Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Ô Sào Thiền Sư

Ô Sào thiền sư là một cao tăng Trung Hoa vào đời Đường. Khi bà mẹ hạ sanh sư, bà không ưng ý lắm nên đem bỏ con vào một chiếc tổ quạ trên cội đại thọ trước hiên chùa rồi lẫn mất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ô Sào thiền sư là một cao tăng Trung Hoa vào đời Đường. Khi bà mẹ hạ sanh sư, bà không ưng ý lắm nên đem bỏ con vào một chiếc tổ quạ trên cội đại thọ trước hiên chùa rồi lẫn mất. Sư xuất gia từ đó, và người ta gọi sư là thầy Ô Sào (Ô là quạ, Sào là tổ), tức là ông thầy có xuất xứ từ một chiếc tổ quạ. Tuổi ấu thơ và tráng niên của sư trôi qua bình thản trong bóng mát của tòng lâm cổ kính. Sư thường hành thiền trên quê hương của mình, tức là nơi chảng ba có đặt chiếc tổ quạ ngày xưa mà theo năm tháng, cội cây đã to và rộng đầy đủ để cành nhánh có thể cho sư đặt một chiếc tọa cụ trên ấy. Cho đến khi ngộ đạo và hành đạo, thiền sư vẫn không rời "quê mẹ."

ô sào thiền sư

Một hôm, quan thị lang Bạch Cư Dị, một thi hào lừng danh đương thời, đi dạo ngang cổng chùa, trông thấy nhà sư đang ngồi vắt vẻo trên tàng cây, vốn không ưa hạng người "lánh nợ đời" như thế, ông cau mày hỏi:

- Bộ hết chỗ rồi hay sao mà thầy lựa chỗ hiểm nghèo như thế để ngồi?
Thiền sư bình thản đáp:

- Chỗ của tôi xem ra còn vững vàng hơn chỗ của quan lớn đang an tọa nhiều.

Quan thị lang nhìn lại chiếc kiệu của mình đang ngồi, ngạc nhiên:
- Chỗ tôi đang ngồi có gì đáng ngại đâu?

- Thưa, chỗ đại quan là dưới vua, trên các quan và trăm họ. Vua thương thì quần thần ghét, được lòng dân thì mất lòng vua. Tính mạng của đại quan cùng thân quyến đều lệ thuộc vào lòng yêu ghét của vua và sự tật đố tị hiềm của bạn bè. Một chiếc ghế được kê trên đầu lưỡi thiên hạ thì làm sao bì được với sự cứng chắc của cội cây này được. Có phải thế không thưa đại quan?

Bạch Cư Dị nghe nhà sư nói chỉ im lặng cúi đầu, giây lâu vị đại quan lão thành mới cất tiếng hỏi:

- Thầy có thể cho tôi biết thế nào là đại ý của Phật pháp chăng?
Thiền sư đáp liền:

- Không gì dễ bằng câu hỏi này. Đại quan hãy nghe tôi trả lời đây, đó là:"Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành - Tự tịnh kỳ ý - Thị chư Phật Giáo” (Nghĩa là: Các điều ác chớ làm, các điều lành vâng giữ, tự thanh lọc ý mình, đó là lời Phật dạy).

Bạch Cư Dị nghe xong bảo:
- Những điều thầy vừa đáp, con nít lên ba cũng nói được.

Thiền sư mĩm cười:

- Thưa đại quan, con nít lên ba nói được, nhưng ông lão sáu mươi chưa chắc đã làm xong. Ngài có thấy như thế không?

Bạch Cư Dị lại im lặng cúi đầu. Ông bắt đầu học đạo với thiền sư Ô Sào từ đó. Người ta kể rằng dưới sự dẫn dắt của thiền sư "Tổ quạ", không bao lâu vị đại quan này "thoát nhiên đại ngộ".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ô Sào Thiền Sư

Tướng người nham hiểm –

Mắt tứ bạch là mắt có tròng đen ít, tròng trắng nhiều. Tròng trắng có ở 4 phía bao quanh tròng đen. Dân gian còn gọi dạng mắt này là mắt trắng dã - mắt khiến nhiều người sợ hãi khi tiếp xúc. Chủ nhân là người thông minh, nhanh nhẹn nhưng lại nham hi
Tướng người nham hiểm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người nham hiểm –

Quẻ Quan Âm Lưu Thần Ngộ Tiên

Quẻ Quan Âm Lưu Thần Ngộ Tiên, Lưu Thần và Nguyễn Triệu Quốc là người huyện Diệm đến núi Thiên Lão tìm thuốc.
Quẻ Quan Âm Lưu Thần Ngộ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Năm trong quẻ Quan Âm, mang tên Lưu Thần Ngộ Tiên (còn gọi là quẻ Lưu Thần Gặp Tiên). Quẻ Quan Âm Lưu Thần Ngộ Tiên có bắt nguồn như sau :

Theo ghi chép trong “U minh lục”, năm Vĩnh Bình thứ 5, đời vua Minh Đế thời Đông Hán (năm 62 sau Công nguyên), Lưu Thần và Nguyễn Triệu Quốc là người huyện Diệm (nay là phía tây nam của huyện Thặng, tỉnh Triết Giang) đến núi Thiên Lão tìm thuốc. Núi Thiên Lão do hệ thống các núi Lưu Môn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Ba Tiêu, Bạt Vân Tiêm, Liên Hoa Phong tạo thành, núi non trùng điệp, hoang vu vắng lặng, thâm u vô cùng. Hai người Lưu, Nguyễn chỉ cắm cúi tìm thuốc, không biết trời đã tối, lại thêm bụng đói cồn cào, không biết phải làm như thế nào. Họ phát hiện trong núi có cây đào, liền với tay hái đào ăn cho đỡ đói, họ vừa ăn đào vừa đi men theo con suối nhỏ quanh núi.

Khi hai người đang dùng chén trà múc nước bên con suối nhỏ, thì nhìn thấy trong dòng suối có cơm vừng, bèn nghĩ thầm: Trong suối có cơm vừng, trong núi chắc chắn là có người ở. Hai người bèn men theo con suối nhỏ đi về phía trước, quả nhiên nhìn thấy hai cô gái rất xinh đẹp. Hai cô gái trông thấy hai người Lưu, Nguyễn tay cầm chén trà, liền cười nói: “Hai chàng Lưu, Nguyễn sao lại đến muộn thế?” tựa như là bạn cũ đã quen biết từ lâu. Hai người Lưu, Nguyễn rất kinh ngạc, nhưng không để họ chần chừ, hai cô gái đã mời họ vào nhà.

Vào trong nhà, họ nhìn thấy trong phòng căng màn đỏ, ở góc màn có treo chuông bằng vàng, bên trên là vàng bạc đan xen. Trong nhà có vài người hầu gái. Lúc ăn cơm, có các món như cơm vừng, thịt dê núi, thịt bò, thức ăn rất phong phú, có rượu ngon, lại có cả tấu nhạc, bọn họ ăn uống rất vui vẻ.
Ăn xong, mấy người hầu gái bưng đào lên, cười và nói với họ rằng: “Hai vị rể quý xin mời đi theo tôi”. Hai người vào phòng, và kết hôn cùng hai người con gái.

Mười ngày sau, Lưu, Nguyễn muốn về thăm quê, hai cô gái không cho, tìm mọi cách giữ lại.
Sau nửa năm, vì Lưu, Nguyễn rất nhớ quê nhà, nên hai cô gái đành phải cho hai chàng trở về, và chỉ đường cho họ đi. Sau khi Lưu, Nguyễn về tới quê nhà, thì không tìm thấy nơi ở xưa đâu nữa. Hỏi thăm khắp nơi, cuối cùng nghe một đứa trẻ (là cháu đời thứ bảy của họ) nói rằng: Nghe các vị tiền bối kể rằng, ông tổ Lưu Thần, Nguyễn Triệu Quốc vào núi tìm thuốc, sau đó mất tích rồi.

Thì ra hai người Lưu, Nguyễn ở trên núi nửa năm, thì ở dưới núi đã đến thời gian đời con cháu thứ bảy của họ rồi, tức là đã đến đời vua Tấn Thái Nguyên thứ 8 (năm 383 sau Công nguyên), thời gian đã qua những mấy trăm năm. Họ đã không còn nhà ớ, đành phải trở lại nơi hái thuốc trong núi tìm vợ. Thế nhưng làm thế nào cũng không tìm thấy họ, hai người đi tới đi lui bên dòng suối nhỏ, quấn quanh mà buồn bã.

Câu chuyện này được lưu truyền rất rộng rãi, đến mức đã trở thành điển cố thường dùng trong các tác phẩm văn học, như thường gọi những người ra đi rồi lại trờ về là “tiền độ Lưu lang” (chàng Lưu ngày trước).

Sau đó mọi người đặt tên cho dòng suối nhỏ đó là suối Trù Trướng (suối bồi hồi), cây cầu trên dòng suối gọi là cầu Trù Trướng (cầu bồi hồi). Đến ngày nay, chúng đã được đối tên là suối Đào Nguyên (suối nguồn đào), cầu Nghênh Tiên (cầu đón tiên). Người đời sau đã dựng miếu cho hai chàng Lưu, Nguyễn, trong miếu đắp tượng hai người đầu đội nón lá, lưng đeo sọt trúc, tay cầm cái cuốc nhỏ đào thuốc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Lưu Thần Ngộ Tiên

Nếu niên tinh là Nhị hắc tinh thì làm thế nào để tính Phi tinh bay đến giường? –

Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam - Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu niên tinh của năm 2007 là Nhị Hắc tinh. Ví dụ với chiếc giường hướng Nam – Bắc. Nếu hằng ngày xuống giường phía Đông Bắc thì sẽ bị ảnh hưởng của Ngũ Hoàng sát, tự nhiên mỗi lần bạn xuống giường đều cảm thấy khó chịu. Nếu xuống giường ở vị trí cuối giường tức là vị trí Thất Xích, đây cũng không phải là vị trí tốt. Xuống giường ở vị trí Tam Bích hướng Tây Bắc cũng không được, bởi vì Tam Bích là Phi Tinh. Vị trí tốt nhất là hướng Bát Bạch Tây Nam hoặc Cửu Tử ở chính Đông.

Khi chúng ta tương đối lo lắng thường quên vị trí xuống giường, cho nên tại vị trí cấm xuống giường chúng ta nên đặt một cái chăn để nhắc nhở mình không đụng đến vị trí đó. Tại vị trí xuống giường nên đặt một bức thảm màu đỏ (nếu cần Hoả), màu xanh lam (nêu cần Thuỷ) để khi bạn bước xuống giường là giẫm ngay lên thảm, tiếp nhận Bát vận nhanh chóng.

p20

Bát vận thuộc Thổ, bên giường của Bát vận nên bày đồ vật hình rồng, chó, trâu, dê để thúc vượng Bát vận. Năm 2007 Nhị HắcPhi Tinh, năm 2008 Nhất Bạch Phi Tinh, đầu giường tại hướng chính Nam do Lục Bạch biến thành Ngũ Hoàng nên năm 2008 kỵ những vị trí xuống giường đã nêu ở trên, cần phải đổi vị trí xuống giường sang Cửu Tử hướng Đông Nam và Bát Bạch hướng chính Đông. Điều này có nghĩa là mỗi một năm, vị trí xuống giường của chúng ta là không giống nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nếu niên tinh là Nhị hắc tinh thì làm thế nào để tính Phi tinh bay đến giường? –

Cách thay đổi vận mệnh trong tiết Lập Thu

Lập Thu là những ngày thời tiết khá đặc thù, đây cũng là khoảng thời gian âm dương luân phiên, đối với vạn vật, đây là thời gian mẫn cảm nhất. Tiết Lập Thu
Cách thay đổi vận mệnh trong tiết Lập Thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lập Thu là những ngày thời tiết khá đặc thù, tiết trời hanh khô, mát mẻ, trời trong xanh và không oi bức, đây cũng là khoảng thời gian âm dương luân phiên, đối với vạn vật, đây là thời gian mẫn cảm nhất.

► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Cach thay doi van menh trong tiet Lap Thu hinh anh
Ảnh minh họa
  Lập Thu là tiết khí thứ 13 trong 24 tiết khí, Tiết Lập Thu năm nay bắt đầu từ ngày 8 tháng 8, tức ngày 6 tháng 7 Âm lịch, ngày Nhâm Tuất, Tài Thần ở chính Tây.   Mùa thu là mùa hanh khô nên vạn vật xơ xác tiêu điều, thời xưa, phạm nhân bị tội chặt đầu thường tiến hành chém trong tiết mùa thu, bởi vậy nên mùa thu âm khí khá vượng. Không chỉ vậy, trong tháng 7 cô hồn, nhất là vào ngày rằm tháng 7 âm khí lại đạt cực thịnh.   Người xưa có câu “Nhất Diệp Tri Thu”, ngày Lập Thu là thời âm dương luân phiên với gian, nên chúng ta cần phải chú ý.   

1. Tế bái ước nguyện

  Từ xa xưa, khi tiến hành lễ cảm tạ trời đất và tổ tiên, người ra đều chọn ngày lành tháng tốt, cầu cho vụ mùa bội thu, mưa thuận gió hòa. Những người mà mệnh  không bị tương xung thì có thể lên chùa thắp hương trong những ngày này. Tuy nhiên, hãy nhớ kỹ, mỗi người chỉ nên có một ước nguyện mà thôi.  

2. Vượng vận đào hoa


Những người chưa kết hôn có thể đi du lịch tới các vùng đất ở hướng Tây để vượng vận đào hoa cho chính bản thân mình, hoặc ở hướng Tây Bắc của phòng ngủ, đặt một cốc nước, như vậy cũng có tác dụng thúc đẩy vận mệnh đào hoa. Còn với những người đã kết hôn hoặc đã có một nửa của mình thì có thể đặt một sợi dây ước nguyện dưới gối nằm hoặc những vật biểu tượng cho tình yêu bền vững.  

3. Giấy đỏ
 

Vượng vận thì yếu tố đầu tiên là sức khỏe phải tốt. Vậy nên, trong ngày Lập Thu bạn có thể dùng giấy đỏ và trên đó có viết chữ “Kim nhật Lập Thu, bách bệnh giai hưu” – có nghĩa là “Hôm nay Lập Thu, bách bệnh tiêu tan” rồi dán trên tường, điều này sẽ khiến cho tinh thần bạn sảng khoái và phấn chấn hơn, bệnh tật tự nhiên cũng sẽ được đẩy lùi.

4. Chọn phương vị tốt, tránh phương vị xấu

  Trong tiết Lập Thu, bạn nên tiến hành dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa hoặc động thổ, tuy nhiên, nên tránh hướng chính Đông. Nếu như cửa ra vào ở hướng chính Đông thì bạn nên treo dây tiền ngũ đế hoặc lục đế để hóa giải.   Ngoài việc phải chú ý hướng Tây Nam trong tiết Lập Thu thì bước vào tháng 7 cô hồn, bạn cũng nên chú ý cả hướng Tây, bởi tháng 7 là tháng Thân, tính dương cao, ngũ hành Kim, Kim tượng trưng cho sự bất biến nên tương xung với tiết khí. Vì vậy, bạn không nên tác động tới hướng Tây, vì đây là hướng kỵ, nếu phạm phải sẽ gặp nhiều rủi ro.  

5. Cẩn thận khi sinh hoạt vợ chồng
 

Trong ngày Lập Thu nên tránh chuyện sinh hoạt chăn gối nếu không sẽ dễ dàng xuất hiện những tư tình không như ý muốn, cảm giác khó chịu bởi tiết Lập Thu, dương khí suy dần, âm khí tăng cao, sẽ làm tổn thương dương khí khiến cho vận thế bị hao tổn. Trong ngày này, cũng có những chỗ không nên tiếp xúc với nước nếu không sẽ gặp nhiều bất lợi. Bạn có thể dùng một số vật phẩm phong thủy để tránh sát vượng tài.  

6. Tránh cảm xúc bi thương

  Tinh thần của con người cũng chịu ảnh hưởng bởi thời tiết, vậy nên, trong những ngày này người ta thường có cảm giác nhớ nhung, kiệm lời, ít cảm xúc… Bạn cần giữ tinh thần bình tĩnh, nếu không phổi khí cũng sẽ bị tổn thương bởi mùa thu mang ngũ hành Kim, phổi cũng là ngũ hành Kim.   Phương Thùy   Thay đổi bản thân để cả năm 2016 rộn ràng niềm vui Tuyệt chiêu vượng vận cho 12 con giáp trong tiết Hạ Chí
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách thay đổi vận mệnh trong tiết Lập Thu

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Xem hướng phòng ngủ tuổi Ất Mùi 1955 - Năm sinh dương lịch: 1955 - Năm sinh âm lịch: Ất Mùi - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng phòng ngủ tuổi Ất Mùi 1955

– Năm sinh dương lịch: 1955

– Năm sinh âm lịch: Ất Mùi

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

e-glue-wall-decor_132997727282

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Trần Đoàn và sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư

Cụ Nguyễn Công Trứ có làm một bài ca trù vịnh Trần Đoàn như sau:
Trần Đoàn và sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sườn non bầu rượu túi thơ
     Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An
     Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
     Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
     Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
     Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo
     Hà vật lão ẩu
     Nặng trên vai hai chúa thái bình
     Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh
     Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo
     Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
     Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường
     Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
     Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
     Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
     Luy trần bất đáo thử giang san
     Trời riêng cho một cuộc nhàn.
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông.
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau:
Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất.
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”.
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh những hai vị thiên tử sao?”
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.
Hậu Chu là gì?
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm năm đã mất.
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”.
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
     Gốc thông hỏi chú học trò
     Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa
     Chỉ trong dẫy núi đây mà
     Mây che mù mịt biết là nơi nao
                  (Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ).
Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ?
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.
Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy.
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”.
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia làm 4 tập:
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận - Đẩu số chuẩn thắng - Tục hình tinh phú – Phát vi luận - Đẩu số cốt tủy chú giải - Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải - Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận - Định phú cục - Định quí cục - Định bần tiện cục - Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách - Luận cách tinh số cao hạ - Luận nhân tính cách hà như - Luận nam nữ mệnh đồng dị - Luận tiểu nhi mệnh - Định tiểu nhi thời sinh quyết - Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung - Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu - Luận mệnh tiền bần hậu phú - Luận đại hạn thập niên họa phúc hà như - Luận nhi hạn thái tuế cát hung - Luận hành hạn phân nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát - Luận kinh đà diệt tính - Luận thất sát trùng phùng - Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chi sở kỵ quyết - Luận lập mệnh hành hạn cung ca - Luận thái tuế tinh thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung - Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.
Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.

Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh.

NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT
Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”... Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình trạng.
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt.
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả?
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ - Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương - Thất Sát – Phá Quân
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc - Tả Phụ - Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã - Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ - Thiên Không - Địa Kiếp – Thiên Thương – Thiên Sứ - Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì - Phượng Các – Thai Phụ - Phong Các - Hồng Loan – Thiên Hỉ - Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu - Đẩu Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị:
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao: Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ - Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù – Thiên Giải - Địa Giải - Giải Thần - Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần - Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần - Địa Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi.
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ - Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc - Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao: Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt gọi là Thiên diệu.
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa.
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử - Tướng, Phủ - Tướng, Nhật - Nguyệt, Tả - Hữu, Xương – Khúc, Không - Kiếp, Hỏa – Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt.
- Tam hợp là gì?
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
- Lục xung là gì?
Tý - Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão - Dậu xung, Thìn - Tuất xung, Tị - Hợi xung.
- Thủ đồng là gì?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
- Lâm - Nhập là gì?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
- Miếu – Hãm là gì?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.
- Tọa - Cứ là gì?
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào.
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
- Bản phương - Hợp phương – Lân phương là gì?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão.
- Triều và xung là gì?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
- Giáp - Chiếu - Hiệp là gì?
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp.
Ví dụ: giáp Nhật - Nguyệt, giáp Tả - Hữu
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho bất cứ sao nào.
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.
TỨ YẾU - THẬP DỤ - BÁT PHÁP
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
- Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hử mộc nan điêu”.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.
CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải. Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa.
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối?”.
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ sai đi một dặm.
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán.
Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát.
Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng:
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được).
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất.
Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trần Đoàn và sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư

Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác.
Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác, hợp với gia chủ.


► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
1. Sinh Khí (Tham Lang) – Mộc   Sao Sinh Khí thuộc ngũ hành Mộc, thuộc Đông tứ trạch trong phong thủy nhà ở, là đại cát tinh số một. Đặc điểm của sao này là mạnh mẽ, tràn đầy tinh lực, tính cách bốc đồng, quyết đoán và nhiều tham vọng.    2. Diên Niên (Vũ Khúc) – Kim   Sao Diên Niên ngũ hành thuộc Kim, là đại cát tinh. Sao này hiền hòa, an nhàn, có tính nhẫn nại, thích tán thưởng người khác và biết khẳng định bản thân.   3. Thiên Y (Cự Môn) – Thổ   Sao Thiên Y ngũ hành thuộc Thổ, là Thổ tinh, đại cát tinh. Tính chất là an nhàn, ổn định, đủ ăn đủ mặc, thoải mái, ít phiền não, thân thể tráng kiện, có quý nhân tương trợ.   4. Phục Vị (Phụ Bật ) – Mộc   Sao Phụ Bật chia thành Tả Phụ Bật và Hữu Phụ Bật, thuộc loại trung cát tinh. Sao này tác dụng thấp hơn so với các sao ở trên, yêu gia đình, mẫn cảm, săn sóc, nghe lời cha mẹ, ít tham vọng.   Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 2) Thế nào là hướng nhà tốt xấu Mách bạn cách làm nhà vượng sơn - vượng hướng
5. Tuyệt Mệnh (Phá Quân) – Kim
  Sao Tuyệt Mệnh thuộc ngũ hành Kim, là đại hung tinh. Tính chất hỗn độn, tác dụng thất thường, vì việc nhỏ mà lo buồn, phiền muộn, trầm mặc, dễ nảy sinh áp lực trong lòng dẫn tới bệnh tâm lý.   6. Ngũ Quỷ (Liêm Trinh) – Hỏa   Sao Ngũ Quỷ thuộc ngũ hành Hỏa, không phải cát tinh. Sao này có tính chất cuồng bạo, dễ bị phiền nhiễu hay cùng người khác xung đột, vô ý đắc tội với người khác, phương diện nhân duyên không tốt, làm việc vô ích, không có hồi báo.  
Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
7. Họa Hại (Lộc Tồn) – Thổ
  Họa Hại thuộc ngũ hành Thổ, không phải cát tinh, có tính chất xâm hại. Sao này dễ bị việc vặt vãnh quấy nhiễu, dễ mệt mỏi, suy yếu, không tin tưởng bản thân, lười nhác.   8. Thất Sát (Văn Khúc) – Thủy   Sao Thất Sát ngũ hành thuộc Thủy, là hung tinh, có tính chất phá hoại. Thường xuyên gây thị phi, phiền não, dễ mất ngủ, ù tai, gây ra lỗi lầm. Nếu hướng bếp, hướng cửa mà ở phương này thì nam giới trong nhà ăn tàn phá hại.    Phong thủy bát trạch nhấn mạnh vào tính chất cát hung của các sao này để lựa chọn hướng đại cát. Hướng nhà, hướng cửa, hướng bếp thì phải chọn phương cát tinh. Hướng nhà vệ sinh thì hướng về phương hung tinh. 
Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 1) 4 tiêu chuẩn vàng xác định hướng nhà tốt Nhà chính hướng, phú quý cát tường
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Luận về Tuần Triệt

Tuần với Triệt đều có chung một tác động gọi bằng không vong, gọi tắt là Triệt Không và Tuần Không, mà nguyên tên là Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong.
Luận về Tuần Triệt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuần và Triệt khi chấn đóng đều đứng liền hai cung.

Với Triệt không thì cung dương là chính và cung âm là phụ với người tuổi dương can. Với người tuổi âm can thì cung âm là chính và cung dương là phụ. Chính thì tác động mạnh hơn, phụ tác động yếu hơn.

Bản chất Triệt không gồm có không hư và ảo tưởng giống như Thiên Địa Không. Nhưng nó còn mang đến những chướng ngại đột nhiên, điểm này mới là chủ yếu; gọi bằng Triệt lộ ví như người đang đi đường mà đường bị sụt xuống hoặc có núi lở ngăn chặn Triệt mất đường đi lối về.

Triệt gây hại nhất đối với Lộc Mã, mệnh có Lộc Mã hoặc vận có Lộc Mã mà gặp Triệt thì kể như không Lộc Mã. Triệt có thêm lưu niên Triệt nữa chứ không chỉ có Triệt đóng chết trên lá số.

Thường thấy phổ biến lý luận rằng sau ba mươi tuổi thì ảnh hưởng Triệt không còn. Chẳng có gì để chứng minh điều này là đúng. Qua kinh nghiệm thì bất cứ lúc nào Triệt cũng gây hại hoặc làm cho đỡ hại trước hay sau ba mươi gì cũng như nhau. Có thể suy ra rằng sau ba mươi tuổi tác đã chín chắn, có phần nào kinh lịch thì sự tai hại bớt đi chăng?


Luận cứ Triệt đáo kim cung sẽ giúp cho những sao ở hai cung này tốt đẹp hơn không đúng. Cung Thân (Kim) mà có Lộc Mã bị Triệt vẫn bị hỏng như thường.


Triệt kị nhất đối với sao Thiên Tướng rồi mới đến Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thiên Lương, nói chung thì Triệt hãm hại cát tinh nhiều hơn hung tinh. Mệnh Thiên Tướng gặp Triệt dễ bị tai nạn lớn nguy hại cho tính mạng, càng đắc địa càng nặng. Có câu ca rằng:


Thiên Tướng miếu địa gặp ngay

Triệt Không án ngữ thân nay khó toàn

Hoặc vì súng đạn đao gươm

Tứ chi đầu mặt tật thương đó mà

Triệt chỉ đem lại lợi ích khi nó gặp Thái Âm, Thái Dương hãm, như Âm ở Dần Mão Thìn Tỵ, Dương ở Dậu Tuất Hợi Tí; hoặc nó gặp các hung sát tinh bất lợi cho Mệnh cho vận.

Sách Tử Vi Đẩu Số tinh diệu tổng đàm viết: Mệnh Thiên Đồng Thiên Lương đứng cùng Hóa Kị mà gặp Triệt Không án ngữ thành ra người tuyệt đối chủ quan.

Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không nói gì đến cách Mệnh Vô Chính Diệu gặp Triệt Tuần Thiên Địa Không tức tam Không hoặc tứ Không, nhưng tập Thần Kế Định Số của Lê Quí Đôn thì có đề cập đến ảnh hưởng tốt của

Triệt khi vào cung Mệnh VCD qua các câu phú:

- Mệnh vô chính diệu hoan ngộ tam Không hữu song Lộc phú quí khả kì
(Mệnh không có chính tinh rất mừng có tam Không giàu sang khi có cả song Lộc)
- Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi
(Mệnh bị Tuần, Thân gặp Triệt được Mệnh không chính tinh lúc vào luống tuổi đời mới tốt đẹp)

Trở lại với sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư ta thấy lời chú ghi bên dưới câu phú về Thiên Không như sau: “Mệnh cung Kim Không tắc phát nhị hạn nên gặp phúc, nếu Thủy Không sẽ lan tràn ngập lụt, Mộc Không ắt là gẫy đổ, Thổ Không thì đất sụt”
Phải chăng Triệt đáo kim cung và Tuần cư hỏa địa căn cứ vào câu phú trên đây? Nó đòi hỏi phải Mệnh vô chính diệu mới thật toàn bích? Nếu vậy thì Mệnh VCD chỉ ở cung Kim cung Hỏa mới hay?
Nói sang Tuần Không toàn danh của nó là Tuần trung không vong. Tuần cũng phân ra chính với phụ như Triệt. Tuần sức công phá của tính chất “triệt lộ” không bằng Triệt, bởi vậy Thiên Tướng sợ Triệt gây nguy hại hơn Tuần. 

Triệt phá hoại đột nhiên từ hoàn cảnh. Tuần lại trễ nải tự nơi mình. Cho nên mới có cái cách Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa lại nên hay. Nhờ Tuần khiến tự mình sửa lại cho ngay ngắn bản chất xông xáo bừa bãi của Phá Quân. Sự khác biệt căn bản giữa Tuần với Triệt là thế. 

Nói tóm lại Tuần côngphá nhẹ hơn Triệt chứ không phải Tuần kéo dài sự phá hoại còn Triệt thì sau ba chục tuổi thì hả hơi đi.
Về tính không tưởng, ảo tưởng, Tuần Triệt kém Thiên Không ở điểm: Thiên Không khi thành tư tưởng triết lý có thế hệ tổ chức hơn Tuần Triệt. Tuần Triệt tư tưởng triết chỉ đột nhiên thôi. Bởi vậy Thiên Không gặp Xương Khúc hay hơn Xương Khúc bị Tuần Triệt. 

Sao rất kị với Triệt khác là Thiên Mã. Thiên Mã ngộ Triệt gọi bằng Triệt túc Mã, ngựa gẫy chân. Mã đứng với Lộc bị Triệt làm ăn thất bại. Mã đứng một mình không cần Lộc dễ bị té ngã thương tích (đã bàn đến luận ở Lộc Mã)

Tìm hiểu thêm về Tuần Triệt qua các câu phú:

- Tam Không độc thủ phú quí nan toàn
(Mệnh vô chính diệu chỉ có tam Không mà thiếu Khoa Quyền Lộc Lộc Tồn thì giàu sang không lâu bền)

- Tuần Triệt ngộ Thiên Hình tha hương cách lý
(Mệnh có Tuần Triệt gặp sao Thiên Hình thường xa quê hương bản quán)

- Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn tư cơ phá hoại
(Tuần Triệt không nên gặp Lộc Tồn cơ nghiệp không giữ được)

- Tuần Triệt án ngữ trạch điền
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho
- Tam không hội Văn Xương ư thê cung thiềm cung triết quế
(cung thê không chính tinh có Văn Xương với tam Không thì lấy vợ con nhà danh giá)

- Triệt Tuần ngộ Mã hành thê vị
Vợ bỏ chồng đào tị tha hương

- Cung huynh đệ Triệt Tuần xung củng
Chim đầu đàn bay bổng xa khơi

- Tam Không chiếu hội tao cát diệu
Lại dưỡng tinh có đạo con nuôi
(cung tử tức không chính tinh gặp tam Không và sao Dưỡng)

- Không phùng Phá Tử phối vào
Vợ chồng trắc trở ba tao mới thành
(Cung Phu Thê có Tử Phá bị Tuần Triệt)

- Triệt Tuần xung khắc chẳng sai
Thiên Hư bất chính cả hai vợ chồng

- Phúc hữu chính tinh kị ngộ Triệt Tuần hoặc gia sát diệu lai ngộ Kiếp Cự thủy nịch tử
(Cung Phúc sao chính sợ gặp Triệt Tuần lại thêm Kiếp Cự dễ chết đuối)

- Tam Không xung sát hạnh Triệt khả bằng
Tứ chính giao phùng kị Tuần trực đối
(Vận hạn bị các hung sát chiếu mà cung vận hạn có Triệt sẽ đỡ, vận hạn có nhiều sao tốt chiếu mà cung vận hạn có Tuần trở thành vô ích)

- Thân cư Thê vị, Triệt Tuần lai xâm thiếu niên ai lệ nãi thất tình
Gia lâm cát tú lương duyên mãn kiếp
(Thân đóng Thê bị Tuần Triệt tuổi trẻ thất tình, có cát tinh phò trợ thì luống tuổi được duyên lành)

- Thân cư Quan Lộc nhược kiến Triệt Tuần Kiếp Kị nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu vũ lộ thừa ân khả dãi quá trung tuần dĩ hậu
(Thân đóng cung Quan Lộc bị Triệt Tuần Kiếp Kị tuổi trẻ danh phận bôn ba, có cát tinh hội tụ ngoài tuổi năm mươi mới được hưởng ơn mưa móc)

- Thân tại Quan cung gia sát diệu Triệt Tuần, nữ mệnh nan bảo thân danh
Gia kiến Bạch Tang thân cô trích ảnh, nghi gia vãn tuế tất thành
(Thân đóng Quan Lộc gặp sát tinh và Triệt Tuần, số gái khó bảo toàn danh tiết lại thêm Bạch Hổ Tang Môn thì cô đơn phải muộn tuổi mới lấy chồng)

- Triết túc Đà Mã sum vầy
Tử Mã Tuần Triệt đêm ngày khảm kha
(Mã bị Tuần Triệt là ngựa chết cuộc đời khảm kha)

- Mệnh vô chính diệu tam Không
Nhật Nguyệt giao chiếu dự phần công khanh

- Cái ngộ Mộc gái nào đoan chính
Mã gặp Không thì tính tang bồng
(Triệt Không và Địa Kiếp)

- Tam Không ngộ Dưỡng đinh ninh
Nuôi con nghĩa tử giúp mình yên vui

- Dưỡng Thai Triệt Vượng thấu vào
Trong anh em có dị bào chẳng không

- Tang Môn Hư Khốc chẳng hay
Tuần Triệt viễn phối họa may mới thành
(Đây là những sao đóng ở cung Phu Thê)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Tuần Triệt

Phong tục ngày Tết Nguyên Đán xưa và nay

Tết Nguyên Đán là một ngày thiêng liêng với tất cả mọi người Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, cả khi thăng cùng như lúc trầm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  • Tìm hiểu về phong tục Tết Nguyên Đán truyền thống

    Tết không chỉ là dịp mừng đón mùa Xuân mới lại về mà còn là dịp mừng sum họp gia đình, gia tộc, mong đất nước và xã hội tốt đẹp hơn, mong ai cũng được đủ đầy hạnh phúc. Vì vậy mà ai cũng náo nức, cho dù bận rộn hơn hẳn ngày thường thì mọi người vẫn hăng hái và phấn khởi chuẩn bị về ăn Tết, chơi Tết cho thật đàng hoàng vui vẻ.

    Qua các thư tịch người xưa để lại và qua lời kể các cụ cao niên thì Tết ngày xa xưa có nhiều điểm khác ngày nay.
  • Phong tục gói bánh chưng làm bánh dày đã có từ thời các vua Hùng mở nước, do chàng hoàng tử Lang Liêu để lại. Phong tục ấy vẫn được duy trì cho đến ngày nay.

    Ảnh chỉ có tính minh họa. (Nguồn: Internet)

    Tết đến, nhà ai cũng phải gói bánh chưng Tết, nào vo gạo, đãi đỗ, mổ lợn, mua lá dong rừng, chẻ lạt giang, và hì hục luộc bánh suốt đêm, ngọn lửa cháy bùng bùng, người ngồi canh bánh là trai thanh gái lịch hẹn nhau, sát vai nhau suốt đêm bên bếp lửa, mặc kệ ngoài trời dù mưa phùn gió bấc hay cái rét tái tê...

    Sáng hôm sau vớt bánh, bóc chiếc bánh đầu tiên đặt lên bàn thờ dâng lên tiên tổ ông bà tỏ lòng thành kính biết ơn.

    Có câu ca dao nói về phong tục Tết: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh."

    Gần Tết, ngoài đình trồng cây nêu cao nhất làng, ngoài chùa trồng cây phướn, các gia đình cũng trồng cây nêu bằng cây tre cao và thẳng nhất của bụi tre nhà mình, trên đó treo lá cờ ngũ sắc, con chim chiếc lá bằng sứ, quả chuông nhỏ cùng những giải lụa màu.

    Đến ngày mùng 7 Tết gọi là ngày khai hạ mới hạ nêu, coi như đã song một cái Tết để bắt tay vào lao động, ai về quê ăn Tết thì lại ra đi tiếp tục công việc của mình những chốn xa xôi.

    Cứ Tết đến, dăm ba nhà chung nhau ngả một con lợn để chia nhau ăn Tết, tục đó gọi là "ăn đụng". Vì thế mà có món thịt mỡ. Bởi thịt mỡ dễ ngấy, nên rau cỏ trồng ra, trong đó có loại hành củ đem nén vừa chua vừa mặn, từ hàng tháng trước Tết.

    Trên mâm cỗ Tết có đĩa dưa hành nõn bóc trắng tinh xen lẫn màu vàng rực rỡ, nó sẽ giòn sần sật giữa hai hàm răng, làm cái ngấy của thịt mỡ phải tiêu tan.

    Ngày Tết, trong nhà có mâm cỗ Tết, có bánh chưng xanh, có dưa hành vàng, thì cũng không thể thiếu được đôi câu đối trên hai cột nhà, có khi sơn son thếp vàng, có khi trên lụa đỏ và bình dân hơn cả chỉ là những tờ giấy hồng điều được dọc ra, viết những lời hay, ý đẹp và treo lên vách.

    Phong tục chơi câu đối đỏ có từ rất lâu đời, từ khi ông cha ta biết viết chữ, cả chữ Hán và chữ Nôm.

    Trong nhà ngoài sân đều sạch sẽ khang trang, thì cũng không thể thiếu được những tràng pháo chuột của những em bé thơ ngây, chỉ chơi trong ba ngày Tết, vừa vang rền vừa thơm mùi khói pháo.

    Tết còn rất nhiều những phong tục hay và đẹp. Ngày gần Tết phải tổng vệ sinh toàn bộ từ nhà đến sân và lối ngõ. Có câu tục ngữ: "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi" là nói về chuyện đó.

    Đầu năm không thể sang hàng xóm xin mấy hạt muối. Còn cuối năm mua vôi để lấy nước vôi quét các bức vác đã qua một năm mua gió nắng nôi, còn dùng nước vôi hoặc vôi bột rắc ra sân ra ngõ, không chỉ rắc như reo hạt mà còn vẽ thành các hình như tròn tượng trưng cho trời, vuông tượng trưng cho đất, vẽ cả cung tên với mũi tên chỉ ra ngoài nhằm xua đuổi mọi loại tà ma, không cho chúng đến quấy nhiễu.



  • Kiêng không nói tục, không làm đổ vỡ, không dám mắng các em thơ, phải có người vào xông nhà thì người trong nhà mới được ra khỏi nhà, gọi là "xuất hành" tùy theo người chủ nhà và cách tính tuổi mà đi về nam hay sang bắc, đi theo hướng đông hay tây...

    Tục mừng tuổi cũng có từ lâu, không phải là kiểu cho tiền vào phong bao đỏ, gọi là lỳ xì, kiểu này nguyên của người Trung Hoa với Hoa Kiều.

    Còn ở Việt Nam, mừng tuổi bằng những đồng xu, đồng hào hoặc những tờ bạc còn mới tinh, và đưa tận tay người được mừng tuổi. Khá giả hơn, có khi mừng tuổi bằng tất cả những loại tiền từ to đến nhỏ, để mong người nhận sang năm mới sẽ có thể thu nhận được tất cả những loại tiền như thế.

    Từ chiều mùng một, các vãi già đã lên chùa lễ Phật, các cụ ông ra đình thắp nhang trước Thánh.

    Những ngày Tết đều là ngày vui, đi thăm nhau, chúc Tết nhau, rồi đánh đu, đánh cờ người, hát chống quân, đi đốt pháo, xem chọi gà, đánh tam cúc điếm...

    Một nét đặc biệt của Tết xưa là sum họp. Ai đi đâu thì cũng có về sum họp gia đình, thăm họ hàng, quê hương. Cha mẹ mong con, anh chị em mong nhau, đến hàng xóm cũng hỏi thăm, nếu có người về thì cũng chia sẻ niềm vui ấy...

    Trải qua bao nhiêu biến thiên, một thời bao cấp khó khăn, Tết vẫn được duy trì ở mức có thể, để ai cũng có Tết, không từng bừng thì cũng phấn chấn.

    Ngày nay, đời sống kinh tế của nhiều nhà đã khấm khá hơn, thành thị không còn lo cái ăn, cái mặc quá vất vả. Không cần chắt bóp hàng tháng trời để lo từng tí một.

    Chiều ba mươi Tết, cầm máy nói, alô vài câu là đủ đầy hàng Tết (đương nhiên là phải có tiền) vì vậy mà còn rất ít gia đình gói bánh chưng, người ta mua dăm bảy chiếc là xong. Thế là mất đi những đêm luộc bánh chưng tràn đầy không khí Tết. Chỉ còn việc nhỏ là ít nhà ai còn mua lá cây rau mùi già đun nước tắm, người ta dùng mỹ phẩm, nước hoa cho tiện.

    Mấy ngày Tết, các thành phần trong gia đình còn coi thường việc sum họp, từ mâm cổ tất niên đến mâm cỗ cúng sáng mùng một. Nhiều người rủ nhau đi nhà hàng, đi hát, đi dự những trò chơi mới từ nước ngoài du nhập vào. Cũng ít ai còn ăn những món "thịt mỡ" như trước nữa. Có người chuốc rượu nhau đến say xỉn, mà toàn là rượu đắt tiền, coi lãng phí như một chuyện thông thường.

    Phong tục cúng bái tổ tiên, nay có gia đình đơn giản đi nhiều nhưng có nơi lại phục hồi một cách thái quá, phục hồi cả cái hay lẫn điều dở, trong đó cả bói toán, dị đoan.

    Tiền mừng tuổi là để chia vui ngày xuân, mong cho nhau làm ăn tấn tới, mừng nhau vừa được thêm một tuổi trời. Tuy nhiên tục lệ này cũng có lúc bị người ta lạm dụng, cho tiền vào phong bao, một số tiền nào đó để đút lót, trả ơn, mong nhờ cậy sau này chứ không phải là niềm vui nho nhỏ và vô tư.

    Lâu nay đã thành một nét mới. Các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hải Phòng chẳng hạn, đêm giao thừa, người người tụ họp nhau quanh một quảng trường nào đó có độ rộng lớn để đón giao thừa, nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ hoặc của Chủ tịch nước rồi về xông nhà cho gia đình mình, với những mốt quần áo sang trọng và đẹp đẽ và có khi còn quái dị lạ lùng nữa, nhưng vì là ngày Tết, nên không ai nói gì nhau...

  • 2. Phong tục Tết Nguyên Đán ngày nay có gì khác?

    Tết của ngày nay, mâm cỗ không còn là quan trọng nhất nữa. Người ta coi chơi Tết quan trọng như ăn Tết, có khi còn quan trọng hơn ăn Tết.

    Ngày nay, dù có thay đổi gì chăng nữa thì ngày Tết vẫn được duy trì tính dân tộc, bởi người Việt Nam sống có ân nghĩa, thủy chung, tôn trọng những truyền thống dân tộc.

    Đó cũng là một điều đáng trân trọng dù ngày nay đã có không biết bao nhiêu thay đổi trong đời sống từ văn hóa đến chính trị và kinh tế.

Theo kenhaz.com                  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục ngày Tết Nguyên Đán xưa và nay

Quý nhân phù trợ của 12 con giáp năm 2016

Theo tử vi 2016 Bính Thân thì những con giáp được hưởng may mắn nhất là các tuổi Mão, Tỵ , Sửu các con giáp kém may mắn hơn là Thân, Thìn. Tuy nhiên với mỗi con giáp thì lại có quý nhân phù trợ cho riêng mình.
Quý nhân phù trợ của 12 con giáp năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Theo tử vi 2016 Bính Thân thì những con giáp được hưởng may mắn nhất là các tuổi Mão, Tỵ , Sửu các con giáp kém may mắn hơn là Thân, Thìn. Tuy nhiên với mỗi con giáp thì lại có quý nhân phù trợ cho riêng mình.

1. Quý nhân 2016 của Tuổi Tý

Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn
Mối quan hệ lục hợp: Tý Sửu
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tý là tuổi Sửu, Thân và Thìn.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Nam, Tây Bắc, Đông Bắc

2. Quý nhân 2016 của Tuổi Sửu

Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu
Mối quan hệ lục hợp: Tý Sửu
Do đó, theo tử vi 12 con giáp thấy quý nhân phù trợ của người tuổi Sửu là tuổi Tỵ, Dậu và Tý.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Nam, Tây, Bắc

3. Quý nhân 2016 của tuổi Dần

Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất
Mối quan hệ lục hợp: Dần Hợi
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Dần là tuổi Tuất, Ngọ, Hợi.
Phương vị quý nhân phù trợ: Nam, Tây Bắc

4.Quý nhân 2016 của tuổi Mão

Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi
Mối quan hệ lục hợp: Mão Tuất
Do đó, xem tử vi thấy rằng quý nhân phù trợ của người tuổi Mão là tuổi Mùi, Tuất, Hợi.
Phương vị quý nhân phù trợ: Tây Nam, Tây Bắc

5. Quý nhân 2016 của tuổi Thìn

Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn
Mối quan hệ lục hợp: Thìn Dậu
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Thìn là tuổi Tý, Thân, Dậu.
Phương vị quý nhân phù trợ: Bắc, Tây Nam, Tây

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

6.Quý nhân 2016 của tuổi Tỵ

Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu
Mối quan hệ lục hợp: Tỵ Thân
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tỵ là tuổi Dậu, Sửu, Thân.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Tây Nam, Tây

7. Quý nhân 2016 của tuổi Ngọ

Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất
Mối quan hệ lục hợp: Ngọ Mùi
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Ngọ là tuổi Dần, Mùi, Tuất.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam

8. Quý nhân 2016 của tuổi Mùi

Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi
Mối quan hệ lục hợp: Ngọ Mùi
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Mùi là tuổi Mão, Ngọ, Hợi.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông, Nam, Tây Nam

9. Quý nhân 2016 của tuổi Thân

Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn
Mối quan hệ lục hợp: Thân Tỵ
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Thân là tuổi Tý, Tỵ, Thìn
Phương vị quý nhân phù trợ: Bắc, Đông Nam

10. Quý nhân 2016 của tuổi Dậu

Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu
Mối quan hệ lục hợp: Thìn Dậu
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Dậu là Sửu, Thìn, Tỵ.
Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Đông Nam

11. Quý nhân 2016 của tuổi Tuất

Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất
Mối quan hệ lục hợp: Mão Tuất
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tuất là tuổi Dần, Mão, Ngọ.
Phương vị quý nhân phù trợ: Nam, Đông, Đông Bắc

12.Quý nhân 2016 của tuổi Hợi

Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi
Mối quan hệ lục hợp: Dần Hợi
Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Hợi là tuổi Mão, Mùi, Dần.
Phương vị quý nhân phù trợ: Tây Nam, Đông Bắc, Đông

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý nhân phù trợ của 12 con giáp năm 2016

Top 3 chòm sao số đen nhất năm 2016

Năm 2016 đối với Nhân Mã mà nói chính là mây đen kéo đến mịt mù. Tình yêu, công việc, xã giao đều có trục trặc, không như ý muốn.
Top 3 chòm sao số đen nhất năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chòm sao kém may trong năm 2016 cần phải hết sức thận trọng, lấy “dĩ hòa vi quý” làm đầu để tránh những điều không hay xảy ra trong năm tới.

Hạng 1: Nhân Mã

top-3-chom-sao-so-den-nhat-nam-2016

Công việc có người cản đường, tình yêu có kẻ thứ ba quấy nhiễu, xã giao gặp kẻ tiểu nhân gièm pha.

6 tháng cuối năm sẽ có đôi chút chuyển biến, tình hình tài chính khởi sắc nhưng cũng không đáng là bao. Chòm sao kém may mắn năm 2016 này cần phải bình tĩnh, đôi khi nên nhẫn nhịn, đừng quá nóng nảy làm theo ý mình mà khiến sự việc càng xấu đi.

Hạng 2: Bạch Dương

top-3-chom-sao-so-den-nhat-nam-2016-1

Cá tính lỗ mãng, bốc đồng, không có kế hoạch của Bạch Dương khiến họ gặp không ít việc xui xẻo. Tuy rằng làm theo ý mình nhưng ngay sau đó sẽ cảm thấy hối hận. 2016 lại không phải năm cát lợi của Bạch Dương, chòm sao đen đủi này liên tiếp vướng phải những chuyện trời ơi đất hỡi, thành công đến tay còn tuột mất.

Lời khuyên dành cho cung hoàng đạo này là nên thận trọng, trước khi quyết định việc quan trọng nên xin ý kiến của những người xung quanh và lên kế hoạch cụ thể. Kiềm chế tính nóng, chớ gây sự lôi thôi thì mọi chuyện sẽ trôi qua êm thấm.

Hạng 3: Song Ngư

top-3-chom-sao-so-den-nhat-nam-2016-2

Tuy có quý nhân giúp đỡ nhưng Song Ngư cũng là chòm sao có một năm 2016 không mấy khả quan. Chủ yếu là do họ ham muốn quá nhiều thứ, mà càng muốn cái gì thì lại càng không đạt được cái đó. Cả năm quanh quẩn với mớ bòng bong ấy khiến Song Ngư mệt mỏi.

Hơn thế nữa, Song Ngư không kiên định, gặp chút khó khăn liền buông tay, nên cơ hội tốt cũng vụt qua. Lời thị phi bên ngoài không cần nghe, lòng tham lam của bản thân nên kìm bớt, có vậy thì Song Ngư mới có thể sống thoải mái được.

VTC


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 chòm sao số đen nhất năm 2016

Sao Thiên Đồng

Một bài viết sưu tầm về sao Thiên Đồng. Mời các bạn đọc và tham khảo
Sao Thiên Đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên đồng tinh - Toàn thư

Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Tại Đẩu sao Thiên đồng là sao thứ tư thuộc Nam Đẩu, tại Số sao Thiên đồng theo cung vị thứ sáu thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao Thiên bàn. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ.

Tuổi trẻ chủ về Phúc.

Tuổi già chủ về Thọ.

Phúc nhiều thì Thọ ít.

Phúc ít thì Thọ nhiều.

Sao Thiên đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".

Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.

Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.

Sao Thiên đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà Hỏa Linh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.

Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.

Thái âm và Thiên đồng nếu trấn tại mệnh, hoặc trấn Điền trạch tại Tý, là cách "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.

SAO THIÊN ĐỒNG TỌA THỦ CUNG MỆNH

Dung mạo và tính cách

Người có sao Thiên đồng tọa thủ cung Mệnh thường có thân hình tròn đầy, tướng mạo đẫy đà, khuôn mặt như đứa trẻ, mắt thanh mày ngài, ánh mắt hiền dịu, khuôn mặt trông phúc hậu, với người nữ thì da trắng, tướng mạo thanh tú.

Là người khiêm tốn dịu dàng, hết lòng tuân thủ, ứng đối có lễ nghĩa, nhân từ thẳng thắn, mềm mỏng hòa nhã tinh thông. Phàm là làm việc lớn hóa nhỏ, có mới nới cũ, có ý tưởng kế hoạch nhưng lại thường không có giới hạn, vì vậy mà nói thì nhiều mà làm thì ít, có tính hài hước và tính trẻ con.

Bình thường không hay tranh chấp với người khác, nhẫn nại mà chẳng bận tâm phiền não, không hay tính toán với người nên cũng không hay phải tức giận vô cớ, xong thì thôi vì vậy duy trì quan hệ với mọi người ở mức độ giao tiếp.

Tư duy nhạy bén, khả năng lý giải tốt, tính thích ứng cao, thích làm việc thiện, yêu văn nghệ, chú trọng đến hưởng thụ cuộc sống, thích đầu tư vào hình thức ăn mặc sang trọng. Thích cuộc sống nhàn hạ, việc gấp cũng từ từ, lạc quan nhưng không tích cực, được chăng hay chớ, cổ nhân thường gọi là người "trí túc thường lạc"

Thiên đồng thủ mệnh nữ nước da trắng, thông minh lanh lợi, phong cách nụ cười hấp dẫn mọi người, rất có duyên, hay nhận được ánh mắt quan tâm của nam giới, thể hiện hình thức quý phái, thường không quan tâm đến lĩnh vực khoa học.

Suy đoán mệnh lý

Thiên đồng + 4

Thiên đồng – 2

Thái âm – 1

Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Thiên đồng + 3

Thiên lương – 2

Thiên đồng = 0

   

Thiên đồng = 0

Thiên đồng = 0

   

Thiên đồng = 0

Thiên đồng + 1

Thiên lương + 4

Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Thiên đồng + 3

Thái âm + 4

Thiên đồng + 4

Độ sáng của sao Thiên đồng tọa thủ 12 cung

Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên đồng.

Mối quan hệ của chúng như sau:

- Miếu = + 4

- Vượng = + 3

- Địa = + 2

- Lợi = + 1

- Bình hòa = 0

- Không đắc địa = - 1

- Hãm địa = - 2

Sao Thiên đồng là Phúc tinh, phúc của sao Thiên đồng là "không lo lắng trước mọi việc", làm việc gì cũng không nôn nóng, thích an nhàn tự tại, lúc thuận thì hưởng thụ cuộc sống, lúc nghịch cảnh thì cũng "nhìn theo chiều hướng tốt", "trong khải vẫn thấy niềm vui", "vui trong sự vất v". Chính vì vậy, người có sao Thiên đồng tọa thủ cung mệnh, thì cho dù là gia cảnh bần hàn, cũng sống cảnh an nhàn tự đắc.

Người có sao Thiên đồng thủ mệnh thiên bẩm đã có phúc, tự nhiên được hưởng những vật chất tốt hơn người khác, hoặc được sinh ra trong gia đình tương đối có tiền của, hoặc cho dù là gia cảnh nghèo khó cũng được hưởng thụ vật chất hơn người, đồng thời người Thiên đồng thủ mệnh rất dễ phát phì.

Sao Thiên đồng và sao Thiên lương đều có cái phúc trời phú, đó là làm thì ít mà hưởng thì nhiều, nhưng hai sao cũng có những điều không giống nhau như:

Thứ nhất - sao Thiên đồng có lòng dạ tâm địa phúc đức của chính thần, gương mặt như trẻ con, tính cách trẻ con, giống một đứa trẻ bướng bỉnh. Còn sao Thiên lương thì giống như một người già, thích nói khoác, thích được người khác phụng sự mình như lão Phật tổ, thích được người khác tôn thờ mình.

Thứ hai - sao Thiên lương là "âm tinh", cuộc đời thường bị che phủ, biểu hiện ra bên ngoài giống như đang được hưởng phúc, nhưng kỳ thực trong lòng thì lại đang có "nỗi niềm" tự thấy có khổ cực, tức cái vỏ bọc bề ngoài dường như đang được hưởng phúc là do nhận được sự chiếu cố, kỳ thực bên trong lại rất khổ tâm. Sao Thiên đồng thì không như vậy, nó chỉ là "biểu hiện trong ngoài hợp nhất", trong ngoài đều vui vẻ lạc quan, cho dù có nỗi khổ thì thường vẫn quan niệm khá đơn thuần, dễ nói ra và dễ xử lý.

Thứ ba - sao Thiên lương mặc dù có "Âm" quý nhưng lại chủ "thanh cao", cũng có thể so sánh với cuộc sống hưởng thụ vật chất tương đối tốt. Sao Thiên đồng thì có "vận" quý nhân mạnh, nên không bị áp lực tâm lý và khó khăn nào, chi phối đời sống chỉ muốn hưởng thụ an nhàn.

Do bản thân sao Thiên đồng hiểu được cách theo đuổi hưởng thụ cuộc sống về mặt vật chất và tinh thần, nên không chỉ dốc hết tâm sức, mà hơn nữa, lại còn suy nghĩ hộ người khác, luôn muốn hưởng thụ tốt hơn nữa mặc dù bản thân điều kiện chưa cho phép, chưa thể tự mình tạo ra môi trường tốt. Do vậy, ăn, mặc, ở, đi, lại, là những nhu cầu giản yếu, khi một loại nhu cầu nào đó khiến con người ta thoải mái, đều có thể khiến cho sao Thiên đồng phát triển được tài năng.

Sao Thiên đồng không thích nỗ lực phấn đấu, nên thường sau khi bận rộn, tự biết tìm ngay đến phương thức hưởng thụ, đây chính là một chút khích lệ cho bản thân mình.

Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chủ về an phân thủ thường, sống bình dị dễ gần, bị động bảo thủ, biết hài lòng với những gì đã có, an nhàn, yên ổn, tự tại là tâm tính ổn định hơn người thường, khó tránh khỏi việc được nhiều mất nhiều, trốn tránh hiện thực. Cũng vì vậy mà thiếu đi quyết tâm và khí phách phấn đấu sự nghiệp, hay sáng tạo cục diện mới, vì vậy sao Thiên đồng hợp với nữ giới hơn là nam giới.

Sao Thiên đồng trong mệnh bàn có chức năng đặc thù, đó là vì thời gian bôn ba vất vả trên trần thế càng nhiều, thì cơ hội an nhàn thoải mái càng ít, thường sao Thiên đồng kịp thời xuất hiện để điều chỉnh. Vì vậy, bất luận cách cục của mệnh bàn như thế nào, chỉ cần gặp sao Thiên đồng đều có thời gian nghỉ ngơi để nuôi dưỡng tinh thần, nạp thêm năng lượng, chuẩn bị cho cuộc sống tiếp sau.

Sao Thiên đồng cũng có tính chất đào hoa, đào hoa của sao này thiên về hoạt động xã giao với người khác giới, dễ lạc đề, tình cảm trọng về lý trí, tự suy tưởng hưởng thụ một chiều. Vì vậy người có sao Thiên đồng thủ mệnh về mặt tinh thần và tình cảm thường có cảm giác hư không, nên thích hướng ngoại tìm kiếm sự kích thích để duy trì hạnh phúc đang có, nhưng cần kiềm chế nhiệt tình thái quá mà không đúng nơi đúng chỗ, để tránh sinh ra những vướng mắc tình cảm lệch lạc, mệnh nữ thì càng phải thận trọng.

Cơ hội mà sao Thiên đồng độc tọa không nhiều, vì bất kỳ sao nào cũng đều có phúc không bằng sao Thiên đồng, do đó mà sao đồng cung với sao Thiên đồng, hoặc ít hoặc nhiều cũng đều có ảnh hưởng tới "phúc khí" của Thiên đồng, sự ảnh hưởng "phúc khí" đó là:

- Thứ nhất: khiến cho mức độ hưởng phúc của sao Thiên đồng giảm, hoặc giảm thời gian hưởng phúc.

- Thứ hai: khiến cho con đường hưởng phúc của sao Thiên đồng tương đối trắc trở.

- Thứ ba: do có phúc khó được hưởng, mà khiến cho đời sống tình cảm hôn nhân dễ gặp nhiều khó khăn.

Sao Thiên đồng Hóa Lộc thiên về thực lộc, ngược lại khiến người ta càng thêm lười nhác. Sao Thiên đồng hóa Quyền, hóa Khoa thì không còn lười nhác, lại có tính lạc quan, tích cực tiến thủ. Sao Thiên đồng hóa Kị chủ về lao động vất vả, khi Hóa Kị cũng là người có chủ nghĩa lạc quan, nhưng thường điều hòa cuộc sống công việc hằng ngày không hợp lý, nhiều sự việc trái với mong muốn, hoặc cơ năng thân thể thiếu hài hòa.

Sao Thiên đồng là một phúc tinh, không sợ sát tinh đồng cung hoặc hội chiếu. Có thể không cần đề kháng, cũng có thể tự hóa giải được sự hung hãn của lục Sát tinh. Sát tinh không chỉ không có tổn hại đối với sao Thiên đồng, mà ngược lại, còn thích Sát tinh đến kích phát lực khai sáng của sao Thiên đồng, khiến cho Thiên đồng không bị đình trệ trong sự "hưởng phúc". Nhưng, cũng có thể trong sự bận rộn và khai sáng, mà có lúc phải than rằng "có phúc mà không được hưởng". Cần phát triển thêm về mặt ngoại ngữ, hoặc văn nghệ, hoặc học để tăng thêm kỹ năng trong cuộc sống mà tự khai mở nguồn vui mới.

Người có sao Thiên đồng nhập mệnh, nếu không gặp Sát tinh, ngược lại, khiến cho Thiên đồng vốn thích hưởng phúc sẽ chìm đắm trong sự an lạc mà không có sự vươn lên. Thiên đồng thích gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên cơ, Thái âm, Thiên lương, càng chủ thọ cao. Gặp Xương Khúc chủ về tài thiên phú văn học nghệ thuật. Nữ mệnh Thiên đồng gặp Hữu bật, Thái âm, Văn xương, Vũ khúc, thì tình cảm thường nhiều phong ba.

Người có sao Thiên đồng thủ mệnh, chỉ cần thay đổi quan niệm và thói quen, tạm thời không đi hưởng phúc, mà tích cực đối diện với cuộc sống thì vẫn có thể đạt được những thành công như mong muốn.

Thiên đồng gặp Đà la ở cung mệnh, thường chìm đắm trong hiện tại. Thiên đồng gặp Kình dương thân thể dễ bị tổn thương. Thiên đồng thủ mệnh, gặp Kình Đà Hỏa Linh, và hóa Kị thì chủ về khai đao, phá tướng, nếu không thì thường xuyên bị đau ốm.

Sao Thiên đồng - Lục Bân Triệu

Sao Thiên đồng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy. Ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm Phúc tinh, là chủ tinh của cung phúc đức trong mệnh bàn. Bẩm tính ôn hòa không sợ tính hung của sao Kình dương, không lo sao Hóa Kị làm loạn.

Cho nên, sao Thiên đồng đồng độ với sao Kình dương ở Ngọ địa thì gọi là cách "Mã đầu đới tiễn" (Đeo tên ở đầu ngựa), chủ về vì quốc gia đem sức lực ra phục vụ, nắm giữ binh phù đại quyền, là vị đại tướng lập công ở chiến trường.

Sao Thiên đồng trấn thủ ở Tuất địa thì gọi là "Phản bối". Nếu ở Thìn địa thấy Hóa Kị, đồng thời còn gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu, thì lại là thượng cách, chủ về vừa phú vừa quý, đó là tượng "bĩ cực thái lai".

Sao Thiên đồng- Vương Đình Chi

Thiên đồng miếu ở ba cung Mão, Tị, Hợi, hãm địa ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi.

Thiên đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, hóa khí là "phúc".

Trong Đẩu Số, sao Thiên đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy thiên đồng có đặc tính là hưởng thụ, theo đó khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.

Tồn tại một khái niệm khá phổ biến, cho rằng "Thiên đồng ở trong 12 cung, đều là phúc trạch", thực ra không phải vậy. Vương Đình Chi cho rằng "Thiên đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm".

Nói về cung mệnh, người có Thiên đồng thủ mệnh, Cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng phong nhã; Hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.

Thiên đồng úy kị tính cứng rắn và hình khắc của Hỏa tinh và Linh tinh, nhưng lại không sợ Kình dương. Khi Thiên đồng nằm cùng cung với Kình dương ở Ngọ, gọi là "Mã đầu đới tiễn" trái lại, sẽ chủ về người nắm thực quyền trong quân đội hoặc cảnh sát.

Thiên đồng ở Hợi không ưa Hóa Kị (năm Canh). Nếu can của cung Hợi hóa Kị, gọi là hóa xuất, lại gặp thêm Lục sát và Thiên hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.

Thiên đồng rất ưa trấn thủ tại Tuất, gặp Cự môn hóa Kị ở xung cung lai chiếu, được gọi là "phản bối", nếu được Lộc tồn và Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, biến thành mệnh đại quý.

Nữ mệnh Thiên đồng cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cổ nhân cho rằng "Nữ mệnh Thiên đồng cư Tị Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm". Luận đoán này được suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thần trở nên phong phú, thì vẫn tránh được cái gọi là "đẹp mà dâm", đời sống hôn nhân tự nhiên sẽ được vui vẻ. Thiên đồng rất cần sinh hoạt tinh thần phong phú và đa dạng, để lấp đầy cảm giác nhàm chán.

Phàm Thiên đồng nhập cung Mệnh hoặc cung Phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để ký thác về phương diện tinh thần.

Bất kể là nam hay nữ, nếu Thiên đồng thủ mệnh, gặp sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng lại có thể có năng lực khai sáng, mà không bị sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao Cát, mà không gặp các sao Sát Hình, thì trái lại, Thiên đồng dễ chìm đắm trong lạc thú mà trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, hoàng đế không có trung thần can gián, ở vào thời chưa gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.

Sao Thiên đồng - Phan Tử Ngư

Thiên đồng thuộc dương thủy, sao thứ tư của Nam Đẩu, chủ về kéo dài tuổi thọ, làm chủ cung Phúc đức, hóa khí gọi là Phúc.

Cổ nhân gọi sao Thiên đồng là "Ích thọ chi tinh, bảo sinh chi tú" (Sao ích thọ, sao bảo vệ sinh mệnh). Thiên đồng nhập mệnh chủ về thời trẻ nước da mặt trắng, trung niên về già biến sắc ngả trắng vàng, mặt hình chữ nhật. Khi Thiên đồng nhập miếu thì người béo mập, gặp hãm địa thì thấp bé, tính ôn hòa từ thiện có cơ trí, không cao ngạo, tinh thông văn chương bút mực. Nếu gặp Sát tinh đồng cung hay xung chiếu, thì chủ về cô đơn, phá tướng. Nếu đồng cung với Đà la phần lớn là mắt híp, mắt lé và thường phát phì. Nếu nam mệnh Thiên đồng nhập cung Quan, mà bản mệnh không hình thành được cách cục, thì không thể luận là cát. Vì đặc tính lớn của Phúc tinh chỉ biết an hưởng, không có năng lực sáng tạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Đồng

Vĩnh biệt đời độc thân bằng dây kết cát tường phong thủy

Bạn hi vọng bản thân tràn đầy hấp dẫn, nhân duyên tốt đẹp nhưng lại không biết cách? Mách nhỏ cho bạn vật phẩm phong thủy vượng nhân duyên rất xinh xắn
Vĩnh biệt đời độc thân bằng dây kết cát tường phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn hi vọng bản thân tràn đầy hấp dẫn, nhân duyên tốt đẹp nhưng lại không biết mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa? Vậy ## mách nhỏ cho bạn vật phẩm phong thủy vượng nhân duyên rất xinh xắn dưới đây nhé.

>> Lịch ngày tốt cập nhật Tử vi hàng ngày 12 con giáp mới nhất, chính xác

vat pham phong thuy thuc day tinh yeu hinh anh 2
 
Câu chuyện dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác, hầu như ai cũng biết về vị thần tiên cai quản nhân duyên của thế gian – Nguyệt lão. Một tay cầm tơ hồng, một tay cầm nhất thủ huyền trượng, râu tóc bạc phơ nhưng vẫn tráng kiện, cưỡi mây đạp gió đi se duyên cho nam nữ khắp cõi.    Nguyệt lão dùng dây tơ hồng kết nối nam có tình, nữ có ý, khiến người xa lạ trở thành thân quen. Dù lịch sử nhiều lần biến thiên, phong tục trải qua biến đổi, nhưng dây tơ hồng nối kết nhân duyên vẫn là biểu tượng của tình yêu, đào hoa, hôn nhân và quan hệ nhân sinh, trở thành vật phẩm phong thủy thúc đẩy tình yêu phổ biến.    Để thúc đẩy đào hoa, tăng cường nhân duyên vận, cải thiện quan hệ xã giao, đặc biệt là người trong ngành sản xuất, giải trí, nghệ thuật, cô nam quả nữ đến tuổi trưởng thành nhưng chưa có người thương,…. đều có thể mang dây tơ hồng (dây kết cát tường) bên người. Dây kết cát tường là những sợi chỉ đỏ may mắn kết lại với nhau, khi chọn nên lưu ý mấy điểm sau:

Dây kết cát tường mang điềm may
Dây kết cát tường xuất hiện nhiều trong các dịp lễ tết, cưới hỏi và dưới nhiều dạng thắt nút khác nhau, đa phần là màu đỏ, biểu tượng cho sự may mắn.

1. Không nên chọn dây kết cát tường quá nhỏ, vì dây kết là dương, dương phải chủ động, đại biểu cho khí thế.
  2. Để dây kết cát tường vào chén nước muối để tẩy rửa, có tác dụng khử xui. Sau khi dùng một thời gian hoặc đi tới nơi có nhiều âm khí về thì nên áp dụng cách này.   3. Ngoài tác dụng thúc giục đào hoa, dây kết cát tường còn có hiệu quả trấn sát, xua đuổi điều xấu. Để trấn sát, ngâm dây kết cát tường trong nước muối rồi hong gió cho khô tự nhiện, nam đeo tay trái nữ đeo tay phải.  
vat pham phong thuy thuc day tinh yeu hinh anh 2
 
4. Dây kết cát tường đi cùng gỗ đào thì công hiệu trừ tà trấn sát tăng lên gấp bội. Nên trong nhà trưng kiếm làm bằng gỗ đào có treo dây kết cát tường ở chuôi thì sẽ bảo hộ bình an, xua rủi đón may.
Bên cạnh đó, bạn cũng có thể bói tình yêu để biết đường tình duyên của bạn ra sao, bạn và người ấy có hợp nhau không nhé!
  Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vĩnh biệt đời độc thân bằng dây kết cát tường phong thủy

Chạy đua săn quý tử năm Rồng

'Cơn sốt' canh ngày để có con trai tuổi Thìn đang bùng phát mạnh tại Hà Nội và nhiều thành thị, với việc chị em nhộn nhịp đến các phòng khám sản nhờ tư vấn, siêu âm trứng để canh giờ 'yêu', hay bơm dung dịch kiềm...
Chạy đua săn quý tử năm Rồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gần 6 giờ chiều, tại một phòng phám sản trên phố Hoàng Cầu (Đống Đa, Hà Nội) đông nghịt chị em ngồi chờ. Trong số này, chỉ có 3-4 người đến khám thai, vài phụ nữ khám phụ khoa, đặt thuốc, còn đông nhất là số chị em muốn siêu âm trứng.

"Bác sĩ canh trứng mát tay lắm, cơ quan em 4-5 người cùng rủ nhau tới đây canh, cứ tan giờ làm là đến", Thuận, 28 tuổi thì thầm khi ngồi đợi đến lượt siêu âm. Thuận cho biết, con gái đầu lòng của cô mới 2 tuổi rưỡi, nhưng nghe nói con trai mà đứng chữ Nhâm thì tài, mà lại còn Nhâm Thìn nữa thì càng tốt nên hai vợ chồng đang cố đẻ con trai vào năm sau.

Trước khi tìm tới phòng khám này, Thuận đã tham khảo rất nhiều tài liệu hướng dẫn sinh con theo ý muốn trên mạng, thậm chí còn in cả "cẩm nang" về để hai vợ chồng nghiên cứu và áp dụng, từ thực đơn ăn uống, tư thế, ngày quan hệ... "Mọi việc khác mình có thể tự làm, riêng canh ngày rụng trứng để 'yêu' là phải nhờ bác sĩ", Thuận bày tỏ.

Theo bác sĩ dặn, từ ngày thứ 12 của chu kỳ, Thuận sẽ tới siêu âm trứng để xác định thời điểm rụng. "Có ngày 'cao trào' em phải tới siêu âm 3 lần, sáng, trưa, tối để xem chính xác trứng rụng lúc nào còn 'đúc' cu tí. Ông xã cũng phải trực chiến, vợ ới là về ngay. Nhưng chẳng hiểu vì căng thẳng quá hay sao mà mấy chu kỳ rồi mà em vẫn chưa đậu", Thuận kể.

Cô cho biết, để chắc ăn hơn, bác sĩ còn giúp cô bơm nước muối vào vùng kín trước khi vợ chồng "gần gũi".

"Công cuộc 'săn rồng' mệt lắm, nhưng chồng em là con trai một, đứa thứ hai mà vẫn là con gái thì chắc lại phải đẻ tiếp", Thuận thổ lộ.

Cũng mong đậu thằng cu như Thuận, nhiều chị em không ngại tốn thời gian, tiền bạc tìm tới các phòng khám sản phụ khoa nhờ canh trứng, tư vấn sinh con trai. Tại hầu hết các phòng khám tư của những bác sĩ có tiếng ở Đê La Thành, Hoàng Cầu, Kim Ngưu, Cầu Giấy, Hà Đông... dịch vụ này đều sẵn sàng và khá hút khách. Cũng có một số chị em eo hẹp thời gian, ngân sách thì tự tham khảo tài liệu rồi tính toán, áp dụng.

Ngồi đợi tại một phòng siêu âm tư nhân trên đường Trần Bình, Cầu Giấy, Hà Nội, chị Phượng (Phú Diễn, Từ Liêm) cho biết, vì bận công việc, lại phải lo cho con nhỏ, ban đầu, chị tự mua que thử rụng trứng về canh nhưng không được như ý nên đành đi siêu âm trứng cho chắc ăn. "Ở đây họ chỉ chuyên siêu âm chứ không khám sản phụ khoa nên không tư vấn được nhiều, mình phải tự tính toán thêm, nhưng được cái gần nhà nên theo có thể tới thường xuyên", chị nói.

Dù không có chuyên môn về sản khoa, nhưng khi được yêu cầu canh trứng sinh bé trai, cô kỹ thuật viên của phòng siêu âm này cũng hướng dẫn tận tình: "Nếu chu kỳ của chị ngắn, dưới 28 ngày thì cứ tầm khoảng ngày thứ 8 thì chị bắt đầu tới, còn chu kỳ dài hơn thì cứ 10 ngày qua đây, sau đó tùy vào kết quả siêu âm, bác sĩ sẽ hẹn tiếp".

Không chỉ áp dụng các cách "hiện đại", nhiều người còn vận dụng theo những cách dân gian, như tính tuổi bố mẹ và tháng thụ thai, hay uống thuốc bắc để tinh trùng khỏe hơn, rồi đeo đá phong thủy...

Bác sĩ Lê Thị Kim Dung, Trung tâm Y khoa Thái Hà (Đống Đa, Hà Nội) cho biết, dù liên tục từ chối nhưng bà vẫn thường xuyên nhận được những lời nài nỉ nhờ tư vấn, siêu âm trứng để sinh con theo ý muốn, trong đó, cứ 10 người muốn sinh con trai thì chỉ có 1 là mong đẻ con gái.

"Việc này năm nào, tháng nào cũng có, nhưng gần đây có vẻ rộ hơn, do các mẹ mong đẻ được quý tử năm rồng. Đa số rơi vào những người sinh con thứ 2, một số là con thứ ba, và không ít người sinh con đầu cũng muốn 'canh'", bà nói.

Không chỉ người Bắc khát con trai, chuyện canh trứng tính ngày để có quý tử cũng bắt gặp tại nhiều nơi khác như TP HCM, các tỉnh miền trung hay nông thôn.

Cưới từ năm ngoái nhưng vợ chồng chị Thanh Ngọc (quận Bình Thạnh, TP HCM) cố “nhịn” cho đến năm nay để chờ sinh "rồng con”.

Chị Ngọc thực hiện rất nghiêm ngặt những “kinh nghiệm dân gian” mà mẹ chồng dặn dò, từ ăn nhiều hải sản, thịt bò, thịt lợn, trứng, hạn chế ăn rau, đến uống thảo dược, nhai mấy chỏm cau non, rồi tập niệm vòng hạt, và chỉ “gần” chồng vào giữa trưa... Tuy nhiên, dù đã “thả” gần nửa năm mà chưa dính, chị lại thấp thỏm vì “vừa sợ không sinh được con năm rồng vừa lo vô sinh".

Ngay từ cuối năm ngoái, trên các diễn đàn online, nhiều chủ đề như “làm sao để sinh con năm rồng” liên tục được lập ra và thu hút hàng nghìn thành viên tham gia, chia sẻ kinh nghiệm hoặc giới thiệu các cuốn “bí kíp”.

Trên trang webtretho, thành viên Nghi Phuong cho biết, chị đã đọc kỹ sách hướng dẫn theo dõi chu kì rụng trứng để căn giờ thụ thai nhưng vẫn chưa “thông".

“Em định tới kỳ rụng trứng tới sẽ tiến hành rửa âm đạo bằng nước chanh, không biết mẹ nào đã làm chưa và có hiệu quả không truyền bí kíp cho em với ạ!”, thành viên này kêu gọi.

Không những muốn sinh quý tử năm rồng, nhiều người mong con ra đời đúng vào giờ, ngày, tháng Thìn. “Em xem Lục thập hoa giáp bảo đẻ con năm Nhâm Thìn nên đẻ vào 9h ngày 01/04/2012, là giờ Thìn, ngày Nhâm Thìn, tháng Giáp Thìn, năm Nhâm Thìn. Em bàn với chồng rồi nhất định phải căn đúng thời khắc này mới được, thậm chí đẻ mổ cũng phải cố”, mebengo chia sẻ.

Theo bác sĩ Kim Dung, hiện nay, hầu như phòng khám sản phụ khoa tư nhân nào cũng sẵn sàng thực hiện việc này: từ tư vấn, siêu âm trứng, tới rửa vùng kín bằng dung dịch kiềm, cho uống thuốc tăng kali...

"Theo luật thì việc lựa chọn giới tính này bị cấm, phạt, nhưng thực tế, có nhiều cách để lách, như thỏa thuận ngầm giữa bác sĩ và bệnh nhân, hay lập lờ giữa việc siêu âm, tư vấn chữa hiếm muộn với việc sinh con theo ý muốn", một bác sĩ sản khác tiết lộ.

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết, hiện chưa có thống kê nào về hiệu quả thực sự của các biện pháp sinh con theo ý muốn như chế độ ăn, cải tạo môi trường âm đạo... và thực sự những cách này không mấy hiệu quả.

Ông cho biết, sự hình thành giới tính thai nhi chịu tác động của nhiều yếu tố như do di truyền, tính chất của tinh trùng (khỏe hay yếu, số lượng bao nhiêu, khả năng di chuyển ra sao, tinh trùng Y phân lập thế nào...), mức miễn dịch của âm đạo (có trường hợp môi trường âm đạo giết chết tinh trùng Y), thời điểm rụng trứng, thời điểm giao hợp... Hơn nữa, mỗi lần thụ thai, xác suất sinh con trai và con gái theo quy luật tự nhiên là 50/50, nên nhiều người, sinh con trai theo theo xác suất này lại ngộ nhận là do áp dụng phương pháp hiệu nghiệm.

Một bác sĩ tâm lý làm việc tại TP HCM cho biết, chưa có thống kê nào về những người sinh “giờ vàng, ngày vàng” hay “năm vàng” thành công hơn những người còn lại. Hơn nữa chính những tập tục kiêng kỵ dân gian như thế đã góp phần làm lệch cán cân dân số vốn đang là nỗi lo của nhiều quốc gia trên thế giới.

“Sinh được một đứa con thông minh, khoẻ mạnh hay không còn do sức khỏe của thai phụ, chế độ dinh dưỡng, tập thể dục thời điểm , trong và sau thai kỳ… Xét cho cùng nếu sinh được ‘heo vàng, rồng vàng’ mà không chú ý việc giáo dục chúng thì cũng bằng không”, vị bác sĩ nhấn mạnh.

Nguồn: Vnexpress.net 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chạy đua săn quý tử năm Rồng

Các lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch - Hội Cầu Ngư ở Cửa Hội

Hội làng Khê Thượng, Hội Bạch Hạc, Hội Cảnh Dương, Hồi Cầu Ngư ở Cửa Hội được tổ chức vào ngày 3 tháng 1 âm lịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch - Hội Cầu Ngư ở Cửa Hội

Các lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch - Hội Cầu Ngư ở Cửa Hội

Lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch có diễn ra bốn lễ chính:

1.HỘI LÀNG KHÊ THƯỢNG

Thời gian: từ ngày 3 tới ngày 7 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng khê thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Tỉnh Hà Tây (cũ).

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Tản Viên Sơn Thánh (con rể Vua Hùng).

Nội dung: trong lễ hội, mở đầu là hoạt động tế lễ thánh thần, tiếp đó là tục "chém may" (Thi chém thân chuối) để cầu may, trò đấu vật.

 

2.HỘI BẠCH HẠC

Thời gian: tổ chức hàng năm và mở làm hai kì hội xuân, kì đầu từ mùng 3 đến hết mùng 5 tháng giêng, kì sau từ mồng 10 đến 13 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: làng Bạch Hạc, huyện Phong Châu (Nay thuộc phường Bạch Hạc thành phố Việt Trì), tỉnh Phú Thọ.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Thổ Lệnh Đại vương - vị thiên tướng đã xuất hiện ở đất Phong Châu vào đời nhà Đường.

Nội dung diễn ra: sáng ngày hội, dân làng tới nhà vị hương chức để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng. chín mẹ con quả cầu bay trên Long đình do bốn thanh niên khiêng. Rước tới đình, người ta đặt bộ cầu lên bàn thờ thay cho bộ cầu năm trước lễ tế cầu. Tế cầu xong thì diễn ra cuộc tung cầu để tất cả nhưng người đi trẩy hội cùng chen nhau cướp. Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục diễn ra theo nghi thức cổ truyền, nhưng đây chính là một hoạt động văn hóa đề cao tinh thần thượng võ của dân tộc việt.

Vào ngày rã đán còn diễn ra cuộc thi thuyền. Địa điểm tổ chức cuộc thi là trên dòng sông lô. Những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng bội thu, nhân dịp hội tháng 3, ngoài bơi trải dân Bạch Hạc còn tổ chức đấu cờ người thay cho cờ tướng. Cờ người cũng chơi như cờ tướng chỉ khác quân cờ thay vì những biển cờ có khắc chữ là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang tên những quân cờ ở trước ngực và sau lưng.

 

3.HỘI CẢNH DƯƠNG

Thời gian: Tổ chứ từ 3 tới ngày 7 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: xa Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Nội dung: Trong hội phần lễ, có lễ cầu ngư và lễ kì yên. Phần hội, tổ chức cuộc thi nấu cơm theo nhóm (Người tham dự thi nấu cơm thì sẽ phải vừa nấu vừa trông cóc).

 

4.HỘI CẦU NGƯ Ở CỬA HỘI

Thời gian: Được tổ chức vào ngày  mồng 3 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Vùng biển ở cửa hội, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Đối tượng suy tôn: Nhằm bày tỏ lòng thành kính đối với Cá Ngài được coi là vật tổ của ngư dân vùng biển.

Nội dung diễn ra: Lễ hội Cầu Ngư là một lễ hội hoành tráng, diễn ra trong một không khí trang trọng, thiêng liêng, thể hiện vẻ đẹp truyền thông của người dân sứ huế.

Mở đầu lễ hội sẽ là một hồi trống vang lên, chiếc thuyền lớn từ bờ bắc xếp theo hình mũi tên, một chiếc hơi nhô về phía trước, hai chiếc còn lại song song và áp sát theo sau và từ từ tiến ra dòng. Thuyền đi đầu tiên gồm có 9 người, trong đó có 8 tay chèo do 8 thanh niên khỏe mạnh và có kinh nghiện đi biển. Tất cả họ đều mặc quần áo nâu mành cánh buồn đều tay đưa thuyền ra giữa "Lạch" Còn người cuối cùng trên thuyền là một ngư ông cao tuổi - Đây là linh hồn của lễ hội cầu Ngư. Đây cũng là con thuyền trở Cá Ngài làm bằng nhựa mềm với chiều dài gần hết con thuyền.

Hai con thuyền còn lại ở hai phía có người. Trong mỗi thuyền có 9 người, thì trong đó 8 người chèo lái và một người còn lại làm chỉ huy thuyền trưởng của cả đội. Có một điểm khác nhau là so với con thuyền phía trước thì cả hai con thuyền này đều phải trở đầy lưới sạch, được xếp trong tư thế sắp đánh cá. Ở phần đầu giữa mũi con thuyền cũng có hương án bày bán đầy đủ hương đăng, hoa quả lễ vật.

Khi cả ba thuyền hướng về phía biển đông theo hướng chỉ tay của chủ tế. Thuyền ra giữa trung tâm "Lạch" - Đó là lúc lễ cầu Ngư cửa Hội chính thức bắt đầu. Vị chủ tế cầu nguyện mong cho một năm mưa thuận gió hòa, trời yên bể lặng, tôm cá sinh sôi, ngư dân gặp nhiều may mắn.

Kết thúc phần lễ mọi người đưa "Cá Ngài" xuống sông. Hành động này mang ý nghĩa sự trở về của giang sơn biển cả, của chúa muôn loài.

Trong lễ hội người ta còn tiến hành đánh cá. Dù mẻ cá không được nhiều, song những năm như thế họ vẫn rất hạnh phúc. Vì họ cho rằng đó là điềm báo, là dấu hiệu của một năm bội thu. Trong khi các con thuyền đang đánh cá thì mọi người vẫn thắp nhang và cầu khấn mong được may mắn và để vơi bớt nỗi oan khuất cho những người trước kia đã nằm tại nơi đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch - Hội Cầu Ngư ở Cửa Hội

Hóa giải thiên trảm sát –

Thiên Trảm Sát là: Khoảng giữa hai dãy nhà, có một con đường chính giữa chĩa thẳng vào nhà đang ở, gió thổi tới rất mạnh làm khí không thể tụ gọi là Thiên trảm sát. Sát khí này từ khoảng trống xông tới nên nó là hư sát. Cách hóa giải: - Trồng hàng câ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Trảm Sát là: Khoảng giữa hai dãy nhà, có một con đường chính giữa chĩa thẳng vào nhà đang ở, gió thổi tới rất mạnh làm khí không thể tụ gọi là Thiên trảm sát. Sát khí này từ khoảng trống xông tới nên nó là hư sát.

chỉ mục

Cách hóa giải:
– Trồng hàng cây tùng hoặc bách để ngăn chận ác khí này.
– Làm bồn phun nước nổi, hình tròn (cao 80cm, đường kính rộng 4m), có hòn non bộ (giữ sinh khí), chung quanh bên trong vòng tròn có trồng cây kiểng.
– Treo phong linh ở giữa mái nhà phía trước, khi nào nghe phát ra âm thanh liên tục, nên đóng cửa chính lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải thiên trảm sát –

Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn

Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn có bắt nguồn như sau: Dưới đời vua Chu cảnh Vương (tại vị từ năm 544 trước Công nguyên đến năm 520 trước Công nguyên),
Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Bảy trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Nương Tẩu Nạn (còn gọi là quẻ Tô Nương Chạy Nạn). Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn có bắt nguồn như sau:

Dưới đời vua Chu cảnh Vương (tại vị từ năm 544 trước Công nguyên đến năm 520 trước Công nguyên), quốc vương nước Bạch Nha ở Tây Phồn đã tiến cống ba báu vật: Chén nóng lạnh (chiếc chén đựng rượu, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát), thảm tỉnh rượu, chim biết nói. Có được ba báu vật kỳ diệu, hoàng đế hết sức vui mừng.

Một hôm, Chu cảnh Vương đến hậu cung, sai người đem ba báu vật đến, cùng chia sẻ với các phi tần. Chu cảnh Vương rất vui vẻ, sai thị tùng mang chén nóng lạnh, thảm tỉnh rượu và chim biết nói ra, lần lượt nói rõ tác dụng kỳ diệu của ba báu vật đó. Mọi người đều trầm trồ không ngớt. Lúc này, con chim biết nói thấy mọi người nói vui vẻ, cũng kêu liến thoắng như muốn tranh lời với người. Thấy cảnh đó, Chu cảnh Vương cười ha hả, hỏi mọi người rằng: “Ai có thê’ khiến con chim nói chuyện được?” Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai có thế nhận lời. Lúc ấy, vương hậu ở đông cung là Tô Anh nương nương nói rằng, mình có thể nói chuyện được với chim. Và Tô Anh nương nương bắt đầu trò chuyện với con chim, bên này một câu bên kia một câu, khiến Chu cảnh Vương khen ngợi không ngót. Lúc này vương phi Tô Anh đã có thai ba tháng, nên được lập làm chính cung, cho phép quản lý ba vật báu. Tô Anh nương nương vội vàng tạ ơn nhà vua.

Sau khi mọi người đã ra về, vương hậu ở tây cung là Mai Ngọc Xuân rất ghen tức, ôm hận trong lòng, bèn cùng với anh trai là Mai Luân ngầm bàn mưu, lập ra một kế. Một hôm, anh em họ Mai cố ý mượn cớ đến đông cung, nói chuyện vui vẻ một hồi, rồi đề nghị Tô Anh nương nương cùng uống rượu. Mai Ngọc Xuân nhân lúc cùng Tô Anh yến ấm, vờ lảo đảo tựa vào ba vật báu, dùng khuỷu tay thúc mạnh, khiến chiếc chén nóng lạnh rơi xuống vỡ vụn. Mai Ngọc Xuân giả say, đổ rượu ờ trong chén lên chiếc thảm tỉnh rượu, rồi dậm chân lên. Anh trai của Mai Ngọc Xuân cũng nhân cơ hội ngã người đè lên con chim biết nói. Khi Tô Anh nương nương vẫn chưa kịp định thần, thì hai anh em liền vu cáo cho Tô Anh thất đức, rồi trói Tô Anh lại đưa đến trước mặt Chu cảnh Vương. Chu Cảnh Vương đùng đùng nối giận, không để Tô Anh có cơ hội phân trần, định xử Tô Anh tội chết.

Đại thần Phan Cát biết được sự việc, trong lòng thông cảm, muốn tìm cách giải cứu mẹ con Tô Anh. Phan Cát suy đi nghĩ lại, cuối cùng tìm được một cách, nhưng lại phải đánh đối một cái giá quá lớn. Phan Cát suy tính đến nỗi nước mắt đầm đìa, cuối cùng ông đã hạ quyết tâm: dùng chính vợ con mình thế mạng cho Tô Anh. Phan Cát tính cách để đưa vợ mình vào trong ngục, đổi trang phục cho Tô Anh, sau đó giấu Tô Anh nương nương ở nhà mình. Đến đêm ngày thứ hai, dưới sự sắp xếp của Phan Cát, Tô Anh rời khỏi nhà họ Phan, đến nơi đứa cháu của Tô Anh là Tô Kính lánh nạn. Khi trốn đến chùa Bạch Mã, Tô Anh nương nương chuyển dạ, sinh ra một đứa con trai.

Tuy Chu Cảnh Vương đã xử tử Tô Anh nương nương, nhưng Mai Phi vẫn luôn cảm thấy bất an, bèn sai người gieo quẻ, biết là Tô Anh chưa chết, bèn sai người truy sát, nhưng không có kết quả.

Tô Anh sinh ra thái tử ở chùa Bạch Mã, để bọn người của Mai Phi không phát hiện ra thân thế của thái tử, đành phải dằn lòng đem con mình cho một nông phụ nuôi, còn đế lại tín vật đế sau này dễ bề nhận người thân, còn Tô Anh một mình trở lại nhà Tô Kính.
Mười ba năm sau, rồi thái tử cũng biết được thân thế của mình, liền mang tín vật đi tìm mẹ. Cuối cùng, hai mẹ con đã được vui mừng đoàn tụ. Tô Anh nương nương bèn bí mật gửi thư cho Phan Cát, nói rõ nơi ở của hai người.

Lúc này, Chu cảnh Vương đã về già mà không có con kế vị, cũng đã hối hận vì sự nóng vội trước kia của mình. Sau khi Phan Cát nhận được thư của Tô Anh nương, lập tức tấu lên Chu cảnh Vương. Chu Cảnh Vương lập tức sai người đi đón mẹ con Tô Anh về triều, gia phong cho vợ của Phan Cát là Lý thị. Và sau này, Chu cảnh Vương đã truyền lại ngôi vị cho con trai của Tô Anh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn

Số đào hoa của người tuổi Mùi

Người tuổi Mùi có số đào hoa ở mức độ bình thường. Nữ giới có số đào hoa phát triển hơn ở nam giới. Họ thường gặp may mắn trong tình duyên vào nửa cuối của mỗi
Số đào hoa của người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

năm. Lúc đó, người tuổi Mùi đang độc thân sẽ tìm được cơ hội để có được tình yêu đẹp và một cuộc sống hạnh phúc.

Nữ giới tuổi Mùi thường có đời sống tình cảm sâu sắc. Họ có sức lôi cuốn mạnh mẽ từ vẻ đẹp nhẹ nhàng, nhã nhặn. Họ để lại nhiều ấn tượng với những người đàn ông có tính cách phóng khoáng. Lời khuyên dành cho nữ tuổi Mùi là, nên chú ý đến những người hoạt bát, năng động để tránh bỏ lỡ cơ hội khi tình yêu đến.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Để tăng thêm sức hấp dẫn với người khác giới, nữ giới tuổi Mùi nên chọn trang phục truyền thống cùng gam màu nhẹ để tăng thêm sự dịu dàng mà quý phái.

Theo phong thủy, những vật dụng dưới đây sẽ mang lại may mắn và tình yêu cho người tuổi Mùi: hoa sen, quả khế, ngọc trai.

Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp

 


 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Số đào hoa của người tuổi Mùi

Sự tích Mẫu Thượng Ngàn giúp dân chống ngoại xâm

Thờ Mẫu là tín ngưỡng phổ biến rất sâu rộng trong đời sống tâm linh của người Việt. Mẫu Thượng Ngàn là một trong những vị nữ thần có tiếng linh thiêng bậc nhất.
Sự tích Mẫu Thượng Ngàn giúp dân chống ngoại xâm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thờ Mẫu là tín ngưỡng phổ biến rất sâu rộng trong đời sống tâm linh của người Việt. Mẫu Thượng Ngàn là một trong những vị nữ thần có tiếng linh thiêng bậc nhất.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất

Su tich Mau Thuong Ngan giup dan chong ngoai xam hinh anh
 
Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn được thờ phổ biến ở hầu khắp các điện, đình, chùa. Tục thờ Mẫu Thượng Ngàn xuất phát từ tín ngưỡng thờ “mẹ đất” của cư dân nông nghiệp và truyền thống núi rừng của người Việt. Nó lớn mạnh tới mức, khi Phật giáo du nhập vào nước ta, còn phải chấp nhận dung hợp với tín ngưỡng bản địa này để tồn tại.
 
Theo truyền thuyết, Mẫu Thượng Ngàn là công chúa La Bình, con gái của Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương. Khi còn trẻ, Mẫu Thượng Ngàn là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, thường cùng cha đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du, đồi bãi, dạy dân cấy cày, nông nghiệp. 
 
Do luôn luôn được theo cha nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay.
 
Khi Sơn Tinh và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, trông coi tất cả 81 cửa rừng: từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi của nước Nam. Bà dạy dân làm ăn, chăm sóc nương rẫy, dạy các phong tục tập quán tốt đẹp nên người đời nhớ ơn phong làm Mẫu.
 
Ngoài việc coi sóc đời sống hằng ngày của nguời dân, Mẫu Thượng Ngàn còn được xem là đã phù trợ cho các chiến công chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt trong các triều đại. Một truyền thuyết kể lại, đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, Mẫu Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy.
 
Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải chịu rút về. Nhờ thế mà sau này nghĩa quân lập được nhiều chiến công vang dội, đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.

Mẫu Thượng Ngàn là hình tượng thần linh do nhân dân hư cấu, phản ánh truyền thống coi trọng vai trò của người phụ nữ của người Việt từ ngàn đời. Ẩn sau tín ngưỡng tâm linh này là một lớp các giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần sâu sắc.

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích Mẫu Thượng Ngàn giúp dân chống ngoại xâm

Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy ngày Tết Việt Nam

Bánh chưng gợi nhớ ngày Tết hay Tết gợi hương vị bánh chưng? Không biết tự bao giờ, món bánh truyền thống ấy đã trở thành thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên, thành món ăn đặc trưng trong ngày Tết. Với nhiều gia đình, chiếc bánh chưng vuông nhỏ bé không còn đơn thuần là món ăn mà đã trở thành niềm vui, niềm hân hoan sum họp trong những ngày đầu năm mới.
Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy ngày Tết Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2017 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2017 mới nhất nhé!

Ấm cúng gia đình bên nồi bánh trưng ngày tết
Bánh chưng gợi nhớ ngày Tết hay Tết gợi hương vị bánh chưng? Không biết tự bao giờ, món bánh truyền thống ấy đã trở thành thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên, thành món ăn đặc trưng trong ngày Tết. Với nhiều gia đình, chiếc bánh chưng vuông nhỏ bé không còn đơn thuần là món ăn mà đã trở thành niềm vui, niềm hân hoan sum họp trong những ngày đầu năm mới.
Ngày Tết cổ truyền, nhà nào cũng có dăm ba cặp bánh chưng để cúng gia tiên. Bánh chưng là nét văn hóa lâu đời mà có lẽ mãi mãi về sau cũng không thể biến mất trong tâm thức người Việt. Cùng với sự phát triển của xã hội, hình ảnh nồi bánh chưng sôi sùng sục suốt đêm và những ánh lửa bập bùng trong đôi mắt người trông bánh nay đã thưa dần và gần như đã không còn thấy ở thành phố nữa. Mỗi năm Tết đến, nhớ về những cái Tết thời thơ bé với nồi bánh chưng ấm cúng mà đến khi trưởng thành người ta mới nhận ra nó ấm áp nghĩa tình biết bao.

Bánh chưng trong ký ức tuổi thơ và niềm vui sum họp

Cảm giác háo hức của một đứa trẻ lon ton chạy theo mỗi bước chân của bố mẹ đang hối hả cho các công việc ngày Tết. Có biết bao nhiêu thứ phải chuẩn bị: nào thịt, nào giò chả, dưa hành…, nào là đi chợ sắm Tết… Nhưng có lẽ cầu kì nhất là chuẩn bị những chiếc bánh chưng.

Để có được những chiếc bánh chưng vuông vắn, ngon lành thường phải mất từ 1 – 2 ngày với rất nhiều công đoạn. Từ những ngày 27, 28 Tết, các gia đình đã bắt đầu gói bánh chưng. Trước đó, các bà, các mẹ ai nấy đều tấp nập đi chợ mua gạo nếp thơm, đỗ xanh, thịt lợn, lá dong và một số vật dụng khác.

Cả nhà quây quần xung quanh để gói bánh chưng. Người lớn thì đôi tay thoăn thoắt, nhanh nhẹn mà khéo lắm nên gói bánh rất nhanh mà lại đẹp. Bánh chưa luộc mà nhìn đã ngon lắm rồi. Trẻ con thì chỉ ngồi… nghịch, ngồi xem là chính. Mà đứa nào cũng được bố mẹ, ông bà gói riêng cho một cái bánh nhỏ nhỏ xinh xinh. Trẻ con ở đâu cũng được “ưu tiên” như vậy và đứa nào cũng thích thú lắm.

Đám trẻ con chúng tôi cứ hay lanh chanh. Ngồi xem người lớn gói bánh mà nghe tiếng bạn í ới ngoài cửa là chạy ra ngay. Mấy đứa gặp nhau là tíu tít: “Nhà cậu gói bánh xong chưa? Đêm có trông luộc bánh không? Tối ra chơi nhé…”. Xong là lại lanh chanh chạy vào hết nhà này đến nhà nọ xem mọi người gói bánh. Có những nhà còn ngồi ra tận ngoài hành lang gói bánh nữa. Ai cũng khẩn trương, nhanh tay cho kịp luộc bánh buối tối. Ấy thế mà chẳng ai gợn lên chút gì mệt mỏi, ưu phiền. Những câu chuyện phiếm vui vẻ và những tiếng cười cứ không ngớt có lẽ vì vậy mà càng thấy ấm cúng hơn.

Chập tối, nhà nào nhà nấy đã gói xong những chồng bánh vuông vắn đều đặn. Bánh chưng được xếp trong một chiếc thùng phuy lớn, dưới đã chất sẵn củi. Tối đến, tụi trẻ con chúng tôi hẹn nhau ăn cơm thật nhanh rồi chạy ra ngồi bên nồi bánh. Trẻ con mà! Chỉ thích ngồi nhìn bếp lửa, ngồi nghịch lửa thôi. Rồi có khi bác hàng xóm mang ra cho bọn trẻ mấy củ khoai lang vùi vào bếp lửa là thích lắm. Người lớn thì vừa trông bánh, lại vừa có dịp ngồi bên nhau chuyện phiếm. Tiếng cười nói râm ran suốt cả buổi tối.

Vậy đấy! Chỉ có một buổi tối bên nồi bánh chưng mà biết bao ý nghĩa, ấm áp, chan hòa tình hàng xóm. Ngày nay, đời sống đã khác xưa, đã đầy đủ hơn nhiều lắm rồi. Người Hà Nội vẫn ăn bánh chưng ngày Tết như phong tục ngàn đời nay. Song, hình ảnh nồi bánh chưng đỏ lửa trong đêm quây quần thì gần như không còn nữa, để cho người ta bất chợt nhớ đến mà khát khao, mà nhớ thương

Truyền thuyết về nguồn gốc của bánh chưng

Có nhiều truyền thuyết dân gian cũng như có nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa giải thích khác nhau về nguồn gốc của bánh chưng.

Truyền thuyết kể rằng: Ngay sau khi phá xong giặc Ân, vua Hùng muốn truyền ngôi cho con. Vào dịp đầu xuân, vua cho mở hội và bảo các con rằng: Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ và có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho. Các Lang (các người con của vua Hùng) đã đua nhau làm ra những món lạ từ những nguyên liệu là sơn hào hải vị quý hiếm khắp nơi. Riêng người con trai thứ 18 của vua Hùng là Lang Liêu tính tình thuần hậu, chí hiếu, đã làm ra bánh chưng, bánh giầy.

Bánh giầy tượng trưng cho Trời, hình tròn, nhỏ, nằm gọn trong lòng bàn tay. Màu trắng nõn. Có hai miếng lá xanh cắt tròn đậy trên dưói. Mặt trên hình vòng cung giống như bầu trời. Trong xã hội Việt Nam thời xưa, bánh giầy dùng làm lễ vật tinh khiết để tế Trời và tế Thần. Chấp nhận Trời là đấng khai sáng vũ trụ, chủ tể trời đất. Thần là chủ trị địa phương.

Bánh giầy

Bánh giầy còn là lễ vật khao vọng cho những người được thăng quan tiến chức, hay học hành đỗ đạt. Biếu cặp bánh giầy là có ý nói lên lòng mơ ước tân chức biết sống có đức – độ, lấy quyền hành mà làm ích quốc lợi dân, thảo hoạch chương trình hành động theo ý trời hợp với lòng dân. Một thứ nhắc khéo là đừng vinh thân phì gia, đừng hãm hiếp dân lành, đừng vơ vét tham nhũng của dân.

Còn bánh chưng thì hình vuông, tượng trưng cho đất, theo quan niệm bình dân: Trời tròn đất vuông. Bánh dầy tượng trưng cho Trời, cho cha, cho rồng, cho sức mạnh… thì bánh chưng tượng trưng cho đất, cho mẹ, cho Âu Cơ, cho vẻ đẹp mỹ miều của Tiên. Việc gói bánh chưng phiền phức hơn làm bánh giầy, cũng nói lên tính cách phiền toái, đa dạng của lối sống trên mặt đất. Bánh chưng gói ghém hoa màu đồng nội, biến những thực phẩm thông thường hàng ngày của người nội trợ như thịt, mõ, đậu, hành, tiêu muối… thành một hương vị đặc biệt của ngày Tết.

Bánh chưng

Bánh chưng được gói năm ba lốp lá như lòng người mẹ bao bọc lấy người con. Con từ khi trong lòng mẹ, đến khi con chào đời, mẹ lo lắng cho từng cái khăn tã, cái miếng cơm ăn, miếng nước uống. Lòng mẹ bao la không hề quản khó nhọc nuôi con, dạy dỗ cho con thành người. Ngày Tết, ngày sum họp gia đình, ăn một miếng bánh chưng là cảm nghĩ về mẹ, sống với mẹ. Anh chị em đùm bọc lấy nhau, vì cùng một mẹ sinh ra như trăm con nở ra từ một bọc trứng. Ngày Tết là ngày vui nhất của đại gia đình về sum họp.

Cái giỏi và cái tâm của Lang Liêu là biết sử dụng những nguyên liệu thông thường có sẵn như: lá, gạo nếp, đậu xanh, thịt heo… để làm thành món ăn, mà trong đó đã gói ghém cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, mang ý nghĩa sâu xa để làm vật phẩm cúng tế tổ tiên, đất trời. Kết quả Lang Liêu được vua cha chọn nhường ngôi.

Từ đó, cứ đến Tết Nguyên đán, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất. Dần dần, bánh chưng đã trở thành món ăn truyền thống, độc đáo của dân tộc. Đây cũng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam với nhiều món ăn đặc sắc, hấp dẫn.

Bánh chưng – món ăn độc đáo của dân tộc

Dân tộc nào cũng có những món ăn truyền thống, song chưa thấy dân tộc nào có một món ăn vừa độc đáo, vừa ngon, vừa bổ, lại gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời và mang nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.

>>> Năm mới 2017 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2017 mới nhất>>>

Nguyên liệu để gói bánh chưng

Lá dong: rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi, gói lá dong được người gói bánh dùng dao bài mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên dùng để gọt) cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng, để ráo nước. Một số vùng vẫn hay dùng lá chuối, trước khi gói nhúng nước sôi để dẻo. Lau thật khô trên lá, cắt cạnh nhỏ vừa gói bánh.

Gạo nếp: nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.

Đỗ xanh: Giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ. Cũng có một số nơi nhét sẵn thịt lợn vào giữa nắm đỗ.

Thịt heo: Thịt heo đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt khoảng hai giờ cho thịt ngấm.

Nguyên liệu để gói bánh chưng

Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng.

Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…  Thịt lợn mềm thơm được ướp gia vị đậm đà, nhân đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất dinh dưỡng, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.  Độc đáo hơn nữa, khi nấu bánh chưng, người Việt dành trọn một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa sôi âm ỉ, như thế bánh mới rền, mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá,  bánh cũng không ngon. 

Tuy gọi là luộc song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!  Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta. 

Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng, nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường.

Nét khác biệt của bánh chưng các miền

Từ Nam ra Bắc, từ xưa đến nay, bánh chưng đã có không ít thay đổi. Xưa kia, mỗi khi Tết đến, các gia đình thường cùng nhau gói bánh chưng rồi quây quần, háo hức cạnh nồi bánh, chờ luộc bánh chín. Nhưng ngày nay, do cuộc sống bộn bề, con người bận rộn, bánh chưng thường được mua sẵn tại các cửa hàng bày bán khắp nơi vào dịp Tết. Chủng loại bánh chưng cũng đa dạng hơn, nào là bánh chưng xanh truyền thống, bánh chưng gấc đỏ, bánh chưng cốm hay bánh chưng chay… đều có thể mua được. Ở miền Bắc, món bánh chưng ngày nay là món hàng quà bán hàng ngày, tuy nhiên bánh chưng vẫn là món ăn nghi lễ trong các ngày Lễ hội, Giỗ, Tết.

Những chiếc bánh chưng được gói vuông vắn trong những chiếc lá dong là hình ảnh quen thuộc thường thấy tại miền Bắc.

Người miền Nam lại có loại "bánh chưng" của riêng mình gọi là bánh tét. Nguyên liệu vẫn vậy nhưng bánh được gói thành hình trụ dài. Bánh tét thường được gói với ít đỗ và rất ít hoặc không có thịt, để có thể ăn được đến cả những ngày sau Tết. Bánh tét có thể dùng lá chuối thay cho lá dong. Với 2 đến 4 chiếc lá xếp theo chiều dọc, rải gạo, đỗ theo chiều của lá và quấn bằng lạt giang để bó chặt chiếc bánh. Ở miền Nam, bánh tét có rất nhiều loại như: bánh tét chay không nhân, bánh tét mặn, bánh tét ngọt và bánh tét nhân thập cẩm...

Người miền Nam thường gói bánh chưng thành hình trụ dài và gọi là bánh tét.

Từ năm 1802, sau khi đất nước được thống nhất dưới thời Gia Long, bắt đầu có sự kết hợp văn hóa cổ truyền của đất Bắc và văn hóa mới phong phú của vùng đất mới phương Nam. Do đó, ngày Tết ở miền Trung họ gói cả bánh chưng và bánh tét. Bánh chưng ở miền Trung thì thường được gói bé hơn chiếc bánh chưng ngoài Bắc và đặc biệt ít nhân hơn. Bánh tét thì giống như trong miền Nam, tuy nhiên, món bánh này lại không được dùng làm quà biếu trong những ngày đầu năm như ở miền Nam, bởi tên gọi “đòn bánh tét” nghe như đòn roi (Trẻ con miền Trung ngày xưa, mỗi khi lỡ ham chơi lêu lổng, bị cha mẹ la rầy kêu về, nghe câu dọa: “Đi mau về nhà được ăn bánh tét” thì hồn vía lên mây).

Ngày Tết ở miền Trung, người ta gói cả bánh chưng và bánh tét.

Ngoài ra, ở một số vùng miền núi của nước ta cũng có loại bánh chưng mang nét đặc biệt của riêng mình. Ví dụ như ở Sapa, họ gói bánh chưng thành từng chiếc nhỏ, không vuông như bánh Bắc, cũng chẳng dài như bánh Nam, có hai loại là bánh chưng trắng và bánh chưng đen. Còn về phần nhân thì cũng giống bánh chưng dưới xuôi gồm: vỏ gạo nếp (có thể là gạo nếp thường hoặc gạo nếp cẩm), nhân đậu, thịt mỡ. Món bánh này có vị mềm dẻo, dễ ăn nên rất được người Sapa và du khách ưa chuộng.

Bánh chưng đen Sapa – loại bánh đặc biệt gồm: vỏ gạo nếp, nhân đậu nhưng với hình dáng thuôn dài và đặc biệt là “lớp áo” đen là lạ.

Bánh chưng cẩm Lạng Sơn

Đây là món bánh chưng truyền thống của người Tày ở huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn). Hình dáng chiếc bánh này rất giống bánh tét ở miền Nam được theo hình trụ. Điểm độc đáo của món bánh này chính là màu đen của bánh. Đó là một màu đen tím như hạt nếp cẩm nhưng lại rất mềm và dẻo, vị thanh mát. Vào tháng 10 âm lịch, khi gặt vụ mùa xong, người Tày tỉ mẩn chọn từng cọng rơm nếp to, mọng,vàng đem về rửa sạch bằng dòng nước suối tinh khiết chảy từ trong khe núi.

Sau đó, phơi khô và đem đốt thành tro, vò mịn, dùng miếng vải xô rây lấy phần mịn nhất của tro. Gạo nếp sau khi được vo sạch sẽ được trộn cùng với tro mịn từ gốc rơm, rạ sao cho những hạt nếp tròn mây mẩy được bao bọc bởi màu đen của tro. Nhân của món bánh này cũng thật khác lạ, người Tày trộn thêm cả hành vào nhân thịt mỡ cùng với hạt tiêu vỡ bọc ngoài là đậu xanh. Lá để gói bánh chưng cẩm là những chiếc lá dong rừng bánh tẻ khổ nhỏ có màu xanh đậm.

Ngày nay, do cuộc sống bận rộn, nhiều gia đình đã không còn giữ thói quen gói bánh chưng ngày Tết. Thế nhưng, đâu đó vẫn còn hình ảnh các mẹ tất bật rửa lá dong, ngâm gạo, đãi đỗ, trẻ con háo hức xem bố mẹ gói bánh, rồi cả gia đình quây quần quanh nồi bánh chưng qua đêm… Một hình ảnh đẹp và thật ấm áp làm sao!

>>Đã có VẬN HẠN 2017 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy ngày Tết Việt Nam

Tiền thân của Lịch vạn niên –

Tiền thân của Lịch vạn niên bắt nguồn từ Trung Quốc: Lịch pháp định do vua ban đã có từ thời xa xưa khoảng 3000 năm trước công nguyên (không có thời điểm xác định vì không còn cứ liệu lịch sử). Chúng ta chỉ biết cuốn Hoàng lịch xa xưa nhất đã được ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền thân của Lịch vạn niên bắt nguồn từ Trung Quốc: Lịch pháp định do vua ban đã có từ thời xa xưa khoảng 3000 năm trước công nguyên (không có thời điểm xác định vì không còn cứ liệu lịch sử). Chúng ta chỉ biết cuốn Hoàng lịch xa xưa nhất đã được phát hiện là cuốn Hoàng lịch năm Bính Tuất, năm thứ tư triều Đồng – Quang nhà Hậu Đường (926). Trong lịch thư đó đã có ghi đầy đủ các mục theo lịch pháp định thông thường, ngoài ra còn ghi ngày nào thuộc trực gì và các việc nên làm, nên tránh từng ngày (theo Lưu Đạo Siêu). 

514-1024x649

 

Từ thời nhà Hán đến nhà Thanh, trên thị trường nảy nở đến hàng trăm thuật thuyết. Quay vòng 60 năm Hoa giáp và 24 phương vị đã có la liệt hàng vạn tên hung tinh, cát tinh. Vua Khang Hy nhà Thanh (1662 – 1722) xét thấy tình trạng chọn ngày tốt xấu quá ư hỗn loạn, bèn triệu tập các học sĩ có tiếng trong nước thời đó, thống nhất biện luận về các loại Thần sát (hung tinh cát tinh) soạn thành lịch thư. Từ đó giao cho một số học giả dùng làm cứ liệu soạn lịch hàng năm, còn các loại tạp thuật nhảm nhí bị bãi bỏ. Vua Khang Hy lệnh cho nhóm học sĩ Lý  Quang – Địa biên soạn cuốn Tính lịch khảo nguyên. Tiếp đến vua Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) lệnh cho nhóm học sĩ Doãn I Lộc, Mai – Cốc – Thành, Hà – Quốc I Tông… biên soạn cuốn Hiệp kỷ biện phương  thư, nhằm bổ sung cho Tinh lịch khảo nguyên được hoàn hảo hơn. Hiệp kỷ biện phương thư phê phán những tà thuyết lưu truyền trong xã hội đương thời, đồng thời đính chính lại những sai sót trong Lịch thư của Tòa Khâm Thiên giám.

Đến triều Đạo Quang nhà Thanh (1821 – 1849) ngang với triều Minh Mạng, Thiệu Trị nhà Nguyễn nước ta) có cuốn Trạch cát hội yếu do Diêu – Thừa – Dư soạn, toàn thư gồm 4 quyển, nội dung súc tích đầy đủ, bao hàm được những phần cơ bản của Hiệp kỷ biện phương thư. Có thể nói 3 quyển Tinh lịch khảo nguyên, Hiệp kỷ biện phương thư và Trạch cát hội yếu nói trên là tiền thân của Lịch vạn niên Trung Quốc.

Lịch vạn niên hình thành: Hiệp kỷ biện phương thư là cuốn Hoàng lịch thông thư hoàn hảo nhất, nhưng là một công trình quá đồ sộ, toàn thư gồm 36 tập, chỉ có thể dùng làm cơ sở để tòa Khâm Thiên giám biên soạn lịch hàng năm. Thời xưa, phương tiện thông tin đại chúng còn quá thô sơ, điều kiện ấn loát có nhiều khó khăn, Hoàng lịch ban hành với số lượng rất hạn chế, đến tay quần chúng nhân dân rất chậm, nhiều địa phương còn phải khắc in lại, nên lịch hàng năm dễ bị lỗi thời, chỉ dùng được một thời gian ngắn hoặc quá hạn phải bỏ đi. Đó là những nguyên cớ hình thành Lịch vạn niên (lịch dùng cho nhiều năm).

Lịch vạn niên phải rất súc tích, cô đọng và thông dụng, ở Trung Quốc Lịch vạn niên chỉ mới ra đời khoảng triều Đạo – Quang, Quang – Tự nhà Thanh (thế kỷ thứ XIX). Giới thiệu Hiệp kỷ biện phương thư Hoàng lịch triều Càn Long nhà Thanh (1736-1795) Tác giả: Doãn Lộc, Mai Cốc – Thành, Hà Quốc Tông, biên soạn theo lệnh chỉ của vua Càn 1 Long. Toàn thư có 36 quyển:

-Quyển 1 và 2 gọi là Bản nguyên; Nêu những kiến thức cơ bản về cách làm lịch gồm Hà đổ, Lạc thư, Tiên thiên bát quái của Phục Hy, hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương, học thuyết âm dương ngũ hành, can chi, thập nhị trực, 28 sao, 24 phương vị, 24 tiết khí và căn cứ lý luận của thuật chọn ngày giờ.

-Quyển 3 đến 8 gọi là Nghĩa lệ; Giới thiệu tên các sao, tính chất nguồn gốc, cương vị và quy luật vận hành của các sao gộp thành 4 loại Thần sát: Sao vận hành theo năm, tháng, ngày, giờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiền thân của Lịch vạn niên –

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh được dùng vào Tiết Trung Nguyên. Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.

Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.

Sắm lễ cúng tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh

Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng:

– Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…

– Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…

Văn khấn tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh

Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!

Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần
Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.

Tiết tháng 7 sắp thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ
Đại Thánh Khảo giáo
A nan Đà Tôn giả
Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu đường
Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói rét cơ hàn
Không manh áo mỏng, che làm heo may
Cô hồn nam bắc đông tây
Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn
Dù rằng : Chết uổng ,chết oan
Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu
Chết tai nạn – chết ốm đau
Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn, chết đao binh
Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi
Chết vì sét đánh giữa trời
Nay nghe tín chủ thỉnh mời
Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau
Cơm canh cháo nẻ trầu cau
Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực hoa đăng
Mang theo một chút để giành ngày mai
Phù hộ tín chủ lộc tài
An khang thịnh vượng hài hòa gia trung
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời
Bây giờ nhận hưởng xong rồi
Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần
Tín chủ thiêu hóa kim ngân
Cùng với áo quần đã được phân chia
Kính cáo tôn thần
Chứng minh công đức
Cho tín chủ con tên là……………
Vợ/Chồng: ………………………..
Con trai: …………………………..
Con gái: ……………………


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

Thái Tuế Nhập Quái

Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:
Thái Tuế Nhập Quái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng

Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.

Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.

VDTT phỏng dịch và chú thích

Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.

Giải thích các đại vận

Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

 

Định nghĩa vài thuật ngữ:

Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.

Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.

Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)

Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?

Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

Các hạn về sau:

Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

Lời kết:

Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thái Tuế Nhập Quái

Nhà phạm thế "hổ rình mồi" khi thang máy "chầu" trước cửa

Cửa thang máy được ví như một chiếc miệng hổ. Khi cửa nhà đối diện cửa thang máy, cả gia đình sẽ phạm phải sát khí phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay, lựa chọn một căn hộ chung cư đang là nhu cầu tất yếu của phần đông các gia đình trẻ. Nhưng vấn đề thiết kế căn hộ chung cư phạm rất nhiều kiêng kỵ theo thuật phong thủy, cũng như môi trường sống, ví dụ như cửa nhà xung với cửa thang máy.

 nha pham the

Từ góc nhìn của Phong Thủy, cửa thang máy đóng - mở giống như miệng hổ đang chờ mồi. Sát khí của "miệng hổ" tạo ra sẽ khiến mọi người dễ xảy ra bất hòa do các luồng không khí bị xao động, nuốt hết vận may, thậm chí gây ra tai nạn. Bên cạnh đó, năng lượng cũng bị phân tán và không thể tụ lại, điều này sẽ gây khó khăn trong việc tích lũy của cải.

 nha pham the

Từ quan điểm khoa học, nó cũng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe cho các thành viên gia đình vì số lượng lớn người hoặc vật nuôi sử dụng các thang máy mang theo vi khuẩn, vi trùng gây bệnh. Mỗi lần cửa thang máy mở ra, đóng vào - các luồng gió sẽ đẩy vi khuẩn ập vào ngôi nhà của bạn.

Làm thế nào để khắc phục tình trạng này?

- Đặt một bức tượng Quan Công bên trong ngôi nhà đối diện với cửa ra vào.

- Đặt một cặp chó đá để trung hòa sát khí. (Nếu bạn có khoảng trống lớn trước cửa).

- Bạn cũng có thể áp dụng phương pháp giản tiện hơn bằng cách đặt 5 đồng xu ngũ đế trên bậu cửa ra vào.

- Để hạn chế bớt các luồng khí ập vào nhà, đóng kín cửa ra vào khi không cần thiết; đồng thời sử dụng rèm treo, bình phong để che chắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà phạm thế "hổ rình mồi" khi thang máy "chầu" trước cửa

Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người tuổi Tân Hợi ngũ hành Kim, nạp âm Thoa xuyến Kim, nam tính mạnh, đường nhân duyên tốt đẹp.
Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người tuổi Tân Hợi ngũ hành Kim, nạp âm Thoa xuyến Kim, nam tính mạnh, đường nhân duyên tốt đẹp.


 

Giai ma van menh nguoi tuoi Tan Hoi theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Người sinh năm Tân Hợi là nam mệnh thì tốt hơn một chút so với nữ mệnh. Trời sinh thông minh, nữ nhân thì mạnh mẽ, nam nhân thì chí khí, bề ngoài phù hoa nhưng tâm kiên định, có lý trí.   Tử vi của người năm Tân Hợi tuy cả đời lao lực, nhưng có phúc lộc, được sự trợ giúp của người khác phái. Duyên phận với gia đình không sâu, chủ yếu là tự thân lập thân, độc lập, thái độ làm người cố chấp, làm việc sợ nhất là không tới nơi tới chốn.   Xem tử vi người sinh năm Tân Hợi trưởng thành sớm, đa tình mà phong lưu nên có thể vướng phải thị phi, hôn nhân không như ý. Người này ham hư vinh, để ý tiểu tiết bề ngoài. Lúc nhỏ chịu nhiều khổ sở, càng trưởng thành càng an khang.
Mơ thấy kim là chìm trong biển khổ
Kim và đinh đều là những vật sắc nhọn, có hình dáng tương đồng với nhau, thế nhưng mơ thấy kim sẽ “nguy hiểm” hơn mơ thấy đinh rất nhiều.

Nam mệnh tuổi Tân Hợi
tính tình quái gở, được vợ trợ giúp. Nữ mệnh năng lực hơn người, cá tính mạnh, quyết đoán độc lập, tự chủ cao, nổi loạn, có tham vọng. Tuổi trẻ là thời điểm duyên phận nhiều trắc trở, kết hôn muộn thì tốt hơn. 
  Khuyết điểm của người tuổi Tân Hợi là nhiều lời, vợ hay mắng chồng, cẩn thận tuổi 40 gặp trường hợp ly dị, cô quả. Trụ gặp quan tinh, tuy tự tin nhưng vấp phải thất bại.   Người nạp âm Thoa xuyến Kim trong sự nghiệp khó có sự tiến bộ vượt bậc, gặp tiểu nhân trở ngại, ở thời điểm quyết định nam nên mang theo trang sức làm bằng đá màu cam, nữ nên mang trang sức mã não. 
 
Giai ma van menh nguoi tuoi Tan Hoi theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh 2
 
Để trợ giúp nhân duyên thì tuổi Tân Hợi nên mang bên người bùa hộ mệnh làm bằng đá thạch anh.  
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất

Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi quan mệnh kinh nghiệm đàm

Một bài viết chia sẻ kinh nghiệm giải đoán là số tử vi. Mời bạn đọc tham khảo.
Tử vi quan mệnh kinh nghiệm đàm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

An xong Mệnh bàn, chỉ thấy hơn mười tinh diệu bày đầy bàn, có khi thiện ác lẫn lộn. Xem Mệnh cung đóng ở đất nào, cũng tức là sao nào đồng cung là chủ yếu. Thứ nữa là xem cung Thân cùng với sao nào đồng cung. Thứ ba thì xem xét tam phương tứ chính của Mệnh cung và Thân cung xem có cát diệu nào củng chiếu hoặc không bị Dương Đà Hỏa Linh tứ sát trùng phá, sau đó lại xem Giáp-Củng (củng: chiếu về, Giáp: kẹp bên cạnh - ND) như thế nào? Cùng với Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên di và Phúc Đức như thế nào.

Mệnh Thân hai cung là quan trọng nhất, nếu được Nam Bắc hai hệ sao miếu vượng thủ trị mà Tam phương lại được các cát diệu củng chiếu mà không bị Tứ Sát, Không Kiếp, Hao Kỵ hội nhau trùng hợp hay giáp thì không cần biết Mệnh Thân đóng cung nào đều kết luận là đẹp.

Nếu lại được hợp Cục, nhập Cách, thêm cát tinh củng chiếu, giáp biên thì là đẹp lại càng thêm đẹp, thật là tối mỹ vậy.

Nếu thấy Mệnh cung, Thân cung đều mạnh, mà ba cung Tài-Di-Quan cũng đều có cát tinh đầy đủ hội hợp thì Mệnh này tất thuộc loại phi phàm. Là người trưởng thành thì có cả phú lẫn quý (Chú ý: Quan lộc cung tốt thì đoán là Quý, nếu Tài bạch cung mà thắng Quan lộc cung thì đoán là Phú, còn nếu thấy Tài Quan đều đẹp thì đoán là phú quý song toàn. Riêng Mệnh mà đạt Phú Quý song toàn thì nhất định phải nhập các cách tốt như “tam kỳ gia hội”, “tướng tinh đắc địa”, “minh châu xuất hải”, “Nhật chiếu lôi môn”, “Hùng tinh triều viên”, nếu không thế thì nên cẩn thận, không thể đoán bừa). Nếu là người thiếu niên thì cũng có thể đoán ngày sau ắt sẽ phát đạt.

Tuy nhiên, cũng có những trường hợp 6 cung Mệnh Thân cung Tài Di Quan Phúc đều mạnh, nhưng đại hạn thì lại bị Hình Tù Hao Kiếp nhàn hãm, hoặc ngộ Tứ sát, thì tức là loại “mỹ ngọc hà điểm” (ngọc đẹp có vết), tuy đẹp mà không toàn diện, độ số giảm mạnh, thì chỉ đoán là Trung cách bình thường.

Nếu Mệnh Thân cùng Tài Quan Di Phúc đều tốt, mà tam phương tứ chính lại có một hoặc hai trong nhóm Dương Đà Hỏa Linh thì dù rằng Mệnh có nhập cách đi nữa, cùng không thể luận là đẹp.

Còn nếu như không nhập cách, thì đoán là một đời sầu não. Nếu như Đại hạn mà đến đất nhiều Hung ít Cát thì khó tránh được tại nạn, lo sầu phát sinh.

Mệnh cung mà có Cát tinh và Hung tinh cùng đóng, mà Tam phương được cát tinh chiếu về, là chủ về một đời trục trặc không thông suốt, gặp được đại hạn tốt thì cũng thành công không nhỏ. (chú ý: Hung tinh mà bình hãm thì yếu, kể như không. Cát tinh mà bình hãm thì lại chỉ luận là khiếm cát – tốt ít mà thôi. Tuy đại hạn cực tốt, thì cũng khó thông đạt, ngoài ra lại chủ về người tính tình bất ổn, yêu ghét khó định).

Nếu như thấy Mệnh cung có Cát tinh thủ đóng, nhưng Tam phương lại có cả Hung tinh, Cát tinh chiếu về thì tức là “tú nhi bất thực” – Cây mọc mà không ra quả (Chú ý: chỉ cần thấy 1 sát tinh trong Tứ sát, hoặc Không Kiếp cũng kết luận là thế). So với người mà có Mệnh cung cùng có sát tinh bình-nhàn tọa thủ, cũng không khác là mấy (xem đoạn trên).

Đại khái, Tam phương chỉ là ba cung Tài – Quan – Di mà thôi, đều không nên có sát tinh đóng ở đó, nhập Tài thì tổn tài, nhập quan thì công danh lận đận, nhập Thiên di thì chủ về ra khỏi nhà nhiều nạn, cũng trực tiếp ảnh hưởng đến Tài-Quan vậy. (Chú ý: Nếu như tam phương thấy tứ hung Sát Phá Liêm Tham, người thường ngoài việc không ngại tai họa của Tứ sát, còn chủ về cá tính cứng rắn, ý chí kiên định, riêng những người binh nghiệp thì ngược lại rất tốt. Tuy nhiên, nếu Mệnh có Thất sát bình – nhàn tọa thủ, hoặc chiếu về thì chung quy vẫn là bất lợi).

Thường là Mệnh mà có Trường Sinh, Đế vượng, hay Lâm Quan lại được cát tinh thủ chiếu thì cuối cùng cũng phát đạt.

Người theo binh nghiệp thì sẽ tốt nếu được Bác sĩ, Thanh long, Tướng quân cùng thủ Mệnh Thân, lại không gặp Sát tinh Củng – Giáp, nhất định không thể không tốt. Nếu chỉ riêng Mệnh Thân đều đẹp, lại không có Tứ sát, ác tinh hội hợp thì vẫn còn chưa đủ. Cần phải Tài-Quan-Di tam phương đều có cát tinh hội hợp thì mới luận là đẹp (Chú ý: Mệnh của Ngô Bội Phu tướng quân là như thế). Nếu không phải thế thì giảm nhiều tốt đẹp, hoặc giầu có mà không quý hiển, hoặc quý mà không phú, hoặc phú quý có lấy được cũng chẳng hề dễ dàng. Chỉ là đi ra ngoài thì được đôi chút thuận lợi mà thôi.

Đại để, Mệnh Thân đều tốt, mà cung Quan lộc cũng tốt thì tuy cung Tài có chút khiếm khuyết cũng vẫn chủ về được bổng lộc, không đến nỗi phải lo về cơm áo. Nếu mà Tài Quan hai cung đều tốt, nhưng cung Quan có đôi chút khiếm khuyết thì phần nhiều là người thường, người buôn bán hay làm kỹ nghệ, cũng đều không phải lo lắng đến cơm áo y thực. Cả hai trường hợp trên nếu mà lại có Thiên di khiếm khuyết, chủ về một đời vất vả, khó khăn với người khác, người thường khó mà thành thịnh vượng được, quan lại thì khó lòng thăng tiến.

Riêng Tài-Quan mà đã khiếm khuyết, nếu như Thiên Di lại cũng khiếm khuyết, thì kể cả Mệnh Thân hai cung có tốt đi nữa, cũng khó lòng mà được “Bình bộ thanh vân” (nhẹ bước đường mây) toại tâm toại ý được, không những thế, lại thêm một đời phiền lo, cô đơn kém vui, thậm chí khổ não vì nghèo khó quanh năm.

Nếu như Mệnh Thân trở thành bác tạp (tốt xấu lẫn lộn) khiếm khuyết, mà ba cung Tài-Quan-Di cũng đều không tốt, nhưng lại có Phúc Đức, Nô Bộc, Phụ Mẫu tốt, thì đoán là một đời kiêu ngạo (dựa dẫm nhờ thế lực gia đình, không làm nên trò trống gì), Mệnh Thân có thêm Hình Kỵ Hao Tù Tử Tuyệt cũng với Tuần Triệt Không Kiếp hoặc Cô Thần Quả Tú hội hợp thì càng nặng nề.

Nam giới thì cung quan trọng là 9 cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc, Thê, Nô, Huynh Đệ. Riêng có 6 cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc là tối quan trọng. Nữ giới thì quan trọng là Mệnh, Thân, Phúc, Phu, Tử, Phụ Mẫu, Huynh Đệ, nhưng quan trọng nhất là 4 cung Mệnh, Thân, Phu, Phúc.

Có điều, Mệnh Thân cả nam lẫn nữ cùng với Phúc Đức, Thiên Di đều không nên có Thất sát tọa thủ. Nếu như Mệnh có Thất Sát tọa thủ, ở vào cách “Ngưỡng đẩu, Triều đẩu” mà hợp cục, nhập cách – đàn ông thì cứng rắn mà phú quý nhất thời, nhưng cuối cùng ắt sẽ không đẹp (chú ý: Như Viên Thế Khải là chính gốc cách “Thất sát triều đẩu” chết đột ngột năm 58 tuổi là một ví dụ). Nếu không nhập cách thì luận là rất không tốt, không có sát tinh hội hợp thì tính tình quái gở, bảo thủ quá mức, dễ với mình mà khó với người, cuối cùng rồi thì sẽ gặp tai ách. Nếu có sát tinh giao hội, chủ về bần tiện cô quả, cũng chủ về gian tà bừa bãi, một đời khó có thể phát đạt. Nếu như lại có Thất sát trùng vào Mệnh thì họa không phải là nhỏ, cả đời không có ngày thành đạt. lại chủ về ra ngoài thích tranh giành, mọi việc so đo tính toán, không gặp nhân duyên, cầu mưu không thành. Nhập vào Nô bộc thì thường bị người xâm hại, chủ giao kết với bọn băng đảng, thuộc loại bất tình bất nghĩa. Đóng vào Phúc Đức thì phúc bạc, tối tăm hèn mọn, bại hoại thuần phong, cũng chủ về một đời dung tục, không có chút chí lớn nào.

Đàn bà mà nếu có Thất Sát thủ Mệnh, nếu không phải là Sinh vượng, Miếu Vượng, không bị Sát tinh hội hợp, thì chủ về cô đơn lạnh lùng, gàn bướng, tính khí làm việc như đàn ông, hình khắc nặng nề. Nhập vào cung Thân thì họa không nhỏ, chủ về một đời lao khổ, Thân thể lại dị thường, đóng vào Thiên di thì thích tranh giành, thường gây thù chuốc oán với người, này sinh oán hận. Rất không nên đóng vào Phúc đức, không chủ về kỹ nữ, tỳ thiếp thì cũng chủ về dâm tiện, hình phu khắc tử, tư thông với người khác mà lo lắng.

Đàn ông được Sát Phá Liêm Tham hội hợp, tuy không gặp sát tinh nhưng cũng chủ về thăng trầm vô độ, có sát tinh thì một đời lo lắng, tai họa liên miên khó có ngày nào yên, nếu mà lại gặp sát tinh Hao Kỵ Không Kiếp ắt là sẽ nay đây mai đó trôi dạt khắp nơi, là người tứ xứ phiêu đãng. Riêng gặp Vũ Phá Liêm Tham trùng hợp mà không gặp Thất Sát và Tứ sát giao hội, lại có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu Tử Phủ hội chiếu thì vẫn là thượng cách, ắt sẽ phú quý. Đàn bà mà gặp cách này thì là người hiền năng, kiên trinh, tài trí hơn người mà lại vượng phu ích tử.

Mệnh cung có Thất Sát Liêm Trinh hợp thủ (Liêm Sát sửu mùi), bất luận đóng ở đâu, trai gái đều bất lương. Mệnh Thân đều có Sát-Liêm chia nhau đóng cũng thế.

Mệnh cung mà có Tham Lang Liêm Trinh hợp thủ, hoặc Mệnh Thân chia nhau mỗi cung một sao, Nam nữ đều dâm tà. Phần lớn Tham Lang đóng ở Mệnh Thân cung mà hãm địa, đều là người đam mê tửu sắc, nữ nhân thì ai cũng có thể làm chồng. Nếu có một sao Liêm trinh độc thủ Mệnh Thân, nam nữ tuy không tránh được chuyện tửu sắc, nhưng so với Tham Lang thì vẫn còn là tốt.

Xem người có tài trí hay không, thì xem Mệnh Thân của người ta có Xương Khúc Khôi Việt hay không, rất tốt đẹp nếu có cả 4 sao này hội hợp. Gặp được một hai sao này cũng chủ về người thông minh tài trí. Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu Mệnh Thân, cần phải xem có sát tinh xâm phạm không, xem cả nơi chỗ đóng sinh khắc như thế nào… Đại để, nếu gặp Hình Sát hoặc đóng vào đất khắc, thì Văn tinh bị hại, phần nhiều là kẻ không có thực học, lại là kẻ xảo quyệt gian trá, thích ghen ghét, phản phúc vô thường. Thân có Văn Khúc ở Sinh Vương địa, mà Mệnh có Văn Xương thủ chiếu, nếu 3 cung Mệnh-Tài-Di lại khiếm khuyết thì ắt là người đam mê sách vở thi ca, khó lòng quý hiển, một đời làm thanh hàn bần sĩ.

Mệnh gặp Vũ Tham Hỏa Linh miếu vượng mà không có Không Kiếp Hình Tù Hao Kỵ hội hợp, đàn ông dễ thành công trong quân đội, phú quý có đủ, đàn bà thì quyền hành thay mặt chồng, cũng chủ về tài trí song mỹ, chí khí hơn cả nam nhân.

Tử vi hoặc Thiên phủ thủ Mệnh, mà Tam phương không bị sát tinh, Nam Nữ đều chủ tốt đẹp, nhất là 2 sao đồng cung, hoặc chia nhau đóng vào Mệnh Thân thì rất tốt, Tử vi trao quyền cho Thất sát, có thể chế được hung họa. Cho nên, phàm là Thất Sát đóng ở Mệnh Thân, nên gặp Tử vi thủ chiếu, nếu không thì là đại kỵ.

Cự môn là sao của thị phi, đóng ở Mệnh Thân thì cần phải miếu vượng hoặc gặp Thái Dương. Nếu đóng ở chỗ hãm thì dù cho có gặp Thái Dương vượng cũng là khiếm cát (không tốt), rất kỵ gặp Tứ sát trùng hợp, ắt chủ về đang vô sự lại sinh thị phi, một đời khó làm nên vậy.

Mệnh gặp Không Kiếp thủ chiếu, dẫu cho có nhập cách cũng phí uổng, khó có cơ hội vượng đạt. Gặp hai sao này đồng cung đóng vào Mệnh, nhất định chủ về người thay đổi điên đảo, trăm sự khó thành. Hai sao này đồng cung đóng vào Mệnh thường chủ về tai họa lớn bất ngờ, cần phải có Cát tinh giải cứu. Không Kiếp giáp Mệnh, cả đời không toại chí, thuở nhỏ thường gặp tai nạn. Hai sao Không Kiếp đóng vào cũng nào cũng bất lợi, gặp chỗ miếu vượng thì có thể giảm nhẹ được tai họa.

Cung Tật ách mà có sát tinh tọa thủ, lại hội thêm sát tinh, thường gặp phá tướng, hoặc Thân thể tàn tật, bằng không thì đến trung niên khó tránh được hung hiểm.

Cung Phụ mẫu mà có sát tinh tọa thủ, lại hội thêm sát tinh, mà Mệnh Thân không gặp Tang Điếu Hình Hổ thì chủ về song Thân không toàn.

Đây mới chỉ được phần xem Mệnh, bài viết không nhiều nên không lấy từng cung một để thuật rõ, mà chỉ cố gắng khái quát. Xin kết thúc ở đây.

(Bài viết sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi quan mệnh kinh nghiệm đàm
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd