định rất nhiều tới sự hạnh phúc hay khổ đau của cả đời người đó. Những cách hóa giải nhân duyên không thuận lợi dưới đây sẽ giúp bạn giải quyết mọi lo lắng về tình cảm.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Hoa giai nhan duyen khong thuan loi tu goc den ngon hinh anh
 
Đường tình duyên không thuận lợi có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng từ cách nhìn siêu hình thì có 4 nguyên nhân chính: phạm lỗi phong thủy suy đào hoa, bát tự vượng đào hoa, âm dương không thuận, sao xấu chiếu mệnh.   1. Phạm lỗi phong thủy suy đào hoa   Phong thuỷ ngôi nhà có liên quan mật thiết tới chủ nhân, phong thủy không tốt sẽ dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Ví dụ, gương đối diện giường ngủ, vợ chồng hay tranh cãi, nghi ngờ, không tin tưởng lẫn nhau; giường ngủ đặt ở hướng xấu với bản mệnh, vợ chồng mất ngủ, buồn phiền, không bao dung lẫn nhau; phòng ngủ quá nhỏ, vợ chồng hay xung đột, thiếu nhẫn nại; phòng ngủ quá rộng, tình cảm của vợ chồng lạnh nhạt.   Ánh sáng trong phòng ngủ không đủ, vợ chồng hay nghĩ lung tung; dây điện vắt ngang qua cửa sổ phòng ngủ, vợ chồng "đồng sàng dị mộng", có cũng như không; nhà vệ sinh trong phòng ngủ, vợ chồng sức khỏe không tốt, dễ mắc các bệnh có liên quan đến hệ bài tiết và sinh sản.    Khi gặp phải các trường hợp trên, tốt nhất là thay đổi phong thuỷ trong nhà để hóa giải nhân duyên không thuận lợi. Một mặt sửa những lỗi phong thủy suy đào hoa mắc phải, mặt khác bài trí nhà cửa, phòng ngủ để kích thích đào hoa. Thông qua việc hiểu rõ về sự thay đổi của phong thuỷ và ngũ hành chắc chắn sẽ có tác dụng.   2. Bát tự vượng đào hoa   Người có bát tự vượng đào hoa thì đời sống tình cảm phong phú, nhưng không phải lúc nào đây cũng là chuyện tốt. Nếu đào hoa quá vượng thì người phụ nữ phong tình, không chính chuyên, luôn mong muốn có nhiều cuộc tình; người đàn ông có tà tâm, dục vọng và dễ xâm hại phụ nữ. Kết duyên vợ chồng với những người trên thì cuộc sống hôn nhân khó có hạnh phúc, chung thủy dài lâu.   Vì vậy, nên cắt vận đào hoa của người lâm vào trường hợp trên. Cách xa khu giải trí xa hoa, tránh một mình tiếp xúc với người khác giới; xin bùa chú cắt vận đào hoa; bày trong nhà những đồ vật khắc số đào hoa.   Làm 3 điều này, thoát ngay kiếp ế
Bạn tìm mãi vẫn chưa thấy ý trung nhân? Bạn ăn diện mà chưa có đối tượng nào để ý? Ấy là vì bạn chưa biết các mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa đấy thôi.
3. Âm dương không thuận
  Vợ chồng hay cãi cọ, không hợp ý, chiến tranh lạnh, đồng sàng dị mộng, giận dỗi lẫn nhau, quan hệ mẹ chồng nàng dâu không tốt, gia đình mâu thuẫn  là do âm dương sai khác, Lưu Hà Kiếp Sát gây nên.
Phương pháp giúp vợ chồng hòa thuận là tích đức, làm điều thiện, gieo nghiệp lành để nhận được nhân tốt; dùng cây cối có linh khí cân bằng âm dương; xin bùa chú phá tà, chuyển họa thành phúc.   4. Sao xấu chiếu mệnh   Cô Thần, Quả Tú là hai sao xấu đối với đời sống tình cảm. Người mà trong lá số tử vi gặp hai sao này sẽ muộn chồng muộn vợ, cả đời cô đơn, không gặp được duyên phận, buồn khổ vì tình yêu.   Để thúc đẩy đào hoa, xua tan xui xẻo của hai sao xấu này, hãy theo đuổi nghề người khác giới hay làm; sử dụng đồ vật 12 con giáp hóa giải thần sát; xin bùa chú có lợi cho hôn nhân, chắc chắn tâm nguyện sẽ sớm thành hiện thực.
Chi Nguyễn (theo 14944)

Xem Clip Nhân duyên vợ chồng, một đời một kiếp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải nhân duyên không thuận lợi từ gốc đến ngọn

Cẩn thận khi bố trí phòng lò đun trong phòng bếp –

Phong thuỷ học cho rằng, thực phẩm là nguồn sống, phong thuỷ phòng bếp hết sức quan trọng. Nếu phong thuỷ không tốt, một là có thể làm cho gia trạch bất an; hai là có thể ảnh hưởng đến sức khoỏ tinh thần và thể xác; ba là có thể hao tổn tài vận. Cho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nên chọn và bố trí bếp đun trong phòng bếp phải hết sức thận trọng. Bếp đun là nguồn tạo dinh dưỡng cho cơ thể. Sức khoẻ là tất cả. Làm thế nào nắm chắc các yếu tố như bố trí hợp lý phòng bếp, bếp đun, cân bằng ngũ hành, đúng hướng, màu sắc hài hoà, thông gió lợp lí khi tu sửa phòng bếp là vấn đề phải được coi trọng. Nếu chọn được hướng đặt bếp tốt sẽ bù đắp được những khiếm khuyết ngũ hành của vận số, có thể giúp vận nhà bạn ngày càng hưng vượng.
Thiết kế hướng, bố cục bài trí bên trong và màu sắc của phòng bếp là những nhân tố rất quan trọng, nếu có thể phối hợp hướng của bếp với mệnh vận của gia chủ thì có thể làm tăng vận trình tốt, mọi sự trong nhà như ý, càng ở càng hưng vượng. Phong thuỷ học cho rằng, màu sắc tổng thể của phòng bếp nếu hợp với mệnh, trạch, hướng sẽ có lợi cho sức khoẻ gia chủ.

Noi-that-phong-bep02

(1) Cấm kị đô với bếp đun

Vị trí đặt bếp đun không dược thẳng với cửa và lối đi, nếu không sẽ dễ sinh ra những điều tranh cãi.
Bếp đun không được đặt thẳng dưới xà nhà, nếu không trong nhà sẽ không được yên ổn (đầu phát nóng sốt).
Bếp đun không được đối xứng với tủ lạnh, vì nóng lạnh bất hoà (dễ mất tài sản).
Bếp đun không được đối diện cửa phòng vệ sinh, nếu không sẽ sinh nhiều bệnh tật.
Bếp đun không được đặt chiếu thắng với góc tường, nếu không thắt lưng sẽ bị đau mỏi (phía sau bếp có cửa chọc thẳng vào cũng vậy).
Mặt ngoài phía sau bếp không được chiếu thẳng với góc nhà người khác, mắc bệnh tim (chảy máu cam không ngớt).
Hai bên bếp đun không chiếu thẳng với cửa, bên dưới bếp không được để đồ muối, đồ ướp.
Bàn bếp không được đặt trên ban công (chênh vênh trên trống dưới không).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩn thận khi bố trí phòng lò đun trong phòng bếp –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd