Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Mẫu người Đa Tài Đa Năng

Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ.
Mẫu người Đa Tài Đa Năng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ sẳn rồi.  
 
Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần.  
 
Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang Hổ.  
 
Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư…thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…Riêng với nữ mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử cung, buồng trứng…Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này mới giảm dần.  
 
Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường phát về võ nghiệp.  
 
Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ đón. Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương.  
 
Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão Dậu.  
 
Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu) có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương…  
 
Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh.  
 
Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh.  
 
Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.  
 
“Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu”  
 
Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Đa Tài Đa Năng

Lên mạng tìm tình

Tôi có một cô bạn người Nhật trẻ trung, xinh xắn, thông minh, tính tình dễ thương. Tóm lại là ‘hết chỗ chê’ và lại đang ở độ tuổi cặp kê nữa chứ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ấy thế mà Reiko vẫn còn độc thân giữa London, sau hơn một năm dọn đến đây từ Tokyo. Thế là cô quyết định lên mạng tìm tình yêu cho mình.

Reiko không phải là trường hợp ngoại lệ. Theo số liệu của công ty theo dõi thông tin internet comScore, hiện trên thế giới có gần 10% công dân mạng, tương đương với khoảng 136,642,986 người, đang tích cực sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng với mong mỏi tìm được tình yêu.

Tại Việt Nam, dù còn mới nhưng đã có hơn 7% công dân mạng, tương đương với hơn một triệu người, đang sử dụng dịch vụ tình ảo này.

Tôi tự hỏi, giữa biển người bao la kia và với hơn 1000 trang hẹn hò đủ chủng loại thượng vàng hạ cám có chi nhánh lan rộng toàn cầu, làm sao mà cô bạn Reiko của tôi tìm được tình yêu của mình?

Trang nào trong số đó đáng tin cậy, hiệu quả nhất trong việc cung cấp dịch vụ giới thiệu – mai mối? Liệu trong tương lai, việc lên mạng tìm tình yêu có trở thành một trào lưu không thể đảo ngược không?

Yêu như là mua



Các trang mạng hẹn hò là lĩnh vực kinh doanh béo bở trị giá cả tỷ đô la mà vẫn còn khá mới mẻ."

Tôi phỏng vấn cô Dawn Shepherd, chuyên gia nghiên cứu về đề tài công nghệ giới thiệu – mai mối trên các trang mạng hẹn hò, đồng thời là giáo sư trợ giảng tại trường đại học Boise, bang Idaho, Hoa Kỳ.

Để phục vụ cho dự án nghiên cứu của mình, cô Dawn đã ‘xâm nhập thực tế’ bằng cách đăng ký tài khoản cá nhân trên các trang mạng hẹn hò nổi tiếng của Mỹ: Match.com, eHarmony, và OKCupid. Cô giải thích:

“Sở dĩ có tình trạng trăm hoa đua nở trên các trang mạng hẹn hò như hiện nay là vì đây là lĩnh vực kinh doanh béo bở trị giá cả tỷ đô la mà vẫn còn khá mới mẻ. Kể từ khi Match.com được thành lập từ năm 1995 đến nay, các trang mạng hẹn hò vẫn chưa tìm được công thức mai mối ‘thần kỳ’ có thể ghép đôi khá chính xác các khách hàng độc thân với nhau.

Vì vậy mỗi công ty vẫn đang tìm cách phát triển công thức ghép đôi riêng cho mình, và quảng cáo rầm rộ về tính khoa học, siêu việt của nó để chiêu dụ khách hàng.”

Cô Dawn cho biết hiện có hai cách làm mai chính trên các trang hẹn hò trên mạng. Một là ghép đôi theo kiểu Match.com, nghĩa là thu thập thật nhiều dữ liệu về hành vi hẹn hò trên mạng của khách hàng, ngầm theo dõi xem họ nhấp chuột vào những dạng hồ sơ nào, tán gẫu với ai, và dựa trên cơ sở thông tin đó sẽ gợi ý một vài mối tiềm năng phù hợp.

Theo đó, Match.com hoạt động giống như mô hình mua sắm trên mạng của Amazon.com.

eHarmony thì có vẻ ‘chuyên chế’ hơn. Họ làm mai bằng cách yêu cầu khách hàng phải điền vào hơn 200 câu hỏi đã được các chuyên gia tâm lý thiết kế nhằm xác định chi tiết cá tính, sở thích cá nhân, v.v. của khách hàng. Sau đó, trang này sẽ phân tích dữ liệu khách hàng trả lời để làm mai họ với nhau.

Giáo sư tâm lý Eli Finkel thuộc đại học Northwestern, bang Illinois, Hoa Kỳ cũng đồng ý với cách so sánh trên.

Ông nói Match.com giống như ‘siêu thị tình yêu’ cho phép người sử dụng ‘rà xem’ hồ sơ của nhau rồi tự quyết định xem ai phù hợp với mình. eHarmony thì giống như ‘cò nhà đất’, tự nhận là họ biết khá rõ hồ sơ của khách hàng và sẽ gợi ý vài mối họ cho là phù hợp.

Tôi hoang mang. Giữa hai hình thức mai mối tinh vi kể trên, làm thế nào một người sử dụng bình thường không sành công nghệ như cô bạn Reiko của tôi biết được cách nào hiệu quả hơn chứ?

Khoa học mai mối


Chủ đề 'ngày tình nhân' được thị trường khai thác mạng

Tiến sĩ Anders Sandberg, hiện đang làm việc tại Viện nghiên cứu về tương lai nhân loại tại trường đại học Oxford có câu trả lời:

“Thật ra các công ty kinh doanh dịch vụ hẹn hò trên mạng không nhất thiết phải bận tâm nhiều đến việc tìm cho ra công thức toán học hay khoa học nhằm giúp người ta tìm được tình yêu hoàn hảo đâu. Điều họ quan tâm là có được và giữ chân được càng nhiều khách hàng càng tốt trên trang của mình.”

Với đặc thù kinh doanh buôn mai bán mối, tôi thiết nghĩ các trang hẹn hò trên mạng cũng sẽ không đi xa hơn việc cung cấp một vài mối lái cho khách hàng của mình hẹn hò, gặp gỡ, rồi sau đó tự họ quyết định lấy cho mình người nào là phù hợp nhất.

Cô Dawn khẳng định: “Miễn sao người ta chịu hẹn hò, gặp gỡ nhau thì tất cả các trang mạng hẹn hò đều hiệu quả cả. Nói một cách ví von, hẹn hò trên mạng giống như đi mua sắm vậy đó. Có cả một kho hàng rất nhiều người độc thân trên đó. Người ta lướt mạng, xem xét hồ sơ cá nhân đăng tải, tán tỉnh, rồi gặp nhau ngoài đời nếu thích”.

Giáo sư Eli Finkel đưa ra lời khuyên: “Nếu bạn vẫn còn độc thân thì nên sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng để tăng cường quy mô tìm bạn của mình. Tuy nhiên, đừng quá tin tưởng vào các công thức ghép đôi mầu nhiệm mà các trang web này quảng cáo để câu khách.

Vả lại, bạn cũng đừng ngồi đó ‘rà xem’ hồ sơ ảo của những người độc thân khác mà không chịu gặp mặt họ. Trên thực tế, các công ty hẹn hò trên mạng đang chuyển hướng từ việc ghép đôi trên mạng sang việc tổ chức các buổi gặp mặt trực tiếp cho khách hàng độc thân của mình”.

Ông Eli nói tiếp: “Suy cho cùng, không có công thức toán học nào có thể tốt hơn cái công thức bạn có trong đầu của bạn cả.

Ngay cả trong tương lai, dù khoa học công nghệ có phát triển cao siêu tới đâu thì nó cũng khó có thể thay thế được phán đoán của con người trong chuyện tình cảm được”.

Tương lai tình yêu và công nghệ


Trong tương lai, người ta đi lại nhiều hơn, tình yêu sẽ trở nên toàn cầu hơn" Tiến sĩ Anders Sandberg

Theo dự đoán của Tiến sĩ Anders Sandberg, chừng 50 năm nữa thôi, người ta sẽ sử dụng công nghệ không chỉ để tìm tình yêu mà cònđể giữ lấy tình yêu nữa.Trong tương lai, người ta đi lại nhiều hơn, tình yêu sẽ trở nên toàn cầu hơn, sẽ có nhiều người quen nhau mà phải sống và làm việc xa nhau một thời gian.

Tình ảo trong tương lai sẽ được thiết kế sao cho người ta có thể tích hợp được cả cảm xúc, tương tác của mình vào trong đó. Công nghệ sẽ trở nên chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày.

Nhưng đó là chuyện tương lai.

Tối nay, sau giờ làm việc, cô bạn Reiko của tôi sẽ đi gặp người bạn trai quen trên mạng bấy lâu nay.

Cô chia sẻ với tôi: “Mình chỉ sử dụng các trang hẹn hò trên mạng này để rà tìm người thôi, nhưng chưa tin vội đâu. Phải gặp mặt ngoài đời xác minh thông tin đã. Để xem nhé”.

Vâng, để xem. Tôi đang chờ Reiko cập nhật tình hình sau ngày lễ Valentine này.


Trích từ: :BBCnews



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lên mạng tìm tình

Luận giải cát hung qua sắc khí trên mặt tương ứng 4 mùa

Quan sát sắc khí trên mặt mỗi người tương ứng với 4 mùa trong năm sẽ phần nào luận giải được vận hung cát của mỗi đời người.
Luận giải cát hung qua sắc khí trên mặt tương ứng 4 mùa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Quan sát sắc khí trên mặt mỗi người tương ứng với 4 mùa trong năm sẽ phần nào luận giải được vận hung cát của mỗi đời người.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình
  Trong sách Hựu Tập Giải có viết: Xem sắc khí bốn mùa của con người chủ yếu xem 5 màu xanh da trời, vàng, đỏ, trắng và đen. Đây cũng chính là khí của bốn mùa. Khi chúng hiển thị trên da gọi là màu da, ẩn ở trong da là khí. Quan sát sắc khí trên mặt con người tương ứng với 4 mùa trong năm sẽ phần nào luận giải được vận hung cát của mỗi người. 

 

Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 

Mùa Xuân – Xem hai gò má

  Trong thời gian 3 tháng của mùa Xuân, sao Mộc ở phía Đông, thuộc Giáp Ất, tương ứng với nó là vị trí xương gò má trên khuôn mặt.  
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Theo quan điểm nhân tướng, vị trí này có sắc xanh da trời được coi là vượng tướng, quý tướng. Nếu là sắc đỏ, báo hiệu buồn trước vui sau. Nếu là màu trắng, dễ gặp họa liên quan đến tù tội. Màu vàng nâu khó tránh hung họa.    Ngoài ra, còn quan điểm cho rằng, hai gò má tương ứng với Chu Tước và Huyền Vũ, nếu có màu đen sẽ bị phá tài, có sắc đỏ gặp họa kiện tụng.   

Mùa Hè – Xem sắc khí trán

  Ở ba tháng mùa Hè, sao Hỏa nằm ở phía Nam, thuộc Bính Đinh. Thời gian này xem trán có màu đỏ được coi là vượng tướng, mang tới điều cát lành. Tuy là quý tướng, nhưng trước đó bản mệnh cũng trải qua thị phi, kiện tụng rồi mới yên ổn.   
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Nếu sắc khí trán có màu trắng thì gặp cát lợi trước, hung họa sau. Nếu xuất hiện màu vàng thì hung họa trước, cát lành sau. Nếu là sắc khí màu xanh, vận mệnh gặp hung họa, chủ động đề phòng.   Theo một lý giải khác, mùa Hè có Hỏa là chính sắc, nếu xuất hiện màu đỏ sẽ không có phương hại, nhưng kỵ nhất màu đen quá nặng, bởi vì nó thuộc Nhâm Quý Thủy ở phía Bắc, sẽ tương khắc.

Nếu hiển lộ màu tía sẽ gặp tai họa không thể lường trước trong kiện tụng và gây phá tài. Nếu phần giữa 2 mắt, lông mày và giữa Pháp lệnh có sắc khí tối, bảm mệnh dễ gây ra chuyện thị phi hoặc người nhà sẽ có bệnh. Ngoài ra, nếu hai bên cánh mũi có màu đen tía, báo hiệu bệnh về máu.

5 tướng mặt có cát tinh che chở năm 2016 Chỉ ra tướng mặt người nghèo khó và cách thoát nghèo 3 giây để nhận ra tướng mặt người được phúc đức bao bọc suốt đời

 

Mùa Thu – Xem màu sắc ở gò má trái

  Khoảng thời gian 3 tháng mùa Thu, sao Kim ở phía Tây, thuộc Canh Tân, tương ứng với gò má trái. Nếu vị trí này có màu trắng, được coi là cát lành, chủ nhân khổ trước sướng sau, trước gặp chuyện buồn sau đón chuyện hỷ.   
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Nếu xuất hiện màu xanh thì bản mệnh sẽ gặp họa ngục tù, thị phi, nhiều tai họa bất ngờ. Nếu có màu đỏ sẫm chủ đoản mệnh, sức khỏe giảm sút, dễ mắc trọng bệnh.   Theo lý giải khác, mùa Thu lấy trắng làm màu chủ đạo, vì thế kỵ nhất là quá đỏ, bởi vì đỏ là Hỏa, như vậy Hỏa khắc Kim, không thuận.  

Mùa Đông – Xem sắc khí cằm

 
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Giai đoạn 3 tháng mùa Đông có sao Thủy ở phía Bắc, thuộc Nhâm Quý, tương ứng với vị trí của cằm trên khuôn mặt. Nếu vị trí này có màu đen thì được coi là tướng. Tuy vậy, chủ nhân cũng lao đao một phen, trước vất vả, sau mới sướng. Tại đây, nếu có màu vàng đỏ sẽ có phát sinh hung họa. Nếu có sắc khí màu trắng báo hiệu đoản mệnh.   Mùa Đông lấy đen làm màu sắc chủ đạo, kỵ nhất là màu vàng của Thổ, vì Thổ khắc Thủy. Nếu cằm có màu đen vàng thì không chỉ chủ nhân tướng mạo này mà cả người trong nhà sẽ khốn đốn, trắc trở, có thể sẽ mắc trọng bệnh.   Nam Anh   Chỉ ra khuôn mặt của đệ nhất đàn ông sợ vợ
Đàn ông sở hữu tướng mặt mà lông mày rậm, trùm xuống sát mắt, không những hết lòng hết dạ vì vợ con mà còn rất sợ vợ, thậm chí chỉ cần thấy vợ nổi giận là sợ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải cát hung qua sắc khí trên mặt tương ứng 4 mùa

Top 3 con giáp có cuộc sống tốt đẹp theo thời gian

Thế mới nói, người tuổi Thìn chính là con giáp có cuộc sống tốt đẹp theo thời gian. Bởi chính họ làm chủ cuộc sống của mình.
Top 3 con giáp có cuộc sống tốt đẹp theo thời gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ai ai cũng có ước mơ giàu sang phú quý. Thay vì chỉ ngồi mơ tưởng hão huyền, những con giáp dưới đây làm việc cật lực, phấn đấu không ngừng nghỉ để có được điều đó. Chính vì thế, cuộc sống của họ ngày càng trở nên tốt đẹp, hạnh phúc.
 

Thói quen kỳ quặc của 12 con giáp Nếu buồn bã, hãy gặp những con giáp này là vui ngay
1. Tuổi Thìn   Lạc quan, phóng khoáng là những gì mọi người thấy được ở người tuổi Thìn. Dù đôi lúc vẫn hành sự thiếu thận trọng, cao ngạo, bướng bỉnh khiến không ít người xung quanh phiền lòng, nhưng khi đã hạ quyết tâm làm gì đó, họ sẽ nỗ lực hết mình, bất chấp khó khăn, hiểm nguy.  
Top 3 con giap co cuoc song tot dep theo thoi gian hinh anh 2
 
Một khi mục tiêu đã được chinh phục, niềm tự hào dâng trào trong họ, mọi vất vả, khổ cực trong quá khứ đều được đền đáp xứng đáng.    Trái tim của người tuổi Thìn cũng dễ xúc động, chẳng cương nghị như biểu hiện bên ngoài thường thấy. Họ cũng dễ thỏa lòng với những niềm vui nho nhỏ. Thế mới nói, đây chính là con giáp có cuộc sống tốt đẹp theo thời gian. Bởi chính họ làm chủ cuộc sống của mình chứ không phải dựa dẫm vào người khác.   12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Dần 5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan Chàng trai tuổi nào lấy mẹ làm tiêu chuẩn để chọn vợ? Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng thị phi
2. Tuổi Tuất
  Ai ai cũng có ước mơ giàu sang, nhưng có người chỉ nói mà chẳng thể biến điều đó trở thành hiện thực. Riêng người tuổi Tuất lại khác biệt. Khi đã nhắm đúng mục tiêu, cuộc sống của họ trở nên hanh thông hơn bao giờ hết. Họ vững vàng niềm tin, cứ tiến thẳng về phía trước, không điều gì có thể ngăn cản được.  
Top 3 con giap co cuoc song tot dep theo thoi gian hinh anh 2
 
Người tuổi Tuất chất phác, sở hữu tấm lòng khoan dung lớn, lại không có quá nhiều dục vọng, nên cuộc sống của họ luôn giản dị, không cần phô trương mà vẫn hạnh phúc viên mãn.    Cuộc sống là phải cạnh tranh, bởi có cạnh tranh mới có sự phát triển. Nhưng cách cạnh tranh của con giáp này rất công bằng, khiến ai nấy đều nể phục. Dựa vào uy tín được xây dựng lâu năm, họ làm gì cũng thuận buồm xuôi gió, chất lượng cuộc sống cứ thế mà thăng cấp thôi.   Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới? Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật? 3 con giáp sinh ra đã mang mệnh phú quý hơn người
3. Tuổi Mão
  Trong 12 con giáp, có lẽ người tuổi Mão có lối tư duy lạc quan nhất. Dù trải qua không ít thăng trầm về cả sự nghiệp và tình yêu, nhưng người ta vẫn luôn thấy nụ cười rạng ngời trên môi họ.   
Top 3 con giap co cuoc song tot dep theo thoi gian hinh anh 2
 
Tuổi Mão vốn dĩ là người sống thiên về tình cảm, coi nhẹ vật chất. Trong tình yêu, dù có bị tổn thương bao nhiêu lần, mức độ tổn thương lớn tới đâu đi nữa, thời gian trôi qua, họ cũng cho mọi vết thương trôi vào quên lãng.   Với họ, cuộc sống là ở phía trước, cần hành động tiến lên chứ đừng bao giờ thụt lùi, có như vậy bản thân mỗi người mới thực sự hạnh phúc.  
► Mời các bạn xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Việt Hoàng
 
Top 4 con giáp nắm tiền đồ sự nghiệp xán lạn trong tầm tay
Sở hữu trí tuệ minh mẫn, linh hoạt, cộng thêm với lối suy nghĩ thực tế, cách làm việc nhiệt tình, hăng say cũng như năng lực lãnh đạo thiên bẩm, công việc, sự

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp có cuộc sống tốt đẹp theo thời gian

Chùa An Ninh - Hải Dương

Chùa An Ninh đã được công nhận di tích năm 1990. Hàng năm chùa thu hút nhiều lượt du khách đến tham quan, cúng bái. đặc biệt là vào ngày lễ
Chùa An Ninh - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa An Ninh nằm tại thôn 4, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, được trụ trì bởi Đại đức Thích Tục Phương. Chùa An Ninh có tên chữ là Vĩnh Khánh tự, tên thường gọi là Chùa Trăm Gian xứ Đông, ở Vạn Lộng trang sau đổi thành làng An Ninh rồi An Đông thuộc xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Theo hệ thống bia ký, chùa Trăm gian có quy mô khá lớn và độc đáo vào bậc nhất ngày từ đầu thế kỷ XVII.

Lịch Sử: Chùa An Ninh được xây dựng từ đầu thế kỷ XVII đến năm Chính Hòa (1691) đời vua Lê Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh thứ 1 (1705) đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tức sửa thượng điện, các năm 1740 và 1809 tư sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa.

Thế kỷ XIX – XX chùa Trăm gian được trùng tu lớn. Đường vào chùa qua một cầu gỗ xây dựng theo kiểu “thượng gia hạ kiều” vào năm Cảnh Hưng thứ 1 (1740). Năm 1795, “thượng gia hạ kiều” bị giải hạ và thay vào đó là một cầu đá 9 nhịp. Đến khoảng năm 1938-1939, cầu đá bị sông ngòi vùi lấp . Đến nay cầu chỉ còn 3 hàng cột nhô lên mặt nước.

Kiến Trúc: Các công trình chính của chùa hiện nay nằm tập trung trong một quần thể kiến trúc gần như khép kín. Từ phía đông, mở đầu là công trình gác chuông, có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác chuông ở gian trung tâm treo quả chuông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), đây là quả chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương.

Chùa có kiến trúc kiểu chữ Đinh, được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 12 (1691) nhưng đã được trùng tu nhiều lần, kiến trúc hiện nay mang phong cách thời Nguyễn thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Gần đây, thượng điện đã được tu sửa lại.

Tiền đường 7 gian, kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con vành, đấu gòi được chế tạo rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ. Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Trong tiền đường có một số bức chạm hoa lá “long quần”, chạm khắc rất tinh vi. Phần ngõa cũng được tạo dựng khá chắc chắn, tường, móng xây dựng bằng gạch Bát Tràng đe lộ bắt mạch, mái lợp ngói mũi cổ, kỹ thuật lợp phẳng.

chùa an ninh
Phật bà nghìn mắt nhìn tay

Nối liền gian tiền đường với 3 gian thượng điện là hai máng xối. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài đe mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 7 gian nhà thờ mẫu. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai nhà khách. Hai nhà khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà tứ ân, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật chạm trồ tinh vi. Nhà thờ tổ nằm phía sau nhà tứ ân.

Sau nhà tổ là nhà cung 9 gian, kết cấu theo kiểu kèo cầu trụ đấu, mái thấp, gian hẹp, được tu sửa năm 2002. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m², có một số công trình quay ra sân là nhà tháp nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003.

Đầu thế kỷ XX, chùa Trăm gian còn đủ 100 gian, nhưng hiện nay chùa chỉ còn 85 gian. Chùa còn lưu giữ hệ thống cổ vật phong phú gồm 57 pho tượng Phật có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, trong đó có tượng Trúc Lâm tam tổ, 12 bức đại tự, 12 đôi câu đối các loại, 738 bản khắc kinh Phật, 7 bia đá có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, nhiều cổ vật có chất liệu gỗ, gốm, đồng và khá nhiều đồ tế tự mới.

Chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian) đã được công nhận di tích năm 1990. Đến nay chùa thu hút nhiều lượt du khách tham quan. đặc biệt là vào ngày lễ chính: Ngày 13 tháng 9 âm lịch hàng năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa An Ninh - Hải Dương

Mơ thấy sát sinh với bệnh nhiễm trùng sinh dục –

Trong các tài liệu nói về những phụ nữ bị nhiễm trùng bộ phận sinh dục, hầu như đều nói rằng, ai nằm mơ cũng thấy mình giết nhiều động vật. Hành vi này là một loại cân bằng tâm lý trong tiềm thức của cá nhân. Đây là giấc mơ được một phụ nữ kể lại: "H
Mơ thấy sát sinh với bệnh nhiễm trùng sinh dục –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sát sinh với bệnh nhiễm trùng sinh dục –

Hoàng tử sơn ca Quang Vinh bất ngờ trở lai showbiz

Trở lại showbiz với một diện mạo hoàn toàn mới, chàng trai Kim Ngưu Quang Vinh hứa hẹn mang lại cho người hâm mộ nhiều điều bất ngờ.
Hoàng tử sơn ca Quang Vinh bất ngờ trở lai showbiz

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Hoang tu son ca Quang Vinh bat ngo tro lai showbiz hinh anh 2
 
Mang trong mình rất nhiều dấu hiệu của một người sớm có tiềm năng bén duyên với nghệ thuật, Quang Vinh từ nhỏ đã có cơ hội đứng trên các sân khấu lớn và trở thành gương mặt được nhiều người yêu mến và ngưỡng mộ trong làng giải trí.
 
Mặt Trời Kim Ngưu mang tới chiều sâu và sự chân thật trong các tác phẩm âm nhạc mà anh chọn, càng nghe càng thấy ngấm và khó lòng có thể dứt được ca từ cũng như giai điệu ra khỏi đầu.
 
Mặt Trăng Song Ngư bổ sung thêm nét lãng mạn, mơ màng trong tâm hồn của chàng trai Kim Ngưu này, càng khiến cho các ca khúc, các video của anh thấm đẫm chất mùi mẫn và cảm xúc của tình yêu. Có thể thấy, đa phần các ca khúc của Quang Vinh trong giai đoạn hoàng kim của mình chỉ xoay quanh những chuyện tình đầy da diết.   Tuy vậy, chàng trai này không hẳn chỉ là một người "sến sẩm". Các nét tính cách khác của Quang Vinh, thực tế, mang đến một hình ảnh khác khá thú vị ở anh.

Hoang tu son ca Quang Vinh bat ngo tro lai showbiz hinh anh 2
 
Sao Thủy thuộc cung Song Tử mang tới sự lanh lợi cho anh trong ngôn ngữ, dễ dàng ứng biến trong mọi tình huống. Sao Kim Bạch Dương giữ cho anh một gu thẩm mĩ luôn trẻ trung, vui tươi và luôn nổi bật trước đám đông. Sao Hỏa Thiên Bình tạo nên một ‘hoàng tử sơn ca' nhã nhặn, dễ dàng hòa đồng và dễ được yêu quý.   Những năm gần đây, sao Diêm Vương di chuyển sang cung Ma Kết kết hợp với sự dịch chuyển của sao Mộc ở cung Xử Nữ 9 tháng đầu năm 2016, cùng tạo góc hòa hợp với Mặt Trời Kim Ngưu mang tới cho Quang Vinh nhiều tham vọng với chính bản thân mình và những cơ hội rộng mở để phát triển, thể hiện bản thân.


Hoang tu son ca Quang Vinh bat ngo tro lai showbiz hinh anh 2
 

 
Dường như thôi thúc này đã trở thành động lực vô cùng lớn giúp anh nung nấu ý định quay lại với "showbiz" để thỏa mãn đam mê ca hát của mình và hơn thế nữa.
 
Dù những thách thức của sao Diêm Vương có lẽ sẽ tạo ra đôi chút khó khăn với chàng ‘hoàng tử' khi quay lại sân chơi nghệ thuật đã thay đổi quá nhiều so với thời kỳ hoàng kim của anh. Nhưng năng lượng của sao diêm Vương cũng sẽ mang lại cho anh những quyết tâm lớn để có thể kiểm soát được mọi việc trong tầm tay và chinh phục được những mục tiêu của mình.
 
Tin rằng, con đường sự nghiệp của chàng trai sinh năm 82 này sẽ còn tiến xa và dài hơn trong thời gian tới.

ST.

Soobin Hoàng Sơn: Hoàng tử Xử Nữ luôn không ngừng nỗ lực Gil Lê - Chi Pu: Cặp đôi nặng nợ Trường Giang - Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoàng tử sơn ca Quang Vinh bất ngờ trở lai showbiz

Tuổi Sửu và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Chẳng ai trong số hai tuổi này phải thể hiện sự ghen tuông hay sở hữu nào cả. Bởi đơn giản, họ thấy họ hoàn toàn thuộc về nhau. Mối quan hệ giữa tuổi Trâu và tuổi Gà gần như đạt tới mức hoàn hảo dù là người thân, anh em hay bạn bè. Nếu có sự khác biệ
Tuổi Sửu và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Xem tướng mũi đoán vận số con người sang giàu hay nghèo –

Chóp mũi hay là Chuẩn Đầu. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe,… Chóp mũi, nhân tướng học gọi là Chuẩn Đầu, có thể giúp phán đoán phần nào vận số của con người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chóp mũi hay là Chuẩn Đầu. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe,…

Chóp mũi, nhân tướng học gọi là Chuẩn Đầu, có thể giúp phán đoán phần nào vận số của con người.
Chuẩn đầu tròn và bệu, Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) thấp và nhỏ, 2 cánh mũi nở, gọi là “mũi sư tử”, chủ nhân tinh lực dồi dào, tài vận tốt. Nếu trán lại cao và rộng thì chủ nhân cũng có thể trở thành người quyền quý.
Chóp mũi có nốt ruồi hoặc vết lõm sâu, sự nghiệp của chủ nhân thành bại song hành.
Chóp mũi nhọn và khoằm giống như mỏ chim ưng, gọi là “mũi chim ưng”, chủ nhân từ 44 – 48 tuổi sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sự nghiệp hoặc xảy ra chuyện kiện tụng, kinh tế gia đình sa sút.

images742985_tuongmui1

Chóp mũi nhọn và nhỏ, chủ nhân thường phải sống trong cảnh nghèo khổ.
Chóp mũi sệ xuống dưới miệng, môi trên không có ria, chủ nhân không có khả năng lãnh đạo, ít thành công trong công việc kinh doanh và ít có khả năng thăng tiến trên quan trường.
Chóp mũi tuy tròn và dày nhưng Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) bị gãy, chủ nhân phải chịu cảnh khốn khó.
Khí sắc tại chóp mũi thường có màu đỏ tía, chủ nhân cả đời khó dành dụm được tiền của, cuộc sống cuối đời rất vất vả.
Chóp mũi bỗng dưng xuất hiện vết chàm đen, trong năm đó chủ nhân bị mất mát tiền của, tổn hại về đường công danh.

060410mui21

Chóp mũi bỗng dưng xuất hiện vết chàm màu đỏ, trong năm đó chủ nhân sẽ gặp chuyện kiện tụng.
Chóp mũi có chấm đen hoặc có cáu bẩn, chủ nhân cả đời vất vả vì tiền bạc, ít được tài lộc, ngoài ra vào năm 48 tuổi sẽ xảy ra chuyện tranh cãi về tiền bạc.
Chóp mũi có nhiều chấm nhỏ, chủ nhân gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống.
Chóp mũi dù mùa đông hay mùa hè cũng đều ra mồ hôi, chủ nhân phải vất vả tới già, khó tích góp tiền của, đồng thời phải sống bơ vơ phiêu bạt, tính cách thất thường.
Chóp mũi lệch sang trái, chủ nhân hoặc khắc vợ, hoặc khắc chồng, hôn nhân không tốt đẹp.
Chính giữa chóp mũi có vết thương hoặc vết sẹo, chủ nhân hình khắc con cái hoặc làm cản trở đến con cái. Nếu chóp mũi không cân xứng với các bộ phận khác trên khuôn mặt thì chủ nhân sống cô độc, bần hàn, nên chú ý giữ gìn sức khỏe.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mũi đoán vận số con người sang giàu hay nghèo –

Luận cát, hung của sao Tam Bích khi kết hợp trong Cửu tinh

Sao Tam Bích là sao đứng hàng thứ 3 trong Cửu tinh. Tìm hiểu về sự kết hợp giữa Tam Bích và các sao khác để vận dụng khi lập tinh bàn chọn đất xem nhà.
Luận cát, hung của sao Tam Bích khi kết hợp trong Cửu tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Luan cat, hung cua sao Tam Bich khi ket hop trong Cuu tinh hinh anh
 
Sao Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng. Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, góa vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.
 
Tam Bích gặp Nhất Bạch là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đỗ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngổ ngáo, có thể dẫn tới họa quan tụng, hoặc vì bất hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tay chân.
 
Tam Bích gặp Nhị Hắc là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau, gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng. Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vỡ.
 
Tam Bích gặp Tam Bích là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội.
 
Sao Tam Bích gặp Tứ Lục là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng gặp kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn.
 
Tam Bích gặp Ngũ Hoàng là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.
 
Tam Bích gặp Lục Bạch là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.
 
Tam Bích gặp Thất Xích là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền cả văn lẫn võ. Nếu suy thì là “xuyên tâm sát”, thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường do con trưởng chịu.
 
Tam Bích gặp Bát Bạch là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng.
 
Sao Tam Bích gặp Cửu Tử là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văn tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau đầu; ngoài ra còn dễ gặp hỏa hoạn.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận cát, hung của sao Tam Bích khi kết hợp trong Cửu tinh

Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó. Lông mày lem mí, tóc thô cứng, mặt bạnh, mũi hỉnh là cô độc, khắc sát nghèo hèn. Mũi cong khoảng giữa, mũi có ngấn, lỗ mũi ngó trời mũi hỉnh là tướng đa dâm, hạ tiện, khốn khổ.
Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trán có nhiều lằn, mắt lộ tròng trắng bệch là người gian dâm đại ác khắc chồng sát con, tán tài cơ cực.

Bụng teo ngực nẩy cũng là người có tướng nghèo hèn tham lam dâm đãng.

Tiếng nói như lửa reo hừng hực, mắt lộ gân đỏ lan tới con ngươi là tướng người hung ác thô bạo, hình phu sát tử. Môi trên như trùm xuống, môi dưới như đầy ra cũng đều là tướng người khắc sát bần bạc, ngu độn.

Hay đứng dựa cửa liếc dọc ngang, chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy, đang làm công việc, dừng tay châu mày thở ra, hay ca hát nho nhỏ, tự nhún nhẩy một mình, tóc hoe mà thưa lợt gần như lông măng tay, đều là những hình tướng đê tiện dâm đãng.

Miệng dụm như thổi, môi thâm mồm rộng, chơn mày dựng ngược, thấy cười mỉm, mắt nhìn như diều hâu, như cú dữ, đều là tướng hèn hạ, bạc ác.

Đi như chim se sẻ, ăn liếm láp như bò dê, nét mặt xanh đen, lông mày có góc xương lộ, hay tự nói lầm thầm, nói chuyện làm việc quên đầu quên đuôi, hơi khô giọng thổ, đều là các hiện trạng hình tưởng đàn bà âm trầm bạc ác, sâu độc nghiêng ngả, ghen tương như điên dại.

Đôi gò má ửng hồng, mắt như sao chớp, mát bóng như mở, miệng ngậm không kín răng, hạ mao như cỏ khô lưa thưa vàng úa, âm hộ chỉ có da bọc xương nhô lên, chớ không đầy thịt, ngủ say hay nói một mình hoặc kinh hoảng mớ la. Ngồi tựa như đứng, đứng giống như ngồi, mừng vui giận ghét không chừng đổi, hay lắc mình nghiêng đầu, liếc dọc nhìn ngang. Ấy là biểu lộ hình trạng tà dâm bạo ác không tốt.

Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác theo TƯỚNG PHÁP DIỄN CA

Đàn bà khắc sát chồng con
Mặt dày miệng rộng, trán còn lằn ngang
Xoáy tóc trước trán mấy hàng
Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa
Mày cao xương mí lộ ra
Lông mày mọc ngược thấy mà gớm ghê
Lại thêm mặt trẹt một dề
Lông mày dựng đứng phu thê xa lìa
Con ngươi vàng bệt đỏ tươi
Tròng trắng, trắng giã là người sát phu
Mũi mọc cụm lông u xù
Miệng chụm như thổi lao tù chồng con
Tai mỏng lật ngược vòng tròn
Tóc nám như cháy vàng son phai màu
Tuổi trẻ tóc rụng sói đầu
Hình phu khắc tử lệ sầu không vơi ?
Đầu lủi trước, bước đi sau
Ngoảnh đầu ngoái cổ làm màu đong đưa
Đầu to sói tựa gáo dừa
Giả sầu giả bịnh đánh lừa phu quân
Đầu lép trán dẹp lưng chừng
Trán rộng mày rậm cũng đừng vội tin
Bao nhiêu tướng đã lộ hình
Là bao nhiêu tánh dâm tình tà gian
Má hồng, mặt đẹp trái soan
Ngoại gian mê đắm lấy vàng cũng cho
Má lép mặt như đất tro
Tỉnh sâu thâm thẩm ai đo cho vừa
Ánh mắt chiếu rực mây mưa
Nhìn ngang liếc dọc đẩy đưa duyên tình
Mắt mọc nút ruồi xinh xinh
Lại như ướt rượt mày xanh mi dài
Đa tình không gởi cho ai
Trong nhà dù có ra ngoài cũng thêm
Môi xanh như rêu bên thềm
Môi trắng bềnh bệch như têm vôi trầu
Răng chuột tai dơi nhọn đầu
Thân dài cổ ngắn, chớ cầu chính chuyên
Thân gầy như liễu gió nghiêng
Ngực cao mông lép lụy phiền vì yêu
Bao nhiêu cũng chưa là nhiều
Sáng mai không đủ thêm chiều không dư
Rún lòi đầu vú cứng khừ
Cũng phường lãng đãng tà tư khôn lường
Đầu vú trắng bệch điểm sương
Núm sát trùng thịt cũng vương lưới tình
Vừa đi vừa nói một mình
Cười như ngựa ré tiết trinh kể gì
Vung văng như rắn cuốn đi
Ăn như chuột gặm, ngủ thì mớ la
Bao nhiêu hình bóng nêu ra
Đều thuộc dâm đãng biết mà làm sao
Sách xưa chép dễ sai nào
“Tướng tùng tâm diệt” nhớ trao sửa mình
Còn câu “Tướng tự tâm sinh…”
Chữ tâm kia mới chứng minh tỏ tường
Tâm minh chính, chí đường đường
Tướng yểu lại được thọ trường khó chi
Mặc dầu sách cổ đã ghi
Vẫn còn tùy diệt vẫn còn tùy sinh
Hư nên do ở tâm mình
…….. Xin nhớ đinh ninh.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Tướng mũi và điều kiện phát tài

Trong Diện tướng học, người có tướng mũi tốt thì tài khí vượng, là điều kiện để dễ dàng phát tài.
Tướng mũi và điều kiện phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Một người muốn giàu có thì đầu tiên phải xem bản thân có điều kiện để phát tài hay không. Tướng phát tài của một người lại chủ yếu căn cứ vào tướng mũi. Dưới đây là những tướng mũi được cho là thiên tướng, giúp chủ nhân dễ hội tụ điều kiện phát tài và làm giàu. 

Tuong mui va dieu kien phat tai hinh anh
Ảnh minh họa

1. Mũi Quán đỉnh

 
Đặc điểm của tướng mũi này là sống mũi thẳng, Sơn căn cao và thông hẳn lên trán. Người có đặc điểm này không những đại phú đại quý mà còn có địa vị và nắm quyền lực cao trong xã hội hoặc tập thể. Người này không phải lo lắng nhiều về sự nghiệp bởi sẽ một ngày công thành danh toại. Hãy mạnh dạn lập nghiệp, dù trải qua khó khăn nhưng con đường làm giàu rộng mở, tiền đồ sáng lạng.
 
2. Mùi Huyền đảm
 
Đây là tướng mũi phú quý bẩm sinh. Đặc điểm dễ nhận biết của dáng mũi này là đầu mũi tròn đầy, Sơn căn hơi hẹp, nhìn trông giống như đang treo một quả cật lợn. Do đó, có người gọi mũi này là “mũi cật lợn”. 
 
Người có tướng mũi này biết cách giao tiếp khéo léo, trải qua muôn vàn khó khăn và trở ngại, cuối cùng họ vẫn đứng vững lập trường và đạt được thành công lớn. 
 
3. Mũi trâu
 
Đặc điểm tướng mũi này là to quá khổ, cánh mũi dày, đầu mũi to, lỗ mũi hoàn toàn không lộ ra ngoài. Người có kiểu mũi này chắc chắn sẽ rất giàu có nhưng không phải dễ dàng đạt được mà phải vất vả cực khổ mới thu được thành quả. Người này giỏi tích lũy tiền bạc, cho dù phát tài, sống sung sướng vẫn giữ thói quen cần kiệm, không hoang phí.
 
4. Mũi Do Thái
 
Người có dạng mũi này là một thiên tài trong lĩnh vực kinh doanh. Đặc điểm dễ nhận thấy là sống mũi cao, mũi vừa to vừa cong giống như mũi của người phương Tây. 
 
Người này biết cách làm ăn, tính toán, thậm chí đưa ra thủ đoạn rất thâm độc. Họ có khuynh hướng tự lợi, đặt lợi ích của mình lên trên hết. Người này dễ phát tài nhưng không được lòng mọi người xung quanh.
 
Theo Thuật xem tướng mặt và tướng bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mũi và điều kiện phát tài

Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?

"Lễ vấn danh" là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm" (có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ dạm hỏi). Truyện Kiều có câu "Tiện đưa canh thiếp trước cầm làm ghi". "Canh thiếp" là giấy ghi họ tên, tuổi, quê quán, con ai.
Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh đến khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con gái không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. ở trong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt em...Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính người mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì thôi.
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi hay không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu kỹ "Công, dung, ngôn, hạnh" (thường là các gia đình gia giáo). Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu, do đó trong gia đình sau này mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm: -"Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện trước: con tôi mồm mép chẳng bằng ai!" Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai ngờ cưới về mới biết con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao ?
Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và "sạch mặt" hơn đóng vai chàng rể, đến khi cưới thì lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu xí. "Miếng trầu để dâu nhà người", biết tính sao đây ? Dầu sao cũng mang tiếng một đời chồng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?

Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng cuối cùng cũng sẽ được sưởi ấm, đó là một cách tu thân đáng rèn luyện.
Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong một ngôi chùa cũ nát, tiểu hòa thượng chán nản thất vọng nói với lão hòa thượng: “Trong cái chùa nhỏ bé này chỉ có hai hòa thượng chúng ta, lúc con đi xuống núi hóa duyên, mọi người đều là nói những lời ác với chúng ta, còn thường xuyên gọi con là hòa thượng hoang. Họ cho chúng ta tiền hương khói càng ngày càng ít đến thê thảm”. Tiểu hòa thượng nói tiếp: “Hôm nay con đi khất thực, trời lạnh như vậy mà không có một ai mở cửa cho con, đến cơm bố thí cũng được ít. Chùa Bồ Đề chúng ta muốn thành một ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông vang xa không ngớt như Sư Phụ nói,con e là không thể”.

Lão hòa thượng khoác lên mình chiếc áo cà sa không nói lời nào, chỉ nhắm mắt lại lẳng lặng nghe, tiểu hòa thượng cứ nói và cằn nhằn liên miên… Cuối cùng lão hòa thượng mở mắt to hỏi: “Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?” Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói: “Con lạnh, hai chân con đều tê cóng cả rồi!” Lão hòa thượng nói: “Vậy chi bằng chúng ta đi ngủ sớm đi”.

Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn chui vào trong chăn ngủ. Một giờ sau, lão hòa thượng hỏi: “Bây giờ con có thấy ấm không?” Tiểu hòa thượng trả lời: “Đương nhiên là con thấy ấm rồi, giống như ngủ dưới ánh mặt trời vậy!” Lão hòa thượng nói: “Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh, thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp.

Con thử nói xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho chăn bông đây?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền nở một nụ cười nói: “Sư phụ, người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!” Lão hòa thượng hỏi: “Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp chăn bông làm gì?” Tiểu hòa thượng nghĩ nghĩ một lát rồi nói: “Mặc dù chăn bông không sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái”.

Trong bóng tối, lão hòa thượng hiểu ý cười cười: “Chúng ta là hòa thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm dưới chăn bông? Còn những chúng sinh kia chẳng phải họ là một cái chăn bông dày đó sao? Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm.

Lúc đó “cái chăn bông” dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta. Chúng ta ngủ trong “cái chăn bông” như vậy, chẳng phải rất ấm áp sao? Ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông chùa ngân vang không ngớt, còn có thể là trong mơ được sao?” Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra hết. Bắt đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi xuống núi hóa duyên.

Tiểu hòa thượng cũng vẫn gặp phải những lời ác như trước đây. Thế nhưng tiểu hòa thượng trước sau gì đều giữ vững thái độ nho nhã và lễ độ đối xử với mọi người. Mười năm sau… Chùa Bồ Đề đã trở thành ngôi chùa có diện tích hơn mười km, có rất nhiều hòa thượng, khách hành hương tới không ngớt.

Tiểu hòa thượng cũng đã trở thành vị sư trụ trì. Kỳ thực trên thế giới này, chúng ta đều là đang nằm trong chăn bông, người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta dụng tâm đi sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng ta. Ngủ…đắp… cả một đời, vậy mà hôm nay mới biết… Hóa ra mối quan hệ giữa người và chăn bông là như vậy, thật là có đạo lý phải không?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đối xử rất hay với những người ghét mình - rất đáng đọc

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Lá số tử vi - Khái niệm quan trọng nhất trong Tử vi đẩu số

Tử vi đẩu số là bộ môn khoa học huyền bí, được xây dựng dựa trên tổng hòa các yếu tố dịch học, trong đó lá số tử vi là khái niệm quan trọng nhất.
Lá số tử vi - Khái niệm quan trọng nhất trong Tử vi đẩu số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi đẩu số là bộ môn khoa học huyền bí, được xây dựng dựa trên tổng hòa các yếu tố dịch học, số học, thiên văn học, kinh nghiệm thực tế..., nhằm luận đoán vận mệnh con người. Lá số tử vi là một trong những khái niệm quan trọng nhất của bộ môn này.  

1. Tìm hiểu tử vi đẩu số

  - Đối tượng của tử vi đẩu số chính là số mệnh con người:   Số mệnh con người được xét trong tử vi đẩu số không tách biệt, mà nó gắn liền với các mối quan hệ xung quanh, với gia đình (bố mẹ, anh chị em), với xã hội, với phúc đức của tổ tiên, với tổng hòa vũ trụ bao la.    - Cơ sở xây dựng tử vi đẩu số dựa trên các thông tin về giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính của một người. Căn cứ vào đó, người ta lập ra lá số tử vi (bao gồm thiên bàn, địa bàn, mệnh bàn), suy đoán về tính cách, diện mạo, địa vị, tình trạng phú bần, vận hạn hung cát trong cuộc đời.   
La so tu vi - Khai niem quan trong nhat trong Tu vi dau so
 
Được xây dựng trên tổng hòa nhiều cơ sở lý luận như hệ thống Thiên can, Địa chi, Âm dương, Ngũ hành, kiến thức về thiên văn học, toán học, sử học, thống kê học, dự đoán học cổ đại... để tiến hành phân tích mối quan hệ giữa các vì sao và số mệnh con người, từ đó rút ra các vấn đẽ thuộc nhân sinh và vũ trụ.   Bởi vậy, tử vi đẩu số vừa mang màu sắc thần bí của mệnh lý học truyén thống, lại vừa kế thừa những nguyên lý chất phác trong vũ trụ quan Đạo giáo, đồng thời hợp nhất hai nhân tố đó để hình thành nên một môn khoa học vừa giản dị, vừa uyên thâm, mang đậm sắc thái kỳ bí mà nội dung luận đoán lá số tử vi là một trong những đặc sắc đó. Để tìm hiểu sâu hơn về nội dung này, có thể tham khảo Tử vi đẩu số: Nguồn gốc và cơ sở luận môn khoa học huyền bí.  

2. Lá số tử vi

 

- Số lượng lá số tử vi


Tử vi đẩu số có tất cả 518.400 lá số khác nhau, bao gồm trong đó là 14 chính tính cùng với khoảng 120 sao phụ tinh bao gồm các loại như phúc tinh, lộc tinh hay sát tinh, bại tinh. Tất cả các sao chính tinh và phụ tinh sẽ theo các nguyên tắc nhất định được an vào 12 cung trong lá số. 
  Lá số được hình thành dựa trên tiêu chuẩn là năm tháng ngày, giờ sinh, giới tính của con người, đồng thời có tham khảo các căn cứ tượng số, thiên tượng, địa lý và Dịch pháp. Lập lá số tử vi khá phức tạp và có nhiều dị bản. Vậy cần lấy lá số Tử vi như thế nào mới chuẩn xác?  

- Cấu trúc lá số tử vi gồm 3 bàn: thiên bàn, địa bàn và nhân bàn

  + Thiên bàn: Chính là sơ đồ sao Tử Vi được sắp xếp căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung mệnh. Đây cũng là loại lá số chủ yếu trong mệnh lý tử vi đẩu số, cho biết các thông tin về tính cách, dung mạo, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, phú quý, hoạ phúc, yểu thọ trong một đời người. Đồng thời thể hiện các thông tin về lục thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái.   + Địa bàn: Là sơ đồ bố cục sao căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung thân. Nó cho biết các thông tin mang tính tiên thiên, đồng thời phản ánh được về căn khí tính tình ngầm ẩn của con người.    + Nhân bàn: Đây là sơ đồ động thái về sự biến hoá của các vận hạn như đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời. Nhân bàn phản ánh về sự thăng trầm trong các giai đoạn của đời người.  

- 12 cung trong lá số tử vi

 

La so tu vi -12 cung trong la so
 
Mười hai cung vốn dĩ là thuật ngữ của thiên văn học, dùng để chỉ 12 lần gặp gỡ giữa quỹ đạo vận hành của mặt trăng và mặt trời trong một năm. Trên lá số tử vi thực chất có 13 cung bao gồm:   Cung Mệnh, Thân, Huynh Đệ, Phu Thê, Tật Ách, Thiên Di, Nô Bộc, Tài Bạch, Điền Trạch, Phụ Mẫu, Quan Lộc, Phúc Đức, Tử Tức. Nhưng vì cung Thân không có vị trí cụ thể, nên phải xếp chồng lên cung khác, nên tổng cộng có 12 cung riêng lẻ.   + Cung Mệnh: Đây được coi là cung vị giữ vị trí đầu não, có vai trò quan trọng nhất trong 12 cung của lá số. Cung này có mối quan hệ mật thiết với các cung còn lại, tương đương với phần đầu não của con người, là nơi diễn ra các hoạt động tư duy, kế hoạch, ra lệnh. Các cung còn lại ví như tứ chi, xương cốt con người, tuy có sự phân công nhiệm vụ nhưng mỗi bộ phận có một chức năng khác biệt, tất cả đều chị sự chỉ huy và chi phối của cung Mệnh.    Khi luận mệnh số, lấy cung Mệnh là chính, cung tam phương tứ chính là phụ, cùng quyết định mức độ thành tựu cao nhất của một đời người và cách cục mệnh vận một đời cao hay thấp, đây là mệnh số tiên thiên. Mệnh số tiên thiên tốt, vận thế hậu thiên (tức đại vận và lưu niên) kém, gặp khó khăn sẽ được trời phù hộ, có người giúp đỡ mà vượt qua; nếu mệnh số tiên thiên kém, mà vận thế hậu thiên tốt, thì trải qua nỗ lực dốc hết sức để giành lấy. Có thể sửa đổi được mệnh số tiên thiên, nhưng chỉ với một độ tương đối, do bị mệnh số tiên thiên hạn chế.

Có thể bạn quan tâm: Những lá số tử vi phú quý, định sẵn giàu có phát tài
  + Cung Thân: Đây có thể coi là cung vị cung cấp những thông tin về vận thế hậu thiên của con người. Cung Mệnh chỉ bản tính tiên thiên, còn cung Thân chỉ các hành vi hậu thiên. Tiên thiên là thể, là cơ sở, hậu thiên là dụng, là phát triển, nên cần phải kết hợp hai nguồn thông tin này trong phán đoán.   Cung Thân không thể trở thành một cung độc lập, mà cần phải xếp cùng với một trong số các cung là mệnh, tài bạch, quan lộc, thiên di, phúc đức và phu thê. Nếu được xếp cùng cung tốt, đã cát lợi càng thêm cát lợi. Nếu xếp cùng cung hung, thì hung lại càng thêm hung.   + Cung Huynh Đệ: Cung vị dùng để phán đoán về duyên phận, mức độ gắn bó giữa bản thân và anh chị em và bản thân có nhận được sự giúp đỡ của anh chị em hay không. Căn cứ vào các sao trong cung này và tại các cung tam phương tứ chính, có thể phán đoán về mức độ thành tựu của anh chị em.   Cung Huynh Đệ chủ yếu dùng để suy luận về các mối quan hệ trong nội bộ gia đình, còn cung Nô Bộc (hay cung bạn bè) dùng để suy luận về các mối quan hệ xã hội. Bởi vậy, kết hợp hai cung này có thể phán đoán được về năng lực nội, ngoại giao của một người.    Khi quan sát cung Huynh Đệ, cần phải kết hợp với cung Tật Ách và cung Điền Trạch. Anh chị em là do cùng một cha mẹ sinh ra, nên huyết thống tương đồng, nếu bản thân khoẻ mạnh cũng có thể suy ra được thể chất của anh chị em trong nhà. Nhà cửa ruộng vườn (điền trạch) của bản thân có thể được thừa kế từ cha mẹ, cũng có mối liên hệ với các anh chị em, cũng cần phải chú ý đến.   + Cung Phu Thê: Cung vị đại biểu cho người phối ngẫu. Có thể biểu thị dung mạo, tính tình, tài năng, tình huống thành tựu... Của người bạn đời. Cũng có thể dùng để xem tình trạng yêu đương và hôn nhân của mệnh chủ; xem quan hệ tình cảm và duyên phận giữa vợ chồng; cũng đại biểu cho thái độ của mệnh chủ đối với người phối ngẫu, mẫu đối tượng mà mệnh chủ yêu thích.   Khi quan sát cung Phu Thê, cũng cần phải tham khảo cung đối xứng với nó là cung Quan Lộc. Bởi vì những cuộc đãi đằng xã giao trong sự nghiệp cần phải có vợ chồng cùng xuất hiện, khi gặp phải những vấn đề về sự nghiệp cũng cần phải tham khảo ý kiến của chồng hoặc vợ, nên mức độ hạnh phúc của gia đình và mức độ thành công trong sự nghiệp thường có mối quan hệ nhân quả khá mật thiết. Bởi vậy, chồng (hoặc vợ) có vận trợ giúp vợ (trợ giúp chồng) hay không, điều này có liên quan đến mức độ ảnh hưởng của sự nghiệp đến đời sống gia đình.   + Cung Tử Tức: Đại diện cho số lượng con cái, cá tính, tư chất, học vấn, thành tựu, tình trạng sức khoẻ của con cái, suy đoán xem con cái có hiếu thuận hay không và mức độ tình cảm giữa bản thân và con cái. Do việc sinh đẻ có liên quan đến đời sống tình dục nên nhìn vào cung Tử Tức có thế đánh giá được về khả năng và đời sống tình dục của đương số.   + Cung Tài Bạch: Cung vị này dùng để phán đoán về những sự việc liên quan đến tiền tài như tài vận, khả năng quản lý tài chính, mức độ thu nhập, tình hình kinh tế của một đời người.   Cung này cần phải kết hợp với cung đối xứng là Phúc Đức, bởi vì một người có trở nên giàu có phát tài hay không, cũng cần phải xem xem người đó có phúc phận hoặc có khả năng tích phúc hay không, và tâm thái làm giàu ra sao.   Tài vận của một người chịu ảnh hưởng của điều kiện không gian, thời gian và vận sự nghiệp tiên thiên, bởi vậy, khi xem về cung Tài Bạch, cũng phải kết hợp với hai cung còn lại trong cung tam hợp là cung Mệnh và cung Quan Lộc.   + Cung Tật Ách: Phản ánh tình trạng sức khoẻ và thể chất của một người. Qua đó còn có thể suy đoán xem bộ phận nào trong cơ thể dễ mắc bệnh tật, có khả năng mắc những loại bệnh nào, và khả năng gặp tai nạn ngoài ý muốn.   Khi quan sát cung này, cần phải kết hợp với cung đối diện là cung Phụ Mẫu. Bởi vì thể chất tiên thiên của một người phần nhiều được di truyền từ cha mẹ, và tình hình sức khoẻ của trẻ nhỏ thường có liên quan đến mức độ chăm sóc của cha mẹ. Đồng thời, tình trạng sức khoẻ của con cái lại gây ảnh hưởng đến tâm trạng và cuộc sống của cha mẹ.   + Cung Thiên Di: Dùng để suy đoán về vận xuất ngoại, khả năng phát triển năng lực cá nhân và độ năng động của một người. Nếu muốn xem về sự lành dữ cát hung trong việc di chuyển, xuất ngoại và quan hệ đối ngoại, như du lịch, di dân, chuyển chỗ ở, đi công tác, đi làm xa, hay khả năng xã giao, phạm vi quan hệ, thay đổi ngành nghề, điều nhiệm, buôn bán... đều cần quan sát kỹ cung này.    Cung Thiên Di là đối cung của Mệnh, ảnh hưởng rất lớn đến cung Mệnh, bởi vì vận xuất ngoại và độ năng động của con người mang lại những tác động mạnh mẽ đối với vận mệnh. Các sao trong cung Thiên Di càng yên tĩnh, thì cuộc đời càng bình yên phẳng lặng. Nếu ngược lại, sẽ khó tránh khỏi bôn ba vất vả, gặp nhiều tai nạn.    + Cung Nô Bộc: Cung vị này còn được gọi là cung bằng hữu, dùng để phán đoán về mối quan hệ giữa bản thân với đồng nghiệp, bạn làm ăn, cấp trên, cấp dưới, bạn bè, cùng phẩm chất, nhân cách của những đôi tượng đó, và những ích lợi hoặc tác hại do những mối quan hệ đó mang lại.    Qua đó, có thể gián tiếp thấy được mức độ thành công hay khả năng lãnh đạo của một người, bởi vì sự ủng hộ hay phản đối của bạn bè, đồng nghiệp, cấp dưới có ảnh hưởng rất lớn đối với quy mô của sự nghiệp.    + Cung Quan Lộc: Đây còn được gọi là cung sự nghiệp hay học vấn. Cung vị này dùng để suy đoán về sự nghiệp như mức độ thành công, nghề nghiệp phù hợp, khả năng lập nghiệp, thành tích học hành, chức vị, quan hệ với cấp trên và khả năng thăng chức.   Tuy nhiên khi suy đoán về cung này, cần phải kết hợp với cung đối xứng là cung Phu Thê. Mặt khác, để suy đoán về mức độ thành công trông sự nghiệp, cũng cần phải kết hợp với hai cung còn lại trong tam hợp hội là cung Mệnh và cung Tài Bạch, kết quả suy đoán mới có độ chính xác cao.   + Cung Điền Trạch: Cho biết các thông tin về đất cát, như bản thân có được kế thừa di sản của cha mẹ tổ tiên hay không, tình hình nhà cửa, bất động sản của bản thân ra sao, hàng xóm láng giềng có tốt, đất có phong thủy tốt xấu...   Khi suy đoán, cung Điền Trạch cần phải kết hợp với cung Tử Tức, do việc sinh con đẻ cái có liên quan đến tài sản kế thừa sau này. Việc mua bán bất động sản và phong thuỷ nhà ở cũng có liên quan mật thiết đến con cái. Phong thuỷ nhà ở rất chú trọng đến những nhân tố về sự nghiệp học vấn và mức độ hiếu thuận của con cái, thành tựu của con cái cũng có tác động đến tình hình nhà đất của bản thân, như giảm (chia nhà chia đất cho con cái) hoặc tăng (được con cái tặng nhà, mua đất).   + Cung Phúc Đức: Cung vị này phản ánh về sự hưởng thụ, tinh thần và hoạt động, tư tưởng của mệnh tạo, và cả phúc khí tổ tiên. Từ đó có thể biết được sở thích, nhân phẩm cao hay thấp, cũng có thể luận đoán mệnh tạo thuộc mẫu người nào, đương số có được hưởng phúc khí tổ tiên để lại hay có phải gánh chịu nghiệp cảnh nào không.   + Cung Phụ Mẫu: Cho biết về gia cảnh, địa vị của cha mẹ cũng như mức độ sâu sắc trong tình cảm với cha mẹ, bản thân có hợp với cha mẹ không, có nhận được phúc đức, của cải của cha mẹ hay không, có được các bậc trưởng bối trong gia tộc giúp đỡ hay không, đồng thời cũng biết được tính cách, tình trạng sức khoẻ và mức độ thành công của cha mẹ. 

Ngoài ra, trong nhân tướng học cũng có khái niệm về 12 cung trong tướng mặt, bạn nên đọc để có thể vận dụng kết hợp trong dự trắc, luận giải vận mệnh con người.
  T.H  
Luận giải cục mệnh Sát Phá Lang trong tử vi đẩu số Bát tự có sao Văn Xương, đường công danh rộng mở Luận giải lá số tử vi Cung Mệnh không có chủ tinh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi - Khái niệm quan trọng nhất trong Tử vi đẩu số

Phong thủy khuôn mặt –

Nguyên tắc coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sau vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn. Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng quát sau đây khi đề cập đến tướng khuôn mặt.

images1087096_xem_tuong_kienthuc.net.vn

  • Tam Đình
  • Ngũ Nhạc
  • Lục Phủ
  • Tứ Đậu
  • Ngũ Quan

Quan sát Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ ta biết được một cách khái quát sự phối trí của khuôn mặt có cân xứng, thích đáng hay không. Tứ Đậu, Ngũ Quan sẽ giúp ta biết rõ từng nét tướng lồng trong khung cảnh chung của khuôn mặt. Sau đó muốn chi tiết hơn nữa ta thêm vào từng nét tướng để phân qua trọng (tất cả các nét được nói trên gọi là bộ vị trọng yếu ).

Muốn biết về những biến cố xảy ra cho cuộc đời của một cá nhân liên quan đến nhiều lĩnh vực  sinh hoạt: tật bệnh, tài lộc, anh em, vợ con v.v..ta dựa vào một số bộ vị (hoặc riêng rẽ, hoặc liên kết một số bộ vị ) đặc biệt gọi riêng là các cung.

Vì Ngũ Quan có vai trò cực kỳ  trọng yếu trong tướng học, nên sau khi khảo sát sơ lược, ta cần đi sau vào từng chi tiết đặc thù, nên phần đó được tách thành 5 chương riêng. Do đó chương này đặc trọng tâm vào việc giới thiêu tổng quát về toàn thể khuôn mặt xuyên qua các tiết mục sau đây:

TAM ĐÌNH

1- VỊ TRÍ CỦA TAM ĐÌNH

Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần : Thượng Đình, Trung Đình và Hạ Đình.
Thượng Đình: Từ chân tóc đến khoảng giữ 2 đầu lông mày. Trong các bộ vị của Thượng đình quan trọng nhất là Trán.

Trung Đình : từ khoảng giữa 2 đầu lông mày đến dưới 2 cánh mũi. Các bộ phận quan trọng của Trung Đình là: Mũi, cặp Mắt , Lưỡng Quyền , 2 tai và 2 Lông Mày. Nhưng trong các sách tướng, người ta trú trọng nhiều nhất là bộ phận trung ương là Mũi.

Hạ Đình : Phần còn lại của khuôn mặt tức là phần từ phía dưới 2 cánh mũi đến cằm.

2- Ý NGHĨA CỦA TAM ĐÌNH

Tam Đình có 2 ý nghĩa tổng quát về vận mạng và về khả năng.

a. Về mặt mạng vận:

Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì tam đình tượng trưng cho tam tài( 3 thể trọng  yếu nhất trong vạn vật) là THIÊN, ĐỊA, NHÂN.

Trán thuôc Thiên Đình, tượng trưng cho Trời, trời càng cao, rộng, tươi càng tốt cho nên người ta lấy sự kiện trán cao, rộng và tươi làm quí. Nói chung phần đông kẻ nào có 3 điều kiện này thuộc loại quí tướng, sơ vận suông sẻ .

Bộ vị quan trọng nhất của Trung Đình là Mũi , tượng trưng cho Người. Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng ,mới  tốt, nên mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa, và phải đều đặn cân xứng.

Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là ” hữu nhân giả thọ”có triển vọng sống lâu trung vận gặp nhiều hanh thôgn hơn người thường .

Cuối cùng là phần Hạ Đình tượng trưng cho Đất và bộ vị quan trọng nhất là cằm. Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vứt mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi, cằm phải vuông, đầy, chủ về hậu vận sung túc.

Nói chung, trong quan điểm tướng học Á – Đông, Thượng Đình dài mà nẩy nở hoặc vuông mà rộng là triệu chứng quí hiển ; Trung Đình mà ngay thẳng , cao ráo và dáng vẻ thanh tú về trường thọ ; Hạ Đình bằng phẳng đầy đặn không lệch lạc nhất là vuông vứt là điềm báo trước sẽ được hưởng vận số tốt lúc về già.

Nếu Thượng Đình nhọn hẹp hoặc khuyết hãm thì hay bị tai họa , khắc cha mẹ hoặc tính nết ti tiện. Trung Đình mà ngắn hoặc bị lệch, hãm thường là kẻ bất nhân bất nghĩa, kiến thức nông cạn hẹp hòi đồng thời cũng là dấu hiệu hậu vận hao tốn , lênh đênh. Hạ đình dài nhưng hẹp hoặc nhọn hay thiếu bề dày thì điền trạch khiếm khuyết, tuổi già cực khổ .

Nếu Tam Đình cân xứng thì có thể nói tướng mạo của kẻ thượng đẳng. Cho nên tướng thư có nói “Tam đình bình ổn, nhất sinh y thực vô khuy” ngiã là 3 phần của khuôn mặt mà được tương xứng đều hợp, không bị khuyết hãm thì cả đời không phải lo đến cơm áo .

b. Về mặt khả năng:

Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc học phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa vận mạng của Tam Đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng con người. Theo nhận định của họ thì:

– Thượng Đình: biểu dương cho trí lực

– Trung Đình: biểu dương cho khí lực

– Hạ Đình: biểu dương cho hoạt lực

Khi tiền não bộ của con người phát triển, óc làm việc nhiều nên Thượng Đình nẩy nở tạo ra vầng trán rộng và cao.

Khi trung não diệp phát triển rõ rệt và lấn áp các bộ phận khác của não thì Trung Đình nẩy nở rõ rệt nhất: Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chổ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt.

Ngược lại khi não bộ phát triển độc dị thì hạ đình cũng phát triển qua mức và gây ra cảnh Hạ Đình vừa dài vừa rộng lấn lướt các phần kia.

Nếu cả 3 phần đều phát triển cân phân  theo thuật ngữ “Tam đình bình ổn ” thì con người sẽ quân bình về cả 3 mặt trí lực, động lực và hoạt lực : con người sẽ có nhiều triển vọng thành công về bất cứ lãnh vực gì trong việc mưu sinh hằng ngày. Do đó, cổ tướng học đã rất có lý khi nhận định rằng người có tam đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc.

Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, thượng đình biểu thị vận tiên thiên . Trung đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên . Còn Hạ đình giúp ta trắc định kết quả khả hữu của các hoạt động của con người( thành hay bại, xấu hay tốt v.v…).

Tóm lại :

Thượng đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như trí thức, nghệ thuật , cảm xúc, tinh thần v.v…Nếu trán cao rộng kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo . Nếu trán lũng hoặc lệch, hãm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẫn về một hay nhiều lãnh vực nào đó, phần trí lực xúc kém .

Trung đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thưở thanh niên , có trí khôn đầy đủ tương đối. Phần đáng lưu ý nhất là mũi và lưỡng quyền. Theo tác giả Tô Lãng Thiên , khu vực mũi và lưỡng quyền, ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết tài năng tháo vác của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Nếu Trung đình đầy đặn, cân xứng, mũi thẳng, chép mũi tròn, 2 cánh mũi có thế thì tuy thiên đình bị lồi lõm sơ vận linh dinh cực khổ  nhưng nhờ nổ lực cá nhân bổ cứu mà cuối cùng trung vận có thể phấn chấn lên được.

Tóm lại khu vực Trung đình phát triển tốt đẹp có thể bổ túc cho khiếm khuyết trí tuệ tiên thiên. Nhờ sự quan sát khu vực Trung Đình, ta đoán được phần nhận định đối với việc xoay xở định mạng

Hạ định là kết quả tổng hợp của Thượng đình và Trung đình. Việc quan sát khu vực Hạ đình giúp ta có thể đoán được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nổ lực cá nhân.

Hạ đình bao gồm Thực – thương, Lộc – thương, Pháp – lệnh, Cằm và nhân trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già. Nói rõ hơn thì Lưỡng – Thương bao hàm sự thu nhập , cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội đã ảnh hưởng và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao.

Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ đình để tìm sự nhất quán . Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng . Nếu chỉ có hậu não bộ phát triển mà khu vực hạ đình không tương xứng , thì đó chỉ là ước vọng của vật chất khôgn bao giờ thực hiện được. Ngược lại, hậu não bộ không mấy phát triển mà hạ đình sung mãn thì kết quả thực tiễn do nổ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đó phần lớn là do nổ lực nhân sự mà có, sự may mắn hoặc giúp đỡ của tha nhân đối với hạn tướng này không đóng vai trò đáng kể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy khuôn mặt –

Soi ngón áp út biết tính cách và tương lai của bạn

Ngón áp út có đường vân danh lợi chứng tỏ bạn đầu óc nhanh nhạy, có vân phiền não chứng tỏ bạn rất nhạy cảm…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vân quý nhân

Trên ngón áp út có vân quý nhân chứng tỏ tính cách của bạn rất ấm áp, có kỹ năng về giao tiếp, nhân duyên tốt, dễ đạt được lòng tin và thấu hiểu của người khác, dễ nhận được sự giúp đỡ của bạn bè và tiến đến thành công.

2. Vân cẩn thận

Ngón áp út có đường vân cẩn thận chứng tỏ bạn thông minh và trưởng thành, bạn nghiêm khắc với bản thân, làm việc cẩn thận và thực tế, thường dựa vào sự nỗ lực của mình để có cuộc sống phú quý.

3. Vân 3 đường

Vân 3 đường trên ngón áp út chứng tỏ thời vận trung niên của bạn rất tốt, sự nghiệp thuận lợi, tình yêu ngọt ngào, hôn nhân mỹ mãn.

Soi ngón áp út biết tính cách và tương lai của bạn

 

4. Vân danh lợi

Ngón áp út có đường vân danh lợi chứng tỏ bạn có đầu óc nhanh nhạy, giỏi kinh doanh, dễ kiếm tiền và biết quản lý tiền bạc, có thể dựa vào năng lực quản lý và kiếm tiền để đạt được tiền tài và danh vọng.

5. Vân phiền não

Có vân phiền não trên ngón áp út chứng tỏ bạn rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương về tình cảm, nội tâm có nhiều vướng mắc không rõ ràng xoay quanh chuyện tình cảm và cần có người giúp đỡ.

6. Vân danh tiếng

Có vân danh tiếng trên ngón áp út chứng tỏ bạn có năng khiếu về văn học và nghệ thuật, rất dễ đạt được danh tiếng trên con đường nghệ thuật và học vấn, bạn luôn tự hoàn thiện bản thân trong quá trình theo đuổi khát vọng, danh tiếng vì thế cũng ngày càng vang xa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi ngón áp út biết tính cách và tương lai của bạn

Ý nghĩa sao Văn Xương

Người có sao Văn Xương ở mệnh thì thông minh, có học thức, hoạt bát, có năng khiếu rất sắc bén về văn chương, mỹ thuật, âm nhạc và nhiều lĩnh vực khác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Văn Xương

Ý nghĩa sao Văn Xương

Hành: Kim

Loại: Văn Tinh

Đặc Tính: Khoa giáp, học hành, phú quý.

Tên gọi tắt thường gặp: Xương

Là một Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Văn Xương và Văn Khúc. Gọi tắt là bộ Xương Khúc.

 

Vị Trí Ở Các Cung của sao Văn Xương:

Đắc địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi

Hãm địa: Tý, Dần, Ngọ, Thân

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Mệnh:

Tướng Mạo: Người có Văn Xương ở Mệnh có vẻ mặt thanh tú, khôi ngô. Người nữ thì có nhan sắc.

Tính Tình: Thông minh, có học thức, hoạt bát, có năng khiếu rất sắc bén về văn chương, mỹ thuật, âm nhạc và nhiều lĩnh vực khác

Công Danh Tài Lộc:

Văn Xương đắc địa là bộ sao phú quý, hiển đạt, phúc thọ rất có giá trị. Nếu có Lộc Tồn đi kèm thì tài năng xuất chúng. Nếu đi với Vũ Khúc thì tài năng kiêm nhiếp văn võ, có uy danh lừng lẫy và giàu sang.

Việc giáp Mệnh cũng tốt, nhưng đắc thời nhờ hoàn cảnh bên ngoài nhiều hơn là tài năng của chính mình.

Còn Văn Xương hãm địa, thì khốn khổ, phải bỏ làng lập nghiệp ở xa, có tật, bị tai họa, hoặc yểu tử. Đàn bà thì dâm đãng, bị u buồn vì gia đạo. Nếu gặp thêm sát tinh thì có thể là gái giang hồ, khắc chồng, ti tiện.

Những Bộ Sao tốt khi đi cùng sao văn xương:

Văn Xương, Hóa Khoa: Thi đỗ dễ và cao, có văn bằng cao.

Văn Xương, Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt: Khoa giáp tột đỉnh, thông minh xuất chúng, có tài thao lược, được trọng dụng, được đắc thời. Nếu thêm Nhật Nguyệt sáng thì năng tài đó đạt mức quốc tế.

Văn Xương, Thái Dương sáng: Lịch duyệt, học rộng, biết nhiều.

Văn Xương, Thiên Lương: Quý hiển, có uy danh lớn.

Văn Xương, Thiên Cơ: Khéo léo, tinh xảo về thủ công và ngôn ngữ.

Văn Xương, Vũ Khúc: Tài năng văn võ, được tiếng lừng lẫy. Nếu thêm Tả Hữu thì phú quý song toàn, hiển vinh về võ.

Những Bộ Sao Xấu khi đi cùng sao văn xương:

Văn Xương, Liêm Trinh ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu: Giảm thọ. Đặc biệt ở Tỵ Hợi, Văn Xương gặp Liêm Trinh hay bị tai họa, tù tội, yểu tử.

Văn Xương, Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ: Thi cử lận đận, dang dở, gián đoạn, công danh chật vật, khốn khổ, phải tha phương, hay bị tù tội, yểu tử (gặp Phá Quân đồng cung cũng vậy).

Văn Xương, Thiên Riêu: Lãng mạn, rất xinh đẹp.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ là người có học, có chữ nghĩa, có chức danh, nếu không thì cũng là người có tài nghệ khéo léo.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Phúc Đức:

Được hưởng phúc đức, gia tăng tuổi thọ, sống lâu.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Điền Trạch:

Gia tăng lợi ích cho việc mưu cầu nhà cửa.

Gia tăng nét đẹp về nhà cửa, nơi cư trú.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Quan Lộc:

Làm các nghề đặc biệt, đặc sắc về khéo léo chân tay, ngôn ngữ, thủ công, mỹ nghệ, mỹ thuật, văn học nghệ thuật thì nổi tiếng và phát tài.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Nô Bộc:

Bè bạn, người giúp việc, là người có chữ nghĩa, hoặc có tài nghệ đặc biệt, nhưng ham vui.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Thiên Di:

Ra ngoài có nhiều bè bạn, có danh tiếng.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Tật Ách:

Ít bị bệnh, nhưng nếu có thêm các sao xấu như Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, thì bị bệnh nan y, khó chữa, giảm thọ. Tuy vậy, vẫn có thần linh che chở, thoát hiểm hoặc gặp quý nhân cứu vớt.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Tài Bạch:

Giàu có nếu có nhiều cát tinh tốt, phá tán hao tài nếu gặp nhiều sao xấu, nhưng vẫn có người giúp đỡ.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Tử Tức:

Giàu có nếu có nhiều cát tinh tốt, phá tán hao tài nếu gặp nhiều sao xấu, nhưng vẫn có người giúp đỡ.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng danh giá, có học thức, hòa thuận, đẹp đôi.

Ý Nghĩa sao Văn Xương Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em đông, có người thành danh, nên sự nghiệp, nhưng phong lưu tài tử , tài hoa. Trong anh chị em thường người nữ cô độc, lận đận chồng con, chết non, nếu có các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp.

Văn Xương Khi Vào Các Hạn:

Nếu gặp các bộ sao đi với Văn Khúc thì có ý nghĩa liên hệ.

Văn Xương, Hóa Khoa hay Thiên Khôi, Thiên Việt: Có học hành, thi cử và đỗ cao trong hạn đó. Nếu gặp Kỵ có thể thi rớt.

Văn Xương, Thái Tuế: Được thăng quan, viết văn nổi tiếng.

Văn Xương Sát tinh: Tai họa lớn, bị kiện cáo, hao tài. Gặp thêm Linh, bị tù.

Văn Xương, Liêm Trinh, Kình Dương, Đà La: Tai nạn khủng khiếp, nếu không cũng bị tù tội. Nếu đại hạn xấu thì khó thoát chết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Văn Xương

Sinh con trai dễ hơn sinh con gái ?

Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để kết luận rằng phương pháp "canh" để sinh con trai dễ hơn rất nhiều so với các công đoạn "canh" để có được nàng công chúa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Tiết lộ dưới đây sẽ khiến các bạn ngạc nhiên, đây cũng là tin vui đối với những cặp vợ chồng đang thực hiện các biện pháp khoa học lẫn mẹo vặt dân gian để "canh" cho bằng được cậu quý tử nối dõi.

Theo cơ chế thụ thai thì việc sinh con trai hay con gái là phụ thuộc phần nhiều vào tinh trùng của người chồng. Vì tất cả trứng của người phụ nữ đều chứa nhiễm sắc thể X, trong khi đó nam giới lại sản xuất ra hai loại tinh trùng mang nhiễm sắc thể X và Y.

Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh với trứng thì sẽ sinh con gái (X-X), còn nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với trứng thì sẽ sinh con trai (X-Y). Vậy việc sinh con trai là phụ thuộc vào việc làm thế nào để cho tinh trùng Y có thể gặp được trứng. Việc này tưởng như rất khó nhưng hóa ra cũng khá đơn giản. Bạn chỉ cần thực hiện các gợi ý sau:

Tạo chất lượng tinh trùng

Các bác sĩ cho rằng nếu có lượng tinh trùng dồi dào, chất lượng thì khả năng sinh con trai sẽ cao hơn. Khi nhìn dưới kính hiển vi, người ta nhận thấy trong một mẫu tinh dịch bình thường thì lượng tình trùng mang nhiễm sắc thể Y cao hơn tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Tuy nhiên, với người giao hợp nhiều và nhịp độ cao (mỗi ngày một lần hoặc nhiều hơn) thì lượng tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y lại giảm.

Sinh con trai dễ hơn sinh con gái?
Bé trai dễ thương (ảnh minh họa)

Vì thế, nếu muốn sinh con trai thì nên giao hợp thưa đi để đảm bảo chất lượng  và trước ngày trứng rụng thì các chàng nên giữ gìn sức khỏe để đến ngày trứng rụng, khả năng đưa các “kỵ binh” của mình cán đích thành công là rất cao.

Canh ngày rụng trứng

Nếu muốn sinh con trai thì nên quan hệ vào ngày trứng rụng. Vì các tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thường mạnh và bơi nhanh hơn nên sẽ đến đích trước các tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Tuy nhiên, chúng lại có nhược điểm là “yểu mệnh” hơn các tinh trùng mang nhiễm sắc thể X, chúng chỉ sống khoảng 24 giờ, nên giao hợp vào thời điểm trứng rụng, hoặc ngay sau khi trứng rụng thì khả năng sinh con trai sẽ cao (trứng có thể tồn tại 1-2 ngày sau đó sẽ tự tiêu hủy). Còn nếu muốn canh con gái thì phải quan hệ trước ngày trứng rụng khoảng 2 ngày. Nhưng để tính được thời điểm trước khi trứng rụng không phải là đơn giản, chưa kể là trứng có thể rụng sớm hơn bình thường do yếu tố tâm lý hoặc ngoại cảnh tác động. Và để xác định ngày trứng rụng lại khá đơn giản.

Ngày trứng rụng thường rơi vào giữa chu kỳ, với một người có chu kỳ kinh khoảng 28 - 30 ngày thì ngày trứng rụng là ngày 14 – 16. Đơn giản hơn thì có thể tình rằng 14 ngày sau khi trứng rụng thì sẽ đến ngày hành kinh.

Nhưng nếu chu kỳ không đều thì có thể tính ngày trứng rụng bằng cách mua bộ thử nước tiểu để xác định ngày rụng trứng. Nếu thấy độ LH trong nước tiểu vượt lên cao thì khoảng 12 – 24 giờ sau trứng sẽ rụng.

Đo thân nhiệt cũng là cách để xác định ngày trứng rụng. Vào mỗi buổi sáng trước khi bước ra khỏi giường, bạn nên đo thân nhiệt, nếu trứng chưa rụng thì thân nhiệt thấp, dưới 37 độ C. Khi trứng rụng rồi thì nhiệt độ sẽ tự nhiên vượt lên trên 37 độ C.

Và dấu hiệu khi quá trình rụng trứng bắt đầu đó là dịch tiết từ âm đạo chuyển thành trong, nhớt, dịch nhầy. Nó hơi ướt và có thể kéo căng như lòng trắng trứng gà sống và thông thường khá dễ nhận biết. Hãy chú ý và đó là dấu hiệu rõ ràng bạn đang rụng trứng.

Tư thế quan hệ

Các bác sĩ cũng khuyên rằng: nếu muốn sinh con trai thì nên có vị trí giao hợp sâu để tinh trùng gần với trứng nhất, các tinh trùng Y sẽ bơi nhanh và dễ dàng tim đến trứng hơn. Và ngược lại, khi sinh con gái thì phải quan hệ nông để khi các “chiến binh” kiệt sức thì các nàng vẫn thủng thẳng về đến đích. Tuy nhiên, quan hệ thế nào để có độ “nông” vừa đủ, làm sao để tinh trùng có thể đủ tồn tại trong âm đạo và làm sao để không quá sâu thì không phải ai cũng biết cách làm thế nào cho đúng. Nên với cách này, xem ra, việc chủ động để canh con trai vẫn “dễ” hơn là canh con gái.

Ngoài ra, để sinh được con trai hay gái theo ý muốn, người ta còn khuyên các cặp vợ chồng nên chú ý cả chuyện ăn uống. Như ăn nhiều thực phẩm chứa kali và natri thì dễ sinh con trai, còn ăn nhiều thực phẩm chứa canxi thì dễ sinh con gái…

Việc canh con trai hay gái cũng không thể có xác xuất 100%. Nhưng nếu áp dụng theo những cách trên thì xem ra việc canh con trai sẽ “dễ” hơn so với việc canh con gái.


Trích từ nguồn: EVA.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh con trai dễ hơn sinh con gái ?

‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Nếu gặp người có Ấn Đường hẹp, miệng nhỏ chu ra phía trước, cằm khoặm... thì đích thị là tướng người ki bo và ích kỉ, không nên kết thân.
‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu gặp người có Ấn Đường hẹp, miệng nhỏ chu ra phía trước, cằm khoặm...thì đích thị là tướng người ki bo và ích kỉ, không nên kết thân.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Ấn Đường quá hẹp

 
Trong Nhân tướng học, Ấn Đường là nơi phản ánh tính cách và thái độ sống có coi trọng vật chất hay không của mỗi người. Người có Ấn Đường quá hẹp thường có tính cách yếu đuối, lại hay chi li tính toán thiệt hơn và thận trọng quá mức khi làm bất cứ việc gì. 
 
Ngoài ra, người này có lối sống ích kỉ, vụn vặn, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Đồng thời họ không có chính kiến, hay làm theo phong trào, không tin tưởng vào năng lực bản thân nên rất khó làm việc theo nhóm hay tập thể.

ki bo
Ảnh minh họa

2. Mặt nhọn, mũi nhỏ, lỗ mũi hẹp
 
Người có đủ ba đặc điểm trên thường có tính cách hướng nội, tâm tính nhỏ nhen, ích kỉ và đa nghi. Người này sống rất hà khắc, ki bo, tư lợi cá nhân, không bao giờ biết hi sinh vì ai đó. Hơn thế, họ coi trọng tiền bạc, có tiền giữ khư khư, không nỡ tiêu xài. 
 
Ngoài ra, người có tướng mạo như trên còn thích lo chuyện bao đồng, việc gì cũng phải chuyện bé xé ra to thì mới mãn nguyện. 
 
3. Miệng nhỏ và có xu hướng chu về phía trước

Dù là nam giới hay nữ giới, nếu có miệng nhỏ lại chu về phía trước, quanh viền môi có nhiều đường vân nhỏ thì tài vận không tốt, nên lúc nào cũng phải tiết kiệm chi tiêu quá mức, thậm chí là keo kiệt, không nỡ tiêu tiền. 
 
4. Răng nhỏ và khít lại

Đa phần những người có hàm răng đều, nhỏ và khít lại thì coi trọng tiền bạc vật chất, luôn có tư tưởng tích lũy nhiều hơn là chi tiêu. Họ rất giỏi trong việc quản lí tài chính, dù bạn bè có gặp chuyện lớn nhỏ cần giúp đỡ đến đâu, họ vẫn buộc chặt túi tiền của mình vì sợ bị người ta lấy mất, không trả lại.
 
5. Mùi khoằm
 
Đặc điểm mũi này là đầu mũi hơi cong và khoằm  lại. Người có tướng mũi khoằm thường thì tâm tư mờ ám, hay toan tính thiệt hơn, thậm chí còn lắm mưu nhiều kế để hãm hại người khác nhằm trục lợi cá nhân.
 
Người này luôn muốn tiết kiệm tiền nhưng lại theo chiều hướng tiêu cực. Họ sẽ tận dụng tối đa sự trợ giúp của bạn bè để bản thân không phải bỏ ra đồng nào mà vẫn hưởng lợi. Nói cách khác, họ biết cách để người khác phải chi trả cho mình.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Tuất không thích hợp làm trong lĩnh vực kinh doanh, nam mệnh nên đi xa xứ để đạt được thành công. Đường tình duyên của bản
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày canh tuất không thích hợp làm trong lĩnh vực kinh doanh, nam mệnh nên đi xa xứ để đạt được thành công. Đường tình duyên của bản mệnh lận đận.

 
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Tuat hinh anh
 
Ngày Canh Tuất trung đẳng, tọa chi Chính Quan, Thiên Ấn. Mệnh chủ nên hợp tác với người trụ ngày Tân Mão, đường đời tất gặp Kỷ Hỏa    Người sinh ngày Canh Tuất dù là nam hay nữ đều mang khí quan, điều đó có nghĩa là dù là lao động phổ thông nhưng cũng không mất đi tôn nghiêm, khiến người khác khó tiếp cận. Vậy nên, trong cuộc sống thường ngày, bản mệnh luôn ổn trọng đúng mực làm việc, tuy nhiền khó tránh khỏi có có nhiều sự nghi ngờ đối với người xung quanh.
Tìm hiểu về Huyền không phi tinh
Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh trong Lạc Thư làm chủ. Trong trường hợp khác nhau, cửu tinh sẽ xuất hiện tình huống bay thuận hoặc bay

Nam mệnh trụ ngày Canh Tuất phải đi xa xứ, du lịch nhiều mới có cơ hội phát triển, nếu làm trong lĩnh vực kinh doanh gặp nhiều trở ngại lớn. Nữ mệnh là người có nhiều mưu mẹo, tuy nhiên làm trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng khó có thể đạt thành tựu lớn.
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Tuất thấy đường tình duyên lận đận. Nữ mệnh có vẻ ngoài xinh đẹp, tài hoa, nhưng không đạt được lương duyên tốt. Nam mệnh nhận được nhiều sự trợ giúp từ vợ, tuy nhiên sức khỏe của người vợ luôn giảm sút
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Tuat hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Canh Tuất thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Sửu, Ất Dậu, Bính Dần, Bính Tý, Đinh Hợi, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Ngọ, Mậu Thìn, Kỷ Hợi, Kỷ Tỵ, Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Sửu, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ.
Tổng thống Obama: người đàn ông hội đủ thiên thời - địa lợi - nhân hòa Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Dịch vụ Đặt tên cho con hoặc đổi tên cho người lớn

1 - Ý nghĩa của tên gọi ảnh hưởng như thế nào đối với vận sốcủa con người Tâm lý hầu hết những ai sắp được làm cha mẹ đềumuốn tìm kiếm cho con mình 1 cái tên thật hay, thật có ý nghĩa, và mong muốncái tên ấy mang đến cho con mọi điều tốt đẹp nhất. Những người đã trưởngthành cũng mong muốn tên mình hay, có ý nghĩa liên quan đếnchí hướng, nguyện vọng, nghề nghiệp của mình.
Dịch vụ Đặt tên cho con hoặc đổi tên cho người lớn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong các phương pháp ứng dụng để khai thác các tiêu chí thông tin tốt xấu vận số con người qua các Đại-tiểu vận (Đai vận là 10 năm. Tiểu vận là 1 trong 10 năm của Đại vận đó), những Đại Sư khoa Tử Bình đã nhận thấy tên gọi của mỗi người cũng có ảnh hưởng chi phối nhất định đến vận số con người.

Theo khoa Tử Bình thì căn cứ theo Ngũ Hành Can Chi của tổ hợp Tứ trụ (Năm-Tháng-Ngày-Giờ) xem sự sinh-khắc-hình-hợp-xung-phá như thế nào, Hành nào quá yếu hoặc quá mạnh…gặp Can-chi Đại-Tiểu vận nào thì tốt đẹp nhiều thuận lợi hay mờ ám nhiều xung xấu…có thể nói giống như một phương trình phản ứng Hóa học vậy.

Nếu tổ hợp Tứ trụ các Can-Chi thể hiện Ngũ Hành đầy đủ, cân bằng (hai chữ CÂN BẰNG ở đây ta hiểu theo khái niệm tương đối), thì có thể dùng một tên nào đó tùy thích mà không phải lo sợ tên gọi đó ảnh hưởng xấu đến vận số của mình. Nhưng nếu tổ hợp Tứ trụ có một Hành quá yếu, thậm chí là không có... thì nên ứng dụng DỤNG THẦN NHÂN TẠO để lấy tên theo bộ Ngũ Hành (Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ), tức là có thể lấy một tên gọi thuộc Hành đã bị thiếu trong Tứ trụ để mỗi lần kêu tên là lại một lần được "nạp năng lượng", nên có thể nói tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp, nếu ứng dụng đúng thì có thể làm cho vận số cũng được tốt hơn.

Chẳng hạn như họ tên đầy đủ của một người là NGUYỄN THỊ THU THỦY, tứ trụ của người này Hành Thủy quá mạnh lại thiếu hẳn Hành Hỏa, thì nên đổi tên thành NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG. Vì chữ Ánh có tượng là ánh sáng và chữ Hồng thuộc Hành Hỏa. Tuy nhiên vì người này sinh trong tháng 11âm lịch, là thời điểm Hành Thủy cực vượng khắc Hỏa mạnh, trong khi Hỏa ở mùa Đông là tử địa nên cần phải ứng dụng thêm màu sắc để hỗ trợ cho Hành Hỏa. Trong sinh hoạt thường ngày cần thường dùng các đồ tư trang cá nhân có màu Đỏ hoặc Hồng như quần áo, khăn, mũ v.v…vì màu sắc là công cụ quyền lực chi phối Ngũ hành rất mạnh, chẳng hạn như trong một môi trường thích hợp nó có thể gây ra ảo giác.

2 -Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc

Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, tránh thô tục, không trúc trắc, phản cảm. Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi. Tên gọi phải có kiểu chữ đẹp, dễ viết, chân phương. Không trùng tên trong gia đình ít nhất là trong 4 đời. Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hoà giữa họ và tên, nhất là về ý nghĩa. Ví dụ: tên Mai Hiền: có nghĩa là đóa mai dịu dàng.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dịch vụ Đặt tên cho con hoặc đổi tên cho người lớn

Mẹo làm đẹp những "góc chết" trong nhà

Nếu biết lựa chọn đúng giải pháp, những góc thiếu vuông vắn, góc khuyết hoặc tối trong nhà sẽ trở nên ấn tượng hơn. Cùng tham khảo những mẹo hay dưới đây nhé!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các công trình nhà ở tư nhân hay công trình nhỏ thường có những "góc chết" nếu không biết xử lý. Đó là những chỗ lỡ cỡ, điểm vô duyên, làm ngôi nhà bớt đẹp, đồng thời cũng là nơi ít có khả năng sử dụng và luôn gây cảm giác bất tiện cho cuộc sống, sinh hoạt hàng này hoặc gây khó chịu về thị giác. Trong không gian phòng khách, các "góc chết" thường được khắc phục đơn giản bằng cách đặt thêm đồ trang trí hoặc bình hoa tươi.

trang trí phòng khách 
Trong ngôi nhà này, chiếc cột chịu lực khá to nằm giữa nhà và lại không liền với tường. Các KTS đã rất thông minh khi mượn luôn chiếc cột để làm thành hệ thống tủ kệ trang trí đồng thời là bức bình phong ngăn chia phòng khách với phòng ăn.

cải tạo phòng ngủ 
Trong phòng ngủ này, cột kết cấu lồi ra ngoài mặt tường được các KTS xóa bỏ
bằng một bức tường trang trí cùng hệ đèn chiếu sáng

phòng trẻ em 
Chiếc cột lồi ra ở góc phòng của trẻ em đã bị làm mở bằng hai chiếc kệ có độ dày
bằng đúng phần lồi ra giúp không gian vuông vắn như vốn có

phòng bếp 
Phần thừa ở bên cạnh và phía trên của tủ lạnh được biến tấu thành tủ đồ hữu dụng cho khu bếp

bố trí tiểu cảnh 
Tiểu cảnh được bố trí khéo léo bên cạnh thang, phía dưới giếng trời và nằm trên
mái của phòng vệ sinh tầng 1, đâu cũng là khoảng sàn không sử dụng.

thiết kế cầu thang 
Những cầu thang dài và rộng thường được tận dụng phần gầm cầu
thang làm phòng vệ sinh phụ hoặc kho

bố trí cầu thang 
Một kiểu tận dụng gầm cầu thang khá tinh tế: Phần thấp được tận dụng làm kho chứa
đồ nho nhỏ, còn phần cao để lắp đặt thiết bị hút mùi của bếp nấu

tiểu cảnh phòng khách 
Phòng khách gần chân cầu thang trở nên sinh động
hơn nhờ bố trí tiểu cảnh hợp lý

tiểu cảnh cầu thang 
Những tác phẩm nghệ thuật nổi bật hơn hẳn dưới gầm cầu thang nhờ chiếu sáng hợp lý

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo làm đẹp những "góc chết" trong nhà

7 bước cơ bản đem lại phong thủy tốt cho phòng ngủ

Phòng ngủ có phong thủy tốt là căn phòng thúc đẩy được dòng chảy hài hòa của năng lượng nuôi dưỡng và tình cảm. Một căn phòng ngủ có phong thủy tốt có khả năng mời gọi, thu hút, vừa kích thích vừa dịu êm. Đó cũng là căn phòng chứa đựng sự vui vẻ và lý thú cho giấc ngủ ngắn, giấc ngủ dài hay sự yêu thương say đắm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tạo phong thủy tốt cho phòng ngủ, bạn có thể sử dụng những thuật phong thủy đơn giản, thực tế dưới đây:

1. Không để TV, máy tính hay thiết bị tập luyện trong phòng. Nguồn năng lượng phong thủy có lợi sẽ bị vô hiệu nếu những vật dụng này được đặt trong phòng ngủ.

2. Thường xuyên mở cửa sổ hoặc sử dụng máy lọc không khí chất lượng tốt để giữ cho không khí sạch sẽ và đầy đủ oxy. Cần chú ý đến chất lượng không khí trong phòng ngủ. Phòng ngủ sẽ không có phong thủy tốt nếu không khí mà bạn hít thở cũ kỹ và ô nhiễm. Lưu ý rằng cây cảnh trong phòng ngủ cũng không tốt cho phong thủy, trừ khi phòng ngủ tương đối lớn và cây được đặt xa giường.



3. Phòng ngủ có nhiều cấp độ ánh sáng, hoặc có công tắc chỉnh độ sáng để điều hòa năng lượng phù hợp. Ánh sáng tốt và phù hợp rất quan trọng, bởi ánh sáng là “chất dinh dưỡng” số 1 và là một trong những cách biểu hiện năng lượng mạnh nhất. Nến là loại ánh sáng tốt nhất cho phong thủy phòng ngủ, nhưng nên nhớ cần mua loại nến không độc.

4. Sử dụng màu sắc nhẹ nhàng để cân bằng phong thủy trong phòng ngủ. Trang trí phòng ngủ theo phong thủy giúp thúc đẩy nguồn năng lượng tốt nhất cho những giấc ngủ dài, cũng như phục hồi khả năng giường chiếu. Màu phong thủy tốt nhất cho phòng ngủ là màu da, mà màu da người thường có nhiều loại khác nhau, từ màu trắng nhợt cho tới nâu socola. Hãy chọn những màu sắc phù hợp nhất với phòng ngủ của bạn trong phạm vi này.

5. Chọn tranh ảnh treo trong phòng một cách kỹ lưỡng, bởi tranh ảnh mang nhiều năng lượng phong thủy. Lời khuyên phong thủy tốt nhất cho phòng ngủ của bạn là lựa chọn những tranh ảnh thể hiện điều bạn mong muốn xảy ra trong đời mình. Tránh chọn những tranh ảnh buồn, cô đơn cho phòng ngủ nếu bạn không muốn cuộc đời bạn cũng buồn và cô đơn như vậy.

6. Thực hiện theo các hướng dẫn phong thủy cơ bản cho giường dưới đây:

•    Để khoảng trống 2 bên giường để dễ dàng lên xuống
•    Mỗi bên đầu giường để một chiếc bàn nhỏ
•    Tránh để giường và cửa nằm trên cùng một đường thẳng
Một chiếc giường “ưa nhìn” và thăng bằng tốt rất quan trọng trong việc tạo nên phong thủy phòng ngủ hoàn hảo. Nệm tốt, đầu giường chắc chắn và ga trải giường chất lượng cao làm từ sợi tự nhiên rất quan trọng trong việc tạo ra năng lượng phong thủy hài hòa.

7. Đóng tất cả cửa phòng vào ban đêm, gồm cửa nhà vệ sinh (nếu có trong phòng), cánh cửa tủ quần áo và cửa phòng ngủ. Điều này giúp cho nguồn năng lượng nuôi dưỡng tăng cường sức khỏe của bạn cũng như mối quan hệ của bạn. Giữ tủ quần áo sạch sẽ và gọn gàng sẽ tạo thêm cảm giác yên bình, êm đềm trong phòng ngủ.

Khái niệm phong thủy phòng ngủ hoàn hảo có thể khác nhau đối với những người khác nhau, nhưng có cùng 1 điểm chung là: Vui vẻ và Mơ mộng chính là điều cốt yếu. Một phòng ngủ có phong thủy tốt sẽ đem lại vẻ yêu thương, gắn kết và thư giãn cho mọi vật trong phòng.

Khánh Ngọc (Lược dịch)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 bước cơ bản đem lại phong thủy tốt cho phòng ngủ

7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh

Tiết Thanh Minh là dịp lễ truyền thống của người Việt. 7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh sẽ giúp bạn không phạm lỗi trong những ngày này.
7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiết Thanh Minh là dịp lễ truyền thống của người Việt, gắn liền với tục tảo mộ nhớ đến tổ tiên. 7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh sẽ giúp bạn không phạm lỗi trong những ngày này.


7 dieu kieng ki trong tiet Thanh Minh hinh anh 2
 
1. Kiêng thăm hỏi bạn bè   Tiết Thanh Minh là dịp để tổ chức tảo mộ, tế lễ nên không thích hợp để đi thăm viếng bạn bè hay đến nhà nhau chơi, có thể coi đây là điềm xấu. Nếu muốn gặp gỡ, nói chuyện thì nên mời nhau ra ngoài.   2. Kiêng kết hôn   Giống như trên, kết hôn là việc hỉ mà dù sao thì Thanh Minh cũng là tiết khí mà âm phần thịnh, nên tốt nhất là tránh ra, đợi tới tiết khí tiếp theo.   3. Kiêng du lịch   Trước hết, đây là thời gian nên dành cho việc tảo mộ, thăm viếng và cúng tế tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo, sự biết ơn và trân trọng quá khứ. Vì thế, hoạt động vui chơi như du lịch là điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh. Chỉ nên kết hợp tảo mộ với thăm lại cố hương, hít thở không khí trong lành vùng ngoại ô.   4. Kiêng mặc đồ màu đỏ   Trong tiết Thanh Minh đặc biệt không nên mặc đồ màu đỏ, cho dù là nội y cũng cần tránh, các loại trang sức, phụ kiện kèm theo cũng chú ý hạn chế. Ngoại lệ, người đang trong năm bản mệnh thì vẫn có thể mặc màu đỏ.   3 điều nên nhớ đừng quên trong tiết Thanh Minh
“Thanh Minh trong tiết tháng 3” là dịp lễ quan trọng trong truyền thống người Việt, không tổ chức rình rang nhưng ai ai cũng phải nhớ. Dưới

5. Kiêng mua giày
  Trong Hán ngữ, từ “hài” (giày) đồng âm với “tà” (xấu), mà tiết Thanh Minh lại là thời điểm âm khí khá thịnh do hoạt động lễ bái nhiều nên tốt nhất không nên mua giày để tránh điềm xấu tìm đến. Nếu đã trót mua, thì dùng giấy đỏ gói giày lại, đặt ở cửa một đêm, sáng hôm sau mang giấy đỏ đi đốt để hóa giải.   6. Kiêng tổ chức sinh nhật   Nếu trùng hợp mà sinh nhật vào tiết Thanh Minh thì không nên tổ chức rình rang, ví dụ như không nhận hoa tươi, không nhận bánh ngọt. Đặc biệt là với người cao niên thì càng nên kiêng vì như vậy cụ sẽ càng bình an cát tường niên kỉ, sống lâu trăm tuổi.
7 dieu kieng ki trong tiet Thanh Minh hinh anh 2
 
7. Hạn chế các hoạt động giải trí
  Tiết Thanh Minh hoạt động chủ yếu là tế tổ, tảo mộ, tưởng nhớ tới người đã khuất nên hạn chế các hoạt động giải trí ầm ĩ để tỏ lòng thành kính, đặc biệt kị cãi nhau, trong nhà tranh chấp, sau này sẽ sinh phiền toái.
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều kiêng kị trong tiết Thanh Minh

Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tết Trung Thu 15/8 âm lịch cũng là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – Nguyệt Thần theo Phật giáo. Kính ngưỡng Nguyệt Quang Bồ Tát, tu thêm phúc, tâm thanh
Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu 15/8 âm lịch cũng là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – Nguyệt Thần theo Phật giáo. Kính ngưỡng Nguyệt Quang Bồ Tát, tỏ lòng thành dưới trăng để tu thêm phúc, tâm thanh tịnh.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tet Trung Thu kinh nguong ngay sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Tết Trung Thu vào Rằm tháng 8 hàng năm là dịp lễ hội lớn, thể hiện đậm nét văn hóa truyền thống Á Đông. Đối với Phật giáo, đây không chỉ là ngày trông trăng đoàn viên, ấm tình thân ái mà còn là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – vị Bồ Tát làm chủ ánh trăng, dịu mát từ bi.   Nguyệt Quang Bồ Tát hay còn gọi là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, nguyệt quang phổ chiếu, cùng với Nhật Quang Bồ Tát là hiếp thị theo bồi của Dược Sư Như Lai. Nguyệt Quang Bồ Tát hiện thân màu trắng, ngự trên tòa, tày cầm Nguyệt Luân, cũng có lúc thấy Nguyệt Quang Bồ Tát đứng phía bên phải Dược Sư Như Lai.   Trong Phật giáo, Nguyệt Quang Bồ Tát là một trong 16 Kim Cương giới Mạn Đồ La, thứ bậc ở sân phía Tây, mặc đồ màu trắng, tay trái để ở giữa, tay phải cầm Nguyệt Quang hoặc Liên Hoa, tam muội hình bán nguyệt, ngồi xếp bằng trên đài sen.    Nguyệt Quang Bồ Tát cùng Nhật Quang Bồ Tát và  Quan Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết, tụng “Đại Bi Chú” thì cũng sẽ tăng thêm thần nhân của Nguyệt Quang Bồ Tát vô lượng, có hiệu nghiệm. Người tu hành tụng “Đại Bi Chú” có thể tụng thêm Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, thì Nguyệt Quang Bồ Tát sẽ đến che chở, loại trừ tất cả chướng khó ốm đau, đạt thành tựu tất cả thiện pháp, rời xa các loại bố úy.
Tet Trung Thu kinh nguong ngay sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Tết Trung Thu, ngoài trông trăng phá cỗ rước đèn, sum vầy cùng người thân, hãy dành thời gian để tâm hồn lắng lại dưới ánh trăng, hướng về Nguyệt Quang Bồ Tát mà thành kính tụng niệm. Đây cũng là vị Nguyệt Thần mà người phương Đông thường tổ chức lễ bái vào ngày Rằm.   Bái Nguyệt Thần để mưa thuận gió hòa, mừng lúa mới, mừng mùa bội thu, hướng tứi giá trị văn hóa truyền thống tâm linh tốt đẹp của cư dân nông nghiệp, cư dân châu Á. Dẫu đã xa rồi thưở làm nông nhưng phong tục tập quán ăn sâu trong tiềm thức vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào. Nguyệt Thần trong Tết Trung Thu theo quan niệm Phật giáo Đèn Trung Thu, giá trị truyền thống dần bị mai một Tết Trung Thu hướng Phật niệm Bồ Tát, tỏ lòng dưới trăng
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd