Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao –

Kim Ngưu thích hợp làm giáo viên, kế toán, hay đầu bếp. Song Ngư thích hợp làm nghệ sĩ, bác sĩ... Những chòm sao khác thì sao? bạn đang tò mò điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao ngay trong bài viết dư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim Ngưu thích hợp làm giáo viên, kế toán, hay đầu bếp. Song Ngư thích hợp làm nghệ sĩ, bác sĩ… Những chòm sao khác thì sao? bạn đang tò mò điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao ngay trong bài viết dưới đây.

Nội dung

  • 1 Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao
    • 1.1 Bạch Dương (21/3 – 19/4)
    • 1.2 Kim Ngưu (20/4 – 20/5)
    • 1.3 Song Tử (21/5 – 21/6)
    • 1.4 Cự Giải (22/6 – 22/7)
    • 1.5 Sư Tử (23/7 – 22/8)
    • 1.6 Xử Nữ (23/8 – 22/9)
    • 1.7 Thiên Bình (23/9 – 23/10)
    • 1.8 Thiên Yết (24/10 – 21/11)
    • 1.9 Nhân Mã (22/11 – 21/12)
    • 1.10 Ma Kết (22/12 – 19/1)
    • 1.11 Bảo Bình (20/1 – 18/2)
    • 1.12 Song Ngư (19/2 – 20/3)

Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao

1-4153-1400298534

Bạch Dương (21/3 – 19/4)

Bạch Dương là cung dẫn đầu nhóm Lửa với tính cách tự tin, năng động. Họ là người luôn vươn lên để giành lấy chiến thắng trong mọi hoàn cảnh, không thích bị người khác kiểm soát, kiềm hãm. Chính vì những tính cách này, Bạch Dương thường làm lãnh đạo- một người sếp tự tin là đây.
Công việc phù hợp: doanh nhân, nha sĩ, bác sĩ, vận động viên, lính cứu hỏa và các công việc liên quan đến máy móc, cơ khí.

Kim Ngưu (20/4 – 20/5)

Kim Ngưu là người thực tế và có khả năng làm việc nhóm tốt, họ là những người có ý chí mạnh mẽ, dẫn dắt, tạo cảm hứng cho người khác. Hơn nữa, Kim Ngưu còn là những người hiểu biết sâu rộng, có thể giỏi ở mọi lĩnh vực, từ nghệ thuật cho đến kinh doanh. Dù luôn là người vui vẻ, dễ chịu, họ vẫn khá cứng đầu, khó thuyết phục.
Công việc phù hợp: kế toán, nhân viên ngân hàng, nghệ sĩ, nhạc sĩ và thậm chí là cả người làm vườn.

Song Tử (21/5 – 21/6)

Song Tử là người hoạt ngôn và có nhiều ý tưởng trong công việc. Họ không những nhanh chóng có được mối quan hệ mà còn giữ mối quan hệ rất tốt. Hơn hết, Song Tử lại là người thích được chia sẻ với người khác, biết tạo niềm vui cho công việc của mình.
Công việc phù hợp: nhà thám hiểm, quan hệ công chúng, nhà văn, thương gia hay dịch giả.

Cự Giải (22/6 – 22/7)

Cự Giải được xem là một tay làm việc cừ khôi, mọi vấn đề sẽ nhanh chóng được họ giải quyết nhanh gọn. Cự Giải nắm bắt thị trường kinh doanh khá tốt, họ luôn biết cách để sắp xếp ổn thỏa cho đối tác đôi bên. Tuy vậy, Cự Giải cũng là một tay hài hước, nhạy cảm và biết quan tâm chia sẻ.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, nhà nghiên cứu dinh dưỡng, đầu bếp hoặc nhà môi giới là những công việc thích hợp với họ.

Sư Tử (23/7 – 22/8)

Sư Tử được xem là trung tâm của vũ trụ (hay ít ra là Sư Tử nghĩ vậy), Sư Tử luôn đề cao giá trị bản thân và luôn phấn đấu làm việc để công việc luôn hiệu quả, xứng đáng với “thương hiệu” của họ. Sư Tử có thể là người chấp nhận mạo hiểm để có thể hoàn thành công việc tốt nhất. Vì vậy có thể nói, không có công việc nào mà Sư Tử không giải quyết được. Hơn nữa, họ luôn tích cực và lạc quan, vui vẻ với mọi người.
Công việc phù hợp: nhà quản lý, giáo viên, kiến trúc sư, nhà phát minh, vận động viên và các lãnh đạo.

Xử Nữ (23/8 – 22/9)

Xử Nữ là người kỹ tính, ngăn nắp, có trách nhiệm với những nhiệm vụ mình được giao. Họ độc lập và luôn thích hành động riêng lẻ. Như người bạn Kim Ngưu cùng nhóm, Xử Nữ là người thực tế và sống có mục tiêu chi tiết, rõ ràng. Họ biết cách giải quyết vấn đề, sáng suốt và tinh tường để luôn thành công.
Công việc phù hợp: chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ, nhà hóa học, nhà quản lý, doanh nhân, điều tra viên hoặc là cả nhà nghiên cứu sinh dưỡng.

Thiên Bình (23/9 – 23/10)

Thiên Bình là một con người công bằng, họ luôn biết cách hoàn thành nhiệm vụ thật đúng đắn. Họ thích sự bình đẳng trong một tập thể, vì thế khi làm lãnh đạo, Thiên Bình sẽ luôn cư xử chan hòa với mọi người để thành phẩm có thể xứng đáng nhất.
Thiên Bình hòa đồng và giàu ý tưởng, họ giỏi giao tiếp và thân thiện với mọi người. Vì thế, mọi người đều cảm thấy thoải mái khi Thiên Bình ở cạnh.
Công việc phù hợp: nhà ngoại giao, nhà quan hệ công chúng, thẩm phán, chuyên gia tư vấn, nhà tâm lý học và nghệ sĩ.

Thiên Yết (24/10 – 21/11)

Thiên Yết rất sẵn lòng giúp cho những người cần sự giúp đỡ, họ luôn mang đến nguồn hy vọng cho mọi người. Họ có trách nhiệm và luôn tập trung ý chí, năng lực để hoàn thành công việc được giao. Hơn nữa, họ lại có sức chịu đựng và quyết tâm lớn. Thiên Yết cũng là người khéo léo, nghĩ nhiều, nói khi cần thiết. Tuy nhiên, họ lại là người có khá ít kiên nhẫn.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, nhà điều tra, nhà quản lý, kỹ sư, nhà khám phá hàng hải và thám tử tư.

Nhân Mã (22/11 – 21/12)

Nhân Mã là người tận tâm với công việc, hòa đồng, vui tính. Nỗ lực hết mình là mục tiêu mà họ luôn đề ra trong công việc. Cũng như Kim Ngưu, Nhân Mã làm việc nhóm khá tốt. Nhân Mã cũng là người lạc quan, tin vào tương lai tươi đẹp. Họ là người có chính kiến và ít khi bị người khác ảnh hưởng.
Công việc phù hợp: thương nhân, du lịch, nhiếp ảnh gia, nhà thám hiểm, giáo sư hay thậm chí là các đại sứ.

Ma Kết (22/12 – 19/1)

Ma Kết là người thiết thực nhưng hơi bảo thủ, họ chăm chỉ và kiên nhẫn vô cùng. Những người thuộc cung này luôn hiểu nhiệm vụ mình cần làm là gì và có trách nhiệm với nó. Họ làm việc độc lập và biết hi sinh vì đồng đội. Ma Kết là người sống có nguyên tắc, trật tự và yêu cầu sự tôn trọng lẫn nhau.
Công việc phù hợp: Chuyên gia máy tính, nhà quản lý, điều hành, quản trị viên và kỹ sư.

Bảo Bình (20/1 – 18/2)

Bảo Bình là người tốt bụng và hòa đồng, có nhiều bạn bè bên cạnh. Họ khá duy tâm và tin vào trực giác. Họ thích làm từ thiện và giúp đỡ mọi người. Tuy nhiên, Bảo Bình không hề yếu đuối mà luôn thích giải quyết những khó khăn thử thách. Họ luôn trau dồi phẩm chất và kỹ năng để hoàn thiện mình. Bảo Bình là người có khả năng xóa bỏ lằn ranh giữa công việc và vui chơi, vì thế họ luôn thoải mái và giàu sáng tạo, chẳng biết chán là gì.
Công việc phù hợp: nhà văn, nhà khoa học, chính trị gia, phi hành gia, nghệ sĩ và nhà chiêm tinh học.

Song Ngư (19/2 – 20/3)

Song Ngư là người có nhiều mơ ước, hoài bão. Họ thường làm những gì họ thấy tốt cho mình. Họ thường suy nghĩ là lý tưởng hóa mọi việc. Trực giác của họ cũng khá tốt, họ thích yêu thương và luôn tự kiểm soát cuộc sống theo ý mình. Họ hay cảm thông và thích giúp đỡ người khác.
Công việc phù hợp: nghệ sĩ, bác sĩ, nhà sinh vật học, nhạc sĩ, nhà tâm lý học.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao –

Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau trên cơ thể lại mang tới những điềm báo may mắn hay xui rủi về tài lộc. Nếu sở hữu những kiểu nốt ruồi dưới đây, bạn nên
Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau trên cơ thể lại mang tới những điềm báo may mắn hay xui rủi về tài lộc. Nếu sở hữu những kiểu nốt ruồi dưới đây, bạn nên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận những thay đổi bất ngờ về tiền bạc.
 


1. Nốt ruồi trên sống mũi   Trong nhân tướng học, mũi là cung Tài Bạch, chủ về tài lộc, tiền bạc. Sống mũi là vị trí có mối liên quan tới tài vận. Sống mũi có tướng nốt ruồi hung (nốt ruồi màu nâu, vàng, sắc khí không tốt) thì tài vận đi xuống.   Nếu thấy nốt ruồi này xuất hiện, bạn nên hành sự cẩn trọng, nhiều khi tưởng chừng thành công đã nằm trong tay rồi nhưng thực ra nó lại ở khá xa. Đây chính là một trong những nốt ruồi ảnh hưởng đến tài vận trên cơ thể.
Nhung not ruoi anh huong tai van tren co the hinh anh
 
2. Nốt ruồi ở vai, bả vai   Vai, bả vai tượng trưng cho sự gánh vác, tinh thần trách nhiệm. Vị trí này có nốt ruồi, chứng tỏ chủ nhân thuộc tuýp có tinh thần trách nhiệm cao, thường gánh vác trọng trách của cả gia đình, tập thể.    Cuộc sống của người này cũng khá vất vả, trải qua không ít thăng trầm, sóng gió mới gặt hái được thành quả. Tài vận tăng dần theo độ tuổi, nhất là vào trung vận (ngoài 30 tuổi).   3. Nốt ruồi Kim quỹ   Nốt ruồi ở Kim quỹ hay còn gọi là Tài khố, là vị trí cạnh bầu ngực và hõm nách. Đây được coi là nốt ruồi cát, mang lại vận may về tài lộc.  
Nhung not ruoi anh huong tai van tren co the hinh anh 2
 
Trước đây, ở các tiệm cầm đồ hoặc trong các gia đình quyền quý, người ta thường hay cất giữ tiền vào chiếc túi vải nhét vào nách cho kín đáo và đỡ bị trộm cắp. Ngày nay, người ta ví rằng, có nốt ruồi ở nách, cũng chẳng khác nào bạn đang kẹp một chiếc ví dầy cứng trong người.    Người nào có nốt ruồi ở vị trí này đa phần sinh trưởng trong gia đình giàu có, khi trưởng thành được sống sung sướng, không mấy khi phải lo lắng đến chuyện tiền nong.    4. Nốt ruồi ở khuỷu tay   Tại khuỷu tay có nốt ruồi, nếu là nốt ruồi cát (đỏ son, đen đậm và bóng) thì tài lộc vượng, cuộc sống giàu sang phú quý, cơ hội kiếm tiền nhiều, danh vọng, sự nghiệp đều hanh thông, thoáng đạt.   5. Nốt ruồi ở rốn   Nếu ở phía dưới rốn (khoảng cách 2-3 đốt ngón tay) có nốt ruồi, chứng tỏ chủ nhân có cuộc sống sung túc, cả đời không lo gánh nặng cơm áo gạo tiền. Vì vùng bụng dưới này tượng trưng cho việc ăn uống no đủ, kinh tế dư dả.    Nếu nốt ruồi mọc ở trong rốn, hứa hẹn mang tới nhiều may mắn về tài lộc. Cuộc sống của chủ nhân không phú thì quý, thỏa mãn về vật chất.   Việt Hoàng
Giải mã vận trình qua nốt ruồi ở bàn chân
Ai cũng có nốt ruồi, và cũng không ít người có nốt ruồi ở bàn chân. Có thể là do sắc tố da ảnh hưởng tới sự xuất hiện của nốt ruồi nhưng cũng có thể là dấu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nốt ruồi ảnh hưởng tài vận trên cơ thể

Những quy tắc phong thủy 'bất di bất dịch' để giữ vượng khí cho nhà ở

Mọi người tin rằng phong thủy có thể làm các mối quan hệ trở nên tốt hơn, công việc trở nên thuận lợi hơn, và mang lại sự an khang thịnh vượng cho gia chủ. Đây là một số bí quyết phong thuỷ cơ bản mà mọi người cần nhớ:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo triết lý Trung Hoa, phong thủy tạo ra sự cân bằng và hài hòa xung quanh những vật thể sống. Với thời đại này, chúng ta vẫn có thể áp dụng phong thuỷ để tạo để sống trong môi trường tốt hơn, và thân thiện với môi trường.

Phong thủy cổng nhà

Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà.

 nhung quy tac phong thuy 'bat di bat dich' de giu vuong khi cho nha o - 1

Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào.

Cổng tốt nhất là kéo vào khi đi ra, cũng có nghĩa là khi về nhà bạn đẩy cổng vào bên trong nhà. Như thế cái cổng đó mang ý nghĩa chào đón.

Phong thuỷ nhà bếp

Bạn không nên đặt một tấm gương sau bếp, hoặc tấm inox sáng bóng sau lưng bếp như một số người đã hướng dẫn để làm rộng bếp, hay hoá giải bếp ở hướng xấu, để tiện việc lau dọn sạch sẽ,.v.v...Vì họ không am tường hoặc không biết rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến hôn nhân gia đình, bạn có muốn ba mình hay mình có tình nhân, hay có quan hệ ngoài hôn nhân hay không? Tuỳ bạn quyết định.

Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại.

Phong thuỷ Phòng tắm và nhà vệ sinh

Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến, vì có thể thủy là kỵ thần của một hay vài thành viên trong gia đình.

Giữ toilet sạch sẽ, dùng thùng đựng rác có nắp đậy để giữ vệ sinh.

Sàn toilet luôn sạch và khô ráo.

Phong thủy Phòng khách

Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn.

Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt sẽ rất sống động.

 nhung quy tac phong thuy 'bat di bat dich' de giu vuong khi cho nha o - 2

Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa).

Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để lưng ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng.

Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà.

Đồ đạc theo quan niệm phong thuỷ

Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy.

Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà. Nhưng tuyệt đối không làm cản trở hoặc áp chế lối đi vào nhà.

Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà.

Phong thuỷ Cửa và cầu thang

Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau.

Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên, và năng lượng sẽ thoát ra ngoài nhanh hơn (không tụ khí được). Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc bình phong để thay đổi, điều tiết năng lượng.

Phong thuỷ Phòng ngủ

Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy.

 nhung quy tac phong thuy 'bat di bat dich' de giu vuong khi cho nha o - 3

Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn.

Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ.

Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ, vì phòng ngủ lấy tịnh làm chủ, tránh động, ánh sáng chịu ấm.

Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường.

Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những quy tắc phong thủy 'bất di bất dịch' để giữ vượng khí cho nhà ở

Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Người tuổi Dần cũng tài đức vẹn toàn, trong việc kinh doanh cũng có thể tự lập nhưng nếu kết hợp với người tài trí nữa thì thành công đạt được sẽ cao hơn.
Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần luôn mang lại cảm giác dũng mãnh, mạnh mẽ, thái độ quyết đoán.


Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 
Người tuổi Dần cũng khá uy nghiêm, giỏi về quản lý, tự đưa ra quyết sách đúng đắn, thực lực cũng khá, biết cách nắm thời cơ. Tuy nhiên, về kiến thức chuyên môn kinh doanh thì tuổi Dần lại có phần khuyết thiếu.
Vậy, người tuổi Dần có thể hợp tác làm ăn với tuổi nào?   Với tuổi Tý: Không tốt cho lắm, nhanh chóng tan rã hoặc gặp nhiều thất bại.
Với tuổi Sửu: Người tuổi Dần nếu hợp tác với người tuổi Sửu thì việc kinh doanh sẽ gặp nhiều thất bại bởi người tuổi Dần không chấp nhận được thái độ duy vật chất của người tuổi Sửu, trước sau gì cũng tan rã.   Với tuổi Dần: Sự hợp tác không được tốt cho lắm, bởi vì cả đôi bên đều khuyết thiếu thái độ nhân sinh cùng ý tưởng kinh doanh.
Với tuổi Mão: Có thể làm cộng sự, đôi bên bổ trợ cho nhau, người tuổi Dần sẽ cảm thấy có lợi cho mình nên nguyện ý hợp tác nhưng người tuổi Mão thì nên cẩn thận chút, bởi người tuổi Dần tính tình không được tốt cho lắm. Với tuổi Thìn: Người tuổi Thìn và người tuổi Dần nếu hợp tác thì sẽ đạt hiệu quả khá cao bởi cả 2 cùng có năng lực siêu phám, lại có sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, cùng nhau phát triển.

Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 
Với tuổi Tị: Hợp tác không tốt, dễ tan vỡ.   Với tuổi Ngọ: Không nên hợp tác.   Với tuổi Mùi: Có thể hợp tác nhưng không được lâu dài. Với tuổi Thân: Có thể tiến hành hợp tác.   Với tuổi Dậu: Tuyệt đối không thể hợp tác, đôi bên thường có những ý kiến bất đồng, thường xuyên xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn. Nếu có thể hợp tác thì cũng cũng khó đảm bảo ích lợi công bằng cho đôi bên.
Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 

Với tuổi Tuất: Có thể hợp tác nhưng mối quan hệ giữa họ là thiên địch, nên ngoài lĩnh vực kinh doanh thì lĩnh vực nào cũng có thể hợp tác.
  Với tuổi Hợi: Có thể hợp tác ngắn hạn, thời gian dài sẽ xuất hiện nguy cơ, bởi người tuổi Dần luôn có xu hướng uy hiếp người tuổi Hợi nhưng đôi khi chính người tuổi Dần lại không biết hành động của mình ảnh hưởng tới người tuổi Hợi.
 
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Phương Thùy
Người tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Thân hoạt bát, hiếu động, có chủ kiến, tính độc lập cao, với tính cách như vậy, nếu kết hợp làm ăn cùng 12 con giáp thì sao?
Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?
Tuổi Tý độc lập tự cường, rất giỏi nắm bắt và cập nhật thông tin. Vậy, để đạt được thành công trong sự nghiệp thì người tuổi Tý nên kết giao hợp tác với tuổi
Người tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Sửu trời sinh bản tính cần cù, dù năng lực không cao lắm nhưng lại rất được mọi người tin cậy. Người này dù có cố gắng gây dựng sự nghiệp tới đâu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

La bàn trong Phong Thủy

La bàn hay còn gọi là La Kinh, Chân bàn, theo các dữ liệu ghi chép la bàn xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Tống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

La bàn trong Phong Thủy

La bàn trong Phong Thủy

La bàn trong Phong Thủy:

La bàn hay còn gọi là La Kinh, Chân bàn, theo các dữ liệu ghi chép la bàn xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Tống.

La bàn hình tròn, thông thường la bàn chia ra làm 24 phương vị. Về sau trải qua quá trình phát triển dần dần và có nhiều cải biến. Mặt của là bàn ngày càng phức tạp, số lượng các vòng tròn trên la bàn cũng ngày càng nhiều hơn. Thông thường các nhà phong thủy thường dùng la bàn Bát Quái. Loại la bàn này gồm 3 vòng: Vòng ngoài cùng khắc 24 phương vị, vòng giữa khắc 8 cung là: Khảm , Cấn , Chấn, Ly, Khôn, Đoài, Càn. Vòng trong cùng khắc 12 cung: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Ở giữa la bàn là hình vẽ âm dương nửa đen và nửa trắng.

La bàn Bát Quái không chỉ dùng để chỉ phương vị, mà còn dùng để suy đoán cát hung của vận mệnh, năm tháng, ngày giờ.

La bàn là dụng cụ dùng để xác định phương hướng trong không gian nhất định.

La bàn từ hoạt động dựa theo từ trường Trái Đất thì dùng cho xác định các hướng Bắc, Nam, Đông, Tây ở trên mặt Trái Đất. Trên các phi thuyền bay trong vũ trụ thì phải dùng la bàn không từ tính, để định hướng theo một đối tượng chỉ hướng nào đó, ví dụ hướng về phía Mặt Trời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: La bàn trong Phong Thủy

Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Người tuổi Tý được vận đào hoa, trong khi người tuổi Dần lại gặp vận đỏ về tiền bạc.
Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-1
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-2
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-3
Sửu Dần Mão
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-4
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-5
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-6
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-8
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-9
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-10
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Mr.Bull (Theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Lá số tử vi của Lê Thái Tổ –

LÊ THÁI TỔ, VỊ ĐẾ VƯƠNG MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU Thái Tổ khởi nghĩa tại đất Lam Sơn (Thanh Hóa) dòng dã 10 năm đánh đuổi quân Minh sau 13 năm đô hộ khai sáng cho một Triều đại gần 4 thế kỷ (360). Ngài trị vì được 6 năm và thọ có 49 tuổi (50 tuổi là lão, 49

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

LÊ THÁI TỔ, VỊ ĐẾ VƯƠNG MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU

Thái Tổ khởi nghĩa tại đất Lam Sơn (Thanh Hóa) dòng dã 10 năm đánh đuổi quân Minh sau 13 năm đô hộ khai sáng cho một Triều đại gần 4 thế kỷ (360). Ngài trị vì được 6 năm và thọ có 49 tuổi (50 tuổi là lão, 49 tuổi là yểu).

Nói đến triều đại và công nghiệp của Thái Tổ, ai ai cũng phải công nhận là một Triều đại chính thống có công đuổi xâm lăng lấy lại độc lập cho giang san đất nước. Sau này bao lần vật đổi sao rời hết Nguyễn đến Trịnh, rồi sau đến Tây Sơn vẫn lấy danh tiếng là phù Lê diệt tặc (Nguyễn hay Trịnh).

Vậy thời lá số của ngài hẳn là đặc biệt, thật đặc biệt.

images1006004_leloi_kienthuc

Ngài tuổi Ất Sửu sanh ngày 6 tháng 8 giờ Tí

Thân, Mệnh đồng cung tại Dậu, vô chính diệu, không có một Không nào thủ mệnh hay chiếu.

Đây là một cái mệnh đặc biệt, tuy vô chính diệu nhưng quả là đắc chính diệu. Kim mệnh âm nam đắc Bạch hổ Dậu cung cùng Phi liêm, Phượng các, Giải thần đủ tư cách một nhà đại ái quốc, đại anh hùng cứu nước, cắn tăng chiến đấu, hăm hở dũng mãnh vô cùng.

Đối cung Cự Cơ, Lộc tồn, Hóa Lộc là cả một cái thế cai trị độc đoán, thực dân bóc lột vững như thành đồng vách sắt. Nhưng nhìn vào thế cờ, Thái Tổ tuy là yếu, vẫn ở cái thế lợi là Kim khắc Mộc với bộ tứ hóa, mỗi vị đều có cái đắc dụng riêng như Khoa ở Ách (Tử tướng ngộ Hình đắc Khoa khả giải) Kỵ ở Quan (Nhật Nguyệt đắc địa Thanh Long đắc Hóa Kỵ).

Trong 10 năm tranh đấu, 8 năm ở cung Ngọ bị khắc nhập cả thời gian lẫn không gian, tất nên nguy khốn vô cùng. May là người vô chính diệu gặp hạn Sát Phá Tham đắc địa nhưng đều bị kềm chế hết thẩy (Thất Sát ngộ Triệt, Phá Quân ngộ Tuần, Tham Lang ngộ Thiên Không) nên cứ cù cưa và phải chịu đựng sự gian lao, chờ thời cơ thuận lợi.

Phải nhờ qua đại vận ở Tỵ cung và cũng phải đến 2 năm trong vận hành mới thành công và ở ngôi được 6 năm. Ngài băng hà năm 49 tuổi.

Tam hóa liên châu ở Thìn phải công nhận là quý, là tấm Bảo Quốc Huân chương cho người được cái hãnh diện mang nó đang đứng ở chỗ thanh thiên bạch nhật, ở Ách cung với Khoa giáp Quyền Lộc đã cứu Vương bao nhiều lần, nhất là trận bị bao vây ở Chí Linh tháng 4 năm Mậu Tuất hết lối thoát, nhờ có ông Lê Lai đổi áo, Vương mới trốn được.

Thiên Đồng là Phúc tinh đóng ở Phúc đức là đúng cách, nhưng tại sao lại bị Tuần làm giảm cả bộ Tướng Ấn. Nó là uẩn khúc của Thái Tổ nhà Lê sau 10 năm chính chiếu, không muốn kéo dài việc can qua, sai sứ sang Tầu cầu phong, nhưng vua nhà Minh không chịu, cứ bắt phải để con cháu nhà Trần làm vua nước Nam mới được. Năm lần bẩy lượt sự quy lụy đó đủ giảng cho thấy là Thiên Đồng Tướng Ấn bị Tuần là thứ cách.

Bình Định Vương thành công được là nhờ ở con Mã và Không Kiếp ở Hợi cũng ở ngay cung Phúc đức. Nhất là mệnh của Vương lại là âm nam rất được Không Kiếp ở Hợi phò trợ, thêm Tả Hữu mà phục hồi (Mã Hợi đắc Tuần), Không Kiếp này đối với Vương quá ư nghiêm khắc, âu cũng cơ trời, với mệnh vô chính diệu (phi bần tắc yểu). Nó đưa Vương đến chỗ vinh quang, nhưng nó không tha thứ cho cái mệnh quá ư mềm yếu đó, mặc dầu Bạch hổ (Kim tinh) làm nòng cốt, huống chi Tỵ cung lại là cái lò khắc nấu Kim mệnh.

Có phải là cái nghiệp của những nhà khai sáng cho mỗi Triều đại, sau khi đã bình định xong đất nước cứ hay hãm hại công thần, những người đã cùng mình vào sanh ra tử, nằm gai nếm mật để đưa mình lên địa vị tột đỉnh cao sang.

Vua Lê Lợi cũng không thoát khỏi cái nghi ngờ quàng xiên ấy, nên đã giết oan 2 ông Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo chỉ vì sự dèm pha của phường múa rối.

Có lẽ đó cũng là luật thừa trừ của cán cân công lý thiêng liêng nên ngài phải chịu mất sớm 1 năm trước khi được đến cõi thọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi của Lê Thái Tổ –

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào - Phong thủy phòng bếp - Xem Tử Vi

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, Phong thủy phòng bếp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, tu vi Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào, tu vi Phong thủy phòng bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào

Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào. Nhiều gia đình thường đặt phòng ăn thường đi liền với nhà bếp hoặc bố trí phong ăn với nhà bếp là một. Cách này có ưu điểm tận dụng được không gian, tiện sử dụng. Tuy nhiên, theo phong thủy, nếu khu vực nấu nướng không được ngăn nắp sẽ làm mất mỹ quan và ảnh hưởng không tốt đến bữa ăn.

Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được.Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được.

Không ít gia đình dù chật chội một chút nhưng vẫn bố trí phòng ăn tách riêng khỏi nhà bếp. Về tầm quan trọng, các nhà phong thủy xếp phòng ăn ngang với nhà bếp, tức là nó liên quan, ảnh hưởng đến sức khỏe và tình hình tài chính trong nhà.

Theo quan niệm phong thủy, phòng ăn không bố trí gần cửa ra vào, nếu không sức khỏe và tiền bạc đến rồi lại đi, khó mà giữ lại được. Trong trường hợp không thể bố trí khác được, khắc phục bằng cách treo một tấm mành thưa (bằng dải hạt chẳng hạn…) để ngăn tầm mắt của người ngoài đi vào nhưng người trong phòng ăn vẫn quan sát được bên ngoài. Cũng có thể treo một quả cầu thủy tinh có tính chất tượng trưng để thay thế cho tấm rèm trên. Gia chủ cũng nên lưu ý khi sắp xếp chỗ ngồi: người chủ gia đình phải được ngồi ở vị trí quay mặt ra cửa; nếu có khách ăn, vị trí này phải được dành cho một vị khách danh dự.

 

Xét thấy bữa ăn không những chỉ là sự bổ sung năng lượng cho cơ thể mà còn là một hứng thú và là những giây phút thư giãn, cùng với sự nghỉ ngơi giúp con người cân bằng lại trạng thái tâm, sinh lý, tạo hưng phấn cho công việc tiếp theo.

Vì vậy, để tạo bữa ăn ngon, giúp cho sự tiêu hóa tốt, cần có sự yên tĩnh tương đối. Bố trí phòng ăn gần cửa ra vào, trong bữa ăn dễ bị ảnh hưởng của những tác động bên ngoài gây ức chế về tâm lý và cả sinh lý, cản trở đến việc tiết dịch vị, làm cho bữa ăn trở nên căng thẳng, “mất ngon” và sự tiêu hóa cũng bị cản trở nghiêm trọng.

Việc treo tấm rèm chẳng qua là để hạn chế bớt ảnh hưởng của những tác động bên ngoài. Còn quan niệm phong thủy trong việc bố trí chỗ ngồi cũng có cơ sở khoa học nhất định. Người chủ gia đình hoặc vị khách danh dự là đối tượng quan trọng nhất trong bữa ăn cần được tôn trọng.

Ở vị trí đối diện với cửa ra vào giúp người ta quan sát được những diễn biến bên ngoài, để không bị động, “giật mình” khi có người đột ngột bước vào giữa bữa ăn.Vì vậy trong trường hợp này, quan niệm của phong thủy không phải không có “cái lý” của nó.

Nếu gia đình có phòng ăn rộng, thông thoáng thì tốt nhất. Còn nếu như phòng chật hẹp, chỉ có một cửa ra vào, không có cửa sổ nào khác thì nên treo gương cả bốn mặt tường. Gương chiếu tượng trưng cho sự tăng thêm bát đĩa cũng như của cải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh đặt phòng ăn gần cửa ra vào - Phong thủy phòng bếp - Xem Tử Vi

Đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ

Cùng tìm hiểu về đặc tính của bộ đôi sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ. Sao Thiên Thọ thuộc dương thổ, Sao Thiên Tài thuộc âm mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ

Đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ

Sao Thiên Tài thuộc âm mộc, chủ về tài năng, nếu đóng tại cung thân, mệnh, tài, quan, phúc thì đều có lực, có thể phát huy tài năng sở trường. Sao Thiên Tài đóng tại cung thân, mệnh thì thông minh, cơ trí, đa tài đa nghệ, có tinh thần chính nghĩa, đa tình, có lòng nhiệt tình với công ích. Sao Thiên Tài ưa gặp cung mệnh, thân, quan lộc hợp với những công việc mang tính khởi đầu, phân giải và phải dự trù hoạch định. Nếu như có lục cát tinh Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt hội chiếu thì có cả tài lẫn danh. Nếu gặp sao Thiên Cơ miếu vượng thì càng thông minh cơ trí, phản ứng nhanh nhạy, có tài nghệ, nếu gặp sao Thiên Cơ, Thiên Lương, chủ về trường thọ, rất có trí tuệ, nếu gặp thêm sao Thiên Thọ thì càng linh nghiệm, gặp hung tinh xung phá, dễ rơi vào tình trạng có tài nhưng không có đất dụng võ.

Sao Thiên Thọ thuộc dương thổ, là thọ tinh, chủ về trường thọ, ưa nhập cung mệnh, thân, phúc đức hoặc đồng cung với thọ tinh Thiên Lương, càng chủ về trường thọ. Sao Thiên Thọ nhập miếu tại hai cung Dậu, Tuất thì lại càng cát tường. Sao Thiên Thọ nhập cung thân, mệnh tính cách thật thà đôn hậu, chăm chỉ chín chắn, khiêm tốn và lịch sự, chịu khó chịu khổ làm việc cẩn thận. Đại hạn hoặc lưu niên gặp nó thì mọi việc đều cát lợi.

Sao Thiên Tài chủ về trí tuệ hơn người, có sở trường phân tích, suy luận có thể đoán trước thời cơ, có bản năng và trực giác linh động. Sao Thiên Thọ không thích tranh đua, không thích xen vào việc của người khác, tính cách bền bỉ và kiên trì, chín chắn vững vàng, có thể giảm bớt khó khăn, trắc trở của đời người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ

Tướng mặt của người không giữ được tiền của

Tướng mặt của người không giữ được tiền của: Chỉ cần nhìn thoáng qua hình dáng lông mày, ánh mắt, mũi và xương gò má là có thể đánh giá khả năng tích giữ tiền
Tướng mặt của người không giữ được tiền của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ cần nhìn thoáng qua hình dáng lông mày, ánh mắt, mũi và xương gò má là có thể đánh giá khả năng tích giữ tiền bạc của mỗi người.

 
► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

1. Lông mày đứt đoạn, tiền vận khó tụ tài   Theo Nhân tướng học, tướng mặt người không giữ được tiền thường có lông mày đứt đoạn, không đồng đều thường kém gặp may mắn về tiền bạc. Người này phải chi tiêu nhiều khoản trong khi đó thu về lại không được là bao, tiền vận khó tụ tài, trung vận cuộc sống an nhàn hơn nhờ vào phúc đức của chồng hoặc vợ. Tuy nhiên, nếu không học cách tích lũy và chi tiêu tiết kiệm, người này sẽ trắng tay khi về già.
 
2. Mắt nhìn lúc sáng lúc mờ, tiêu tiền như nước   Thế nào là mắt nhìn lúc sáng lúc mờ? Đó là kiểu mắt khi thì rất linh hoạt, có thần sắc rõ ràng nhưng lúc lại lờ đờ như vẫn chưa tỉnh ngủ. Người có kiểu tướng mắt này khó giữ được tiền của, hơn thế lại mắc cái tật tiêu tiền như nước, chỉ biết thỏa mãn thú vui của ngày hôm nay mà không suy tính cho tương lai.  Đây cũng chính là tướng mặt người không giữ được tiền.

Tuong mat cua nguoi khong giu duoc tien cua hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuy nhiên, người này thường được sinh ra trong gia đình có nền tảng kinh tế khá. Khi kết hôn cũng được gia đình hậu thuẫn về tài chính nên cuộc sống dư giả, ít khi phải lo nghĩ về tiền bạc.    3. Mũi bóng nhẫy, trung vận khó giữ được tiền của   Nếu một ngày nào đó bạn thấy khả năng tập trung kém, mũi bóng nhẫy bất thường, tâm trạng thất thần, lo lắng viển vông thì đó là dấu hiệu cho thấy khi bước vào tuổi trung niên, bạn sẽ trải qua sóng gió lớn về tài chính, nhiều khả năng đó là nguy cơ phá sản.
4. Xương gò má thấp lõm, không biết cách quản lí tiền bạc   Xem tướng cho thấy, tướng mặt người không giữ được tiền gắn liền với xương gò má đại diện cho tính tích lũy và khả năng khống chế của con người. Đa phần người có xương gò má cao thì tính tình mạnh mẽ, coi trọng sự nghiệp và làm việc có kế hoạch rõ ràng. Ngược lại, nếu xương gò má quá thấp, thậm chí lõm lại thì khả năng kiềm tiết chế cảm xúc kém, dễ rơi vào trạng thái bị động và không biết cách quản lí tiền bạc nên cuộc sống chỉ ở mức trung bình.
Ngọc Lan (Theo MGSP)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt của người không giữ được tiền của

Xem tướng rốn –

Rốn sâu, rộng lại hướng lên trên, chủ nhân vừa có trí tuệ tinh thông, lại sống bao dung, độ lượng. Theo nhân tướng học, rốn nông nhỏ là biểu hiện cho thấy bạn phải lao động vất vả trọn đời. Ở người phụ nữ, nếu rốn nhỏ tới mức không nhìn thấy rõ, dễ b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rốn sâu, rộng lại hướng lên trên, chủ nhân vừa có trí tuệ tinh thông, lại sống bao dung, độ lượng.

Theo nhân tướng học, rốn nông nhỏ là biểu hiện cho thấy bạn phải lao động vất vả trọn đời. Ở người phụ nữ, nếu rốn nhỏ tới mức không nhìn thấy rõ, dễ bị vô sinh. Nếu là đàn ông, thường thiếu khí phách và sự kiên nhẫn cần thiết trong cuộc sống. Bất luận là nam hay nữ, sức sống của bạn đều không dồi dào, sung mãn.

ktt_ron1_kienthuc

Người có rốn vừa sâu vừa rộng thường có trí tuệ tinh thông. Nếu rốn hướng lên trên là tướng tốt, chủ về cởi mở, thoáng đạt, sống bao dung độ lượng. Ngược lại, người có rốn hướng xuống dưới dễ sống trong nghèo khổ suốt đời. Rốn rộng nhưng miệng rốn lỏng lẻo lại báo hiệu, bạn là người kém thông minh sáng suốt. Rốn nằm ở vị trí tương đối thấp trên bụng là dấu hiệu cho thấy bạn rất khỏe mạnh, đặc biệt là trong sinh sản. Người có rốn nằm ở vị trí tương đối cao thường có trí lực hơn người, nhưng bộ máy sinh dục không mấy hoàn hảo. Những người có lỗ rốn tròn, hình thái sắc nét là người lương thiện, ngược lại, những kẻ rốn nghiêng, xấu xí về hình dạng thường mang tâm địa độc ác.

Những người rốn lớn rất biết thu nạp điều hay và dễ nổi danh khắp thiên hạ. Rốn lồi, nổi cộm hoặc rốn nông, nhỏ chắc chắn không phải là tướng của người lương thiện. Rốn nhỏ nhưng bằng phẳng thì cuộc đời vất vả, bần tiện cho tới tận lúc già. Rốn tuy nông, nhỏ nhưng lồi thì chủ nhân thường nghèo khó, đoản mệnh.

ktt_ron3_kienthuc

Rốn có nốt ruồi chia làm hai loại tốt, xấu khác nhau. Nói chung, các nốt ruồi mọc cạnh rốn thường tốt. Không chỉ được quý nhân phù trợ và thuận lợi, bạn còn rất may mắn trong chuyện tình cảm và thuận lợi, hanh thông trong công việc.

Những người có nốt ruồi mọc ngay trong lỗ rốn thường rất phát đạt. Kiểu rốn này được mệnh danh là rốn ngậm ngọc. Nhân tướng học gọi đây là “Tê nội tàng kim, năng biến vạn kim” (ý chỉ: vàng ẩn trong rốn, có thể biến thành ngàn vàng trong đời thực”, ngụ ý, ai sở hữu chiếc rốn ngậm ngọc này sẽ rất phát đạt.

ktt_ron6_kienthuc

Những người rốn lồi, nông lại hướng xuống phía dưới thường nghèo hèn, số yểu mệnh. Bất luận béo hay gầy, nếu rốn chỉ sâu tầm một phân thì thường có một con, nếu lỗ rốn lớn là cát tướng, ngược lại, lỗ rốn nhỏ là tướng yểu mệnh và ít có hy vọng về đường con cái. Dù có sinh nhiều con cũng rất khó nuôi. Phàm là phụ nữ, dù mặt đẹp nhưng nếu bụng nhỏ, rốn nhỏ, eo nhỏ lại nghiêng vẹo thì thường không có con.

Rốn tròn đầy như trăng rằm chứng tỏ chủ nhân có tính tình cởi mở, rất coi trọng gia đình, nên rất thích hợp để trở thành người vợ thảo hiền. Đàn ông nếu lấy được người phụ nữ có tướng rốn này, cuộc sống phu thê sẽ bền lâu bách niên giai lão.

Ở người đàn ông, nếu bụng và rốn đều lõm thì thường mang mệnh đào hoa. Những người này thích coi mình là trung tâm của vũ trụ. Họ chỉ thích hợp để làm một người tình lý tưởng, nhưng sẽ không phải là một người chồng tốt.

Những người có lỗ rốn hình chữ Y thường sống rất mưu mẹo, lắm chiêu trò. Riêng người có lỗ rốn nằm ngang theo chiều ngang của bụng thường hay phục tùng người khác hoặc dễ nghe theo sự sai khiến của mọi người. Họ thiếu quyết đoán và lòng tự tôn không cao, nhưng ưu điểm của những người này là dễ nghe theo lời khuyên của đối phương. Riêng phụ nữ lại có tính xấu là dễ chen ngang vào cuộc sống lứa đôi của người khác.

Cạnh bên rốn có nhiều đường vằn giao nhau là dấu hiệu cho thấy bạn có nhân duyên và năng lực biểu đạt rất tốt. Nếu không phải là nghệ sĩ, bạn cũng là chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó.

Sắc da dù ở bộ phận nào trên cơ thể, nếu sáng trơn, hồng hào cũng đều là dấu hiệu cho thấy, thời vận của bạn đang rất tốt đẹp. Ngược lại, da xám xịt, chảy sệ, chứng tỏ bạn sắp tới thời suy. Riêng phần da bên rốn nếu quá khô lại bị chảy sệ và nhão, chứng tỏ, bạn đang gặp vận xui. Phàm làm việc gì cũng cần phải thận trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng rốn –

Trang trí phòng tân hôn theo phong thủy –

Việc trang trí phòng tân hôn cần phải biết kết hợp hài hòa giữa phong thủy truyền thống và hiểu biết về khoa học hiện đại, để có thể tìm được vẻ đẹp lãng mạn, ấm áp, tràn đầy niềm hân hoan trong ngày cưới, tạo sự khởi đầu tốt đẹp cho cuộc sống hôn nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ân.

trang-tri-phong-tan-hon

Giường tân hôn: Bên trái giường ngủ trong phòng tân hôn là hướng Thanh Long, nếu kê giường ở sát tường hoặc gần tường ngụ ý dễ sinh con trai. Bên phải giường ngủ là hướng Bạch Hổ, không được kê đồ quá chật chội, nếu không dễ khiến vợ chồng mâu thuẫn, bất hòa.

– Không đặt thiết bị âm thanh bên phải giường ngủ để tránh chuyện hiểu lầm, cãi cọ lẫn nhau.
– Không đặt ti vi trước giường cưới, để tránh bị suy nhược thần kinh.
– Không nên treo ảnh cưới quá lớn trên đầu giường cưới, để tránh cảm giác bị vật nặng đè lên phần đầu…

Khăn trải giường: Nên chọn loại khăn có chất liệu bằng cotton mềm mại, thoải mái, hút ẩm tốt. Hiện nay có nhiều chủng loại, hơn nữa màu sắc, hoa văn cũng rất đẹp mắt, nên có thể tha hồ lựa chọn sao cho phù hợp với kiểu dáng và kích thước giường ngủ là được.

Điều cần chú ý là chọn mua loại khăn sao cho phù hợp với những đồ nội thất khác trong phòng: rèm cửa sổ, khăn trải bàn, màn và những vật dụng khác để tạo sự hài hòa và xinh xắn.

Chăn: Nên chọn vỏ chăn làm bằng tơ lụa là tốt nhất vì mềm mại, đẹp và sang trọng, có thể chọn loại có hoa văn được thêu, in hoặc dệt lên chăn, với những hình hoa văn mang ý nghĩa tốt đẹp như: nhị long vờn ngọc, hỉ tước đăng mai, đôi chim long phụng cùng nhìn về phía mặt trời… Lõi chăn chọn loại có đặc tính hút ẩm tốt, làm bằng vải sợi bông là lựa chọn hàng đầu.

Gối: Về chất liệu tốt nhất vẫn nên chọn vải cotton. Màu sắc kiểu dáng cũng có thể chọn theo sở thích và căn cứ vào sự hài hòa với các đồ khác trong phòng để chọn mua loại gối phù hợp nhất. Gối thường có bộ đôi, còn có gối liền, mua gối cho phòng tân hôn tốt nhất nên chọn gối liền vì nó ngụ ý hai vợ chồng sẽ mãi mãi bên nhau.

Nến: Khi trang trí phòng cho cặp uyên ương, một vài ngọn nến sẽ đem lại hiệu quả bất ngờ. Chọn loại nến cốc hình bông hồng sẽ khiến căn phòng đẹp hơn, lung linh hơn và đặt chúng trước giường ngủ sẽ đem đến cảm giác dịu dàng, đầy bí ẩn, làm cho căn phòng mang một vẻ đẹp hết sức tinh tế, giúp cảm xúc được thăng hoa.

Hoa: Phòng ngủ của cô dâu chú rể có thể trang trí bằng một lọ hoa bách hợp. Hoa bách hợp có hình dáng và màu sắc đẹp, sang trọng, tên của nó còn mang một ý nghĩa rất hay, đó là lời chúc phúc cho hai vợ chồng luôn yêu thương nhau, trăm năm hạnh phúc.

Đồ trang trí khác: Đặt viên pha lê hình con giáp trên tủ ở đầu giường có tác dụng giúp cho tình cảm vợ chồng luôn hòa thuận, nhưng không được chọn hai con giáp tương khắc với nhau.

Nến, đèn và ảnh của đôi tình nhân trong phòng tân hôn tượng trưng cho tình cảm vợ chồng thắm thiết, gắn bó, bền chặt. Có thể trang trí thêm một vài đồ vật nhỏ trên giường cũng giúp tạo cảm giác thoải mái, tự nhiên, giúp cho căn phòng tràn đầy sức sống, như: gối ôm có màu trang nhã, một chú cún nhồi bông…

Về màu sắc: Không nên dùng màu hồng để sơn tường, cũng không nên chọn đồ gia dụng hoặc rèm cửa màu hồng, vì màu hồng dễ gây chứng suy nhược thần kinh, khiến tinh thần dễ bị kích động, hoảng loạn, dễ sinh cáu gắt. Đồng thời cũng phải tránh dùng những gam màu tối, đỏ sẫm, đen xám sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm trạng của cô dâu và chú rể trong đêm tân hôn, khiến họ cảm thấy bị ức chế.

Nền nhà không nên chọn màu tối sẫm, không bài trí nhiều đồ vật có màu đen, phòng ngủ nhiều màu đen có thể gây ảnh hưởng đến tâm trạng của chủ nhân, làm suy yếu vận thế và suy giảm tài vận.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí phòng tân hôn theo phong thủy –

Vận trình tử vi trọn đời Nhâm Tý nam mang chi tiết

Nhâm Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhâm Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1912, 1972 và 2032
Cung CHẤN. Trực CHẮP
Mạng TANG ĐỐ MỘC (cây dâu)
Khắc ỐC THƯỢNG THỔ
Con nhà THANH ĐẾ (quan lộc, tân khổ)
Xương CON CHUỘT. Tướng tinh CON HEO

Ông Tử Vi độ mạng

Nhâm Tý số mạng như vầy,
Phong sương cũng lắm tha phương cũng nhiều.
Số này cách trở quê hương,
Đi ra xứ khác sanh phương nên nhà.
Số phải khắc khẩu mẹ cha,
Ở gần cắng đắng đi xa thì buồn.
Số này cách trở lương duyên,
Thay nhà đổi bạn truân chuyên lắm bề.
Chẳng nhờ cốt nhục họ hàng,
Tự mình lập nghiệp cửa nhà mới nên.
Tiền vận chẳng đặng thành thơi,
Trở về vận cuối an nhàn tấm thân.
Nhâm Tý nhờ có quới nhân,
Tu nhân tích đức phước Trời ban cho.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Tuổi Nhâm Tý thuộc mạng Mộc, tuổi nhỏ cuộc đời hay lắm gian truân, cũng như một cây khi đơm bông kết trái, thì người khác hưởng, cuộc sống không được dồi dào từ lúc nhỏ. Không bao giờ được thảnh thơi, thường lao tâm khổ trí, tuổi càng cao càng nhiều lo nghĩ không lúc nào bằng. Bởi vậy số Nhâm Tý chỉ được hưởng sự an nhàn vào khoảng độ từ 49 tuổi trở đi mà thôi. Cuộc sống nhiều lao nhọc sôi động bất thường, ít khi có cơ hội phát triển về nghề nghiệp. Cuộc sống chỉ ở mãi trong mức độ trung bình.

Tuổi Nhâm Tý suốt đời lo nghĩ lao tâm khổ trí, tuy được an nhàn về bản thể, nhưng tâm não nhiều lo nghĩ. Cuộc sống chỉ ở mức trung bình về tài lộc cũng như về đường con cái. Con cháu nên danh mau lẹ nhờ có phúc đức. Sống hưởng thọ trung bình từ 57 đến 60, nếu làm phúc đức thì hưởng thêm niên kỷ.

TÌNH DUYÊN

Tuổi Nhâm Tý về vấn đề tình duyên thì buổi đầu khe khắt, sau mới thành có nhiều thay đổi lương duyên vào lúc tuổi nhỏ. Nếu sanh nhằm những tháng này thì có nhiều thay đổi lương duyên hay ít ra trong việc vợ chồng xảy ra lắm buồn phiền, đó là Nhâm Tý sanh nhằm những tháng 1, 3, 7, 6 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu sanh vào tháng này thì phải qua 3 đời vợ, đó là những tháng 5, 7 và 11 Âm lịch; nếu sanh nhầm những tháng này phải qua 2 đời vợ, đó là những tháng Giêng, 3, 4, 6, 8 và 12 và nếu sanh vào những tháng này thì tình duyên chung thủy, đó là những tháng 2, 9 và 10. Trên đây là tháng sanh của sự quyết định lương duyên; nếu nhờ đúng tháng tháng sanh mà chưa thực hiện đúng như trên, thì chắc chắn sẽ còn có thêm nữa vậy.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Cuộc đời với công danh trầm lặng, dường như là bước công danh không có nhiều may mắn lắm, không tạo được một sự vững chắc về vấn đề nay, phần gia đạo lúc nhỏ có nhiều thay đổi, hay khác biệt về lối sống, nhưng qua 36 tuổi trở đi thì êm ấm và yên vui. Những việc nhỏ nhặt xảy ra không đáng kể. Việc to tát về xích mích gia đạo dường như không bao giờ xảy ra cả.

Sự nghiệp không mấy vững chắc vào những năm ở giữa cuộc đời, nhưng qua 47 tuổi thì có vài thành công nhỏ để tạo cuộc sống cho đến ngày nay. Tiền tài rất ít nhưng không thiếu kém quá đỗi, có thể tạo được rất nhiều nhưng thường hao hụt.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Nên chọn những tuổi này rất hợp cho sự làm ăn: Bính Thìn, Giáp Dần, Canh Thân. Những tuổi này làm ăn thì phát đạt vì hợp với Nhâm Tý.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Tuổi Nhâm Tý nếu lựa chọn được những tuổi này thì sống cao sang quyền quý, đó là những tuổi: Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Thân, Quý Hợi, Canh Tuất, những tuổi này rất hạp và tạo được hiển vinh.

Những tuổi này kết hợp với Nhâm Tý chỉ tạo được cuộc sống trung bình mà thôi: Quý Sửu, Đinh Tỵ, Kỷ Mùi, Tân Hợi, Nhâm Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ,

Tuổi Nhâm Tý Nếu gặp phải những tuổi này thì cuộc sống rất bần tiện và cơ cực: Tân Dậu, Kỷ Dậu.

Nhâm Tý sanh vào những tháng này có nhiều vợ hay thường đau khổ về đ àn bà, đó là những tháng 1, 3, 7, 11 và 12 Âm lịch.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Nhâm Tý đại kỵ với những tuổi này: Nhâm Tý, Ất Mão, Mậu Ngọ, Giáp Tý, Đinh Mão, Canh Mão và Bính Ngọ. Gặp những tuổi này thì sanh cảnh biệt ly hay tuyệt mạng.

Về vấn đề làm ăn cũng như về lương duyên, khi gặp phải những tuổi kỵ như đã nói ở trên, thì tất cả công việc đều có thể bị rắc rối phiền phức và thất bại. Cần phải xem sao Hạn để cùng kiến và van vái Phật, Trời mỗi năm tuổi của bạn đều thay đổi vì sao, đó là luật tuần hoàn. Thí dụ như năm Bính Ngọ, bạn gặp hạn Tam Kheo, sao La Hầu. Trường hợp năm nào bạn gặp sao hạn thì phải cúng sao thế nầy: Tháng nào cũng được như thường thì nên cúng vào ngày 8 tháng Giêng, tháng 4, 8 và 12 Âm lịch, đốt chín ngọn đ èn, chín chén nước lã, lạy về hướng Bắc, thì được giải sao hạn ngay.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Tuổi Nhâm Tý xuất hành vào ngày lẻ, giờ chẵn, tháng chẵn thì có lợi hơn những ngày giờ khác.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: Năm 20 tuổi có nhiều cay đắng trong cuộc đời nhưng phần tình duyên nhiều tốt đẹp, 21 tuổi có phần hay đẹp về công danh, làm ăn khá được tốt, 22 tuổi năm nầy cẩn thận về tiền bạc cũng như về cuộc sống, 23 tuổi không nên đi xa, làm ăn có phần thất bại, bổn mạng yếu, 24 tuổi nhiều trở lực, 25 tuổi tạm yên, không có gì xảy ra quan trọng.

Từ 26 đến 30 tuổi: Khoảng thời gian nầy rất tốt đẹp cho sự làm ăn, 26 tuổi kết quả tốt đẹp về việc phát triển làm ăn, 27 tuổi nhiều hy vọng về tài lộc, 28 tuổi kỵ tháng 3 những tháng khác đều tốt, 29 tuổi nhiều kết quả và có triển vọng tốt đẹp, cuộc sống hoàn toàn hay đẹp. 30 tuổi có phúc đức, năm nầy tài lộc dồi dào.

Từ 31 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi trung bình kỵ đi xa hay làm ăn lớn, 32 tuổi có nhiều triển vọng tốt đẹp trong nghề nghiệp và cuộc đời, 33 và 34 hai năm nầy, bổn mạng có phần suy yếu, đề phòng bịnh tật, 35 tuổi năm khá hay về hay về số mạng và cuộc đời.

Từ 36 đến 40 tuổi: Năm nầy nên thận trọng, tuổi 36 sao bản mệnh chiếu mạng không được tốt về bổn mạng, hao tài, 37 tuổi có nhiều hy vọng tốt đẹp về nghề nghiệp và cuộc đời, 38 tuổi, trừ tháng 2, 6 và 10 có hao tài ngoài những tháng khác yên tịnh, 39 tuổi đỡ khổ, năm nầy làm ăn thâu nhiều tài lộc, kỵ tháng 4 có đau bịnh, đi xa có tai nạn, 40 tuổi tài lộc có phần hao hụt, nên cẩn thận về tiền bạc.

Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, tạm được, kỵ tháng 4, 6, 8, 9 và 11 những tháng nầy bất lợi. Năm 42 và 43 tuổi, hai năm có nhiều trở ngại trong việc làm ăn. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm có nhiều tiền bạc cũng như về tài lộc và cuộc sống.

Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, được tốt, hy vọng tốt đẹp về tài lộc và cuộc đời. Năm 47 và 48 tuổi, hai năm gia đạo có nhiều rối rắm trong gia tộc có đại nạn. Năm 49 và 50 tuổi, hai năm bình thường, việc làm ăn phát triển chậm chậm..

Từ 51 đến 55 tuổi: Năm 51 tuổi, không được tốt đẹp lắm, bổn mạng yếu. Năm 52 và 53 tuổi, hai năm nầy được khá tốt đẹp, việc làm ăn nên cẩn thận về tiền bạc. Năm 54 và 55 tuổi, không nên đi xa hay làm ăn lớn, bổn mạng yếu.

Từ 55 đến 55 tuổi: Năm 55 tuổi, bị hạn nặng gặp sao La Hầu và hạn Tam Kheo, cần phải lo liệu và cẩn thận trong mọi công việc, nhất là bản thân có nhiều bất an. Năm 56 và 57 tuổi, vượt qua được tuổi 55 thì 56 và 57 yên tịnh, cuộc sống an nhàn, sợ không vượt qua khỏi tháng 8, 9 và 10 năm Bính Ngọ.

Từ 58 đến 60 tuổi: Năm 58 tuổi, không được vững vàng lắm cho gia đạo, bản thân, có thể mang nhiều đại họa cho cuộc sống. Năm 59 tuổi, tạo được nhiều tình cảm mến thương, tóm lại những năm nầy, có nhiều tình cảm, con cháu thương mến nhiều cầu lấy phúc đức làm căn bản cho cuộc sống may ra còn có thể tăng thêm niên kỷ.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Nhâm Tý nam mang chi tiết

Top 5 chòm sao có kết quả mĩ mãn trong kì thi đại học

Những kì thi là bước ngoặt lớn trong cuộc đời, bất cứ ai cũng mong muốn sẽ có kết quả thật tốt. Vậy hãy điểm danh 5 chòm sao may mắn, đỗ đầu kì thi sắp tới nhé.
Top 5 chòm sao có kết quả mĩ mãn trong kì thi đại học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


=> Theo dõi: Tử vi hàng ngày của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác

Top 5 chom sao co ket qua mi man trong ki thi dai hoc hinh anh 2
 

Nữ Ma Kết nam Kim Ngưu - cặp đôi sinh ra để dành cho nhau
Kim Ngưu: Gian khổ học tập
  Chăm chỉ chính là thế mạnh của Kim Ngưu, vì thế thành công của họ thường đến từ sự cố gắng rất nhiều chứ không phải do ăn may. Họ học hành khổ luyện, bỏ qua nhiều thú vui khác để tập trung cho kì thi nên dù chỉ số thông minh không quá nổi trội hay ngày thường lực học trên lớp không quá xuất sắc thì lần thi này, Ngưu chan nhất định thu được kết quả mĩ mãn.   Song Tử: Thông minh linh hoạt   Nếu Kim Ngưu chăm chỉ thì Song Tử lại thông minh. Bình thường họ ít chú tâm tới học hành nên kết quả không nổi trội nhưng một khi đối diện với kì thi, chòm sao này nhất định thi triển hết năng lực, cố gắng 100% để được thông qua. Lúc này, chí tiến thủ của Song Tử cực cao nên bằng thực lực của mình, họ có thể nhanh chóng tiếp thu kiến thức mà người khác mất cả năm mới lĩnh hội được.
 
Tính cách chuẩn cung Xử Nữ của chàng soái ca quân nhân Song Joong Ki
Xử Nữ: yêu cầu hoàn hảo
  Chòm sao cẩn thận như Xử Nữ làm việc thận trọng và yêu cầu rất cao ở bản thân nên gặp vận may bất ngờ lúc thi cử. Có điều đó cũng là do họ đã chuẩn bị rất tốt, nhắm thẳng mục tiêu, không ngừng tiến tới. Hằng ngày, Xử Nữ học hành nghiêm túc, yêu cầu nghiêm khắc, không dám lơ là dù chỉ một giây một phút, chỉ để chuẩn bị cho kì thi nên tuyệt đối kết quả sẽ xứng đáng.  
Top 5 chom sao co ket qua mi man trong ki thi dai hoc hinh anh 2
 
Thiên Yết: giác quan thứ sáu
  Chòm sao may mắn trong thi cử thì phải kể tới Thiên Yết, vì họ có giác quan thứ sáu rất nhạy bén. Tuy không thể quyết định hết tất cả nhưng chính năng lực đặc biệt này giúp Yết Yết thuận lợi tiến tới vị trí cao trong kì thi. Ví như, ngầm đoán trúng đề hay bất chợt nảy ra ý tưởng sáng tạo ăn điểm.
Học lỏm Thiên Yết võ để trở thành kẻ mạnh

Ma Kết: kiên trì chịu đựng

 
Trầm ổn và bình tĩnh, Ma Kết đối diện với những kì thi một cách kiên nhẫn, chu đáo, tích cực hướng về phía trước với quyết tâm ngút trời. Kết hợp với trí tuệ của Kết Kết nữa nên những vị trí dẫn đầu kì thi chẳng lạ gì sẽ rơi vào tay họ.   Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 chòm sao có kết quả mĩ mãn trong kì thi đại học

Con gái có vai rộng thì sao –

Đôi vai thuộc về trung đình của ba đình (trên thân người có ba đình gồm thượng đình, trung đình và hạ đình). Về tướng học, vai là nơi thể hiện khí chất, tâm trạng của con người mạnh mẽ nhất. Theo đó, khi bạn cảm thấy thoải mái, tự tin, đôi vai liền r
Con gái có vai rộng thì sao –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con gái có vai rộng thì sao –

Con gái tuổi nào khó 'cưa' đổ nhất

Nếu cưa cẩm cô nàng tuổi Thìn, Dậu và Sửu, bạn cần xác định kiên trì và vượt qua nhiều cửa ải gian khổ.
Con gái tuổi nào khó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 - Tuổi Thìn

Bề ngoài hiền lành, dễ gần, tính tình nhút nhát, có nhiều sở thích giống trẻ con, nhưng cô nàng tuổi Thìn lại suy nghĩ chín chắn, sắc sảo và cực kỳ kén chọn người yêu. Sở dĩ con giáp này xác định rõ ràng chuyện yêu đương phải nghiêm túc, thậm chí “một bước ăn ngay” để xây dựng cuộc sống riêng cho mình sau này.

Kết quả là việc tán tỉnh cô nàng cầm tinh con rồng khó ngang với “nhiệm vụ bất khả thi”, trừ phi nàng bật đèn xanh tỏ ý hài lòng về tính cách, sự nghiệp và tình cảm của bạn. Đặc biệt, con giáp này rất chú trọng đến sự đồng điệu về tâm hồn, nên các chiêu trò giả tạo để lấy lòng họ dường như đều vô ích. Nếu không may, bạn còn chịu tác dụng ngược, khiến bạn mất điểm trong mắt nàng.

U5593P54DT20150513135258-7657-1441268574

No.2 - Tuổi Dậu

Lối sống cầu toàn của những nàng cầm tinh con gà ảnh hưởng nhiều tới chuyện tình cảm. Họ đặt ra tiêu chí đầu tiên phải là sự mạnh mẽ, để che chở cho người yêu và tiếp theo là cực kỳ đáng tin cậy. Hiếm khi họ chủ động bộc lộ tình cảm, cho dù đã rất thích nửa kia. Con giáp này chỉ âm thầm quan sát và đến khi chắc chắn dành được tình cảm của đối phương mới đưa ra quyết định có thổ lộ hay không.

Khi không thể nắm bắt tâm lý đối phương, bạn sẽ khó đưa ra được phương án hạ gục trái tim họ. Với con gái tuổi Dậu cũng vậy, bạn cần tìm hiểu kỹ lưỡng, tránh có hành động gây tổn thương hoặc giảm danh dự của nàng. Hãy kiên trì nếu bạn thực sự muốn chinh phục một girl tuổi Dậu.

9e477db1jw1esisocd6zaj209c0dwm-6222-1747

No.3 - Tuổi Sửu

Người tuổi Sửu sẽ khiến nhiều chàng nản lòng thì những phép thử lòng đối phương. Cô gái lắm chiêu tuổi Sửu sẽ tung ra nhiều tình huống để người ấy thể hiện sự mạnh mẽ, sẵn sàng hy sinh vì tình yêu. Nếu vượt qua được tất cả chướng ngại vật đó, bạn mới có cơ may làm cô nàng cầm tinh con trâu xiêu lòng.

Cộng thêm chút tham vọng và bướng bỉnh, con gái tuổi Sửu kén chọn càng kỹ lưỡng hơn. Với họ, nam giới cần có tinh thần cầu tiến, xác định rõ dự định trong tương lai và suy nghĩ nghiêm túc mọi vấn đề mới là lựa chọn hoàn hảo. 

Mr.Bull (theo DZYX)

thn3-1441065429-1441065443-490-4908-4815 Con gái tuổi nào dễ bị tình yêu sai khiến

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con gái tuổi nào khó 'cưa' đổ nhất

Tử vi nữ mệnh tuổi Kỷ Mão 1999 thì nên kết hôn với nam tuổi nào?

Xem tử vi cuộc đời, tình duyên của nữ mệnh sinh năm 1999, tuổi con mèo? Nữ sinh năm 1999 thì nên kết hôn với những nam tuổi nào, cuộc đời trải qua mấy lần tình duyên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ Kỷ Mão sinh năm 1999, tuổi con Mèo, cung Cấn thuộc Tây Tứ mệnh, mạng Thành đầu Thổ ( đất trên tường)

Nữ mệnh Thổ thì hợp với màu sắc:

Màu sắc hợp: màu đỏ, hồng, cam thuộc hành Hỏa (Hỏa sinh Thổ)

Màu sắc tương sinh: Màu nâu, vàng đất thuộc mệnh Thổ

Màu sắc kị: trắng, xám, ghi thuộc hành Kim (mệnh cung bị sinh xuất, làm giảm năng lượng)

Tử vi nữ mệnh tuổi Kỷ Mão 1999 thì nên kết hôn với nam tuổi nào?

CUỘC ĐỜI CỦA NỮ MỆNH 1999

Tuổi Kỷ Mão được sống một đời có phần sung túc về tiền bạc, tình cảm dồi dào, có đủ khả năng tự tạo dựng được một cuộc sống hoàn toàn êm đẹp cho cuộc đời. Cuộc sống không đến nỗi phải có nhiều cực khổ về thể xác, có thể còn lên cao về đường tài lộc nữa, vào khoảng 34 tuổi trở đi thì đường tài lộc có cơ hội phát triển mạnh mẽ.

Tóm lại: Tuổi Kỷ Mão được sung sướng về phần thể xác, cuộc đời có đủ khả năng tạo ra tiền bạc để đảm bảo sự sống.

TÌNH DUYÊN CỦA NỮ MỆNH KỶ MÃO

Vấn đề tình duyên cũng có nhiều đổ vỡ buổi đầu, nhưng sao được tươi vui hạnh phúc. Về tình duyên tuổi Kỷ Mão sẽ có 3 giai đoạn như sau:

Nếu bạn sinh vào những tháng sao đây thì cuộc đời của bạn có 3 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc, đó là khi bạn sinh vào những tháng 4 và 9 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 2, 5, 8, 10 và 12 âm lịch thì cuộc đời bạn sẽ có 2 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Còn nếu bạn sinh vào những tháng 3, 6, 7 và 11 âm lịch thì cuộc đời của bạn sẽ được hưởng hoàn toàn hạnh phúc, cuộc đời chỉ có một làn thay đổi tình duyên. Trên đây là những diễn biến về tình duyên và hạnh phúc của bạn.

GIA ĐẠO CÔNG DANH

Phần gia đạo công danh lúc đầu có nhiều bê bối, những vào trung vận và hậu vận thì được êm ấm vẹn toàn. Công danh nếu có cũng chỉ vào mức trung bình chứ không lên cao được.

SỰ NGHIỆP TIỀN TÀI

Phần sự nghiệp có cơ hội được tạo nên nhanh chóng và phải qua 30 tuổi thì mới vững chắc được. Tiền bạc có khá dư giả và khoagr 34 tuổi trở lên thì được lên cao.

NHỮNG TUỔI NÊN MÀ NỮ KỶ MÃO NÊN KẾT HÔN

Trong việc xây dựng hôn nhân và gia đình hạnh phúc thì bạn nên lựa chọn những tuổi hợp với mình để kết hôn, tạo cho cuộc sống thêm phần hạnh phúc, sung túc về tài lộc, có cơ hội tạo cho cuộc đời sang giàu. Những tuổi hợp với tuổi Kỷ Mão là: Tân Tị (2001), Nhâm Ngọ (2002), Giáp Thân (2004), Đinh Hợi (2007), Mậu Dần (1998).

Nếu bạn kết hôn với tuổi Tân Tị và Nhâm Ngọ thì cuộc đời có thể tạo dựng được cuộc sống giàu sang.

Nếu bạn kết hôn với tuổi Giáp Thân và Đinh Hợi thì có phần thuận lợi về đường công danh lẫn đường tài lộc.

Nếu tuổi Kỷ Mão kết hôn với tuổi Mậu Dần thì rất tốt đẹp về đường tình duyên và có cơ hội là giàu mau lẹ, vì những tuổi trên hợp với đường tình duyên và hợp với cả đường tài lộc.

Những năm mà tuổi Kỷ Mão không nên kết hôn đó là những tuổi 16, 17, 23, 28, 28, 29, 35 và 40 tuổi. Nếu kết hôn vào những năm bạn ở độ tuổi này thì việc hôn nhân sẽ không thành, nếu thành thì sẽ gặp cảnh xa vắng triền mien hay ít ra cũng có nhiều việc lo buồn về chồng con.

Nếu sinh vào những tháng 1, 2, 4, và 5 âm lịch thì cuộc đời của bạn có thể sẽ thay đổi về lương duyên hoặc có nhiều đời chồng.

DIỄN BIẾN CUỘC ĐỜI CỦA TUỔI KỶ MÃO

Từ năm 18 đến 25 tuổi:

Năm 18 tuổi, có nhiều trở ngại trong sự làm ăn, nhất là tháng thứ 6 trở đi, tháng 10 kỵ đi xa. Năm 19 tuổi, năm này là năm tốt cho tuổi, tài lộc điều hòa, việc làm ăn phát triển mạnh, tháng 4 và tháng 5 nên đi xa, làm ăn thì đại lợi. Năm 20 tuổi, năm này khó thoát qua việc hoa tài tốn của, nên cẩn thận xe cộ vào tháng 9. Những tháng khác bình thường.

Vào năm 21 tuổi, nhiều trở ngại và có thể gặp nhiệu sự khó khăn trong việc làm ăn, nên đừng có quá vội vàng mà thất bại. Năm 22 tuổi, cuộc sống tốt đẹp năm nay tạo được nhiều cơ hội để phát triển nghề nghiệp và việc làm ăn. Năm 23 tuổi thì kị vào những tháng 3, 6, 9 vào ba tháng này hao tài hay bệnh hoạn. Năm 24 tuổi thì việc làm ăn gặp nhiều may mắn và thâu đoạt nhiều kết quả về tài lộc khả quan. Năm 25 tuổi đầy nhựa sống, làm ăn phát triển mạnh mẽ, có thể tạo lập sự nghiệp vào năm này.

Từ năm 26 đến năm 30 tuổi:

Năm 26 tuổi thì nữ mệnh Kỷ Mão thành công hoàn toàn về mặt tình cảm tài lộc, có thể xuất phát tiền bạc thu nhiều lợi lộc. Năm 27 tuổi, cuộc sống khá tốt đẹp, gia đình hạnh phúc yên vui, có thể tạo lấy nhiều tài lộc. Năm 28 tuổi, công danh hay việc làm ăn đều phát triển lên cao, cuộc sống sung túc và vui tươi hoàn toàn. Vào năm 29 và 30 tuổi, gặp được nhiều điều may mắn, vào năm 29 tuổi gặp vận may, năm 30 tuổi có đủ cơ hội tạo nên sự nghiệp lớn.

Từ năm 31 đến năm 35 tuổi.

Năm 31 tuổi, năm nay là năm xấu, việc làm ăn bị ngưng trệ, có hao tài tốn của vào những tháng cuối năm, nên đề phòng mất cắp hay trộm đạo. Năm 32 tuổi, năm này trung bình, toàn năm không có việc gì quan trọng xảy ra trong cuộc đời. Năm 33 tuổi, năm này xấu vào những tháng 1, 4, 7, 10 trong những tháng trên không nên phung phí tiền bạc hay hùn hạp làm ăn bất lợi. Vào năm 34 tuổi thì gặp nhiều điều may mắn cho cả sự nghiệp lẫn tài lộc, năm nay làm việc gì cũng thắng lợi. Năm 35 tuổi, năm này trọn vẹn, việc làm ăn hay trong gia đình đều có nhiều sự tốt đẹp cho bạn, có thể gặp đại kỵ vào tháng 8 nên cẩn thận.

Từ 36 đến 40 tuổi:

Vào năm 36 tuổi, cuộc sống khá tốt, nên đi xa, xuất hành hay góp vốn làm ăn. Năm 37 tuổi thì đẹp đẽ cho vấn đề tình cảm gia đình. Năm 38 tuổi gia đình đầy đủ, con cái thuận hòa, tình cảm tốt đẹp. 39 tuổi, cuộc sống được vẹn toàn. NNawm 40 tuổi, là năm an nhàn nhất của cuộc đời bạn, năm nay có nhiều thắng lợi vẻ vang.

Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:

Vào năm 41 tuổi có hao tài, bệnh hoạn. Năm 42 tuổi, tình cảm gia đình vượng phát. Năm 43 tuổi, không được tốt đẹp lắm  cho cuộc sống, nên cẩn thận đề phòng ốm đau, bệnh tật trong gia đình. Năm 44 tuổi, sẽ có nhiều điều tốt về tình cảm và cả tài lộc. Năm 45 tuổi, có cơ hội phát triển mạnh mẽ về cuộc sống.

Từ năm 45 đến năm 50 tuổi:

Năm 46 tuổi không được tốt đẹp cho lắm. Vào năm 47 tuồi thì tài lộc khá sôn sẻ, cuộc sống ổn định hơn. Năm 48 tuổi, năm này không nên có những giao dịch lớn về tiền bạc lẫn tình cảm. Năm 49 tuổi là năm xấu, gặp vào tháng 10 và tháng 11 là đại kỵ. Năm 50 tuổi thì năm này đáng lo, bổn mạng suy yếu, có thể gặp cảnh buồn bực trong năm.

Xem thêm: Tử vi của nữ mệnh sinh năm 2000 tuổi gì? Mệnh gì?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi nữ mệnh tuổi Kỷ Mão 1999 thì nên kết hôn với nam tuổi nào?

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Mưa bụi và mưa rào

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện thứ nhất:

Người đệ tử vì không câu nệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

“Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!” Người đệ tử nhanh nhảu đáp.

“Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu.” Vị thiền sư nói.

“Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?” Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.

“Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo.”

Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.

Vị thiền sư giảng: “Trong đối nhân xử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt ‘quần áo’ của người khác”, tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do ‘ướt’ sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất.”

Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.

Cảm ngộ: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” –  Nghĩa là “Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. “Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn” – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.

Câu chuyện thứ hai:

Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: “Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?”. “Thiên không (Bầu trời)” Đệ tử đáp.

Vị thiền sư lại nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!”

Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: “Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?”

Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: “Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ.”

Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.

Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mưa bụi và mưa rào

4 lưu ý tháng cô hồn cho cả nhà cách xa xui xẻo

Trong tháng "mở cửa mả", gia đình cần chú ý những điều quan trọng trong nhà ở để tránh gặp vận hạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 1 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 2 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 3 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 4 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 5 4 luu y thang co hon cho ca nha cach xa xui xeo - 6
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 lưu ý tháng cô hồn cho cả nhà cách xa xui xẻo

Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu A

Người tuổi Sửu thuộc nhóm máu A thường rất nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Họ không bao giờ yêu theo kiểu
Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu A

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Sửu thuộc nhóm máu A thường rất nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Họ không bao giờ yêu theo kiểu "tiếng sét ái tình".

Bản thân là người nghiêm túc nên họ không chấp nhận một nửa của mình coi tình yêu như trò đùa. Khi đã yêu, họ rất chung tình với đối phương. Trong tình yêu, họ không để tình cảm lấn át lý trí.

Họ cần có một sự đảm bảo bền vững và ổn định cho cuộc sống về sau. Chính vì vậy, họ dành khá nhiều thời gian để tìm hiểu kỹ về hoàn cảnh gia đình, trình độ, sự nghiệp tương lai của đối phương rồi sau đó mới đi đến quyết định ngỏ lời yêu.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Nữ giới thuộc nhóm máu này, sau khi kết hôn sẽ trở thành những người vợ hiền, người mẹ tốt. Họ có thể thu xếp, vun vén chu tất cho gia đình ngay cả khi điều kiện kinh tế còn eo hẹp.

Để có thể duy trì cuộc sống gia đình hạnh phúc và luôn tràn ngập tiếng cười, những người phụ nữ tuổi này nên kết hôn với những người đàn ông lạc quan, thông minh, có khiếu hài hước.

Với nam giới, người phụ nữ thích hợp để bạn gắn bó cả cuộc đời phải là những người chăm chỉ, thông minh, năng động và mạnh mẽ.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Sửu nhóm máu A

Kiến thức phong thủy. Những cấm kỵ khi bài trí gương trong nhà –

Kiến thức phong thủy. Gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rất đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể cực xấu. Vì vậy cần lưu ý những điều cấm kỵ sau: Trong phong thủy, gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rât đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiến thức phong thủy. Gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rất đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể cực xấu. Vì vậy cần lưu ý những điều cấm kỵ sau:

Trong phong thủy, gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rât đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể cực xấu. Nó có thể giúp đưa vận khí tốt đến với gia đình hay cơ quan bạn.

Khi bạn biết kết hợp gương với các vận dụng khác trong gia đình thì nó cũng có thể giúp căn phòng bạn trông to hơn, sáng sủa hơn, do đó làm tăng sự thịnh vượng và may mắn cho bạn, đồng thời cũng giúp xua đuổi tà khí giúp gia đình bạn sống hòa thuận và êm ấm.

Tuy nhiên, khi trang trí gương trong nhà, gia chủ cần lưu ý những điều cấm kỵ dưới đây.

Có hai đại kỵ khi treo gương trong nhà đó là treo gương đối diện ngay với cửa chính của căn nhà và đối diện với giường ngủ. Cửa chính là nơi tiếp nhận nguồn năng lượng từ ngoài vào nên nếu bạn treo gương ngay đối diện cửa thì toàn bộ năng lượng tốt sẽ bị đẩy ngược ra ngoài.

guong-1

Thông thường chúng ta thích treo gương trong phòng ngủ vì sự thuận tiện, tuy nhiên nếu để gương chiếu ngay vào giường ngủ. Gương phản chiếu vào giường ngủ sẽ sản sinh ra nguồn năng lượng âm và gương được xem như người thứ ba xen vào làm đổ vỡ hoặc xáo trộn cuộc sống hôn nhân cũng như các mối quan hệ tốt trong gia đình.

Nếu nhất thiết phải đặt gương trong phòng ngủ thì tốt nhất nên đóng hoặc lấy vải che phủ gương lại trước khi đi ngủ. Thậm chí các vật có hình ảnh phản chiếu lại như tivi, máy tính, tranh bằng thủy tinh nếu đặt trong phòng ngủ cũng nên được che lại.

Một điều cấm kỵ nữa là tuyệt đối không được treo gương lên trần nhà.

Gương cũng không nên để ở những nơi mà có thể phản chiếu hình ảnh của các hóa đơn cần thanh toán, vì số lượng hóa đơn tăng lên đồng nghĩa với việc chi tiêu trong nhà cũng tăng lên.

guong-3

Những nơi khác trong nhà cũng cần tránh đặt gương theo hướng đối diện như cửa nhà vệ sinh, lò sưởi, những chỗ để nhiều thứ bừa bộn. Khi những thứ này được nhìn thấy thêm một lần nữa , chúng sẽ tạo nên nguồn năng lượng không tốt ảnh hưởng đến tinh thần của mọi người.

Chúng ta cũng nên lưu ý những vật dụng như thùng rác, cống thoát nước lâu ngày dơ dáy ở phía ngoài nhà cũng không nên để gương chiếu vào, nếu không thể tránh khỏi thì chúng ta nên tìm cách che đậy những vật này lại.

Không nên treo hai gương quay mặt vào nhau, vì nguồn năng lượng sẽ bị dội qua dội lại tích tụ ở đâu trong nhà bạn.

Bạn không nên chọn gương làm méo mó hình ảnh của người soi, hoặc loại gương làm bằng những mảnh nhỏ của gốm sứ, vì loại gương này làm tiêu tan đi nguồn năng lượng tốt và làm cho mọi người cảm thấy bị lẫn lộn mọi thứ

guong-4

Bên cạnh đó, bạn cũng không nên để gương dưới chân cầu thang vì khi đi xuống bạn sẽ nhìn thấy mình thiếu chân hay thiếu đầu. Nếu hàng ngày bạn cứ phải thường xuyên nhìn thấy hình ảnh không nguyên vẹn của mình bạn sẽ có cảm giác mọi thứ không toàn vẹn và hoàn mỹ như mình nghĩ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Những cấm kỵ khi bài trí gương trong nhà –

May mắn với thư pháp

Người Trung Quốc thời xưa rất thích treo tranh thư pháp trong nhà, đặc biệt là tranh chữ
May mắn với thư pháp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thư pháp là nghệ thuật viết chữ Hán bằng bút lông trên giấy, lụa, có bố cục đẹp với những nét chữ như tranh vẽ. 

Thư pháp chữ "Phúc"

Trước kia, viết chữ là minh họa cho bức tranh, tuy nhiên sau này là bức họa toàn bằng chữ. Đây là một loại hình nghệ thuật nổi tiếng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông được gọi là nghệ thuật thư pháp.

"Phúc". Nó có nghĩa là đem lại may mắn, hạnh phúc cho cả gia đình. Có nhiều người tin rằng treo chữ "Phúc" đảo ngược có thể giúp công việc kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận.

Thực ra không riêng gì người Trung Quốc, người Việt Nam vẫn thường treo những bức tranh thư pháp chữ "Tâm", "Đức", "Nhẫn"... Mọi người cho rằng bức thư pháp này có thể sẽ mang lại những điều tốt lành. Thư pháp và các biểu tượng có thể vẽ ra trên giấy và treo như tranh hoặc khắc lên gỗ, lên đồ đạc...

Thời trước, mỗi khi tết đến xuân về, mọi người vẫn thường đến cụ đồ để xin chữ. Những bức tranh thư pháp thường được treo hoặc dán vào những nơi trang trọng nhất. Trong phong thủy, tranh thư pháp được xem là biểu tượng mạnh và có hiệu quả nhất trong cách bài trí nội thất.

Người Trung Quốc lưu truyền một câu chuyện thú vị về thư pháp như sau

Nhà thư họa Vương Hy Chi thời Tấn nổi tiếng văn hay chữ tốt. Ông cứ viết chữ nào treo lên là hôm sau mất ngay chữ ấy.

Một hôm, để chuẩn bị đón năm mới, ông nghĩ ra một cách, viết câu đối họa theo câu thành ngữ "Họa vô đơn chí - Phúc bất trùng lai"  (Họa theo nhau mà đến - Phúc không bao giờ lặp lại). Ông viết mỗi 4 chữ:

Phúc vô song chí 

Họa bất đơn hành.

Nghĩa là:

Phúc không đến hai lần

Họa không đi đơn lẻ.

Mọi người đều cho rằng, ông ngớ ngẩn. Ngày tết ai lại treo câu đối như thế, đó là điều gở. Sáng hôm sau, mùng một tết, ông thấy câu đối còn nguyên, không ai lấy cả. Khi ấy ông mới viết tiếp cho trọn từng câu của vế đối như sau:

Phúc vô song chí kim triêu chí

Họa bất đơn hành tạc dạ hành.

Nghĩa là:

Phúc không đến hai lần hôm nay đến

Họa chẳng đi đơn lẻ đêm qua đi.

Không ngờ câu đối này của ông trở nên nổi tiếng và nghệ thuật thư pháp Trung Hoa cũng nổi tiếng từ đó.

(Theo Phong thủy để thành công trong công việc và kinh doanh)
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: May mắn với thư pháp

Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.
Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.

TOP 1 - Thiên Bình

Năm 2016, Thiên Bình sẽ là chòm sao tiền bạc rủng rỉnh nhất. Sao Mộc mang may mắn chiếu vào cung tài lộc, mang đến vận may tối cao cho Thiên Bình.
Nếu bạn cảm thấy thu nhập hiện giờ của mình không đủ chi tiêu hoặc lương không xứng với năng lực bản thân, hãy nhanh chóng hành động, thỏa thuận về việc tăng lương nhất định bạn sẽ được như ý muốn, còn muốn đầu tư hãy đầu tư… thời cơ tuyệt vời đang đến, đừng bỏ lỡ.

TOP 2 - Song Tử

Thu nhập của cung Song Tử tăng vọt trong năm 2016, nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài. Ngoài lương thì Song Tử còn có những khoản thu nhập ngoài sức tưởng tượng như tiền thưởng cao, hoa hồng nhiều.

Chú ý, bạn đừng phô trương quá nhé. Và Song Tử phải thay đổi kế hoạch tích lũy tiền bạc năm 2016, có như vậy vận may tiền tài mới đầy đủ. Bạn hãy lên kế hoạch chi tiêu hợp li, hãy chi những khoản cần thiết và lên kế hoạc trước, đừng nên chi tiêu tiền theo cảm hứng không tài vận sẽ tiêu tan đấy

TOP 3 - Bọ Cạp

Vài năm qua, tình hình tài chính của Bọ Cạp khá bi quan. Nhưng từ giờ, tình trạng đó sẽ chấm dứt. Sự vận hành của Sao Thổ khiến cung Bọ Cạp phải tốn không ít tiền của, nhưng khi Sao Mộc mang theo những điều tốt lành đến, bạn sẽ được thở dài nhẹ nhõm, không phải đau đầu về vẫn đề tiền bạc trong năm nay. Bạn sẽ không phải lo những khoản tiền chi lặt vặt từ trên trời rơi xuống nữa. Năm nay bọ cạp có thuận lợi về công việc nên tình hình lương bổng của bạn sẽ được cải thiện, bạn cũng sẽ thường xuyên nhận được những khoản tiền thưởng.

Trong năm 2016 này, Nếu những Bọ Cạp có đầu óc kinh doanh hãy tận dung cơ hội đầu tư để sinh lời, vận may đang mỉm cười với bạn đấy. Nếu mạnh dạn đâu tư thời gian và vốn liếng thì lời thu về sẽ cực kì nhiều đấy. Vậy nên Bọ Cạp đừng tỏ ra e dè hay sợ điều gì nhé, năm nay là năm nay mắn cả về công việc lẫn tiền tài của bạn.

TOP 4 - Bạch Dương

Trong năm 2016, các chú dê sẽ bước vào thời kỳ đỉnh cao của tài chính. Giai đoạn này, nếu bán hàng hoặc hợp có đồng kinh doanh với ai đó, các Bạch Dương sẽ gặp được khách hàng tốt, nhận được hoa hồng hào phóng.

Nếu tự kinh doanh, bạn cũng có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Năm nay Bạch Dương sẽ có thêm những mối quan hệ cực thuận lợi cho kinh doanh, bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ rất nhiệt tình từ bạn bè. Chính vì thế tình hình kinh doanh của bạn sẽ rất phát đạt. Nếu có ý tưởng kinh doanh nào đó, dù là lớn hay nhỏ thì Bạch Dương hãy bắt tay chuẩn bị thực hiện ngay đi nhé, đừng bỏ lỡ.

TOP 5 - Bảo Bình

Bảo Bình luôn là chòm sao khôn bao h phải lo lắng quá nhiều về tiền bạc. Đặc biệt cung giàu sang của Bảo Bình sẽ tiếp tục tăng mạnh năm 2016. Bảo Bình nên chăm chỉ làm việc để kiếm được nhiều tiền hơn - cơ hội đổi đời đã đến. Bạn có thể kiếm được nhiều hơn năm cũ nếu bạn thực sự chăm chỉ, bỏ thời gian và công sức. Bởi vì Bảo Bình có khả năng làm việc hiệu quả rất cao nên sẽ rất được trọng dụng.

Trong quá khứ, bạn có ý định đầu tư nhưng chưa thực hiện được? Vậy đây chính là thời cơ để bạn bắt tay hành động đấy. Tự mình bỏ vốn đầu tư và rủ thêm bạn bè cùng thực hiện cũng là 1 ý tưởng rất hay đấy.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Khi nào thì Bạn không lo thiếu tiền?

Sao Tử vi tọa cung Tài bạch, thiên về quyền thế, danh vị, có mệnh làm ông chủ, tọa cung Tài bạch thì tài vận rộng rãi ổn định. Không lo thiếu tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tử vi là đế Tài tinh, quý nhiều hơn phú, thiên về quyền thế, danh vị, có mệnh làm ông chủ, tọa cung Tài bạch thì tài vận rộng rãi ổn định, có tiền có thể chuyển đổi, tiền tài không thiếu, thường sinh ra trong gia đình phú quý. Cuộc đời không lo thiếu tiền.

sao-tu-vi

Có thể có được tài sản của tổ tông hoặc tiền tài trợ giúp của người khác, thường có được tài không phải do lao động mà có được, thu nhập cao, có tư thế của kiếm tiền nhưng không thích hợp bộc phát, nên dựa vào danh vọng để sáng tạo tài phú.

Sao Tử vi thích thể diện, chú trọng trật tự, tiền kiếm nhiều nên tiêu nhiều, cần chú ý tăng thu nhập và giảm chi tiêu, không được khoa trương tiền tài quá mức để tránh tài đến tài đi, cuối cùng vẫn là bàn tay trắng.

Sao Tử vi thuộc âm Thổ, là sao đế vương tôn quý, là chủ của cung Quan lộc, có khả năng hóa giải tai họa, chế hóa, bao dung.

Sao Tử vi quý là đế tọa, không thích độc tọa, khi độc tọa thì thiếu hiền thần phù tá, giống như vua cô độc, thấy ai nói cũng có lý, thích đao to búa lớn, tự phụ không có chủ kiến nên dễ bị gian thần tiểu nhân che giấu, độc đoán chuyên quyền, nếu không biết biến báo thì khó tránh khỏi nhiều việc không thực hiện được.

Phương thức quản lý tiền tài của sao Tử vi rất rộng, có hứng thú đối với cổ phiếu, bất động sản, đất đai, vàng bạc châu báu, ngoại tệ, nhưng không quá tính toán tiền nong, rất chú ý đến thế diện, thường thích sống trong tòa nhà đẹp, đi xe đẹp, mặc đẹp và mới, cuộc sống rất giàu có.

Sao Tử vi tôn quý, bản thân yêu cầu cao, có được tiền bằng chính nghĩa, làm việc luôn đòi hỏi sự hoàn mỹ, thường được người khác công nhận và tôn trọng, trở thành có quyền uy trong lĩnh vực nào đó. Nếu có cát tinh phù tá thì thích hợp sáng nghiệp kinh doanh thương mại, có thể kinh doanh thiên về văn nghệ, hoặc buôn bán độc nhất có tính đặc sắc, có bản quyền.

Sao Tử vi thường dễ chịu ảnh hưởng của các sao đồng cung hoặc các sao khác của cung vị Tam phương Tứ chính, ưa nhất là được sự phù trợ của 6 cát tinh, đồng thời cũng thích các sao như Lộc tồn, Thiên mã, Thiên tướng, Thái âm, Thái dương, Thiên phủ. Sao Tử vi gặp sát tinh thì kiếm tiền phải bôn ba vất vả, dễ gặp trắc trở hoặc hao tổn tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi nào thì Bạn không lo thiếu tiền?

2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Niệm Phật tu thân, đời đời phúc báo. Ích lợi cụ thể của tụng niệm là gì? Những người nào nên tụng kinh niệm Phật?
2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Niệm Phật tu thân, đời đời phúc báo. Niệm Phật không những mang tới sự thanh thản, bình yên mà còn khiến con người tìm ra phương hướng cho cuộc sống của chính mình. Ích lợi cụ thể của tụng niệm là gì? Những người nào nên tụng kinh niệm Phật?

2 loai nguoi va 5 thoi diem nhat dinh dung quen tung kinh niem Phat
 

1. Những người nên tụng kinh niệm Phật
 

Người sang giàu nên niệm Phật bởi phúc đức đời này đều đến từ việc tu hành của kiếp trước, người giàu sang phú quý kiếp này chính là người đã tu dưỡng đầy đủ nghiệp lành ở kiếp trước. Nhưng sang giàu không vĩnh viễn trường tồn, nếu tạo ra nghiệp chướng thì chẳng mấy chốc tiêu tan, sa vào bể khổ. Vì thế người giàu cần tụng niệm hồi hướng, tiếp tục tu nhân tích đức cho bản thân và gia đình để phúc ấy kéo dài.    Dẫu nhờ phước đức đã gieo mà kiếp này sung sướng thì cũng đừng vội mừng, tất cả chỉ là tạm thời mà thôi, khi về với cát bui cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Vậy thì bám víu vào những thứ hão huyền ấy liệu có ích gì. Tu Phật niệm kinh không phải chỉ để tiếp tục đời đời giàu có, kiếp kiếp ấm no mà quan trọng hơn là tìm thấy sự bình yên trong những ngày tháng đang sống.   Người nghèo nhất định phải niệm Phật. Kiếp trước xây ác nghiệp, kiếp này đền quả báo, để trả nghiệp nhất định phải thành tâm sám hối. Ngoài việc sống tốt, giữ tấm lòng thiện lương thì phải chăm chỉ tu dưỡng, nêu cao Phật hiệu để sớm xây thiện hạnh, tích lũy nghiệp lành cho mình.   Hơn thế nữa, cuộc sống nghèo hèn đau khổ về vật chất đã đủ để khiến con người mệt mỏi, cần có định hướng tinh thần níu giữ ta lại với đời. Giá trị ấy đến từ tu Phật, học Phật và hướng Phật, thấm nhuần tư tưởng từ bi hỉ xả của nhà Phật. Có như vậy thì mới tìm thấy được chân tâm ở cõi đời, cũng bớt khổ bớt đau, trong lòng có con đường sáng, tự dưng bỏ qua hết muộn phiền.   Khổ mà biết là khổ để thoát khỏi khổ ấy mới là kẻ trí. Khổ mà không biết khổ, cam chịu số phận thì phí hoài. Nếu nghĩ đời mình đã quá khốn khó, chẳng mong hòng gì, cầu Phật chỉ vô ích thì thật sai lầm. Cầu Phật không phải mong Phật giúp chuyển nghèo thành giàu, chuyển xấu thành tốt, đó là chuyện hết sức vô lý.   Niệm Phật là để bản thân giác ngộ, tìm ra chân lý, tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Tìm ra rồi mới biết sống thế nào cho tốt, sống tốt rồi đảm bảo thoát khổ. Con người trên đời ngoài vật chất, ngoài tiền tài còn có muôn vàn điều khác mang tới hạnh phúc, quên đi thiếu thốn vật chất, hướng tới sự giàu có ở các phương diện khác để cân bằng.   Trước chân tam bảo không phân biệt sang hèn, trước mặt Đức Phật không có người quý tiện. Nam nữ già trẻ trai gái, bất cứ ai có lòng đều có thể tụng kinh niệm Phật, tu dưỡng học đạo, không hề có cấm kị, không hề có giới hạn.    Sống trên đời dù giàu có thế nào, thành công ra sao, vinh hiển tột bậc cũng chẳng thể thoát khỏi 7 nỗi khổ lớn của đời người. Mà đã khổ thì phải tìm cách cải thiện, cách cải thiện tốt nhất chính là thường xuyên niệm Phật, có đạo dẫn đường tự tìm ra niềm vui trong nỗi khổ.  

2. Những lúc nên tụng kinh niệm Phật


nhung luc nen tung kinh niem phat
 
- Lúc bận rộn:   Lúc không có Phật cũng có thể niệm Phật vì Phật tại tâm, trong lòng có Phật chẳng cần tượng cần chùa. Ngồi ngay ngắn, hướng mặt về phía Tây, khởi tâm động niệm, tự tưởng tượng ra hào quang xán lạn của Đức Phật rồi chậm rãi tụng, thân tâm an lạc, mọi xấu xa khổ ải cũng bay biến tự bao giờ.    Tụng kinh trong lúc bận rộn, có thời gian niệm một câu thì niệm một câu, có thời gian niệm mười câu thì niệm mười câu. Ngay cả khi bận rộn, dù chỉ trống một khoảnh khắc cũng có thể hướng Phật mà cầu tụng, buông bỏ tạp niệm, sáng suốt tụng trì.    Nhiều người cho rằng tụng kinh phải thành khóa thành bài, ngồi suốt một giờ mới là đúng đạo. Phật giáo không kiểu cách như vậy, miễn có lòng thì ở đâu cũng được, miễn có tâm thì bao lâu cũng tốt. Lúc đi niệm Phật, lúc ngồi niệm Phật, nghỉ ngơi giữa giờ niệm Phật, trước khi đi ngủ niệm Phật đều có giá trị như nhau.   Vì thế đừng lo lắng rằng bản thân quá bận, quá nhiều việc, không thể dành thời gian sáng tối trưa chiều ngồi trước ban Phật để tụng niệm. Cứ tụng kinh khi nào có thể, người có lòng Phật sẽ chứng tâm. Nghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời người, muốn lúc nào thì hưởng lúc ấy, hưởng ngay cả khi thời gian hữu hạn, không gian hẹp hòi.
 
- Lúc nhàn rỗi:   Trên đời có quá nhiều nỗi khổ, nhân sinh có quá nhiều người khổ, người bận rộn còn muốn tu hành, vậy sao người rảnh rỗi lại không tu tâm hướng Phật. Người bận chỉ tụng niệm được đôi ba câu, tranh thủ thời gian còn người rỗi có thể gia trì khóa tụng mỗi sáng, trưa, chiều tối; được nghe kinh Phật, nghe giảng Pháp, thật tốt biết bao.   Nếu không tận dụng thời gian thì là uổng phí, không tu tâm để tâm trôi nổi thì là lãng phí. Duyên phận cho ta không vướng bận thì đừng bê trễ, cố gắng học Phật niệm kinh nhiều hơn, chẳng những thành người có ích, làm việc có ích mà còn tự điều chỉnh bản thân không sa ngã vào những thói hư tật xấu.   Người rảnh rỗi chẳng những tụng kinh niệm Phật đều mà còn có thể tới chùa tham gia tu trì, làm nhiều việc thiện để lời kinh thấm sâu, biến thành hành động. Thay vì ngồi một chỗ, hòa nhập cộng đồng Phật tử, hướng tới giác ngộ Phật giáo chẳng phải tốt hơn hay sao.
Xem thêm bài viết Tụng kinh - nghi thức dưỡng tâm tâm linh
 
- Lúc sai lầm:   Người có lúc phạm sai lầm, có lúc u mê lạc lối, cần phải tịnh tế để gia cố trí tuệ, một mặt sám hối mặt khác tăng cường sức mạnh để không tiếp tục đi sai đường. Niệm Phật về với chính đạo, mở lòng ra đón nhận những học thuyết, những sáng tỏ, những giác ngộ của Phật pháp. 
nhung nguoi nen tung kinh niem phat
 
Một người tu hành có thể khiến bản thân tốt đẹp hơn và cũng làm cho những người xung quanh tốt đẹp hơn. Vì sao? Vì tu hành giác ngộ, trí tuệ phóng khoáng thì tự nhiên đối nhân xử thế cũng rộng rãi, khéo léo hơn, dẫn dắt người khác một cách sáng suốt, truyền năng lượng tích cực.    Đặc biệt, người hướng Phật còn có thể truyền giảng đạo pháp và niềm tin tôn giáo của mình tới cộng đồng để tạo thành một tập thể hướng Phật. Một đồn mười, mười đồn trăm, nếu cao Phật hiệu, để tất cả cùng hướng thiện hướng phúc như mình.   - Lúc vui mừng:   Đừng vui mà quên đường, đừng thấy trước mắt mà nghĩ rằng nó sẽ kéo dài mãi mãi. Trong cái vui phải biết lo cho tương lai, trong cái vui vẫn phải giữ tâm thật bình thản bởi mọi thứ đều chỉ có tính thời điểm, nay được mai mất, không trường tồn vĩnh cửu. Vì thế thay vì nương nhờ vào phút giây ngắn ngủi, hãy hồi hướng tụng kinh niệm Phật để tìm được nguồn vui lâu dài.    Kiếp người khổ nhiều vui ít, có vui thì chỉ là tạm bợ chốc lát rồi qua đi, còn nỗi buồn thì cư đeo đẳng mãi. Thân tâm cảnh lạc, tìm thấy hạnh phúc trong việc tụng kinh niệm Phật thì niềm vui tăng lên gấp bội còn nỗi buồn sẽ nhanh chóng lùi xa.    - Lúc hổ thẹn:    Làm sai mà hổ thẹn, kiếp trước tu ác nghiệp kiếp này chịu quả báo cũng hổ thẹn, khi trong tâm không dám đối diện với chính mình, hãy tìm đến Phật pháp. Kinh Phật không lên án, không bài trừ, không xa lánh một ai, đón nhận tất cả chúng sinh, những người biết hối lỗi, biết tự nhận sai và quyết tâm tìm ra đường đúng.   Càng làm sai càng nên tụng kinh để nhận ra lỗi lầm và biết phương hướng sửa chữa, khai mở trí tuệ, lần sau không đi vào vết xe đổ. Trầm luân trong mê là nỗi khổ, muốn thoát khổ chỉ có tự thân cố gắng, Phật giáo cho phương tiện, mỗi người tự cứu lấy mình.
Xem thêm bài viết Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm
 
Tụng kinh niệm Phật không cầu danh lợi, không khoe tài năng, không phô trương thanh thế. Làm người tu hành chẳng những không giàu có, không nổi tiếng mà còn không hãnh tiến, không đạt được bất cứ thứ gì hữu hình. Nhưng giá trị vô hình là vô giá, tinh thần, năng lượng, tâm linh, trí tuệ mang tới thứ hạnh phúc cao hơn tiền bạc vật chất.    Niệm Phật không màng ngoại cảnh, không màng rào cản, không kể vui buồn, không so đo sang hèn, đó là thế giới của sự bình đẳng và trí tuệ, của lòng tin và thành tâm. Con người có thể thiếu bất cứ điều gì nhưng nếu thiếu đi đời sống tinh thần thì tuyệt đối không thể tiến tới cảnh giới của bình an được. 
Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốt 6 đạo lý cơ bản của việc tụng kinh niệm Phật Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Kiến thức phong thủy. Bài trí bàn làm việc như thế nào cho tốt? –

Kiến thức phong thủy. Hoa, Pha lê có rất nhiều lợi ích về mặt phong thủy ,… Nên đặt những vật thấp ở bên phải và vật cao hơn ở bên trái của bàn làm việc. Kiến thức phong thủy. Cây và hoa Hoa tạo ra năng lượng dương rất tốt cho không gian, nhất là tại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiến thức phong thủy. Hoa, Pha lê có rất nhiều lợi ích về mặt phong thủy ,… Nên đặt những vật thấp ở bên phải và vật cao hơn ở bên trái của bàn làm việc.

Kiến thức phong thủy.

Cây và hoa

Hoa tạo ra năng lượng dương rất tốt cho không gian, nhất là tại văn phòng. Bạn hãy đặt bình hoa tươi tại góc phía Đông của bàn làm việc. Không nên trưng bày hoa đã héo. Nên đặt một cây nhỏ xanh tươi ở góc Đông Nam của bàn làm việc để thu hút tài lộc và sự thăng tiến.

image_23191_021

Pha lê

Pha lê có rất nhiều lợi ích về mặt phong thủy. Bạn hãy đặt 1 miếng pha lê tròn ở góc Tây Nam của bàn làm việc để tạo mối quan hệ thân thiện với đồng nghiệp.

Đèn

Bạn hãy đặt 1 cây đèn ở hướng Nam của bàn làm việc. Đây là một trong những cách tốt để bạn tạo dựng danh tiếng của mình trong công ty.

Máy tính

Các thiết bị văn phòng bằng kim loại nên đặt ở hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc. Nên đặt những vật thấp ở bên phải và vật cao hơn ở bên trái của bàn làm việc.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Bài trí bàn làm việc như thế nào cho tốt? –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd