Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

4 vị trí không được lắp quạt trần trong nhà kẻo tài lộc tiêu tan

Bạn đã biết theo phong thủy thì tuyệt đối không được lắp quạt trần trong nhà ở 4 vị trí nào kẻo vừa hại sức khỏe, vừa hại túi tiền hay chưa?
4 vị trí không được lắp quạt trần trong nhà kẻo tài lộc tiêu tan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quạt trần là vật dụng rất quen thuộc trong các gia đình, nhưng bạn đã biết theo phong thủy thì tuyệt đối không được lắp quạt trần trong nhà ở 4 vị trí nào kẻo vừa hại sức khỏe, vừa hại túi tiền hay chưa? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.   Trong mùa hè nóng nực, có lẽ có hai vật dụng dường như đã trở thành thứ không thể thiếu trong các gia đình, đó là quạt và điều hòa. Nhiều nhà chọn cách lắp quạt trần ở những phòng lớn và diễn ra hoạt động chung của cả gia đình như phòng khách, phòng ăn hay thậm chí là cả phòng ngủ nữa.   Quạt trần là loại quạt có khả năng tạo gió tốt với hơi mát lan tỏa đến từng góc trong căn phòng, khiến cho cuộc sống của chúng ta tiện lợi hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trước khi lắp quạt trần trong nhà, bạn hãy đọc bài viết này để biết được những lưu ý về phong thủy đối với quạt trong gia đình nhé. Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu những điều cấm kị khi lắp quạt trần trong nhà ở.  

1. Vị trí thích hợp để lắp quạt trần đúng theo phong thủy


luu y phong thuy khi lap quat tran trong nha
 
Lắp quạt trần trong nhà là việc tưởng chừng đơn giản nhưng cũng cần lưu ý rất nhiều điều. Để lắp quạt đúng phong thủy, trước tiên chúng ta cần hiểu rõ 4 phương vị ngũ hành trong phong thủy, gồm có:   1) Chu Tước, ngụ ở phía trước, thường chỉ hướng Nam, ngũ hành thuộc Hỏa, còn gọi là Tiền Chu Tước. 2. Huyền Vũ, ngụ ở phía sau, thường chỉ hướng Bắc, ngũ hành thuộc Thủy, còn gọi là Hậu Huyền Vũ.  3) Thanh Long, ngụ ở phía bên trái, thường chỉ hướng Đông, ngũ hành thuộc Mộc, còn gọi là Tả Thanh Long. 4) Bạch Hổ, ngụ ở phía bên phải, thường chỉ hướng Tây, ngũ hành thuộc Kim, còn gọi là Hữu Bạch Hổ.

Bạn cũng có thể tham khảo thêm Giải thích vị trí của tứ tượng Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ trong phong thủy để biết rõ hơn.
  Các nhà phong thủy học cho rằng, Thanh Long là nhuệ thú, có thể thúc đẩy cát khí, chủ quý nhân, còn Bạch Hổ là hung thú, thường đem lại tai họa cho con người, chủ tiểu nhân. Chính vì thế mà quạt mát trong nhà nói chung và quạt trần trong nhà nói riêng nên lắp ở phương vị Thanh Long, có như thế thì gió từ quạt thổi ra mới thổi được cát khí từ Thanh Long vị đi khắp căn phòng, khiến cho mọi người đều được đắm chìm trong không khí cát lành. Khi ấy, dù có làm gì, có gặp phải khó khăn lớn đến đâu cũng sẽ được quý nhân phù trợ.   Ngược lại, nếu lắp quạt ở vị trí Bạch Hổ thì quạt sẽ thổi hung khí đi khắp phòng, ảnh hưởng đến vận khí của mọi người sống trong nhà. Cứ như vậy suốt một thời gian dài, gia chủ sẽ gặp đủ rắc rối bởi vận hạn xui rủi mà nó mang lại, làm gì cũng khó khăn trắc trở, bị tiểu nhân ngăn cản, khó thành đại sự.  

2. Những điều cấm kị phong thủy khi lắp quạt trần trong nhà

  Có nhiều người không có thói quen sử dụng quạt bàn mà thường dùng quạt trần ở nhà. Tác dụng của hai loại quạt này không có gì khác nhau, chính vì thế mà theo phong thủy học thì những điều cấm kị cần chú ý đối với quạt trần cũng có thể áp dụng tương tự đối với quạt bàn hay quạt treo tường.   Tuy nhiên, xét về tổng thể thì quạt trần được lắp trên trần nhà, tạo cảm giác đè ép, lực gió cũng mạnh hơn, khí thế vượng hơn quạt bàn. Chính vì thế, nếu không chú ý đến phong thủy thì nó sẽ gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng hơn quạt bàn rất nhiều. Có 4 vị trí này trong nhà không nên lắp quạt trần  

1) Bên dưới quạt trần là vật dụng có người ngồi thường xuyên

  Điều trước tiên cần chú ý đó là khi xác định vị trí lắp quạt trần, tuyệt đối không được lắp ở vị trí mà ngay thẳng bên dưới quạt là những vật dụng mà con người thường xuyên ngồi đó như bàn ăn, bàn trà, bàn làm việc hay giường ngủ… Nguyên nhân cơ bản là vì, nếu lắp quạt trần ở vị trí đó, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, người ngồi dưới sẽ bị sát khí “Áp đỉnh sát” bao trùm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như tinh thần, dễ gây đau đầu chóng mặt hoặc gây ra các bệnh về thần kinh. Cách tốt nhất là tránh khỏi những vật dụng đó càng xa càng tốt khi lắp đặt quạt trần.

khong nen lap quat tran ngay tren vat dung co nguoi ngoi thuong xuyen
 
  Thêm nữa, quạt trần không nên lắp quá thấp, khiến cho gió không tỏa đều mà thổi trực tiếp với lực rất mạnh, dễ thổi bay tài khí trong nhà, khiến tài lộc khó tích tụ. Hơn nữa, đây cũng là một điều bất lợi khi xét đến yếu tố an toàn, người đi lại bên dưới dễ gặp nguy hiểm, nhất là những người có chiều cao khủng. Nếu trần nhà quá thấp thì nên cân nhắc khi muốn lắp quạt trần, bạn có thể chọn những loại quạt có kích thước thích hợp với căn nhà mình để không phạm phải phong thủy, cũng có thể sử dụng điều hòa hay quạt bàn để phù hợp hơn với không gian trong nhà.   Ngoài ra, nhìn từ góc độ phong thủy thì gió từ quạt trần cũng khác nhiều với gió của quạt bàn, quạt trần thổi gió đi bốn hướng, dễ thổi bay cả tài khí vốn đang tích tụ trong nhà. Tài khí vốn đã khó tụ, nếu bị gió làm cho lung lay thì càng thêm khó khăn hơn để tài khí được giữ lại trong căn nhà. Nếu gia đình bạn cứ mãi nghèo, kinh tế không vững vàng, tiền bạc cứ có rồi lại mất, làm bao nhiêu cũng không đủ để chi tiêu… thì có thể xem xét nguyên nhân, liệu có phải do lắp đặt quạt trần không hợp phong thủy hay không.


khong nen lap quat tran tren ban an
 
  Trong trường hợp này, tốt nhất nên tháo bỏ quạt trần và dùng quạt bàn, nếu không thì tìm vị trí Thanh Long trong nhà để trợ thêm lực cho tài lộc được thêm phần tăng tiến. Đừng để một chiếc quạt trần nhỏ khiến cho tài vận của cả gia đình tiêu tán, kinh tế càng ngày càng thêm lụn bại.  

2) Lắp quạt trần thẳng với cửa ra vào

  Nếu quạt trần được lắp ở vị trí thẳng với cửa ra vào thì đã phạm phải nguyên tắc “tàng phong tụ khí” trong phong thủy, khiến gia chủ chẳng những không thể tụ tài mà còn bị tán tài tán lộc, khó tụ nhân khí. Đây là điều bạn cần cân nhắc khi lắp quạt trần trong nhà.    Tài khí vào nhà là thông qua cửa ra vào, vậy nên nếu quạt trần lắp ở vị trí đối diện cửa ra vào thì ngay lập tức sẽ khiến cho tài khí vừa vào đến nhà đã bị thổi ngược ra ngoài, vận trình tài lộc của gia chủ khó bề tăng tiến. Nếu phòng có diện tích quá nhỏ, không thể tránh được trường hợp quạt trần và cửa ra vào thẳng nhau thì hãy chuyển sang dùng quạt bàn hay điều hòa để không phạm phải đại kị này.  

3) Quạt thổi thẳng vào giường ngủ hay sô pha


khong nen lap quat tran ngay ben tren giuong
 
Điều này cũng áp dụng tương tự với quạt treo tường, cần chú ý khi lắp đặt bởi nó gây ra rất nhiều tác động xấu. Thứ nhất, nó ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà, thứ hai là gây bất lợi cho vận trình của gia chủ. Quạt thổi thẳng vào người dễ khiến nhiệt độ cơ thể giảm mạnh, dẫn đến cảm cúm, thậm chí trúng phong, khiến sức khỏe bị suy giảm rõ rệt. Trong những trường hợp này, bạn có thể xem xét thay đổi vị trí lắp đặt hoặc sử dụng điều hòa để giảm bớt tác hại.

Mời bạn xem thêm Áp dụng những mẹo phong thủy phòng khách để thu hút tài lộc.
 

4) Không được lắp quạt trần ở phương vị Bạch Hổ

  “Thanh Long vị cát, Bạch Hổ vị hung”, “Thanh Long thiên động, Bạch Hổ thiên tĩnh”. Ta có thể xác định phương vị Thanh Long – Bạch Hổ đơn giản bằng cách, chúng ta đứng ở giữa phòng, mặt hướng về phía cửa phòng. Khi đó, bên tay trái chúng ta là Thanh Long vị, còn bên tay phải là Bạch Hổ vị.    Bạch Hổ là hung vị, lắp đặt quạt ở đây dễ khiến cho vận trình gia chủ ngày càng sa sút, bị tiểu nhân ngáng trở, công việc khó bề suôn sẻ, tài lộc hư hao.
An An

Nhà treo nhiều gương có tốt không? Năng lượng chết mang đến vận rủi trong phong thủy nhà ở Nằm lòng những điều này, 12 con giáp không lo gặp xui xẻo khi bài trí đồ đạc trong nhà Sai lầm phong thủy nhà ở xua đuổi tài lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 vị trí không được lắp quạt trần trong nhà kẻo tài lộc tiêu tan

Kiêng kỵ khung cửa kích cỡ xấu –

Hiến tượng: Độ dài của chiều cao và chiều rộng khung cửa. nếu dùng thước Lỗ Ban để đo mà ra kết quả xấu thì không hợp với phong thủy. Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất, chiều cao xuất hiện chữ "hắc" có thể dùng tấm gỗ để tăng t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiến tượng: Độ dài của chiều cao và chiều rộng khung cửa. nếu dùng thước Lỗ Ban để đo mà ra kết quả xấu thì không hợp với phong thủy.

hinh17

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất, chiều cao xuất hiện chữ “hắc” có thể dùng tấm gỗ để tăng thêm chiều cao ngưỡng cửa đến kích thước phù hợp với chữ “hồng” để hóa giải. Chiều rộng nếu là chữ “hắc”  thì sửa cửa đương nhiên là phương thức tốt nhất Nếu không thể sữa cửa thì trên ngưỡng cửa có thể đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải.

Trong thước Lỗ Ban. của cung chú thích bằng chữ Hán hoặc ngôn ngữ khác, ý nghĩa tốt xấu được thể hiện bằng hai cách:

1. Ý nghĩa các cung:

2. Màu đỏ là tốt. màu đen là xấu

Thước Lỗ Ban

Thước lỗ ban thường được gọi là “thước văn công”, dài 1 thước 4 thốn 1 phân (khoáng 45cm). lấy 5 chữ Sinh- Lão – Bệnh – Tử – Khổ làm cơ sờ, chia thành 8 vạch, có cát có hung, lần lượt là: Tài (tiền tài, tài năng), Bệnh (tai nạn bệnh họan. bất lợi). Lỵ (lục thân ly tán phán ly). Nghĩa (phù hợp chính nghĩa và quy phạm đạo đức hoặc có quyên góp hành thiện), Quan (quan vận), Kiếp (bị cướp giật, ức hiếp), Hại (gặp họan). Bản (bản vị hoặc bản thể của sự vật). Thước Lỗ Ban thường thấy lại chia thành 2 bộ phận trên dưới: Nửa trên là thước văn công, dùng dể
đo kích thước dương trạch, thần vị, phật cụ (dụng cụ thuộc về phật giáo) Nửa dưới là thước dinh lan, dùng để do kích thước âm trạch, tổ khám (bàn thờ tổ).

Dưới đây Là ý nghĩa các chữ ký hiệu trên thước Lỗ Ban:

Tài

Tài Đức: chỉ biểu hiện về các mặt tiền tài, đức hạnh Bảo Khố: đạt được hoặc bảo vật được cất giấu (kho báu)

Lục Hợp: tứ phương Thiên – Địa (hoà hợp mỹ mãn hoà thuận) Nghênh Phúc: đón phúc

Bệnh

Thoái Tài: phá sản Công Sự: bị kiện cáo tố tụng

Lao Chấp: tai họa lao ngục

Cô Quả: sống một mình cô độc

Ly

Trường Canh: giam ngục

Kiếp Tài: phá sản. hao tổn tài sản

Quan Quỷ: việc do khí quan có sát khi dẫn đến (bất hòa)

Thất Thoát: thất lạc đồ vật. người ly tán

Nghĩa

Thiên Đinh: sinh con trai ích Lợi: tiến tài, lợi lộc tăng tiến

Quý Tử: sinh con quý tử

Đại Cát: cát lợi cát tường

Quan

Thuận Khoa: thi cử thuận lợi. học hành tiến bộ

Hoàn tài : có của cải ngoài sự mong đợi

Tiện ích: Thu được lợi, ích tăng tiến

Phú quý: Có của cải, có thế lực

Hại

Tài Chí: Gặp tai ương

Đủng Khoa: thi đỗ được nhận

Tử Tuyết: Chết hết , chết sạch

Bệnh lâm: Mắc phải bệnh tật

Khẩu thiệt:Tranh chấp, tranh cãi

Kiếp

Tử biệt: Vĩnh biệt

Thoái khẩu: Có tang

Li hương:Rời xa quê hương phiêu bạt quê người

Tài thất: Tổn hại tài sản,mất của

Bản

Tài chí:Của cải đến

Dăng khoa:Thi đỗ được nhận

Tiến bảo:Phát tài, phát lộc

Hưng vượng:Hưng thinh , vượng thịnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ khung cửa kích cỡ xấu –

Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

Một bài viết rất hay của tác giả Phong Nguyên tìm hiểm về tính tình phái nam qua tử vi. Đây là một vấn đề rất hay!
Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả PHONG NGUYÊN

Tôi đã có dịp bàn về tính tình phụ nữ qua tử vi trên giai phẩm này. Để cho được công bằng như đã hứa, nay tôi xin thảo luận về tính tình phái nam vì e rằng sự chậm trễ thêm nữa sẽ có thể bị các bà, các cô hiểu lầm là tôi gián tiếp che đậy các “nhược điểm” của những người đồng phái, bằng cách tránh sẽ viết bài này.

1) Những yếu tố Tử vi tiêu biểu cá tính tốt

Trước hết tôi cần nói rằng vì khuôn khổ bài báo giới hạn nên tôi chỉ có thể nêu ra những yếu tố tiêu biểu mà thôi, và như vậy đương nhiên có rất nhiều trường hợp không được đề cập đến sẽ có thể làm cho những độc giả liên hệ hơi bực mình, nhưng tôi cũng chẳng biết làm sao đáp ứng hết mọi ý muốn của độc giả.

a) Sao Tử Vi thủ Mệnh

Đối với phái nam, nếu tôi là phụ nữ tôi ưa nhất những người nào có Tử vi đơn thủ tại mệnh ở Ngọ (nhất là người tuổi Hành Thổ và Kim) vì nguyên một sao này đã hội đủ hết đặc tính hay của đàn ông.

Thực tế, tôi đã nghiệm thấy nhiều người chỉ có sao này mà biết bao nhiêu cô chết mê chết mệt, vì ngoài tư thái trượng phu, quân tử, bao dung, quý phái, các đương số còn rất lịch thiệp, có thể nói là rất Galant, đó là chưa kể đến vóc dáng hiên ngang, oai vệ và diện mạo khôi ngô (không phải thuộc phạm vi bài này). Tuy nhiên, nếu cô nào hay ghen tuông thì lại không nên kén chọn ý trung nhân có Tử Vi thủ Mạng, vì làm sao ông chồng có thể giữ trọn vẹn trung thành với mình, mặc dầu không mấy khi đương sự phản bội mình một cách trắng trợn hoặc tàn nhẫn, vì sao Tử Vi luôn giữ vững tư cách của nó. Nhưng nếu nói khách quan thì cô nào có đức lang quân như vậy tưởng cũng là một điều hãnh diện cho mình khi thấy xung quanh biết bao nhiêu phụ nữ mong muốn có người chồng như mình.Nếu ngoài sao Tử vi ra lại còn có Khôi Việt, Đào Hồng nữa thì phải nói là sự tốt đẹp đã gia tăng lên bội phần. Khi đó ta có thể cho rằng đương số thành công tuyệt vời đối với phụ nữ, nếu không muốn nói đến công danh cũng hiển hách. Còn trường hợp bị Tuần Triệt án ngữ hoặc Không Kiếp xâm phạm quý bạn đừng vội khen vì lúc đó đương số mất hết cả những điểm hay, có khi cón tỏ ra gàn dở, ngang bướng hoặc lẩm cẩm nữa...

Sau cách Tử vi cư Ngọ, tôi thích cách Tử Phủ (Dần hoặc Thân, nhưng Tử Phủ cư Thân hay hơn về phương diện khác) nhưng cũng với điều kiện không bị Tuần Triệt hoặc Không Kiếp xâm phạm thời mới hay. Sở dĩ tôi không coi cách này hay hơn Tử Vi cư Ngọ,vì khi đã có Thiên phủ đồng cung thì tính tình trở nên đạo mạo, đứng đắn quá khiến cho phụ nữ cảm thấy cuộc sống hơi khô khan, buồn tẻ; nhất là khi có thêm Lộc tồn, Cô Quả tăng cường, thì có lẽ cả ngày đương số chẳng buồn mở miệng nói chuyện với vợ. Nhưng đối với chị nào chỉ thích chồng ru rú tại nhà và đạo đức, đứng đắn thì chắc cách Tử Phủ là hay nhất. Về cách Tử Vi, Thất sát (cư Tỵ hoặc Hợi) cũng có những đặc tính tương tự như Tử Phủ, nghĩa là con người đứng đắn, chỉ biết lo làm ăn mà thôi.

Còn những cách Tử Phá, Tử Tham, Tử Tướng tôi không liệt kê vào phần tốt được vì tuy đối với phái nam những cách đó không xấu bằng đối với phụ nữ, nhưng ít ra cũng có nhiều điểm không thể khen được.

b) Thiên Lương thủ Mệnh

Có thể nói bất cứ Thiên Lương ở đâu (trừ ở Hợi) cũng đều được cả về phương diện tính tình vì dù sao Thiên lương cũng chủ về đứng đắn, tư cách mà ta thường thấy ở các nhà mô phạm, giáo chức, nhưng tốt nhất là Thiên Lương cư Ngọ và sau nữa là Đồng Lương (cư Dần hoặc Thân), Cơ Lương (cư Thìn hoặc Tuất).

Thiên lương cư Ngọ dù có gặp Đào Hồng tính tình của đương số vẫn không đến nỗi tệ vì Thiên Lương vẫn chế ngự được thói hoa nguyệt của Đào Hồng, nhất là khi có Hóa Quyền hoặc Thiên Hình đồng cung. Còn trường hợp Đồng Lương cần có thêm Hóa Quyền để gia tăng nghị lực và uy lực vì Lương dính với Đồng sẽ trở nên “nhu nhược” phần nào, là một điểm đàn ông nên tránh. Riêng về Cơ Lương thì khỏi cần có Hóa Quyền cũng được, vì Lương đi với Cơ là con người rất mưu trí, khôn ngoan khó lòng ai qua mặt được nếu bề ngoài đương số tỏ ra hiền lành, mềm mỏng nhưng trong tâm hồn đã có sẵn cả một kế hoạch để đối phó khi cần. Nếu chị em nào cần người quán xuyến, tháo vát, lanh lợi ngầm, có lẽ nên chọn người có Cơ Lương hơn là Đồng Lương, vì Đồng Lương còn có tính ham vui chơi, hay nhảy nơi này nơi khác.

c) Nhật Nguyệt thủ Mệnh

Đa số những người có Nhật Nguyệt chiếu Mệnh thường hay có hoài bảo lớn lao, muốn chọc trời khuấy nước, trừ trường hợp Nhật Nguyệt hãm địa. Nhất là người có Thái Dương độc thủ tại Ngọ lúc nào cũng rất muốn thực hiện những kế hoạch độc đáo, phi thường, ngoạn mục mặc dầu có tính cách giai đoạn cho nên tính tình bị ảnh hưởng rất nhiều về sự “bốc đồng” đó. Tính tình này có hợp với phụ nữ hay không còn tùy thuộc tâm hồn từng hạng người. Ngoài ra, người có Nhật Nguyệt còn hay mơ mộng thái quá, ít thực tế nên dễ bị thiếu thốn về vật chất, nếu có nhiều cách khác làm giảm sự tốt đẹp của Nhật Nguyệt đi. Vì vậy tuy Nhật Nguyệt là cách của những người thông minh tuyệt vời, nhưng tôi không dám nghĩ là cách tốt nhất đối với nhãn quan của phụ nữ bởi vì không có gì bực mình bằng sống bên người chồng tối ngày miệt mài với kế hoạch này kế hoạch nọ, chẳng còn biết nhìn vào cuộc sống thực tế hoặc lãnh vực tình cảm gia đình. Có những trường hợp được Nhật Nguyệt mà không thông minh thì lại có tài về kinh doanh, buôn bán cho nên cũng quá lo bon chen trên đường danh lợi mà quên lãng nhiều gia đình, vợ con. Nếu chỉ nghĩ đến tiền tài là đủ thì nên lập gia đình với người có Nhật Nguyệt, nhất là khi có Tả Hữu, Song Lộc.

d) Thiên Phủ Thủ Mệnh

Bất cứ trừơng hợp nào quý bạn thấy có Thiên Phủ tại Mệnh, quý bạn có thể tin tưởng được là đương số đứng đắn, trung hậu, khoan dung, dù có bị Tuần, Triệt án ngữ cũng vậy chỉ có giảm đi phần nào chứ không có bị kết quả ngược lại. Nhưng đa số phụ nữ bây giờ không ưa ông chồng đứng đắn quá mức, ít ra cũng có chút “lả lướt” đối với mình mới cho là có hạnh phúc. Nhất là khi có thêm Cô, Quả, Lộc Tồn, Quan Phúc thì chắc chắn đương số sống như một nhà tu hành.

e) Thiên Đồng Thủ Mệnh

Sau hết là sao Thiên đồng thủ Mệnh mà tôi cho là không được “thuận lợi” lắm đối với phụ nữ, vì sao này trước hết chủ về tính tình mềm yếu, đôi khi đâm ra nhu nhược. Đó là những tính người phụ nữ không phục và cũng không ưa. Sau nữa Thiên đồng chủ về sự hay thay đổi, mau chán, ít khi giữ vững được lập trường cho nên khó lòng trung thành được với người yêu hoặc vợ. Nhưng dù sao vẫn phải liệt kê Thiên đồng vào phần cá tính tốt vì sao đó vẫn chủ về tâm hồn đạo đức, hiền lành, tử tế là những tính cần thiết cho người đàng hoàng. Chỉ có điều cần là nên có thêm Hóa Quyền đồng cung và Thiên Hình nữa càng hay, để giảm bớt sự nhu nhược và tăng thêm nghị lực để giữ vững lập trường là trở thành hay ngay.

2) Những yếu tố tử vi tiêu biểu cá tính xấu

a) Tham Lang –Địa Kiếp

Cũng như đối với phụ nữ, hai sao này không nên có tại Mệnh của phái Nam. Tuy nhiên, đối với phái nam đặc tính xấu có phần giảm bớt về cách cư xử với vợ con, gia đình vì họ chỉ có thủ đoạn với xã hội hoặc bạn bè mà thôi. Đó là điểm khác giữa phái nữ và phái nam khi có hai sao này thủ mạng. Thực thế, tôi đã được xem nhiều lá số của phái nam về trường hợp này thì thấy rằng có người rất lưu manh trong xã hội nhưng lại biết lo toan tận tình cho cha mẹ, vợ con. Như vậy chị em nào thấy chồng mình có Tham lang hội Địa Kiếp đừng vội chán ghét đức lang quân mà tội nghiệp. Nhưng trường hợp ngược lại thì không phải đâu nghe!

b) Liêm Tham (đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi)

Hai sao này thủ Mệnh thường thường tiêu biểu cho người đàn ông cục cằn, vũ phu tuy vẫn có tình cảm. Nếu chẳng may có thêm Hóa Quyền và Hỏa Linh thì phụ nữ không nên chung sống với đương số vì sẽ bị nô lệ hoàn toàn và còn bị mắng chửi tối ngày. Trong trường hợp này rất cần những sao “hiền” chế hóa bớt đi, như có Hóa Khoa, Đào Hồng, Khôi Việt, Tràng sinh, Đế vượng…thì có thể chịu đựng nổi. Nhưng đối với xã hội, bạn bè thì đương số lại là người rất sốt sắng, trung thực, thẳng thắn, vị tha, cởi mở và rộng rãi.Tôi đặt trường hợp Liêm Tham vào mục “xấu” là vì tôi muốn đứng vào lập trường phụ nữ tìm hiểu phái nam.

c) Liêm-Sát (đồng cung tại Sửu hoặc Mùi)

Cũng như Liêm Tham, hai sao này chủ về sự nóng nảy, thẳng thắn thái quá, ít khi chịu tỏ ra mềm mỏng, tế nhị, nhất là khi có Hóa Quyền, Thiên Hình đồng cung, thành ra không phải là cách phụ nữ mong muốn, nhưng đối với xã hội loại người này lại rất đáng khen vì không những họ thẳng thắn, trung thực mà họ còn trong sạch, liêm khiết, khó lòng bị mua chuộc. Nếu họ được giao phó nhiệm vụ bài trừ tham nhũng, hoặc thanh tra guồng máy chính phủ, quân đội thì chắc chắn họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn. Do đó, chỉ vì đứng vào lập trường phụ nữ mà tôi phải đưa người Liêm Sát vào mục “xấu”, rất mong những độc giả nào có hai sao này hãy thông cảm cho lý do “chuyên môn” đó.

d) Vũ Phá đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi

Những người có 2 sao này thủ Mạng bề ngoài tỏ ra con người hiền hòa, cởi mở và dễ tính nhưng thực ra quý bạn phải coi chừng tâm hồn họ hay có phản ứng mạnh mẽ nhưng thầm lặng và thực ra họ rất khó tính: hơi một chút trái ý, họ còn có tính thích chọc phá người khác khi thấy có gì ngang tai trái mắt, họ ưa phù suy chứ không phù thịnh, cho nên đối với loại người này chỉ dùng sự phục tòng, chiều lụy thì thành công chứ không thể nào gây ảnh hưởng bằng uy lực, tiền tài…được. Vì vậy, người vợ cũng khó chiều những ông chồng nào có Vũ Phá tại Mệnh và có khi suốt cả đời cũng chẳng hiểu nổi người bạn đời của mình, như thế không thể có hạnh phúc gia đình được.

e) Thiên Cơ-Thái Âm (đồng cung tại Dần hoặc Thân)

Đàn ông chẳng may có Thiên Cơ đồng cung với Thái âm tại Mệnh thì chỉ làm nô lệ cho đàn bà và chẳng có gì đáng khen cả. Nếu chỉ coi người này như là bạn hoặc người tình thì có thể nói là không sao mà còn cảm thấy thoải mái được người yêu chiều lụy mình nhưng khi đã có chồng Thiên Cơ Thái Âm như vậy thì đó là điều bất hạnh, vì không sớm thì chồng mình sẽ chạy theo người đàn bà khác và sẽ tuyệt đối phục tùng người đó ngoài vợ mình ra. Như thế còn gì nhục nhã cho bằng. Trong trường hợp này rất cần có Hóa Quyền cứu vớt thể diện phần nào, chứ nếu có thêm Hồng Loan hoặc các sao ủy mị nữa thì vô phương cứu chữa được sự nhục nhã ê chề đó.

Tôi xin tạm ngừng phần “xấu” ở đây và nói với quý nữ độc giả là về phương diện tính tình, tương đối phái nam chịu ảnh hưởng các sao xấu ít hơn phụ nữ, vì môi trường hoạt động của họ khác hẳn môi trường của phái nữ, chứ không phải tôi có ý che đậy những khía cạnh xấu của họ. Tỷ dụ như phụ nữ có Tham Lang bao giờ cũng tệ hại hơn phái nam, hoặc có Tang Hổ thì bất lợi hơn hẳn phái nam trong khi hai sao này có nhiều khía cạnh “xài được” cho đàn ông.

Mục đích của bài này chỉ là để giúp quý bạn phụ nữ có một khái niệm về cách tìm hiểu phái nam qua Tử vi chứ không thể đưa ra một bản liệt kê tất cả những trường hợp tốt và xấu của phái nam để lựa chọn hoặc nhận định vì như thế sẽ quá dài và quá khó khăn đối với khuôn khổ bài báo và khả năng của tôi. Mong được quý bạn thông cảm, nhất là những nữ độc giả đã viết thư thúc giục tôi viết bài này.

KHHB số 74J2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

Vào ngày 9 tháng 1 âm lịch có tổ chức các lễ hội Hội Làng Túy Loan,Hội Vật Võ,Hội Xuân Hồ Ba Bể,Hội Yên Tử,Hội Tiên lục,Hội làng Triều Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

1. Hội làng Triều Khúc

Thời gian diễn ra: tổ chức từ ngày mùng 10 tới ngày 12 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công lao của Bố Cái đại vương Phùng Hưng, và Thánh sư họ Vũ (ông tổ của nghề dệt).

Nội dung diễn ra: Biển sáng ngày hội có, lễ tế chính thức được tiến hành ở đình lớn. theo truyền thuyết thì đây là lễ Tức Vị (lễ lên ngôi) của vua Phùng Hưng. Mở đầu hội là lễ rước long bào - triều phục của Hoàng đế Phùng Hưng từ đình sắc về đình lớn để bắt đầu cuộc tế gọi là lễ "Hoàn Cung".

Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình, các trò chơi vui cũng bắt đầu được tổ chức. Một trong những trò chơi vui được nhiều người yêu thích nhất là trò múa "Đĩ đánh bồng" hay còn gọi là múa trống bồng. Đây là một điệu múa cổ do hai chàng trai giả gái biểu diễn, trong bộ quần áo mớ ba mớ bẩy, cùng với hóa trang má phấn môi son, răng đen hạt huyền, mắt lá răm, khăn mỏ quạ. Hai "Cô gái" vừa nhún nhảy vừa vỗ trống Bồng đeo trước bụng. Tiết mục này thường thu hút người dự hội nhiều nhất và cũng là tiết mục sinh động và độc đáo nhất trong lễ hội.

Bên canh múa trống Bồng còn có một điệu múa rồng cầu mong mưa thuận gió hòa, thái quốc dân an, phồn vinh và thịnh vượng.

Ngoài ra, trong hội làng Triều Phúc còn có nhiều trò vui khác như: múa lân hí cầu, đấu vật, hát chèo Tàu. Sới vật Triều Khúc cũng là một trong những sới nổi tiếng, thu hút khá đông các đô vật từ nơi khác về tham dự: Bắc Ninh, Gia Lâm, Mai Động...

Ngày cuối của lễ hội có lễ giã đám và kết thúc bằng một điệu múa cờ (còn gọi là múa chạy cờ). Khi mọi nghi lễ kết thúc cũng là mọi người ngồi vào chiếu để hưởng lộc Thánh.

2. Hội Tiên lục

Thời Gian: được tổ chức vào các ngày 9 tháng 1, 20 tháng 5, 20 tháng 8 và 20 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: xã Tiên Lục, huyện Lạc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Nội dung: Hội Tiên Lục diễn ra 4 lần trong năm nhưng ngày mùng 9 tháng 1 âm lịch là ngày hội thu hút đông du khách nhất. Du khách về thăm hội Tiên Lục không chỉ được xem là trò vui mà còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của xóm làng, của cây dã hương ngàn năm tuổi,  bên cạnh mái đình Viễn Sơn. Hội Tiên Lục chủ yếu diễn ra ở khu vực đình cây dã hương, đình Thuận Hóa, đình Phục Quang và đình Tiên Lục.

Hội xuân bắt đầu từ 1h sáng ngày mùng 9 âm lịch với lễ khai thanh rồi đến lễ tranh chiêng, tranh chống giữa làng. Tiếp đến là lễ rước kiệu vào đền, rồi làm lễ tế thần Cao Sơn. Sau phần lễ sẽ là các trò chơi: thi cưới cầu, thi cỗ, thi kéo chữ, kéo co, chọi gà...

3. Hội Yên Tử

Thời Gian: Bắt đầu từ ngày mùng 9 tháng giêng và kéo dài tới hết tháng 3.

Địa điểm: Núi Yên Tử (xưa còn gọi là núi Voi hay Bạch Vân Sơn), xã Thượng Yên Công, tỉnh Quảng Ninh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Phật và Trần Nhân Tông (Trần Khâm) - ông vua anh hùng của 2 cuộc kháng chiến đại thắng quân Nguyên - Mông (1285 - 1288) mang lại thanh bình cho đất nước, vào lúc triều đại đang hưng thịnh vẫn nhường ngôi cho con để yên tâm nghiên cứu đạo Phật và tìm đến Yên Tử để tu hành.

Nội dung diễn ra: Hội Yên Tử được tổ chức long trọng hàng năm ngay dưới chân núi Yên Tử, với cuộc hành hương của hàng trăm, hàng vạn người đến với chùa đồng ở trên đỉnh núi.

Du khách đến đây không chỉ là tìm đến cõi phật để thể hiện đức tin, ước vọng cầu lộc, cầu tài mà còn để ngưỡng cảm ý chí thông tuệ và đức độ thanh cao của các bậc cha ông, để du xuân vãn cảnh, thưởng ngoạn không khí thanh bình.

4. Hội Xuân Hồ Ba Bể

Thời gian: được tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

Nội dung: hồ Ba Bể nằm ở độ cao 145m so với mặt nước biển và được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi cao tới 1.754m. Người ta cho rằng nó được hình thành cách đây 200 triệu năm. Mang tên là Ba Bể là do 2 cái hồ thông với nhau với tổng chiều dài 8km và chiều rộng là 3km. Chính diện tích hồ Ba Bể như vậy mà người dân ở đây coi hồ Ba Bể như một cái biển thu nhỏ của họ. Trong hồ có rất nhiều hòn đảo nhỏ, đặc biệt là ao Tiên tương truyền rằng đây là nơi ngày xưa các tiên trên trời xuống tắm và chơi cờ.

Lễ hội xuân ở hồ Ba Bể là một lễ hội truyền thống phô diễn những bản sắc dân tộc của đồng bào địa phương nơi đây với nhiều trò chơi truyền thống như: đua thuyền, độc mộc, tung còn, kéo co, bịt mắt bắt dê... cùng nhiều hoạt động văn hóa và thể thao khác của đồng bào dân tộc như: đấu vật, thi hát. Người đi trảy hội có thể tham gia các điệu hát và múa trong điệu nhạc dân tộc du dương trầm bổng.

5. Hội Vật Võ

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Lại Ân, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nội dung: Hội vật võ là hội vật truyền thống, ngoài trai tráng của làng tham gia hội còn thu hút hàng ngàn thanh niên ở quanh vùng khác tham gia dự hội. Hội vật võ làng Sình diễn ra trong không khí rất hao hứng và sôi nổi. đây là một sinh hoạt mang tính truyền thống thượng võ của người dân Huế trong nhiều thế kỉ qua.

6. Hội Làng Túy Loan

Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Túy Loan, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tưởng nhớ tới 5 vị tiền hiền hà: Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê (Tướng của vua Lê Thánh Tôn).

Nội dung: Phần lễ gồm lễ rước sắc phong, nhạc lễ dâng hương tế đình để tưởng nhớ 5 vị tiền hiền tuân chiếu vua Lê Thánh Tôn đi mở mang bờ cõi về phương nam (năm Hồng Đức nguyên niên 1470), dừng chân tại nơi đây để lập nghiệp khai khẩn và làm ăn, đặt tên cho làng Túy Loan.

Phần hội gồm có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn như: đẩy gậy, vật tay, kéo co diễn ra ngay trước sân đình... Nghề làm bánh tráng vốn từ lâu đã góp phần làm nổi tiếng làng Túy Loan nên trong phần hội không thể thiếu cuộc thi nướng bánh tráng. Hai thôn Đông, Tây thường cử ra nhữn cô gái khéo tay nhất của thôn mình để tham gia cuộc thi này.

Con sông Túy Loan trở nên sôi động trong ngày hội với cuộc đua ghe truyền thống của các trai làng. Đội ghe nào chiến thắng sẽ mang lại một năm mới thịnh vượng cho làng. Ngày nay, lễ hội còn được bổ sung nhiều trò chơi vui khác như: thi gói bánh tét, thi đạp xa chậm... Càng làm cho không khí của lễ hội thêm phần náo nhiệt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

Vận mệnh người tuổi Giáp Tý theo Lục Thập Hoa Giáp

Nạp âm Lục thập hoa giáp của tuổi Giáp Tý là chuột sống nơi đồng ruộng, người có tính cách hiên ngang, thông minh, lanh lợi, dáng vẻ phi phàm, có quyền uy.
Vận mệnh người tuổi Giáp Tý theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Giai ma van menh nguoi tuoi Giap Ty theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Ngũ hành nạp âm Lục thập hoa giáp của tuổi Giáp Tý là Hải trung Kim - bảo vật long cung, trân châu trong giao long, thành khí không cần sức mạnh của Hỏa.
 
Kim tòng cách, khí tán, nên gặp Mậu Tuất Đại dịch Thổ, Quý Tỵ Trường lưu Thủy tương trợ là tốt. Chủ người này tướng mạo anh tuấn, có tiền đồ. Kỵ Đinh Tỵ Lư trung Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa, phạm vào thì một đời vất vả khổ cực.
 
Nếu nhập quý cách lại được vượng khí thì học thuật tinh thâm, nên theo nghiệp văn học, chủ vinh hoa phú quý.
 
Giáp Tý gặp Quý Hợi gọi là Châu tàng uyên hải cách, chủ học vấn tinh thâm. Hải trung Kim là vô hình, không xung sẽ không hiện.
 
Giáp Tý gặp Ất Sửu, Quý nhân trùng trùng, chủ về hiển quý. Duy vẫn cần Hỏa tôi luyện. Không ưa gặp Mậu Tý Tích lịch Hỏa, phạm vào chủ về người mê muội, vợ chồng duyên mỏng.
 
Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ có thể vùi lấp Kim này, không nên gặp. Phạm vào thì một đời tối tăm, tiền đồ mờ mịt. Gặp Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Kim; Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim là không tốt. Gặp Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim; Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim đều tốt.
 
Giáp Tý gặp Mậu Dần, gọi là Côn sơn phiến ngọc cách.
 
Nếu nhật trụ hoặc nguyệt trụ có Hỏa, thời trụ có Mộc, chủ có tiền tài.
 
Nếu nhật trụ (ngày sinh) hoặc thời trụ (tháng sinh) có Thổ như Bính Tuất, Đinh Hợi Ôc thượng Thổ, Canh Tý, Bích thượng Thổ, Mậu Thân Đại dịch Thổ, lại không có Hỏa chế phục, chủ mệnh bần tiện, đoản thọ.
 
Người sinh năm Giáp Tý, trụ khác ưa nhất gặp Kỷ Tỵ, can chi tương hợp, phú quý dài lâu.
 
Người sinh năm Giáp Tý, mệnh nữ nếu nhật trụ (ngày sinh) lại là Giáp Tý, chủ khắc chồng.
 
Phàm người sinh năm Tý, mỗi khi gặp năm Ngọ, Tý, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
 
Bạn đời không nên chọn người sinh năm Canh, Tân, nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ.
Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Giáp Tý theo Lục Thập Hoa Giáp

Ý nghĩa sao Thiên Tài

Sao Thiên tài đi theo mệnh, Thiên thọ lại tùy với Thân như ngầm bảo cho thấy phải gieo cái Nhân ở đâu thì sẽ gặt hái kết quả cho đời, vậy nêu tính ra sẽ thấy người sinh năm :

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thiên Tài

Ý nghĩa sao Thiên Tài

Sao thiên tài thuộc hành: thổ

Trong lá số tử vi của mối người, Sao Thiên Tài được khởi từ cung mệnh là cung tý tính theo chiều thuận đến năm sinh . 

Sao THIÊN THỌ được khởi từ cung an thân là cung tý cung tính theo chiều thuận đến năm sinh. 

Thiên tài đi theo mệnh, Thiên thọ lại tùy với Thân như ngầm bảo cho thấy phải gieo cái Nhân ở đâu thì sẽ gặt hái kết quả cho đời, vậy nêu tính ra sẽ thấy người sinh năm : 

Tý THIÊN TÀI Mệnh 

Sửu Phụ Mẫu 

Dần Điền 

Thìn Quan 

Tỵ Nô 

Ngọ Di 

Mùi ách 

Thân Tài 

Dậu Tử 

Tuất Phối 

Hợi Bào 

Dần Phúc 

Sao Thiên Thọ nằm ở đâu thì những kết quả gặt hái được sẽ do từ cung ấy.

Thí dụ : Tuổi Canh Dần ngày 3 tháng 9 giờ Thân. Thân cư quan Lộc, Thiên tài Phúc Đức, Thiên thọ cư tài bạch, ở ngừơi này nếu muốn được sự thoải mái may mắn về tiền bạc, phải đối xử với họ hàng bà con thật rộng lượng, cho phải đạo, gạt bỏ mọi tị hiềm. 

Người tuổi Tý THIÊN TÀI ở Phụ Mẫu nghĩa là phải đối xử với cha mẹ cho ra người hiếu tử. 

Người tuổi Dần THIÊN TÀI ở phúc: phải đối xử với họ hàng cho phải đạo. 

Người tuổi MÃO, THIÊN TÀI ở Điền: lo nhà cửa, nơi che mưa trú nắng là quan trọng. 

Người tuổi THÌN , THIÊN TÀI cư quan : phải chăm lo bồi đắp cho công danh của mình. 

Người tuổi TỴ, THIÊN TÀI cư nô: phải đối xử rộng rãi và cho có nhân tình với bạn bè, với người giúp việc. 

Người tuổi Ngọ, THIÊN TÀI ở Di: phải có những hoạt động xã hội giúp đỡ tha nhân. 

Người tuổi Mùi, THIÊN TÀI ở ách: phải chăm lo đến sức khỏe của mình. 

Người tuổi Thân, THIÊN TÀI ở Tài: phải biết chi tiêu rộng rãi nhưng lo xa. 

Người tuổi Dậu, THIÊN TÀI ở Tử Tức: nếu chăm lo cho con cháu sẽ được hưởng phúc. 

Người tuổi Tuất, THIÊN TÀI ở cung phối ngẫu: nên cư xử cho đúng đạo vợ chồng. 

Người tuổi Hợi , THIÊN TÀI ở Bào: nếu biết lo toan bao bọc xây dựng cho anh em, sẽ được đền bù xứng đáng. 

Tử Vi là 1 khoa học nhân văn nghiên cứu về con người hiện thực, cho nên Tài, Thọ ở đây là cái Nhân quả nhãn tiền có ngay từ cuộc sống này. Những thoải mái, may mắn mà ta đạt được , (thiên thọ), sẽ xảy ra ngay sau cái nhân là thiên tài mình gieo được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Tài

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Đâu là nhứng nét tướng phụ nữ có số sướng? Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn có thể tự hào bởi đó là dấu hiệu của cuộc sống
Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn có thể tự hào bởi đó là dấu hiệu của cuộc sống giàu sang, sung sướng.


1. Hai cằm
 
Trong Nhân tướng học, cằm được coi là kho tiền tài của người phụ nữ, cằm càng dày dặn, tròn đầy thì càng nhiều tiền của.
 
Những phụ nữ có hai cằm thường có số mệnh sung sướng, cuộc sống vật chất đầy đủ, gia đình hạnh phúc. Hơn thế, tướng phụ nữ có số sướng này còn trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp của chồng.

Net tuong o phu nu co menh suong hinh anh
Ảnh minh họa
 
2. Mắt đẹp

Đôi mắt đẹp ở đây ý chỉ ánh mắt có thần sắc, lông mày dài và mỏng, lông mi cong. Phụ nữ có tướng mắt đẹp dễ được nhiều người yêu mến, cuộc sống yên bình, hạnh phúc.
 
Nếu thêm đặc điểm đôi mắt to thì nhìn càng có sức sống hơn. Nhờ đôi mắt đẹp này mà những mối quan hệ xã giao của họ hài hòa hơn, khi làm việc gì cũng được quý nhân trợ giúp nên đều thuận buồm xuôi gió.

3. Trán cao, rộng và nhẵn
 
Đa phần nữ giới có trán cao rộng và nhẵn đều được gả vào nhà giàu sang, quyền quý. Bản thân tướng phụ nữ có số sướng này vốn cũng rất thông minh và tài hoa nên cuộc sống luôn thuận lợi, hưởng vinh hoa phú quý suốt đời.
 
4. Mũi tròn đầy
 
Chiếc mũi tròn đầy là biểu hiện của tiền tài, sự nghiệp phát triển thuận lợi. Phụ nữ có tướng mũi tròn đầy thường cũng có nhân duyên tốt, có chí tiến thủ và tài quản lí tiền bạc nên có duyên làm lãnh đạo, hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý.

5. Đôi tai hồng hào, rủ xuống vai
 
Theo Nhân diện học, tai hồng mà nhuận là tướng người có công danh, địa vị. Nữ giới có đôi tai hồng pha lẫn trắng ngà hoặc tai có đường nét cong tròn là tướng phú quý, được hưởng cuộc sống an nhàn.
 
Ngoài ra, nếu đôi tai rủ xuống vai và hướng về miệng thì lại là tướng phú quý vô cùng. Ngay từ khi sinh ra người này đã có cuộc sống sung sướng, lớn lên mọi sự đều thuận lợi, viên mãn.
 
6. Xương gò má cao vừa phải
 
Tướng phụ nữ có số sướng có xương gò má cao vừa phải luôn tháo vát trong công việc, biết cách quán xuyến gia đình sao cho trong ấm ngoài êm. Do đó, cuộc sống gia đình của người này thường hạnh phúc, không phải trải qua quá nhiều sóng gió.
 
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Tìm may mắn cho người tuổi Tân Hợi

Người tuổi Tân Hợi (mệnh Kim, sinh năm 1971) có mệnh số thuận hòa, may mắn, gặp hung hóa cát, phúc lộc dồi dào, có quý nhân phù trợ. Từ tuổi 37 sẽ có cuộc sống
Tìm may mắn cho người tuổi Tân Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: sung túc, gia đình vui vẻ, làm ăn phát đạt, về già an nhàn, hưng vượng, phú quý.

 
Những tuổi đại kỵ với tuổi Tân Hợi là: Quý Sửu, Kỷ Mùi, Canh Thân, Ất Sửu, Mậu Thìn, Đinh Mùi.

Tính cách: Là người hiền lành, ôn hòa, giàu nghị lực nên được mọi người quý mến, đồng nghiệp tin tưởng hợp tác.

Tình duyên: Đây là tuổi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống lẫn tình duyên, có số hưởng hôn nhân hạnh phúc.

Tuy nhiên nam sinh vào các tháng: 5, 6, 9; nữ sinh vào tháng 1 thì ít may mắn hơn.

Để vợ chồng hòa thuận, cuộc sống sung túc, tốt đẹp, nam Tân Hợi không nên kết hôn với các tuổi: Bính Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn. Nữ Tân Hợi tránh kết hôn với tuổi: Bính Thìn, Canh Tuất, Mậu Thìn, Giáp Thìn.

Công danh sự nghiệp: Tuổi Tân Hợi biết nắm thời cơ nên từ tiền vận đã làm nên danh phận, trung niên sự nghiệp ổn định, vững chắc, từ 37 tuổi trở đi mọi thứ phát triển tốt đẹp.

Để đạt được thành công trong công việc, tuổi này nên kết hợp làm ăn với các tuổi: Tân Hợi, Nhâm Tý, Ất Mão, Đinh Tỵ.

Tiền bạc: Tuổi Tân Hợi kiếm được nhiều tiền nhưng tiêu pha cũng nhiều, trung niên tiền bạc ổn định, dư dả, về già có quý nhân giúp đỡ, được hưởng vinh hoa, phú quý.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Tân Hợi

5 lưu ý phong thủy tránh 'rơi lọt tiền tài'

Một số thói quen xấu và cách bố trí nhà cửa không hợp lý có thể khiến quá trình tích lũy tiền và của cải gặp nhiều trở ngại hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người cảm thấy thật khó khăn trong việc tiết kiệm tiền của. Một phần nguyên nhân có liên quan trực tiếp đến cách quản lý tài chính của mỗi cá nhân. Nhưng, dưới góc độ phong thủy, một số thói quen xấu và cách bố trí nhà cửa không hợp lý cũng có thể khiến quá trình tích lũy tiền và của cải gặp nhiều trở ngại hơn.

Nhà đẹp xin chỉ ra 6 lưu ý có ảnh hưởng rất lớn sự giàu có của bạn như sau:

Thứ 1: Nước luôn luôn chảy trong nhà

 5 luu y phong thuy tranh 'roi lot tien tai' - 1

Nước chảy đồng nghĩa với tiền bạc, của cải đang ra đi.

Trong sinh hoạt hàng ngày, có khá nhiều người thích để nước chảy xối xả khi đánh răng, rửa mặt, rửa bát, rửa rau, giặt quần áo... Tuy nhiên, cách này rất lạc hậu. Thực tế, tăng thêm thu nhập và giảm chi tiêu là cách phổ biến nhất để tích lũy sự giàu có, và việc giảm chi tiêu có thể áp dụng ở mọi nơi.

Tại sao người lớn tuổi không thích để nước chảy tự do trong nhà? Bởi vì theo phong thủy, nước kiểm soát sự giàu có. Vì thế, bạn không nên lãng phí nước mà hãy đóng vòi nước lại khi đã có đủ nước để dùng nhằm tiết kiệm tiền.

Thứ 2: "Vứt" tiền lung tung

 5 luu y phong thuy tranh 'roi lot tien tai' - 2

Tài sản có giá trị, nhất là tiền cần được quản lý chặt chẽ.

Không phải ai cũng là người có tổ chức, ngăn nắp và sạch sẽ nên việc vứt đồ đạc lung tung là điều khó tránh khỏi. Thói quen này cực kỳ không tốt và dễ dàng hình thành tác động tiêu cực đến sự giàu có của bạn.

Thậm chí, có người còn thả ví tiền thẳng vào máy giặt quần áo mà không hề hay biết. Hành động này có nghĩa bạn đã đánh mất sự may mắn về tài lộc của bản thân nhanh hơn và nhiều hơn. Tốt nhất, bạn nên thật sự chú ý đến điều này.

Tục ngữ có câu "Kiến tha lâu sẽ có ngày đầy tổ" muốn nói rằng sự giàu có cần phải tích lũy một cách từ từ. Hãy để một con lợn đất ở nơi thuận tiện để các thành viên trong gia đình bỏ tiền lẻ vào đấy, thể hiện sự tích lũy hàng ngày và cuộc sống sẽ cởi mở hơn.

Thứ 3: Chưa quan tâm đầy đủ tới phong thủy phòng bếp

 5 luu y phong thuy tranh 'roi lot tien tai' - 3

Chú ý kiểm tra và bổ sung kịp thời để đảm bảo luôn luôn có đồ ăn trong nhà.

Trong phong thủy, phòng bếp được đánh giá là "cái kho của". Rất nhiều người, đặc biệt là người trẻ tuổi thích ăn uống bên ngoài, họ thường phớt lờ phong thủy phòng bếp.

Bạn nên thiết kế bếp nằm ở phía sau ngôi nhà và nên tích trữ một ít đồ ăn trong tủ lạnh cũng như những nơi khác trong bếp để giữ gìn tài sản. Ngay cả khi bạn là người ít nấu ăn tại nhà, bạn vẫn cần dự trữ đồ ăn. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của bạn lúc khẩn cấp mà còn nâng cao sự dồi dào, thịnh vượng cho căn bếp.

Thứ 4: Màu sắc trang trí phòng khách ảnh hưởng đến sự giàu có

 5 luu y phong thuy tranh 'roi lot tien tai' - 4

Tránh sử dụng quá nhiều màu đỏ trong phòng khách vì nó sẽ làm giảm vận may tài lộc

Nhìn chung, phòng khách có vị trí quan trọng trong phong thủy của ngôi nhà. Từ quan điểm của 5 yếu tố sắc màu phong thủy, nếu bạn sử dụng màu đỏ rực rỡ để trong trí phòng khách thì nó có thể ảnh hưởng xấu đến sự giàu có của bạn. Bạn nên sử dụng những sản phẩm kim loại để tăng cường vận may tài lộc. Bởi vì đất dưỡng kim nên bạn cũng có thể thêm yếu tố đất để trang trí phòng khách, chẳng hạn như sàn nhà gạch men, đồ gia dụng và đường nét màu vàng... giúp hình thành một không gian may mắn.

Thứ 5: Chú ý cách bố trí đồ dùng để tạo ra sự giàu có

 5 luu y phong thuy tranh 'roi lot tien tai' - 5

Dòng chảy của nước phải luôn hướng về ngôi nhà mới có thể gia tăng sự giàu có, thịnh vượng.

Nếu gia đình bạn sử dụng các tính năng nước phong thủy như đài phun nước, thác nước... để mời gọi tài lộc, sự giàu có, bạn phải giữ cho dòng nước chảy hướng thẳng về ngôi nhà. Nếu không, bạn có thể bị mất tiền, hoặc thậm chí phá sản.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 lưu ý phong thủy tránh 'rơi lọt tiền tài'

Chùa Liên Phái - Hà Nội

Chùa Liên Phái là một di tích văn hóa lịch sử quan trọng nằm tại quận Hai Bà Trưng, thủ đô Hà Nội. Nơi đây là tổ đình của Thiền phái Liên Tông.
Chùa Liên Phái - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Liên Phái là một di tích văn hóa lịch sử quan trọng nằm tại phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thủ đô Hà Nội. Nơi đây là tổ đình của Thiền phái Liên Tông. Liên Phái là tên của chùa từ năm 1840, trước đó chùa có tên là Liên Hoa rồi Liên Tông.

Chùa Liên Hoa được dựng lên sau khi Trịnh Thập (có tài liệu ghi là Trịnh Hợp) (1696 – 1733) – là cháu nội Chúa Trịnh Căn và là con rể vua Lê Hy Tông (Trịnh Thập lấy người công chúa thứ 4) phát hiện một ngó sen sau khi đào đất ở gò cao sau phủ (phường Hồng Mai, sau đổi tên thành Bạch Mai) để xây bể cạn. Trịnh Thập cho rằng đây là dấu hiệu của Phật và tin rằng mình có duyên với đạo. Vì vậy, Trịnh Thập quyết định chuyển phủ của mình thành chùa Liên Hoa, đồng thời theo đạo Phật, trở thành Lân Giác Thượng Sỹ trụ trì trong chính ngôi chùa này.

Theo tấm bia đá khắc năm Tự Đức thứ 10 (1857) hiện còn ở chùa, chùa được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 7 (tức 1726). Năm 1733, Trịnh Thập (lúc đó mới 37 tuổi) mất và được chôn cất trong Tháp Cứu Sinh xây ở chính nơi tìm thấy ngó sen. Sau đó, chùa được đổi tên thành chùa Liên Tông. Đến năm 1840, chùa được đổi tên thành Liên Phái như hiện nay vì kiêng huý vua Thiệu Trị.

Chùa đã được tu sửa nhiều lần, đợt sửa chữa lớn nhất vào năm Ất Mão (1855) sửa nhà tổ, nhà tăng, hành lang, tả hữu, tô tượng Phật, phải mất 6 năm liền mới hoàn thành. Đến năm Kỉ Tị (1869) Thiền sư Thanh Minh – Hiệu Lạc Sơn đã chủ trì việc trùng tu “xây thêm gác chuông, phía trước có tháp Cửu Phẩm, có nhà bia, phía sau có đồi vườn tháp xây tường bốn bên – Trước sau cõi Phật trang nghiêm rực rỡ”.

Trước cổng chùa là ngôi tháp Diệu Quang cao 10 tầng có hình lục lǎng. Có hai hồ rộng ở hai bên cổng chùa. Trong chùa, có một sân rộng, nhà bái đường và khu tam bảo là nơi thờ Phật. Nhà tổ cách khu tam bảo một sân nhỏ. Ngoài ra, chùa còn có nhà bia với 34 tấm bia ghi sự tích và lịch sử của chùa cũng như tên những người đóng góp công đức.

Phía sau chùa là khu vườn tháp với 9 ngôi tháp xây thành 3 hàng trên một gò đất cao lần lượt có 2, 5 và 2 ngôi tháp. Ở hàng giữa có tháp Cửu Sinh xây bằng đá – đây là ngôi tháp cổ nhất trong nội thành Hà Nội. Khoảng năm 1890, người ta còn xây dựng một ngọn tháp cao 9 tầng có kiến trúc rất đẹp trong chùa.

Tháp Cửu Sinh
Tháp Cửu Sinh

Chùa Liên Phái và tháp Cửu Sinh đã trên 250 tuổi. Đây là ngôi tháp cổ nhất trong khu vực nội thành Hà Nội. Quy mô hiện nay của chùa không khác mấy so với lần sửa chữa giữa thế kỷ thứ 19.
Chùa Liên Phái Hà Nội đã được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào ngày 28-4-1962.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Liên Phái - Hà Nội

Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Chân thành, trung thực và có lối sống gắn liền với hiện tại, không quá mơ mộng viển vông là những điểm dễ nhận thấy ở người tuổi Sửu.
Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Sửu

Hơn thế, con giáp này còn sở hữu tính cách điềm đạm, xử lý mọi tình huống có đầu có cuối và không bao giờ trốn tránh trách nhiệm cũng như khuất phục trước thách thức ở hiện tại.

Suu-7211-1429251795.jpg

Đôi khi tính cố chấp và bướng bỉnh của người tuổi Sửu khiến họ đưa ra phán đoán nhầm lẫn. Thay vì đổ lỗi cho người khác, họ tự quy trách nhiệm cho mình và sửa chữa nó nhanh nhất có thể. Cách sống vô cùng thực tế nhưng lại không vụ lợi, toan tính cá nhân của người tuổi Sửu được mọi người yêu mến. Bạn thấy đấy, đội ngũ bạn bè của người tuổi Sửu khá hùng hậu và hoành tráng.

Á quân: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi trung thực, đôn hậu và vô cùng lương thiện. Họ làm việc bằng cả sự nhiệt huyết và chân thành của mình. Hơn thế, người tuổi Hợi có cách tư duy thực tế, nên nhanh chóng nhìn nhận ra vấn đề, không bao giờ rơi vào tình trạng “tâm hồn treo ngược cành cây”. Do đó, hiệu quả công việc của họ khá cao. 

Hoi-3107-1429251796.jpg

Cách đối nhân xử thế của người tuổi Hợi vô cùng hài hòa và cân bằng. Không có chuyện họ mưu lợi cá nhân trên công sức của người khác. 

No3: Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất lý tính, biết kiểm soát cảm xúc bản thân để đạt được những mục đích lớn. Lối tư duy hiện thực, rõ ràng và hợp logic của con giáp này giúp họ dễ dàng gặt hái được thành công trong công việc.

Tuat-1923-1429251798.jpg

Họ muốn chinh phục mục tiêu đã đề ra bằng chính thực lực của mình chứ không phải kiểu thực dụng, sống “kiếp tầm gửi” dựa dẫm, dùng người khác làm bàn đạp để thăng tiến. Ngoài ra, cá tính mạnh mẽ nhưng lại bộc trực và lương thiện của người tuổi Tuất mang lại cho mọi người cảm giác tin tưởng và dễ gần.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Những đồ vật không ngờ lại hút vận tiểu nhân xui rủi vào người

Một số đồ vật xung quanh bạn, nếu không sử dụng đúng cách, nó sẽ thu hút vận tiểu nhân, mang tới điều xui xẻo, ảnh hưởng không nhỏ tới tình cảm, sự nghiệp của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Dao kéo

Theo quan điểm phong thủy, đầu sắc nhọn của dao kéo mang sát khí khá nặng. Khi không sử dụng đến, tránh để để chúng ở nơi dễ thấy như bàn trà, bàn ở phòng khách, bàn ăn...

Để dao kéo lộ thiên, không những gây ra tỷ lệ sát thương lớn, đặc biệt là trẻ nhỏ, mà còn thu hút vận tiểu nhân, có người tới quấy phá, khiến cuộc sống bị đảo lộn. Cách tốt nhất là bạn nên cất vào ngăn kéo, treo trên giá bếp mỗi khi sử dụng xong dao hay kéo.

Nhung do vat hut van tieu nhan xui xeo vao nguoi hinh anh
 
2. Đồng hồ báo thức

Công năng chính của loại đồng hồ này là báo thức. Nên thường được cài đặt ở chế độ chuông lớn, độ rung mạnh... Như vậy sẽ tạo ra một nguồn sát khí không hề nhỏ.

Vì thế, nếu thường xuyên đặt đồng hồ báo thức ngay ở đầu giường, nhất là ở phía bên trái đầu giường, rất dễ thu hút vận tiểu nhân tới để phá hoại tình cảm hôn nhân, hạnh phúc gia đình.

Tốt hơn hết bạn nên để đồng hồ báo thức ở xa phía đầu giường ngủ. Nếu không thể bỏ được thói quen này, bạn nên chuyển vị trí của nó sang phía đầu giường bên phải, sức ảnh hưởng của sát khí có phần giảm đi đôi chút.
Nhung do vat hut van tieu nhan xui xeo vao nguoi hinh anh 2
 
3. Búp bê đồ chơi


Chính bởi hình thái của búp bê trông giống như “tiểu nhân” (ý chỉ hình dáng bé nhỏ, mô phỏng theo con người), nên cũng có thể sản sinh ra sát khí, đặc biệt là những con búp bê có mặt mày dữ tợn.

Theo quan điểm phong thủy, để búp bê ở giá sách, văn phòng làm việc, phòng ngủ... đều có thể hút vận tiểu nhân, khiến bạn không lục đục tình cảm thì cũng gặp khó khăn trong công việc.

Thông thường, nơi thích hợp nhất để đặt loại đồ vật hút vận tiểu nhân này chính là một góc khuất trong phòng trẻ nhỏ, bởi đó là đồ chơi của con trẻ.

Nhung do vat hut van tieu nhan xui xeo vao nguoi hinh anh 3
 
4. Điện thoại


Một trong những lý do khiến điện thoại cũng liệt vào danh sách đồ vật hút vận tiểu nhân này chính là nhạc chuông, thứ mà có thể sản sinh ra sát khí phong thủy, thu hút vận tiểu nhân xui xẻo tới.

Vì thế, bạn nên lưu ý điều chỉnh ẩm lượng điện thoại vừa đủ để nghe, tránh cài đặt ở chế độ âm lượng quá lớn, vừa ảnh hưởng người khác lại không tốt về mặt phong thủy.

Việt Hoàng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đồ vật không ngờ lại hút vận tiểu nhân xui rủi vào người

5 đại kỵ khi dọn nhà năm mới

Việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa trong năm mới mang ý nghĩa “tẩy rửa mọi vận khí xui rủi xấu xa, đón chào vận khí năm mới”. Việc dọn dẹp nhà cửa cũng bao hàm ý
5 đại kỵ khi dọn nhà năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 nghĩa phong thủy bên trong, vi phạm những nguyên tắc đó thì gia chủ chỉ đón một năm mới nhiều vận xui mà thôi.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

5 dai ky khi don nha nam moi hinh anh goc
 
5 dai ky khi don nha nam moi hinh anh goc 2
 
5 dai ky khi don nha nam moi hinh anh goc 3
 
Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 đại kỵ khi dọn nhà năm mới

Khi nào mới cần Ứng Dụng Quẻ Dịch

Cuộc sống vốn sinh sinh hóa hóa, biến đổi không ngừng, Dịch Lý là một khoa môn chuyên nói về Lẽ Biến Hóa – Hóa Thành của Vạn Hữu (mọi thứ Hữu Hình lẫn Vô Hình). Mọi vấn đề tạo tác của loài người dù có muốn hay không muốn đều nằm trong Lẽ Biến Hóa của Dịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống vốn sinh sinh hóa hóa, biến đổi không ngừng, Dịch Lý là một khoa môn chuyên nói về Lẽ Biến Hóa – Hóa Thành của Vạn Hữu (mọi thứ Hữu Hình lẫn Vô Hình). Mọi vấn đề tạo tác của loài người dù có muốn hay không muốn đều nằm trong Lẽ Biến Hóa của Dịch.

Mọi sự Hóa Thành như Thành thành công, Thành thất bại, Thành chưa xong, Thành tốt, Thành Xấu, Thành giàu, Thành nghèo, Thành có học, thành thất học, Thành nhớ, Thành quên…đều chịu ảnh hưởng của hai yếu tố quan trọng là Chủ quan và Khách quan (Chủ quan là ý mình. Khách quan là ý Trời là mọi biến động ngoài ta) chúng là âm dương luôn chi phối lẫn lộn với nhau. Lý Dịch là một Nguyên Lý vô song, là một Chân Lý là sự thật của mọi sự thật, chúng bao trùm cả chủ quan và khách quan.

Từ đó khi ta khởi sự tạo tác một việc gì nếu thấy lòng đắn đo, lưỡng lự, lo ngại, không yên… gọi là “Thiên Cơ máy động trong Nhân Cơ” (Bộ máy khách quan thông giao cảm ứng với bộ máy chủ quan của ta) là lúc ta cần xử dụng Lý Dịch để hiểu biết sự Hóa Thành ra sao, nhằm có sự chuẩn bị, né tránh, giảm bớt mọi rủi ro, thành – bại trong cuộc sống.

Ngoài ra Dịch Lý có thể giúp ta nhận diện, giải quyết các vấn đề như sau:

1/ Tri thiên mệnh để tận nhân lực.

2/ Tình huống phân vân chưa biết quyết định lựa chọn nào cho tốt?

3/ Định sự chân giả.

4/ Biết ý người.

5/ Hướng giải quyết tình huống vấn đề.

6/ Chọn ngày giờ tốt để khởi sự.

    ……..v.v và v.v

Dịch Lý là lý của Biến Hóa – Hóa Thành của Vạn Hữu, nên mọi động tĩnh sống động của muôn loài vạn vật đều được nhận biết qua Lý Dịch. Nên người học Dịch có thể  “thông dịch tiếng nói của thượng cầm hạ thú” qua Sự “Động – Tĩnh”  thường ngày trong cuộc sống.

Để nhận biết sự động và tĩnh ta áp dụng quy tắc “Đồng lấy dị mà luận – Dị lấy đồng mà quy”: Khi sự giống nhau nhiều thì ta lấy điểm khác biệt mà luận – Khi sự khác nhau nhiều thì ta lấy điểm giống nhau mà chọn. Sự diễn biến thường hằng mỗi ngày như mọi ngày thì gọi là Tĩnh, và trong sự tĩnh đó bỗng nhiên có một ngày xảy ra chuyện khác thường thì ngày đó gọi là Động.

Ví như anh A mỗi ngày làm việc đều đặn bình thường, nhưng có một ngày bỗng nhiên cảm thấy lòng bất yên, khó chịu, lo lắng …thì gọi là Động

Ví như thường ngày con cái ta cũng cẩn thận ngoan ngoãn, bỗng nhiên có một ngày nó đụng cái gì cũng đổ bể thì ngày đó gọi là Động.

Ví như ta có người thân quen thường ngày ăn nói cũng tử tế bình thường bỗng nhiên có một ngày phát lên nói một câu nghe lạ tai vui vẻ khác thường thì gọi là Động.

Ví như ta có một nhân viên có tính năng động vui vẻ, bỗng nhiên có một ngày anh ta trầm lặng hẳn, không nói gì đến ai thì gọi là Động.

Ví như bầu trời thường ngày cũng bao vì sao nhấp nháy lung linh bỗng nhiên đêm nay có một vì sao băng, xẹt xuất hiện thì gọi là Động.

 Ví như con Lu vật nuôi trong nhà thường ngày khi ta về nó chạy ra mừng vui vẫy đuôi quấn quýt, nhưng hôm nay ta về nó lại sủa khác thường xem ta như người xa lạ thì gọi là Động.

Ví như ta đang ngồi làm việc trong nhà bình thường như mọi ngày bỗng nhiên hôm nay có con thằng lằn rơi xuống trúng ta giật mình thì gọi là Động.

  Khi có những hiện tượng Động Tĩnh như trên, dân gian còn thường gọi là điềm  thì là lúc ta cần lấy Quẻ Dịch để “thông dịch tiếng nói của Tạo Hóa” đã mượn những hiện tượng Động Tĩnh trên để nhắn nhủ đến chính người đó hoặc cho tập thể nào đó một điều hung (xấu) hay cát (tốt) nhằm cho ta có sự chuẩn bị đón nhận hay né tránh…

 Vậy khi muốn Ứng Dụng Dịch vào cuộc sống hằng ngày ta phải trải qua 3 bước:

“Bước 1”: Để quyết định dùng.

“Bước 2”: Để An Dịch Tượng (lập quẻ Dịch)

“Bước 3”: Để luận Dịch tượng và đưa ra quyết định sau cùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi nào mới cần Ứng Dụng Quẻ Dịch

Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa - Phong thủy - Xem Tử Vi

Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa, tu vi Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa

Những đồng tiền xu là biểu tượng của nguồn tài lộc và của cải. Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp và giải trừ tai họa, tiểu nhân…

Theo phong thuy, tiền xu là một trong những vật phẩm quan trọng. Ngày xưa, người ta dùng tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Trời ngoài đất trong tượng trưng cho quẻ Thái tức sự thịnh vượng. Tùy theo niên hiệu các đời vua mà trên tiền xu có khắc chữ khác nhau

Tiền xu Mai Hoa 5 cánh liền (Mai Hoa Kim Tiền)

Trong số các loại tiền xu dùng trong phong thủy, tiền Mai Hoa có 5 cánh tượng trưng cho ngũ hành, là vật chuyên dùng để trấn yểm hung khí, đem lại sự thịnh vượng về tài lộc.

Theo Blog Phong Thủy, thì bạn có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn, trong phòng khách, văn phòng, cửa hàng. Cũng có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn thờ, trên két bạc, treo ở cửa ra vào… nơi các cát tinh Lục Bạch, Diên Niên, Sinh Khí phối chiếu để gia tăng tiền bạc.

Chú ý, tránh đặt tiền Mai Hoa trong nhà vệ sinh, nơi ẩm thấp, trong phòng ngủ… nơi các hung tinh Thất Xích, Lục Sát, Tuyệt Mệnh phối chiếu.

Tiền xu Mai Hoa 10 cánh rời (Mai Hoa Thập Toàn)

Đồng tiền có 10 cánh nhỏ được thắt từ 10 đồng xu nhỏ, ở giữa là 2 đồng xu lớn 2 mặt, nhìn giống bông hoa mai. Có tác dụng rất lớn trong con đường công danh, sự nghiệp, góp phần làm thăng quan tiến chức và hóa giải kẻ tiểu nhân ám hại…

Cách sử dụng: đặt ở chỗ tựa sau lưng của ghế ngồi, phòng tiểu nhân; đặt trong ngăn kéo bàn làm việc có giấy tờ quan trọng; kẹp trong bìa hồ sơ, cặp táp, túi xách những lúc đi giao dịch làm ăn quan trọng… và nhiều trường hợp khác theo sự chỉ dẫn của chuyên gia phong thủy…

Tiền xu Phúc Tinh Chiêu Tài (tiền xu có hình con dơi)

Trong tiếng Trung Quốc, từ “dơi” và từ “phúc” là đồng âm. Chính vì vậy, dơi (còn gọi là phúc thử) trở thành con vật tượng trưng cho sự cát tường. Con dơi gắn với đồng tiền là hình ảnh dẫn phúc chiêu tài, dùng hóa giải các sao xấu…

Cách sử dụng: treo ở các phượng vị tài lộc, hoặc cần hóa giải sao xấu thì treo hai đồng tiền phúc tinh vào hướng phạm Thái Tuế chiếu sát, một đồng tiền hướng 9 ngôi sao ra ngoài còn đồng tiền kia hướng bát quái ra ngoài…

Tiền xu Bát Quái (đồng xu tử vi)

Trong phong thuỷ thì đồng xu in hình Bát Quái là một trong những vật phẩm cơ bản để chế hoá và chữa những cấm kỵ phạm phải. Đồng xu đặc biệt là biểu tượng của sự giàu có, phát về tài lộc. Đồng xu này thường dùng là đồng tiền ở thời vua Càn Long có hai mặt Âm Dương thể hiện nguyên lý Âm Dương hài hoà. Tiền hình trọn tượng trưng cho Thiên, ở giữa có lỗ vuông tượng trưng cho Địa. Trên đồng tiền có in hình Bát Quái thể hiện Đạo lý Thiên – Địa – Nhân tương hợp tất tạo phúc và hưởng phú quý.

Đồng xu Tử Vi có in hình Bát Quái tượng trưng cho “Đạo”, tức là cát khí. Theo Blog Phong Thủy, bạn có thể treo đồng xu này ở nhà, cửa hàng, văn phòng hoặc trên xe ô tô có thể chống lại hung khí, xua đuổi tà ma, đem lại sức khoẻ và tài lộc cho gia chủ.

Cách sử dụng: treo ở cửa đi, cửa phòng, trong phòng khách, phòng ngủ hoặc trên xe ô tô…

Tiền xu Tam Tài (Thiên – Địa – Nhân, xâu 3 đồng xu)

Số 3 tượng trưng cho Thiên – Địa – Nhân (Thiên Thời – Địa Lợi – Nhân Hòa), tức là mang đến những điều tốt, là biểu tượng cho sự thịnh vượng cát lành.Cách sử dụng: để thu hút sự thành công của các dự án trong kinh doanh bạn hảy cung cấp năng lượng tốt cho các hồ sơ có liên quan bằng cách buộc 3 đồng tiền xu cổ với dây màu đỏ rồi dán vào bìa hồ sơ (bằng băng dính trong), hướng mặt dương (có chữ) lên trên. Điều này có thể sẽ tạo ra năng lượng thịnh vượng và mang lại sự thành công trong công việc của bạn.

Tiền xu Ngũ Đế (xâu 5 đồng xu)

Ngũ đế tiền là năm đồng tiền cổ của 5 vị Hoàng đế cường thịnh nhất triều đại nhà Thanh đó là: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long và Gia Khánh. Theo Phong thuỷ thì các đồng tiền của các thời đại cường thịnh thì khí trường của nó rất mạnh, vì thế nó sẽ tăng cường tài vận rất tốt.

Cách sử dụng: nên treo ở các phương vị tài lộc, có thể dùng kết hợp với tỳ hưu hoặc thiềm thừ để tăng cường mạnh tài vận…

Tiền xu Lục Đế (xâu 6 đồng xu)

Cũng tương tự như Ngũ đế, nhưng Lục đế tiền là sáu đồng tiền cổ của 6 vị Hoàng đế cường thịnh nhất triều đại nhà Thanh đó là: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh và Đạo Quang. Theo Phong thuỷ thì các đồng tiền của các thời đại cường thịnh thì khí trường của nó rất mạnh, vì thế nó sẽ tăng cường tài vận rất tốt.

Cách sử dụng: được xâu sẵn thành chùm với dây màu đỏ, treo ở các phương vị tài lộc trong nhà hoặc văn phòng…

Tiền xu Bát Bạch (xâu 8 đồng xu)

Số 8 tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, có tác dụng phát huy Thổ khí trong Vận Tám (từ năm 2004 đến 2023) tức là sự thịnh vượng và phát triển, hoạnh phát về tài lộc.

Cách sử dụng: xâu 8 đồng tiền xu được thắt bằng chỉ màu đỏ treo bên trong cửa, tượng trưng cho tài lộc đã vào trong nhà hoặc văn phòng của bạn, ngoài ra tùy theo sự tư vấn riêng của chuyên gia phong thủy mà ứng dụng trong các trường hợp đặc biệt khác…

Tiền xu Cửu Kỳ (xâu 9 đồng xu)

9 đồng tiền đi với nhau hình thành cát khí do số 9 vốn là biểu tượng của “Thái” tức sự thịnh vượng tối đa, sự bắt đầu một chu kỳ mới. Cát khí của nó không những làm gia tăng cuả cải tài lộc, mà con đem lại nhiều may mắn cho công danh, sự nghiệp, giải trừ tai hoạ. Ngoài ra số 9 trong tiếng Hán Việt phát âm là Cửu, thuộc cặp từ Vĩnh Cửu, thể hiện sự trường tồn, dài lâu…

Cách sử dụng: bày xâu 9 đồng xu trên ở góc Chính Bắc, Tây Bắc hoặc Chính Tây hoặc trên bàn làm việc…

Tiền xu Thất Tinh kiếm (thanh kiếm kết bằng tiền xu)

Một vật phẩm không thể thiếu của những chuyên gia thực thụ theo các trường phái phong thủy Huyền Không Phi tinh, Tam Hợp Phái… Ngoài ra đây còn là một vật phẩm hóa sát rất mạnh, dùng được trong rất nhiều trường hợp riêng biệt theo sự chỉ dẫn riêng…

Tiền xu Lục Tài Tiến Bảo (6 xu thắt kiểu hoa mai)

Dùng kích hoạt mạnh thêm cho cung tử tức, đường con cái của mỗi người..

Ngoài ra còn rất nhiều loại tiền xu khác, với nhiều ý nghĩa và tác dụng khác nhau, tùy vào mỗi trường hợp, từng mong muốn nhu cầu cụ thể mà bạn sẽ được tư vấn lựa chọn một loại thích hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiền xu phong thủy giúp tăng lộc tài và giải họa - Phong thủy - Xem Tử Vi

Văn Khấn Khai trương cửa hàng, nhà xưởng

Văn Khấn Khai trương cửa hàng được dùng khi khai trương cửa hàng, công xưởng để việc làm ăn thuận buồm xuôi gió, hướng dẫn cách cúng khai trương
Văn Khấn Khai trương cửa hàng, nhà xưởng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Khai trương cửa hàng được dùng khi khai trương cửa hàng, công xưởng. Theo quan niệm xưa, ông bà ta cho rằng: Cửa hàng, nhà xưởng…… đều nằm trên đất do vị Thổ Thần nơi đó cai quản, nên khi khai trương cửa hàng, công xưởng. ….. phải làm lễ xin phép Thổ Thần để được Thần linh phù hộ cho việc làm ăn được thuận buồm xuôi gió, phát đạt, thịnh vượng.

Sắm lễ cúng Khai trương cửa hàng

Lễ vật trong lễ khai trương cửa hàng gồm: Hương, hoa quả phẩm oản, vàng mã, trầu cau, bánh kẹo… và mâm lễ mặn: xôi, gà, cơm, canh…

Mâm lễ được bày biện đẹp, đầy đặn trên bàn, sau khi dâng chén nước thắp nén hương, chủ cửa hàng thành tâm cầu khấn.

Văn Khấn lễ Khai trương cửa hàng

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Con kính lạy Quan Đương niên Hành khiển Thái tuế đức Tôn thần.
– Con kính lạy các ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.
– Con kính lạy các Ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Long mạch, Tài thần định phúc Táo quân, chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy các Thần linh cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày…. Tháng…năm…, tín chủ con thành tâm sắm sửa lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án, lòng thành tâu rằng: tín chủ con xây cất (hoặc thuê được) một ngôi hàng ở tại xứ này (địa chỉ)…..( nếu là cơ quan, công xưởng thì khấn là tín chủ con là con là Giám đốc hay Thủ trưởng cùng toàn thể công ty), nay muốn khai trương khởi đầu việc kinh doanh (hoặc sản xuất) phục vụ nhân sinh, phục vụ sinh hoạt. Do đó chúng con chọn được ngày lành tháng tốt sắm sanh lễ vật cáo yết Tôn thần dâng cùng Bách linh……. cúi mong soi xét.
Chúng con xin kính mời quan Đương niên quan Đương cảnh, quan Thần linh Thổ địa, Định phúc Táo quân cùng các ngài địa chúa Long Mạch cùng tất cả Thần linh cai quản khu vực này linh thiêng giáng hiện trước hương án, thụ hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành. Cúi xin các vị phù hộ cho chúng con buôn bán hanh thông,là ăn thuận lợi, lộc tài vượng tiến, cần gì được nấy, nguyện gì cũng thành.
Tín chủ lại mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ cùng chư Hương linh y thảo phụ mộc ngụ trong khu vực này, xin hãy tới đây thụ hưởng lễ vật, phù trì cho tín chủ con làm ăn buôn lán gặp nhiều may mắn.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Khai trương cửa hàng, nhà xưởng

Quả báo có thật hay không. Chia sẻ câu chuyện về Quả Báo

Nhân quả hay còn gọi là nghiệp nhân quả báo, hoặc nhân quả báo ứng, là một trong những nguyên lý cơ bản của Phật giáo.
Quả báo có thật hay không. Chia sẻ câu chuyện về Quả Báo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nói đến nhân quả, có người tin và có người không tin, bởi có lúc nó đến rất nhanh chóng nhưng cũng có khi tiềm ẩn rất lâu rồi mới xuất hiện. Dưới đây là 6 câu chuyện kỳ lạ, trong đó hành động và hệ quả đến gần như ngay lập tức, hoặc rất rõ ràng trong cuộc đời:
1. Chỉ vài giây sau khi giật đồ của một phụ nữ, tên cướp liền bị xe buýt đâm
Vào tháng 5/2013 tại Bogota, Columbia, có một gã lưu manh giật điện thoại của một phụ nữ tại bến xe buýt. Gã quay đầu bỏ chạy, nhưng chỉ mới chạy được vài bước thì liền bị xe buýt đâm. Toàn bộ sự việc đã được ghi hình bằng camera giám sát và được phát trên kênh BBC và nhiều hãng truyền thông khác.

Quả báo có thật hay không

Quả báo thường hay đến muộn nên con người ta dễ coi thường


2. Người lính thuỷ đánh bộ từng xả thải chất độc trả giá bằng bệnh tật
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, Ron Poirier, một kỹ thuật viên điện tử thuộc Thuỷ quân lục chiến [Hoa Kỳ] tại Trại lính Lejeune, bang North Carolina, đã xả thải hàng trăm lít dung dịch độc hại [vào môi trường]. Các hoá chất này đã ngấm vào nguồn nước uống.
Người lính này đã chết do ung thư vào tháng 5/2013, và đây là một trong số những căn bệnh đã hành hạ những người lính thuỷ đánh bộ và người dân địa phương do hệ quả của việc xả thải hóa chất ra môi trường. Trước khi chết, ông nói với hãng tin AP rằng ông cảm thấy đây là cái giá phải trả cho những tội lỗi mà ông đã gây ra.
3. Làm một việc thiện, sau đó tìm thấy 40 USD một cách vô cùng khác thường
Mappberg, một thành viên trên mạng xã hội Reddit đã chia sẻ:
Tôi trải qua giai đoạn mất ngủ và đã thức trắng nhiều đêm trong những năm qua. Một đêm nọ… tôi đến cửa hàng tiện ích 7-11 khoảng lúc 6h30 sáng… Trên đường đi ra, tôi bắt gặp [một người đàn ông vô gia cư]… tôi trở vào và mua cho ông 2 chiếc bánh mì kẹp thịt rồi hâm nóng bằng lò vi sóng. Tôi đưa bánh kẹp cho ông ta rồi đi tiếp đến quán Tropical Smoothie mở cửa lúc 7h sáng.
Tôi đỗ xe, mở cửa, nhìn xuống, và ngỡ ngàng khi trông thấy một tờ 20 USD mới tinh tại vạch kẻ đỗ xe. Cứ tưởng thế đã là quá may mắn, nhưng diễn biến tiếp theo mới thực sự kỳ quặc: tôi trở ra từ quán Tropical Smoothie, và khi đang quay trở lại chỗ đõ xe thì lại trông thấy một tờ 20 USD nữa tại đúng vị trí trước đó. Tôi kiểm tra túi và thấy tờ tiền lúc trước vẫn còn nguyên. Liệu đây có phải là một trục trặc của ma trận không?
4. Dù cố lấy đồ miễn phí, bạn vẫn phải trả tiền như thường
Chia sẻ của thành viên AdolphManson trên mạng Reddit:
Một hôm tôi trả tiền mua một tờ báo nhưng lại lấy 2 tờ (bởi vì tôi phát chán với việc các đồng nghiệp cứ lấy trộm báo của tôi). Khi chuẩn bị rời đi với hai tờ báo, tôi phát hiện thấy áo mình bị mắc kẹt trong hòm bán báo khi cửa hòm đóng lại. Tôi lại phải trả thêm 0,25 USD để gỡ áo ra.
5. Cậu bé ngoan được thưởng
Chia sẻ của thành viên JeffreyGlen trên mạng Reddit:
Hôm nay, tôi và con trai đã đến siêu thị Wal-Mart để mua một cuộn băng mới cho chiếc máy chơi điện tử Nintendo DS của cháu. Khi đến quầy thanh toán, tôi thấy người phụ nữ đứng trước mặt mình đang tỏ vẻ hơi thất vọng. Thẻ tín dụng của cô này bị từ chối khi cô mua sữa trẻ em. Con trai tôi vốn yêu trẻ con nên cháu đã trò chuyện với người phụ nữ đó về đứa con gái nhỏ của cô. Cháu bỏ lại cuộn băng trò chơi rồi đưa số tiền của mình cho người phụ nữ kia và nói, “Em bé của cô cần thức ăn hơn cháu cần trò chơi Cây cỏ đại chiến Zombies (Plants vs. Zombies)”. Tôi cảm thấy vô cùng tự hào nên cuối cùng đã quyết định vẫn mua cuộn băng trò chơi cho cháu.
Khi chúng tôi ra ngoài, một quý bà tiến đến và nói bà đã chứng kiến cách hành xử của con tôi, rồi đưa cho cháu một phong bì và dặn về đến nhà mới được mở. Khi về đến nhà, chúng tôi mở phong bì và thấy một tờ 100 USD kèm theo một mẩu giấy ghi “cháu xứng đáng với phần thưởng này, chàng trai trẻ!”.
6. Cho đi khi bạn không còn gì để cho, bạn sẽ đứng ở top đầu
Chia sẻ của thành viên ScottRockview trên mạng Reddit:
Có một thời tôi từng bán đồ nội thất nhưng không giỏi công việc này. Đó là một giai đoạn khó khăn trong cuộc sống khi tôi chỉ kiếm được 1.000 USD một tháng (khoảng 10 năm trước, đây là mức thu nhập thấp ở Mỹ) và gần như chẳng còn lại gì sau khi chi trả tiền thuê nhà và các hoá đơn dè sẻn của bản thân. Có nhiều lúc tôi không ăn uống gì trong nhiều ngày vì không có tiền.

Một ngày nọ, tôi đang cố gắng bán hàng nhưng chưa được mối nào. Gần đến cuối ngày mà tôi vẫn chưa kiếm được một đồng (tiền hoa hồng). Lúc đó, có một cặp vợ chồng già bước vào và nhìn ngắm các kệ TV. Tất cả các nhân viên bán hàng đều lảng tránh họ vì chúng tôi đều biết rằng bọn họ sẽ nhìn ngắm rất lâu nhưng rốt cuộc chỉ bỏ ra khoảng 100 USD để mua sắm và như vậy tiền hoa hồng chỉ vỏn vẹn có 2 USD.

Tôi nhìn cặp vợ chồng già và nghĩ… nếu tôi có thể bán được bất cứ thứ gì hôm nay, ít nhất tôi sẽ không bị trắng tay và biết đâu vận may của tôi sẽ thay đổi sau đó. Cuối cùng hai vị khách này đã mua 2 kệ (tiền hoa hồng cho tôi là 6 USD) nhưng hỏi tôi cách lắp ráp các kệ này… Mặc dù tôi có thể giới thiệu cho họ một dịch vụ (có tính phí), nhưng tôi lại bảo họ “cháu xong việc lúc 9h00 tối, nếu hai bác đến đón cháu, cháu sẽ đến lắp kệ miễn phí cho hai bác”. Họ nhận lời rồi trả tiền cho món đồ và rời đi.

Các nhân viên bán hàng khác cười nhạo tôi. Họ còn cười nhạo tôi nhiều hơn khi đã gần đến giờ tan ca mà tôi chẳng bán thêm được gì. Cặp vợ chồng già đến đón tôi vào đúng 9h00 tối …

Chúng tôi bước vào căn hộ xinh đẹp của cặp vợ chồng này… Tôi có thể ngửi thấy mùi thức ăn đang nấu nhưng đã cố gắng lờ đi (vào thời điểm đó tôi đã không ăn gì trong khoảng 3 ngày, nên điều này quả thật khó khăn đối với tôi). Tôi đã làm việc gần 3 tiếng đồng hồ liên tục cho đến khi tan ca…
[Ngay sau đó,] bà vợ chạy ra kéo tôi vào bếp. Bà lấy ghế cho tôi ngồi và mang cho tôi một đĩa thịt bò quay nóng hổi. Điều này còn tốt hơn bất cứ món tiền công nào. Tôi rất cảm kích và biết ơn. Tôi cố cầm nước mắt khi thưởng thức một bữa ăn tại gia tuyệt hảo mà bà đã chuẩn bị cho tôi…

Bà vợ đưa tôi một phong bì [sau khi chở tôi về nhà]. Tôi không mở nó, mà chỉ cảm ơn hai ông bà. Tôi vui sướng đi lên căn hộ, vì biết rằng đêm hôm đó mình sẽ đi ngủ với cái bụng căng tròn và có lẽ không cần phải ăn trong vài ngày tới. Tôi cảm thấy rất tuyệt. Tôi mở phong bì và thấy trong đó có một tấm thiệp cảm ơn. Bên trong tấm thiệp là 100 USD. Tôi đã bật khóc…

Sau lần đó, trong suốt những tháng ngày còn lại bán đồ nội thất, tôi luôn chạy tới giúp đỡ những người mà không ai quan tâm. Tôi đã thay đổi mục tiêu của mình từ chỗ đạt doanh số bán hàng lớn mỗi ngày cho đến chỗ quan tâm đến những nhu cầu nhỏ lẻ của khách hàng mà thường không ai quan tâm. Phương thức này đã giúp tôi vượt qua những tháng ngày gian khó cho đến khi tôi kiếm được một công việc có thù lao tốt hơn.

Theo Tạp chí thế giới Tâm linh huyền bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quả báo có thật hay không. Chia sẻ câu chuyện về Quả Báo

Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Trong đời bạn từng ao ước kiếm được thật nhiều tiền và trở thành tỷ phú? Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn. 1. Nằm sấp Bạn là người hơi bảo thủ và luôn coi mình là trung tâm, nhiều khi chỉ biết nghĩ đến bản thân. Bạn luôn hướng
Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố

Quẻ Quan Âm thứ 85 Quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố đoán rằng có thể đi đến đích cuối cùng, những sự việc đang muốn làm, hãy yên tâm thực hiện.
Quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 91 được xây dựng trên điển cố: Tam Anh chiến Lã Bố hay anh hùng đánh Lã Bố.

Quẻ trung bình thuộc cung Dậu. Hiện trạng giờ đây giống như phía trước là một con đường rộng lớn, có thể tự tin đi đến đích cuối cùng, không cần phải lo lắng. Những sự việc đang muốn làm, hãy yên tâm mà thực hiện.

Thử quái tiền đồ hiển đạt chi tượng. Phàm sự thông thái đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố

Câu chuyện này có nguồn gốc từ tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa“.

“Tam anh” là chỉ ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi.

Cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn. Quan Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác nắm giữ triều chính, chuyên quyền bạo ngược. Quan lại các nơi rất bất mãn, đều muốn dấy quân đánh Đổng Trác. Tào Tháo dùng mưu kế dâng đao để giết Đổng Trác nhưng không thành, bèn trốn khỏi Lạc Dương, chiêu binh mãi mã, lại viết hịch gửi các quận kêu gọi đánh Đổng Trác. Sau khi bài hịch phát ra, chư hầu các lộ đều lần lượt dấy binh hưởng ứng, nhanh chóng tập hợp được binh mã của mười tám lộ. Mọi người suy tôn Viên Thiệu làm minh chủ, tiến đánh đến Lạc Dương.

Đống Trác nghe được tin, lập tức triệu tập Lý Nho, Lã Bố để bàn bạc, quyết định tiến hành truy bắt.

Trong doanh trại của Viên Thiệu chia làm tám lộ chư hầu gồm Vương Khuông, Kiều Mạo, Bào Tín, Viên Di, Khống Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công Tôn Tán, đến cửa ải Hố Lao đón địch. Tào Tháo dẫn quân đến cứu viện. Tám lộ chư hầu đều khởi binh, Thái thú Hà Nội là Vương Khuông dẫn quân đến trước tiên. Lã Bố mang ba nghìn ngựa chiến được trang bị giáp sắt, chạy như bay đến nghênh chiến. Lã Bố là con nuôi của Đổng Trác, mấy lần đại chiến, chư hầu các lộ không ai có thể địch nối.

Lúc này, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đang đầu quân dưới trướng của quan Thái thú Bắc Bình là Công Tôn Tán. Một hôm, Lã Bố lại dẫn quân khiêu chiến, chư hầu các lộ đều xông ra. Công Tôn Tán lên trước, đánh với Lã Bố chưa được mấy hiệp đã thất bại. Lã Bố thúc ngựa xích thố đuổi theo. Con ngựa đó một ngày có thể đi được nghìn dặm, chạy nhanh như gió, trong nháy mắt đã đuổi kịp, Lã Bố nâng cây kích nhằm phía sau Công Tôn Tán đâm tới. Trong lúc gay cấn, chỉ thấy có một vị tướng ở bên cạnh, mắt trợn tròn, râu vểnh ngược, vung bát xà mâu, phi ngựa quát lớn: “Tên đầy tớ của ba họ chớ có chạy! Có Trương Phi người đất Yên ở đây!” Lã Bố nhìn thấy, liền bỏ qua Công Tôn Tán để đánh Trương Phi. Trương Phi phấn chấn tinh thần, say sưa giao chiến với Lã Bố. Đánh nhau liên tiếp hơn năm mươi hiệp, vẫn không phân thắng bại. Quan Vũ thấy vậy, vỗ ngựa một cái, múa cây đao Thanh long yển nguyệt nặng tám mươi hai cân, đến đánh giáp công với Lã Bố, ba người dàn hình chữ đinh giao chiến, đánh đến ba mươi hiệp vẫn không đánh ngã được Lã Bố. Lưu Bị bèn múa song kiếm, thúc con ngựa bờm vàng đến trợ giúp. Ba người vây Lã Bố lại, đánh nhau loạn xạ, khiến cho người ngựa hai bên nhìn đến ngây người. Lã Bố cuối cùng không địch lại nổi ba người, dần dần chỉ tìm cách che chắn chống cự, đâm dứ một kích, tìm chỗ trống xông ra khỏi trận, kéo lê cây kích, phi ngựa chạy về. Ba người Lưu Bị sao có thể buông tha, bèn thúc ngựa đuổi theo. Quân sĩ phía sau hò reo vang động, đồng loạt xông lên tấn công. Quân của Lã Bố thất bại chạy về cửa ai Hổ Lao. Ba người Lưu, Quan, Trương đuổi theo Lã Bố đến dưới cửa ải, thấy trên cửa ải gió tây lay động chiếc lọng màu xanh, Trương Phi nói lớn: “Đây chắc chắn là Đổng Trác! Đuổi theo Lã Bố thì có gì hay? Chi bằng đến đây bắt tên giặc họ Đổng, diệt cỏ tận gốc!” Ròi thúc ngựa tiến lên để bắt Đồng Trác. Nào ngờ trên cửa ải gỗ đá ào ào ném xuống, tên bay như châu chấu, chẳng có cách nào đành phải lui quân.

Sau đó, nội bộ mười tám lộ chư hầu chia rẽ. Quan Tư đò Vương Sung sai Điêu Thuyền dùng mỹ nhân kế, mua chuộc Lã Bố giết được Đống Trác, bắt đầu hình thành cục diện hỗn chiến cát cứ quân phiệt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố

Những con giáp có tình yêu thăng hoa bất ngờ dịp Giáng sinh

Những con giáp có tình yêu thăng hoa bất ngờ dịp Giáng sinh: Nhờ vận đào hoa cực vượng, những con giáp dưới đây sẽ đón một mùa Giáng sinh an lành và ngập tràn
Những con giáp có tình yêu thăng hoa bất ngờ dịp Giáng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhờ vận đào hoa cực vượng, những con giáp dưới đây sẽ đón một mùa Giáng sinh an lành và ngập tràn hạnh phúc.


Quán quân: Người tuổi Tý


Bước sang tháng 12, vận thế tình duyên của người tuổi Tý lí tưởng, đặc biệt trong mùa Giáng sinh, tình yêu đôi lứa thăng hoa, hai bên tìm thấy sự đồng điệu về tâm hồn cũng như cảm nhận niềm hạnh phúc ngập tràn.

Hãy chủ động chia sẻ cảm xúc và tìm hiểu đối phương nhiều hơn, mối quan hệ đôi bên càng khăng khít. Đồng thời, nên giảm số lượng nhưng tăng thời lượng cuộc buổi hẹn trong mùa Giáng sinh, thời gian dài bên nhau sẽ thúc đẩy tình cảm lứa đôi có bước tiến đột phá.

Nhung con giap co tinh yeu thang hoa bat ngo dip Giang sinh hinh anh
 
Á quân: Người tuổi Tỵ

Giáng sinh đang tới gần, các cặp đôi có thể lên kế hoạch cho khoảnh khắc lãng mạn, ngập tràn yêu thương. Tận dụng cơ hội này,  hai bên có thể hàn gắn mọi mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí nhượng bộ để đáp ứng nguyện vọng của nhau.

Đừng tiếc lời khen ngợi đối phương, người tuổi Tỵ hãy tìm cách bật mí về suy nghĩ cũng như tình cảm chân thành của mình, không được “kén cá chọn canh” thì tình yêu lứa đôi mới tiến triển thuận lợi và thăng hoa.

Mách nhỏ với phe FA nhé, nếu đã có “người trong mộng”, thay vì thể hiện tình cảm một cách quá lộ liễu, bạn có thể ra tín hiệu ngầm nào đó, vừa khiến đối phương chú ý đồng thời lại khơi gợi sự tò mò, muốn khám phá và chinh phục bằng được.

Nhung con giap co tinh yeu thang hoa bat ngo dip Giang sinh hinh anh
 
No3. Người tuổi Hợi

Tình yêu của người tuổi Hợi bước vào giai đoạn ổn định, không mâu thuẫn nhưng cũng chưa thấy dấu hiệu đột phá. Tận dụng không khí lãng mạn của đêm Noel này, hai bạn nên dành nhiều thời gian và tặng những món quà yêu thích cho nhau nhằm thúc đẩy tình yêu thăng hoa.

Người độc thân có thể chủ động sắp xếp buổi hẹn hò lãng mạn để tỏ tình. Vận đào hoa tăng mạnh sẽ giúp bạn bày tỏ tình cảm thành công. Đây chính là một trong những con giáp có tình yêu thăng hoa trong mùa Giáng sinh 2016.

Top 5 con giáp tốt toàn diện năm 2016
Được nhiều cát tinh và quý nhân phù trợ, những con giáp này không những gặt hái thành công trong công việc, sự nghiệp mà cả đường tình duyên cũng mĩ mãn.

No4. Người tuổi Thìn

Vận thế tình duyên của người tuổi Thìn trong mùa Giáng sinh khởi sắc mạnh, nếu muốn thúc đẩy mối quan hệ đôi bên lên tầm cao mới, bạn nên “đầu tư” chút thời gian và công sức nhé. Hãy bỏ qua mọi rào cản cá nhân để hòa nhập vào thế giới của riêng hai bạn.

Các chàng tuổi Thìn nên chủ động chia sẻ tâm tư tình cảm với đối phương hơn, mùa Giáng sinh ngập tràn hạnh phúc đang chờ đợi hai bạn phía trước, hãy cùng nhau tận hưởng khoảnh khắc ngọt ngào bên nhau.

► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Hoàng Lan (Theo QQ)

Xem thêm video Giải thích quan hệ hợp, xung, khắc của 12 con giáp.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp có tình yêu thăng hoa bất ngờ dịp Giáng sinh

Xem tướng phát đạt và phá bại khi đến vận

Xem tướng phát đại những người đang chuẩn bị đến vận tốt, hào khí quanh người hồng sáng, ngũ quan tươi tắn, trong khi tướng phá bại đi vào vận xấu cần xem
Xem tướng phát đạt và phá bại khi đến vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi đến vận tốt, xem tướng người phát đạt thấy hào khí tỏa sáng, tinh thần hưng khởi, ngũ quan hồng hào cân đối.

Thông thường, bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, tiếng nói vang dội. Tam đình bình ổn. Ngũ quan cân xứng vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt, nhưng trongđời sống  thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có tướng phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt.

Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học hoặc do Ngũ hành sinh khắc (ừong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).

Ngược lại, ngũ quan, ngũ nhạc không nảy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm.

Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, ví dụ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.

Xem tướng phát đạt giàu sang phú quý

Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là:

  • Mắt lồi (vốn là tướng chết yểu).
  • Tai phản (Luân quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn).
  • Lỗ mũi hếch lên (tướng của người chết thảm).
  • Môi cong lên (tướng của người chết thảm).
  • Lộ hầu (cùng ý nghĩa như môi cong).

Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “Ngũ lộ câu toàn” tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn chỉ mới là hỉnh thức chứ không đủ thực chất đi kèm.

Ví dụ như ngũ lộ mà:

  • Mắt lộ nhưng không có thần quang.
  • Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ.
  • Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng.
  • Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh.

Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt.

Xem bói pháp có câu: Nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu toàn nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả. Mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu… cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “lộ” là tốt hay xấu chứ không thể vội vã võ đoán.

Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú… cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.

Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “Trọc trung hữu thanh”, “thanh” và “trọc” tương đối dễ phân biệt, nhưng “Thanh trung hữu trọc” và “Trọc trung hữu thanh” thì lại rất khó tìm ra.

Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “Tâm lĩnh thần hội” nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phàn hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền.

Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn nằng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy, độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” kia mà.

Tướng người được nể trọng

Càng có nhiều đặc điểm dưới đây thì càng chính xác. Đây là một số điểm xem tướng người luôn được mọi người kính nể, nói lời thì nghe lời, kính trọng khuôn phép.

– Lòng bàn chân bằng phẳng.
– Dưới hai lòng bàn chân có hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, trục xe và nan hoa xe.
– Gót chân thon dài.
– Ngón tay ngón chân dài.
– Tay chân mềm mại.
– Tay chân có chỉ giăng như màn lưới.
– Mắt cá chân dáng như con sò.
– Ống chân thon thả như chân hươu.
– Đứng thẳng không khom xuống, cũng có thể với bàn tay sờ chạm đầu gối.
– Ngọc hành ẩn kín trong bọc da.
– Màu da sáng ánh như vàng ròng.
– Da thật láng mịn, bụi bặm không bám.
– Mỗi lỗ chân lông mọc chỉ một sợi lông.
– Lông mọc hướng về phía trên, các lông có màu xanh đen và xoáy tròn chiều bên hữu.
– Thân hình ngay thẳng.
– Bảy chỗ là: cổ, 2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 bả vai, đều no đầy.
– Bán thân trên tựa như mình sư tử.
– Lưng bằng phăng.
– Thân cân đối như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân.
– Vị giác nhạy bén, tức là thần kinh lưỡi cực nhạy dễ dàng hấp thụ hưong vị thức ăn.
– Cần cổ ừòn trịa, thẳng đều.
– Cằm tròn như cằm sư tử.
– Răng bằng và đều.
– Răng mọc khít nhau.
– Bốn chiếc răng nhọn thật trắng sạch.
– Lưỡi rộng dài.
– Tiếng nói trong ấm rõ ràng như tiếng chim karavika.
– Tròng mắt đen huyền.
– Lông mi dài mịn như mi mắt con bê.
– Giữa đôi lông mày có chùm lông trắng mềm như bông.
– Đầu có nhục kế, là xương đỉnh đầu nổi vung lên.

Tướng phá bại số kiếp long đong

Các dấu hiệu của sự phá bại (phá bại dùng ở đây có nghĩa rộng rãi), bao gồm:

  1. Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ.
  2. Tâm tính thấp hèn, ngu muội quá mức bình thường.
  3. Kết quả cuộc đời thường bi thảm: chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết thảm, đói rách, bị khinh rẻ,…

Đứng về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây:

– Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa.
– Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn…
– Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt lợn thì sẽ chết không toàn thây.
– Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chét non, lộ và có hùng quang chủ về chét thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm.
– Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp hoặc có gân, có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuổng thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại, quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.
– Miệng nhỏ, môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch, lớn mà thường há hoác ra không khép kín lại đều chủ về cô đon, nghèo hèn. Môi chúm lại và nhô cao lên, khóe miệng trễ xuống, pháp lệnh ăn vào khoé miệng đều có ý nghĩa tưong tự. Riêng pháp lệnh ăn vào khoé miệng gọi là “Đằng xà nhập khẩu” dù các bộ vị khác có tốt nhung chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ.
– Tai không có luân, quách rõ ràng minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về nghèo túng, đen đủi, thấp, lệch chủ về hèn mọn chết non.

Đại để nhũng kẻ mà ngũ quan đều vấp phải một trong các khuyết điểm của từng Quan kể trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng người phá bại.

Ngoài tướng phá bại vì ngũ quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt sau đây cũng bị xếp loại vào tướng phá bại:

Tướng lục cực

Tướng lục cực đó là người có một trong sáu dáng dấp cực đoan sau đây:

  1. Đầu lớn nhưng cổ nhỏ: chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số góa bụa, làm bé.
  2. Mặt lớn, đầu nhỏ: chủ về nghèo và tính nết độc ác.
  3. Thân thể phì nộn, cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng, chủ về vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.
  4. Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm: chủ về hậu vận không ra gì.
  5. Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của thể: chủ về nghèo hèn không con cái.

Tướng lục tiện

Xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong các khuyết điểm sau về đức hạnh cũng thuộc về tướng lục tiện:

  1. Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.
  2. Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại).
  3. Thích châm chích những khuyết điểm của người.
  4. Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng.
  5. Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc.
  6. Lúc ăn hay nói chuyện huyên thuyên trên trời dưới đất (đây phải là một có tật bẩm sinh mới kể. Còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung quanh thì không kể).

Tướng lục nại

  1. Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt chủ về hay bị hình phạm.
  2. Ngay giữa sơn căn có một lằn sâu chạy xuyên qua ấn đường lên tới giữa trán.
  3. Sống mũi cao gầy trơ xương: chủ về khổ sở, tai nạn.
  4. Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ: chủ về hình khắc.
  5. Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên chủ về trung niên phá tán, long đong vất vả.
  6. Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.
  7. Xương lộ, thịt xệ và thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.

Tướng lục ác

  1. Đầu quá nhỏ, bần tiện, ngu độn.
  2. Mắt dê: chết thảm hoặc đoản mệnh
  3. Môi chúm cong lên, răng lởm chởm: nghèo túng.
  4. Yết hầu lộ: khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.
  5. Tam đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ, cô đơn lúc tuổi già.
  6. Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi: long đong khốn quẫn.

Tướng thập sát

  1. Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.
  2. Thần khí hôn ám thô bỉ.
  3. Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm.
  4. Lỗ mũi hếch hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.
  5. Không bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm.
  6. Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria.
  7. Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.
  8. Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.
  9. Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.
  10. Cơ thể có khí hôi do bệnh tình mà ra.

Càng gặp nhiều sát thì mức độ hung hiểm càng gia tăng và sự giải đoán càng thêm chính xác.

Ngoài những nét tướng hình thể ở vị thế tĩnh hoặc bán tĩnh, bán động đề cập ở mục vừa kể liên quan đến phát đạt hay phá bại, ta còn phải kể đến những nét tướng về thần, khí sắc (đặc biệt là khí, sắc) ở từng bộ vị một.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phát đạt và phá bại khi đến vận

Đạo của người tu luyện “rửa tai không nghe điều thất đức”

Biết phân biệt tin tức tốt xấu, dùng trí tuệ chọn lọc những gì là sạch sẽ, thanh khiết cho chính mình, mới là làm được câu Rửa tai không nghe điều thất đức
Đạo của người tu luyện “rửa tai không nghe điều thất đức”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa”, một bài hát của Khương Tử Nha có một câu “Tẩy nhĩ bất văn vong quốc âm”, tức rửa tai không nghe điều khiến mất nước. Thời bấy giờ, khi Cơ Xương đang tìm người tài, nghe được có người hát câu này thấy vô cùng cảm khái, ông bèn kể cho những đại thần câu chuyện sau đây.

Trước đây, vua Nghiêu là người đức hạnh, nhưng hiềm nỗi lại không sinh được người con hiền đức, tài năng; về sau vua Nghiêu sợ rằng nếu để con nối ngôi sẽ khiến cho dân chúng bách tính thất vọng, ông bèn thân chinh đi tìm kiếm người tài đức để thoái vị nhường ngôi. Một ngày, ông đến một vùng quê thôn dã tĩnh mịch, ông nhìn thấy một người đứng bên dòng suối, dùng có mỗi cái hồ lô nhỏ mà đảo qua đảo lại dòng nước suối.

Vua Nghiêu hỏi người đó: “Vì sao tiên sinh cứ dùng cái hồ lô đó đảo qua đảo lại dòng nước suối đó vậy?”

Người kia cười nói: “Ta thấu rõ nhân tình thế thái, dứt bỏ danh lợi, loại trừ được tư tâm về gia đình, rời bỏ thê tử, xa lìa cánh cửa thị phi luyến ái, tránh được con đường hồng trần, ẩn cư tại núi sâu rừng thẳm, ăn cơm dưa muối, còn có thức ăn hoang dã, tự do tự tại chốn lâm tuyền, có thể an hưởng tuổi trời, bình sinh cũng đã thỏa mãn tâm nguyện của mình”.

Vua Nghiêu nghe xong rất đỗi vui mừng, nghĩ rằng: “Người này cả đời cái gì cũng xem nhẹ, quên hết vinh hoa phú quý, rời xa thế thái thị phi, thật sự có thể nói là nhân kiệt; có thể trao cho cho ông ta ngôi vị của ta rồi”.

Nghĩ vậy vua Nghiêu bèn nói: “Hỡi người hiền đức kia, ta không ai khác chính là vua Nghiêu; hôm nay gặp được người đức hạnh như ngươi, ta thật sự muốn tặng ngôi vị của mình lại cho ngươi, ngươi có đồng ý không?”

Người kia nghe xong, lập tức cầm hồ lô lên, đạp một cước nát bấy, hai tay che lỗ tai lại, vội vàng chạy đến dòng suối rửa tai.

Đang rửa tai, ông thấy một người dắt trâu đến bên suối uống nước, người này cất tiếng: “Quân tử, trâu đến uống nước đây rồi”.

Thấy người kia chỉ lo rửa tai của mình, người này lại nói: “Rốt cục tai của ông bẩn thế nào vậy? Sao ông chỉ lo rửa tai của mình vậy?”

Người kia sau khi rửa xong, mở miệng trả lời: “Vừa rồi vua Nghiêu nói muốn thoái vị cho ta, làm cho hai lỗ tai của ta ô nhiễm cả rồi, thế nên ta mới rửa tai cho sạch một lúc, làm trễ nải trâu của ngươi uống nước”.

Người này nghe xong, liền dắt trâu lên đầu nguồn uống nước. Người kia nói: “Sao vậy? Sao lại đi vậy?”

Người này nói: “Nước ở đây đã bị ông rửa tai làm ô nhiễm, vậy ta cớ gì lại để trâu của ta uống thứ nước ô nhiễm này chứ?”

Những thánh nhân ngày xưa, kể cả nghe đến việc vua Nghiêu nói đến chuyện thoái vị nhường ngôi cũng không muốn nghe, vì họ sợ những thứ đó quá rồi, sợ rằng sẽ làm bẩn lỗ tai của mình.

Thế mà, xã hội chúng ta ngày nay ngập tràn những tin tức thiếu đạo đức đủ loại, chúng ta lại chấp thuận lắng nghe, ganh đua, đầy ái ố hỉ nộ thị phi.

Bồi dưỡng năng lực phân biệt tin tức tốt xấu, dùng trí tuệ chọn lọc những gì là sạch sẽ, thanh khiết cho chính mình, đó mới là làm được câu “Rửa tai không nghe điều thất đức”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đạo của người tu luyện “rửa tai không nghe điều thất đức”

Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Khi bước vào gia đoạn dậy thì, vấn đề chuyện ấy sẽ bắt đầu xuất hiện trong giấc mơ của chúng ta. Điều đó không chỉ nói lên mức độ ham muốn của mỗi con
Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Khi bước vào gia đoạn dậy thì, vấn đề "chuyện ấy" sẽ bắt đầu xuất hiện trong giấc mơ của chúng ta. Điều đó không chỉ nói lên mức độ ham muốn "chuyện yêu" của mỗi con người mà còn là điềm báo về khả năng sinh lý.

 

Mo nhieu ve sex la ham muon tinh duc cao hinh anh
Ảnh minh họa

Nếu bạn gái mơ thấy âm đạo của mình,  điều này ám chỉ những vấn đề về nữ tính và nhu cầu/sự thôi thúc mãnh liệt về "chuyện yêu" của bạn.

Còn nếu các bạn nam mơ thấy "cậu bé", điều này cho thấy bạn đang lo lắng về vấn đề sinh lực tính dục, sức mạnh và khả năng sinh sản. Nếu bạn thấy một "cậu bé" lớn khác thường thì có nghĩa là bạn đang nghi ngờ và lo âu về dục tính và khả năng sinh lý.

Bạn mơ thấy mình đang ở giữa cuộc vui nhưng lại không thể điều khiển "nó" theo ý muốn. Điều đó tương tự như giấc mơ "bại liệt" khi bạn thấy mình không thể cử động. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, nó có nghĩa là bạn cảm thấy bất lực hay mất hết khả năng trong cuộc sống. Chẳng hạn, khi đang tìm việc mới hay cố gắng thăng tiến, bạn sẽ có giấc mơ này. Nó có thể ám chỉ sự bực bội của bạn khi không thể phát triển trong một lĩnh vực nào đó.

Nếu bạn nằm mơ thấy mình có hành vi làm "chuyện ấy" với người đồng giới, có nghĩa là bạn đang muốn người tình của mình hành động nam tính hơn một chút. Một số nhà tâm lý học lý giải, đó là sự khao khát người phụ nữ của mình thể hiện những phẩm chất của đàn ông như sự logic, lý trí và mạnh mẽ.  

Các chuyên gia cũng khẳng định, nếu một giấc mơ đồng tính làm bạn lo lắng, chắc hẳn, bạn không phải là người đồng tính. Vì vậy, bạn không cần lo lắng về vấn đề giới tính của mình nhé.

Bạn mơ thấy mình làm "chuyện ấy" tại nơi công cộng trước cặp mắt của bao người lạ. Giấc mơ này có thể ám chỉ nỗi sợ về sự thân mật thể xác, hoặc lo lắng về cảm giác bị tổn thương hay bị bắt gặp. Chẳng hạn, bạn có giấc mơ này sau khi nói chuyện với bạn tình về một kiểu quan hệ kỳ quái và nó cho thấy cảm giác tội lỗi trong bạn.

Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với nữ khác giới nhưng không phải là vợ hay bạn gái thì bạn cũng không cần phải tự trách mình, giấc mơ này chỉ phản ánh sức tưởng tượng về giới tính của bạn mà thôi, ở cuộc sống thực tế bạn là một chàng trai ngoan ngoãn và đúng mực.


Mơ thấy mình làm chuyện nhạy cảm với mỹ nữ có nghĩa là nội tâm của bạn đã phát hiện ra ưu điểm của cô gái ấy chứ không hẳn vì vẻ bề ngoài mà thích cô ấy.

Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với giới tính khác nhưng vô cùng căng thẳng - ngụ ý quan hệ của bạn với giới tính khác khá căng.


Theo Bí ẩn điềm chiêm bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Radio và ý nghĩa trong giấc mơ

Radio (đài cat-set) là một trong những phương tiện chuyển tải thông tin đến mọi người. Điều đặc biệt, thông tin được phát ra bằng âm thanh nên rất dễ đi vào bộ
Radio và ý nghĩa trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhớ của thính giả.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Radio va y nghia trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Trong giấc mơ, bạn nghe thấy tiết mục phát thanh bất kỳ phát ra từ radio thì điều này dự báo bạn sẽ duy trì tốt mối quan hệ với người xung quanh.

Chiêm bao thấy tiếng của một người nổi tiếng và có quyền lực trên radio là bạn đang ấp ủ những ước vọng chính đáng về danh vọng, địa vị. Hãy cố gắng phấn đấu để biến ước mơ của mình thành hiện thực nhé.
 

Ngoài ra, điều này còn cho thấy bạn nắm bắt được tình hình thế sự; hiểu rõ ý kiến những người xung quanh. Nó cũng tượng trưng cho cuộc đối thoại nội tâm của bạn với những người quan trọng trong cuộc sống. Điều đó giúp bạn gắn kết và tạo dựng được những mối quan hệ mới tốt đẹp hơn.
 

Chiêm bao thấy radio còn thể hiện ước muốn giao lưu về mặt tinh thần của bạn với mọi người. Người mơ thấy radio muốn được hòa mình vào thế giới bên ngoài, muốn cảm nhận sự sôi động của cuộc sống hoặc có những người bạn tâm giao để chia sẻ mọi nỗi niềm.
 

Theo Giấc mơ và vận mệnh con người trong cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Radio và ý nghĩa trong giấc mơ

Thân cư Thiên Di

Nằm ở vị trí đối diện với cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều ý nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai cung có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung Mệnh.
Thân cư Thiên Di

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu con người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói chung, và trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.

Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc biệt khác như nghề nghiệp, sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm ăn xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê hương của mình, ra đời được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư Thiên Di là những người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay ngoài đời thường có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói là được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập thân, suốt đời chỉ là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là được tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu Mã vậy. Và một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số của khoa Tử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai cung Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời đều một phần nào do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình tạo nên, và sự hỗ trợ của người bạn đời, là người chồng hay người vợ, đến từ đằng sau hay bên cạnh mình là những yếu tố không thể chối bỏ.

Những đặc tính căn bản của cung Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu người Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người này là tính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng như thích di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải là mẫu người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người như ông bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Từ đó, nếu quý bà mà đức lang quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với những bữa ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp cha v.v...

Và ngược lại, nếu phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học trước cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách pha sữa, thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người đàn bà có số Thân Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc sống trong gia đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm vui và sự thích thú hơn là những việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản thân họ, hoặc cho chồng con bên trong gia đình.

Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám đông, của bạn bè, của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di thích giao thiệp rộng nên thường là những người có năng khiếu trong lãnh vực ngoại giao và tổ chức.

Trong lãnh vực nghề nghiệp, người Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề có tính cách di động, thường được đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người... Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay truyền thanh, truyền hình, đại diện thương mãi, ngoại giao v.v... đều là những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người Thân Cư Thiên Di.

Hầu hết những người có số Thân Cư Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng lứa tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương, nhất là trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí của Thiên Mã, một sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là những người thường có cuộc sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và chết cũng tại quê người.

Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con người” trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một con người khác là con người ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.

Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di là mẫu người có một cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu giang hồ, cho nên thường thích ra đời sớm, thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa chí tang bồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thân cư Thiên Di

Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương

Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương. Bạn muốn gửi một lời chúc, một lời nhắn gửi, động viên trước những giờ thi cam go
Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương. Nếu bạn muốn gửi một lời chúc, một lời nhắn gửi, động viên, hay đơn giản chỉ là những sẻ chia cảm xúc trước những giờ thi cam go, sao bạn không nhân dịp này để gửi tới bạn bè, anh/chị em những lời yêu thương đấy.

Bạn có thể chia sẻ tất cả những cảm xúc của mình về kỷ niệm, những dấu mốc đáng nhớ của những năm tháng học trò, hay đơn thuần chỉ là những nhắn gửi dặn dò vào ô commnent ngay dưới topic này, và chúng tôi sẽ là nhịp cầu gửi đến những người bạn của bạn . Còn bây giờ, hãy cùng gửi những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho các sĩ tử chuẩn bị bước vào kỳ thi đầy cam go.

Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương

Những lời chúc thi tốt hài hước, dễ thương

Thà để giọt mồ hôi rơi trên trang sách, còn hơn giọt nước mắt rớt trên đề thi. Chúc bạn của tui thi thật tốt nha!

———

Xin thông báo: Chuyến bay mang tên “THI TỐT NGHIỆP” sẽ cất cánh vào vào đầu tháng 6. Đề nghị tất cả các hành khách kiểm tra lại hành trang Kiến Thức, Tâm Lý và Tự Tin. Chuyến bay sẽ đáp cánh xuống đảo “Thành Công” nằm trên biển “Thất Bại”. Cùng với 1 chút May Mắn và sự chuẩn bị kỹ lưỡng chúng ta sẽ đáp cánh tốt đẹp xuống hoàn đảo xanh tươi này. Hành khách nào ko chuẩn bị tốt sẽ bị vứt xuống biển “Thất bại” cho loài cá “Lêu lêu” ăn thịt. Các bạn đã sẵn sàng chưa? Chúc các bạn thi tốt trong kỳ thi sắp tới!!!!

Bước vào phòng thi tự tin như núi

Làm bài thi như nước chảy mây trôi

Ra khỏi phòng thi với mặt cười rạng rỡ

Chúc bạn yêu thi tốt nhé!!!

Những lời tớ dặn bạn phải nhớ kỹ nhé:

“Tránh Xa Điểm 1

Dẹp Điểm 2

Bye Điểm 3

Xa Điểm 4

Trốn Điểm 5

Căm Điểm 6

Quý Báu Gì điểm 7

Quyết Nhảy Qua Điểm 8

Bám Chặt Điểm 9

Vịn Chắc Điểm 10″

Hehe, Chúc bạn yêu thi tốt nhé

Cha mày, mẹ mày, ông nội mày, tổ tiên mày đều mong mày thi tốt. Cố lên nhé

Thế là 12 năm đèn sách cũng đến lúc cần phải chứng tỏ bản thân rồi, mày và tao cùng cố gắng nhé, đứa bạn thân mà tao yêu quý nhất. Chúc mày tự tin làm bài thi thật tốt nhé! Cố lên… Cố lên…

Hãy ăn đủ bữa, ngủ đủ giờ để đủ sức khỏe chiến đấu với kỳ thi tốt nghiệp ở phía trước bạn nhé!

Nếu có bất cứ thứ gì mình muốn nói ngay lúc này thì nó chỉ có thể là “THi ĐỖ TỐT NGHIỆP NHÉ”

Học, học nữa, học mãi = thành công, thành công, đại thành công! Nhưng chúc bạn chỉ phải thi tốt nghiệp một lần duy nhất

Bởi em mắt biếc ngoan hiền

Tôi chăm đèn sách xứng duyên với người

Bởi em tinh nghịch môi cười

Tim tôi nở đóa hoa tươi diệu kì

Hai ta móc ngoéo mùa thi

Một người thi rớt, còn gì? Tình yêu!

Cố lên bạn yêu, nếu thi đỗ tớ hứa là sẽ tặng bạn một món quà vô cùng… giá trị. Đó là nụ hôn gió nồng cháy và rực lửa của tớ.

Chúc tình yêu của anh tự tin, chiến thắng, thi đỗ tốt nghiệp và thịt luôn thằng Đại học nhé, anh sẽ chờ em ở cánh cổng Đại học, cố lên! Cố lên nào!

Ngày mai là bắt đầu kì thi Tốt Nghiệp – kỳ thi quan trọng – nó đánh dấu một bước ngoặt của cuộc đời… nên các em hãy cố gắng giữ gìn sức khoẻ, chú ý tới vấn đề ăn uống sao cho: ăn đủ bữa, ngủ đủ giấc nhé…! Có như vậy, kỳ thi sẽ làm các em háo hức, mong chờ hơn là lo lắng.

Chúc các em có một kỳ thi thật tốt! Đừng tạo áp lực cho mình, cứ để tâm trí bình thản, đừng quá căng thẳng,…cứ thư giãn nhé rồi em sẽ có một kỳ thi thật tốt cho xem! Các cá chép đang đợi hóa rồng hãy cố gắng lên nhé, mọi người luôn luôn sát cánh bên các em. Chúc các sĩ tử thi thật tốt và đạt điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp này. Cố gắng lên nhé!

Chúc bạn: Đủ sức khỏe – Đủ tự tin – Đủ quyết tâm – Đủ khát khao chiến thắng
Cố lên bạn hiền, nếu thi đỗ tớ sẽ tặng bạn một món quà vô cùng giá trị. Đó là nụ hôn gió nồng cháy và rực lửa của tớ.

Học, học nữa, học mãi = thành công, thành công, đại thành công! Nhưng chúc bạn chỉ phải thi đại học một lần duy nhất.

Thông báo
Chuyến bay mang tên “Đại Học,Cao Đẳng″ sẽ cất cánh vào vào đầu tháng 7. Đề nghị tất cả các hành khách kiểm tra lại hành trang Kiến Thức, Tâm Lý và Tự Tin. Chuyến bay sẽ đáp cánh xuông đảo “Thành Công” nằm trên biển “Thất Bại”. Cùng với 1 chút May Mắn và sự chuẩn bị kỹ lưỡng chúng ta sẽ đáp cánh tốt đẹp xuống hoàn đảo xanh tươi này. Chú ý hành khách nào ko chuẩn bị tốt sẽ bị rớt xuống biển “Thất Bại” cho loài cá Lêu Lêu ăn thịt. Bạn đã sẵn sàng chưa???

Chúc các em có một kỳ thi thật tốt! Đừng tạo áp lực cho mình, cứ để tâm trí bình thản, đừng quá căng thẳng,…cứ thư giản nhé rồi em sẽ có một kỳ thi thật tốt cho xem!Các cá chép đang đợi hóa rồng hãy cố gắng lên nhé, mọi người lun sát cánh bên các em.Chúc các sĩ tử thi thật tốt và cho dù có không tốt thì cũng sẽ có một lối đi thích hợp cho mình. Cố gắng lên nhé!

Ngày mai là bắt đầu kì thi Đại Học, Cao Đẳng – kỳ thi quan trọng – nó đánh dấu một bước ngoặt của cuộc đời… nên các em hãy cố gắng giữ gìn sức khoẻ, chú ý tới vấn đề ăn uống sao cho: ăn đủ bữa, ngủ đủ giấc nhé…! Có như vậy, kỳ thi sẽ làm các em háo hức, mong chờ hơn là lo lắng.

Hãy tin rằng không có sự thất bại, con người luôn luôn có đủ khả năng để chinh phục những đỉnh cao! Hãy bình tĩnh, cẩn thận, và làm bài một cách thông minh như các bạn vẫn vậy.

Cố gắng thi, đừng phụ lòng tớ ngồi cầu nguyện cho cả 2 đứa cả buổi chiều.

Bạn có nghe thấy tiếng cánh cổng trường đại học đang réo gọi tên bạn không? Hãy làm bài thật tốt để có thể đến “âu yếm” nó.

Mùa thi xin chúc bạn có: Giấy báo về nhà, chuẩn bị xôi gà, và sẽ phải xa nhà!

Tin nhắn chúc thi tốt hài hước, dễ thương

☻ ♥ ☻
/♥\./█\
.||..||.
Mình cùng nhau bước qua cổng trường đại học nhé

|!:._.:!|!:.
“:::Chúc:::’”
“-!|!-”
.:!|!:._.:!|!:.
“::: Ấy :::”
“-!|!-”
.:!|!:._.:!|!:.
“::: Thi :::”
“-!|!-”
.:!|!:._.:!|!:.
“::. Tốt .::”
“-!|!-”
.:!|!:._.:!|!:._.:!|!:.
“: @ Lucky @ : :”
“‘-!|!-””-!|!-’”

(¯`•.♥.•[TỰ TIN NHÉ]•.♥.•´¯)
¨°o.O BẠN TÔI O.o°
••.•´¯`•.••
••.•´¯`•.••
Cố gắng
(¯`•.♥)Làm ♥ Bài(¯`•.♥)
(¯`•.♥)Thật ♥Tốt(¯`•.♥)

.´…(…{…}…)..`. …
…/`…`-.`=´.-´…`….
[_..`….._,…,_…..´.._]
.|……:”“““”:…….|.
.|__//____________\\__|.
.|….———–…..|
..|.|…11.´12´.1…|.|
..|.|.1o…\|…2…|.|
..|.|.9…..°….3..|.|
..|.|.8…..:….4..|.|
..|.|[`.7…6…5`].|.|
..|.|..;-.___.-;….|.|
.|__//____________\\__|.
Dậy học thôi nào, muộn rồi đấy.

╔═══╗ ♪
║███║ ♫
║ (●) ♫
╚═══╝♪♪
☆Niềm tin chiến thắng…♫
luôn mã i trong tim mỗi chúng ta ♥
____☆Cố lên nhé☆____

。☆ ° ☆. 。
★。\|/。★
° ☆—☉—☆ °
. ★°/ ↑ \°★ .
….. .↑……
_.Chúc.↑.._____
(¯`v´¯)_Bạn ____
.`•.¸.•´_____Thi__
. . . .(´¯.:Tốt:.¯`). . .
Cố gắng đỗ thủ khoa nhé!

..oooo0…………
..(…..)….0oooo.
…\…(……(…..)…
…\._)…….)…/….
…………(_./….
Vững bước trên con đường đã chọn bạn nhé. HAPPY

☆。○ 。° 。° 。☆ ○
。。 °○☆°。。☆° °
○° ☆ ○°。。°。 。○
»»☆Thi ««☆ ☆
…..»»☆ Thật ««☆ ☆
……..»» ☆Tốt Nhé Cậu!««☆
☆☆☆Bạn Sẽ Thành Công☆☆

|-GIAY BAO NHAP HOC-|
|——————————|
|——————————|
|——————————|
|——————————|
|•´¯`•.¸¸.•´¯`•.¸¸.•´¯`•.¸¸¸¸.•´¯`•.|
Mùa thi xin chúc bạn có: Giấy báo về nhà,
chuẩn bị xôi gà, và sẽ phải xa nhà!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tin nhắn gửi lời chúc thi tốt hài hước dễ thương
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd