Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chọn vợ chọn chồng theo Thiên Can, Địa Chi

Khi xem tuổi để chọn vợ chọn chồng, ngoài các yếu tố như: Tam hợp, Lục hợp, Tứ hành xung, Bản mệnh (Ngũ hành nạp âm)…Còn chú ý đến “Thập Thiên Can” và “Thập Nhị Địa Chi”. Thập Thiên Can gồm có: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúy. Và Thập Nhị Địa Chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Chọn vợ chọn chồng theo Thiên Can, Địa Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khi xem tuổi chọn vợ chọn chồng theo phương pháp này thì lấy Thiên Can của Chồng ghép với Địa Chi của Vợ. Sau đây là bảng lập thành để các bạn tham khảo.
Chồng Can GIÁP lấy vợ :

– Tuổi Tý : (thuộc cách bẽ quế nơi cung thiềm) vợ chồng có cưới hỏi, chồng có quyền thế nhưng hậu sự thiếu âm đức nên con cháu về sau gặp tai họa lâm cảnh thiên la địa võng bủa vây.

– Tuổi Sửu, tuổi Dần : (thuộc cách mưa gãy cành hoa, đường mây lạc lối) vợ chồng không được tốt, có lấy nhau rồi cũng có thay đổi nên đường con cái không thuận lợi, có con không được nhờ vì bất hiếu hay có sinh không dưỡng. Đường quan lộc không được hanh thông.

– Tuổi Mão : (thuộc cách mùa thu lá rụng) cả hai khó sống bền vững, vợ thường hư thai, hay sinh khó nuôi dưỡng.

– Tuổi Thìn, tuổi Tỵ : (thuộc cách mây che núi cao) có sự giàu sang phú quý nhưng là tiền kiết hậu hung, hậu vận không tốt đẹp, con cái tha phương lập tổ cách ly gia đình.

– Tuổi Ngọ : (thuộc cách xe to gãy trục) như Thìn, Tỵ trước khá sau khô. Từ tuổi 40 trở đi nhiều gian nan, cần tích đức để có được cách “đức năng thăng sô”. Con khó nuôi.

– Tuổi Mùi : (thuộc cách đường mây lỡ nhịp) nếu cưới vợ xa quê được bền, đường con cái không nhiều khó nuôi.

– Tuổi Thân : (thuộc cách rồng thiếu nước) đường quan lộc đây gian truân trăc trở, thăng giáng dời đôi; làm hao tài tôn của gia đạo lại không an.

– Tuổi Dậu, tuổi Tuất : (thuộc cách bẽ quế cung thiềm, rồng vàng hiện đến) thi cử đậu cao, vợ đẹp con khôn, đường công danh sự nghiệp đắc tài đắc lợi. Sinh con trai đầu lòng là đúng cách.

– Tuổi Hợi : (thuộc cách đứng dưới đất nhìn trăng) trước tốt sau xấu, có vợ đẹp con ngoan, địa vị cao, nhưng hậu vận gặp tai ách giáng làm tiêu tan sự nghiệp.

Chồng Can ẤT lấy vợ :

– Tuổi Tý : (thuộc cách rồng cọp đều quỳ, đầu chó trổ tre) đường công danh đắc lộ, con cái phát đạt nhưng tài lộc sẽ không được vừa ý.

– Tuổi Sửu, tuổi Dần : (thuộc cách mặt trời mặt trăng giữa trời hoa nở khi gặp truyết rơi) học hành thi cử đều đỗ đạt có công danh địa vị lớn lao nhưng hậu vận sẽ gian nan nhiều cay đắng. Con cái có đứa giàu có có đứa bần hàn (hoa nở mà gặp tuyết rơi thì hoa rụng).

– Tuổi Mão : (thuộc cách cây liễu gặp gió đông, chim phượng hoàng gãy cánh) tiền vận hạnh phúc, tài lộc dồi dào nhưng hiếm muộn đường con, còn có con sẽ giảm phần quan lộ hậu sự lại đứt gánh.

– Tuổi Thìn, tuổi Tỵ : (thuộc cách góa bụa gặp nhau) nếu đã qua đời chồng vợ mới gặp nhau thì phát đạt rất mau chóng. Còn trai tân gái sắc lấy nhau thì trai nên ở rể chịu nhún nhường bên vợ cũng sẽ đẹp đôi, gái nhiều hơn trai.

– Tuổi Ngọ : (thuộc cách trời đất không mưa, trước tối sau sáng) lấy nhau sẽ phát đạt mau chóng, nhưng hậu vận có chuyện buồn khổ trong phòng khuê, đường công danh nhiều biến chuyển không tốt.

– Tuổi Mùi : (thuộc cách cá vượt vũ môn, rồng mây gặp hội) vợ chồng hạnh phúc phú quý song toàn, con cái thành đạt, có rể quý dâu hiền.

– Tuổi Thân : (thuộc cách rồng bay gặp vận) vợ chồng thành đạt nhưng bất ngờ gặp hình sát, nếu không về hậu vận của cải cũng không bên.

– Tuổi Dậu : (thuộc cách chim sa vào lồng, ngựa nhốt vào chuồng) nếu bạo phát sẽ bạo tàn nếu không cũng yểu tử. Trước vinh sau nhục, trước sướng sau khổ. Nếu trước khổ sau sẽ được bù đắp.

– Tuổi Tuất, tuổi Hợi : (thuộc cách trằng chìm dưới biển, rồng bị vây trong mây) vợ chồng nên an phận lúc mới cưới về sau sẽ được tiền của, còn mưu sự sẽ chóng chết yểu, con cái, công danh đâm trắc trở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vợ chọn chồng theo Thiên Can, Địa Chi

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho thường dùng vào những ngày đầu xuân, để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, thường là thương nhân, tiểu thương
Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho thường dùng vào những ngày đầu xuân, khách thập phương từ mọi miền đất nước đổ về đền Bà chúa Kho (Bắc Ninh) để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, trong đó đa phần là giới thương nhân,tiểu thương. Họ quan niệm “đầu năm đi vay, cuối năm đi trả”, muốn nhờ vía của Bà để ăn nên, làm ra, kinh doanh phát đạt.

Sắm lễ cúng lễ Đền Bà Chúa Kho

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Hạ lễ Đền Bà Chúa Kho

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

Văn Khấn lễ Đền Bà Chúa Kho

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

– Con xin kính lạy Tam giới Thiên chúa cập nhất thiết Thánh chúng.

– Con xin kính lạy Tam phủ cộng đồng, Tứ phủ vạn linh.

– Con xin kính lạy Thiên tiên Thánh mẫu, Địa thiên Thánh mẫu, Thủy tiên thánh mẫu.

– Con xin kính lạy Đức Chúa kho Thánh mẫu hiển hoá anh linh.

– Con xin kính lạy Đương niên hành khiển chí đức Tôn thần.

– Con xin kính lạy Đường cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.

– Con xin kính lạy Ngũ hổ thần tướng, Thanh bạch xà Thần linh

Hương tử con là:………………..Ngụ tại:……..

Ngày hôm nay là ngày……………………………

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh)

Tại sao có 18 vị La Hán trong Phật giáo?

Trong Phật giáo, Thập Bát La Hán là 18 vị tu luyện tới cực hạn, vĩnh viễn giải thoát khỏi luân hồi, xin giới thiệu cụ thể về 18 vị La Hán.
Tại sao có 18 vị La Hán trong Phật giáo?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Phật giáo, Thập Bát La Hán là 18 vị tu luyện tới cực hạn, vĩnh viễn giải thoát khỏi luân hồi, còn được gọi là Vô Cực Quả hoặc Giả Vô Học Quả. Xin giới thiệu cụ thể về 18 vị để bạn đọc có thêm thông tin.

Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh
 

1. Ý nghĩa chức danh La Hán trong Phật giáo

  La Hán là đệ tử đắc đạo của Phật, là chính quả có tu hành cao nhất trong Phật giáo. Tu đến cảnh giới La Hán tức là đã đoạn tận buồn phiền của tam giới, diệt trừ những điều đã thấy, vĩnh viễn giải thoát luân hồi. Về mặt ý nghĩa, La Hán có thể coi là Vô Cực Quả hoặc Giải Vô Học Quả, biểu thị đã đạt tới cực điểm, học hết mọi thứ, không có gì không thể học rồi.   La Hán trong Phật giáo có ba ý nghĩa:   Một là “sát tặc”, tức là loại bỏ mọi buồn phiền. Phật giáo dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi mê muội, vọng tưởng, nghi hoặc, bởi nó chính là nguyên nhân gây nhiễu loạn nội tâm thanh tĩnh, trở ngại chi tu hành, mang tới tình cảm tai hại. La Hán diệt bỏ mối họa này.   Hai là “ ứng cung”, gọi là chính quả La Hán, đã đoạn diệt với tất cả những nguyên nhân có thể dẫn tới sinh tử lưu chuyển, cả người thanh tĩnh, được trời cung dưỡng.   Ba là “vô sinh”, tức là La Hán đã tiến vào cảnh giới Niết Bàn vĩnh hằng bất biến, không cần bước vào luân hồi sinh tử, là cảnh giới bất sinh bất diệt. Xem thêm bài viết: Phật nhập cõi Niết Bàn để lại 4 câu trả lời cho mọi vấn đề.   Các vị La Hán xuất hiện khá sớm, chủ yếu xác định dựa vào căn cứ là sáng tác “Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La sở thuyết pháp trú ký” của Đường Đại Huyền Trang. Trong đó có đề cập tới 16 vị La Hán, là đệ tử được Phật cử ở lại nhân gian, không vào cõi Niết Bàn, được chúng sinh cung dưỡng để bảo vệ Phật hiệu.  Khi thuyết về 18 vị La Hán hưng khởi, người ta lý giải ý nghĩa của con số 18 là vì số 9 là số may mắn, bội số của 9 là 18 cũng là một con số rất tốt lành. Vì thế nên La Hán có 18 vị, chứ không phải 16 vị. Thực chất, mọi con số trong Phật giáo đều chỉ mang tính chất ước lệ tương trưng, hầu như không có căn cứ chính xác. Xem thêm bài viết: Số 7 có ý nghĩa thần thánh gì trong Phật giáo và các tôn giáo khác?   Qua các thời kì, nhiều dị bản về các vị La Hán xuất hiện, lưu truyền và được bổ sung nên tên gọi cùng sự tích, vị trí xuất hiện của các vị không đồng nhất. Ghi chép sớm nhất về 18 vị La Hán là của Tô Đông Pha người Bắc Tống, Trung Quốc. Tô gia chuyên tâm hướng Phật, quy về làm đệ tử cửa Phật, cùng với một vị đại sư vẽ ra Thập Bát La Hán thư, sau này lần lượt có nhiều sự thay đổi, bổ sung, thêm bớt hoặc hoán vị nhưng quy chung lại vẫn là cốt lõi tinh thần từ tác phẩm này.  

2. Giới thiệu 18 vị La Hán trong Phật giáo


Như đã nói ở trên, các vị La Hán trong Phật giáo được phóng tác theo truyền thuyết, qua mỗi thời kì đều có sự biến đổi, không đồng nhất nên ở các tài liệu khác nhau, ghi chép khác nhau thì tên tuổi và vị trí của các vị sẽ bị thay đổi. Dưới đây xin giới thiệu 18 vị La Hán theo dị bản gần nhất, phổ biến nhất.    1. Tân Đầu Lô Tôn Giả - Tọa Lộc La Hán, người cưỡi nai tiến vào hoàng cung khuyên bảo Quốc vương học Phật tu hành.

Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc
 
2. Già La Già Phạt Tha Tôn Giả - Hỉ Khánh La Hán, Hoa Hỉ La Hán, biết tất cả các pháp thiện ác, phân biệt mọi tốt xấu trên thế gian. Trước đây rất lâu, ở thời kì Ấn Độ cổ đại là một nhà hùng biện, lúc người biện luận thường mang theo nụ cười, nên mới gọi là Hoan Hỉ.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 2
 
3. Già Nặc Già Bạt Ly Noa Đóc Tôn Giả - Cử Bát La Hán, ngụ ở Đông Thắng Thân Châu, vị giữ bát hóa duyên, khuyến giáo hành giả, hình tượng trong các chùa là vị La Hán trên tay cầm chiếc bát.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 3
 
4. Tô Tần Đà Tôn Giả - Thác Tháp La Hán, ngụ ở Bắc Câu Lô Châu, là vị đệ tử cuối cùng mà Đức Phật thu napk, vì thường hoài niệm tới Đức Phật mà trong tay nâng Phật tháp.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 4
 
5. Nặc Cự La Tôn Giả - Tĩnh Tọa La Hán, ngụ ở Nam Thiệm Bộ Châu, còn có tên gọi là Đại Lực La Hán bởi trong quá khứ ngài là võ sĩ có sức lực vô cùng lớn, có thể di chuyển bất kì vật nặng nào.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 5
 
6. Bạt Đà La Tôn Giải – Quá Giang La Hán, là thị giả của Phật, chủ quản việc tắm rửa, ngụ tại Đam Không La Châu, hiền giả qua sông tựa như chuồn chuồn lướt nước, vô ngã vô thường.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 6
 
7. Già Lý Già Tôn Giả - Kỵ Tượng La Hán, là thị giả của Phật, ngụ ở tăng Già Đồ Châu, là người thuần phục thú.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 7
 
8. Đốc La Phật Đa La Tôn Giả - Tiếu Sư La Hán, ngụ ở Bát Thứ Nã Châu, trước kia là thợ săn bởi vì học Phật mà sau đó không sát sinh, sư tử đến tạ ơn nên có tên này.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 8
 
9. Tuất Bác Già Tôn Giả - Khai Tâm La Hán, trước khi xuất gia là thái giám, ở tại ngôi chùa nhỏ trong núi, cũng có dị bản nói trước đây là một người ăn mày thường cởi trần để tu hành, móc tim thấy có Phật nên có tên Khai Tâm.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 9
 
10. Bán Thác Già Tôn Giả - Tham Thủ La Hán, người sinh ra ở ven đường, sau khi tĩnh tọa xong thường vươn tay duỗi người nên gọi là Tham Thủ. 
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 10
 
11. Hầu La Tôn Giả - Trầm Tư La Hán, con trai ruột của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xuất gia trở thành một trong 10 đại đệ tử, được xưng là Mật Hành đệ nhất, ngụ ở Dương Cù Châu, đạo hạnh Phật hiệu ở vị trí hàng đầu.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 11
 
12. Na Già Tê Na Tôn Giả - Oạt Nhĩ La Hán, ngũ ở sườn núi non rộng rãi, tai lớn để nghe mọi chuyện, giữ lòng thanh tịnh.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 12
 
13.  Yết Đà Tôn Giả - Bố Đại La Hán, ngụ ở hang núi rộng rãi, trên vai thường cõng một chiếc túi vải, thường mở miệng cười lớn.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 13
 
14. Phạt Na Bà Tư Tôn Giả - Ba Tiêu La Hán, ngụ ở trong núi, sau khi xuất gia thương ngồi dưới cây ba tiêu tu hành, một ngày tu thành chính quả nên có tên đó. Hiên nay có nơi gọi là Bố Đại Di Lặc.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 14
 
15. A Thị Đa Tôn Giả - Trường Mi La Hán, là thị giả của Phật cùng với Kỵ Tượng La Hán, ngụ ở đỉnh núi Linh Thứu, khi sinh ra đời có hàng lông mày dài nên gọi tên Trường Mi.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 15
 
16.Chú Đồ Thác Già Tôn Giả - Khán Môn La Hán, là em của Bán Thác Già Tôn Giả, là người tận trung với cương vị công tác.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 16
 
17. Già Diệp Tôn Giả - Hàng Long La Hán, thời Ấn Độ cổ đại Long Vương lén lấy kinh Phật, ngài đi đánh hàng Long Vương để lấy lại, lập công lớn nên có tên Hàng Long.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 17
 
18. Di Lặc Tôn Giả - Phục Hổ La Hán, truyền thuyết xưa có con hổ thường qua lại ngoài miếu nơi ngài tu hành, ngài bèn mang cơm chay cho con hổ ăn, thuần phục nó nên gọi tên Phục Hổ.
Tai sao co 18 vi La Han trong Phat giao hinh anh goc 18
 
18 vị La Hán đạt tới cảnh giới bất sinh bất diệt, được người người cung dưỡng, có thể cắt đứt tất cả cảm xúc nhiễu loạn tu hành. Hiện nay trong các chùa thường đặt tượng 18 vị La Hán với tạo hình tương ứng với truyền thuyết.
Infographic: Truyền thuyết 18 vị La Hán
Tâm Lan  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao có 18 vị La Hán trong Phật giáo?

Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Dần

Người tuổi Dần sinh vào giờ Ngọ trí dũng và tài năng hơn người, là nhân tài của quốc gia, lập nên đại nghiệp lớn, được nhiều người kính trọng.
Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần sinh vào giờ Ngọ trí dũng và tài năng hơn người, là nhân tài của quốc gia, lập nên đại nghiệp lớn, được nhiều người kính trọng. 

 

Giờ Tý (23h – 1h)
 
Người tuổi Dần sinh vào giờ Tý thường có khát vọng lớn nhưng không được sự hậu thuẫn từ phía gia đình và người thân nên cuộc sống khá vất vả, nhiều buồn phiền. Làm việc gì cũng phải cẩn trọng, kiên trì, tránh nóng vội thì vận mệnh mới thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn.   Giờ Sửu (1h – 3h)
 
Đa phần người tuổi Dần sinh vào giờ Sửu đều thông minh, lạc quan, có tài giao tiếp vì được sao Hồng Loan chiếu mệnh. Người này làm việc gì cũng được quý nhân trợ giúp nên gặp hung hóa cát, trăm sự đều thuận, suốt đời không phải lo lắng về vật chất và nhân duyên khá tốt.   Giờ Dần (3h – 5h)
 
Người tuổi Dần sinh vào giờ bản mệnh đều thông minh hơn người, học vấn uyên thâm, văn chương xuất chúng, dù là người làm nghề về nghệ thuật thay khoa học đều giỏi giang. Người này vất vả từ khi còn nhỏ vì không được gia đình trợ giúp, nhưng lớn lên tự tay xây dựng cơ đồ, sự nghiệp phát triển rực rỡ.

Xem gio sinh phu quy cho nguoi tuoi Dan hinh anh
Ảnh minh họa
  Giờ Mão (5h – 7h)
 
Đa phần người tuổi Dần sinh giờ Mão có số đào hoa, phong lưu đa tình, học thức uyên thâm, trí tuệ minh mẫn nên nhân duyên rất tốt. Số người này được hưởng cuộc sống bình an, ít muộn phiền.   Giờ Thìn (7h – 9h)
Dù là người tài năng, thông minh, có học thức và sức khỏe tốt nhưng mệnh thiếu đường quan lộc và vận quý nhân, do đó công danh sự nghiệp bình thường, không có gì nổi bật. Nếu phát triển sự nghiệp ở xa thì có triển vọng hơn.   Giờ Tỵ (9h – 11h)
 
Cuộc đời người tuổi Dần sinh vào giờ Tỵ lắm truân chuyên, gian nan vất vả, phận kém may mắn lại không được thừa hưởng của cải từ tổ tiên nên sự nghiệp trắc trở. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân khá bình yên, không phải trải qua nhiều sóng gió tình cảm.
Giờ Ngọ (11h – 13h)
 
Người này tính tình cương trực, hiếu thuận với cha mẹ, yêu thương và chung thủy với vợ/ chồng, được hưởng phúc lộc từ con cháu.
Giờ Mùi (13h – 15h)
 
Người này được sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên mọi sự đều thành, gặp hung hóa cát, sống cuộc đời sung túc, an nhàn. Tuy nhiên, anh chị em trong gia đình không hòa hợp, điều đó khiến họ gặp không ít muộn phiền trong cuộc sống. Tuy nhiên, mọi việc đều được quý nhân trợ giúp nên đều suôn sẻ.   Giờ Thân (15h – 17h)
 
Vì có Tướng Tinh và sao Dịch Mã chiếu mệnh, người tuổi Dần sinh vào giờ Thân có số sống xa quê hương, làm việc ở nơi xa hoặc thường xuyên phải thay đổi việc làm hay chỗ ở. Người này tính tình cương trực, tinh thần kiên định, trung quân ái quốc, phù hợp với các hoạt động chính trị.   Giờ Dậu (17h – 19h)
 
Mệnh người tuổi Dần sinh giờ Dậu được Phúc Tinh chiếu rọi, thông minh giỏi giang, trí tuệ hơn người, có quý nhân phù trợ nên mưu sự dễ thành, gặp hung hóa cát, sự nghiệp phát triển, được nhiều người kính trọng.   Giờ Tuất (19h – 21h)
 
Được sao Hoa Cái ứng mệnh, người này tài năng xuất chúng, lập nên nghiệp lớn làm rạng danh tổ tiên. Thời thơ ấu của người này khá vất vả, không được nương tựa vào gia đình, tự mình gây dựng sự nghiệp, vận thế hưng vượng khi bước vào trung vận.   Giờ Hợi (21h – 23h)
Đa phần người tuổi Dần sinh vào giờ Hợi đều có tài năng, tính cách độc lập tự chủ nhưng thiếu may mắn nên cuộc sống nhiều thăng trầm. Người này tuy có thể lập nên đại nghiệp, vinh hoa một thời nhưng không bền vững. Nếu biết cách tận dụng sự giúp đỡ và ủng hộ của người khác một cách khéo léo, sự nghiệp sẽ bền vững hơn.

Kết luận: Giờ sinh phú quý của người tuổi Dần là giờ Ngọ, Mùi, Dậu và Tuất.

Tâm Nhân (Theo XZ)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Dần

Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Phật viết, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này 1 lần gặp thoáng qua. Nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người để hiểu rõ chữ duyên
Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật viết, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này 1 lần gặp thoáng qua. Nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người để hiểu rõ hơn nỗi ấm lạnh của chữ duyên trong đời.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Bai phap Duyen Chi Ta Gap Mot Nguoi - chi loi duong yeu hinh anh
 
Phật dạy rằng, người với người gặp gỡ là nhờ duyên, xa nhau cũng vì duyên. Muốn cũng không cầu được, không muốn cũng không tránh được. Vì thế mà mới có "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ".

Trong đời người, dù chỉ lướt qua cũng mang đến cho ta bao điều đáng quý, không ai là vô nghĩa. Vì đâu ta gặp một người, vì đâu ta thương một người, vì đâu ta và người làm nhau hạnh phúc, làm nhau đau khổ? Ấy là vì đời ta có duyên với nhau.

Người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu; người đang chông chênh trước một cuộc tình, người đang say đắm trong tình yêu hạnh phúc, hãy nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người. Nhất định Phật sẽ chỉ đường dẫn lối cho bạn hiểu rõ chân tướng của chữ duyên.

Hiểu duyên thì sẽ thuận duyên, người đến mở rộng lòng, người đi vẫn hoan hỉ, sống an nhiên tự tại. 

   

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Sao nào trong tử vi chiếu mạng thì được làm vua

Sao nào trong tử vi chiếu mạng thì được làm vua (Một bài viết hay về ca các chòm sao khi chiếu mạng thì được làm vua).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao nào trong tử vi chiếu mạng thì được làm vua

Sao nào trong tử vi chiếu mạng thì được làm vua

một vị giáo sư Trung học ở Nha Trang, từng nghiên cứu Tử vi tìm hỏi tôi và nêu thắc mắc về lá số của Vua Bảo Đại in trong sách tử vi của Vân Đằng Thái Thứ Lang và cũng có đăng trong một số báo Xuân Công Luận.

Tôi xin sơ lược vài nét: Tuổi Quý Sửu, sinh tháng 9, ngày 23, giờ Dần, thân cư Quan Lộc, có Liêm Tướng ngô Triệt.

Vị giáo sư ấy thắc mắc rằng:

Dù không lừng lẫy thì ông Bảo Đại cũng đã hai lần làm Vua, hưởng đủ tước lộc của một vị Vua, thế mà thân cư Quan Lộc có Liêm Tướng ngộ Triệt. Vậy lá số đó có thật là lá số của ông Bảo Đại hay chỉ do một số học giả tử vi nào đó đặt ra cho có chuyện vậy thôi.

Cũng có một vị giáo sư Cử nhân Toán học, nghiên cứu tử vi từ Quy Nhơn vào Nha Trang gặp tôi mấy lần nói chuyện về Tử vi, hứa tặng tôi một số tài liệu về Toán học và Thiên văn của Trung Hoa xưa kia và cũng nêu nên một số thắc mắc tương tự.

Những câu chuyện ấy, những thắc mắc ấy đã đưa tôi đến ý nghĩ bài viết này.

Có lẽ vì Vua ở ngôi vị cao nhất, có nhiều uy quyền nhất, hưởng nhiều tiện nghi nhất, cho nên, dù không có mộng làm Vua, ai cũng có thể có lần tự hỏi: "Có ông sao nào chiếu mạng mà lại được làm Vua, sung sướng thế".

Nhìn vào các sách Tử vi, có sách nói đến các bộ sao làm Vua, có sách lại gọi tổng quát là Phi thường cách .

"Mệnh hội Tử - Phủ - Vũ - Tướng cách, thân hội Sát - Phá - Liêm - Tham cách, lại thêm Tả - Hữu; Khôi - Việt; Xương - Khúc; Long - Phượng; Hồng - Đào; Khoa - Quyền - Lộc …".

Vua ở ngôi vị cao nhất, nhiều quyền uy nhất, hưởng nhiều tiện nghi nhất… cái gì cũng phải hạng nhất, một quan niệm này đã đưa đến việc gom hết các bộ sao tốt nhất rồi nói rằng đó là cách của bộ sao làm Vua. Thật là một quan niệm giản dị, không cần nhiều suy luận. Thật là một quan niệm "Quân (Vua) vi quý - Xã tắc thứ chi - Dân vi kính".

Đúng về phương diện nghiên cứu Tử vi, chúng ta không thể chấp nhận một công thức giản dị như vậy được, vì những lý do sau đây:

Nếu Mệnh, Thân đã gom hết tất cả các sao tốt nhất, ắt chỉ còn các sao xấu ở các cung khác; Mệnh, Quan, Tài, Di, Phúc đã quy tụ quá nhiều, đã vơ hết các sao tốt, thì khi đại hạn đi đến các cung Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Tử tức, hoặc Điền Trạch ắt chỉ còn các sao xấu dồn lại, lúc này làm Vua với ai. Một là số mà cứ một cung này được quá nhiều các sao tốt chiếu vào, đến một cung kế đó lại chỉ có toàn các sao xấu là một lá số mất quân bình, không thể làm thành việc lớn. Cứ một đại hạn quá tốt lại đến một đại hạn quá xấu; cứ một tiểu hạn quá tốt lại đến một tiểu hạn quá xấu thì làm ăn được việc gì lớn, lâu dài. Do đó chúng ta không thể làm một công việc giản dị như là tưởng tượng ra một công thức gồm toàn các sao tốt quy tụ hết về Mệnh, Quan, Tài, Di, Phúc Đức rồi nói rằng những sao này thì được làm Vua, là Phi thường cách.

Dù cung Mệnh có gom được hết cao sao tốt, thì cũng không có nghĩa là vừa lọt lòng mẹ đã làm Vua rồi và làm Vua cho đến lúc mãn đời.

Đến đây chúng ta chú trọng đến sự quân bình trong lá số. Mất sự quân bình trong các cung đại, tiểu hạn thì khó thành việc lớn được, hoặc nếu có thành thì cũng chỉ thành trong nhất thời mà thôi. Cần chú trọng đến sự quân bình, sự kết hợp đúng cách giữa các bộ sao ở cung Mệnh và các bộ sao ở Đại hạn.

Xin lấy một ví dụ khác cho dễ hiểu: Tôi đã xem nhiều lá số Mệnh có chính tinh đắc địa, hội khá nhiều các bộ sao như: Xương - Khúc; Long - Phượng; Khôi - Việt; Quang - Quý; Tam hoá… thế mà cũng chẳng đỗ đạt được cao, chỉ vì đại hạn tuổi thanh niên ở cung Huynh đệ hoặc cung Phụ mẫu lại có quá nhiều sao xấu (Mệnh đã gom hết cả các sao tốt rồi, còn gì cho những cung khác) thế là việc học gián đoạn nửa chừng. Đó chỉ là những người thông minh để mà thông minh vậy thôi, chứ chẳng đạt được gì cả. Trái lại, những người đỗ đạt được cao, đến Cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ … là những người được chính tinh miếu, vượng toạ thủ mệnh hoặc có tính cách thông minh như Thiên Cơ, Thái Âm, Thái Dương … mệnh chỉ cần một bộ văn tinh như: Khôi - Việt, hoặc Xương - Khúc. Liên tiếp mấy đại hạn kế đó như cung Huynh, Thê hoặc cung Phụ, Phúc Đức có chính tinh miếu, vượng và các sao khác (hợp cách với các bộ sao sẵn có ở Mệnh) như Long, Phượng, Phụ, Cáo, Ấn, Khoa, Lộc… thì đỗ đạt được rất cao. Đó là sự kết hợp giữa Mạng và Đại hạn, Mạng đã chứa sẵn sự thông minh, đi đến đại hạn có các sao thuận lợi cho sự thi cử thì mới đỗ đạt được cao. Mạng có quá nhiều văn tinh mà đi đến các đại hạn kế tiếp toàn các sao xấu thì cũng chẳng thành đạt gì.

Một khía cạnh trong việc nghiên cứu một lá số tử vi là cần chú ý đến sự quân bình, tương xứng giữa các cung. Một cung gồm toàn các sao tốt, lại đến một cung có quá nhiều sao xấu là một lá số mất quân bình. Có khi là người có tài mà ba chìm bẩy nổi, không thành công lớn được. Về khía cạnh này chúng ta cần chú ý đến sự kết hợp đúng cách giữa cung Mệnh và các sao trong cung đại hạn để có thể thành sự lớn. Mệnh Viên thì Viên là bức tường thấp xây xung quanh một khu đất, chỉ về một cái cốt cái trung tâm, cái căn bản, cái nền tảng. Gọi là Mệnh - Viên hoặc gọi là cung Mệnh - Nếu gọi là Cung - Mệnh - Viên, thì hoặc là thừa chữ Cung, hoặc là thừa chữ Viên chẳng khác nào khi nói dư chữ như Nhà - Văn - Sí. Trong một số những lá số tử vi xưa kia, học giả còn dùng chữ Bản Mệnh để gọi thay cho chữ Mệnh Viên.

Những bộ sao Mệnh Viên là những tính chất cát, hung đã có sẵn trong cái Mạng của mình, lại kết hợp với những bộ sao tốt, xấu ở đại hạn thì sẽ thành ra kết quả tốt hoặc xấu nhiều.

Đây không phải là phương pháp luận đoán tử vi của riêng tôi, mà phương pháp này đã thể hiện qua các câu phú của Trần Đoàn. Tôi xin trích một vài câu làm ví dụ:

"Đế tinh tại Thuỷ, nan giải tai ương, Hạn hữu sát tinh Thìn Tuất, hình hao khôn vị thoát…".

"Tử Phá Một cung, vô ưu hoạ ách, Vận lai Phụ Bật Thổ cung, nguyện vọng đắc như cầu…".

Dĩ nhiên là việc áp dụng các câu phú và việc luận đoán một lá số thì luôn luôn phải chú ý đến sự chế hoá. Nhưng, những câu phú kể trên, cũng như còn nhiều câu phú khác nữa, cho chúng ta thấy rằng cần kết hợp các sao ở cung Mệnh và cung đại hạn để luận đoán.

Thí dụ: Tử Vi cư Ngọ nhập miếu, đại hạn lại đến cung Mão có Nhật (và Nguyệt ở Hợi). Thế là Tử Vi gặp Nhật, Nguyệt rất rực rỡ được bộ chính tinh quá tốt đã, nếu lại được các bộ sao khác cũng hợp cách thì sự nghiệp thật là to lớn khó tả. Đó là cách Tử Vi gặp Nhật, Nguyệt chứ nào có phải như là "Công thức ma"; Tử Vi có Thái Âm, Thái Dương hợp chiếu, ở các cung tam hợp chiếu lên (như tôi đã có dịp đọc được trong một vài cuốn sách tử vi và trong một tờ tuần báo nói về Tử vi).

Vua cũng năm bảy đường Vua, có những ông Vua u mê, văn chương chẳng giỏi, sáng suốt cũng không, chỉ thừa hưởng sự nghiệp của Tiên Đế, rồi nghe lời nịnh thần, đánh mất Ngai vàng chắc là không có các bộ sao thông minh ở cung Mệnh. Có những ông Vua gần trọn đời khổ công chiến đấu lập quốc, lại có những ông Vua mãi quốc cầu vinh; có những ông Vua uy danh lừng lẫy, và có những ông Vua không có mấy thực quyền.

Sao lại có thể đưa ra một công thức các bộ sao làm Vua.

Một vài người không biết Tử vi lại gặp phải ông Thầy Tử vi phỉnh nịnh: "Mạng của ông chỉ thiếu một vị sao này, một vị sao nọ là làm Vua…". Không hiểu mấy ông Thầy đó tính cho người ta làm Vua gì đâya Vua Nghiêu, Vua Thuấn hay Vua Trụ, Vua Kiệt; Vua Lê Thái Tổ hay Vua Lê Chiêu Thống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao nào trong tử vi chiếu mạng thì được làm vua

Dự đoán số mệnh qua họ tên (P1)

Họ tên được chia làm 5 cách, đó là: Thiên, Địa, Nhân, Tông, Ngoại. Ngoài Thiên cách là bất di bất dịch ra, các cách còn lại nên chọn dùng số lành, tốt đẹp. Thiên cách là vận thành công của nhân cách. Nhân cách là nền tảng cơ bản của địa cách, chúng nên tương sinh lẫn nhau.
Dự đoán số mệnh qua họ tên (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Họ tên được chia làm 5 cách, đó là: Thiên, Địa, Nhân, Tông, Ngoại. Ngoài Thiên cách là bất di bất dịch ra, các cách còn lại nên chọn dùng số lành, tốt đẹp. Thiên cách là vận thành công của nhân cách. Nhân cách là nền tảng cơ bản của địa cách, chúng nên tương sinh lẫn nhau.

1- Phân loại năm cách.

Thiên thuộc dương, Địa thuộc âm, trời đất âm dương giao hoà sinh vạn vật, đây là Lý của trời đất, tạo hoá. Tên của con người không chỉ là ý nghĩa của người mà còn bao hàm cả Lý của trời đất tạo hoá, điều này giải thích nguyên nhân vì sao họ tên lại chia thành Thiên, Địa, Nhân. Vạn vật đã có trong ắt phải có ngoài, đã có chia rời ắt có tụ hợp, đây là cơ sở để định Tổng và Ngoại cách.

Họ là Thiên cách, tên là Địa cách, chữ cuối cùng của họ và chữ đầu tiên của tên là Nhân cách, tổng cộng các nét cả họ lẫn tên là Tổng cách, lấy số nét tổng cách trừ đi số nét của nhân cách thì được Ngoại cách.
Tam tài: Thiên, Địa, Nhân là nền tảng của 5 cách.


2- Giải thích năm cách.

Thiên cách: Họ từ hai chữ trở lên (họ phức) thì tính cả số nét của họ và tên. Họ thường thì thêm một số giả vào để làm Thiên cách, cách này do người xưa truyền lại. Số lý của nó không ảnh hưởng trực tiếp, mà có thể xem nó như mối quan hệ giữa mình với cha mẹ và người trên, số lý của Thiên cách vốn không có tốt xấu vậy.

Nhân cách: Còn gọi là "Chủ vận", là trung tâm điểm của họ tên. Vận mệnh của cả đời người đều do Nhân cách chi phối, ảnh hưởng, đưa đẩy tới. Phép tính Nhân cách là lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên. Muốn dự đoán vận mệnh của người thì nên lưu tâm nhiều tới cách này từ đó có thể phát hiện ra đặc điểm vận mệnh và có thể biết được tính cách, thể chất, năng lực của họ. Số lý của Nhân cách liên quan tới Thiên, Địa cách, biến hoá vô cùng, nên bất kỳ thế nào cũng nên chuyên tâm học hỏi, lý giải, tổng hợp các mối quan hệ này.Địa Cách: Còn gọi là "Tiền Vận" (trước 30 tuổi), Nó liên qua lớn tới vận mệnh, kết hợp cùng với Thiên, Nhân cách ảnh hưởng tới đời người. Cách tính Địa cách là tính tổng số các nét của tên. Địa Cách được xem như là mối quan hệ giữa mình với con cái, bạn bè thuộc hạ.

Ngoại cách: Lấy tổng số nét của Tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách thì có Ngoại cách, nó còn được gọi là "Phó vận" Cách này chỉ về mối quan hệ giữa mình với xã hội, còn có thể xem phúc đức dày hay mỏng.
Tổng cách: Cộng tất cả các nét của họ và tên lại thì được Tổng cách, chủ vận mệnh từ trung niên về sau, cách này còn được gọi là "Hậu vận".
Lấy số nét đã hình thành từ 5 cách này đối chiếu với các vận 81 số thì có thể biết một cách khái quát cát hung, lành dữ, hay dở của nó.
Năm cách này dùng lý luận tượng số của kinh Dịch để phân tích, dựa vào số nét và quy tắc nhất định để thiết lập số lý cùng mối quan hệ của 5 cách và vận dụng đạo lý Âm Dương Ngũ hành sinh khắc để suy đoán các vận thế của con người. Nội dung của phép phân tích 5 cách này như sau:

+ Từ mối quan hệ số lý của Nhân cách và Ngoại cách, ta có thể dự đoán được tính cách và tình hình chung của cả cuộc đời.
+ Từ số lý của Địa cách ta có thể đoán được quá trình thời thanh niên của con người (tiền vận) cùng mối quan hệ của họ với con cái, thuộc hạ, bạn bè đồng nghiệp.
+ Từ số lý của Tổng cách ta có thể biết được thời vận từ tuổi trung niên về sau (hậu vận).
+ Từ mối quan hệ số lý của 3 cách Thiên, Địa, Nhân ta có thể đoán được tình trạng sức khoẻ và cuộc sống có nhiều thuận lợi hay không.
+ Từ mối quan hệ số lý của 2 cách Thiên và Nhân ta có thể xét được mức độ thành công trong sự nghiệp của con người.
+ Từ mối quan hệ số lý của 2 cách Địa và Nhân ta có thể đoán được vận cơ bản của người có vững chắc hay không.
+ Từ mối quan hệ số lý của Nhân cách và Ngoại cách ta còn có thể biết được tình hình giữa người với xã hội cùng phúc đức dày mỏng của họ.

3- Các vận mệnh mà số lý biểu thị.
Số biểu thị may mắn: 1, 3, 5, 7, 8, 11, 15, 16, 17, 21, 23, 24, 25, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 47, 48, 52, 57, 61, 63, 65, 67, 68, 81.
Số biểu thị rủi ro: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 28, 30, 34, 40, 42, 43, 44, 46, 50, 53, 54, 55, 56, 58, 59, 60, 62, 64, 66, 69, 70, 72, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80.
Số biểu thị trung bình: 27, 29, 36, 38, 49, 51, 55, 58, 71, 73.
Số biểu thị tiền vận: 1, 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 23, 24, 25, 31, 32, 33, 45, 52, 61, 63, 81.
Số biểu thị hậu vận: 7, 8, 17, 29, 37, 41, 47, 48, 57, 58, 67, 68.
Số biểu thị tự động vận: 1, 13, 31, 37, 48, 52, 57, 67, 71.
Số biểu thị tha vận động: 3, 5, 6, 7, 8, 15, 16, 24, 32, 35, 38, 41, 45, 47, 58, 68.
Số biểu thị vận làm quan: 16, 21, 33, 23, 39.
Số biểu thị vận tình yêu: 7, 17, 18, 27, 25, 37, 47.
Số biểu thị vận gặp nạn: 9, 10, 14, 19, 20, 22, 28, 30, 34, 44, 50, 54, 56, 58, 59, 60, 70.
Số biểu thị vận cô đơn: 4, 10, 12, 14, 22, 28, 34.
Số biểu thị vận khó khăn gian khổ: 3, 4, 6, 8, 9, 10, 12, 14, 17, 18, 19, 20, 28.
Số biểu thị tài năng nghệ thuật: 13, 14, 26, 29, 33, 36, 38.
Số biểu thị vận giàu có: 15, 16, 24, 32, 33, 41, 52.
Số biểu thị vận đào hoa: 4, 12, 14, 15, 16, 31, 32, 35, 54.
Số biểu thị tính đam mê tửu sắc: 17, 23, 24, 27, 33, 37, 43, 52, 62.
Số biểu thị người goá chồng, quả phụ: 21, 23, 26, 28, 33, 39.
Số biểu thị người con gái hiền lành: 5, 6, 15, 16, 32, 39, 41.
Số biểu thị hôn nhân muộn màng: 9, 10, 12, 17, 22, 28, 34, 35, 38, 40.
Số biểu thị người xinh đẹp: 15, 19, 21, 24, 28, 32, 33, 42, 4, 13, 14, 24, 31, 37, 41.
Số biểu thị vận phá sản: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 30.
Số biểu thị vận thừa kế gia sản: 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 21, 24, 32, 35.
Số biểu thị vận phá tán, hao tổn: 14, 20, 36, 40, 50, 80.
Số biểu thị vận có con: 11, 13, 39, 41.
Số biểu thị hiếm muộn con: 10, 34
Tổng hợp phán đoán bối đại vận.
Trước tiên nên phân tích kỹ đặc tính của năm cách dùng mối quan hệ phối hợp của chúng, sau đó hãy tổng hợp phán đoán mới có thể có được kết luận chính xác. Ví như bản thân Thiên cách tuy không ảnh hưởng lớn lắm với vận mệnh, song nó vẫn có vai trò riêng cùng sự phối hợp với nhân cách.

1- Sự ảnh hưởng của chủ vận (Nhân cách)
Nhân cách có ảnh hưởng lớn tới vận mệnh cả đời người. Trong 5 Nhân cách nó đóng vai trò chính. Người có số biểu thị may mắn thì dễ có được giàu sang hạnh phúc, kẻ không may mắn gặp phải số lý biểu thị rủi ro, ắt gặp nhiều tai hoạ. Song mức độ may rủi, lành dữ của nó còn có quan hệ mật thiết với các cách khác.

Phàm người có họ và tên đều có số lý biểu thị may mắn, nhưng Nhân cách của họ thuộc số lý biểu thị tai hoạ, rủi ro thì người ấy vẫn gặp tại hoạ như thường. Còn người có họ tên thuộc số lý biểu thị tai hoạ, nhưng Nhân cách lại là số lý biểu thị may mắn, phối hợp cùng Thiên Địa cách tốt đẹp thì người đó vẫn gặp may mắn, sống hạnh phúc.

Căn cứ vào thống kê, thì nhân cách có số lý biểu thị may mắn bao gồm các số: 3, 5, 6, 11, 15, 16, 21, 23, 24, 31, 32, 37. Nhân cách có số lý biểu thị rủi ro gồm các số: 4, 9, 10, 19, 20, 26, 34, 44. Nhân cách có các số 7, 8, 17, 18 thì chỉ về tính cách, người có các số này thì ý chí kiên cường, có quyết tâm, dũng khí vượt mọi gian nan thử thách. Nhân cách có các số: 27, 28 thì chủ về tai hoạ, bệnh tật, vất vả, thường bị người khác phỉ báng ... Nhân cách có các số 2, 12, 14, 22 thì chủ tính tình nhu nhược, phúc mỏng, sự nghiệp tầm thường, khổ vì con. Cho nên, dù có họ tên thế nào, nếu nhân cách thuộc số rủi ro, tai ách thì họ tên đó chẳng phải là tốt đẹp. Với các số 4, 9, 19, 20 có trong nhân cách thì đó là điềm báo hung hoạ vô cùng, nếu không sớm đổi tên chỉ e khó tránh tai hoạ rủi ro, dẫn đến người chết nhà tan.

2- Sự ảnh hưởng của phó vận (Ngoại cách).
Phó vận phụ trợ cho chủ vận, nó cũng có một vai trò khá quan trọng trong việc ảnh hưởng tới vận mệnh của con người.

Chủ vận tuy có số lý biểu thị may mắn, nhưng nếu phó vận gặp số lý hung thì cũng không gặp may mắn hoàn toàn, sẽ gặp bất trắc rủi ro tiềm ẩn trong may mắn. Nếu chủ vận và phó vận đều là số lành, cát, lại thêm Tổng cách và Địa cách không khuyết hãm thì mới là hạnh phúc, may mắn vẹn toàn.
Nhân cách và Ngoại cách của họ tên tựa như một hệ thống tổ chức trong và ngoài cơ thể con người, chúng có mối quan hệ rất mật thiết.

Nếu Nhân cách thuộc số lý hung, thì người đó dễ bị bệnh tật về nội tạng hoặc bệnh về đường hô hấp. Nếu Ngoại cách thuộc số hung, thì dễ mắc bệnh ngoài da hoặc ngoại thương.
Về gia đình thì chủ vận tượng trưng cho chủ nhà, phó vận thì cai quản vận mệnh của vợ con và thân quyến.

3- Sự ảnh hưởng của tiền vận (Địa cách).

Nhân cách và Ngoaạicách có thể ví như quan hệ giữa trong và ngoài, còn Địa cách và Tổng cách thì lại như mối quan hệ trước sau. Địa cách hay còn gọi là tiền vận, có ý nghĩa như một nền tảng cơ bản, vững chắc đối với Nhân cách.
Tiền vận cai quản vận mệnh con người từ khi mới sinh ra cho đến năm 30 tuổi, nó cũng có vai trò khá lớn trong cuộc đời con người, song nó chỉ đặc biệt ảnh hưởng mạnh cho tới năm 30 tuổi và sau đó giảm dần liên tục. Cho nên tiền vận thuộc số cát thì thuở niên thiếu ắt được sung sướng và ngược lại.

Nếu tiền vận tuy là số cát, mà chủ vận, phó vận là số hung, thì vẫn khó đạt được thành công và hạnh phúc lâu bền.
Sau khi đã biết tiền vận, ta còn phải xem xét hậu vận có phối hợp thích đáng hay không thì mới có thể đoán định vận mệnh một cách chính xác.

4- Sự ảnh hưởng của hậu vận (Tổng cách).
Hậu vận được tính bằng cách lấy tất cả số nét viết của họ và tên cộng lại với nhau, nó cũng là Tổng cách trong 5 cách.
Hậu vận cai quản vận mệnh từ sau năm 30 tuổi trở đi. Nếu chủ, phó vận đều là số hung, thì cả đời nhiều tai hoạ, gian nan, cực khổ, nhưng hậu vận có số cát thì lúc tuổi già cũng được hưởng thần hạnh phúc.

Tóm lại, tiền vận ảnh hởng mạnh đến con người từ khi sinh ra cho tới năm 30 tuổi, hậu vận thì chi phối vận mệnh sau năm 30 tuổi. Nhưng nếu có người sau 30 năm tuổi thay đổi họ tên, thì tiền vận của họ tên mới đổi cũng có ảnh hưởng tới hậu vận.
Không chỉ riêng tiền vận, hậu vận mới có quan hệ như vừa nêu trên, mà tất cả có 5 cách, 4 vạn đều có mối tương quan tác động ảnh hưởng lẫn nhau, không thể tách rời.

5- Phương pháp phân tích 5 cách và phán đoán ngũ hành.
Chỉ cần chiếu theo các bước sau đây là quý vị có thể nhanh chóng hiểu và vận dụng thuần thục phương pháp phân tích năm cách.

Bước 1: Nên hiểu và ghi nhớ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Nội dung cơ bản của Âm Dương và Ngũ Hành như sau:
- Kỳ là số thuộc Dương, Ngẫu là số thuộc Âm.
- Sự tương sinh tương khắc của Ngũ Hành dựa vào số lý để nhận biết các hành Thổ, Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả.

Bước 2: Nên nắm vững cách tính chính xác số nét của họ và tên.
Nam cách Thiên, Địa, Nhân, Ngoại. Tổng căn cứ vào số nét chính xác rất quan trọng. Chỉ cần tính sai một nét thì việc luận đoán sẽ không còn chính xác. Vậy làm sao để có thể tính toán số nét được chuẩn xác ?
Đầu tiên ta nhất định phải tính số nét chữ theo lối phồn thể của chữ Hán.
Tiếp đến chúng ta cần nắm vững một vài cách tính số nét đặc thù, đó là:

+ Bản thân những chữ số thuộc về số từ đều phải tính nét theo số từ đó. Ví dụ: Chữ bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười thì phải tính như sau: "bốn" là 4 nét,"năm" là 5 nét, "sáu" là 6 nét, "bảy" là 7 nét, "tám" là 8 nét, "chín" là 9 nét, "mười" là 10 nét.
+ Những chữ có bộ thủ là:
- Ba chấm thuỷ đều phải tính là 4 nét, vì tuy viết ra chỉ có 3 nét, nhưng bộ thuỷ là bộ 4 nét, nên ba chấm thuỷ tính là 4 nét.
Ví dụ: chữ "trì" viết ra có 6 nét nhưng vì bộ thủ ba chấm thuỷ, theo quy tắc là có 4 nét, nên chữ "trì", phải tính là 7 nét mới đúng.
- Nguyệt, phải tính là 6 nét, vì nó vốn là bộ Nhục là bộ 6 nét, nên Nguyệt phải tính là 6 nét.
- Quai xước, phải tính là 7 nét vì nó được coi là thuộc về bộ Tẩu là bộ 7 nét, nên Quai xước phải tính là 7 nét.
- Phụ bên trái chữ phải tính là 8 nét, bởi theo lối phồn thể bộ Phụ là bộ 8 nét.
- Ấp bên phải chữ phải tính là 7 nét, bởi bộ ấp theo lối phồn thể có 7 nét.
- Thảo phải tính là 6 nét, bởi lối phồn thể của Thảo có 6 nét.
- Tâm đứng phải tính là 4 nét, bởi bộ Tâm có 4 nét.
- Thủ, Tài Gảy phải tính là 4 nét, bởi bộ Thủ có 4 nét.
- Vương, Ngọc xiên phải tính là 5 nét, bởi bộ Ngọc có 5 nét.

Trên đây chỉ là một vài bộ thủ mà chúng tôi giới thiệu sơ lược để quý vị hiểu rõ thêm về cách thức tính số nét. Những chữ, bộ còn lại quý vị hãy tự tìm tòi nghiên cứu thêm.

Bước 3: Xác định số lý của 5 cách

Thiên cách: Chia làm 2 trường hợp.
- Họ kép (từ 2 chữ trở lên) như Âu Dương, Tư Mã, Trường Cốc Xuyên ... thì cộng tất cả các nét còn lại với nhau để có số lý của Thiên cách.
- Họ đơn (họ chỉ có một chữ) như Triệu, Chu, Lưu, Hoàng, Lý ... thì đem tất cả các nét của chữ cộng thêm 1 để có số lý của Thiên cách.
Mối quan hệ giữa Thiên cách và Nhân cách biểu thị vận thành công, nên nó đóng vai trò khá quan trọng, chớ nên coi thường.
Nhân cách: Cộng số nét chữ cuối cùng của họ với số nét chữ đầu tiên cả tên để có số lý của Nhân cách.
Nhân cách là trung tâm điểm, chi phối toàn bộ đời người của họ tên. Nhân cách biểu hiện các phương diện như tính cách, thể chất, năng lực, sức khoẻ, hôn nhân của con người.
Địa cách: Lấy tổng số nét của tên làm số lý của Địa cách, nếu không có tên đệm thì cộng số nét của tên với một để có số lý của Địa cách.
Ngoại cách: Lấy tổng số nét của họ và tên trừ đi số của Nhân cách thì có số của Ngoại cách.
Tổng cách: Lấy tổng số nét của họ và tên làm số lý của Tổng cách (bất kể họ tên là đơn hay là kép).

Bước 4: Nhận biết Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ từ số lý.
- Khi phân biệt thuộc tính của Ngũ Hành, chỉ tính số từ 1 đến 10, nếu đó là số lớn hơn 10 thì lấy số đó trừ đi 10 và tính số dư còn lại ở hàng đơn vị, nếu không có số dư tính thì tính số dư đó là 10.
- Số lý của các hành như sau:

1 và 2 thuộc Mộc, 3 và 4 thuộc Hoả, 5 và 5 thuộc Thổ, 7 và 8 thuộc Kim, 9 và 10 thuộc Thuỷ với số lẻ là dương, số chẵn là âm. Ví dụ như 1 là dương mộc, 2 là âm mộc, 5 là dương thổ, 6 là âm thổ ...
Bước 5: Tra bang xem thế vận.
Sau khi xác định trong năm cách và thuộc tính Ngũ Hành thì có thể tra cứu các bảng, danh mục chỉ dẫn về số lý cát hung, vận thế lành dữ, may rủi, hay dở ... Lần lượt theo thứ tự như sau:

a) Đối chiếu theo danh mục "sự ảnh hưởng đến vận thế của số lý từ 1 đến 81".Xem xét số lý biểu thị may rủi, lành dữ của các cách: Nhân, Địa, Ngoại, Tổng. Tức là xem số lý của Nhân cách để biết vận thế cơ bản, chủ yếu: Xem số lý của Địa cách để biết được mức độ tốt xấu, hay dở của vận thế cơ bản; xem số lý của Tổng cách để biết vận mệnh từ năm 30 tuổi trở về sau.
Đối chiếu với mục "từ họ tên có thể viết được mức độ thành công".Xem xét sự hay dở của vận thành công và vận cơ bản và dự đoán tổng hợp vận thế cùng sự thành công từ mối quan hệ tương sinh tương khắc về số lý của 3 cách Thiên, Địa, Nhân.
c) Đối chiếu mục "Số lý của Nhân cách biểu thị tính cách, phẩm chất của con người".
d) Đối chiếu mục "Mối quan hệ lành dữ của 3 cách Thiên, Địa, Nhân". Xem xét tình trạng sức khoẻ và hôn nhân gia đình.
e) Đối chiếu mục "Dự đoán năng lực xã giao". Xem xét mối liên hệ sinh khắc cùng sự phối hợp về số lý của Nhân cách và Ngoại cách.

6- Vì sao nên chọn họ tên ?

Theo lý luận của môn Tính Danh học, họ tên không chỉ là phù hiệu đại biểu cho một con người, mà nó còn là những mong muốn, ước vọng của những người làm cha làm mẹ và của chính chúng ta nữa.
Tục ngữ Trung Quốc có câu "cho con ngàn vàng chẳng bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề chẳng bằng đặt cho con một cái tên tốt đẹp". Như vậy có thể thấy rằng từ xưa tới nay việc chọn cái tên cho con cái có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người làm cha làm mẹ.

Nhưng phải làm sao để chọn một cái tên tốt đẹp cho con cái, hậu duệ của chúng ta ? Căn cứ vào kinh nghiệm của người xưa và qua thực tiễn, chúng tôi xin đề cử vài ý kiến để quý vị độc giả tham khảo.

1. Bất kể là tên gì cũng nên tránh những cái tên có số lý biểu thị sự hung ác, rủi ro, bất hạnh.

2. Nên tham khảo thêm (nếu được) về thuộc tính Ngũ hành của can chi, năm, tháng, ngày, giờ sinh. Nếu có sự thiếu hụt (như thiếu Kim, Thuỷ, Hoả ..) thì khi chọn tên nên cố gắng chọn những số mà trong Tiên thiên có sự thiếu hụt giờ sinh thiếu Thuỷ, thì khi chọn tên nên chọn những số lý bao hàm có số lý của Thuỷ, chứ không nên thêm số lý của Thổ, (bởi Thổ khắc Thuỷ), nếu vẫn không tìm được số thích hợp thì nên chọn những số lý có hàm chứa số lý của Kim (vì Kim sinh Thuỷ).

3. Nếu là tên con gái, nên tránh những số biểu thị sự cô độc như 21, 23, 27, 29, 33, 39 ... Nếu trong Ngũ hành Tiên thiên không thiếu hụt hành Kim thì tốt nhất đừng chọn những số thuộc hành Kim chỉ tính cách ngang ngạnh, cứng rắn, thiếu ôn hoà, mềm dẻo, đặc biệt là trong Nhân cách và Địa cách có số này thì càng xấu.

4. Sự phối hợp Tam tài Thiên, Địa, Nhân của họ tên cũng rất quan trọng. Nếu sau khi đặt tên, phân tích thấy các cách đều là số lành, nhưng phối hợp tam tài lại là số dữ, thì cũng có ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời người (chủ yếu về mặt sức khoẻ, bệnh tật). Tóm lại, số lý, Ngũ Hành của Tam tài cần tương sinh, tránh tương khắc.

5. Khi đặt tên, nên chú ý đến cách tính các nét cho thực chính xác. Hay nhất là xem mục "Họ của trăm nhà" và "Những chữ thường dùng để đặt tên" nhằm tránh khỏi sai lầm đáng tiếc.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một vài hạn mục của các số cát hung, lành dữ, hay dở.
Số biểu thị đại cát (hạnh phúc giàu sang): 1, 3, 5, 8, 11, 13, 16, 21, 23, 24, 25, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 41, 45, 48, 52, 57, 63, 65, 67, 68, 81.
Số biểu thị thứ cát (nhiều ít vẫn gặp trở ngại, song vẫn thành công): 6, 8, 17, 18, 27, 30, 38, 51, 55, 61, 75.
Số biểu thị hung hoạ (gặpnhiều nghịch cảnh khó khăn, tai hoạ thăng trầm, trôi nổi): 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 27, 28, 34, 36, 42, 44, 46, 49, 50, 53, 54, 56, 58, 59, 60, 62, 64, 66, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 76, 78, 79, 80.
Số biểu thị cô độc (muộn vợ chồng, gia đình bất hoà, vợ chồng xung khắc, đổ vỡ, ly tán): 21, 23, 26, 28, 29, 33, 39.
Số biểu thị đức hạnh (phụ nữ có tính ôn hoà mềm dẻo, vượng phu ích tử): 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 24, 31, 32, 35.
Số biểu thị nhà cửa suy bại (họ hàng thân thuộc đơn bạc, lạnh nhạt): 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 38.
Số người biểu thị có tài lãnh đạo, trí dũng song toàn, nhân đức gồm đủ: 3, 13, 16, 21, 23, 31, 33, 41.

Pháp sư Trần Ngọc Kiệm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán số mệnh qua họ tên (P1)

Làm ơn không cần báo đáp, không cầu mà tự được

Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho vạn vật, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Đây chính là sự khiêm nhường lớn nhất và đức hạnh cao cả nhất!
Làm ơn không cần báo đáp, không cầu mà tự được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàn Tín, vị tướng nổi tiếng tài giỏi thời nhà Hán không chỉ được biết đến là người có tâm đại nhẫn phi thường lớn, ông còn được người đời ca ngợi là một người “nhận ơn mà không quên ơn”.

Trong cuốn sách về những lời dạy của Chu Tử có dạy rằng: “Thi huệ vô niệm, thụ ân mạc vong” (Tạm dịch: Làm điều tốt không cần suy tính, mang ơn người đừng bao giờ quên.). Hàn Tín quả thực đã làm được đạo lý này! Hãy cùng tìm hiểu về đức tính này của ông qua điển tích sau:

Thuở thiếu niên, vị tướng nổi tiếng thời nhà Hán là Hàn Tín sống một cuộc sống vô cùng nghèo khổ cơ cực. Một ngày nọ, Hàn Tín không còn gì để ăn, ông không còn cách nào khác là ngồi ở bờ sông ngoại thành Hoài Dương và câu cá. Lúc ấy, có nhiều phụ nữ đang giặt giũ bên bờ sông. Trong số ấy, có một người phụ nữ để ý thấy rằng Hàn Tín trông có vẻ đói và xanh xao, dường như đã lâu lắm rồi không được ăn gì.

Bà liền chủ động mang thức ăn của mình tặng cho Hàn Tín. Cứ như thế, Hàn Tín đã được người phụ nữ kia tặng cho thức ăn trong suốt hơn 10 ngày liền. Lòng tốt của người phụ nữ ấy đã khiến Hàn Tín vô cùng cảm kích và xúc động sâu sắc. Cảm thấy ân huệ của người phụ nữ kia đối với mình nặng như ngọn núi, vì vậy Hàn Tín đã nói với người phụ nữ đã tặng cơm cho mình rằng: “Trong tương lai tôi nhất định sẽ tận tâm báo đáp ân huệ của bà!”.

Không ngờ, người phụ nữ kia trả lời thật với một giọng rất bình dị: “Một người đàn ông đích thực phải tự chăm lo được cho cuộc sống của bản thân. Tôi là vì thấy cậu đáng thương nên đã cho cậu thức ăn. Nếu tôi gặp người khác đang chịu khổ vì đói khát, tôi cũng sẽ làm như thế. Vì vậy tôi không cần cậu phải báo đáp gì cho tôi cả”.

Nhiều năm trôi qua, người phụ nữ kia đã không còn nhớ gì về việc mình đã tặng thức ăn cho Hàn Tín. Bà từ lâu đã quên bẵng đi chuyện nhỏ nhặt ấy rồi. Nhưng Hàn Tín thì không lúc nào quên ân huệ của bà.

Sau khi đã công thành danh toại, Hàn Tín trở lại quê hương. Việc đầu tiên mà ông làm là đi tìm người phụ nữ mà ông đã gặp trong thời trai trẻ và báo ơn bà bằng một lượng tiền vàng rất lớn.

Vạn lượng không so được với lòng từ tâm

Trên gian này, chỉ những người đại trí đại huệ mới hiểu được đạo lý “không cầu mà tự đắc”. Nếu một người nào đó có thể làm ơn mà không cầu được báo đáp thì người ấy đã vượt xa cảnh giới tư tưởng của một người bình thường.

Trong cuộc sống đời thường, nếu bạn có thể giữ vững được nguyên tắc làm người “làm ơn mà không cần đáp trả, nhận được ơn huệ mà không bao giờ quên” thì bạn nhất định sẽ tích được đại đức cho tương lai.

Nhân quả là có thật

Có một số người mặc dù cũng biết được rằng làm việc thiện là tốt, nhưng một khi làm việc thiện không nhận được sự báo đáp đã nhanh chóng trở nên nản chí, ngã lòng. Thậm chí họ còn nghi ngờ rằng, thế gian liệu có thực sự tồn tại thiên lý “thiện ác có báo”? Điều này đơn giản là bởi vì lòng nhân từ của họ không đủ trong sáng, thuần túy gây ra.

Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, thử nãi khiêm hạ chi đức dã; cố giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện nhập vu vô chi gian, do thử khả tri bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích dã”. Ý nói rằng, một người thực sự lương thiện thì giống như là nước.

Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho vạn vật, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Đây chính là sự khiêm nhường lớn nhất và đức hạnh cao cả nhất!

Làm ơn mà không cầu báo đáp quý giá nhất ở chỗ vô tư, không cầu lợi. Nếu mỗi người khi làm ơn đều có thể suy nghĩ được ở cảnh giới này: khẳng khái giúp tiền khi thấy người gặp nạn, gặp người đang bị khốn cùng thì sẵn sàng ra tay cứu giúp và sau đó không quan tâm rằng liệu người mà họ giúp có thể hoàn trả lại cho họ hay không, trong lòng hoàn toàn bảo trì được tâm thái thanh thản, không oán giận, không hối tiếc. Nếu có thể làm được như vậy, thì người ấy đã tích được đại đức và trong tương lai người ấy chắc chắn sẽ nhận được phúc báo vô cùng to lớn.

Theo Bài Học Cuộc Sống -Lịch Vạn Niên 365

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm ơn không cần báo đáp, không cầu mà tự được

Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân, tu vi Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân, tu vi Đặt tên cho con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân

Đặt tên cho con trai gái năm 2016: là vấn đề các cặp vợ chồng quan tâm hàng đầu khi chuẩn bị chào đón đứa con bé bỏng của mình. Mỗi cái tên đầy ý nghĩa, dễ nghe. Hãy cùng đặt tên cho con với những cái tên tràn đầy ý nghĩa nhé. Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân

Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân

1. Đặc điểm tính cách của bé sinh năm Bính Thân 2016

Theo lịch âm, năm con Khỉ (năm Bính Thân) bắt đầu từ ngày 8/2/2016 đến hết ngày 27/1/2017. Sinh con năm 2016, năm Bính Thân, bé con nhà bạn thuộc mạng Hỏa (Sơn hạ hỏa, Lửa dưới chân núi).

Xếp thứ 9 trong bảng thứ tự 12 con giáp, khỉ là động vật cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn. Vì vậy, không có gì khó hiểu nếu đứa trẻ sinh năm 2016, năm Bính Thân, sẽ sở hữu những đặc tính tuyệt vời này.

 

Trong thời Xuân Thu (770 TCM – 476 TCN), người ta không gọi khỉ, mà có tên chính thức trang nghiêm dành cho loài vật có chức vị hầu tước này: Hou. Từ đó về sau, khỉ chính là tượng trưng cho sự tốt lành, may mắn. Hình ảnh của khỉ thường được điêu khắc hoặc dán trên các bức tường và cửa ra vào với mục đích kêu gọi phước lành và niềm vui.

Điểm mạnh của bé Khỉ không gì khác đó chính là sự sống động, linh hoạt, nhanh nhẹn và cực kỳ thông minh, lém lỉnh. Đôi khi, ba mẹ sẽ rất bất ngờ với những ưu điểm mang đặc tính khá thất thường này của bé. Điều này đồng nghĩa trong trường hợp tưởng chừng không giải quyết nổi, bé sẽ có cách vượt qua.
Bé tuổi Khỉ thích thể thao, năng động và lúc nào cũng muốn chạy nhảy. Về mặt quan hệ, xã hội, ba mẹ cứ yên tâm vì bé rất tự tin, hòa đồng.

Chính từ những đặc tính này, Khỉ con luôn có khát khao mạnh mẽ để tìm tòi và khám phá những mới mẻ trong cuộc sống. Khi giao tiếp, bé không thích bị kiểm soát nhưng lại rất muốn thể hiện mình. Trong học tập hay công việc, Khỉ con luôn chứng tỏ mình là người sáng tạo.

Bên cạnh các ưu điểm kể trên, Khỉ con vẫn tồn tại một số khuyết điểm. Bé sinh năm 2016, năm Bính Thân, không được kiên nhẫn cho lắm. Muốn gì cũng muốn ngay và luôn, nhưng khi đạt được rồi lại cả thèm chóng chán. Thiếu sót của khỉ con còn có tính ganh tỵ, nghi ngờ, khá ích kỷ và kiêu ngạo. Nếu khắc phục được các điểm yếu này, bé sẽ đạt được thành tích đáng gờm.

 

2. Đặt tên con theo tính cách 2016

Loài khỉ rất lanh lợi, hoạt bát, nên những cái tên có bộ Sam, Cân, Y, Mịch sẽ giúp tôn lên sự duyên dáng, đẹp đẽ. Bạn có thể chọn cho con những cái tên như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Đồng, Thường, Hi, Sư, Phàm, Ước, Tố, Kinh, Hồng, Duyên…

Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp. Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy tương sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.

Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…

Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc rất thích hợp cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.

Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…

 

Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…

Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.

Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con trai gái năm 2016 tuổi Bính Thân - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Ngày sinh bật mí tính cách con gái

Những người sinh ngày 1, 5, 8, 10 thường tự lập, ghét bị ràng buộc, đặc biệt là chuyện tình cảm.
Ngày sinh bật mí tính cách con gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ngay-sinh-bat-mi-tinh-cach-con-gai

Những bạn gái sinh ngày: 1, 5, 8, 10, 14, 15, 17, 23, 25.

Những bạn gái sinh ngày: 4, 6, 13, 16, 22, 24, 26, 28, 31

Những bạn gái sinh ngày: 2, 7, 9, 11, 18, 20, 27, 29

Những bạn gái sinh ngày: 3, 12, 19, 30

Những bạn gái sinh ngày 21

Maruko (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày sinh bật mí tính cách con gái

Những người sinh vào ngày này sẽ có số "cực tốt" - Tử vi - Xem Tử Vi

Những người sinh vào ngày này sẽ có số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"cực tốt"

1. Sinh ngày 26 âm lịch: Tài vận tốt thiên bẩm

Theo quan niệm cổ xưa, những người sinh vào ngày 26 âm lịch thường có cuộc sống dư dả, giàu có và chuyện tình duyên cũng thuận lợi. Ngoài ra, tướng mạo của những người sinh vào ngày này cũng xuất chúng hơn người, có tác phong nhanh nhẹn và khí chất làm lãnh đạo.

2. Sinh ngày 28 âm lịch: Tài năng quản lý kinh doanh

Đại đa số những người sinh ngày 28 âm lịch đều có tài năng quản lý về tài chính, kinh doanh rất tốt, đặc biệt là những người tuổi Thìn, Dần, Tỵ và Hợi.   Nhóm người này không những giỏi kinh doanh và tài vận còn rất tốt. Dù lúc đầu khởi nghiệp có đôi chút gian nan nhưng đều gặt hái được những thành công rực rỡ, ngoài sức tưởng tưởng của chính họ.

3. Sinh ngày 18 âm lịch, chiến thắng mọi thử thách để có cuộc sống giàu sang  

Phần lớn những người có sinh nhật vào ngày 18 âm lịch đều có nghị lực sống kiên cường, sẵn sàng đối mặt với thách thức để giành lấy thành công. Đặc biệt là những người tuổi Tuất và Ngọ, họ dựa vào thực lực của chính mình để xử lý mọi chuyện một cách hoàn hảo nhất, khiến ai nấy đều thán phục.   Không những biết cách kiếm tiền giỏi giang, người sinh ngày 18 âm lịch còn biết hưởng thụ cuộc sống xứng đáng với những gì họ đã khó nhọc phấn đấu. Các chuyến du lịch dài ngày, ở những địa điểm nổi tiếng chính là hình thức họ hưởng thụ cuộc sống.

4. Sinh ngày 15 âm lịch: Tham vọng lớn về vật chất

Đại đa số những người sinh ngày 15 âm lịch đều cảm nhận được mê lực khó cưỡng của tiền bạc. Đặc biệt là những người sinh vào tháng 5, 6, và 7 âm lịch.   Tuy vậy, bạn đừng vội kết luận rằng họ sống thực dụng nhé, bởi theo họ, sống phải có ước mơ, tham vọng để tạo động lực cho bản thân phấn đấu. Chính nhờ vào nguồn động lực ấy, người sinh ngày 15 âm lịch mạnh mẽ, kiên cường tới cùng để hoàn thành mục tiêu. Cuộc sống của họ tuy khá nặng nề về tinh thần nhưng đổi lại là đời sống vật chất giàu có.

5. Sinh ngày 8 âm lịch: Ngôi sao may mắn chiếu mệnh

Không những được ngôi sao may mắn chiếu mệnh mà Thần Tài cũng luôn dõi bước những người sinh vào ngày 8 âm lịch. Đặc biệt là những người sinh vào tháng 2, 4, 6, 8, 10 và 12 âm lịch.   Việc họ trúng số độc đắc hay kinh doanh phất như diều gặp gió là điều không có gì ngạc nhiên đâu nhé. Dùng đồ đắt tiền, ăn sơn hào hải vị, đi du lịch đó đây… là một trong những cách hưởng thụ của sống của họ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những người sinh vào ngày này sẽ có số "cực tốt" - Tử vi - Xem Tử Vi

Luận dụng thần

Một bài viết về luận dụng thần của tác giả Hoàng Đại Lục. Mời các bạn cùng đọc.
Luận dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là "thần" có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn "Tứ trụ bác quan" do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn "Tường luận dụng thần" có nói: "Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành " Một chữ sai, toàn bàn sai hết". Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn "Tứ trụ bác quan" rằng: "Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay... Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v... vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ "Bát tự chân quyết khởi thị lục" là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài "Nghiên cứu hỷ dụng thần" đã cảm khái nói: "Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá."

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà "nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá"! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v..., muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn "Tế phê chung thân tường giải" đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của "Kim Bất Hoán" (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v... hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như "Diễn cầm phu thê - tử nữ biểu".

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: "Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa". Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong "Kim Điếu Thùng" thì nói: "Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được." Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tý Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tý, địa chi Thân Tý Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: " Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh". Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc "Lữ thị bát tự mệnh lý" là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: "Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?"

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển "Uyên Hải Tử Bình", "Tam Mệnh Thông Hội" và "Thần Phong Thông Khảo", không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như "Uyên Hải Tử Bình" v.v... lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại "dụng thần" có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn "Uyên Hải Tử Bình" sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn "Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học" rằng: "Dụng thần là linh hồn của bát tự", "Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v...". Thế nhưng cổ nhân trong "Tứ Ngôn Độc Bộ" lại chỉ ra rằng: "Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng". Ý của "Hà sầu tổn dụng" chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong "Nguyệt Đàm Phú" cũng nói: " Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí". Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong "Tích Thiên Tủy" nói: "Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. "Cùng Thông Bảo Giám - Tam xuân Giáp mộc luận" nói: "Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay". Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong "Tam Mệnh Thông Hội". Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong "Tử Bình Chân Thuyên" viết: "Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã". Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên" lại chỉ rõ: "Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng". Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. "Ngũ Ngôn Độc Bộ" lại nói: "Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần". Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong "Bảo Pháp - Quyển nhị" cũng nói: " Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín". Chú ý nhé, ở đây nói "Thủ cách bất định" chứ không nói "Thủ dụng bất chuẩn" nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của "Tinh Vi Thiên" nói: "Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa". Ở đây chỉ cường điệu "Chuyên luận cách cục" chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói "Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín"? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ "khả dụng" này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách". Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng "dụng thần quá nhiều", dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu " dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi" và "ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)", thế mới xuất hiện cách cục câu "Khí Ấn tựuTài", "Khí Quan tựu Thực" v.v... Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên "Ngũ Ngôn Độc Bộ" mới nói " Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng", là bởi vì "Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng" ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong "Thần Phong Thông Khảo" tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có "Bệnh dược thuyết" trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói "Dược" chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện "Dược thần" mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: "Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã". Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước "Dụng Tài", sau đó mới nói "Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược" hay sao? Câu sau "Như dụng Thực Thần Thương Quan", cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là "Tướng thần" mà "Tử Bình Chân Thuyên" đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong "Tích Thiên Tủy" để phản bác lại, Nhậm nói: "Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng...". Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn "Tích Thiên Tủy" và các sách cổ điển như "Uyên Hải Tử Bình" là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn "Tích Thiên Tủy" đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn "Tích Thiên Tủy": "Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kỵ, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng". (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kỵ của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", "Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách" trong "Tử Bình Chân Thuyên". Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này ("Tích Thiên Tủy" luận cách không kỹ càng bằng "Tử Bình Chân Thuyên"), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương "Bát cách" lại nói rằng: "Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn..., không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được". Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích "Tích Thiên Tủy" mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương "Thể dụng" của "Tích Thiên Tủy" nguyên chú thích nói rằng: "...nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành "Khí Ấn tựu Tài" cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của "Cùng Thông Bảo Giám" nói "Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay". Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: "Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!". Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: "Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn "Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)". Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú "Tích Thiên Tủy" nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là "Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét", dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học --- DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước......

Lão Tử nói rất hay, "Ngũ sắc khiến người ta mù". Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng "Tử Bình Chân Thuyên", hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý "Uyên Hải Tử Bình", "Thần Phong Thông Khảo", "Tam Mệnh Thông Hội", "Tử Bình Chân Thuyên" và "Tứ Ngôn Độc Bộ". Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như " Tứ Ngôn Độc Bộ", "Ngũ Ngôn Độc Bộ" và "Nguyệt Đàm Phú" v.v..., nhưng ông không hề biết tý gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Durobi dịch

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất...

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách".

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: " Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục".

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: "Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan".

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: " Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận dụng thần

Hoa Cái

Hoa Cái là sao chủ về nghệ thuật, kỹ thuật, võ thuật và tôn giáo. Người có sao Hoa Cái trong tứ trụ thường dễ đạt được thành công nếu theo đuổi những lĩnh vực
Hoa Cái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hoa Cái là sao chủ về nghệ thuật, kỹ thuật, võ thuật và tôn giáo. Người có sao Hoa Cái trong tứ trụ thường dễ đạt được thành công nếu theo đuổi những lĩnh vực nói trên.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Cách tra sao Hoa Cái là lấy chi ngày (hoặc chi năm) làm cơ sở để tra các địa chi trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Hoa Cái nhập mệnh:

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Dần, Ngọ, Tuất thấy chi Tuất

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Thìn

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Sửu

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Mùi

Ví dụ: Người sinh vào ngày 6 giờ ngày 6/2/1983 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Quý Mão, ngày Đinh Mùi, tháng Ất Mão, năm Quý Hợi.

Theo trường hợp 4, chi ngày Mùi (Đinh Mùi) gặp chi Hợi của năm (Quý Hợi), do vậy tổ hợp này xuất hiện sao Hoa Cái.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoa Cái

Lời dặn khi giải mộng

Phàm như mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình hay là thanh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường trông thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra tại trong giấc ngủ, mới gọi là mộng.
Lời dặn khi giải mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời dặn

Phàm như mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình hay là thanh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường trông thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra tại trong giấc ngủ, mới gọi là mộng, mộng thì mới có trưng triệu. Còn như cái tình hằng ngày vẫn tư tưởng, cái cảnh hằng ngày vẫn thấy, cái tiếng hằng ngày vẫn nghe mà ban đêm trong giấc ngủ mê nghĩ tới, trông thấy hay là nghe tiếng, đó là mơ tưởng, chứ không phải mộng, đã không phải mộng thì không có trưng triệu, nghĩa là không có ứng nghiệm về điềm tốt, xấu, sự nên, hư gì hết.

Đoán mộng thì phải tuỳ theo địa vị, phận lượng, sự thế, tư cách của người nằm mộng và tình cảnh trong giấc mộng, suy lẽ trong sách và tham đính lấy ý mình mà đoán ra, chớ không có thế nệ sách mà y theo lệ nhức định được. Vì rằng mộng mỵ biến ảo dị thường, xưa nay mỗi mộng mỗi khác, không mộng nào giống mộng nào, nên sách chỉ kể đại khái những mộng này thì ứng về những điềm này mà thôi, không có thể lập thành cho hết được.

Pháp sư Trần Ngọc Kiệm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời dặn khi giải mộng

Bát trạch - phạm vị, những hạn chế và sai lầm trong ứng dụng

Bát trạch là trường phái Phong thủy đơn giản dành cho Dương trạch. Trường phái này khá nổi tiếng, dễ học và dễ áp dụng. Dựa trên 8 quẻ, được chia thành 2 nhóm là: nhóm Đông tứ trạch (gồm: Khảm, ly, chấn, tốn) và nhóm Tây tứ trạch (gồm: cấn, đoài, càn, khôn).
Bát trạch - phạm vị, những hạn chế và sai lầm trong ứng dụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát trạch - phạm vị, những hạn chế và sai lầm trong ứng dụng.

Bát trạch là trường phái Phong thủy đơn giản dành cho Dương trạch. Trường phái này khá nổi tiếng, dễ học và dễ áp dụng. Dựa trên 8 quẻ, được chia thành 2 nhóm là: nhóm Đông tứ trạch (gồm: Khảm, ly, chấn, tốn) và nhóm Tây tứ trạch (gồm: cấn, đoài, càn, khôn) để áp dụng trong các việc sau: 
1. định ra các hướng nhà hợp và không hợp (mệnh quái)
2. định ra các vùng tốt xấu trong nhà (trạch quái)
3. định ra vùng tốt xấu trong từng phòng để kê giường, bàn học, ban thờ, kê đồ...(bát môn - bát hướng)
4. chọn tuổi vợ - chồng.

Trên đây là phạm vi ứng dụng của Bát trạch, khi đi vào ứng dụng tôi thấy trường phái trên còn nhiều hạn chế như:
1. bát trạch chưa phối hợp với hình thế Loan đầu xung quanh ngôi nhà, mà chỉ xét nội tại của ngôi nhà đó.
2. chỉ lấy mệnh chủ để định ra hướng hợp với cá nhân người đó, mà không quan tâm đến hướng hợp hay không đến các thành viên khác trong nhà.
3. khi không nhớ tuổi của gia chủ thì không thể chọn ra hướng nào tốt cả.
4. không cho tầm nhìn rộng theo khu vực địa lý.

Tuy đơn giản và dễ áp dụng, nhưng nhiều các nhà Phong thủy nổi tiếng vần chưa biết hết được phạm vi áp dụng của Bát trạch. Chỉ biết đến hướng hợp với tuổi của chủ sự đã vội đặt cửa, đặt bếp, đặt giường, đặt bàn thờ theo hướng tốt. Có người còn dùng cho cả Âm trạch.

Sự hạn chế của Bát trạch cũng khiến cho nhiều người nghĩ nhà chỉ có 1 hướng (nhà ống) thì làm gì lấy được hướng, cũng đông nghĩa với việc không cần dùng Phong thủy.

Vậy làm sao để phá vỡ sự hạn chế trên của Bát trạch??? Đó nằm ở 2 chữ "Huyền không". Bàn về Huyền không, tôi xin để sang bài tới. Cảm ơn các bạn đã đón đọc!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát trạch - phạm vị, những hạn chế và sai lầm trong ứng dụng

Người tuổi Hợi mệnh Thủy

Người tuổi Hợi mệnh Thủy là những người sinh năm 1923, 1983...
Người tuổi Hợi mệnh Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Họ thường thích hưởng thụ cuộc sống tự do tự tại ở nơi bình yên, vắng vẻ. Đây là người luôn khiêm tốn, cẩn trọng và có tấm lòng rộng mở.

Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ tài hoa hơn người thường làm nhiều việc nghĩa và được thăng quan tiến chức nhanh chóng. Nếu không có sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ vẫn có thể được hưởng cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng cũng phải chịu đựng nhiều nỗi ưu phiền; hoặc tuy là quan chức nhưng vì quản lý thường không yên ổn; hoặc sẽ thuộc dạng "đục nước béo cò", tuy có 1 số lợi nhuận ngoài ý muốn nhưng cũng tồn tại khá nhiều điều nguy hiểm và khi biết sai thì cũng đã quá muộn.

Họ là những người linh hoạt, có khả năng giao tiếp xã hội tốt. Họ cũng có trực giác nhạy bén và nếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư thì sẽ thu được nhiều nguồn lợi lớn.

Người này rất có đầu óc kinh doanh nhưng lại khá tiêu cực và bị động trong việc quản lý tài sản. Trừ khi người khác có đầy đủ lý do và thuyết phục được họ 1 cách tuyệt đối, nếu không họ sẽ không bao giờ chịu mở hầu bao của mình.

Đường tài vận của họ khá hanh thông, thường nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà thu được nhiều tiền tài. Về cơ bản, họ là người coi trọng tình cảm, 1 số người dễ mắc vào lưới tình. Họ có thể dốc hết tâm sức vì người mà mình thực sự yêu thương.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Hợi mệnh Thủy

Xem ngực đoán tính cách của phụ nữ thời hiện đại |

Khuôn ngực của người phụ nữ thể hiện tính cách của họ, cũng giống như chòm sao chiếu mệnh Nhà tình dục học Piero Lorenzoni người Italy nói: “Khuôn ngực của người phụ nữ thể hiện tính cách của nàng, cũng giống như chòm sao chiếu mệnh”. Ông phân loại n
Xem ngực đoán tính cách của phụ nữ thời hiện đại |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngực đoán tính cách của phụ nữ thời hiện đại |

Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tuỳ từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một khác. Thời trước có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hành công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thành phố thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo.
Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ an táng tiến hành tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm đơn". Ở đây chỉ nói phần tang gia cần làm gì:

  • Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc theo quy ước đã định.
  • Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu.
  • Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục "Cha đưa mẹ đón".
  • Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất.
  • Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần.
  • Nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc, đãi người đắp mộ... 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

LUẬN VỀ LƯU HÀ THIÊN TRÙ : Lưu Hà sách Tử Vi Trung Quốc không nhắc đến. Nó đi cùng với Thiên Trù và được an theo hàng can của năm sinh tỉ dụ Giáp niên kê sà tàng (tuổi Giáp Lưu Hà ở Dậu, Thiên Trù ở Tỵ).
Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu Hà tính chất thâm trầm gian hiểm sát phạt. Lưu Hà cũng như phần lớn các tạp diệu khác gây độc hại khi gặp những sao đã sửa soạn đất phá hoại cho nó. Lưu Hà đóng Mệnh nữ cẩn thận khi sanh đẻ. Lưu Hà đứng với Cự Môn, Hóa Kị dễ bị nạn sông nước. Lưu Hà chỉ gặp sao Thanh Long như rồng gặp nước (nói theo hình tượng) tạo sự hanh thông cho công việc.


Về sao Thiên Trù, phái Trung Châu bên Tàu dùng để luận đoán khả năng ẩm thực. Với chính tinh thì Phá Quân có liên quan đến ăn uống, bằng tạp tinh là Thiên Trù. Trù đây mang nghĩa nhà bếp. Phá Quân đóng Phúc Đức mà gặp Hỏa Tinh, Trung Châu phái bảo nên kinh doanh hàng ăn tốt, xin nhắc là chỉ vào Phúc Đức thôi.

Thiên Trù đóng Mệnh gặp Hỏa Tinh hoặc ở Tài Bạch hoặc Quan Lộc là người có nghề nấu bếp, thích nấu bếp và nấu bếp giỏi, hãy theo ngành hàng ăn để rồi sau kinh doanh.

Thiên Trù ở Mệnh, ở Phúc Đức mà không Hỏa Tinh thì chỉ là con người sành ăn, hoặc mở quán ăn nhưng không phải là tay sành nghề bếp núc. Nếu Thiên Trù, Hỏa Tinh lại thêm cả Long Phượng nữa thì nghệ thuật nấu tuyệt vời.

Các nhà tử vi gia Việt luận về sao Thiên Trù cho là sao thích ăn thịt, lời giải này nông cạn và khôi hài, vậy có sao nào thích ăn rau với muối mè không?

LUẬN VỀ QUÔC ẤN : Quốc Ấn thuộc thổ, chủ về thi cử, công danh, quyền tước và chức vị. Sao này chỉ đi với Thiên Tướng, Thiên Hình và Phục Binh làm thành bộ Binh Hình Tướng Ấn, bộ này tạo ra uy quyền được người vì nể.

Nhưng Quốc Ấn mà gặp Triệt kể như ấn tín bị vỡ mẻ công danh không thuận đạt Thiên Tướng hoặc Tướng Quân gặp Quốc Ấn đều hay cả. Như có câu phú:


Nhật Lộc Mã tại Tỵ cung

Tràng Sinh, Phụ Bật hợp cùng phú vinh

Bằng gặp Tướng Ấn Binh Hình

Hễ thời loạn thế là thành công to

LUẬN VỀ GIẢI THẦN THIÊN KHỐC: Có những sách nói Giải Thần phân ra Thiên Giải và Địa Giải. Có những sách nói Giải Thần phân ra Niên Giải và Nguyệt Giải. Lại có những sách không phâ chia, chỉ đưa ra một sao Giải Thần. Dĩ nhiên là cách an khác nhau, không có trọng tài để biết hư thực.

Tác dụng của Giải Thần là “tiêu tai giải nạn”. Giải Thần mà đứng với Thiên Thọ ở cung Tật Ách tốt nhất suốt đời không bị bệnh nặng.

Giải Thần một mặt tiêu hủy tai nạn, mặt khác nó cũng tiêu hủy luôn cả điều tốt. Bởi vậy cung phối ngẫu mà có Giải Thần thì là triệu chứng ly hôn đấy. Giải Thần gặp Thiên Riêu ở đây tình hình còn phức tạp gấp bội. Đó là một luận đoán không mấy ai lưu tâm.

Sao Thiên Khố chủ về tiền bạc. Đóng cung Tài Bạch và cung Mệnh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Sinh năm Giáp Kỷ mà có sao Thiên Khố dễ gây dựng của cải (điều này không mấy chính xác). Chỉ thấy có câu phú nôm ghi rằng:

Hỏi ai Giáp Kỷ mấy người

Gặp sao Thiên Khố tiền rời bạc muôn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

Tử vi Nhâm Thìn phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Trong tử vi Nhâm Thìn là con rồng bay cao, thích kết giao quý nhân, khoan dung hiền hòa, vui vẻ, thích tiêu dao. Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ. Thủy này nếu tọa cung Tài bạch, một đòi kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi Nhâm Thìn là con rồng bay cao, thích kết giao quý nhân, khoan dung hiền hòa, vui vẻ, thích tiêu dao.

Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ.

Thủy này nếu tọa cung Tài bạch, một đòi không được phú quý nhưng cũng không nghèo khổ. Tuy trong tay không có được số tiền lớn nhưng không bao giờ thiếu tiền dùng.

f0fe7e204an-2012.jpg

Nhâm Thìn là Thủy tự khố, nếu là hồ chứa nước đều ưa gặp Thủy. Duy có kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, Bính Tý Giản hạ Thủy, sinh vượng thái quá, là tượng tràn lan.

Nhân Thìn là Chính ấn, mang đức trong sáng. Ngưòi mệnh này có lòng bao dung, tâm sáng như gương. Sinh vào mùa xuân, hạ, đại phú đại quý; sinh vào mùa thu, đông, gian trá thất đức.

Thủy này ưa Kim sinh dưỡng như Tân Tỵ Bạch lạp Kim, Tân Hợi Thoa xuyến Kim, cũng ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim và Nhâm Dần Quý Mão Kim bạc Kim.

Gặp Giáp Tý, Ât Sửụ Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ât Mùi Sa trung Kim cũng vô dụng.

Kỵ Thổ làm tắc nghẽn khô cạn, nhưng Thổ lại có công đắp đê, chỉ lấy Canh, Tân, Bính, Đinh là tốt; Mậu, Kỷ là không tốt.

Gặp Hỏa là tương hình, duy ưa gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, ưa nhất gặp At Hợi Sơn đầu Hỏa.

Gặp Mộc, lấy Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, Quý Mùi Dương liễu Mộc làm vườn, tọa thời trụ là Thủy nhiễu hoa đề cách, chủ hiển quý.

Ưa Quý Hợi Đại hải Thủy, gọi là Long diệu thiên môn cách.

Trụ khác nên gặp Kim là tốt, mệnh nữ dung mạo xinh đẹp, thông minh.

Chi khác không ưa gặp Tuất, kỵ nhất Mậu Tuất là phạm hình xung, xung thì Thủy tất sẽ bị tràn lan, chủ hung tai. Mệnh nữ khắc chồng, mệnh nam một đời phiêu bạt, còn chủ con cái duyên mỏng.

Nhâm lộc tại Hợi, ưa chi khác có Hợi, chủ phú quý.

Nhâm Quý tại Mão, ưa chi khác có Mão, chủ cát lợi.

Người sinh năm Nhâm, Văn xương tại Dần, chi khác có Dần, có thể học mệnh lý, làm thầy giáo hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.

Chi khác có Thìn, phạm hình, chủ là ngưòi cô” chấp thiên kiến, nông cạn, vợ chồng duyên mỏng. Nếu tọa thời chi nên nương nhờ cửa Phật. Kỵ nhất gặp Canh Thìn, Mậu Thìn.

Gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. Không nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm Thìn phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Phong thủy vùng đất Thanh Hóa

Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?Khi tính từ khi nước Nam ta có Nhà nước đầu tiên cho đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, thì điểm lại hầu hết các dòng họ vua, chúa đa phần đều phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra.

Đây được xem là vùng đất có nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây được An Nam chí lược của Lê Tắc trong phần Phong tục khen là: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình rằng: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo đá là sở trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.

phong thuy thanh hoa

Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc chính là núi Chiếu Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ chính là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.

Liên tiếp các triều đại vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, nên trong dân gian đời xưa có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê của tác giả, kể từ khi nước ta có vua thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn vào năm 1945 với vua Bảo Đại, thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào.

Đất của vua

Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của chiến tuyến bên kia làm vua rồi.

Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).

Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).

520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).

Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).

Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).

“Nhà” của chúa

Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.

Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI  - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.

Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.

Không chỉ là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần đóng vai trò trung tâm của đất nước khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407).

Khi vua Lê Trang Tông phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc. Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long.

Ngày nay, Thanh Hóa là một trong 63 tỉnh, thành phố của đất nước, được xếp theo vị trí địa lý là tỉnh mở đầu vùng Bắc Trung Bộ.

Nguồn: kienthuc.net.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy vùng đất Thanh Hóa

Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Nhiều người vẫn tâm niệm rằng, mơ thấy máu là điềm xấu, tìm mọi cách để hóa giải vận xui. Nhưng máu xuất hiện trong giấc mơ thì lại là cát mộng.
Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người vẫn tâm niệm rằng, mơ thấy máu là điềm xấu, tìm mọi cách để hóa giải vận xui. Nhưng máu xuất hiện trong giấc mơ thì còn đại diện cho cuộc sống, tình yêu, niềm đam mê, nên chưa chắc giấc mơ nào có hình ảnh máu cũng là điềm dữ đâu nhé. 


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác


Thấy máu bạn đang chảy hoặc bị mất máu trong mơ, ám chỉ rằng bạn đang kiệt sức hoặc  cảm thấy cạn kiệt cảm xúc. Ngoài ra, điều nay cũng có thể mang ý nghĩa là sự đối đầu quyết liệt giữa bạn và thân hữu của bạn. Những hành động đã qua trong quá khứ thường hiện về trong tâm trí bạn.Tuy nhiên nếu mơ thấy máu chảy ra nhiều là giấc mơ lành báo rằng chuyện làm ăn của bạn sẽ được thuận buồm xuôi gió và bạn sẽ nhanh chóng phát đạt.


Mo thay mau la lanh hay du hinh anh
Ảnh minh họa
Kinh nguyệt là chuyện “hơi dơ bẩn” trong hiện thực, ví dụ như tới kỳ thì kiêng thờ cúng, kiêng vào chùa… nhưng nó lại hoàn toàn ngược lại trong giấc mơ.


Nữ giới mơ thấy kinh nguyệt, một mặt ám chỉ bạn sắp thoát khỏi buồn phiền bắt đầu một cuộc sống vui vẻ mới. Mặt khác nó  còn ngụ ý rằng bạn đang phải chịu áp lực nặng nề về chuyện bầu bí. 
 
Nữ giới mơ thấy kỳ kinh nguyệt của mình ra nhiều máu là mọi ước mong của bạn đều có thể thực hiện, cuộc sống hạnh phục được kéo dài.

 
Mơ thấy mình dính máu kinh nguyệt là điềm báo bạn sắp có được bạn bè hợp tác mới, chuyện làm ăn không ngừng tốt đẹp.

 
Nữ giới mơ thấy mình đến tháng và làm bẩn hết quần áo thì bạn nên chú ý vấn đề sức khỏe, có thể sắp tới bạn sẽ phải đi khám bệnh. 
 
Chồng mơ thấy vợ mình đến tháng là điềm báo về cuộc sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc.

 
Nam giới mơ thấy mình dính kinh nguyệt phụ nữ là điềm báo bạn sắp thành công trong một lĩnh vực nào đó hoặc sắp được thăng chức.   
Nếu có cái gì đó được viết bằng máu, thì nó đại diện cho năng lượng bạn đã đưa vào một dự án. Bạn đã đầu tư rất nhiều công sức vào cái gì mà bạn không sẵn sàng từ bỏ nó.
  
Mơ thấy máu bắn hoặc dính vào quần áo, giấc mơ này mang đến một tin vui là bạn sắp có được thành công ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống.
Trong giấc mơ, bạn thấy người khác bị chảy máu là điềm báo bạn sắp thắng lợi trong công việc của mình.
 
Nếu như bạn mơ thấy máu ở những lò sát sinh thường là điềm báo rằng bạn sẽ có được vận may bất ngờ về mặt tài chính.
 
Nếu bạn mơ mình dẫm phải một vũng máu thì bạn nên cẩn trọng hơn tới những công việc mình làm. Điềm báo này nói rằng có thể bạn sẽ gặp phải rắc rối nào đó có liên quan đến pháp luật.
 
Mơ thấy máu bắn lên mặt hoặc trên mặt có vết máu cũng thường là điềm không hay, ám chỉ rằng bạn sẽ phải đảm nhận một trọng trách vượt quá khả năng của bạn.

Mơ thấy nội tạng có đáng sợ không?
Thật không may nếu bạn mơ thấy trái tim hay lá phổi của mình. Những giấc mơ này sẽ khiến cho tinh thần sa sút, bạn cảm thấy chán nản và mất hết hi vọng. 
 
Nếu bạn mơ là bạn đang hiến máu, thì nó cho thấy cơ thể bạn bị vắt kiệt sức lực vì căng thẳng.
 
Mơ thấy những người khác chảy máy ám chỉ một cảm xúc đau khổ cần được giúp đỡ.
 
Mơ thấy tay bạn dính máu ám chỉ bạn đã phạm một lỗi lầm nào đó.
 
Mơ thấy bạn đang chảy máu nghĩa là mất đi sự sinh tồn, mất đi lòng tin vào bản thân, và không tự tin.
 
Mơ thấy bạn đang chảy hoặc mất máu ám chỉ rằng bạn đang bị kiệt sức hoặc cảm thấy cảm xúc bị vắt kiệt. Nó cũng có thể biểu thị những sự đối mặt cay đắng giữa bạn và bạn bè mình. Hành động trong quá khứ quay trở lại ám ảnh bạn. Hãy xem bạn bị chảy máu từ đâu và cân nhắc những biểu tượng của phần cơ thể đó.
 
Mơ thấy bạn đang được truyền máu có nghĩa là bạn đang cần được nạp năng lượng và sinh khí. Trường hợp mơ thấy máu này bạn có thể đang thiếu cảm hứng và cần vài động cơ mới cho cuộc sống.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy máu là lành hay dữ?

Phong thủy ghế ngồi làm việc –

Ghế ngồi làm việc tốt có thể điều chỉnh hợp với cơ thể và bàn làm việc chắc chắn, có tựa lưng và cánh tay. Nó tượng trưng cho điểm nương tựa và nền móng của bạn, vì thế, hãy đảm bảo là ghế có hình dáng phù hợp với công việc. Nếu mua chiếc ghế mới, hã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ghế ngồi làm việc tốt có thể điều chỉnh hợp với cơ thể và bàn làm việc chắc chắn, có tựa lưng và cánh tay. Nó tượng trưng cho điểm nương tựa và nền móng của bạn, vì thế, hãy đảm bảo là ghế có hình dáng phù hợp với công việc.

kmmot

Nếu mua chiếc ghế mới, hãy lựa chọn màu phù hợp với vị trí phòng làm việc và loại hình công việc (dựa vào ngũ hành và bát quái). Ví dụ, công việc giao tiếp gần với hành thủy và cùng Sự nghiệp, vì thế, một chiếc ghế màu xanh lá cây sẫm hoặc màu đen là lựa chọn thích hợp cho nhà văn, người làm xuất bản hay công việc liên quan đến giao tiếp. Vì kim sinh thủy, nên màu xám cũng là lựa chọn có tác dụng hỗ trự. Tuy nhiên, màu nâu hay màu đỏ tía không thích hợp cho nhà văn, bởi vì thổ và hỏa làm suy yếu thủy.

Nếu ghế ngồi làm việc không có màu hỗ trợ cho nghề nghiệp của bạn, một giải pháp rất dễ là phủ lên ghế một mảnh vải có màu thích hợp hơn.

Nên nhớ rằng công việc là một hình thức tự thể hiện bản thân. Mặc dù đồ đạc trong phòng làm việc phải phù hợp với tính chất công việc; nhưng không có nghĩa là chỉ cần tạo không gian có dáng vẻ “văn phòng”, trừ phi điều đó giúp bạn tập trung vào công việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy ghế ngồi làm việc –

Khí chất trời sinh, 4 chòm sao thanh lịch gặp biến không đổi

Trầm tĩnh và tao nhã, 4 chòm sao thanh lịch dưới đây khiến ai ai cũng phải trầm trồ vì trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng giữ được thần thái của mình.
Khí chất trời sinh, 4 chòm sao thanh lịch gặp biến không đổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trầm tĩnh và tao nhã, 4 chòm sao thanh lịch dưới đây khiến ai ai cũng phải trầm trồ vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả đối diện với nguy hiểm họ cũng giữ được thần thái của mình.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

Khi chat troi sinh, 4 chom sao thanh lich gap bien khong doi hinh anh goc
 

Kim Ngưu: trời sinh tao nhã, lâm nguy không loạn

  Chòm sao thanh lịch như Kim Ngưu có khí chất trời sinh, lúc nào cũng rất từ tốn và ổn định, bất chấp tình huống khó khăn, nguy hiểm đến đâu thì không bao giờ thấy Kim Ngưu có biểu hiện nôn nóng. Cho nên, có thể coi đây là người có tâm thái rất vững vàng, dẫu chiến tranh thế giới thứ 3 có nổ ra thì cũng vẫn ung dung sắp xếp mọi việc chứ không cuống cuồng lên đâu.  

Xử Nữ: kiên trì hình tượng tao nhã đến cùng

  Mỗi giờ mỗi khắc tồn tại đều khiến Xử Nữ hướng tới sự hoàn hảo, hoàn mĩ. Dù gặp phải tình huống nào thì chòm sao thanh lịch này vẫn cố gắng tuân thủ nguyên tắc, duy trì thần thái của bản thân, làm cho bản thân trở nên bình tĩnh và tự tin. Chính điều này giúp cho Xử Nữ luôn có “cái đầu lạnh” trước những biến cố của cuộc đời.
Khi chat troi sinh, 4 chom sao thanh lich gap bien khong doi hinh anh goc
 

Thiên Bình: khí chất tao nhã từ nội tâm

  chòm sao thanh lịch từ trong cốt cách, có phẩm chất quyền quý, sang trọng, Thiên Bình luôn hiểu rõ vị thế của bản thân, nội tậm bình tĩnh, không một chút run rẩy. Sợ hãi không làm cho sự tình tốt lên, ngược lại chỉ khiến bản thân xấu xí hơn và khó khăn hơn. Dẫu sao thì người xinh đẹp, bắt mắt vẫn luôn được chú ý và giải quyết công việc nhanh chóng, dễ dàng hơn mà, đúng không nào.  

Ma Kết: tao nhã vì có năng lực

 

Ma Kết là chòm sao của hành động thực tiễn và ý chí kiên định, vẻ lạnh lùng, khí chất tao nhã toát lên từ năng lực hơn người. Đối mặt với những tình huống gian nguy, Ma Kết luôn sáng suốt tìm ra cho mình hướng giải quyết tốt nhất, bình tĩnh từ trong thâm tâm, tin tưởng vào khả năng của bản thân. Đây chính là điển hình của người có tài và tự tin về tài năng của mình, không cho hoàn cảnh có cơ hội để xô đẩy.
Đáng ngưỡng mộ 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc Sao nam nào dễ say nắng nhất? Bật mí lý do mối tình đầu của 12 chòm sao tan vỡ
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khí chất trời sinh, 4 chòm sao thanh lịch gặp biến không đổi

Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Khi phác họa về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương trong một vài vị trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của Thái Dương trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế nào ở vào các vị trí hãm địa.
Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương hợp với những người Dương Nam, Dương Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí miếu vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của Thái Dương, mặc dù đó là thời gian đã là giao điểm giữa đêm và ngày. Như vậy sáu cung còn lại từ cung Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của bóng đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái Dương có hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể (NTTB), nghĩa là mặt trời chìm xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn giữ được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái Dương. Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Tí Hợi là người hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy.

Là người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương và nghệ thuật. Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt. Được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ. Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người NTTB là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết, họ là những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết đạt thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không biết đến mình.

Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong những phòng thí nghiệm v.v… NTTB dù nam hay nữ cũng là những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa… Nếu có thêm những sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ… hợp chiếu thì họ là những nghệ sĩ có thực tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn viên trên sân khấu, màn ảnh… lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn.

Cũng như những tác phẩm nổi tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một người khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writer) Đó là ý nghĩa của mặt trời chìm đáy nước. Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.” Tính tình đa sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp và sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm, cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn vui. Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an nhàn sung sướng.

Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện. Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu sang phú qúy: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thể loại: Nhật Trầm Thủy Bể

Loại hoa, cây cảnh giúp hóa giải phong thủy ban công –

Khi thiết kế ban công, không phải ai cũng có thể tìm cho nhà mình nơi đặt vị trí ban công vừa hướng ra cảnh quan đẹp vừa hợp lý với cách bố trí trong nhà. Có thể ban công nhà bạn đã được thiết kế sẵn trước khi bạn đến ở. Và bạn có thể tự mình quan sá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

t, nếu từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy, ví dụ như trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện… thì bạn có thể bài trí những cây cảnh có tác dụng hóa giải.

Nếu trong trường họp từ ban công nhìn ra môi trường xung quanh không tốt theo quan niệm của phong thủy (trước cửa có góc nhọn chỉ vào nhà, đường đâm thẳng vào nhà, hoặc nhà đối diện với miếu, bệnh viện…) thì gia đình có thể bài trí cây cảnh để hóa giải.

ban-cong

Theo phong thủy, một số loại cây cảnh có tác dụng hóa giải, bảo vệ ngôi nhà có thể kể đến đó là:

– Cây tiên nhân cầu: Tiên nhân cầu là loại cây dễ sống, không cần tưới nước liên tục. Thân cây nhân cầu to và dài, xung quanh đầy gai, bài  trí những cây này có thể hóa giải hình sát của bên ngoài.

– Hoa hồng: Hoa hồng là hoa có hương sắc để trang trí cho ban công. Khi trồng ở ban công nên chọn loại hoa hồng thân gai có tác dựng hóa giải, thích họp với nhũng nhà có nhiều phụ nữ.

– Cây xương rồng: Ý nghĩa của cây xương rồng là mang đến sức mạnh, thân cây phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài.

– Cây ngọc kỳ lân: Ngọc kỳ lân phát triển theo hưóng ngang, vững vàng, khỏe mạnh, có tác dụng trấn giữ ngôi nhà.

– Cây đỗ quyên: Không chỉ hóa giải những hình khí xấu nơi ban công mà cây đỗ quyên còn có tác dụng mang lại nhiều vận may cho gia chủ. Loại cây này cũng dễ sống, hoa lá nhiều và có gai.

– Cây huyết long: Loại cây có lá bé, dài màu xanh thẫm, ở giữa lá có đốm vàng. Huyết long cũng là loại cây dễ chăm sóc và có sức sống mạnh mẽ. Đây cũng là loại cây có thể ngăn chặn những khí xấu xâm nhập vào nhà.

– Vạn niên thanh: có phiến lá to như những bàn tay xòe ra ngoài nạp khí tiếp phúc. Có tác dụng tăng cường vượng khí đối với phong thủy nhà ở. Cần chăm sóc cho cây luôn xanh tốt, duy trì màu xanh tươi trẻ tạo điều kiện hấp dẫn sinh khí tốt nhất.

– Cây kim tiền: phiến lá tròn dày, đầy đặn có sức sống vô cùng mãnh liệt, hấp dẫn kim khí từ thế giới bên ngoài rất có lợi cho tài vận gia đình.

– Cây cọ trúc, trúc quân tử: trồng ở ban công có thể bảo vệ giữ gìn sự bình yên cho gia đình.

– Cây phát tài: có đặc điểm to khỏe, phiến lá nhọn dài, xanh biếc dễ trồng, có sức sống mãnh liệt, có tác dụng bảo vệ và tăng cường tài vận cho gia đình.

Các kiến trúc sư cũng khuyên rằng, ban công nhỏ hay lớn đều nên thiết kế gần gũi với thiên nhiên bằng nhiều cây cảnh tuy nhiên cần được thiết kế gọn gàng và sạch sẽ, không mảnh vụn chồng chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại hoa, cây cảnh giúp hóa giải phong thủy ban công –

Giải mã giấc mơ thấy con tắc kè –

Đêm qua trong chiêm bao bạn có mơ thấy Tắc Kè, bạn đang lo lắng và suy nghĩ không biết liệu nó mang điềm báo gì? bạn vẫn chưa thể giải mã giấc mơ ấy, vậy hãy cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp bạn giải mã giấc mơ thấy con tắc kè nhé! Đặc điểm con tắc
Giải mã giấc mơ thấy con tắc kè –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy con tắc kè –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd