Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bỏ Lộc dày để chuyên tâm dưỡng Khí

Luận khí sắc mhìn được người lương thiện, kẻ tiểu nhân; số trường thọ hay đoản mệnh. Vì thế, Mạnh Tử nói là cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí là thế.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chất là do khí dồi dào mà hình thành, khí lại dựa vào chất để vận hành. Nói cách khác, khí bảo vệ hình, hình lại khiến khí bình ổn, an lành. Vì thế chất lớn thì khí mở rộng, thần an thì khí tĩnh. Vinh nhục được mất không khiến người bị dao động. Buồn vui lại không thể khiến thần kinh động, như vậy mới gọi là đức. Nên Mạnh Tử nói "cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí" là như thế.

Hình thể của người như cây cối, có tùng bách, có bụi gai. Đặc điểm của cây cối không giống nhau, khí cụ khác nhau, căn cứ theo sự khác nhau của hình dáng mà chế thành dụng cụ khác nhau.

Quân tử thì lấy không chế được khí mới đạt được đạo. Vì thế, khí của người lương thiện không gấp, không bạo, không loạn không nóng, lượng khí rộng và có thể dung hòa vạn vật, tâm lớn như biển, tâm khí hòa thì mới có thể dung nạp được vạn vật khác nhau, như gió xuân thổi tới ấm áp; tuy cương mà vẫn có thể khắc chế, bất luận trong tình hình nào cũng không thể thay đổi đạo đức, sự thanh liêm cao thượng.

Khí của kẻ tiểu nhân thì ngược lại, hẹp hòi không khoan dung, nhu nhược không kiên cường, hỗn đục không thanh tú, thiên lệnh không đoan chính, vội vàng không thư thả. Do đó chỉ cần quan sát tỉ mỉ độ nông sâu của khí, độ tĩnh và khô của sắc thì không khó phân biệt tiểu nhân và quân tử.

Khí sâu mà thư thái, khoan dung không nóng vội thì có phúc thọ. Gấp gáp và không đều, vội vàng là người khổ hạnh.

Đồng thời khí còn có thể hiển hiện cát hung ở trên mặt. Khí tán như lông tóc, khí tụ như hạt thóc, nhìn hình không biết nguồn gốc nhưng khí ở trên mặt có thể dự báo họa phúc. Nếu khi thở mà âm thanh nhỏ đến bản thân cũng không thể nghe rõ, hoặc khi ngủ không phát ra tiếng thì là “quy tức” (hơi thở của rùa), là tướng trường thọ.

Nếu hơi thở mạnh là điềm báo đoản mệnh. Đây là nguyên nhân mà Mạnh Tử nói là cần bỏ lộc dày chuyên tâm dưỡng khí. Vì một chút lợi nhỏ mà phẫn nộ, nóng nảy thì không đáng để nhắc đến. Khí có thể dưỡng hình là do khí hành giữa ngũ tạng Lục phủ, có thể dựa vào sự thay đổi tính khí của một người hoặc là phát tán hoặc là thu lại.

Khí hiển lộ ở Ngũ nhạc Tứ độc có 6 loại: (1) Trong mà không đục, bình tĩnh, chỉ có thể là nguồn của núi sông, nhưng không thể dùng 6 loại khí để biểu đạt; (2) Nếu là mây tôn thêm cho ánh trăng thì là khí Thanh long; (3) Nếu ráng chiều chiếu trên mặt nước là khí Chu tước; (4) Nếu là gió đen thổi mây là khí Câu trần, nếu là cây cối thành tro bụi là khí Đằng xà; (5) Nếu ngưng đọng như bôi mỡ dầu là khí Bạch hổ; (6) Nếu hỗn tạp như sương khói là khí Huyền vũ.

6 loại khí trên chỉ có khí Thanh long là cát lợi, các khí khác hoặc là phá tài, kinh sợ, than khóc, bị trộm hoặc hình cốt không tốt, cuối đời vẫn còn phải lo lắng bất an. Nếu hình xương thẳng cũng cần kiên nhẫn chờ đợi khí không may mắn biến mất, vận tốt phía sau mới đến, ngoài ra còn cần dựa vào thiên phú của con người để phán đoán.

Một người có tướng mạo kỳ dị nhưng không thể phú quý là do có tạp khí bao quanh, đây giống như đỉnh núi ở xa bị mây che lấp, không dễ để nhìn rõ. Khi gặp được gió trong thổi đến, xua tan mây thì đỉnh núi kỳ vĩ sẽ hiện ra trước mắt, khiến người khác phải lưu luyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bỏ Lộc dày để chuyên tâm dưỡng Khí

Mẫu hình xăm số má đẳng cấp của giới giang hồ Việt Nam –

Không phải đã là "dân giang hồ" thì muốn xăm hình gì và xăm ở đâu cũng được. Vì thế rất nhiều tên "tiểu yêu" muốn chứng tỏ mình là dân anh chị nên xăm cọp, xăm beo, nhiều tên ngầu hơn xăm nguyên hình một chiếc quan tài nến nhang nghi ngút, hay có tên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải đã là “dân giang hồ” thì muốn xăm hình gì và xăm ở đâu cũng được. Vì thế rất nhiều tên “tiểu yêu” muốn chứng tỏ mình là dân anh chị nên xăm cọp, xăm beo, nhiều tên ngầu hơn xăm nguyên hình một chiếc quan tài nến nhang nghi ngút, hay có tên bê nguyên hình đầu lâu xương chéo in lên giữa ngực như muốn chứng tỏ mình là loại “nguy hiểm chết người” để kẻ nào muốn đụng đến cũng phải dè chừng…

Tuy nhiên, muốn xăm hình con đại bàng thì phải “nhìn trước, ngó sau” nếu không muốn bị luật giang hồ trừng trị. Đơn giản biểu tượng con đại bàng là sự thể hiện “địa vị” số má của người mang hình xăm đó trong giới giang hồ. Nghĩa là phải thuộc hàng “đại ca, đàn anh, đàn chị” mới được xăm hình con đại bàng.

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-2

Một tên tuổi nào đó từng được đám đàn em tôn làm đại ca thì chưa chắc đã là “đại ca” mà còn phải được những “đàn anh, đàn chị” trong giới thừa nhận. Đây là luật giang hồ.

Trong giới giang hồ, có 2 loại xăm mình: tự xăm cho nhau và các cậu ấm nhiều tiền, thích đua đòi, muốn gia nhập giới để ‘dựa hơi’…

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-3

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-4

Các hình xăm bao trùm gần hết cơ thể, thích phô trương để hù dọa dân lành thì chẳng phải người trong giới.

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-5

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-6

YAKUZA hiện là băng nhóm tội phạm phát triển nhất thế giới với số lượng thành viên lên đến gần 100.000 người trên khắp lãnh thổ nhật bản và một số khác rải rác trên những quốc gia khác trên thế giới. YAKUZA được chia làm gần 3.000 băng nhóm nhỏ với cách thức hoạt động khác nhau nhưng đều có chung 1 đặc điểm……các thành viên băng đảng buộc phải xăm hình như 1 nghi lễ gia nhập, hình xăm còn thể hiện vị trí và cấp bậc của thành viên trong băng nhóm

cac-mau-hinh-xam-so-ma-dang-cap-cua-gioi-giang-ho-viet-nam-7

Công chúa của ông trùm giang hồ YAKUZA – là một đứa trẻ YAKUZA nên cô luôn bị bạn bè xa lánh.

hinh-xam-giang-ho

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu hình xăm số má đẳng cấp của giới giang hồ Việt Nam –

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân, luôn tồn tại những bí mật. Đã là bí mật thì đương nhiên phải giữ kín, nhưng trong một số trường hợp, kể cả
Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân, luôn tồn tại những bí mật. Đã là bí mật thì đương nhiên phải giữ kín, nhưng trong một số trường hợp, kể cả những người giỏi giang, được nhiều người tin tưởng vẫn có thể vô tình làm lộ bí mật. Để hạn chế việc bí mật bị “bật mí” thì nên tránh việc tiết lộ với những người có tướng mặt không thể giữ được bí mật.


Người thích “buôn dưa lê”: Răng vẩu

 Người có hàm răng “vẩu” là người có hàm răng nhô ra quá mức so với trán và mũi. Những người răng vẩu thường là những người nói nhiều, thích buôn chuyện. Nhiều khi họ “thêm mắm dặm muối” khiến cho câu chuyện khác xa so với ban đầu.
 

Người có tính tình “quái dị”

 Là nam giới nhưng có giọng nói “eo éo”  như nữ giới hoặc là nữ giới nhưng có giọng nói “ồm ồm” như nam giới, giọng nói của những người này thường gây phản cảm cho người khác khi tiếp xúc, tính tình của họ cũng quái dị như giọng nói và đôi khi cả giới tính của họ vậy.
 

Những người “quái gở” này, họ có tâm tư thay đổi thất thường, là người lắm mưu nhiều kế, hay bài xích người khác, tính tình chua ngoa, cay nghiệt. Nếu để những người này nắm được bí mật thì hậu họa sẽ khó lường.

 

Nhin mat la biet ai hay ngoi le doi mach hinh anh
Người mắt lồi nói năng thiếu suy nghĩ

Người nói mà không suy nghĩ: Mắt lồi

Những người mắt lồi có ưu điểm là phản ứng nhanh, tính ngay thẳng nhưng lại thiếu khả năng phán đoán, nói năng bừa bãi, thiếu suy nghĩ, hành động nông nổi, không quan tâm tới hậu quả. Nếu bí mật rơi vào tay họ thì trong một khoảnh khắc “lỡ lời”, toàn bộ bí mật sẽ bị “bật mí”.

Hơn nữa, nếu người có mắt lồi, ánh mắt lại láo liên, “đảo như rang lạc” thì là người chỉ chờ có cơ hội để phá đám, thích trêu chọc người khác. Nên cẩn thận với những người này.
 

Người khó khả năng giữ bí mật kém: Dái tai nhỏ và nhọn

Nếu không muốn trở thành trò cười cho thiên hạ hoặc là trung tâm của sự bàn tán thì tuyệt đối không được “dốc bầu tâm sự” với những người có dái tai nhỏ và nhọn. Những người này thường không chịu nổi áp lực tâm lý, một khi có biết được một bí mật nào đó, họ sẽ cảm thấy bứt rứt, chỉ chờ cơ hội để nói ra. Đây chính là những người “phao tin đồn nhảm”, luôn muốn lấy chuyện riêng tư của người khác làm niềm vui.
 

► Mời các bạn: Xem tử vi, xem tướng số đoán biết vận mệnh chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Theo Tivisomenh

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam - Tuổi tuất - Xem Tử Vi

Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam, Tuổi tuất, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam, tu vi Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam, tu vi Tuổi tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam

Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam mạng nên quay về hướng thuộc Hỏa, là hướng Nam.

 

Tuổi Bính Tuất nam:

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Ốc Thượng Thổ (Đất nóc nhà)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch 

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Phòng ngủ:

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ tuổi Bính Tuất nam mang mệnh Thổ, Hỏa sinh Thổ, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Hỏa, là hướng Nam; 

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Cam, Đỏ, đây là màu đại diện cho hành Hỏa, rất tốt cho người hành Thổ.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.

Nếu tuổi Bính Tuất muốn tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn kê giường theo phong thủy tuổi Bính Tuất 1946 nam - Tuổi tuất - Xem Tử Vi

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ thủa xa xưa, các cụ ta thường dùng 12 con giáp ngày, tháng, năm và cả giờ. 12 con giáp tức là 12 con vật quen thuộc tượng trưng cho các năm theo thứ tự sau đây: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết. Hãy cùng Phong thủy số tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây nhé.

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Xem thêm

+ Giờ tốc hỷ là giờ gì?

+ Ngày bất tương là ngày gì?

+ Ngày chu tước hắc đạo là ngày gi?

Giờ tỵ là mấy giờ?

Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ, cụ thể là vào khoảng thời gian nào trong ngày thì có lẽ không phải ai cũng biết, đặc biệt là các bạn trẻ. Để hiểu rõ hơn về cách tính giờ theo 12 con giáp, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu:

+ Một ngày gồm có 24 tiếng, 24 tiếng này quy định là 5 canh và 6 khắc

1. Bảng giờ trong 1 ngày theo 12 con giáp

Tính theo 12 con giáp, thứ tự các giờ sẽ tính như sau:

·         Giờ tý tức là giờ chuột, bắt đầu từ khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Những bạn sinh ra vào giờ này tức là sinh giờ tý.

·         Giờ ngọ hay còn gọi là ngựa, bắt đầu từ 11 giờ trưa đến 13 giờ trưa

·         Giờ sửu hay còn gọi là trâu, bắt đầu từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng

·         Giờ mùi hay còn gọi là dê, bắt đầu từ 13 giờ trưa đến 15 giờ chiều

·         Giờ dần là giờ hổ, bắt đầu từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng

·         Giờ thân tức là khỉ, bắt đầu từ 15 giờ đến 17 giờ chiều

·         Giờ mão hay còn gọi là giờ mẹo, con mèo, bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng

·         Giờ dậu là gà từ tính từ 17 giờ đến 19 giờ tối

·         Giờ thìn là rồng tính từ 19 giờ đén 11 giờ sáng

·         Giờ tị là giờ rắn tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng

·         Giờ hợi là heo, tính từ 21 giờ đến 23 giờ khuya

·         Giờ tuất là con chó, tính từ 19 giờ đến 21 giờ tối

Vậy với câu hỏi, giờ tị là mấy giờ, nhìn cách tính ở trên chúng ta sẽ trả lời chính xác được rằng, giờ tị tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng.

2. Một ngày có 5 canh

Ngoài tính xem giờ tị là mấy giờ, giờ hợi là mấy giờ... chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm về cách chia canh của người xưa.

·         Canh 1 tính từ 19 giờ đến 21 giờ tức là giờ tuất

·         Canh 2 tính từ 21 giờ đến 23 giờ - giờ hợi

·         Canh 3 tính từ 23 giờ đến 1 giờ sáng – giờ tý

·         Canh 4 tính từ 1 giờ đến 3 giờ sáng – giờ sửu

·         Canh 5 tính từ 3 giờ - 5 giờ - giờ dần

Bên trên là một vài hướng dẫn về cách tính giờ, tính canh theo 12 con giáp của người xưa mà chúng ta có thể tham khảo nhé


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Luận giải các sao

Trong đời sống mỗimột người đều có một số mạng và số mạng đó được thể hiện ở các chòm sao, có 3loại: chính tinh, phụ tinh và Các sao không tốt, không xấu.
Luận giải các sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

LUẬN GIẢI CÁC CHÍNH TINH

Phân loại các chính tinh theo đặc tính chủ yếu

·         Đế tinh: chủ tể các sao, Tử Vi

·         Phúc tinh: phúc, thọ, Thiên Đồng, Thiên Lương

·         Thiện tinh: huynh đệ, phúc thọ, Thiên Cơ

·         Quý tinh: quan lộc, Thái Dương

·         Phú tinh: của cải, Thái Âm

·         Quyền tinh: tài lộc, uy quyền, Thiên Phủ, Thiên Tướng,  Thất Sát

·         Tài tinh: tài lộc, Vũ Khúc, Thiên Phủ

·         Đào hoa tinh: Liêm Trinh

·         Ám tinh: cản trở, Cự Môn

·         Hung tinh:

o    dâm tinh, Tham Lang

o    hao tinh, Phá Quân

o    tù tinh, Liêm Trinh

LUẬN GIẢI CÁC PHỤ TINH

Phân loại các phụ tinh theo đặc tính chủ yếu

Các sao tốt

·         Quý tinh:

o    Lộc Tồn

o    Ân Quang

o    Thiên Khôi

o    Hóa Lộc

o    Thiên Quý

o    Thiên Việt

o    Long Trì

o    Tấu Thư

o    Phượng Các

o    Thiên Mã

·         Phú tinh:

o    Lộc Tồn

o    Hóa Lộc

·         Quyền tinh:

o    Hóa Quyền

o    Quốc Ấn

o    Quan Đới

o    Tướng Quân

o    Phong Cáo

o    Đường Phù

·         Phúc tinh:

o    Ân Quang

o    Hóa Khoa

o    Thiên Hỷ

o    Thiên Quý

o    Thiên Giải

o    Thiếu Dương

o    Thiên Quan

o    Địa Giải

o    Thiếu Âm

o    Thiên Phúc

o    Giải Thần

o    Hỷ Thần

o    Thiên Thọ

o    Thiên Đức

o    Bác Sỹ

o    Tràng Sinh

o    Nguyệt Đức

o    Đẩu Quân

o    Đế Vượng

o    Long Đức

o    Thiên Y

o    Thanh Long

o    Phúc Đức

o    Thiên Trù

·         Văn tinh:

o    Thiên Khôi

o    Văn Xương

o    Phong Cáo

o    Thiên Việt

o    Văn Khúc

o    Quốc Ấn

o    Hóa Khoa

o    Lưu niên văn tinh

o    Thai Phụ

·         Đài các tinh:

o    Tam Thai

o    Bát Tọa

o    Lâm Quan

o    Hoa Cái

o    Đường Phù

·         Đào hoa tinh:

o    Đào Hoa

o    Hồng Loan

Các sao xấu

·         Sát tinh:

o    Địa Kiếp

o    Thiên Không

o    Hỏa Tinh

o    Địa Không

o    Kiếp Sát

o    Linh Tinh

o    Kình Dương

o    Đà La

·         Bại tinh:

o    Đại Hao

o    Thiên Khốc

o    Suy

o    Tiểu Hao

o    Thiên Hư

o    Bệnh

o    Tang Môn

o    Lưu Hà

o    Tử

o    Bạch Hổ

o    Phá Toái

o    Mộ

o    Thiên La

o    Tử Phù

o    Tuyệt

o    Địa Võng

o    Bệnh Phù

o    Thiên Thương

o    Thiên Sứ

o    Quan Phù

o    Tuế Phá

·         Ám tinh:

o    Hóa Kỵ

o    Thiên Riêu

o    Thiên Thương

o    Phục Binh

o    Thiên Sứ

o    Quan Phù

o    Cô Thần

o    Quả Tú

o    Quan Phủ

·         Dâm tinh:

o    Thiên Riêu

o    Hoa Cái

o    Mộ

o    Mộc Dục

o    Thai

·         Hình tinh:

o    Thiên Hình

o    Quan Phù

o    Thái Tuế

Các sao không tốt, không xấu

·         Tả Phù

·         Dưỡng

·         Triệt

·         Hữu Bật

·         Tuần

Nguồn: www.thuvienkhoahoc.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải các sao

Phong thủy của những cửa hàng ở vị trí khác nhau

Xét ở góc độ phong thủy, dương trạch lấy động làm chính mà động thuộc Thủy, cầu vượt mang nghĩa là Thủy. Cửa hàng gần cầu vượt cũng giống như ở vị trí cửa
Phong thủy của những cửa hàng ở vị trí khác nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gầm cầu vượt, đường hầm

Ở những thành phố dân cư đông đúc, cầu vượt, đường hầm là những công trình kiến trúc phổ biến.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Thủy, có thể tiếp nước.

Ở vị trí cửa Thủy này, tài vận đều vượng và mạnh. Nhiều cao ốc hoặc cửa hàng hướng về phía cầu vượt nhưng ảnh hưởng thế nào còn phụ thuộc vào tầm nhìn cao thấp của cửa hàng.

Cửa hàng thấp, bất kể là cầu cánh cung hay bao quanh đều không có lợi vì phạm vào “thiếp áp sát” (sát khí luôn ở bên cạnh). Điều này sẽ làm công việc kinh doanh bị hạn chế. Nếu cửa hàng cao bằng cầu, có cầu bao quanh, lợi nhuận ít, đường cánh cung ngược nên phá tài.

Những cửa hàng ở đường hầm cho người đi bộ hoặc ô tô thì chủ tiệm cũng khó phát tài. Nhưng nếu con đường này thông với ga tàu điện thì sẽ mang lại vượng khí cho cửa hàng.

Bên cạnh giếng trời

Hiện nay, có rất nhiều cao ốc, cửa hàng thiết kế tạo hình giống như giếng trời. Xét theo phong thủy, cửa hàng chỉ cần hướng ra phía hướng trời là đã hút tài lộc. Vậy nên, nếu chúng ở tầng 2, 3 hoặc các tầng cao thì càng tốt.

(Theo Phong thủy cửa hàng kinh doanh)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy của những cửa hàng ở vị trí khác nhau

Chinh phục người tuổi Dậu

Bạn cần thường xuyên thay đổi cách tiếp cận với người tuổi Dậu vì họ là những người sống đầy cảm tính. Nếu chỉ trung thành với 1 kiểu yêu, bạn sẽ khó chiếm
Chinh phục người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được tình cảm của họ. Vì vậy, hãy bày tỏ những cảm xúc mãnh liệt với họ để tình yêu thêm nồng nàn.

Nếu muốn mời người tuổi Dậu cùng khiêu vũ, hãy chú ý bài trí khung cảnh, môi trường xung quanh để gợi cảm hứng. Người tuổi Dậu rất coi trọng điều đó. Với họ, 1 nơi có phong cảnh hiền hòa sẽ làm họ rung động. Khi đó, bạn sẽ có cơ hội để thể hiện tình cảm của mình.

 
Chinh phục nam giới tuổi Dậu

Để chinh phục chàng trai tuổi Dậu, bạn phải biết cách thừa nhận, khẳng định những thành tích của anh ấy. Bởi vì đàn ông tuổi này đều là những người thích được nghe người khác khen ngợi, tán dương mình. Nắm bắt được đặc điểm đó, chắc chắn bạn sẽ dễ dàng có được tình yêu của chàng

Chinh phục nữ giới tuổi Dậu

Đa số phụ nữ tuổi Dậu đều rất nữ tính và có bề ngoài ưa nhìn, đồng thời họ cũng rất tự trọng, không dễ dàng thổ lộ tình yêu trước đối phương. Do đó, bạn nên chủ động bày tỏ tình cảm. Hãy cố gắng tạo ra khung cảnh lãng mạn, thì thầm với nàng những lời yêu thương chân thành.

(Theo Bách khoa thư 12 con giáp)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chinh phục người tuổi Dậu

Ngón tay đeo nhẫn và bản lĩnh chăn gối, độ giàu có ở đàn ông

Đàn ông có ngón tay đeo nhẫn càng dài thì càng giỏi chuyện
Ngón tay đeo nhẫn và bản lĩnh chăn gối, độ giàu có ở đàn ông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"yêu" và dễ trở thành tỉ phú.


1. Ngón tay đeo nhẫn càng dài thì bản lĩnh phòng the càng tốt
 
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, khả năng tình dục của đàn ông nằm ở lượng testosterone nhiều hay ít. Điều thú vị là nhìn chiều dài ngón áp út có thể đoán định được lượng testosteronecủa nam giới.
 
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng chiều dài ngón áp út được xác định sớm ở tuần 14 của thai kỳ. Ngón áp út càng dài thì lượng testosterone càng cao.
Ngón tay đeo nhẫn thế nào là dài?
 
Duỗi thẳng các ngón tay rồi khép khít chúng lại, giơ bàn tay ra trước mặt, mở lòng bàn tay, giữ ở tư thế đối diện với mặt và quan sát. Chênh lệch về độ dài giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón trỏ càng lớn thì hàm lượng testosterone của bạn càng nhiều. Ngược lại, người có ngón áp út ngắn hơn ngón trỏ sẽ có nhiều estrogene và ít testosterone hơn (tức là nữ tính hơn).

Ngon tay deo nhan bat mi ban linh phong the va kha nang lam ti phu o dan ong hinh anh
 
2. Ngón tay đeo nhẫn dài dễ thành tỉ phú
 
Viện nghiên cứu của trường Đại học Concordia ở Canada cho rằng, đàn ông với ngón đeo nhẫn dài thường mạo hiểm và vì thế dễ giàu có hơn người khác.
 
Các chuyên gia lý giải rằng, chính việc hormone testosterone cao giúp nam giới tăng khả năng tập trung cao, từ đó đưa ra quyết định nhanh và táo bạo hơn. Điều này có nghĩa là họ kiếm tiền nhiều gấp 11 lần so với những người có ngón áp út ngắn.
 
4. Ngón tay đeo nhẫn tiết lộ tính cách
 
Theo một nghiên cứu của trường Đại học Canada, người đàn ông có ngón đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ thường tốt bụng và quan tâm đến người xung quanh nhiều hơn.
 
Sự khác nhau nói trên có nguyên nhân từ nồng độ hormone testosterone trong cơ thể khi chúng ta còn chưa được sinh ra. Trong bụng mẹ, đứa trẻ nào nhận được nhiều testosterone hơn sẽ có độ dài ngón đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ. Theo đó, trong quá trình hình thành nhân cách, đứa trẻ ấy dễ hướng ngoại, cởi mở hay thành công trong kinh doanh.
 
Một nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng những chàng trai sở hữu ngón đeo nhẫn dài có xu hướng cười nhiều và thân thiện hơn.
 
5. Thói trăng hoa tỉ lệ thuận với chiều dài ngón tay đeo nhẫn
 
Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi cục Tâm lý học thực nghiệm của trường Đại học Oxford và trường Đại học Northumbia, đàn ông với ngón đeo nhẫn dài bị cho là có tính lăng nhăng.
 
Nghiên cứu này đưa ra một giả thuyết rằng, con người có thể được chia ra thành hai loại: một bên thích những mối quan hệ thoáng qua và số còn lại tìm kiếm sự cam kết lâu dài.
 
Sau khi nghiên cứu suy nghĩ của 575 người về “tình thoáng qua” kết hợp với độ dài ngón tay, các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng những người ngón đeo nhẫn càng dài hơn ngón trỏ thì càng có xu hướng lăng nhăng nhiều hơn.
 
Điều này được các chuyên gia lý giải là do lượng hormone testosterone trong cơ thể vốn dĩ ở mức cao khiến những nam giới này luôn thu hút người khác, nhưng đồng thời có sở thích “cắm sừng” người yêu.
Theo Ngày nay    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngón tay đeo nhẫn và bản lĩnh chăn gối, độ giàu có ở đàn ông

Vì sao sống thiện mà đời vẫn trắc trở?

Nhiều người cảm thấy bản thân thiện lương, không làm điều xấu nhưng số mệnh vẫn không thuận, luôn gặp trắc trở, ấy là vì sao? Lời Phật dạy sẽ trả lời giúp bạn
Vì sao sống thiện mà đời vẫn trắc trở?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

câu hỏi này.


Vi sao song thien ma doi van trac tro hinh anh
 
Phật dạy, ý niệm trong đầu có thể ảnh hưởng tới số mệnh. Vì thế, nghèo khổ, khó khăn chắc chắn là đều có nguyên nhân từ tâm linh.   Nguyên nhân gì khiến ta mãi nghèo khó? Là do ý niệm trong đầu không đúng, có người khinh thường tiền tài, khinh thường người có tiền. Tiền bạc không xấu, sự giàu có cũng không xấu nếu là chân chính do sức lao động, sự cố gắng, chăm chỉ của bản thân, vì sao lại khinh thường? Không tôn trọng tiền bạc thì sẽ mãi mãi bần cùng.   Nếu trong đầu có ý nghĩ này, nên sửa đổi ngay. Nên tôn trọng người khác, dù người ta giàu có hay nghèo khó hơn mình, đó là chúng sinh bình đẳng. Người giàu đó là phúc báo của họ, nên tôn trọng phúc báo của họ thì bản thân ta mới có phúc báo.    Phật nhập cõi Niết Bàn để lại 4 câu trả lời cho mọi vấn đề
Ngày Phật nhập cõi Niết Bàn – Rằm tháng 2 âm lịch, hãy tự răn mình 4 câu hỏi mà Phật đưa ra cho Phật tử trong những phút cuối đời, để tự thức

Muốn hanh thông vận trình, hãy đọc sách và tôn trọng sách vở. Trong những công đức của nhà Phật, công đức tặng sách là cho phúc báo lớn nhất. Vì sao? Vì sách là tri thức, là tinh hoa, đọc sách là tiếp cận với biển lớn, tặng sách là tặng cả sự hiểu biết, tôn trọng sách, tôn trọng thầy và tôn trọng người đọc sách thì cuộc đời sẽ may mắn hơn nhiều. May mắn vì hiểu thế nào là nên và không nên, hiểu làm thế nào để sống tốt hơn và cố gắng hơn.
  Trong hôn nhân cũng vậy, Phật giáo tin rằng “tu trăm kiếp mới ngồi chung một thuyền, tu ngàn kiếp mới cùng chung chăn gối”. Nên, đừng bao giờ có ý niệm coi thường hôn nhân, hay chỉ trích trong thiên hạ chẳng có người đàn ông/phụ nữ nào tốt, sau này hôn nhân sẽ không như ý đâu. Muốn hạnh phúc, trước hết hãy tôn trọng tình cảm, tôn trọng đối phương và tôn trọng nhân duyên.  
Vi sao song thien ma doi van trac tro hinh anh
 
Như vậy, đừng cho rằng mình không làm ác thì tức là thiện, ý niệm trong đầu không trong sáng thì không phải là thiện đâu. Mình không có tiền mà lại khinh người có tiền, mình kém hiểu biết lại khinh người đọc sách, mình nhân duyên kém lại coi thường hôn nhân. Như thế là đại ngạo mạn, vận thế ắt phải suy.

Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao sống thiện mà đời vẫn trắc trở?

Giải mật câu nói gây tranh cãi suốt 2.000 năm của Lưu Bị

"Nếu chủ bất tài, tiên sinh hãy phế đi" là câu nói của Lưu Bị khi phó thác Lưu Thiện cho Khổng Minh. Song, Bị có thực sự giao cả sinh mệnh triều Thục Hán vào tay Gia Cát Lượng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử gia Trần Thọ bình về Lưu Bị trong "Tam Quốc Chí" - "Tiên chủ là người khoan hồng đức độ, tri nhân đãi sĩ, có phong phạm của Cao Tổ, là bậc anh hùng".

Hoàng đế khai quốc Thục Hán Lưu Bị được đánh giá là có nhiều điểm tương đồng với Hán Cao Tổ Lưu Bang - "Không ham đọc sách, thích chó ngựa, âm nhạc, y phục đẹp... ít nói, đối đãi tốt với hạ nhân, hỷ nộ không lộ ra ngoài".

Giống với tổ tiên của mình, Lưu Bị đánh trận thường xuyên thất bại và cũng từng bỏ chạy "quên cả vợ con". Người kế vị Lưu Thiền thực tế không phải là con trưởng của Bị.

Nhờ sự kiên trì theo đuổi sự nghiệp, cuối cùng Lưu Bị cũng xây dựng thành công đế quốc Thục Hán. Thời điểm lên ngôi, Bị đã 61 tuổi, lớn hơn Lưu Bang lúc đăng cơ 6 tuổi.

Lưu Bang khởi binh năm 47 tuổi, mất 7 năm để thành đại nghiệp. Lưu Bị "xuất thế" năm 23 tuổi, mất tới 38 năm để ngồi lên ngai vàng Thục Hán.

Lưu Bị là nhân vật điển hình của mô hình "tay trắng khởi nghiệp", và điều duy nhất ông vượt trội so với Lưu Bang chính là sự trọng vọng hiền tài.

Ban đầu, Lưu Bị đi theo Hiệu úy Trâu Tịnh trấn áp giặc Hoàng Cân lập được chiến công, được phong làm Huyện úy An Hỷ (tương tương phó chủ tịch huyện). Từ đây, Bị mới bắt đầu sự nghiệp chinh chiến.

Từ khi mất chức do vụ Trương Phi "dùng roi đánh quan đốc bưu", Lưu Bị cùng nhóm quân của mình liên tục vùng vẫy trong nhiều năm thất bại, thậm chí "không có nổi miếng đất cắm dùi".

Mặc dù giành được một số thắng lợi nhỏ như trảm Sái Dương ở Nhữ Nam, đả bại Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm ở Bác Vọng, nhưng chỉ đến khi tham gia liên minh với Tôn Quyền, Lưu Bị mới được "đổi đời".

Chiến thắng mấu chốt tại Xích Bích của liên quân Tôn - Lưu đã triệt để thay đổi cán cân giữa các lực lượng quân sự lúc bấy giờ.

Nhờ thực hiện phương châm "long trung đối" của Gia Cát Lượng, thế lực của Lưu Bị đã quật khởi mạnh mẽ tại Ích Châu và một phần Kinh Châu, phát triển thành đối trọng với 2 nhà Tào, Tôn.

lưu bị chỉ có năng lực quân sự trung bình, nhưng lại được đánh giá là sáng suốt trong cách dùng người.

Lưu Bị chỉ có năng lực quân sự trung bình, nhưng lại được đánh giá là sáng suốt trong cách dùng người.

Năm Kiến An thứ 24 (219), Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, giành được Hán Trung - "yết hầu" của Ích Châu, khiến Tào Tháo "vỡ mộng" Tây chinh.

Giai đoạn này, tình thế được cho là "như trong mơ" với Thục Hán, khi Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu phát động các chiến dịch Tương Dương, Phàn Thành "nhấn chìm 7 quân, trảm Bàng Đức, hàng phục Vu Cấm, đánh cho Tào Tháo suýt phải rời đô".

Tuy nhiên, cục diện bất ngờ thay đổi khi "đồng minh" Tôn Quyền quay sang bắt tay Tào Ngụy.

Tướng Đông Ngô Lữ Mông với chiến dịch tập kích kinh điển "bạch y độ giang" khiến Quan Vũ không kịp trở tay và để mất Giang Lăng, Công An (thuộc Kinh Châu). Bản thân Quan Vũ cũng thiệt mạng.

2 năm sau, Lưu Bị xưng đế và "Đông Sơn tái khởi", nhưng Bị thảm bại ở Di Lăng. Bị đau khổ thất chí, qua đời tại thành Bạch Đế.

Tình thế Thục quốc thời điểm Lưu Bị băng hà, ngoài có Ngụy, Ngô áp biên, bên trong lại vướng cuộc tạo phản Nam Trung của Thái thú Hán Gia Hoàng Nguyên, Thái thú Tang Ca Chu Bao, Ung Khai ở Ích Châu...

Bên cạnh đó, sau thất bại của Lưu Bị, quân đội Thục Hán bị tổn thất nghiêm trọng. Nhà Thục ví như ngọn đèn trước gió, đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Lúc này, nhân vật đứng ra chèo lái con thuyền sắp đắm Thục Hán chính là "thiên cổ đệ nhất hiền tướng" Gia Cát Lượng.

Phó thác cô nhi ở thành Bạch Đế

Mối quan hệ giữa Lưu Bị và Khổng Minh luôn được nhận định là "điển phạm của quan hệ quân thần".

Sử liệu Trung Quốc ghi nhận, đến nay cũng chỉ có Lưu Bị và Gia Cát Lượng mới đạt được đến mức độ thân cận "như cá với nước".

Mặc dù vậy, giữa Bị và Khổng Minh vẫn tồn tại những khúc mắc khó tháo gỡ.

Gia Cát Lượng chủ trương "liên Ngô kháng Tào", phản đối Lưu Bị tuyên chiến với Đông Ngô. Bị bắt Khổng Minh ở lại Thành Đô, mà Gia Cát Lượng cũng không thể không ở.

Thời điểm đó, Thục Hán nhân tài ít ỏi, Quan - Trương tử chiến không lâu, Phượng Sồ Bàng Thống, Pháp Chính mất sớm.

Gia Cát Lượng buộc phải "bám trụ" Thành Đô như một quyết sách chiến lược, bên cạnh giám hộ Lưu Thiện, ông phải "trấn an quốc gia, úy lạo bách tính, cung ứng quân nhu".

Nếu Lượng cũng theo Lưu Bị xuất sư thì có thể cục diện Tam Quốc đã chuyển biến lớn, bởi Lưu Bị nổi danh là "thường bại tướng quân".

Một nhân vật năng lực quân sự trung bình như Tào Phi cũng chỉ ra được chiến lược "bài binh Thục doanh 700 dặm" của Lưu Bị tất bại.

Bị xem thường thống soái trẻ tuổi Lục Tốn của Đông Ngô, dẫn đến thảm bại và chạy về thành Bạch Đế, Vĩnh An.

Lưu Bị thác cô cho Gia Cát Lượng ở thành Bạch Đế.

Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng ở thành Bạch Đế.

Năm Chương Vũ thứ 2 (222, Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị), Bị triệu Thái thú Lý Nghiêm đến thành Bạch Đế, phong làm Thượng thư.

Tháng 2/223, Lưu Bị triệu gấp Khổng Minh tới Vĩnh An. Tháng 4 cùng năm, Bị đem con trai phó thác cho Gia Cát Lượng, gọi là "thác cô".

"Thác cô" là hiện tượng chính trị quan trọng mà lịch sử cổ đại Trung Quốc không thể tránh khỏi, thường phát sinh trong những tình huống như vua mất sớm, tân vương còn nhỏ.

Nhà nghiên cứu Nho học đời Hán Khổng An Quốc nói - "Mệnh lệnh lúc lâm chung của vua gọi là Cố mệnh". Từ đó, các vị đại thần được vua phó thác trách nhiệm trước lúc băng hà, gọi là "Cố mệnh đại thần".

Đối tượng "phó thác" mà vua lựa chọn thường phải đáp ứng được các yêu cầu như lòng trung thành sâu sắc, có năng lực, danh vọng cao, quan hệ quân thần đủ độ mật thiết.

Như vậy, có thể thấy rõ Gia Cát Lượng là sự lựa chọn hàng đầu của Lưu Bị.

Về việc Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sách "Tam Quốc Chí" đã có ghi chép.

"Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" viết - "Tiên Chủ bệnh nặng, 'thác cô' cho Thừa tướng Lượng. Thượng thư Lý Nghiêm làm phó".

"Tam Quốc Chí - Gia Cát Lượng truyện" có đoạn - "Tiên chủ bệnh nặng ở Vĩnh An, triệu Lượng tới phó thác hậu sự - 'Tiên sinh tài cao gấp 10 Tào Phi, tất sẽ an định quốc gia, thành đại sự.

Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá. Nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi'."

Lưu Bị cũng để lại di chiếu dặn dò Lưu Thiện rằng - "Phải học theo Thừa tướng, coi Thừa tướng như cha".

Lý Nghiêm, nhân vật số 2 triều Thục Hán sau khi Lưu Bị mất.

Lý Nghiêm, "nhân vật số 2" triều Thục Hán sau khi Lưu Bị mất.

Bị qua đời, Khổng Minh và Lý Nghiêm làm theo di chiếu. Nghiêm làm Trung đô hộ, thống lĩnh quân sự trong ngoài, trấn thủ Vĩnh An.

Sau này, Lưu Thiện thực tế trở thành vị vua bất tài, trị quốc vô năng, không đánh đã hàng.

Các nhà nghiên cứu hiện đại bình luận, việc Lưu Bị sắp xếp để Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm cùng phò trợ hậu chủ Lưu Thiện cũng là "một phen hao tâm tốn sức".

Khổng Minh được đánh giá là đại biểu đáng tin cậy của "hội người cao tuổi Kinh Tương", trong khi nhân vật số 2 Lý Nghiêm dù là nhân sĩ Kinh Châu, nhưng vốn là thuộc hạ của Lưu Chương, đại diện "quyền lực mới" trong triều Thục Hán.

Thực tế, Lưu Bị sử dụng Lý Nghiêm để làm đối trọng quyền lực với Gia Cát Lượng.

Xét về phương diện "chọn mặt gửi vàng", Lưu Bị được công nhận là đã hoàn toàn sáng suốt.

Ngụy Minh Đế Tào Duệ (con Tào Phi) đem con trai Tào Phương phó thác cho cặp Tư Mã Ý - Tào Sảng, hay Tôn Quyền đem Tôn Lượng gửi gắm cho đám Gia Cát Khác, đều dẫn đến kết cục là những trận tắm máu.

Giữa Khổng Minh và Lý Nghiêm cũng không tránh khỏi phát sinh những tranh chấp quyền lợi, như việc Nghiêm xin cắt 5 quận phía đông Ích Châu ra làm Ba Châu không được đồng ý, hay Nghiêm phạm sai lầm và bị Lượng cách chức.

Về sau, Lý Nghiêm bị Khổng Minh thanh trừng.

Tuy nhiên, xét về tổng thể, Khổng Minh vẫn được xem là hoàn thành xuất sắc sứ mệnh "thác cô", nhờ đó "để lại tiếng thơm ngàn đời".

Việc Lưu Thiện bất tài, đầu hàng nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm là chuyện của nhiều năm sau này, khi Khổng Minh đã qua đời.

Dù Lưu Thiền là hoàng đế vô năng, nhưng những nỗ lực của Gia Cát Lượng đối với triều Thục Hán đã được ghi nhận.

Dù Lưu Thiện là hoàng đế vô năng, nhưng những nỗ lực của Gia Cát Lượng đối với triều Thục Hán đã được ghi nhận.

Bí ẩn "thác cô"

Câu nói "nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi" đã gây tranh cãi lớn trong lịch sử Trung Quốc.

Ngày nay, có nhiều luồng quan điểm giải thích ngụ ý câu nói "nhạy cảm" của Bị.

Thứ nhất là quan điểm cho rằng Lưu Bị "nói lời thật lòng". Tác giả Trần Thọ của "Tam Quốc Chí" cũng tán thành với nhận định này.

Trần Thọ bình luận rất tích cực trong "Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" rằng - "Đem quốc gia phó thác cho Gia Cát Lượng, không cần đắn đo".

Quan điểm thứ hai là thuyết âm mưu. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Lưu Bị buộc phải "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sóng vẫn ôm lòng nghi kỵ, cho nên mới nói ra lời như vậy để buộc Lượng phải tỏ rõ lòng trung.

Thứ ba, cách nói "tự phế đi" không đồng nghĩa với "tự mình thay thế".

Luồng quan điểm này cho rằng, Lưu Bị muốn chỉ ra, nếu Lưu Thiện bất tài thì Khổng Minh có thể lựa chọn 1 trong 2 người con khác của Bị để lập làm vua.

Lưu Bị chỉ... nói đùa?

Hiện nay, có thêm luồng quan điểm thứ tư cho rằng bản thân câu nói của Lưu Bị... không có ý nghĩa thực chất mà chỉ là nói theo "mô hình chung".

Trên thực tế, câu nói có đại ý như trên không phải hiếm gặp. Trong 6 vụ "thác cô" thời Tam Quốc, có ít nhất 3 lần đoạn "văn mẫu" trên đã được xuất hiện.

Bên cạnh Lưu Bị, một trường hợp khác là Tôn Sách "thác cô" Trương Chiêu - "Nếu Trọng Mưu (Tôn Quyền) kém tài, tiên sinh hãy tự phế đi" - theo "Ngô lịch".

Vụ "thác cô" thứ 3 được biết tới là Lưu Biểu ủy thác Lưu Bị - "Nếu con ta bất tài, để chư tướng lang bạt, thì sau khi ta chết, khanh hãy thu lại Kinh Châu" - theo "Ngụy thư".

Mối quan hệ thực giữa Lưu Bị - Khổng Minh vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.

Mối quan hệ thực giữa Lưu Bị - Khổng Minh vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.

Lưu Bị 2 lần làm "người trong cuộc" của giao kèo ủy thác, lần đầu là nhận phó thác, lần sau là người ủy thác.

Lời của Lưu Biểu thậm chí còn mang ý tứ vô cùng rõ ràng. Các học giả hiện đại cho rằng, Biểu chắc chắn đã có tác động đến tư tưởng của Lưu Bị, thậm chí là ảnh hưởng trực tiếp đến di chúc của Lưu Bị, gián tiếp ảnh hưởng tới lịch sử Tam Quốc.

Việc những phát ngôn khác nhau nhưng mang ý nghĩa tương đồng xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh lịch sử thời Tam Quốc, cho thấy câu nói "Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá" nhìn bề ngoài giống một vấn đề lựa chọn, song thực tế đáp án chỉ có một.

Bên cạnh đó, một điểm ngày càng được nhiều người nhìn nhận, đó là không tồn tại khả năng Lưu Bị thực lòng nhường vị cho Gia Cát Lượng.

Trong lịch sử, trừ giai đoạn sơ khai thời Nghiêu - Thuấn - Vũ, tại Trung Quốc chưa từng xuất hiện trường hợp một vị vua nào "tự nguyện" nhường giang sơn của mình cho người khác họ.

Cho dù Lưu Bị được đánh giá là nhân đức, trọng hiền tài, và Khổng Minh cũng được ông tin cậy tuyệt đối, thì khả năng Lưu Bị "thoát" khỏi quan niệm chung của thời đại là rất nhỏ.

Về phía Gia Cát Lượng, nhiều ý kiến cho rằng ông "thề nguyện tận trung" với Lưu Bị xuất phát từ lòng trung thành thực sự. Cho dù không có lời nói "ẩn ý" của Bị, tin rằng Khổng Minh vẫn sẽ "cúc cung tận tụy" phò trợ Lưu Thiện.

Nếu nói rằng lời của Lưu Bị nhằm tạo áp lực lên Gia Cát Lượng, thì nhìn lại thực tế lịch sử, chỉ có thể nói rằng Khổng Minh đã hết sức nỗ lực để hoàn thành trọng nhiệm.

Nhà phê bình văn học đời Thanh Mao Tông Cương cũng từng bình luận - "Lời tiên chủ lệnh Khổng Minh phế chúa, nếu thật thì sao, giả thì thế nào?

Đáp: Nếu là thật, thì là thật. Nếu là giả, thì là giả".

Quả thực, một lời nói của Lưu Bị đã khiến người đọc Tam Quốc "lạc lối" suốt 2.000 năm qua.

Theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mật câu nói gây tranh cãi suốt 2.000 năm của Lưu Bị

Đặc trưng bát tự của người ăn mày

Không ai là không sợ nghèo khổ, cũng không ai muốn làm kẻ ăn mày. Vì vậy, luận về Tử Bình học, không thể không luận tới mệnh ăn mày, hãy xem một Bát tự ăn mày dưới đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Mệnh này khắc tiết trùng trùng, Thổ dày mà không có Mộc, xuất can chế Mậu, địa chi Dần Mộc bị Thân xung, nhập vận năm 10 tuổi, 40 tuổi nhập vận Hợi có chuyển biến tốt, mệnh giao tại năm 60 tuổi, chết ở đầu đường khi thời tiết giá lạnh, chết vì Kim. Bính Hỏa gặp Thổ, con người lúc nào cũng mơ hồ, gặp Mộc sẽ tốt.

Xem tiếp một ví dụ nữa, mệnh tạo dưới đây Mão Tuất hợp Bính không hóa, Đinh Hỏa thấu can năm, khắc Kim là xấu, Mậu Tuất Thổ dầy, lại được Hỏa trợ, chôn vùi Kim cũng là xấu, gặp đại vận Đinh Mùi vào năm 25 tuổi, bị chết dọc đường do bị cảm.



Hai ví dụ trên đây đã chỉ ra một nguyên lý trong Bát tự, đó là phải cân bằng, quá cường hoặc quá nhược sẽ là mật mã của vận suy. Ví dụ trước là Bính Hỏa gặp Thổ quá nhiều, ví dụ sau là Tân Kim gặp Thổ quá nhiều, cả hai đều cần Thủy sinh Mộc để cứu. Nếu hành vận Hợi sẽ được cứu, nhưng Hợi lại vô cùng phiền phức. Gặp phải Dần, Mão, Mùi sẽ đều biến chất, khó lòng bổ cứu thuận lợi được.

Nguồn: Lý Cư Minh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng bát tự của người ăn mày

Tướng người mắt xếch –

Mắt xếch là kiểu dáng mắt có đuôi mắt xếch ngược lên phía trên khiến cho đôi mắt nhìn vào có cảm giác không cân đối và kém đẹp. Không những thế nhiều người mắt xếch còn tạo cho người đối diện cảm giác sợ hãi, mất thiện cảm khi nhìn vào. Mắt xếch được
Tướng người mắt xếch –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người mắt xếch –

Mơ thấy tóc: Sống không giữ gìn –

Mơ thấy tóc hiển thị tâm lý thiếu thận trọng trong cuộc sống cá nhân. Tóc nam giới ngày càng ít đi với hàm ý người này quá hào phóng, dẫn đến thu nhập túng thiếu, nặng nề tâm lý, dễ mắc bệnh truyền nhiễm. Ớ nữ giới, giấc mơ đấy cho thấy sự lợi dụng
Mơ thấy tóc: Sống không giữ gìn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tóc: Sống không giữ gìn –

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tý

Nam tuổi Tý với nữ tuổi Sửu là sự kết hợp hoàn mỹ. Nàng trung thành với chàng, cuộc sống hôn nhân luôn tràn ngập sự tin cậy, lãng mạn và tươi mới.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-ty
Tý - Tý Tý - Sửu Tý - Dần Tý - Mão
Tý - Thìn Tý - Tỵ Tý - Ngọ Tý - Mùi
Tý - Thân Tý - Dậu Tý - Tuất Tý - Hợi

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tý

Mơ thấy lợn: Sự nghiệp hưng thịnh, sinh khí tràn trề –

Lợn là một trong sáu loài gia súc có mối liên quan mật thiết vởi cuộc sống con người. Lợn có thói quen háo ăn ham ngủ, tượng trưng cho cuộc sống thảnh thơi vui vẻ. Theo phong tục, lợn thường là vật dùng cúng tế thần linh. Hình ảnh chú lợn mũm mĩm tr
Mơ thấy lợn: Sự nghiệp hưng thịnh, sinh khí tràn trề –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy lợn: Sự nghiệp hưng thịnh, sinh khí tràn trề –

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người

Bạn có biết vầng trán cũng có thể tiết lộ những bí mật về con người bạn không? Vầng trán đóng một vai trò rất quan trọng trong nhân tướng học, thường chỉ sự kế thừa những phẩm chất trí tuệ thông minh của con cái từ cha và mẹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vầng trán tròn - Tâm địa ôn hòa

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 1.

Những người sở hữu vầng trán này có tính tình đôn hậu, hòa nhã, trung thực, khiêm tốn, không bao giờ áp đặt tư tưởng của bản thân lên người khác. Nhưng những người này thường hành động theo cảm tính, dễ rơi vào rắc rối tình cảm. Ngoài ra, những người có trán tròn ít có khả năng sáng tạo, không có tính kiên trì hay nhẫn nại, thường xuyên thay đổi công việc.

2. Trán góc cạnh - Tính cách thực tế

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 2.

Những người có trán góc cạnh không bao giờ theo đuổi những tư tưởng không thực tế. Trong tình yêu hay hôn nhân, họ chú trọng tới vấn đề tài chính kinh tế của đối phương. Họ làm việc chăm chỉ, cần cù nhưng không biết cách làm việc khoa học, theo kế hoạch. Vì thế họ chỉ phù hợp với những công việc đơn điệu, đòi hỏi phải luôn luôn chăm chỉ và cố gắng nỗ lực. Phụ nữ sở hữu vầng trán này, có thể kề vai sát cánh cùng những người đàn ông, phát huy tốt toàn bộ năng lực của bản thân.

3. Trán chữ M - Giàu sức sáng tạo

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 3.

Suy nghĩ phản xạ nhanh, ý thức chủ quan tương đối mạnh là đặc điểm cơ bản của những người có trán hình chữ M. Họ có thể dự đoán được một phần tương lai, đề xuất được những ý tưởng mới mẻ. Vì thế, họ cũng phù hợp với những công việc yêu cầu sự sáng tạo dồi dào và không ngừng đổi mới. Trong tình yêu, họ luôn là người chủ động, rất lãng mạn và có thể nắm bắt được tâm tư tình cảm của đối phương.

4. Trán hình ngọn núi Phú Sỹ - Có ý thức bản thân

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 4.

Những người có đường tiếp xúc tóc trán tạo thành một đường cong hơi nhọn giống như hình một ngọn núi thường giàu tình cảm, hòa đồng với mọi người xung quanh và có một cuộc sống may mắn, hạnh phúc. Tuy nhiên những người này làm việc thường không có kế hoạch, hay dựa theo những gì người khác làm, đôi khi còn bỏ ngang giữa chừng. Vì thế mà thường gặp không ít thất bại. Nhưng tới khi họ đã tìm được công việc mà bản thân yêu thích, họ lại gặt hái được không ít thành công.

5. Trán hói - Quá nhiều lo lắng

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 5.

Những con người ngay khi còn trẻ đã sở hữu tướng trán này, hành động vô cùng tích cực nhưng lại luôn nặng trĩu những lo âu, trăn trở, không lắng nghe ý kiến đóng góp của người khác. Vì thế mà họ cũng gặp không ít những thất bại. Những người sở hữu khuôn trán này làm việc cứng nhắc, thường làm theo suy nghĩ của bản thân, ít khi nghĩ đến cảm nhận của người khác. Họ không thích hợp với những công việc xã giao, những vị trí đòi hỏi đối ngoại tốt. Nếu như bạn có tính cách này, hãy học cách lắng nghe và tiếp thu ý kiến của mọi người.

6. Trán hẹp - Làm thuê cho người khác

Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 6.

Những người có trán hẹp hết lòng đối với người khác, vì thế mà họ thường bị lừa đảo hay lợi dụng. Tuy nhiên họ lại không hề khéo léo trong việc đối nhân xử thế với mọi người. Họ thường không đứng ở vai trò người lãnh đạo, nhưng nếu không ngừng cố gắng, tới tuổi trung niên, họ có thể có một cuộc sống an nhàn, ổn định.


Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người - Ảnh 7.

Trán gồ ở phần trên: Con người của trường phái lý luận, giàu tình cảm, hòa đồng, thân thiết với những người khác

Trán gồ ở giữa: Những người này có tầm nhìn xa, lý tính, họ sẽ không bỏ lỡ những thời cơ tốt và trong tình yêu hay công việc họ đều nắm bắt được những cơ hội tuyệt vời.

Trán gồ phía dưới: Là những con người luôn luôn chăm chỉ, không ngừng nỗ lực để đạt được những thành tựu tốt. Họ cũng sở hữu năng lực quan sát tốt, đầu óc phán đoán, phân tích nhạy bén.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng trán đoán trúng tính cách và trí tuệ của con người

Mơ thấy ăn chuối –

Mơ thấy chuối thường là điềm sắp gặp người yêu. Mơ thấy vào vườn bẻ chuối, điềm được người khác phái say mê. Nếu mơ thấy vác buồng chuối lên vai, còn xách thêm nhiều nải chuối khác, tin báo bạn sắp tìm thấy “nửa” còn lại của mình. Phải cần đến 3 giờ
Mơ thấy ăn chuối –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy chuối thường là điềm sắp gặp người yêu.

Mơ thấy vào vườn bẻ chuối, điềm được người khác phái say mê.

mo-thay-chuoi

Nếu mơ thấy vác buồng chuối lên vai, còn xách thêm nhiều nải chuối khác, tin báo bạn sắp tìm thấy “nửa” còn lại của mình.

Phải cần đến 3 giờ mới tiêu hóa hết được một quả chuối, vì vậy, nếu mơ thấy mình ăn chuối, có lẽ bạn sắp trải qua một khoảng thời gian làm việc cực nhọc với thành quả thật khiêm tốn.

Nếu quả chuối đó bị hỏng dưới bất kỳ hình thức nào, dự báo có thể bạn bè sẽ khiến cho ta thất vọng.

Những con số thường gắn liền với giấc mơ về quả:

– Ăn hoa quả: 84 – 68
– Cây sai quả: 49 – 73 – 36
– Quả bàng: 31 – 32
– Quả bóng: 11 – 45 – 72
– Quả bưởi: 01 – 09 – 70
– Quả cam: 05 – 25 – 55
– Quả chuối: 34 – 43
– Quả đu đủ: 58 – 89
– Quả dừa: 50 – 70 – 09
– Quả na: 13 – 14
– Quả quất: 30 – 70
– Quả rụng: 89 – 93
– Quả trên cây: 84 – 48
– Quả: 26 – 60.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ăn chuối –

Nhận định về việc lập thành một lá số tử vi

Một bài viết của tác giả Phong Nguyên trình bày cách an sao lá số nhanh. Đây là một kinh nghiệm rất quý báu!
Nhận định về việc lập thành một lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ các cách an sao, tìm ra cách an lá số thật mau và nhẩm trong trí óc, nhớ dễ dàng

Bài viết của tác giả Phong Nguyễn

Trước khi trình bầy tiếp bài về việc lập thành lá số tôi cần nói với quý bạn rằng tôi đã cố tránh dùng các bài thơ để an sao trừ trường hợp đặc biệt, vì đa số các bạn trẻ đều có óc thực tế đâu có thể mỗi lúc học thuộc lòng được các bài thơ. Không những thế, nhiều khi an sao theo bài thơ rất chậm và có lúc còn dễ lầm lẫn vì "râu ông nọ cắm cằm bà kia". Do đó, những cách an sao tôi nêu ra đều rất thực, giản dị đến mức tối đa. Mục tiếp theo (xin ghi số 7 cho có hệ thống liên tục.

7- Các sao an theo Chi (của năm sanh)

- Hoa Cái: An sao này rất mau lẹ, quý bạn chỉ cần nhớ nhóm 3 chữ (Thân Tí Thìn; Tị Dậu Sửu; Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất) và lấy chữ chót là cung an sao Hoa Cái. Tỷ dụ tuổi Nhâm Tý thì Hoa Cái an ở cung Thìn (chữ chót của nhóm 3 chữ Thân Tý Thìn). Ngoài ra để tiện việc kiểm lại, quý bạn nên nhớ Hoa Cái bao giờ cũng cách cung an Thiên Mã một cung theo chiều thuận. Và như thế, khi an được Hoa Cái là ta biết ngay phải an Thiên Mã ở cung nào (tức là sau cung an Hoa Cái 1 cung). Sau hết quý bạn nên nhớ Hoa Cái chỉ ở tứ mộ, tức là Thìn Tuất Sửu Mùi.

- Thiên Mã: Quý bạn có thể căn cứ theo Hoa Cái để an Thiên Mã, như tôi nêu trên, hoặc lại căn cứ vào nhóm 3 chữ (Thân Tý Thìn,…) rồi an Thiên Mã tại cung xung chiếu với cung theo chữ đầu của nhóm 3 chữ. Tỷ dụ tuổi Bính Thìn thì an Thiên Mã ở cung Dần (là cung xung chiếu với cung Thân, và Thân là chữ đầu của nhóm 3 chữ). Và quý bạn cần nhớ là Thiên Mã chỉ an tại Dần Thân Tị Hợi mà thôi.

- Kiếp sát: Căn cứ theo hàng Chi kế chữ chót của nhóm 3 chữ (như trên). Tỷ dụ tuổi Nhâm Dần thì an Kiếp Sát tại cung Hợi vì Hợi là chữ kế chữ chót của nhóm 3 chữ Dần Ngọ Tuất. Và Kiếp sát chỉ ở 4 góc lá số, tức là Dần Thân Tỵ Hợi.

- Đào hoa: Lấy chữ kế chữ đầu của nhóm 3 chữ. Tỷ dụ tuổi Tân Mùi thì an Đào hoa tại Tý vì tý là chữ kế chữ đầu (Hợi) của nhóm Hợi Mão Mùi. Sau hết, quý bạn nên nhớ là Đào hoa chỉ ở cung Tý Ngọ Mão Dậu.

- Cô thần, quả tú: Quý bạn cứ chia 12 cung ra làm 4 đoạn nối liền với nhau, kể từ cung Dần, tức là Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu. Xong chỉ việc nhớ là Cô thần ở cung kế với đầu đoạn và Quả tú ở cung kế với cuối đoạn. Tỷ dụ tuổi Kỷ Mão thì Cô thần ở Tỵ (vì Tỵ là cung kế với cung Thìn) và Quả Tú ở Sửu (kế với Dần), tức là Cô Quả chặn 2 đầu của đoạn liên hệ. Nói bằng chữ, quý bạn có thể cho là hơi rắc rối nhưng khi vẽ ra quý bạn thấy quá dễ dàng. Tôi không muốn vẽ ra để khỏi choán nhiều chỗ trên tờ báo. Sau hết quý bạn cần nhớ là Cô thần chỉ an tại một trong 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi và Quả tú chỉ ở một trong 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Và do đó, không bao giờ Cô Quả có thể đồng cung với nhau và cũng không bao giờ xung chiếu nhau (chỉ có hợp chiếu).

- Phá toái: an như thường lệ, nghĩa là tuổi Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì ở Tỵ; Thìn Tuất Sửu Mùi ở Sửu và Dần Thân Tỵ Hợi ở Dậu. Sao này chỉ ở 3 cung Tỵ Dậu Sửu.

- Nguyệt đức: như thường lệ (cung Tỵ thuận đến năm sinh), nhưng có vị lại an Nguyệt đức đồng cung với Thái tuế.

- Thiên đức: như thường lệ (cung Dậu thuận đến năm sinh).

- Long trì, Phượng Các: như thường lệ (Long từ cung Thìn thuận Phượng từ cung Tuất nghịch năm sinh). Cũng như Tả Hữu, hai sao Long Phượng chỉ đồng cung ở Sửu hoặc Mùi hoặc giáp hai cung này, còn ở các cung khác thì luôn luôn chiếu nhau, vậy khi thấy không chiếu nhau thì biết là an sai. Khi an Phượng các xong nhớ an Giải thần đồng cung luôn, và gạch dưới 2 sao Long Phượng cho rõ.

- Thiên Khốc-Thiên Hư: như thường lệ (Khốc từ cung Ngọ nghịch – Hư từ cung Ngọ thuận năm sinh. Hai sao này chỉ đồng cung tại Tý hoặc giáp hai cung Tý, Ngọ còn ở các cung khác thì luôn luôn chiếu nhau.

- Hồng Loan: từ cung Mão nghịch đến năm sinh. An luôn Thiên hỷ tại cung xung chiếu.

- Chùm sao Thái Tuế: tuổi nào an Thái tuế ở cung đó, rồi mỗi cung theo chiều thuận an Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu âm, Quan phủ, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ, Phúc đức, Điếu khách, Trực phù. Sau đó an luôn Thiên không đằng trước cung an Thái Tuế. Khi an xong chùm này, quý bạn nên coi sơ lại xem Tang Hổ có xung chiếu nhau hay không và Điếu khách có hợp chiếu với Tang môn hay không để biết chắc mình đã an trúng và không sót một sao nào trong chùm. Ngoài ra cũng như chùm Tràng sinh, chùm Thái Tuế rất quan trọng cho nên quý bạn cũng cần an riêng ra một góc nào đó để dễ nhìn thấy, tức là dễ giải đoán và kết hợp.

8- Các sao theo giờ sinh

Sau khi an các sao theo Chi, quý bạn an ngay các sao theo giờ khi biết chắc giờ sinh chính xác vì có một số sao khác phải tuỳ thuộc sao theo giờ sinh như Quang Quý và Hóa quyền, Hóa Kỵ phải theo Xương Khúc…(tuổi Tân).

- Văn Xương và Văn khúc: từ cung Tuất đếm nghịch đến giờ sinh an Xương và từ cung Thìn đếm thuận an Khúc. Cũng cần gạch dưới 2 sao này. Và cũng như Tả-Hữu, Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi hoặc giáp hai cung đó, còn ở các cung khác đều chiếu nhau.

- Địa không và Địa kiếp: Từ cung Hợi nghịch an Địa không và thuận an Địa Kiếp. Hai sao này chỉ đồng cung ở Hợi (giờ Tý) và Tỵ (giờ Ngọ) hoặc giáp hai cung đó.

- Thai phụ và Phong cáo: Thai phụ cách Văn khúc 1 cung về phía trước và Phong Cáo cách Văn khúc 1 cung về phía sau, và do đó Cáo Phụ luôn luôn hợp chiếu nhau.

Còn các sao Hoả Linh, Đẩu quân tuy cũng theo giờ nhưng còn tuỳ thuộc thêm một yếu tố khác nên tôi đặt vào nhóm sao an sau chót cho có thứ tự.

9- Các sao hàng Can (của năm sinh)

- Thiên Khôi và Thiên Việt: Riêng hai sao này, tôi đành phải dùng bài thơ thường lệ vì không có cách nào giản dị, thực tế cho dễ nhớ. Bài thơ đó như sau:

Giáp Mậu thị ngưu dương (Sửu Mùi)
Ất Kỷ thử hầu hương (Tý Thân)
Bính Đinh trư kê vị (Hợi Dậu)
Canh Tân phùng mã hổ (Ngọ Dần)
Nhâm quý thổ xà tàng (Mão Tỵ)

Quý bạn chỉ cần nhớ năm câu chính đó cho đỡ rườm và nhớ Khôi an trước việt theo câu thơ. Có nhà tử vi nói rằng câu đầu là "Giáp Mậu Canh ngưu dương" (tức là cả tuổi Canh cũng an Khôi Việt ở Sửu Mùi) và câu thứ tư là "Lục Tân phùng mã hổ" (tức là chỉ có 6 tuổi Tân mới an Khôi Việt tại Ngọ Dần), nhưng đa số các nhà tử vi hiện nay đều quen an theo cách thông thường như trên, chưa có ai chứng minh được cách nào đúng hơn cả.

- Tứ Hóa (theo thứ tự Lộc Quyền Khoa Kỵ): cách an Tứ hóa nếu cần phải nhớ nằm lòng cũng là một trong những điều khó khăn nhất trong việc lập thành lá số tử vi nhưng đồng thời lại rất quan trọng cho nên quý bạn đành phải kiên tâm học thuộc bài thơ thường lệ thì mới mong hiểu mau lẹ các câu phú cũng như các cách giải đoán. Quý bạn có thể chỉ nhớ đơn sơ bài thơ như sau cũng thấy vần và dễ thuộc (nghĩa là bỏ hết những chữ thừa):

Giáp Liêm Phá Vũ Dương
Ất Cơ Lương Vi Nguyệt
Bính Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Nguyệt Bật Cơ
Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Nhật Vũ Nguyệt Đồng
Tân Cự Dương Khúc Xương
Nhâm Lương Vi Phủ Vũ
Quý Phá Cự âm Tham

Tức là tuổi Giáp thì an Hoá Lộc đồng cung với Liêm Trinh, Hóa Quyền đồng cung với Phá quân, Hóa khoa đồng cung với Vũ khúc, và Hóa kỵ đồng cung với Thái Dương,…Sau hết cần viết Tứ hóa bằng chữ thật lớn hoặc gạch dưới.

- Chùm Lộc tồn: Nhận xét về cách an thông thường ta thấy sau khi bỏ 4 cung Thìn Tuất, Sửu, Mùi (Lộc Tồn không bao giờ ở Tứ Mộ) thì mỗi hàng Can ứng cho một cung, riêng hai cung Tỵ Ngọ thì ứng cho 2 can mỗi cung (Bính Mậu cho cung Tỵ và Đinh Kỷ cho cung Ngọ). Do đó muốn an Lộc Tồn theo tuổi nào là biết ngay (Giáp Ất thì ở Dần, Mão Canh Tân thì ở Thân, Dậu và Nhâm Quý thì ở Hợi, Tý). Sau đó an Bác sĩ đồng cung với Lộc tồn, rồi Dương Nam, âm Nữ thuận âm Nam, Dương Nữ nghịch lần lượt an các sao Lực sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan Phủ mỗi sao một cung. Rồi an Kình Dương đằng trước và Đà la đằng sao Lộc Tồn, bất luận thuận hay nghịch, mặc dầu có nhiều ý kiến về vấn đề an Kình Đà. Sau hết, từ cung Lộc tồn thuận tới cung thứ 9 an Quốc ân và nghịch đến cung thứ 8 an Đường Phù. Muốn biết chắc về cách an nên kiểm lại xem Tướng quân có xung chiếu với Phục binh hay không để khỏi sót một sao nào trong chùm. Ngoài ra cũng cần viết Lộc tồn bằng mực đỏ cho nổi bật vì sao này rất quan trọng, nếu bấm trên tay thì không thành vấn đề nữa.

- Lưu niên văn tinh: Bỏ tứ mộ (tức là 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), bắt đầu từ cung Tỵ tương ứng với tuổi Giáp, rồi tiếp tục như thế qua các tuổi khác, chỉ trừ cung Thân thì ứng với 2 tuổi Bính, Mậu và cung Dậu ứng với 2 tuổi Đinh Kỷ.

- Thiên trù: sao này rất ít người biết giải đoán và cũng không thấy sách Tử vi nào bàn tới nhiều, cho nên bạn có thể bỏ qua cũng được. Hơn nữa, cách an cũng chưa thống nhất cho nên lại càng phiền toái khi giải đoán. Tuy nhiên, tôi cũng xin ghi nơi đây cho đủ, và cách an thông thường là: riêng cung Tỵ tương ứng cho 2 tuổi Giáp, Bính và cung Ngọ cho 2 tuổi Ất, Đinh còn các cung khác mỗi cung ứng cho 1 tuổi (theo thứ tự hàng Can còn lại: Mậu Kỷ Canh…) trừ các cung Tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì bỏ không tính đến.

- Lưu Hà: Vì không có cách nhớ thực tế và giản dị, nên quý bạn đành phải học thuộc bài thơ quen thuộc mà nhiều sách có ghi:

Giáp Kê Ất khuyển, mạnh Lưu hà
Bính Mùi, Đinh Hầu, Mậu kiến Xà
Kỷ, Ngọ, Canh Thìn, Tân Mão vị
Nhâm Trư, Quý Hổ thị oan gia.

Tức là tuổi Giáp an Lưu Hà ở Dậu, tuổi Ất ở Tuất… (không bao giờ Lưu hà an tại Tý Sửu).

- Thiên quan và Thiên phúc: Hai sao này cũng rất khó nhớ khi an và tôi cũng đành phải dùng bài thơ quen thuộc:

Thiên quan Thiên phúc Giáp đàm Mùi Kê (Dậu)
Ất, Thìn, Thân, Bính về Tỵ, Tý
Đinh Dần cung, Hợi vị tương lâm
Mậu lâm Mão, Kỷ, Dậu, Dần
Canh thời Hợi, Ngọ, còn Tân Dậu Xà
Nhâm Tuất, Ngọ, Quý Ngọ Xà
Thiên Nguyệt đức thuận, Kê Xà hồi hương.

Tức là tuổi Giáp thì an Thiên quan ở Mùi và Thiên phúc ở Dậu…Còn câu sau chót dùng cho Thiên nguyệt đức mà cách an rất dễ nhớ, chẳng cần tới câu thơ trên.

- Tuần Triệt: Có thể nói ai mới học tử vi cũng không thể nào nhớ nổi cách an Tuần, vì nguyên một việc tìm tuổi mình thuộc con nhà Giáp nào cũng nhức đầu, sau đó lại phải nhớ vị trí của Tuần tương ứng với con nhà Giáp liên hệ. Nếu lập sẵn bảng tra Tuần thì an rất dễ nhưng muốn nhớ nằm lòng thì lại rất khó. Do đó tôi đề nghị với quý bạn cách an sau này cho mau lẹ và dễ nhớ: cứ từ cung tuổi của mình khởi bằng hàng Can - tuổi mình đếm thuận cho đến hết hàng can mỗi cung một chữ, ngưng ở đâu thì an Tuần ở hai cung kế sau đó, Tỷ dụ tuổi Canh Dần thì khởi chữ Canh từ cung Dần, đếm thuận cho đến chữ Quý thì thấy ngưng ở cung Tỵ, vậy Tuần an ở cung Ngọ Mùi. Trường hợp gặp tuổi có chữ Quý thì an Tuần rất mau vì Tuần ở kế ngay cung tuổi của đương số. Với cách này quý bạn thấy việc an Tuần quá giản dị và mau lẹ, chỉ vài giây đồng hồ là an được liền.

Còn về cách an Triệt cũng rất dễ, quý bạn cứ tính từ cung Dậu nghịch đến hết cung Tý, cứ 2 cung tương ứng vài hai Can (Giáp Kỷ, Ất Canh, Bính Tân, Đinh Nhâm, Mậu Quý), tức là tuổi Giáp và Kỷ an Triệt ở Thân Dậu, tuổi Ất Canh an Triệt ở Ngọ Mùi,…Quý bạn nên nhớ là Triệt không bao giờ an ở Tuất Hợi.

10- Các sao cố định

Đó là các sao Thiên la, Địa võng, Thiên Thương, Thiên Sứ mà ai học tử vi cũng đều nhớ cách an rồi, tôi khỏi cần nhắc lại cho dài dòng. Có điểm cần nói là tuy các sao này cố định nhưng cũng nên an vào để mình khỏi quên khi đoán. Nhiều người cứ bỏ đi nên có khi giải đoán dễ sơ sót. Tỷ dụ hạn đi với Văn Xương ngộ Thiên Thương, nếu ta không thấy sao Thiên Thương ta có thể quên hẳn sự kiện liên hệ đến cách này.

11- Các sao an theo hai yếu tố

Đó là các sao ân quang, Thiên Quý, Tam thai, Bát toạ, Đẩu quân, Thiên Tài, Thiên Thọ, Hoả tinh, Linh Tinh. Vì phải theo hai yếu tố nên quý bạn cần an các sao này chót hết cho có thứ tự:

- Quang Quý: từ Văn Xương đến ngày sinh lùi lại 1 cung an ân Quang.

Từ Văn khúc đếm nghịch đến ngày sinh lùi lại 1 cung an Thiên Quý. (nên gạch dưới hai sao Quang Quý).

Nếu ngày sanh từ 13 trở lên quý bạn đừng bao giờ đếm từ mùng 1, vừa lâu lại vừa dễ lộn, cứ ngày 13 (chưa trừ 1) thì ở cung khởi (có Văn Xương hoặc Văn Khúc) và ngày 25 (chưa trừ 1) cũng ở hai cung đó, như thế chỉ phải đếm ít. Sau đó chỉ lùi lại một cung là an sao Quang Quý.

- Thai Toạ: Từ Tả phụ đếm thuận đến ngày sinh an Tam Thai và từ Hữu Bật nghịch an Bát toạ. Nếu số ngày từ 13 trở đi cũng áp dụng tương tự như Quang Quý cho đỡ phải đếm nhiều cung. Quý bạn cũng nên gạch dưới Thai Toạ.

- Đẩu quân: Từ cung an Thái Tuế đếm nghịch đến tháng sinh rồi từ đó đếm thuận tới giờ sinh thì an Đẩu Quân.

- Thiên Tài-Thiên Thọ: Thiên Tài thì từ Mệnh thuận đến năm sinh, còn Thiên Thọ từ ‘Thân" cũng thuận đến năm sinh.

- Hoả Linh: Như thường lệ, nghĩa là tuổi:

Thân Tý Thìn khởi Hoả ở Dần Linh ở Tuất
Dần Ngọ Tuất khởi Hoả ở Sửu Linh ở Mão
Tỵ Dậu Sửu khởi Hoả ở Mão Linh ở Tuất
Hợi Mão Mùi khởi Hoả ở Dậu Linh ở Tuất

Khi biết cung khởi rồi thì Dương Nam, âm Nữ thuận đến giờ sinh an Hoả tinh và âm Nam, Dương Nữ thì đếm nghịch. Còn Linh tinh thì ngược lại, nghĩa là âm Nam, Dương Nữ đếm thuận đến giờ sinh; Dương Nam, âm nữ đếm nghịch. Quý bạn cần lưu ý là Hoả tinh gần như luôn luôn khởi từ Dần, Sửu, Mão, Dậu tức là mình chỉ cố nhớ 4 cung khởi của Hoả Tinh là coi như thuộc hết.

Về cách an sao Hoả Tinh cũng có một vài nhà tử vi quả quyết rằng không phải tính theo giờ nữa mà chỉ việc theo bảng trên là an luôn. Tỷ dụ tuổi Dần thì Hoả tinh an tại Sửu và Linh tinh an tại Mão luôn, không còn vấn đề thuận nghịch và giờ sinh nữa.

Tôi đang thử dùng cách an này nhưng chưa thấy ứng nghiệm rõ rệt.

12- Đại tiểu hạn

Sau hết là an Đại tiểu hạn. Muốn nhớ cách an Tiểu hạn quý bạn chỉ cần nhớ nhóm 3 chữ (Dần Ngọ Tuất; Thân Tý Thìn; Tỵ Dậu Sửu; Hợi Mão Mùi) rồi lấy cung xung chiếu với chữ chót của nhóm liên hệ là cung khởi Tiểu hạn. Xong an thuận hoặc nghịch (tuỳ theo Nam hay Nữ) mỗi cung một chữ tiếp theo, Tỷ dụ tuổi Ngọ thì khởi từ cung Thìn, vì Thìn là cung xung chiếu với chữ chót (Tuất) của nhóm 3 chữ Dần Ngọ Tuất.

Đại hạn thì quá dễ cứ theo Cục mà viết số 2, 3, 4, 5 hoặc 6 từ cung Mệnh (Dương Nam, âm Nữ thì thuận mà âm Nam, Dương Nữ thì nghịch). Có sách và có vị cho rằng Đại hạn khởi từ cung kế với cung Mệnh mới ứng nghiệm (nghĩa là từ cung Bào hoặc cung Phụ mẫu tuỳ theo thuận hay nghịch), nhưng vấn đề này chưa vị nào dứt khoát được nên tôi chỉ nêu ra để quý bạn tuỳ nghi áp dụng và chiêm nghiệm.

Việc lập thành đến đây coi như đã xong tuy còn một vài điểm như Mệnh Chủ, Thân Chủ và còn vài sao như Thiên Lộc, Quán Sách, Câu giải, Thiên Xá, Thiên Khố,…nhưng tôi không bàn tới vì tôi chưa thấy sách nào hoặc vị nào nêu ra được cách giải đoán đầy đủ và hợp lý.

Sau hết, tôi cần nêu ra một điểm nữa là trường hợp phải lập một lá số với giờ sinh giữa hai giờ tử vi, quý bạn nên an trước các sao theo tháng và chỉ cùng một số sao hàng Can (nếu có thể) rồi xem sơ qua giờ nào ứng hợp nhất thì mới tìm Cục và an các sao khác để tránh việc lập 2 lá số một lúc. Nếu Mệnh lọt vào 2 cung thuộc một Cục (tỷ dụ: Tý Sửu Dần Mão…thì quý bạn có thể an luôn các chính tinh và vòng Tràng Sinh cùng Tứ hoá nếu được chỉ để lại các sao an theo giờ, rồi khi tìm được giờ nào chính xác nhất sẽ an Mệnh, Thân và các cung khác cùng các sao còn lại.

Tôi hy vọng bài này tuy không có gì mới lạ nhưng sẽ giúp quý bạn thuộc lòng được cách lập thành lá số tử vi cũng như sẽ an sao được mau lẹ mà không cần phải mất công phụ học thuộc nhiều bài thơ, có như vậy thì sau này quý bạn mới thông suốt được dễ dàng việc giải đoán.

KHHB số 74E1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận định về việc lập thành một lá số tử vi

Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Phong thủy sân vườn với những yêu cầu về cân bằng âm dương, cân bằng khí trường, tính thẩm mĩ và tính ứng dụng đang được nhiều người quan tâm.
Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy sân vườn với những yêu cầu về cân bằng âm dương, cân bằng khí trường, tính thẩm mĩ và tính ứng dụng đang được nhiều người quan tâm. Dưới đây là một số kiến thức cơ bản dành cho những ai đang muốn có một khu vườn đẹp cảnh, đẹp phong thủy cho riêng mình.


Ung dung thuyet Am - Duong trong phong thuy san vuon hinh anh 2
 
Phong thủy sân vườn đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “hữu”, “động” là dương và “hư”, “tĩnh” là âm. Các bối cảnh, cây cối, trang trí đều cần dựa trên sự cân bằng âm dương, làm cho “hư” cùng “hữu”, “tính” cùng “động” biến hóa một cách phong phú.    Ví dụ, ở nơi bóng cây râm mát dựng một nơi nghỉ chân chính là trong âm có dương, nơi ánh mặt trời chiếu rọi thiết kế hồ nước hoặc con suối nhỏ là trong dương có âm. Ngoài ra, hồ nước, dòng suối cùng hòn non bộ, hòn giả sơn; bụi cây cao và bụi cây thấp cũng là một dạng thiết kế âm dương cân bằng.   Phong thủy truyền thống cho rằng, “Thủy quản tài” nên trong khuôn viên vườn nên bố trí thủy cảnh, thác nước, dòng suối, hồ để thu hút tài lộc, thúc giục tài vận. Nhưng việc sử dụng Thủy nhân tạo trong phong thủy cũng phải hết sức thận trọng kẻo cát hóa hung.  
Ung dung thuyet Am - Duong trong phong thuy san vuon hinh anh 2
 
Những nơi có nguồn nước tự nhiên sẵn có thì nên cải tạo và thiết kế hợp lý để dẫn vào nhà, tạo cảnh quan Thủy, như vậy có lợi hơn. Ao, hồ trong vườn cần được quan tâm chăm sóc, thường xuyên cải tạo, vệ sinh, tránh tình trạng khô cạn, ứ đọng, sinh ra âm khí, sát khí, bất lợi cho chủ nhân. 
  Một lưu ý nữa khi dựng Thủy cảnh trong vườn là phải thiết kế sao cho dòng nước chuyển động hướng vào trong nhà thì mới vượng tài, nếu nước chảy ra ngoài thì sẽ thoái tài.   Bày sập gụ trong nhà đẹp chuẩn phong thủy
Sập gụ là vật dụng phổ biến trong ngôi nhà truyền thống. Dù nay đã được thay thế bằng các loại bàn ghế kiểu hiện đại nhưng vẫn rất nhiều nhà

Các bụi cây thấp nhỏ, mọc dày dễ sinh âm khí, uế khí và kí sinh trùng mang bệnh nên thiết kế vườn cần bố trí cây cối thoáng rộng và gia chủ phải thường xuyên vệ sinh, cắt tỉa cây, giải trừ khí xấu.
  Vườn có thể mang tới cho ngôi nhà không khí mát lành và phong thủy tốt lành nếu biết cách bố trí hợp lý. Hãy biến những khoảng đất trống quanh ngôi nhà của bạn trở thành khu vườn tuyệt vời nhé.
=> Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ và phong thủy nhà ở chuẩn

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Xem tử vi đoán việc kết hôn của Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi

Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi trở thành cặp đôi hot nhất làng giải trí Trung – Hàn khi công bố chính thức hẹn hò. Cùng xem lá số tử vi dự đoán kết quả tình
Xem tử vi đoán việc kết hôn của Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi trở thành cặp đôi hot nhất làng giải trí Trung – Hàn khi công bố chính thức hẹn hò. Cùng xem lá số tử vi của cặp đôi này để dự đoán kết quả tình yêu của họ nhé.


Xem tu vi doan viec ket hon cua Song Seung Heon va Luu Diec Phi hinh anh
 
Sau dự án phim điện ảnh “Tình yêu thứ ba”, cặp đôi Trung – Hàn trở nên gắn bó và nảy sinh tình cảm. Sự kiện này đã khiến giới showbiz của cả hai sôi sục, những thông tin của hai diễn viên được cập nhật trên từng cây số.    Bát tự của Song Seung Heon là ngày Canh Dần, tháng Đinh Dậu, năm Bính Thìn. Đại vận sắp xếp 1 tuổi Mậu Tuất, 11 tuổi Kỷ Hợi, 21 tuổi Canh Tý, 41 tuổi Nhâm Dần, 51 tuổi Quý Mão.   Đường quan lộ của chàng diễn viên điển trai tiềm tàng sát khí, Đinh Hỏa dưới Bính Hỏa. Mà Thất Sát tinh thì thường gặp thị phi, bàn tán, bất lợi trong tình cảm. Thất Sát không sợ Nhâm Thủy, Quý Thủy khắc, quan tinh lại sợ Thương Quan phá. Cho nên, có thể nói là chuyện trước tốt sau xấu.    Sinh vào ngày Canh Dần tháng 8 (âm lịch), thần Thổ nảy sinh, hiển nhiên là Thân vượng, chẳng sợ giờ sinh rơi vào Nhâm Ngọ, chỉ cần dựa vào Thân vượng để luận mệnh. Thân vượng thì tốt cho đường quan vận, tài lộc, chỉ cần thận trọng lời nói. Cũng có thể lợi dụng Thực Thương đại vận để phát triển vì Hợi Tý Thủy nuôi dưỡng Dần Mộc, lợi cho cầu tài, cầu học vấn.
Bát tự của Song Seung Heon không phải là vận mệnh của người đại phú đại quý vì thiếu Quan Sát tinh. Thêm vào đó, Bính Đinh Hỏa vào mùa thu bị vây hãm, bị thần Thổ hút hết nguyên khí nên không đủ sức mạnh. Mà tài tinh dừng ở cung Phu Thê, không thể trợ lực cho Bính Đinh Hỏa, quan hư tài nhược, phải dựa vào Dần Mộc hỗ trợ Quan Sát mới có thể phát triển.   Bát tự này là người lấy được vợ hiền hoặc vợ giúp đỡ cho chồng. Nhưng khuyết điểm là ngày Canh Dần, người đàn ông chí khí mạnh, chủ nghĩa gia trưởng lớn, khá bảo thủ trong gia đình.   Đại vận 31 tuổi của anh chàng có Hợi Tý Thủy vượng, nhận được trợ giúp nhiều. Từ năm 31 tuổi tới giờ, thuộc Tân Sửu đại vận, sự nghiệp uể oải, không có gì phát triển, tình hình tài chính cũng không mấy khả quan. Nói cách khác, trước mắt chàng diễn viên gặp vấn đề rắc rối về tiền bạc.   Điểm tốt là diễn viên họ Song vẫn giữ vững phong độ, ý thức tự chủ cao. Nhất là người sinh vào ngày Canh Dần rất tốt tính, hiểu lợi, hại cho mình, làm việc rõ ràng, dứt khoát, cầm được thì cũng buông được. Đích thực là một người có phong độ đàn ông.   Hai năm gần đây, vận thế của Song Seung Heon có chút khởi sắc. Nhất là năm 2014, năm Giáp Ngọ Mộc Hỏa vượng, phù trợ cho cục tài quan. Trước mắt, tiến tới vận Nhâm Dần, Dần Mộc tài tinh đúng chỗ, Nhâm Thủy không để ý tới Bính Hỏa và Đinh Hỏa, cùng hợp mà hóa khí, nặng về cầu tài cầu hòa.   Nói cách khác, quan trọng việc kiếm tiền và trở nên thực tế hơn. Nhất là hai năm 2014 và 2015 đều là Giáp Ất Mộc tài tinh xuất hiện, có nhiều cơ hội tăng tài. Năm Ất Mùi Chính Tài tinh lâm cung, mối quan hệ tình cảm cực kì thân cận, tựa như vợ chồng.

Soi bát tự dự đoán tình cảm của cặp đôi Trần Hiểu và Trần Nghiên Hy
Trần Hiểu và Trần Nghiên Hy nên duyên sau khi tham gia bộ phim Tân Thần Điêu Đại Hiệp. Cùng xem bát tự của cặp đôi này để biết họ có thể duy trì tình cảm lâu
Lưu Diệc Phi sinh ngày 25 tháng 8 năm 1987, hứa hẹn đoạn tình cảm này sẽ phát triển rất nhanh chóng. Duy có một điểm, là sang năm 2016 Bính Thân, Thân Kim gặp Tỷ Kiếp ở cung Phu Thê Dần Mộc, mà Bính Hỏa trong đại vận Nhâm Thủy không hợp, thuộc loại đại vận Thiên Địa khắc chế, chuyện tình cảm vì vướng mắc kinh tế mà xung đột.   Ở thời điểm mấu chốt, Song Seung Heon có thể vì khó khăn tài chính mà ảnh hưởng tới tình yêu cùng hôn nhân. Cụ thể, dự đoán trước ngày 1/5/2016, chuyện xấu sẽ bay tới liên tiếp.   Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi nhận được nhiều sự ủng hộ và chúc mừng từ người hâm mộ. Bát tự cũng chỉ ra rằng, họ khá có duyên với nhâu, nếu biết cách hạn chế xung đột, giải quyết vấn đề cá nhân, thì có thể tiến tới hôn nhân.
► Xem bói tử vi 2016 để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Trần Hồng (Theo 14944)

Xem Clip Lỗi phong thủy chung cư nhất thiết phải tránh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi đoán việc kết hôn của Song Seung Heon và Lưu Diệc Phi

Giải mã giấc mơ thấy nước –

Ngủ nằm mơ thấy nước là điềm may mắn. Nước thể hiện sự tinh tinh khiết trong sáng, xen lẫn các yếu tố mạnh mẽ đan xen vào những nguy hiểm được dự báo trước qua giấc mơ thấy nước . Vậy sự may mắn hay những nguy hiểm ấy là gì? đã có nhiều bạn thắc mắc
 Giải mã giấc mơ thấy nước –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy nước –

Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 2)

Những tiết khí cuối cùng của năm đang đến gần, báo hiệu năm 2016 qua nhanh. Cùng điểm vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn để kết thúc năm trọn vẹn
Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những tiết khí cuối cùng của năm đang đến gần, báo hiệu năm 2016 qua nhanh. Cùng điểm vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn để kết thúc một năm thật may mắn, trọn vẹn.


Du bao van trinh cua 12 chom sao trong tiet Tieu Han phan 2 hinh anh 2
 
 

Thiên Bình

  Vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn, công việc của Thiên Bình phát sinh nhiều chuyện nhỏ, nhất là về tài chính, gây tranh cãi khiến bạn không thể giữ được vẻ bình tĩnh, ôn hòa như bình thường. Tiêu pha nhiều khoản khiến Thiên bình đứng ngồi không yên.   Về phương diện tình cảm Thiên Bình ngày trước khá bị động thì nay đã chủ động thể hiện thái độ của mình, nhiệt tình hơn rất nhiều. Lưu ý, nếu bạn cảm thấy đối phương có điểm không hợp và muốn cải tạo thì lời khuyên là không nên ảo tưởng.   

Hổ Cáp

  Hổ Cáp không có thời gian để thử vì công việc quá nhiều, hành hạ người ta đến sống dở chết dở. Không chỉ bận vì công việc chính, Hổ Cáp còn bị quấy rầy bởi những việc ngoài lề như xã giao, tụ tập nên mệt càng thêm mệt. Nếu không kiên trì được bạn sẽ mắc sai lầm.   Tình cảm là nơi nương tựa để Hổ Cáp ít nhiều cảm thấy dễ chịu hơn. Nếu đã chân thành và thấu hiểu nhau, hai bạn có thể tính tới chuyện kết hôn. Cơ hội của người độc thân cũng không ít, cần chủ động nắm bắt.  

Nhân Mã

  Thời kì này Nhân Mã vui mừng tiến vào quan lộ hanh thông. Cấp trên ưu ái, thu nhập có hi vọng tăng cao, thăng chức không phải việc xa vời Tâm tình của bạn cũng đã bay tới kì nghỉ lễ nhưng vì bận rộn nên vẫn chưa thể nghỉ ngơi, còn phải cố gắng thêm một thời gian nữa.   Ái tình và sự nghiệp song hành, đôi bên hòa hợp, nguyện vì nhau mà điều chỉnh. Chuyện đã qua không lưu luyến, chuyện đang tới vui vẻ đón chờ, Nhân Mã đúng là chòm sao rất lạc quan và tươi vui.
Du bao van trinh cua 12 chom sao trong tiet Tieu Han phan 2 hinh anh 2
 

Ma Kết

  Vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn, Ma Kết vốn đã quen với việc lao lực, làm việc quá độ nhưng điều đó không tốt cho sức khỏe của bạn, Thời gian tới, các hoạt động giải trí ảnh hưởng khiến Ma Kết không tập trung vào công việc.   Tình bạn chuyển hóa thành tình yêu, ai không thể chứ Ma Kết rất có thể. Trải qua một quá trình bên nhau, cùng chia sẻ quan điểm, thói quen, sở thích, hai bạn sẽ dễ chung đường và tạo thành một mối quan hệ bền vững.  

Bảo Bình

  Nghênh tiếp thời gian tiền tiêu như nước đi nào Bảo Bình. Dùng tiền để thỏa mãn những thú vui của mình không đáng trách nhưng bạn phải cân nhắc vì gần Tết có rất nhiều khoản cần chi tiêu. Nên có kế hoạch rõ ràng và dành riêng một phần cho những việc phát sinh.   Tình cảm chỉ tiến không lui, ở bên nhau như cá gặp nước. Bảo Bình có khoảng thời gian cuối năm nhiều niềm vui và cảm thấy dễ chịu. Tuy nhiên, Bảo Bình nữ có thể phát sinh tranh cãi với nửa kia vì vấn đề kinh tế.  

Song Ngư

  Cuối năm đối với nhiều người là thời gian nghỉ ngơi nhưng lại là lúc Song Ngư bắt đầu triển khai những kế hoạch mới mẻ, táo bạo. Công tác biến động, cơ hội kiếm tiền rõ ràng nhưng bạn sẽ mất nhiều công sức và thời gian hơn.   Tình cảm ít hi vọng hơn, tuy rằng cơ hội cũng có nhưng để tiến xa hơn thì rất hạn hẹp. Dù sao thì Song Ngư cũng chưa vội vàng, bạn thích tình cảm đến tự nhiên, không sắp đặt và là sự rung động từ con tim.
Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 1)
Điểm vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn từ ngày 6 tháng 1 đến 21 tháng 1. Hãy theo dõi để biết mình gặp may rủi, hay dở thế nào trong khoảng thời

Tâm Lan 


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 2)

Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Bát tự có Tài vượng có đồng nghĩa với việc tiền tài dồi dào, phúc lộc đầy đủ hay không? Hãy cùng ## tìm hiểu về trường hợp tử vi này.
Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự có Tài vượng có đồng nghĩa với việc tiền tài dồi dào, phúc lộc đầy đủ hay không? Hãy cùng ## tìm hiểu về trường hợp tử vi này.


Bat tu Tai vuong co phai la so menh phat tai hinh anh
 
 1. Tài tinh và tài khố có mối liên hệ với nhau nhưng Tài tinh không phải tài khố nên bát tự Tài vượng chưa chắc là tài lộc đã tốt. Hơn nữa, xem bát tự còn phải căn cứ vào thuộc tính ngũ hành. Nếu Mộc là Tài tinh thì Mùi Thổ là tài khố, Kim là tài tinh thì Sửu Thổ là tài khố, Thủy là Tài tinh thì Thìn Thổ là tài khố, Hỏa là tài tinh thì Tuất Thổ là tài khố, nếu Thổ là Tài tinh thì Tuất Thổ là tài khố.   2. Mệnh chủ có phát tài hay không được quyết định bởi mệnh cục có Tài tinh đắc dụng hay không. Tài tinh đắc dụng hay không phải xem quan hệ giữa Tài tinh và tài khố là thuận hay nghịch, là sinh hay khắc.
Thế nào là mệnh cục hình khắc cha mẹ? Bát tự hòa hợp, hôn nhân như ý Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Kim là Tài, tài tinh là Kim đắc dụng, Sửu Thổ là tài khố, Thổ sinh Kim, tài khố sinh dụng thần Tài tinh nên lá số tử vi có tài lộc dồi dào.
  Mộc là Tài, tài tinh Mộc đắc dụng, Mùi Thổ là tài khố, Mộc khắc Thổ, Thổ háo Mộc nên tài khố tổn thương dụng thần tài tinh, số mệnh bất lợi đường tiền tài.
Bat tu Tai vuong co phai la so menh phat tai hinh anh
 
Thủy là Tài, Tài tinh Thủy đắc dụng, Thìn Thổ là tài khố, Thổ khắc Thủy, tài khố khắc dụng thần Tài tinh nên không có lợi cho tài lộc.
  Hỏa là Tài, Tài tinh là Hỏa đắc dụng, Tuất Thổ là tài khố, trong Thổ có Hỏa, trong Hỏa có Thổ, tài khố hóa tiết dụng thần Tài tinh nên không có lợi về tài lộc.   Thổ là Tài, Tài tinh là Thổ đắc dụng, Tuất Thổ là tài khố, Thổ vượng thì tài khố giúp đỡ Tài tinh, dụng thần được trợ giúp nên có lợi cho tài vận của bản mệnh.
Hướng dẫn 5 bước cơ bản để tự xem bát tự luận số mệnh Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Con giáp sẵn sàng 'vung tay quá trán' vì người yêu

Trong tình yêu, những chàng tuổi Thân, Mùi, Dậu chẳng tiếc bất kỳ điều gì để nửa kia được vui vẻ. Do vậy, họ sẵn sàng chi mạnh tay cho mỗi lần hẹn hò với gấu .
Con giáp sẵn sàng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Anh chàng tuổi Thân

Đặc điểm dễ nhận thấy ở những anh chàng tuổi Thân là nhiệt tình, tự tin, có tinh thần trách nhiệm với công việc. Trong cuộc sống, họ lãng mạn, không câu nệ tiểu tiết và vô cùng hào phóng.

Than-4117-1430064761.jpg

Trong mắt họ, tiền bạc vật chất chỉ là vật ngoài thân, tình cảm con người mới chính là yếu tố gắn kết bền vững. Với bạn bè, chàng tuổi Thân không bao giờ tính toán thiệt hơn huống chi là nửa kia của mình. Họ sẵn sàng rút hầu bao để chiều theo sở thích của người yêu mà không một lời ca thán.

Anh chàng tuổi Mùi

Những chàng trai tuổi Mùi điềm tính, khoan dung và vô cùng thủy chung trong tình yêu. Họ sẵn sàng hy sinh cả bản thân chứ không riêng về tiền bạc cho ý chung nhân của đời mình.

Mui-3343-1430064762.jpg

Người tuổi Mùi có thói quen tiêu tiền phóng khoáng đồng thời cũng cật lực kiếm tiền để không bao giờ rơi vào tình trạng “viêm màng túi”. Dù đối phương có đòi hỏi vấn đề vật chất đến đâu, chàng tuổi Mùi vẫn vui vẻ đáp ứng vô điều kiện.

Anh chàng tuổi Dậu

Tính cách con trai tuổi Dậu thẳng thắn, quyết đoán và rất coi trọng tiền tài, danh vọng. Họ biết cách tiêu tiền đúng mục đích và không bao giờ “vung tay quá trán”. Tuy nhiên, khi đã rơi vào lưới tình, thói quen của họ biến mất lúc nào không hay.

Dau-3108-1430064762.jpg

Với người yêu, anh chàng tuổi Dậu sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp mà bản thân đã tốn bao công sức gây dựng. Trong mắt họ, chỉ cần đối phương cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc là được, bản thân họ vất vả ngang dọc ra sao cũng chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp sẵn sàng 'vung tay quá trán' vì người yêu

Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi

Tính cách người mệnh Thủy được xem là hiền hòa nhất trong cách mệnh. Tuy nhiên, đừng chọc giận họ nếu không bạn sẽ nhìn thấy con người hoàn toàn khác của họ.
Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính cách người mệnh Thủy được xem là hiền hòa nhất trong các mệnh. Tuy nhiên, đừng chọc giận họ nếu không bạn sẽ nhìn thấy con người hoàn toàn khác của họ.     

Đặc điểm người mệnh Thủy

  Người mệnh Thủy có khuôn mặt phổ biến là tròn trịa, ngũ quan đầy đặn rõ ràng, cơ thể tròn đầy, dáng người hơi thấp, chân tay ngắn, sắc da vừa phải, dáng đi chậm, nam giới thường bụng to.   Những người mệnh Thủy có tay chân lạnh, bụng, eo hoặc đầu gối cũng lạnh. Vì thế, họ thường phải mặc nhiều quần áo hơn những người khác để giữ ấm. 
 
Người mệnh Thủy thường không thích cái lạnh của mùa Đông vì cơ thể họ thường giữ lạnh hơn cơ thể người khác. Mùa Hè họ cũng không thích ngồi trong phòng điều hòa, 
 
Tính cách nổi bật của người mệnh Thủy là thông minh, thẳng thắn và dí dỏm. Họ có khả năng ghi nhớ rất tốt, họ luôn cân nhắc cẩn thận trước khi nói và hành động nên tạo cảm giác là người bí ẩn, thâm ý. Tuy nhiên, tính cách bên trong họ là hòa đồng, cởi mở.
 
Có hai loại nước, nước chảy và nước tĩnh. Những người mang tính cách của nước chảy tích cực, năng động, bận rộn hơn nên họ cũng hay trong tình trạng bồn chồn, sốt ruột hơn. Ngược lại, những người mang tính cách của nước tĩnh, họ tương đối bình tĩnh, cuộc sống thanh bình, không thích đối đầu.
 
Với những người mang nhiều năng lượng Thủy là người rất thông minh, tháo vát, có phần xảo quyệt, phức tạp. Họ thích các hoạt động hoặc di chuyển xung quanh, muốn có đời sống tình cảm phong phú.    Người mệnh Thủy có thể có rất nhiều ước mơ nên mục tiêu của họ thường không rõ ràng và hay thay đổi mục tiêu trong cuộc sống. Họ cũng có xu hướng chỉ quan tâm đến bản thân và nếu có chút tò mò với thế giới bên ngoài họ cũng không mấy để tâm quá lâu.  
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh
 

Tính cách người mệnh Thủy



Có thể tóm tắt ngắn gọn tích cách người mệnh Thủy là “người có lòng tốt tuyệt vời” tuy nhiên nếu họ là người xấu thì cực kỳ khó lường giống như tính chất của nước.

Nước có sức ảnh hưởng tới mọi thứ, khi tích cực, nước nuôi dưỡng và hỗ trợ mọi vật còn khi tiêu cực thì nước có thể làm hao mòn hoặc nhấn chìm mọi thứ mà nó đi qua. Người mệnh Thủy cũng có tích cách tương tự, vì thế, nên khéo léo khi nói chuyện hoặc tiếp xúc với những người này.
  Phụ nữ mệnh Thủy yếu đuối, mỏng manh và ngọt ngào. Đàn ông mệnh Thủy dễ thay đổi thường là người hướng nội. 
 
Nước có thể nuôi dưỡng tất cả muôn loại nhưng nếu nó trở thành mưa bão thì có thể nhấn chìm mọi thứ. Vì thế, người mệnh Thủy cũng có tính cách tương tự. Tuy tốt bụng là thế nhưng nếu trong tình huống xấu những người này bỗng trở nên nham hiểm, mất bình tĩnh. Vì vậy, một người như vậy, nếu có tâm địa xấu sẽ rất mưu mô và thích tranh giành quyền lực.
 
Theo tử vi, mặc dù những người mệnh Thủy không thành công rực rỡ nhưng nếu kiên trì họ cũng đạt kết quả như mong đợi. 
 
 
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh 2
 

Sự nghiệp người mệnh Thủy
 

Nên chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người. Với tính cách người mệnh Thủy linh hoạt, thích nghi với hoàn cảnh một cách dễ dàng nên họ thường là những người có khả năng giao tiếp tốt, họ rất có tài ngoại giao và thuyết phục người khác. 
 
Họ cũng là người khá nhạy cảm với tâm trạng của người khác nên họ sẵn sàng trở thành người lắng nghe tâm tư của mọi người. Họ uyển chuyển và dễ thích nghi với môi trường mới, họ nhìn sự vật theo hướng tổng thể nên sự đánh giá của họ về một chuyện gì đó khá chính xác. Khi đi làm việc hoặc gặp đối tác họ có thể chọn trang phục màu xanh nước biển vì đó là một trong những màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thủy.    Những người mệnh Thủy đề cao vấn đề đạo đức, vì thế, họ hợp những công việc về từ thiện, bác sĩ, giáo viên, y tá và các ngành nghề liên quan khác. 
Tuy nhiên, nếu họ dựa trên sự tin tưởng của người khác để làm điều ác thì thiệt hại rất lớn, khó có thể giải quyết.
 
Nơi công sở, nếu là sếp, họ là người quản trị tốt nhờ phong cách quản lý linh hoạt. Do đó, cấp dưới nể phục vì sự khéo léo của họ. Tuy nhiên, mặt trái của sự linh hoạt này là khiến cho mọi người cảm thấy rằng họ không có lòng dũng cảm khi đối mặt với vấn đề gì đó.
 
Những người mệnh Thủy có khả năng đưa ra mưu lược, người tham mưu tính toán giỏi. Vì vậy, đối với các công ty quan trọng việc lập kế hoạch, tư vấn sức khỏe và những gì liên quan có thể ưu tiên chọn họ cho những vị trí này.
 
Nước chảy chỗ trũng và đây là lý do sự nghiệp của họ khó có thể lên cao được vì họ hướng về vị trí thấp hơn. Từ việc phân tích các nguyên nhân của việc theo đuổi, sẽ đi lạc lối, tạo nên trở ngại lớn, cản bước tiến của họ. Hơn nữa, với người đa cảm, dễ mủi lòng như người mệnh Thủy nếu họ tham gia kinh doanh sẽ có rất ít cơ hội thành công.     
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh 3
 

Hôn nhân gia đình người mệnh Thủy
 

Những người phụ nữ mệnh Thủy có tính cách nhẹ nhàng, tinh tế vì họ là phụ nữ quyền năng nhất trong các mệnh vì sự khéo léo của mình. Người đàn ông của họ có cảm giác yên tâm khi nhà cửa ấm êm, chan hòa. Những người đàn ông có tính tình cứng nhắc nên chọn vợ mệnh Thủy vì chỉ có họ mới khiến cái tôi của những người này không có cơ hội xuất hiện. Phụ nữ mệnh Thủy chắc chắn sẽ là người mẹ, người vợ tốt vì bản năng trong họ sẵn sàng hi sinh tất cả cho gia đình và con cái.
 
Đàn ông mệnh Thủy có tính cách mạnh mẽ và là người tình cảm nên vợ sẽ cảm nhận được hạnh phúc của sự che chở. Đàn ông mệnh Thủy rất yêu thương các con của mình và đối với họ gia đình là trên hết.   Những người mệnh Thủy khi lựa chọn tình duyên cho cuộc đời của mình thì cần phải xét đến những cung mệnh khác nhau. Đại hải thủy (nước biển), Thiên hà thủy (nước trên trời) không sợ Thổ dù cho Thổ khắc Thủy vì đất không ở biển hay trên trời, nếu phối hợp cùng Thổ thì sẽ nhanh chóng thành công, vợ chồng dễ hiển đạt đường công danh phú quý.

Trường lưu thủy (sông dài), Giang hà thủy (sông cái), Tuyền trung thủy (nước suối), Đại khê thủy (nước khe) đều kỵ với Thổ vì đất sẽ ngăn chặn sự phát triển của nước, nếu kết hợp lại với nhau sẽ vất vả, đời sống thiếu thốn, khó phát triển lên được.
 
Theo Ngũ hành tương sinh thì Kim sinh Thủy nên mệnh hợp với Thủy chính là mệnh Kim. Những người mệnh Thủy nên lựa chọn hợp tác làm ăn hay nên duyên vợ chồng cùng những người mệnh Kim thì sẽ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống. Theo Ngũ hành tương khắc thì Thổ khắc Thủy, đất có thể hút nước làm tiêu hao nước hay đất đá có thể ngăn chặn dòng chảy của nước.

Tuy mệnh xung khắc như trên nhưng không phải là hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Nếu muốn biết hai vợ chồng có khắc mệnh nhau hay không thì cần phải xem xét hành của mỗi người, ví dụ như mệnh Thiên Hà Thủy (nước trên trời) sẽ không sợ gặp Thổ, còn các hành thuộc mệnh Thủy khác đều kỵ Thổ. 
 
Ngoài ra, để may mắn hơn trong công việc và hôn nhân, bạn nên tìm hiểu mệnh Thủy hợp cây gì để tài lộc chạy vào nhà.
 

Những bệnh thường gặp người mệnh Thủy

  Người mệnh Thủy thường thiếu năng lượng dương nên dễ bị ớn lạnh. Muốn chữa bệnh nên bổ sung dương khí. 
 
Đặc điểm chung của những người mệnh Thủy là có chiều cao trung bình, rất ít người đàn ông vạm vỡ, cao lớn, cơ bắp không săn chắc nếu không muốn nói là cơ mềm.   Cơ thể dễ dàng lưu trữ chất béo, gây béo phì. Nếu ăn nhiều trái cây, chua, ngọt, thức ăn lạnh sẽ dễ tăng cân hơn những người bình thường khác. Đối với một người như vậy để giảm cân nếu bạn ăn thuốc nhuận tràng, châm cứu sẽ hiệu quả hơn. Nếu bạn điều chỉnh chế độ ăn uống, kết hợp với tập thể dục thích hợp, sẽ duy trì cơ thể khỏa mạnh.

Người mệnh Thủy cần chú ý phương diện thận cùng bàng quang xuất hiện bệnh tật. Đồng thời cũng phải chú ý thêm não cùng hệ thống bài tiết.

HaTra

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
Tính cách người mệnh Kim: Thích lãnh đạo, có tầm nhìn xa trông rộng Tính cách người mệnh Hỏa: Sáng tạo và kiêu ngạo
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd