Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sự biến đổi của Sao Phá quân

Sao Sát, Phá, Lang có những biến đổi khó có thể tưởng tượng được đối với cuộc sống con người, trong đó tính biến đổi của sao Phá quân là lớn nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Sát, Phá, Lang có những biến đổi khó có thể tưởng tượng được đối với cuộc sống con người, trong đó tính biến đổi của sao Phá quân là lớn nhất.

tinh-cach-sao-pha-quan

Sự biến đổi của sao Phá quân chia thành sự biến đổi do các nhân tố ở bên ngoài và bên trong.

Bên ngoài như quan hệ sống, do sự biến đổi của môi trường (như giáo dục, công việc, hôn nhân, tiền tài); sự thay đổi của các nhân tố bên trong như: tính tình, quan niệm tư tưởng, giá trị quan và phương pháp xử lý sự việc, thế giới tình cảm của cá nhân.

Sự thể hiện tính biến đổi của sao Phá quân rất không ổn định khiến cho người ta có cuộc sống ở hai thái cực, có kịch tính và có cảm giác rất không hài hòa. Ví dụ:

Khi nhỏ thất học đến khi già thì lại là người uyên bác thông thái;

Từng là người tình yêu nồng nhiệt thề non hẹn biển lại còn kết hôn một cách trọng thể ấy vậy mà đột nhiên lại ly hôn, hai bên lạnh nhạt với nhau và trở thành những người xa lạ trên đường;

Hôm nay là người đi làm thuê bôn bả vất vả khắp nơi, ngày mai lại trở thành chủ quản cao cấp trong công ty ở trong thành phố;

Hôm qua sự nghiệp còn thịnh vượng, tiền vào như nước hôm nay đột nhiên lại không xu dính túi, cùng đường bí lối;

Bề ngoài thì tỏ ra rất kiên cường, nhưng trong lòng lại rất yếu ớt; bề ngoài trông giống một núi bằng nhưng trong lòng thì lại sôi sục như núi lửa, bất kỳ lúc nào cũng có thể bộc phát.

Những biểu hiện ngày thường khác với những người thường nhưng khi tình cảm bị xung động thì ngôn ngữ hành động lại khiến người khác phải phát điên lên, không kìm chế nổi phải toát mồ hôi lạnh.

Người mà sao Phá quân tọa mệnh thì trong cuộc đời sẽ phải lăn lộn bởi những biến đổi do các nhân tố bên trong và bên ngoài, rất khó ổn định. Nhưng người kinh ngạc, biến nguy thành an, đón cát tránh hung. Đặc biệt là khi có các cát tinh: Lộc tồn, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phù, Hữu bật đồng cung hè hoặc hội chiếu thì sẽ có hiện tượng “sống sót sau khi vào tử địa”, điều này rất phù hợp với đặc tính biến hóa mạnh vốn có của sao Phá quân.

Sao Phá quân không ngừng sáng tạo và thay đổi,

Không ngừng thay cũ đổi mới do đó mà thường có tư tưởng luôn đổi mới đồng thời cũng tích lũy không ít những trải nghiệm trong cuộc sống. Đối với tính biến đổi của sao Phá quân, xét từ hai phương diện của một chỉnh thể, vì trong hành vận của nó có sự biến hóa không ngừng nên tất phải có sự sáng tạo không ngừng. 

Sao Phá quân có cá tính thẳng thắn, có tinh thần hiệp nghĩa, bênh vực kẻ mệnh yếu, thích quản những việc không liên quan đến mình.

Những chuyện không liên quan đến mình mà sao Phá quân quản đều là những việc chủ động quản, đồng thời lại coi đó là việc đương nhiên. Sao Thiên tướng cũng thích quản những việc không liên quan đến mình nhưng đó thường là những việc do người khác nhờ thì mới làm, đồng thời lại không thích tự mình thể hiện.

Sao Phá quân bất luận là việc gì đều thích dẫn đầu, không thích đi sau người khác do đó mà thường không nhẫn nhịn được, thường hay nóng nảy, bình thường chỉ thích xông pha nên có lúc cũng không tránh được nhìn về phía trước mà không để ý phía sau, dễ dẫn đến có cảm giác hiu quạnh vì mất phương hướng.

Sao Phá quân có cá tính nóng vội, thường “uyên thâm quá ít người hiểu”, khiến cho người khác kính trọng mà không dám gần gũi, thường cô độc giữa mọi người, thường thuộc kiểu “thân duyên bạc” (tình cảm thân thích nhạt), cần tu tâm dưỡng tính, tích cực cải thiện mối quan hệ với mọi người đồng thời giỏi vận dụng đặc điểm tính sáng tạo vốn có của mình thì nhất định có thể không ngừng phát triển để càng thêm tiến bộ.

Sao Phá quân phải thường xuyên đón nhận các loại thử thách, có dũng khí và năng lực đấu tranh anh dũng nhất, những biến động trong cuộc đời đặc biệt nhiều, do đó phá hoại và kiến thiết lần lượt chuyển đổi cho nhau, mưu cầu phát triển trong sự mâu thuẫn, ổn định sau khi khai sáng, biến động khiến cho người ta sau khi trải qua những khó khăn thì sẽ được ngửi hương hoa thơm.

Sao Phá quân tọa mệnh thì chủ là người thích hợp với việc độc lập lập nghiệp, riêng một ngọn cờ, công việc có tính khai sáng, cần phát triển hướng ra bên ngoài. Nếu có thể xác định được mục tiêu có quan hệ tới văn học, nghệ thuật, sáng tạo, cả đời nỗ lực đồng thời có thể an định được cuộc sống, định kỳ vận động thì nhất định sẽ đón cát tránh hung để đạt được thành công.

Sao Phá quân gặp sao Tử vi chủ có quyền uy, gặp sao Lộc tồn hoặc Hóa lộc thì có thể tiêu trừ được thói quen phá hoại bất lương, tăng thêm trợ lực, sau này khiến cho sự nghiệp thuận lợi thành công.

Sao Phá quân thích hợp đồng cung hoặc hội chiếu với các cát tinh như Khôi, Việt, Phù, Bật, Lộc, Quyền thì có thể tăng thêm được khí thế và thành tựu. Sao

Phá quân không thích hợp với 6 sát tinh và sao Thiên khốc, Thiên hư, sẽ khiến cho nó tăng thêm trở ngại trong quá trình sáng tạo của nó, đồng thời có sự biến động bất lợi, cần phải chú ý tối kiện cáo và sức khỏe.

Sao Phá quân là võ tinh, không thích đồng cung với 2 văn tinh là Văn xương, Văn khúc, bởi vì trên quan niệm giữa Văn, Võ cũng rất có khoảng cách, hai loại không thể nối liền, rất dễ xung kích khắc chế lẫn nhau khiến cho người ta vất vả khổ sở mà phải thiếu mất cảm giác an toàn, về tinh thần khó tránh được sự cô độc, đặc biệt có cảm hứng đối với văn nghệ, gặp cát tinh cũng có thể có biểu hiện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự biến đổi của Sao Phá quân

Những điềm báo tâm linh trong dân gian (p1)

Điềm báo tâm linh dân gian được truyền miệng qua các thế hệ, không rõ đúng sai hay tính khoa học, nhưng cũng có nhiều điều thú vị.
Những điềm báo tâm linh trong dân gian (p1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhung diem bao tam linh trong dan gian  hinh anh
 


1. Ù tai

Hiện tượng ù tai mang tính dự báo tâm linh sẽ xảy ra bất ngờ không do trực tiếp hay gián tiếp, và được tính theo thời gian thuộc tai phải hay tai trái, để giải mã điềm bí ẩn phát sinh :
 
Giờ Tý (23 – 01 giờ): tai trái, có người nghĩ đến mình; tai phải, hao tài mất của.
 
Giờ Sửu (01 – 03 giờ): tai trái, có hao tài hoặc cãi nhau; tai phải, kiện thưa, tranh cãi, cần ôn hòa.
 
Giờ Dần (03 – 05 giờ): tai trái, đề phòng mất của; tai phải, có việc lo nghĩ về gia đạo.
 
Giờ Mão (05 – 07 giờ): tai trái, có chuyện không lành; tai phải, có khách đến nhà thăm hỏi.
 
Giờ Thìn (07 – 09 giờ): tai trái, được tin đi xa, tai phải, có khách đến nhà nhờ vả.
 
Giờ Tỵ (09 – 11 giờ): tai trái, có điều hung coi chừng xe cộ; tai phải, có của hoạnh tài.
 
Giờ Ngọ (11 – 13 giờ): tai trái, có tin xa, hay quà biếu; tai phải, có người quen tìm đến thăm.
 
Giờ Mùi (13 – 15 giờ): tai trái, có người mời ăn uống; tai phải, có người từ xa tìm đến.
 
Giờ Thân (15 – 17 giờ): tai trái, được mời đi xa; tai phải, có người đi xa trở về.
 
Giờ Dậu (17 – 19 giờ): tai trái, đề phòng hao tài, mất của; tai phải, có người mang lộc đến nhà.
 
Giờ Tuất (19 – 21 giờ): tai trái, có ăn uống; tai phải, có khách đem tài lộc đến.
 
Giờ Hợi (21 – 23 giờ): tai trái, đại cát có tài lộc vào; tai phải, có tiệc tùng.
 
2. Nóng mặt

Tự nhiên thấy mặt nóng bừng bừng, ngứa ngáy đến khó chịu mà không do hoàn cảnh nào gây ra, được cho đó là điềm dự báo tâm linh. Tuy nhiên điềm lành hay dữ phải dựa vào giờ xảy ra hiện tượng.
 
Giờ Tý (23 – 01 giờ): Công việc thuận lợi
 
Giờ Sửu (01 – 03 giờ): Có cãi nhau trong gia đạo
 
Giờ Dần (03 – 05 giờ): Có người đến cùng cộng tác
 
Giờ Mão (05 – 07 giờ): Có khách đến mời ăn uống
 
Giờ Thìn (07 – 09 giờ): Được tin đi xa đến nhà
 
Giờ Tỵ (09 – 11 giờ): Bạn cũ đang nhớ đến, cần giúp đỡ
 
Giờ Ngọ (11 – 13 giờ): Có chuyện bực mình từ người thân
 
Giờ Mùi (13 – 15 giờ): Đề phòng chuyện nhỏ xé ra to
 
Giờ Thân (15 – 17 giờ): Sẽ gặp người muốn cùng cộng tác
 
Giờ Dậu (17 – 19 giờ): Có người khác phái đang chú ý đến
 
Giờ Tuất (19 – 21 giờ): Có khách đem lộc thực đến
 
Giờ Hợi (21 – 23 giờ): Coi chừng bị kiện thưa
 
3. Máy mắt

Theo tác giả Michael Halbert, viết trong cuốn sách nghiên cứu về những điềm bí ẩn trong con người, cho rằng từ Đông sang Tây đều xem hiện tượng máy mắt có giá trị như một điềm báo tâm linh cho đương sự. Chuyện lành dữ tùy theo ngày và giờ chúng xuất hiện trên mắt trái hay phải.
 
Ngày Tý: bên phải, có rượu thịt; bên trái, có người nghĩ đến mình.
 
Ngày Sửu: bên trái, có hao tài; bên phải, có cãi nhau.
 
Ngày Dần: bên trái, có người đang nghĩ đến; bên phải, đề phòng có tranh luận.
 
Ngày Mão: bên phải, có khách đến nhà; bên trái, có người nghĩ đến mình.
 
Ngày Thìn: bên trái, có người đang nghĩ đến; bên phải, có cãi nhau.
 
Ngày Tỵ: bên trái, có cãi nhau; bên phải, có tiệc tùng.
 
Ngày Ngọ: bên phải, có người đưa tiền đến nhà; bên trái, có tranh cãi.
 
Ngày Mùi : Bên trái, có ăn uống. Bên phải, có người đang nghĩ đến.
 
Ngày Thân: bên trái, có người đang nghĩ đến; bên phải, có của đến nhà.
 
Ngày Dậu: bên phải, hao tài; bên trái, có người nghĩ đến mình.
 
Ngày Tuất: bên trái, có người mời; bên phải, có người đến nhà.
 
Ngày Hợi: bên trái, có tin vui; bên phải, đề phòng chuyện xấu.
 
Trên đây khi gặp hiện tượng máy mắt phải xem ngày rồi phối hợp với giờ xảy ra sau đây để lý giải trong không gian của đương sự ngày hôm đó:
 
Giờ Tý (23 – 01 giờ): bên trái, có quý nhân đến; bên phải, có lộc ăn.
 
Giờ Sửu (01 – 03 giờ): Bên trái, có lo lắng suy nghĩ; bên phải, có người nghĩ đến.
 
Giờ Dần (03 – 05 giờ): bên trái, có khách đến; bên phải, có người đang nghĩ đến.
 
Giờ Mão (05 – 07 giờ): bên trái, khách xa đến nhà; bên phải, tin vui.
 
Giờ Thìn (07 – 09 giờ): bên trái, được tin đi xa; bên phải, có cãi nhau.
 
Giờ Tỵ (09 – 11 giờ): bên trái, có ăn uống tiệc tùng; bên phải, có hung tin.
 
Giờ Ngọ (11 – 13 giờ): bên trái, sắp có người giao việc; bên phải, có người quen tìm đến.
 
Giờ Mùi (13 – 15 giờ): bên trái, có tin lành; bên phải, có người nghĩ đến.
 
Giờ Thân (15 – 17 giờ): bên trái, hao tài tốn của; bên phải, có tin buồn.
 
Giờ Dậu (17 – 19 giờ): bên trái, có khách đến thăm; bên phải, có người thân đến nhà.
 
Giờ Tuất (19 – 21 giờ): bên trái, có khách; bên phải, có lộc ăn.
 
Giờ Hợi (21 – 23 giờ): bên trái, có khách; bên phải, có điều không lành.
 
Ví dụ : nam giới tuổi Giáp Thìn, nhận ra bên mắt trái đang máy vào lúc 2 giờ trưa trong ngày Mậu Ngọ.
 
Với các chi tiết trên ta có:
 
- Ngày Ngọ bên mắt trái: Có tranh cãi
 
- 2 giờ trưa tức 14 giờ thuộc giờ Mùi (13-15g): Có tin lành
 
Nếu phối hợp hai nguồn dự báo trên sẽ thấy mâu thuẫn, vì đã tranh cãi sao lại có tin lành? Vì thế cần phối hợp phần ngũ hành và cung. Ngày Mậu Ngọ hành Hỏa thuộc cung Chấn, còn đương sự tuổi Giáp Thìn cũng hành Hỏa thuộc cung Tốn (xem Lục thập hoa giáp). Nếu giải đoán theo ứng dụng về 8 quẻ Bát quái qua "Ngũ mệnh đặc quái", hay tính Ngũ hành sinh khắc sẽ có lời giải đáp.
 
Qua bảng "Ngũ mệnh đặc quái" người Giáp Thìn cung mệnh là Tốn thuộc Mộc, gặp ngày Ngọ cung Chấn cũng thuộc Mộc là "có vinh hoa phú quý", nếu tính theo ngũ hành sinh khắc là "lưỡng hỏa thành viên" (hợp thành sức nóng), như thế việc tranh cãi phần thắng sẽ về người Giáp Thìn, tức có tin tốt lành là đúng với điềm đã dự báo.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

ST

 
Những điềm báo tâm linh trong dân gian (p2)
Cha ông ta từ xưa thường nhìn các hiện tượng điềm báo tâm linh để dự đoán trước những điều sẽ xảy ra. Có nhiều trường hợp khá chính xác.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điềm báo tâm linh trong dân gian (p1)

Thu hút thịnh vượng, tài lộc vào nhà theo phong thủy

Thuật Phong Thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuật Phong Thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh, mối liên hệ giữa các phòng trong nhà, cửa đi, cửa sổ, đồ đạc và các đồ phụ kiện. Dưới đây là một số mẹo đơn giản để bạn có thể loại bỏ những điềm xấu và mang lại những điều tốt lành cho căn nhà của mình.

Mục đích chính của thuật Phong Thủy là kiểm soát được tốt nhất các luồng khí lưu thông trong nhà. Hai nguồn năng lương Âm- Dương luôn tồn tại song song, việc cân bằng hai yếu tố này là thực sự cần thiết để mang lại cho gia chủ một cuộc sống thịnh vượng.

Năm yếu tố cơ bản theo Phong Thủy đó là: Kim (các đồ trang trí bằng kim loại như đế đèn, giá treo quần áo…), Mộc (nội thất chất liệu gỗ như bàn, ghế, sàn nhà…), Thủy (thác nước để bàn, bể cá cảnh…), Hỏa (nến, lò sưởi, bếp…), Thổ (các chậu cây cảnh, chậu hoa trong nhà…) – cũng cần phải được cân bằng.

Theo Phong Thủy, diện tích một ngôi nhà hoặc một căn phòng được chia thành chín phần trong một hình bát giác hoặc hình vuông – tám vị trí bên ngòai và một vị trí trung tâm.

Vị trí trung tâm là cho sức khỏe trong khi tám vị trí kia tương ứng với quan hệ hôn nhân, con cái, mối quan hệ xã hội, sự nghiệp, học thức, tình yêu, tiền bạc, và danh vọng. Như vậy, như vậy bạn hoàn tòan có thể biết được mình cần phải thay đổi cái gì cho những vấn đề cụ thể mà mình đang gặp phải.

Những giải pháp của thuật Phong Thủy có thể khá phức tạp như phải làm mới, kê dọn lại vị trí của tòan bộ đồ đạc trong phòng nhưng cũng có thể chỉ là những biện pháp rất đơn giản như treo một tấm gương hay sắp xếp lại bàn góc…

Những tấm gương hay những đồ đạc có bề mặt nhẵn bóng có thể dễ dàngd làm tăng vượng khí nhưng bạn nên nhớ đừng để chúng ở trước cửa bởi như thế khí sẽ bị phản xạ lại và không đi vào nhà.

Chuông gió không chỉ tạo ra những âm thanh êm ái, dễ chịu mà treo chuông gió trước cửa sẽ giúp bạn điều hòa được các luồng khí trong nhà rất tốt.

Cây xanh chính là biểu tượng của cuộc sống và nó góp phần mang lại năng lượng “tươi” cho căn phòng nhưng nếu bạn có ý định dùng hoa khô trang trí thì đó không phải là một ý tưởng hợp lý.

Hãy để tài lộc vào nhà bạn bằng cách trang trí ngôi nhà với những thác nước nhân tạo, bể cả cảnh hay thậm chí chỉ là những bức ảnh có liên quan đến nước. Nhìn chung thì những đồ đạc mô phỏng sự giàu sang phú quý cũng có tác dụng nhất định.

Những chàng trai cô gái độc thân đang mong muốn tìm được cho mình “nửa kia” thì hãy treo hình ảnh của những cặp đôi hạnh phúc hay những đôi vợ chồng trẻ đang mong muốn có em bé thì việc treo những bức ảnh về các em bé xinh xắn đáng yêu cũng sẽ giúp ích cho họ rất nhiều.

Trong phòng ngủ, nếu từ vị trí của giường có thể nhìn ra cửa đi có thể chấp nhận được nhưng phía đầu giường không nên có cửa sổ hoặc của đi mà phải là một bức tường chắc chắn, bạn hoàn tòan không nên bố trí gương cạnh giương ngủ bởi như thế sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến giấc ngủ của bạn

10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Chuông gió mang đến sự may mắn

Chuông gió là một trong những biểu tượng phong thủy hàng đầu. Vai trò của chúng mang đến sự hỗ trợ dưới nhiều hình thức: nâng chi của một khu vực xấu, đàn áp năng lượng ở những góc bị phi tinh xấu chiếu xuống, mang đến cho bạn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nếu được sử dụng đúng cách, chuông gió sẽ đem đến may mắn, sức khỏe, tài lộc và sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình. Chuông gió được sử dụng để hút dòng chảy tiền bạc vào trong nhà. Cách sử dụng hiệu quả nhất với chuông gió là số 9, có thể là 9cm, hoặc 9 sợi dây ruy băng đỏ. Chiếc chuông gió có sức mạnh nhất là những chiếc có 6 thanh và làm bằng kim loại. Chuông gió được treo ở vị trí tài lộc của ngôi nhà hoặc văn phòng, khi đó, chuông gió sẽ được vang lên thường xuyên, có nhiều năng lượng để hút tiền tài cho gia đình bạn.

Ông thần tài

Quan niệm dân gian của người xưa cho rằng, Thần Tài là vị thần chuyên quản tài phúc của thiên hạ. Khi nhận được sự giúp đỡ của ông nhất định sẽ thăng tiến quan chức, tiền bạc. Cho nên rất nhiều gia đình đặt ông Thần Tài trong nhà để hy vọng sự giàu sang, phú quý. Ông thần tài được sử dụng nhằm mục đích cầu phước lành cho gia chủ. Vị trí thích hợp nhất cho tượng Thần tài đó là đối diện với cửa trước. Dù bức tượng lớn hay nhỏ, nó đều có sức mạnh đáng kể đối với tiền tài của gia đình bạn.

Nước tượng trưng cho tiền bạc

Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong. Theo đó, sự di chuyển của nước trong phong thủy nghĩa là sự di chuyển của tiền về phía bạn. Do vậy, hãy đặt một đài phun nước hoặc thác nước trong nhà ở góc tài lộc hoặc đài phun nước ngoài trời ở vị trí gần cửa chính. Tùy theo diện tích, bạn có thể chọn một chiếc đài phun nước nhỏ hay lớn.

tiền xu phong thủy

Đồng tiền xu cổ

Theo phong thủy, tiền xu là một trong những vật phẩm phong thủy quan trọng. Ngày xưa, người ta dùng tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Trời ngoài, đất trong tượng trưng cho sự thịnh vượng. Vì vậy, treo những đồng tiền chéo nhau và kết nối chúng bằng một sợi dây màu đỏ, sau đó treo lên các cửa ra vào sẽ giúp giữ được năng lượng tiền bạc trong nhà. Dùng 9 hoặc 6 đồng tiền xu cho cửa chính và những cửa còn lại thì treo số lượng ít hơn. Tiền xu mang lại nhiều may mắn về tiền bạc cho gia đình. Phong thủy cũng cho rằng việc giữ lại tiền dưới mọi hình thức như sổ séc, sổ tiết kiệm, thẻ ngân hàng; hoặc thậm chí là những đồng tiền lẻ trong một chiếc hộp phong thủy có màu tím hoặc màu vàng thật đẹp sẽ giúp bạn giữ được tiền. Ngoài ra, bạn hãy đặt 9 đồng xu thật sáng bóng tại góc tài lộc, và hãy tưởng tượng rằng “những hạt giống” này đang sinh sôi và phát triển. Khi nhận tiền lương, trước khi đưa vào sử dụng, bạn nên giữ một lúc ở góc tài lộc. Nó không chỉ là một ý nghĩa về phong thủy, mà còn là vật trang trí cho góc nhà của bạn nữa.

Trái cây, ngũ cốc

Trái cây và ngũ cốc có ý nghĩa mang lại sự no đủ trong phong thủy. Những bát hoa quả tràn trề, hay cây sai trĩu quả là những vật phẩm phong thủy thường được sử dụng trong nhà để giúp gia đình có nhiều tiền tài. Người ta thường xếp 9 quả cam hay mận, được đặt trong một chiếc bát màu vàng, hay những chùm nho đỏ, dứa tươi và chuối được xếp đầy trong khay, hoặc cũng có thể treo tranh vụ mùa bội thu, vv… Đây là những biểu tượng phong thủy mang lại sự no đủ về vật chất, bạn nên đặt vào góc tài lộc.

Tre may mắn hay tháp tài lộc

Để tăng sự may mắn, thành công về tiền bạc, hãy đặt 9 thân tre trong chiếc bình màu tím. Chiếc bình này phải có thân to hơn miệng, với ý nghĩa là giữ của. Hiện nay, người ta sử dụng tre hoặc cây phát lộc để làm biểu tượng phong thủy. Cây phát lộc thuộc loài cây họ vạn niên thanh, thân thảo, đốt rỗng, to bằng ngón tay trỏ người lớn, lá màu xanh thẫm. Khi cây trưởng thành, có thể dài gần một mét. Nếu ngắt cành trưởng thành cắm vào nước hoặc trên đất, cây vẫn sống rất khoẻ, và đâm chồi nảy lộc. Nhiều người quan niệm, trưng cây phát lộc trong nhà mang lại may mắn và tài lộc. Trên bàn thờ của nhiều gia đình cũng có một lọ nhỏ với cây phát lộc với mong ý cầu tài lộc cho gia đình của mình. Cây phát lộc có thể làm được rất nhiều sản phẩm đẹp với mẫu mã khác nhau như tháp cây phát tài, chậu phát tài hình chim công hay lộc bình... Với sự tỉ mỉ và kiên nhẫn, bạn cũng có thể làm được các sản phẩm này tại nhà đấy.

đá thạch anh phong thủy

Đá quý và đá phong thủy

Đá quý và đá phong thủy là biểu tượng của giàu sang, phú quý. Bạn nên giữ kim cương hay đồ trang sức bằng đá quý vào một chiếc hộp có màu tím hoặc màu vàng trong góc tài lộc của phòng ngủ. Phía trên chiếc hộp nên đặt chuông gió. Trong phong thủy, điều này có nghĩa là sự sang trọng, giàu có sẽ bị hút vào cuộc sống của bạn. Trong các loại đá quý thì đá thạch anh tím có màu sắc rất đẹp, vừa dùng trang trí, vừa là biểu tượng của phú quý. Nếu tình hình tài chính gia đình bạn không mấy ổn định, hay bạn thường xuyên phải suy nghĩ về nó, hãy đặt những vật nặng như đá tròn hay tượng ở góc tài lộc sẽ giúp bạn cải thiện tài chính của gia đình.

Ếch may mắn

Trong phong thủy, cóc ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một biểu tượng phong thủy được sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó. Ếch ngậm tiền tốt nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, và nghiêng một góc 45 độ để thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

Những loại cây lá tròn

Cây mang đến vượng tài là cây có lá tròn, to hoặc mọc hướng lên... phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động), chẳng hạn trúc phú quý, lan... Cây lá tròn giúp tái tạo dòng năng lượng và kích thích phát triển dòng chảy của tiền. Bạn hãy nhớ là luôn giữ cho cây được khỏe mạnh và không được ngập quá nhiều nước. Những cây lá tròn này sẽ được đặt trong chậu màu tím là tốt nhất, và nó còn giúp làm đẹp cho góc tài lộc của nhà bạn đấy. Một số cây lá tròn được nhiều gia chủ chọn bày trong nhà như cây ngọc bích, cây kim tiền..

Bể cá cảnh

Cá là biểu tượng sức mạnh của tiền bạc và sự thịnh vượng. Bể cá cảnh đặt ở phía Đông Nam, gần cửa chính, hoặc lối vào khu vực kinh doanh rất tốt lành, bởi nó không chỉ là một biểu tượng phong thủy thu hút tiền bạc mà còn là sự cân bằng của 5 yếu tố cơ bản trong phong thủy: Mộc (cây trong bể cá), Kim (cấu trúc bể cá), Thủy (nước), Hỏa (màu sắc của cá như vàng, đỏ, hoặc chiếu sáng của bể). Nước trong bể cá thể hiện cho dòng chảy của sự sống, sự sinh sôi nảy nở. Những chuyển động kiếm mồi, bơi lượn cùng bọt khí của cá làm tăng nguồn năng lượng tích cực của sự may mắn, giàu có cho gia đình bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thu hút thịnh vượng, tài lộc vào nhà theo phong thủy

Xem tướng qua hoa tay –

Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé! Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm. Xem

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé!

Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm.

Nội dung

  • 1 Xem tướng bằng hoa tay
    • 1.1 Có 1 hoa tay
    • 1.2 Có 2 hoa tay
    • 1.3 Có 3 hoa tay
    • 1.4 Có 4 hoa tay
    • 1.5 Có 5 hoa tay
    • 1.6 Có 6 hoa tay
    • 1.7 Có 7 hoa tay
    • 1.8 Có 8 hoa tay
    • 1.9 Có 9 hoa tay
    • 1.10 Có 10 hoa tay
    • 1.11 Không có hoa tay nào

Xem tướng bằng hoa tay

Có 1 hoa tay

Tay trái: Kiên định, tố chất tâm lí tốt, là người làm việc lớn, nhưng có những lúc rất cố chấp, khăng khăng làm theo ý mình. Bạn dễ gặp phải trở ngại không vượt qua được, nhưng sau khi thất bại, bạn không nản chí mà đứng dậy đi tiếp. Bạn còn là người rất nồng nhiệt trong tình yêu.

Tay phải: Tính cách độc lập, có năng lực lãnh đạo, những lúc cá biệt có thể không từ một thủ đoạn nào, nên bạn nhất định sẽ là người thành công. Rất thu hút người khác giới.
Người 1 hoa tay thời vận không được tốt, phải dựa vào tự thân nỗ lực phấn đấu thì mới có được thành tựu.

Có 2 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Tính tình ôn hòa, quan hệ xã hội tốt. Đôi khi thiếu tầm nhìn xa. Những lúc khó khăn có quý nhân phù trợ.

Nằm trên cả 2 tay: Tính cách phóng khoáng, thường hiếu kì. Làm việc thường giục tốc bất đạt.
Người 2 hoa tay rất có duyên trong mắt người khác giới, nhưng rất khó tìm được người hợp ý với mình. Rất phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn nghệ, biểu diễn.

Có 3 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Là người thông minh, chịu khó, đa số là lãnh đạo tầm trung. Là mẫu người của gia đình, luôn đối xử tốt với vợ hoặc chồng, con cái, những người thân của mình.

Nằm trên cả 2 tay: Thuộc về mẫu người có tiềm chất toàn năng, chỉ cần có cơ hội và đủ thời gian là có thể đảm nhận mọi loại công việc. Cảm tính và lí trí đều vừa phải như nhau. Kiểu này rất ít gặp, vận mệnh tốt, là đối tượng hôn nhân lí tưởng.

Có 4 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Bên ngoài cởi mở, nội tâm cô đơn. Lấy mình làm trung tâm, là người theo chủ nghĩa toàn mĩ. Trắc trở trong tình yêu.

Nằm trên cả 2 tay (ít gặp): Là người thấu tình đạt lí, có tài, có tướng, rất được những người xung quanh ưa thích. Tình yêu thuận buồm xuôi gió. Phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn tự.

Có 5 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Cá tính mạnh mẽ, không bao giờ hài lòng với hiện tại, nên có rất nhiều chuyện không như ý. Hợp tác với những người có 1 hoặc 2, 3, 4 hoa tay mới có thể vạn sự thuận lợi. Trong tình yêu không có yêu cầu cao.

Nằm trên cả 2 tay: Lương thiện, biết nghĩ cho người khác, hiền lành, ngoan ngoãn, sức chịu đựng tốt. Trung niên vận khí đi lên. Có xu hướng thần tượng người mình yêu.

Có 6 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Có dã tâm, thích nghĩ kì quái. Khi còn nhỏ lận đận, sau thời thanh niên vận khí dần tốt lên. Ở quê nhà phát triển sự nghiệp là tốt nhất. Yêu cầu đối với người khác giới rất mâu thuẫn, vừa thấp nhất, vừa cao nhất.

Tay trái ít hơn tay phải: Thường xử lí theo cảm tính, tự tin và tự ti đều mãnh liệt. Phải nhờ sự giúp đỡ thì bên ngoài mới có thể thành công. Tình yêu bình ổn, hạnh phúc cả đời.

Trái 3 phải 3: Có thể nói là người rộng rãi, thích tưởng tượng, nội tâm lo lắng, thiếu cảm giác an toàn. Trên thực tế, số mệnh người này tốt, chỉ là buồn lo vô cớ. Tình yêu không được như ý.

Có 7 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Là người sống nội tâm, tính tình hơi khó chịu, luôn kiên trì bền bỉ phấn đấu cho mục tiêu của mình, tương lai công thành danh toại. Nên quan tâm đến người yêu và gia đình nhiều hơn một chút.

Tay trái ít hơn tay phải: Là người mẫn cảm, rất nhiều chuyện có thể rõ như lòng bàn tay, chỉ là không biểu lộ ra. Rất hòa đồng, thân thiện với mọi người. Gặp người khác giới không hợp sẽ lập tức có mâu thuẫn ngay, phải tìm được người tâm đồng ý hợp thì mới bên nhau trọn đời được.

Có 8 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhìn có vẻ như hòa nhã, nhưng kì thực là rất xoi mói, lúc thì vui vẻ lúc thì u buồn. Vận khí giống như chờ đợi thì không đến, trong lúc vô tình lại đến rất nhiều. Tình cảm phong phú, thân thể khỏe mạnh. Trong tình yêu là người mơ mộng không thực tế.

Tay trái ít hơn tay phải: Lòng tự trọng lớn, có chí khí. Vận khí luôn luôn không tốt bằng những người xung quanh, nhưng chỉ cần nỗ lực, thành thích của bạn sẽ vượt qua những người có vận khí tốt hơn mình rất nhiều. Rất cố chấp và bảo thủ trong tình yêu.

Trái 4 phải 4: Lương thiện, trước thời trung niên vận khí không tốt, cần phải có sự giúp đỡ của người khác một hoa tay mới có thể biến vận xui thành vận may. Trong tình yêu thì tưởng tượng nhiều hơn là thực hiện.

Có 9 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhiệt tình, tích cực, có khả năng lí giải siêu cường, giỏi về ứng biến, có năng lực tổ chức hoạt động. Không thích chạy theo người khác, thích người khác theo mình.
Tay trái ít hơn tay phải: Lí tưởng rộng lớn, luôn đi trước thời đại. Nên chọn người này làm người yêu.

Có 10 hoa tay

Lương thiện, cố chấp, bên ngoài kiên cường, bên trong yếu đuối. Đa số là có được thành tích trong nghệ thuật. Từ trung niên trở đi vận khí bắt đầu đi lên cho đến già. Dày tình mỏng mệnh, là người si tình.

Không có hoa tay nào

Thẳng thắn, lương thiện, vùi đầu trong công việc, làm việc đến nơi đến chốn, là người hơi thô kệch. Vận khí vào thời trung niên là tốt nhất. Yêu ai thì rất yêu, hận cũng rất hận.

Duyên phận của người 10 hoa tay và người không có hoa tay giống như được trời định. Họ phải chịu mấy đời gặp trắc trở không thể gần nhau mới có thể đổi lấy một đời ở bên nhau.
Theo phân tích của khoa học: Tính cách của người 10 hoa tay và người không hoa tay là bổ khuyết cho nhau, một người cương một người nhu, một người chủ động một người bị động, ở với nhau là thập toàn thập mĩ.

Do tính cách của hai loại người này đều có chút cực đoan, vì thế nếu không ghép đôi với nhau thì sẽ chìm trong vòng luẩn quẩn của đau khổ. Nhưng một khi hai người ở bên nhau thì có thể nói là một sự tổ hợp làm thay đổi thế giới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua hoa tay –

Luận về sao Thiên Tướng

Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được c...
Luận về sao Thiên Tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên tướng tài về hành chính, còn Thiên Cơ tài về tham mưu.
Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.
Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái.
Tướng đi với Hoa Cái, Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.
Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo.
- Cùng với Tử Vi tại Thìn Tuất- Cùng với Liêm Trinh ở Ngọ Tí- Với Vũ Khúc ở Dần Thân- Một mình ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu
Về Tử Vi Thiên Tướng xin xem luận về sao Tử Vi.Về Thiên Tướng Liêm Trinh xin xem luận về sao Liêm TrinhVề sao Thiên Tướng Vũ Khúc xin xem luận về sao Vũ Khúc
Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu.
Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công, đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả.
Thiên Tướng Sửu Mùi đường vợ con phiền não. Số nữ tự lo lấy thân không có phận được nhờ chồng. Thiên Tướng ở Tỵ với Hợi đứng một mình, cung xung chiếu là Vũ Khúc Phá Quân, nếu gặp các phụ tinh đẹp đẽ thì tay trắng dựng nên cơ đồ.
Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu, nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên Hình.
Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc, ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng.
Có câu phú: “Tỵ Hợi Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa.
Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến.
Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ, ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi. Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai)
Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu Thuyền mà phá hỏng đời mình)
Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung
"Thiên Tướng Tuần Triệt trước miềnKhi lâm trận địa đầu liền phân thây"
Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích
Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng chú ý:
a. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo dựng cuộc đời an định)
b. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng, không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”)
Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”. Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau.
Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn. Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng.
Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn.
Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn” chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm hiệp.
Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình.
Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa khí của Đà La là Kị.
Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa, dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ thủ phận không nên đua chen mới yên.
Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt. Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách.
Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ là chuyện rắc rối.
Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ, dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị thiếp chi lưu”.
Xin xem thảo thêm những câu phú về sao Thiên Tướng:
- Thiên Tướng tối hỉ cư Thê vị(Nam mạng có Thiên Tướng đồng Thê cung tất gặp người vợ đảm lược quán xuyến)
- Tướng ngộ Cái Đào Khúc Mộc thuần tước dâm phong, hạn ngộ Cơ Riêu vô phu tự giải cố miên(số nữ Thiên Tướng gặp Hoa Cái Đào Hoa Mộc Dục Văn Khúc thì nhan sắc xinh đẹp nhưng dâm đãng, vận gặp Thiên Cơ Thiên Riêu đêm nằm thao thức tơ tưởng chuyện gái trai như con chim chìa vôi đến ngày động đực)
- Tướng Liêm tại Ngọ, Khoa Hình Quyền củng, Hàn Tín đạt cao võ thượng chi công(Mệnh lập Ngọ Liêm Tướng thủ hội Khoa Hình Quyền như Hàn Tín xưa đăng đàn bái tướng lập võ công oanh liệt).
- Tí Ngọ Tướng Liêm phùng Phụ Bật thái y đắc thế(Mệnh đóng Tí hay Ngọ Liêm Tướng thủ được Tả Hữu thì làm thầy thuốc giỏi).
- Thiên Tướng Tử Vi Thân phùng Phá, kiêm ngộ Vượng Tuần đa mưu yếm trá(Thiên Tướng Tử Vi thủ Mệnh Thân, Phá Quân mà gặp Tuần Không, Đế Vượng là con người lắm mưu lắm thủ đoạn và gian hùng)
- Thiên Tướng Tử Vi Tuất Thìn khởi năng đạt công danh chi chí(Thìn Tuất an Mệnh Tử Vi Thiên Tướng thủ không gặp thêm cát tinh thì khó nên danh phận với đời).
- Ấn mang liệt vị phong hầu,Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung(Cung Mệnh có Thiên Tướng Phong Cáo thì công danh địa vị cao)
- Thiên Tướng Không Kiếp cư quanCông danh chẳng được tân toan nhiều bề(Thiên Tướng gặp Không Kiếp ở Quan Lộc, công danh chịu lắm khó khăn cay đắng thăng trầm gian nan)
- Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọaCửa mận đào có gã tình nhân(Mệnh Thiên Tướng gặp Hóa Lộc chiếu hay Hóa Lộc đứng cùng thì dễ quyến rũ đàn bà con gái, cũng thường là số đa thê)
"Tướng miếu hoặc hãm gặp ngayTuần Triệt án ngữ thân nay khó toànHoặc bị súng đạn đao gươmHoặc lâm tai nạn thương đó mà"
Cung quan Tướng đóng xem quaHễ bị Tuần Triệt khó mà rạng danh
"Tướng Hồng số gái yên vuiChồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dàoNếu gặp Khúc Cái Mộc ĐàoVẫn là phúc trọng tính âu đa tình"

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thiên Tướng

Ánh sáng đèn bên ngoài căn nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không? –

Phong thuỷ có một cách nói “Nhật dạ hung quang đào trạch sinh”. “Nhật dạ hung quang” là có ý chỉ căn nhà nằm bên đường, mà bên đường có một chiếc đèn công cộng, buổi tối dù tắt hết đèn trong nhà đi thì không gian trong nhà vẫn sáng bởi vì có ánh sáng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

của đèn bên ngoài chiếu vào. Đó là “Nhật dạ hung quang”.

phuong-phap-chon-den-chieu-sang-18

Rất nhiều căn nhà trong thành phố gặp phải vấn đề này. Khi chúng ta đứng tại phòng ngủ của một căn nhà và hướng mắt ra ngoài, nếu nhìn thấy đèn màu của các cửa hàng nhấp nháy liên tục, hoặc ngoài cửa nhà có đèn công cộng thắp sáng suốtđêm, ánh sáng chiếu rọi vào nhà. Thậm chí căn nhà nằm cạnh đường cái, ánh sáng từ đèn pha ôtô chiếu thắng vào trong nhà thì những hiện tượng đó gọi là “Nhật dạ hung quang’, đại diện cho từ trường bất ổn tiến nhập vào nhà, đây là loại sát cực kỳ bất lợi.

Tại những khu buôn bán, các cửa hàng muôn thu hút khách hàng nên thường láp đèn trang trí ỏ’ bên ngoài cửa hàng. Những loại đèn đủ màu sắc nhấp nháy đó ảnh hưởng đến phong thuỷ của nhà ỏ. Nếu quẻ mệnh của chủ nhà thuộc thiếu Hoả thì ánh sáng chiếu vào nhà đó không ảnh hương gì nhiều đến phong thuỷ. Nhưng nếu mệnh của chủ nhà kỵ Hoả thì ánh đèn nhấp nháy bên ngoài đó trỏ’ thành một hung sát. Tuyến ánh sáng này khiến tinh thần con người luôn trong trạng thái bất an, thường xuyên bị ánh sáng đó chiếu trong thời gian dài rất dễ bị suy nhược thẫn kinh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng đèn bên ngoài căn nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không? –

Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Dưới đây là 5 gợi ý nhỏ để đảm bảo ban công hợp phong thủy, đón lành nghênh cát, mang tới nhiều điều tốt lành cho vận trạch.
Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà có ban công là một trong những điểm rất tốt lành về phong thủy, càng tốt hơn nữa nếu chủ nhân biết cách bố trí hợp lý.

Ban cong hop phong thuy voi 5 goi y de khong tuong
 
Ban công là nơi đón nắng đón sáng quan trọng, cũng là nơi lưu thông khí trong nhà. Không quá khi nói rằng phong thủy ban công chính là phòng tuyến đầu tiên của phong thủy nhà ở, ban công lành ắt nhà cũng được hưởng thêm cát khí. Vì thế không thể qua loa sơ sài, hãy nhớ 5 lưu ý dưới đây để áp dụng vào ban công nhà mình.  

1. Hướng ban công tốt là Đông hoặc Nam
 

Phong thủy học thường khuyến khích làm nhà theo hướng tọa Bắc triều Nam tức là quay lưng về hướng Bắc, nhìn thẳng về hướng Nam. Đây được gọi là hướng chính thất, phương vị đón được ánh sáng sung túc nhất, được mặt trời soi rọi rực rỡ nhất kể cả vào mùa đông.    Hơn nữa vị trí này còn đón được gió Đông Nam, đông ấm hè mát, đường nào cũng lợi. Hướng ban công đẹp nhất là Nam, gia đình toàn vẹn, ấm no dồi dào. Nếu không thì ban công hướng Đông cũng khá ổn, đúng hướng mặt trời mọc, thịnh vượng, tươi mới, không lo tối ám.
 

2. Ban công nên bố trí thoáng đãng, nhẹ nhàng

  Rất nhiều người biến ban công thành nhà kho chứa đồ, thượng vàng hạ cám đều chất chồng nơi đây. Lâu ngày không dọn bụi bặm bám đầy, không những ảnh hưởng tới sự lưu thông của không khí mà còn lặng lẽ rước vận xui vào nhà. Hoặc có người muốn biến ban công thành nơi nghỉ ngơi nên bày rất nhiều đồ đạc trang trí như bàn ghế, tủ, bồn cây xanh thậm chí là cả giường, khiến không gian chật chội, ngột ngạt, che khuất ánh sáng.   Để tránh tình huống như vậy, hãy dọn dẹp sạch sẽ ban công, trang trí đơn giản hào phóng, chú trọng việc đón sáng đón khí. Ban công càng thoáng đãng thì phong thủy càng tốt.
Xem thêm bài viết Nâng cao phong thuỷ ban công với những trang trí nhỏ
 

3. Ban công không nên quay thẳng ra đường phố


Ban cong hop phong thuy
 
Ban công hướng ra phía ngoài, bị đường phố xông thẳng tới là cách cục cực kì không tốt. Trên đường có rất nhiều xe cộ lao tới như mãnh hổ khiến từ trường trong nhà bị nhiễu loạn, đặc biệt xe cộ di chuyển còn tạo ra tạp âm gây bất lợi đối với cảm xúc, lâu dần sản sinh ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe.   Để có ban công hợp phong thủy, khi xây nhà hay mua nhà nên lưu ý tới điểm này. Nếu không may phạm lỗi thì có thể hóa giải bằng cách trồng những chậu cây xanh nho nhỏ ở ban công để chặn sát khí; bố trí rèm ban công và thường xuyên buông rèm, cản bớt tạp âm cùng hình sát. Phòng ngủ không nên đặt gần ban công để đảm bảo yên tĩnh.  

4. Ban công kị xung đột với kiến trúc sừng nhọn

  Phía trước ban công có kiến trúc sừng nhọn xung đột là cách cục bất lợi, khí xấu xuyên thẳng từ bên ngoài qua ban công tiến vào nhà, phá hỏng bố cục phong thủy nhà ở, nhẹ thì trạch vận không vượng, nghiêm trọng hơn thì tan cửa nát nhà.   Phong thủy vô cùng bài xích những kiến trúc sắc nhọn vì chúng có hình sát, mang tới cảm giác nguy hiểm. Ban công là nơi đón dương khí mà bị hình sát chiếu thẳng vào thì quả thật không thể coi nhẹ. Nếu ban công nhà mình đối diện với kiến trúc nhọn như tháp, cột điện, góc tường,…. thì hãy sử dụng các vật phẩm phong thủy hóa sát để hóa giải.  

5. Ban công không thích hợp đối diện cửa lớn


phong thuy ban cong dep
 
Nhà có ban công và cửa chính đối diện là thế hung nên tránh, tài vận đều vào cửa trước ra cửa sau, bị gió thổi đi Ở trong ngôi nhà có cách cục phong thủy xấu này sự nghiệp của chủ nhân thường không tốt, công việc có nhiều trở ngại, tài chính bấp bênh đặc biệt là vận Thiên Tài cực kém.    Nếu có thể hãy tránh thiết kế nhà phạm phải lỗi phong thủy này. Nếu vô tình phạm thì cần sử dụng các biện pháp hóa giải lỗi phong thủy “cửa đối cửa”. Cụ thể là dùng bình phong che chắn, treo rèm ở ban công, đặt xây xanh hóa sát hay đặt thảm ở cửa hóa giải thế hung.   Thực chất, muốn có ban công hợp phong thủy không hề khó, chỉ cần tỉ mỉ, chỉn chu một chút là sẽ bố trí được ngay. Với người chưa có kinh nghiệm, những lưu ý ở trên tuy nhỏ, đơn giản song lại vô cùng hữu ích.
Đừng dại gì bày 5 đồ vật không nên để ở ban công Phong thủy ban công - đừng thờ ơ Những lưu ý quan trọng trong phong thủy cho ban công phòng khách Thái Vân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Bày mâm ngũ quả ngày Tết sao cho đẹp?

Theo dân gian, trên bàn thờ cúng đêm giao thừa luôn có mâm ngũ quả, đại diện cho: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, 5 yếu tố cấu thành nên vũ trụ.
Bày mâm ngũ quả ngày Tết sao cho đẹp?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hay cũng có nghĩa là thành quả của một năm lao động chăm chỉ thành kính dâng tặng đất trời.

  Dù với ý nghĩa nào đi chăng nữa, tư tưởng, hình ảnh ấy đã là nét truyền thống của người Việt Nam ta bao đời nay. Đã gọi là ngũ quả tức là nhất thiết phải có 5 loại quả được bày biện trên mâm cúng. Tùy vùng miền, mùa trái cây khác nhau mà người dân ta lại có “công thức” chọn lựa các loại quả khác nhau.

Miền Bắc  
Bay mam ngu qua ngay Tet sao cho dep hinh anh
Mâm ngũ quả miền Bắc
 
Mâm ngũ quả của người Bắc gồm: chuối, bưởi, dưa hấu, hồng, quýt với nhiều ý nghĩa hàm ẩn hơn. Chuối: hình ảnh nải chuối xòe ra như bàn tay che chở; Bưởi/ dưa hấu: có hình ảnh căng tròn, Hồng, quýt, đào, mận: màu hồng và vàng rực rỡ, mạnh mẽ tượng trưng cho sự đâm chồi, nảy lộc, gặp nhiều may mắn trong năm mới.   Nải chuối được đặt dưới cùng, có thể xếp 2 nải chuối để làm bệ đỡ cho các loại trái cây đặt bên trên. Bưởi vàng đặt giữa mâm, xung quanh là hồng, quýt, đào được xếp xen kẽ lẫn nhau. Các mẹ có thể điểm thêm lá xanh, hoặc giấy tiền vàng bạc trên mâm.   Các loại quả thường cúng: lê, lựu, đào, phật thủ, táo, hồng, bưởi, chuối, mẵng cầu, lê ki ma (quả trứng gà), cam, quýt.
  Miền Nam  
Bay mam ngu qua ngay Tet sao cho dep hinh anh 2
Mâm ngũ quả miền Nam
 
Dân Nam ta thường lấy tên chính của loại quả đó làm đại diện cho lời cầu nguyện của gia đình, như: Mãng cầu (na)/ mẵng cầu xiêm: Cầu mong Dừa: Vừa phải Quả sung: Sung túc Đu đủ: Đủ đầy Xoài: nói chệch đi là “xài”   Mâm ngũ quả sẽ có ngụ ý là: Cầu sung (túc) vừa đủ xài.   Ban đầu, có thể bày biện ít tiền vàng mã xung quanh mép mâm, rồi chọn ra 3 loại quả đu đủ, dừa, xoài là những quả có hình dáng to, tròn và trọng lượng vừa phải đặt lên mâm trước để lấy thế. Sau đó khéo léo bày mãng cầu và sung lên trên để tạo hình ngọn tháp.   Quan niệm người miền Nam thường tránh những loại quả có tên mang ý nghĩa xấu như chuối (chúi nhủi – thất bại); cam, quýt (cam làm quýt chịu); lê (lê lết); táo (bom); lựu (lựu đạn)… và không chọn trái cây có vị đắng.   Các loại trái cây thường dùng: dưa hấu, sung, đu đủ, xoài, mãng cầu, thơm (dứa), dừa, nho, hồng xiêm, thanh long.   Miền Trung   Mâm ngũ quả của người dân miền Trung không quá câu nệ hình thức, chỉ cần là những trái quả ngon ngọt, nhiều màu sắc cùng tấm lòng thành cho mâm ngũ quả đêm giao thừa mà thôi.

Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày mâm ngũ quả ngày Tết sao cho đẹp?

Ý nghĩa sao Thai

Sao Thai ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thai

Ý nghĩa sao Thai

Hành: Thổ

Loại: Tùy tinh

Đặc Tính: Phong lưu khoái lạc, u mê, sinh nở, dễ tin

Là một sao phụ Tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Thai Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Sao Thai ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.

Ý Nghĩa Của sao Thai Ở Các Cung:

Sao Thai tọa thủ ở bất cứ cung nào, Thai gặp Tuần Triệt án ngữ hay gặp sát bại tinh hội họp thì cũng có nghĩa mới lọt lòng mẹ đã đau yếu quặt quẹo, hoặc sinh thiếu tháng hoặc lúc sinh gặp khó khăn, phải áp dụng phương pháp cực đoan.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Tử Tức:

Thai, Không Kiếp: Trụy thai, sẩy thai, hoặc sinh con rất khó, hoặc sinh con chết trước hay trong khi lọt lòng mẹ, hoặc sát con.

Thai, Nguyệt: Có con cầu tự mới nuôi được.

Thai, Nhật Nguyệt: Có con sinh đôi.

Thai, Quả: Giảm bớt số con.

Thai, Phục, Vượng, Tướng: Có con riêng rồi mới lấy nhau hoặc có con hoang, có con dị bào.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng ưa thích vui chơi, văn nghệ, phong lưu tài tử.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Huynh Đệ:

Có anh chị em dị bào, hoặc anh em nuôi, anh chị em song thai.

Sao Thai Khi Vào Các Hạn:

Hạn gặp sao Thai, Mộc Dục, Long Trì, Phượng Các, là hạn sinh con. Nếu sao Thai gặp Địa Kiếp là hạn khó sinh con, hoặc thai nghén có bệnh tật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thai

Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả - Xem ngày - Xem Tử Vi

Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả, Xem ngày, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả, tu vi Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả, tu vi Xem ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả

Tháng cưới gã có lợi có hại , nhưng thời nay nhiều người không coi trọng lắm , nhưng cũng xin ghi ra đây cho các anh chị , các bạn xem. Rất là nhiều sách cho rằng đây là xét theo tuổi cô dâu để chọn tháng , thật ra là năm làm đám cưới để chọn tháng vậy.

 

Cách tính như sau :

 _ Năm Tý , Ngọ : Tháng 6-12 đại lợi ; tháng 1-7 tiểu lợi nhưng hại mai dong ; tháng 2-8 hại cha mẹ chồng ( không có không sao , tức là qua đời hay vắng mặt ) ; tháng 3-9 hại cha mẹ vợ (nt) ; tháng 4-10 hại chú rễ ; tháng 5-11 hại cô dâu.

 _ Năm Sửu , Mùi : tháng 5-11 đại lợi ; tháng 4-10 tiểu lợi nhưng hại mai dong ; tháng 3-9 hại cha mẹ chồng ; tháng 2-8 hại cha mẹ vợ ; tháng 1-7 hại chú rễ ; tháng 6-12 hại cô dâu

 _ Năm Dần Thân : tháng 2-8 đại lợi ; tháng 3-9 tiểu lợi nhưng hại mai dong ; tháng 4-10 hại cha mẹ chồng ; tháng 5-11 hại cha mẹ vợ ; tháng 6-12 hại chú rễ ; tháng 1-7 hại cô dâu.

 _ Năm Mẹo , Dậu : tháng 1-7 /tháng 6-12 /tháng 5-11 /tháng 4-10 /tháng 3-9 /tháng 2-8.

 _ Năm Thìn , Tuất : tháng 4-10 /tháng 5-11 /tháng 6-12 /tháng 1-7 /tháng 2-8 /tháng 3-9.

 _ Năm Tị , Hợi : tháng 3-9 /tháng 2-8 /tháng 1-7 /tháng 6-12 /tháng 5-11 /tháng 4-10.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tháng tốt và kỵ trong cưới gả - Xem ngày - Xem Tử Vi

Thái Tuế Nhập Quái

Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:
Thái Tuế Nhập Quái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng

Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.

Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.

VDTT phỏng dịch và chú thích

Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.

Giải thích các đại vận

Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

 

Định nghĩa vài thuật ngữ:

Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.

Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.

Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)

Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?

Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

Các hạn về sau:

Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

Lời kết:

Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thái Tuế Nhập Quái

Kiêng kỵ cửa nhà vệ sinh chính đối cầu thang đi lên –

Hiện tượng: cửa nhà vệ sinh chính đối cầu thang đi lên, khi từ trên cầu thang đi xuống xông thẳng vào nhà vệ sinh, đễ làm cho uế khí trong nhà vệ sinh tích tụ khó tan, nuôi dưỡng vi khuẩn, ảnh hưởng đến sức khỏe và vận thế của người trong nhà. Phương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: cửa nhà vệ sinh chính đối cầu thang đi lên, khi từ trên cầu thang đi xuống xông thẳng vào nhà vệ sinh, đễ làm cho uế khí trong nhà vệ sinh tích tụ khó tan, nuôi dưỡng vi khuẩn, ảnh hưởng đến sức khỏe và vận thế của người trong nhà.

saipham

Phương pháp hóa giải: Bạn hãy treo một tấm rèm vải ở cửa nhà vệ sinh và nơi ngưởng cửa đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải. Nêu có quạt thông gió hoặc cửa sổ trong nhà vệ sinh thì bạn phải chú ý thường xuyên đế nhà vệ sinh được thông gió cho uế khí bay ra ngoài, giữ nhà vệ sinh luôn sạch sẽ, khô ráo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ cửa nhà vệ sinh chính đối cầu thang đi lên –

Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Mơ thấy cử chì hành vi yếu ớt, dù của bạn hay người khác, đều cho thấy bạn đã giẫm chân tại chỗ, không can đảm tiến bước bởi tính tự ti của mình; mơ thấy cử chỉ quá giữ kẽ gò bó, dự báo mưu mô của bạn sẽ khó thực hiện. Nếu mơ thấy quá cường điệu lễ n
Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Mê tín và khoa học

“Mê tín” hay “ khoa học” đều là mộtsự bình phẩm. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lậpnhất với “mê tín là “ khoa học”. Cả hai từ trên một khía cạnh nào đó đều chỉchung một “sự thật”, còn trong đa số trường hợp đều cùng chỉ chung một “sựthật” , còn trong đa số trường hợp đều cùng thể hiện sự bình phẩm. Mà đã làbình phẩm thì luôn gắn với những hình thái quyền lực khác nhau.
Mê tín và khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi đánh giá vấn đề người ta thường sử dụng từ khoa học. Hiện nay người ta thường gắn văn hóa vật chất phương tây với khoa học và kỹ thuật (hình thái được vật chất phương tây với khoa học kỹ thuật, hình thái được vật chất hóa của khoa học) vào làm một. Do đó khoa học bèn trở thành bình phẩm có giá trị cao nhất. Khi người ta muốn đưa một sự việc hay sự vật lên giá trị cao, đáng được tôn trọng nhất thì người ta gắn cho nó cái “ mũ” khoa học, hoặc là đã được “khoa học chứng minh”.

Một số học giả gần đây, tuy ít thì muốn nêu cao tư tưởng tinh hoa của nho gia, nhưng ngược lại cho học thuyết âm dương, ngũ hành là cặn bã. Họ gọi âm dương, ngũ hành – một học thuyết đã từng thống trị trong các lĩnh vực thuật số như thiên văn, ngũ hành, hình pháp (phong thuỷ, tướng thuật), đoán mệnh, y thuật, vọng khí, v.v.. là “mê tín”. Đó rõ ràng là đứng trên quan điểm thể nghiệm thế giới theo văn hóa phương Tây để bình phẩm những hiện tượng của văn hoá Trung Quốc cổ.

Xem qua lịch sử Trung Quốc cận đại, đó là một bộ lịch sử hoặc là với thái độ dùng phương thức truyền thống của Trung Quốc để chống lại, bài xích văn hóa phương Tây, hoặc với thái độ lợi dụng văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc, hoặc với thái độ cam tâm tình nguyện tiếp thu toàn bộ văn hóa phương Tây làm cho lịch sử triệt tiêu lẫn nhau. Từ sau khi văn hóa phương Tây dùng nước thánh, thuốc phiện, pháo hạm mở rộng cánh cửa vào Trung Quốc, người ta bắt đầu so sánh hai nền văn hóa dưới những góc độ khác nhau và cuối cùng  rút ra  kết luận phổ biến là: phương Tây “tiên tiến” còn Trung Quốc “lạc hậu”. Văn hóa của Trung Quốc chỉ có thể so sánh với  một giai đoạn nào đó trong quá khứ của phương Tây. Sự biến đổi các hình thái và thứ lớp của văn hóa phương Tây bèn trở thành mô hình duy nhất, con đường duy nhất để phát triển văn hóa của nhân loại. Họ có những cái mà ta không có như chế đọ “dân chủ”, thể chế chính trị – kinh tế, phương pháp  quản lý khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp hiện đại, giáo dục, v..v.. đều là những cái mà chúng ta đang lạc hậu và là những điều kiện đủ để trở thành tiên tiến. Còn cái mà ta có, họ không có thì lại trở thành nguyên nhân lạc hậu của ta, thành nhân tố hạn chế, làm trở ngại có sự tiến lên, thành gánh nặng lịch sử. Từ đó mà vứt bỏ hết “ truyền thống”, dấy lên  phong trào tìm kiếm “chân lý” trong văn hóa phương Tây. Người ta hy vọng từ trong “ công nghiệp cứu quốc”, “ khoa học kỹ thuật cứu quốc”, “giáo dục  cứu quốc” để tìm được “thuận với trào lưu thế giới”, cho đó là “cứu quốc bảo trọng”. Trong quá trình phá bỏ trật tự cũ, âm dương, ngũ hành bèn trở thành đối tượng bị đả phá đầu tiên, cho dù trên một ý nghĩa nào đó, đấy chỉ là sự  phá bỏ hình thái bề ngoài.

Một ví dụ đầy kịch tính nhất là sự thay đổi trong đánh giá về Trung y – một trong những thuật y học cổ đại của Trung Quốc. Trong phong trào văn hoá mới, trung y cũng giống như các phương thuật khác đã từng bị xem là mê tín. Âm dương, ngũ hành là đại bản doanh của mê tính. Kết luận là : “cái chết có liên quan đến sự sống chết của ông cha ta đều là sản phẩm của quan niệm âm dương ngũ hành này”. Với chi phối của cách  đánh giá đó, trung y đã từng bị coi là một tai ách. Nhưng về sau, đặc biệt là mấy chục năm gần đây, tình hình này đã có sự thay đổi căn bản. “Mê tín” nhảy vọt thành “khoa học”. Trung y với tư cách là một sự thật, bản thân nó không hề thay đổi, mà thay đổi là sự đánh giá. Ở đây rõ ràng mê tính hay khoa học chẳng qua chỉ là sự đánh giá. Thuật số làm một trong những hình thái quan trọng của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Sau nhà Đường và Ngũ đại, thuập số đoán mệnh được lưu hành hơn 1000 năm, cao nhất là vua  cho chí thường dân đều thành tâm tin tưởng. Mấy chục năm lại đây ngược  lại bị xem là mê tín. Sở dĩ nói đó chỉ là một sự bình phẩm vì Trung y và thuật đoán  mệnh đều cùng một hệ thống, cùng có sắc thái như nhau, thế mà y học thì lại được xem là khoa học. Cho nên “mê tín” là một sự bình phẩm mang thiên kiến.

“Mê tín” và “khoa học” đều chỉ là một tín ngưỡng. Đối với mê tín thường được định nghĩa là: “sự tín ngưỡng thiếu bản chất lý tính, chỉ thuần tín ngưỡng hoặc tập tục”. Vì trước hết nó là một tính ngưỡng, sau nữa là “thiếu bản chất lý tính”. Song trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lập với mê tín là khoa học thì lại chính là được xây dựng trên cơ sở của sự tín ngưỡng. Đó là sự tín ngưỡng đối với “công lý” ( theo Bách  khoa toàn thư).

Sistot cho rằng, công lý là nguyên lý thứ nhất không thể chứng minh được. Tất cả mọi khoa học có tính chứng minh đều bắt đầu từ nguyên lý thứ nhất này. Mỗi  môn khoa học đều có nguyên lý thứ  nhất của nó. Như hình học giải tích – môn biểu hiện rõ nhất “tinh thần lý tính” của Hy lạp  là được xây dựng trên một số tiên đề – cái phải tự thừa nhận chứ không chứng minh được.

Cái phải tự thừa nhận mà không thể chứng minh được chính là dựa trên tín ngưỡng. Chỉ có thừa nhận những nguyên lý thứ nhất đó  thì loài người mới có thể thu được tri thức. Do đó “ Kinh thánh” tuyên bố “ mầm mống và tinh hoa của tín ngưỡng đều là mở đầu của tri thức”. Bất luận là công lý hay mầm mống tinh hoa của tín ngưỡng đều là sự thể nghiệm, đều là chân lý tự hiểu, không chứng minh. Loại sự thực mà không thể dùng lý tính hoặc logic suy đoán để chứng minh thì đó là sự biểu hiện của tín ngưỡng. Loại tín ngưỡng này không có “bản chất lý tính”.

Khoa học ngày nay được xem là vạn năng, do đó nó cũng là một loại tín ngưỡng. Mọi người , boa gồm cả hàng vạn nhà khoa học đều sùng bái khoa học, thực chất đó là một hành vi tín ngưỡng. Khoa học hiện đại là biểu tượng của vũ trụ cơ học. Trong thế giới thể nghiệm về sự vận động cơ học thì giữa tôi và vật tách rời nhau. Ta là người đứng riêng ra  để nghiên cứu, chỉ quan sát, mô phỏng ( ví dụ như thí nghiệm, lập mô hình toán học, v.v.) . Sự vận động của vật chất là một tồn tại khách quan. Dưới sự so sánh, tham chiếu các hiện tượng của vũ trụ cơ học thì thế giới “vạn vật có trong tôi”, khi đó “vạn vật với tôi làm một” tự nhiên bị xem là chủ nghĩa thần bí. Đó chính là hai sự tín ngưỡng khác biệt nhau, do một bên “ khoa học” xem vật tách khỏi tôi và một bên “ mê tín” cho tôi và vạn vật hòa làm một, do cái biểu tượng của hai thế giới thể nghiệm khác nhau tạo nên.

Khoa học hiện đại ngày nay chỉ là sự mô phỏng vũ trụ cơ học.  Các môn khoa học hiện đại được các nhà khoa học tín ngưỡng thực chất là sự mô phỏng theo vật lý học, là sự mô phỏng theo các hiện tượng của vũ trụ cơ học. Theo lời sử gia khoa học người Anh  - Tapi mà nói: “ Khoa học có thể gọi là những tri thức có đầu có đuôi về các hiện tượng tự nhiên, cũng có thể gọi là sự nghiên cứu lý tính giữa các loại quan niệm diễn đạt các hiện tượng tự nhiên”. Những nghiên cứu này , những kiến thức này đều tiến hành và thu được theo sự chi phối của  quan niệm vũ trụ cơ học. Đặc trưng cơ bản nhất của vũ trụ cơ học là sự vận động cơ học về số lượng và khối lượng. Vật lý học bèn trở thành mô hình kinh điển của biểu tượng vũ trụ này, sử gia khoa học người Anh nói: “Những người tự xưng là “nhà khoa học” trong những lĩnh vực này luôn luôn thừa nhận rằng mình đã tuân theo phương pháp kinh nghiệm của vật lý, giam mình trong phòng thí nghiệm vật lý hiện đại, phân tích thế giới qua các con số . Họ không biết rằng phương pháp mà họ cố tuân theo không những không có hiệu quả mà cũng là phương pháp không làm cho vật lý học thành công.” (A.F. Charmosse: “Khoa học thực chất là gì”).

Vật chất và máy móc là các hình thái văn hóa bề mặt, là hình tượng của ý thức, là vật dụng. Bản thân khoa học kỹ thuật và đối tượng của nó đều là vật chất. Khi con người gọi chung chính trị, hệ thống quản lý là khoa học và dùng kỹ thuật để xử lý nó thì nền văn hóa phương Tây với danh nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo, đề cao cái tôi lên hàng đầu, cũng đã đồng thời đem con người đặt ngang với vật chất. Đáng tiếc là loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái , trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất  này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái, trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này chứng tỏ xu hướng tìm đến kỹ thuật của nên văn hóa phương Tây. Khoa học ngày nay chẳng qua là một hệ thống trừu tượng của thế giới vật lý. Cho nên nếu cứ khăng khăng tìm kiếm kỹ thuật tức là  chỉ lo tìm hình tượng mà không chú ý đến bản chất, như thế tất nhiên sẽ dẫn đến hậu quả bi kịch là chỉ nắm kỹ thuật, bỏ qua đạo lý. Những  nhà sáng tạo thuộc thế hệ mới ở phương Tây đã nhạy cảm hơn chúng ta nhiều khi cảm thấy nền văn hóa của họ đang đứng trước những nguy cơ bao gồm cả những hiện tượng bề mặt như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ khủng hỏang năng lượng, vấn đề dân số, v..v.  kể cả nguy cơ tín ngưỡng.

Trong khi chúng ta, những người ở khu vực phi văn hóa phương Tây đang cố tìm kiếm kỹ thuật phương Tây thì một số nhà triết học phương Tây đã sớm bắt đầu tìm phương cứu thế từ bên ngoài văn hoá phương Tây. Điều đó chứng tỏ văn hóa phương Tây đang mất dần vị thế thống trị hơn 100 năm nay. Hình thái văn hóa phương Tây là lấy kỹ thuật làm biểu tượng dẫn đầu. Còn các nhân sĩ văn hóa phương Đông của chúng ta khi sử dụng kỹ thuật của phương Tây lại không hiểu được đạo lý của biểu tượng đó, tức là dùng kỹ thuật mà bỏ quên đạo lý. Như thì làm sao mà thoát khỏi được những bế tắc của đám bụi trần do lịch sử tích tụ lại.

Ý rõ, đạo sáng để thể hiện thế giới. Sự khác nhau giữa khoa học hiện đại  với “ mê tín dạng Trung Quốc” chỉ là ở chỗ: cái trước thể nghiệm thế giới theo các: con người  tách khỏi xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh hòa làm một. Am dương ngũ hành, cái bị gọi là đại bản doanh của mê tín chính là thế giới quan tự nhiên hay triết học tự nhiên của người Trung Quốc cổ đại chứ không phải người ngày nay khiên cưỡng , phụ họa ra. Vì trong sự thể nghiệm của người Trung Quốc cổ đại không có thiên nhiên đối lập với con người, trời đất đối lập với bản thân ta. Am dương, ngũ hành thống triệt trong tất cả mọi thứ nghiệm. Nó là biểu tượng toàn bộ thông tin giữa vũ trụ với cuộc sống con người. Thuật toán mà ngày nay bị xem là “mê tín” , ngày xưa vốn chiếm một vị trí rất cao. Giá trị vị trí của nó còn cao hơn cả khoa học ngày nay, vì không những nó là biểu tượng mà con là mô phongr thế giới thể nghiệm; là mô hình bầu trời ( hay đạo). Ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. Am dương ngũ hành là biểu tượng, trong biểu tượng nó bao gồm cả ý nghĩa; thuật số  là kỹ thuật , nhưng trong kỹ thuật đó đã có đạo. Rõ được điều đó tức là ý rõ , đạo sáng. Nền văn hóa chân chính là sự hòa quyện không chỉ giữa biểu tượng với vật thể mà còn là ở ý và đạo. Sự dung hợp nền văn hóa mới không chỉ lấy kỹ thuật làm trọng mà phải là một quá trình “đồng hóa” rộng rãi hơn, to lớn hơn, tinh hoa hơn, sâu sắc hơn trong đó lấy sự thể nghiệm thế giới làm cốt lõi. Hiểu rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa tận cùng của văn hóa Trung Quốc chính là ở chỗ này.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mê tín và khoa học

Vị thiền sư và nấm ngọc hương giữa rừng

Đây là câu chuyện kể về một thiền sư sống đơn độc giữa núi rừng đã phát hiện ra loài nấm quý hơn vàng. Dù thế nhưng vẫn sống rất thanh cao và hạnh phúc
Vị thiền sư và nấm ngọc hương giữa rừng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là câu chuyện kể về một thiền sư sống đơn độc giữa núi rừng đã phát hiện ra loài nấm quý hơn vàng…

Thị trấn Ran nhỏ bé, khoảng vài trăm cư dân, nằm giữa rừng già đại ngàn, không xa lắm là dãy núi Cascade hùng vĩ mùa đông phủ tuyết.

Mười năm trước, dân nơi đây bàn tán về người đàn ông tuổi ngoài 70 nhưng dáng dấp khỏe mạnh, nhân cách nhẹ nhàng vi diệu như một ông tiên. Cứ mỗi độ hoa lê rừng nở trắng xóa trên triền núi, người dân lại thấy ông lái chiếc xe pickup cũ từ đường mòn trên núi cao vào trung tâm thị trấn rồi dừng tại nhà dưỡng lão dành cho người nghèo.

Mỗi tuần ông đến đây hai lần, từ sáng sớm cho đến chiều. Ông nấu cho người già ăn, đánh dương cầm cho người già nghe, chỉ cho họ cách đi, cách ngồi, cách thở.

Mà lạ thay, ông làm việc gì cũng chậm rãi nhưng đầy năng lượng tươi vui. Mỗi lần có ông, nhà dưỡng lão bừng lên sức sống, được thay luồng khí mới. Các cụ già ánh mắt rạng ngời, nụ cười rạng rỡ như những đóa hoa vừa được tưới tẩm tình thương.

Khi lá rừng chuyển sang màu vàng cũng là lúc người dân thị trấn không còn thấy ông nữa. Các cụ già cố gắng làm theo lời ông chỉ dẫn để cuộc sống an lạc, tâm linh hơn. Nhưng không có ông, nhà dưỡng lão như mất đi lò sưởi ấm mùa đông, trở nên trầm buồn lạnh lẽo.

Các cụ già từng ngày nhìn ra khung cửa sổ giữa màu tuyết trắng mênh mông lại mỏi mắt trông chờ những cánh hoa lê rừng nở trắng.

Ông Ken từng thọ giáo, học thiền, học Phật nhiều năm từ Đức Dalai Lama, Thiền sư Suzuki. Ông vốn là nhà khoa học nghiên cứu về tác động môi trường từ chất thải hóa học do con người tạo ra.

Một hôm đọc tập san chuyên ngành Khoa học Môi trường, trong đó có bài nói về triết lý Phật giáo nhấn mạnh đến mối tương quan, tương tức của vạn vật đã làm ông ngạc nhiên về tính khoa học của một môn khoa học mà trước đây ông từng quan niệm rằng nó quá cổ xưa lạc hậu.

Ông không ngờ từ ngàn xưa tôn giáo ấy đã biết quý trọng cây cỏ mọi loài sinh linh và chỉ ra mối liên hệ mật thiết cần bảo vệ. Từ đó ông tìm hiểu về đạo pháp nhiều hơn. Ông đã trải qua từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi dấn thân vào con đường bao la của đạo Phật.

Ông quyết định trở thành một cư sĩ sau chuyến du hành sang Dharamshala – Ấn Độ dự khóa tu do ngài Dalai Lama giảng dạy.

Trước khi về hưu, ông tìm mua khu đất rừng rộng mấy mươi ha trên triền núi dãy Cascade miền Tây bắc Hoa Kỳ. Ông cho dựng căn nhà nhỏ làm bằng cây rừng thô ghép lại (cabin). Đây là ước mơ bao năm của ông có được nơi yên tĩnh, hoang dã để tu tập và viết những bài nghiên cứu cho các tạp chí Phật giáo bằng Anh ngữ.

Dù đã về hưu nhưng ông rất tinh tấn, năm giờ sáng ông thức dậy pha trà, đốt nén hương ngồi thiền. Sau buổi ăn sáng, ông thiền hành, thả bộ theo con suối bên hông nhà xuống cánh rừng sồi phía dưới.

Trong một buổi thiền hành cuối thu, ngồi nghỉ chân bên bờ suối ngắm nhìn cánh rừng ngợp lá vàng bay trước mặt, ông thấy mấy chú sóc từ trên cây leo xuống, vừa đi chậm rãi vừa đánh hơi thảm lá vàng dưới đất.

Chợt chúng dừng chân, moi lên dưới thảm lá mục những viên củ rừng to bằng trứng chim cút, có viên to bằng quả chanh rồi đem về tổ trên cây cao cất giấu. Tò mò, ông tới nơi chúng đào, dùng nhánh cây rừng khơi xung quanh, vài viên củ rừng trăng trắng hiện ra.

Ông đưa lên mũi, thoang thoảng mùi hương nhẹ phảng phất. Như không tin vào thính giác mình, ông đem xuống bờ suối dùng hòn đá có góc cạnh bén cắt đôi, hương thơm theo vết cắt lan tỏa đậm đà, một thứ hương không nồng, không nặng, rất nhẹ nhàng tinh tế dễ chịu.

Ông Ken thầm thốt lên: Nấm truffle.

Ông không ngờ cánh rừng do mình làm chủ có loại nấm vô cùng quý hiếm này, mỗi ký được bán lên tới cả 5-10 ngàn USD. Đây là loài thực phẩm mắc nhất thế giới. Ông quay lại chỗ sóc đào, lượm thêm một viên nấm rồi tiếp tục thiền hành trở về nhà.

Sau khi rửa sạch, ông thành kính bỏ viên nấm vào dĩa dâng lên bàn thờ Phật như dâng lên viên ngọc quý báu ban tặng từ đất trời.

Suốt ngày đó, ông vẫn làm những công việc bình thường, mỗi khi ý niệm nấm ngọc hương phấn khích nổi lên, ông theo dõi hơi thở, điều tâm thanh tịnh trở lại. Hôm sau, thay vì thắp nhang lễ Phật trước khi ngồi thiền như thường lệ, ông cắt một phần viên nấm thành những lát mỏng thay thế mùi nhang.

Trong thiền phòng giữa không gian yên tĩnh núi rừng trùng điệp, mùi hương nấm nhẹ nhàng lan tỏa. Khi hơi thở đã rất nhẹ rất sâu, tâm đã lắng đọng trong sáng, ông Ken bắt đầu suy nghĩ phải làm gì với kho báu giữa rừng già?

Ông đã bỏ tất cả để tìm đến chốn này, tiền hưu trí hàng tháng ông dùng chỉ một phần rất nhỏ, hầu hết gởi tặng các tu viện, cơ sở thiện nguyện. Không khéo cánh rừng này sẽ đốt tan công phu tu tập của ông, trở thành nơi tranh chấp gây tạo ác nghiệp.

Mùa thu khi lá phong, lá sồi chuyển sang màu vàng cam rực rỡ cũng là lúc ông Ken bắt đầu thu hoạch nấm ngọc hương. Đối với người chuyên môn tìm loại nấm quý này, họ luôn sử dụng chó hoặc heo để phát hiện những viên nấm được giấu kín dưới lớp thảm mục rừng.

Riêng ông Ken cách tìm nấm cũng không khác chi hành thiền. Mỗi ngày ông thiền hành đến cánh rừng, chọn một chỗ khác hôm qua, ngồi xuống hít thở khí trời, nghe tiếng chim hót líu lo, nhìn những chú sóc nhỏ chạy tung tăng tìm nấm.

Ông chờ chúng lấy xong, tới chỗ chúng đào lấy những viên nấm còn sót lại xung quanh. Loài sóc đã quen hình dáng ông bao năm qua nên không hề có chút sợ hãi. Từ ngày thấy ông “mót” nấm mà không tranh giành với chúng, loài sóc hiểu được. Chúng thương ông, đào nhiều nơi nhưng lấy đi rất ít, như làm dấu giúp ông thu hoạch tốt hơn.

Mùa nấm truffle kéo dài 2 tháng, bắt đầu từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 11. Mỗi tuần ông Ken thu hoạch được vài ký, ông bán hết cho nhà thu mua, chỉ giữ lại một ít thay nhang cúng Phật mỗi sáng ngồi thiền.

Ông gởi trọn số tiền bán nấm thông qua trương mục vô danh cho viện dưỡng lão dưới chân núi nơi ông thường làm việc thiện nguyện.

Mùa xuân năm ấy, khi hoa lê rừng nở trắng trên triền núi, các cụ già trong viện dưỡng lão lại háo hức chờ đón ông Ken. Một tuần qua, hai tuần qua, hoa lê đã rụng tàn, màu xanh lá rừng đã trỗi dậy nhưng ông Ken vẫn không xuất hiện.

Người dân thị trấn Ran xôn xao bàn tán không biết chuyện gì đã xảy ra trên núi cao. Họ vận động chính quyền địa phương cùng cư dân dành một ngày cuối tuần lên núi tìm hiểu sự tình.

Sáng sớm, đoàn xe vài chục chiếc chậm rãi theo con đường mòn gồ ghề đầy sỏi đá tiến vào dãy núi Cascade. Trên con đường độc đạo hoang vu, giữa lưng chừng núi, căn nhà gỗ đơn sơ đậm nét dưới ánh mặt trời. Viên cảnh sát thị trấn dẫn đầu cho xe dừng lại, đi bộ đến căn nhà có nhiều cỏ dại mọc cao như báo hiệu đã lâu không ai chăm sóc.

cỏ dại mọc cao
Viên cảnh sát thị trấn dẫn đầu cho xe dừng lại, đi bộ đến căn nhà có nhiều cỏ dại mọc cao như báo hiệu đã lâu không ai chăm sóc.

Viên cảnh sát gõ nhẹ cửa nhiều lần nhưng không tiếng trả lời. Bỗng người dân đi theo hốt hoảng la lên bên cánh cửa sổ hông nhà:

Phía sau khung kiếng bụi mờ, một thân thể bất động da nhăn khô đang ngồi trước tượng Phật cổ xưa. Viên cảnh sát phá vội ổ khóa cánh cửa ra vào: Mùi hương thơm từ trong nhà thoát ra làm mấy chục cư dân thị trấn Ran ngạc nhiên trầm trồ.

Bước vào trong, bên cạnh thân thể khô cứng đang nhập định còn có nhiều khay đựng đầy nấm truffle thái mỏng đã khô nhưng vẫn tỏa mùi hương ngào ngạt.

Người ta tìm thấy tờ di chúc để lại trên bàn Phật, ông hiến tặng toàn bộ đất đai tài sản cho viện dưỡng lão, đồng thời tiết lộ điều bí mật được giữ kín lâu nay về cánh rừng có nấm truffle.

Ông cẩn thận ghi chép điều kiện bắt buộc để nhận tài sản là phải có một ủy ban giám sát khai thác nấm truffle theo cách ông làm: Tôn trọng và bảo vệ loài sóc trước khi thu hoạch cho loài người vì chúng là chủ nhân đầu tiên kho báu này.

Mọi người không ngờ chính ông là nhà hảo tâm vô danh đóng góp tài chánh duy trì viện dưỡng lão nhiều năm qua! Ngày làm lễ hỏa thiêu rải tro bên bờ suối theo lời ông dặn trong di chúc, thị trấn Ran hầu như tham dự không thiếu một người. Từ cậu bé nhà nghèo bỏ báo buổi sớm mai cho đến cụ già trong viện dưỡng lão đều được giúp đỡ phương tiện lên núi.

Lần đầu tiên cư dân thị trấn Ran gắn bó chăm sóc lẫn nhau như đại gia đình. Đoàn xe hơn trăm chiếc chậm chạp trên con đường gồ ghề tiễn ông đi. Cư dân khóc sướt mướt, thương mến cảm phục một nhân cách vi diệu sống trọn đời không những cho tha nhân mà ngay cả muôn loài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị thiền sư và nấm ngọc hương giữa rừng

Cách đổi ngày dương lịch ra ngày can chi

Ngày can chi : Ngày can chi theo chu kỳ 60 , độc lập không lệ thuộc vào năm tháng âm lịch hay năm tháng can chi- (Kể cả tháng nhuận). Tính ngày can chi chuyển đổi sang âm lịch rất phức tạp vì tháng âm lịch thiếu đủ từng năm khác nhau, ngược lại tính ngày can chi theo dương lịch đơn giản hơn.
Cách đổi ngày dương lịch ra ngày can chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách tính ngày dương lịch ra ngày can chi:

Mỗi năm dương lịch có 365 ngày, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5 ngày lẻ. Năm nhuận có thêm 1 ngày 29-2 tức 366 ngày, thì công thêmn 6 ngày lẻ. Nếu lấy ngày 1-3 là ngày khởi đầu thì các ngày sau đây trong mọi năm cùng can chi giống 1-3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết ngày 1/3 (hay một trong bảy ngày nói trên) là ngày gì, ta dễ dàng tính nhẩm những ngày bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngày nói trên).

Nếu muốn tính những ngày 1/3 năm sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ 24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngày 29/2).

Thí dụ ngày 1/3 năm 1995 là ngày Tân Mão , từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngày Quí Tị, 27/2/1996 là ngày giáp Ngọ. (1996 có hàng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là năm nhuận có ngày 29/2).

Ta biết 1/3/1996 là ngày Đinh Dậu vậy 24/21997 cũng là Đinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngày. Ta dễ dàng tính ra 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, theo tính nhẩm = Đinh đến Nham hay Dậu đến Dần = 5 ngày.(Xem bài so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bày năm nào nhuận dương lịch và nhuận âm lịch).

Thí dụ: Theo cách tính trên ngày 1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, ngày 26/12/1997 cũng là ngày Nhâm Dần, vậy ngày1/1/1998 sẽ là ngày Mậu Thân (sau đó 6 ngày)...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đổi ngày dương lịch ra ngày can chi

Top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp –

Những chòm sao nào nhìn thấy anh chàng đẹp trai, thì không kiềm chế nổi cảm xúc? Chúng ta hay cùng đọc bài viết top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp để có câu trả lời cho câu hỏi trên nhé. Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp Ngôi vươ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chòm sao nào nhìn thấy anh chàng đẹp trai, thì không kiềm chế nổi cảm xúc? Chúng ta hay cùng đọc bài viết top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp để có câu trả lời cho câu hỏi trên nhé.

Nội dung

  • 1 Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp
    • 1.1 Ngôi vương: Bò Cạp
    • 1.2 Á quân: Bảo Bình
    • 1.3 Thứ 3: Song Tử
    • 1.4 Thứ 4: Song Ngư

Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp

Ngôi vương: Bò Cạp

bo-cap-1323-1396066083

Bình thường Bò Cạp có vẻ khá lạnh lùng và ít để ý đến người xung quanh. Nhưng khi tiếp xúc với người khác giới, đặc biệt là những anh chàng bảnh bao và nam tính, bạn lại rất cởi mở, sẵn sàng dốc bầu tâm sự mọi chuyện trên trời dưới biển, thậm chí là tâng bốc đối phương để có được cuộc trò chuyện vui vẻ, thú vị và đầy kịch tính.

Á quân: Bảo Bình

bao-binh-9304-1396066084

Một khi gặp được “mỹ nam”, Bảo Bình sẽ chớp ngay lấy cơ hội để được trò chuyện. Để thu hút anh chàng đẹp trai, bạn có kế sách thầm lặng chứ không thể hiện ra bên ngoài cho chàng ta biết. Đó có thể là sự vô tình đánh rơi đồ, va chạm vào người hay giả vờ ngã…

Thứ 3: Song Tử

song-tu-1777-1396066084

Tính cách năng động, giỏi xã giao, có sự hiểu biết và quan sát rộng nên Song Tử không gặp khó khăn trong việc tạo ấn tượng tốt trong mắt của các chàng trai, đặc biệt là những anh chàng nam tính và điển trai. Khi được chàng nào đó nhờ giúp đỡ, Song Tử có thể quên ngay việc mình đang cần làm mà sẵn sàng ra tay giúp đỡ nhằm gây dựng hình tượng tốt đẹp trong mắt chàng.

Thứ 4: Song Ngư

song-ngu-7316-1396066085

Khả năng “miễn dịch” với sự hào nhoáng của những anh chàng bảnh bao của Song Ngư khá “yếu”. Dù tính cách rụt rè nhưng một khi đã để ý đến anh chàng nào đó, bạn sẽ lấy hết can đảm để có thể chủ động tiếp xúc và làm quen. Hễ nhìn thấy mỹ nam là bạn không thể kiềm chế được cảm xúc, miệng bạn như muốn thốt lên “Ôi! Hoàng tử của tôi” hay “Đẹp trai hết chỗ chê”…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp –

Canh Dần mệnh gì –

Người sinh 1950, Canh Dần có Ngũ hành năm sinh là Tùng Bách Mộc, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Nam, Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 5, sao Ngũ Hoàng, Tây tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá m
Canh Dần mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Dần mệnh gì –

SÁT TINH TRẠCH VẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI SÁT TINH TRẠCH VẬN

Sát tinh trạch vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên cạnh những sát khí về hình thể loan đầu tồn tại những dạng sát tinh thuộc dạng lý khí. Những sát tinh này chúng ta không thể nhìn thấy được, cầm nắm được, hay cảm nhận được. Như những luồng sóng điện từ, sóng truyền thanh, truyền hình, sóng viễn thông hay từ phổ của Trái đất, trường khí mà sát tinh lý khí này tạo ra gây những ảnh hưởng vô cùng bất lợi đối với cư nhân trong dương trạch.

Mặc dù không cầm nắm, đo đếm, nhìn thấy được nhưng trên cơ sở tính toán nghiên cứu về phong thủy và thực nghiệm nhiều lần trong thực tiễn cuộc sống, con người ta đã rút ra những quy luật về nó.

So với sát khí về hình thể thì sát tinh lý khí đơn giản hơn, chủ yếu có mấy dạng, nhưng uy lực gây họa của nó không hề nhẹ, nhất là khi nó cộng hưởng với sát khí hình thể càng tạo nên nhiều nguy cơ cho người ở trong căn nhà.

Thái tuế

Trong Thái dương hệ của chúng ta có một hành tinh là Mộc tinh. Mộc tinh là hành tinh thứ năm trong hệ Mặt trời tính từ Mặt trời trở ra, theo thuyết Nhật tâm của Bruno, cũng là một quan điểm khoa học hoàn toàn đúng đắn về vũ trụ, thiên văn.

Người xưa, đã quan sát kỹ lưỡng chu kỳ chuyển động của Mộc tinh, và ghi chép lại thành hệ thống những kiến thức khoa học thiên văn. Ta có thể dễ dàng tìm thấy các thông tin về hành tinh này trong Sử ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán hoặc trước đó nữa. Mộc tinh chuyển động quanh Trái đất theo một quỹ đạo có chu kỹ là 12 năm, hệ quả của nó tạo ra từ quá trình này là trường khí của nó tạo ra lực hút, sự tương tác mạnh yếu khác nhau tại các phương vị trên Trái đất, và quá trình tương tác này sẽ có những yếu tố may rủi họa phúc khác nhau. Người ta đã biểu diễn chu kỳ này bằng hệ thống 12 địa chi, 12 trực…Mộc tinh còn được gọi một cái tên rất quen thuộc đó là Thái tuế.

Các môn khoa học dự đoán như Tử vi đẩu số, Tứ trụ Tử bình đều đặt vấn đề nhập hạn Thái tuế rất quan trọng. Nhà đẩu số Thiệu Vĩ Hoa có nói: “Hợp Thái tuế thì may mắn cát lợi, xung Thái tuế tất có điều hung họa”. Trong Tử vi người ta hay có câu: “Gặp Thái tuế không có hỷ cũng có họa”.

Đối với Phong thủy, gặp Thái tuế thường mang lại những điều bất lợi, có thể gặp những điều xấu bất ngời, họa vô đơn chí, hao tiền tốn của, gia đạo lục đục, tai nạn bệnh tật… Người ta có câu: “Động thổ trên đầu Thái tuế”. Nghĩa là tại các phương vị khác nhau, mỗi khi Thái tuế nắm lệnh tại phương vị đó sẽ gặp nhiều bất lợi, ai làm nhà, xây dựng…cũng đều hết sức kiêng dè. Câu nói trên còn dùng để chỉ những người thiếu hiểu biết, vô minh, liều lĩnh, hồ đồ. Thái tuế được tính như sau.

Năm Tý – Thái tuế ở Chính Bắc

Năm Sửu, Dần – Thái tuế ở Đông Bắc

Năm Mão – Thái tuế ở Chính Đông

Năm Thìn, Tị - Thái tuế ở Đông Nam

Năm Ngọ - Thái tuế ở Chính Nam

Năm Mùi, Thân – Thái tuế ở Tây Nam

Năm Dậu – Thái tuế ở Chính Tây

Năm Tuất, Hợi – Thái tuế ở Tây Bắc.

Tại các phương vị Thái tuế, người ta kiêng kỵ động thổ, xây dựng. Nếu như căn nhà mà đã xây dựng trước đó, người ta cũng hạn chế hoạt động, để máy móc rung chuyển tại các phương vị đó. Thái tuế được coi là một là một một sát tinh có uy lực mạnh nhất, đứng đầu sát tinh về lý khí.

Đối với Thái tuế không có cách chế giải, người ta chỉ thường né tránh nó, tránh động thổ, khởi công, xây dựng, đào bới, san lấp, tu sửa ở các phương vị này.

                                    va phương pháp hóa giải tại phongthuyso.vn

Ngũ hoàng

Chòm sao Đại Hùng trong vũ trụ còn gọi là chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao này có dạng hình cái gáo, được hợp thành bởi 9 vì sao trong đó có các sao Thiên Toàn, Thiên Khu, Thiên Lộc, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang, Tả phù, Hữu Bật. Đó chính là hệ thống Cửu tinh trong Phong thủy Huyền không…Chòm sao này có chu kỳ chuyển động và tạo ra những trường khí và lực hấp dẫn khác nhau, con người sống trên Trái đất và đương nhiên cũng chịu những lực tác động vô hình đó

Sao Ngọc Hành còn gọi là sao Ngũ Hoàng, Liêm Trinh, là một trong những đại sát tinh của trạch vận, sao này mang hành Thổ, khi thất lệnh sẽ gây ra nhiều tai họa bệnh tật, người ta gọi là Ngũ hoàng sát, Liêm trinh sát, Mậu kỷ sát, Chính quan sát. Nếu Ngũ hoàng trùng lặp với Thái tuế thì sát khí lại càng mạnh

Khi Ngũ hoàng nhập trung cung là Hoàng cực đóng tại chính vị, ngôi vị tôn quý. Khi bay ra 8 cung còn lại thì sẽ tạo ra những ảnh hưởng hung họa. Cụ thể:

Phương Khảm: Phương vị chính Bắc, chủ về bệnh tiết niệu, tai, thận, bệnh đường huyết, phụ nữ gặp tai nạn thai sản

Phương Cấn: Phương vị Đông Bắc, chủ về bệnh đường ruột, dạ dày, chân trái bị thương, bệnh khớp, trẻ nhỏ suy nhược, đau đầu, chóng mặt

Phương Chấn: Phương vị chính Đông, đau đầu, đau lưng, tai nạn xe cộ, vì tiền mang họa

Phương Tốn: Phương vị Đông Nam, chủ về đốt sống cổ, bệnh thần kinh, bệnh ngoài da, con cái học kém

Phương Ly: Phương vị chính Nam, chủ về bệnh mắt, tim, não, huyết áp không ổn, chóng mặt, tai nạn đổ máu, cãi cọ, kiện tụng

Phương Khôn: Phương vị Tây Nam, chủ về người mẹ mắc bệnh tỳ vị, đau vai phải, tranh chấp ruộng đất, tai nạn đổ máu

Phương Đoài: Phương vị chính Tây, chủ về chịu hình phạt, mang tiếng xấu, đau thắt lưng trái, bị kim loại tổn thương, ngộ độc thực phẩm

Phương Càn: Phương vị Tây Bắc chủ về người cha mắc bệnh, đau đầu, kiện cáo, đau chân phải, đau tim, bệnh não

Trung cung: chủ bệnh tim, gia đình bất hòa, lở loét, gặp tai nạn bỏ mạng

Ngũ hoàng sát có một đặc tính là thích tĩnh, nên tại những phương vị này nên hạn chế các hoạt động, tránh đặt các máy móc rung động lớn. Nếu như căn nhà đã xây mà Ngũ hoàng tới hướng, có thể đặt các vật khí phong thủy bằng kim loại để hóa giải sát khí này vì Thổ sinh Kim, nên sát khí của hung tinh này bị chiết giảm và hóa giải.

Ngoài ra, nếu động thổ, khởi công tại phương vị có Ngũ hoàng lưu niên, Ngũ hoàng tháng, ngày có thể dùng những ngày Giáp, Ất thuộc Mộc, hoặc Canh, Tân thuộc Kim để hóa giải, đó là về thiên can, ngoài ra có thể sử dụng các ngày có địa chi Dần – Mão – Thìn (Tam hội Mộc cục), Hợi – Mão – Mùi (Tam hợp Mộc cục), Thân – Dậu – Tuất (Tam hội Kim cục), Tỵ - Dậu – Sửu (Tam hợp Kim cục) để hóa giải sát khí

                                  va phương pháp hóa giải tại phongthuyso.vn

Như hình vẽ trên năm 2006 Bính Tuất thì Ngũ hoàng lưu niên bay đến phương vị chính Tây, nếu khởi công tại đó thì sẽ phạm Ngũ hoàng

Tam sát

Tam sát chia ra làm hai loại bao gồm

  • Tam sát về thời gian: Tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn (Thủy cục)

Dần – Ngọ - Tuất  (Hỏa cục)

Tị - Dậu – Sửu (Kim cục)

Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục)

Nếu chọn ngày xây dựng hay khởi công động thổ và những năm, tháng, ngày, giờ tam hội cục đối nghịch là sẽ phạm tam sát về thời gian.

Ví dụ cụ thể: Năm Thân thuộc tam hợp Thân – Tý – Thìn (Thủy cục) mà lại tiến hành khởi công vào các tháng, hoặc ngày, hoặc giờ Tị - Ngọ - Mùi (Tam hội cục Hỏa), Thủy, Hỏa đối khắc nên phạm tam sát về thời gian. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy.

  • Tam sát về phương vị: Dựa vào bốn tam hợp cục trên, nếu động thổ, khởi công tại các phương vị tạo ra tam hội cục đối nghịch, như vậy là phạm tam sát về phương vị.

Ví dụ: Năm Mũi, thuộc tam hợp Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục) mà động thổ tại phương vị chính Tây có các tam hội cục Thân – Dậu – Tuất (Kim cục) nên trường hợp này gọi là phạm tam sát về phương vị.

Để tránh tam sát về phương vị, kinh nghiệm dân gian ta thường nói rằng, năm dương bào gồm có các địa chi dương Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thì đại lợi theo hai hướng Tây – Đông

Các năm âm, gồm các địa chi âm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thì đại lợi ở các phương vị Nam – Bắc.

Tam sát thường gây ra bốn hậu quả có thể xảy ra

+ Tai nạn bất ngờ, như tai nạn lao động, hoặc tai nạn giao thông

+ Kiện tụng

+ Hao tài

+ Sức khỏe bị ảnh hưởng: Bắc (Xương cốt, sức khỏe giới tính, đường tiết niệu, thận, tử cung, bàng quang), Nam (Tim, huyết quản, huyết áp, trúng gió), Đông (Kinh lạc, gan, mật), Tây (Đường hô hấp, miệng, mũi, da).

Hóa giải tam sát bằng những biện pháp sau:

  • Dùng một lượng nước tại phương vị khắc sát để kiềm chế hung tính
  • Dùng một cây gỗ lớn để hút hao sát khí tại phương vị khắc sát để hóa giải sát khí
  • Chọn ngày giờ tốt đẹp cát lợi để khắc chế tai họa, tránh họa tìm phúc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SÁT TINH TRẠCH VẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI SÁT TINH TRẠCH VẬN

Vợ chồng lục đục vì phong thủy nhà xấu

Một ngôi nhà không hợp phong thủy có thể khiến gia chủ bất hòa, tranh cãi liên miên. Tôi cảm thấy rằng từ khi chuyển đến ngôi nhà mới, vợ chồng tôi liên tục xảy ra cãi vã, trong khi trước đây chúng tôi rất hòa hợp. Chúng tôi tranh luận về mọi chuyện và mọi lúc. Tôi lo sợ quan hệ vợ chồng sẽ bị rạn nứt vì những bất đồng không đáng có này. Hiện nay, tôi đang băn khoăn không rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có phải do ngôi nhà mới của chúng tôi có phong thủy xấu hay không? Có bao giờ một ngôi nhà không thuận phong thủy khiến cho gia chủ bất hòa hay không? Rất mong chuyên mục giải đáp cho chúng tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trả lời:

Đây thực sự là một câu hỏi phong thủy tuyệt vời, rất thực tế. Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chuyên mục.

Có rất nhiều thách thức phong thủy trong ngôi nhà mới có thể kích động, thậm chí là tăng cường nguồn năng lượng tiêu cực như sự bất đồng, tranh luận, cãi vã và không hài lòng với mối quan hệ của bạn.

Nó tương tự như việc bạn phải đi một đôi giày không thoải mái hoặc mặc một bộ quần áo không vừa với vóc dáng, sở thích cá nhân. Sau một thời gian, nó bắt đầu nó bắt đầu gây ra những kích thích làm phiền bạn, làm bạn phát cáu. Bất kể bạn cố gắng nhiều như thế nào để ngăn chặn, kìm nén năng lượng tiêu cực này và dù cho bạn ý thức rõ ảnh hưởng của nó hay không thì sớm hay muộn nó cũng khiến bạn "nổ tung", mất kiểm soát về hành vi.

 vo chong luc duc vi phong thuy nha xau - 1

Ngôi nhà có phong thủy xấu chắc chắn là một yếu tố góp phần gây ra những cuộc cãi vã không có điểm dừng trong gia đình. (Ảnh minh họa)

Trong phong thủy, ngôi nhà được gọi là lớp da thứ ba của bạn với một lý do rất chính đáng (quần áo được đánh giá là lớp da thứ hai). Vì thế, giống như việc lựa chọn quần áo thông minh, thoải mái và đẹp đẽ làm cho dòng chảy năng lượng cá nhân của bạn được tự do và hài hòa thì sự lựa chọn môi trường sống thông minh sẽ cho kết quả tương tự.

Tại sao nó lại xảy ra theo cách này? Bởi vì, năng lượng cá nhân của bạn được kết nối với mọi thứ xung quanh bạn. Không có ranh giới cụ thể, chặt chẽ trong thế giới của năng lượng, đây là lý do vì sao phong thủy tốt trong bất kỳ không gian nào đều rất quan trọng. Một ngôi nhà có phong thủy tốt sẽ nuôi dưỡng năng lượng của bạn.

Trước khi chúng ta nhìn vào những thách thức phong thủy chính của ngôi nhà đã góp phần gia tăng năng lượng tiêu cực trong các mối quan hệ, chúng ta phải thống nhất về một thực tế quan trọng rằng bạn là người duy nhất chịu trách nhiệm - tại bất kỳ thời điểm nào - cho những lựa chọn của mình. Đổ lỗi cho phong thủy của ngôi nhà vì những gì đang xảy ra trong mối quan hệ của bạn không phải là tất cả.

Trên hết, bạn đã chọn sinh sống trong ngôi nhà của mình và cách duy nhất thật sự cải thiện của bạn đó là:

1. Cố gắng giải quyết tất cả những thách thức phong thủy tạo ra sự căng thẳng hiện tại. Hãy nghiên cứu và áp dụng các giải pháp phong thủy phù hợp với ngôi nhà của bạn.

2. Tập trung vào thái độ, hành vi mỗi khi bạn đang ở trong cuộc xung đột, cãi vã và chọn cách kìm nén, nhẫn nhịn dù không hề thích. Sau đó, bình tĩnh tháo gỡ vấn đề. Mỉm cười và tin tưởng lẫn nhau giúp mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn.

Nếu bạn ghi nhớ được hai điều trên khi áp dụng các giải pháp hóa giải phong thủy xấu cho ngôi nhà thì chắc chắn bạn sẽ tạo nên kết quả tốt đẹp, bền vững cho mối quan hệ của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng lục đục vì phong thủy nhà xấu

Hình xăm cho nữ mệnh Mộc –

Mệnh Mộc: Ngũ hành tương sinh: Mộc sinh Hỏa: Mộc có thể dùng để đốt lửa. Thủy sinh Mộc: Thủy là nguồn sinh trưởng của cây cối. Ngũ hành tương khắc: Mộc khắc Thổ: Cây cối phá đất mà ra, gốc của cây nằm trong bùn đất, có thể làm đất tơi xốp, vì vậy khắ
Hình xăm cho nữ mệnh Mộc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mệnh Mộc:

Ngũ hành tương sinh:

Mộc sinh Hỏa: Mộc có thể dùng để đốt lửa.
Thủy sinh Mộc: Thủy là nguồn sinh trưởng của cây cối.

Ngũ hành tương khắc:

Mộc khắc Thổ: Cây cối phá đất mà ra, gốc của cây nằm trong bùn đất, có thể làm đất tơi xốp, vì vậy khắc Thổ.
Kim khắc Mộc: Những công cụ kim loại có thể chặt gãy cây cối.

hinh-xam-nu-menh-moc-10

Người mệnh Mộc hợp với màu của mẹ Thủy, là màu đen, màu xám, màu xanh nước biển, màu nâu. Điển hình là màu nâu. Màu nâu là màu của gỗ, một yếu tố đại diện rõ ràng cho Mộc. Màu nâu tốt cho các cung: Cung Gia Đạo, Cung Tài Lộc và Cung Danh Vọng.

Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Mộc với Mộc, nhiều cây sẽ là rừng xanh lá.

Màu xanh lá thể hiện sự tươi tắn, trong lành và mang lại cảm giác cho một điểm khởi đầu mới. Màu xanh lá có ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ, giúp bạn đẩy lùi những hồi hộp và lấy lại cân bằng bằng những phương thức chữa trị của tự nhiên.

Khi dùng màu xanh lá, tốt hơn cả là kết hợp nhiều sắc thái màu khác nhau để đem đến được hiệu quả lớn nhất.

Màu sắc kỵ: Màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim, khắc phá mệnh cung hành Mộc, xấu.

Những chủ đề hình xăm bạn nữ nên chọn: Mai lan trúc cúc, thư pháp, tùng bách, thỏ, mèo…

Dưới đây mời bạn tham khảo một số mẫu hình xăm hợp với nữ mệnh Mộc:

hinh-xam-nu-menh-moc

hinh-xam-nu-menh-moc-1

hinh-xam-nu-menh-moc-2

hinh-xam-nu-menh-moc-3

hinh-xam-nu-menh-moc-4

hinh-xam-nu-menh-moc-5

hinh-xam-nu-menh-moc-6

hinh-xam-nu-menh-moc-7

hinh-xam-nu-menh-moc-8

hinh-xam-nu-menh-moc-9

hinh-xam-nu-menh-moc-10

hinh-xam-nu-menh-moc-11

hinh-xam-nu-menh-moc-12


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm cho nữ mệnh Mộc –

Tăng thêm nguồn khí tốt cho ngôi nhà với các loài hoa

Trong tự nhiên có rất nhiều loài hoa có thể bổ sung vượng khí cho ngôi nhà của bạn. Vì thế, việc trang trí hoa theo phong thủy là điều khá cần thiết và nên chú ý khi chọn lựa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là 6 loài hoa thường được dùng trong phong thủy:

1. Hoa mẫu đơn

Hoa mẫu đơn bắt đầu được sử dụng nhiều trong đám cưới ở Việt Nam bởi ý nghĩa lãng mạn và sự sang trọng. Ảnh: Bridgewater.

Loài hoa này được sử dụng trong phong thủy với ước mong đem đến sự lãng mạn lứa đôi và xua tan mọi bất hòa trong tình yêu. Bạn có thể sử dụng một vài bông mẫu đơn màu hồng để phát huy tác dụng mạnh nhất. Hoa mẫu đơn thường được nhắc đến là loài hoa mang vẻ đẹp nữ tính của người con gái.

2. Hoa sen

Hoa sen tượng trưng cho sự hoàn hảo. Chính nhờ vẻ đẹp tinh khiết cùng hương thơm ngát không vướng bùn hôi tanh của sen mà loài hoa này rất được ưa dùng trong phong thủy. Theo đông y, tất cả thành phần của sen, từ rễ đến cánh hoa đều có tác dụng chữa bệnh. Do đó, phong thủy sử dụng sen với ý nghĩa mang đến cho gia chủ sức khỏe dồi dào, lành mạnh, không bệnh tật và tạo sự hài hòa, sang trọng cho ngôi nhà.

3. Hoa đào 

Tết đến, gia đình người miền Bắc thường có cành đào đón xuân. Ảnh: Xuân Tùng.

4. Hoa lan

Những cành đào nở rộ được sử dụng nhằm mang lại nguồn năng lượng cho sự khởi đầu mới, một cảm giác tươi mát, tinh khiết và ngây thơ. Hoa đào rất được ưa chuộng trong phong thủy. Những cành đào tươi thắm được cắm trong nhà dịp Tết đến xuân sang đem lại cảm giác tươi vui cho căn nhà và gia chủ.

Loài hoa mang vẻ đẹp kiều diễm cùng hương thơm vô cùng sang trọng và quý phái này từ lâu vốn là biểu tượng phong thủy cổ điển của sự sinh sôi nảy nở. Ở phong lan, con người luôn cảm nhận được nguồn năng lượng dạt dào của tự nhiên, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự hoàn hảo tròn đầy. Nét phong phú, đa dạng, hoàn hảo trong từng loài phong lan, mùi hương tinh khiết cùng vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho loài hoa này giúp cho ngôi nhà sang trọng hơn.

5. Hoa thủy tiên

Nếu bạn đang gặp phải những rắc rối liên quan đến công việc, sự nghiệp thì hãy đặt bên cạnh mình bình hoa thủy tiên trắng tinh khiết. Loài hoa này vốn được phong thủy sử dụng nhằm mang đến những nguồn năng lượng bổ trợ cho tài năng, nghề nghiệp, sự chuyên nghiệp và làm khơi dậy tiềm năng bẩm sinh của con người. Ngoài ra, thủy tiên còn là liều thuốc tự nhiên thúc đẩy sự sáng tạo ở con người và giúp ta có thể giải quyết những vấn đề hóc búa trong công việc hàng ngày. So với thủy tiên vàng thì thủy tiên trắng có nhiều tác dụng và được sử dụng nhiều hơn.

6. Hoa cúc

Hoa cúc họa mi đầu đông được cắm nhiều trong các gia đình ở Hà Nội. Ảnh: Minh Quân.

Trong phong thủy, hoa cúc biểu trưng cho một cuộc sống thanh bình, cân bằng. Với sắc màu của ánh mặt trời chói chang, hoa cúc mang trong mình nguồn năng lượng dương mạnh mẽ. Vì thế nó thường được sử dụng để thu hút sự may mắn cho gia chủ và các thành viên trong gia đình.

Việc đặt trong nhà một bình hoa tươi sắc để có được những nguồn năng lượng bổ trợ là lựa chọn hoàn hảo. Nếu không có điều kiện chăm sóc hoa, bạn có thể đặt các bức tranh vẽ các loài hoa kể trên cũng rất tốt cho căn nhà và các thành viên trong gia đình.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tăng thêm nguồn khí tốt cho ngôi nhà với các loài hoa

Nên bố trí thêm nước và cây trong nhà

Quan niệm của phong thủy cho rằng, dùng cây xanh (Mộc pháp) hoặc mặt nước (Thủy pháp) có thể giúp dương trạch được hài hòa. Do đó, dù không gian sống rộng hay hẹp, khi được bố trí thêm cây và nước thì mọi góc độ sinh hoạt từ vật chất đến tâm linh sẽ đều thanh thoát, sinh động và dễ chịu hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bố trí đúng, cây và nước sẽ mang lại may mắn cho gia chủ
Nếu bố trí đúng, cây và nước sẽ mang lại may mắn cho gia chủ. Ảnh minh họa

Hiện nay, xu hướng chung là mọi người đều mong muốn được gần gũi với thiên nhiên. Ai cũng đều muốn tìm cho mình sự nhẹ nhàng, thanh thoát sau những áp lực của cuộc sống. Ðiều này tạo nên trào lưu tạo sân vườn trong khuôn viên nhà mình.

Tại các ngôi nhà hiện đại, những khu vườn nước ngày càng được ưa chuộng. Một góc vườn, tại cầu thang hay góc nhà… đều có thể được tận dụng để đem lại màu xanh, tạo không gian thư giãn tinh tế cho ngôi nhà. Ngôi nhà rộng thì gia chủ có thể có cả một khu thủy tạ, nếu nhà hẹp, gia chủ cũng chỉ cần một góc sân là đủ.

Bể cá, hồ nước hay non bộ trước nhà còn là điểm tụ thủy và các tiểu cảnh đang rất được ưa dùng trong nhà và sân vườn. Cây bonsai, non bộ thường được sắp xếp tuân thủ theo các thế truyền thống (Tam Ða, Tứ linh, Ngũ hành, Phụ Tử). Đây không chỉ đơn thuần la yếu tố giải trí mà chính là biểu tượng vũ trụ quan thu nhỏ của triết học đông phương. Nước trong non bộ nên bố trí nước động để giúp kích hoạt nguồn khí. Tùy theo đặc thù, chủ đề non bộ hay tính cách giá chủ mà nước này có thể chảy róc rách, thác đổ hay bể tràn.

Ðối với chung cư hay nhà phố, diện tích và các khoảng trống trong nhà thường không đủ để làm am nước và trồng cây lớn, hơn nữa việc đặt non bộ trong nhà còn gây ra ẩm thấp. Vì vậy, gia chủ chỉ nên dùng bể cá có cây tiểu cảnh loại nhỏ.

Quan niệm của ngũ hành là “Thủy sinh Mộc”, cây cối không thể sống và phát triển tốt nếu thiếu nguồn nước. Vì vậy, khi bố trí cây xanh cho dương trạch, cần coi mặt nước và cây xanh là hai yếu tố không thể tách rời. Hai yếu tố này bổ sung, tương hỗ cho nhau. Cây là dương, đón nhận ánh sáng gọi là dương quang và hút nước từ đất (âm thủy). Vì vậy, nhìn cây xem mạch đất chính là nhờ sự liên hệ Thủy Mộc tương sinh.

Đối với nhà ở truyền thống, bố cục cây xanh – mặt nước – công trình theo phong thủy là bố trí hồ nước hoặc ao sen nằm ở phái Nam khu đất tính từ cổng vào sân trước, tức là bố trí ở đầu hướng gió mát để đưa hơi nước lan tỏa trong sân nhà.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên bố trí thêm nước và cây trong nhà

Ý nghĩa hình xăm hổ, báo, sư tử –

Xăm hình mãnh hổ có thể trấn tà, bảo vệ gia chủ, đồng thời cũng có thể chế ngự hung thần. Ý nghĩa chung Hổ là chúa sơn lâm, vua của bách thú, tượng trưng cho sự dũng mãnh và khí phách. Hổ là dương thú, đại diện cho phẩm chất anh hùng. Hổ cũng tượng t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xăm hình mãnh hổ có thể trấn tà, bảo vệ gia chủ, đồng thời cũng có thể chế ngự hung thần.

Ý nghĩa chung

hinh-xam-ho

Hổ là chúa sơn lâm, vua của bách thú, tượng trưng cho sự dũng mãnh và khí phách. Hổ là dương thú, đại diện cho phẩm chất anh hùng. Hổ cũng tượng trưng cho mùa thu và phương Tây. Theo truyền thuyết hổ có thể trấn tà, bảo vệ gia chủ, đồng thời cũng có thể chế ngự hung thần.

Hổ với xăm hình

Xăm hình mãnh hổ có thể trấn tà, bảo vệ gia chủ, đồng thời cũng có thể chế ngự hung thần.

hinh-xam-su-tu

Tương truyền nếu xăm hình hổ không hợp tuổi thì sẽ phạm họa đổ máu, nhất là hình hổ xuống núi. Có người nói, mãnh hổ xuống núi là thể hiện uy lực, trên thực tế mãnh hổ xuống núi tức là đi kiếm ăn, sẽ đả thương người. Nếu xăm hình Mãnh hổ thượng sơn thì mức độ thương hại là khá nhỏ.

Người cầm tinh con lợn, ngựa, chó (người tuổi Hợi, Ngọ, Tuất), tương hợp với hổ, thích hợp xăm hình mãnh hổ. Người cầm tinh con khỉ, rắn (tuổi Thân, Tỵ) không hợp với mãnh hổ, không nên xăm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa hình xăm hổ, báo, sư tử –

Tử Vi Lý Số: Tử vi theo quan điểm khoa học (tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Đài Loan)

Một bài viết về vấn đề Tử vi theo quan điểm triết học của TS Hứa Hưng Trí. Mời bạn đọc tham khảo.
Tử Vi Lý Số: Tử vi theo quan điểm khoa học (tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Đài Loan)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan điểm khoa học về mệnh vận

Tác giả: Tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Đài Loan

VDTT phỏng dịch

(nguyên tác “Mệnh vận đích khoa học quan”, trang 186-195, sách “Tùng khoa học quan điểm khán tử vi đẩu số”, Hứa Hưng Trí, nxb Thời Báo Văn Hóa, Đài Bắc, 1995).

LỜI ĐẦU: Tiến sĩ Hứa Hưng Trí người huyện Cao Hùng, Đài Loan, sinh năm 1934, du học Mỹ và Nhật Bản, tốt nghiệp tiến sĩ dược khoa. Là giáo sư dược, đồng thời là chuyên gia nổi tiếng của Đài Loan về dược liệu và các vấn đề kỹ thuật.

Mặc dầu thuộc giới khoa bảng được huấn luyện trong môi trường khoa học tân tiến, tiến sĩ Trí lại nghiên cứu Tử Vi (dĩ nhiên bằng nhãn quan khoa học) và đạt nhiều thành tựu đáng kể. Bài dưới đây của ông vì thế không chỉ đơn thuần là chỉ trích, mà còn có tính điều chỉnh, sửa sai nhằm giúp khoa tử vi có chỗ đứng khoa học vững chắc hơn.

Để tránh những hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra, dịch giả xin chú thích tại chỗ hai điểm sau:

Thứ nhất: Bài này là quan điểm của tiến sĩ Hứa Hưng Trí. Cá nhân dịch giả mặc dù đồng ý trên đại thể nhưng cũng có nhiều điểm bất đồng. Viết rõ thế để nhấn mạnh rằng bài này được đăng không phải vì dịch giả muốn xiển dương quan điểm của tiến sĩ Hứa Hưng Trí, mà chỉ cốt giúp độc giả biết thêm một quan điểm của giới khoa học ở Đài Loan, nơi mà khoa tử vi vừa trải qua một giai đoạn trăm hoa đua nở kéo dài hơn 20 năm.

Thứ hai, về danh từ “người Trung quốc” xuất hiện vài lần trong bài này. Tình hình chính trị của Đài Loan những năm gần đây rất phức tạp. Có một số khá lớn người Đài Loan không xem mình là người Trung Hoa (mà là người Đài Loan, bản xứ hoặc hậu duệ của người Mân Việt, tức một chi của Bách Việt cổ). Quan điểm này dẫn đến phong trào đòi Đài Loan độc lập và mối họa bị hoa Lục xâm lăng. Để tránh né phần nào hoàn cảnh nóng bỏng này, tiêu chuẩn của chính phủ Đài Loan cũng như giới truyền thông (trong đó có sách báo) là cường điệu ba chữ “người Trung quốc”. Ngắn gọn, khi thấy một người Đài Loan xưng mình là “người Trung quốc” trước công chúng hoặc trên giấy mực, ta đừng vội cho rằng họ nói thật lòng mình.

MỘT

Hai chữ “mệnh vận” trong miệng người Trung quốc thật ra là một danh từ cổ cực kỳ trừu tượng, khó mà định nghĩa rõ ràng.

Thông thường, hơn nửa cho rằng (mệnh vận) do đời trước chủ định, diễn trình hoàn toàn có tính bị động chẳng thể cưỡng lại được; ta vừa sinh ra đã bị an bài trong quỹ đạo của đời sống, không có sự chọn lựa, trượt đi trên con đường độc đạo ngoài sự điều khiển của bản thân, cho đến tận điểm cuối cùng là sự chết, rồi lại đợi khi tiếp tục luân hồi.

Nhận định sai lầm này chẳng qua là một nhân sinh quan ngu xuẩn (chú 1) do tinh tượng mệnh quan của thời cổ đại (chú 2) kết hợp với tôn giáo huyễn hư tạo thành.

Tiến sĩ Lý Ước Sắt (chú 3) cho rằng, trong các hệ tư tưởng cổ đại của Trung quốc thì nho gia và đạo gia tiếp thụ thế giới tương đối có lý tính, còn Phật giáo và đạo giáo (chú 4) thì ức chế sự phát triển của khoa học đông phương. Tạm chưa luận lời phê bình của Lý tiến sĩ là đúng hay sai; ta không thể phủ nhận trong thời cổ đại với sinh hoạt bất an, nơi nơi dẫy đầy tật bệnh tử vong thống khổ sợ hãi, tôn giáo đã cho người dân dưới các chế độ chính trị hà khắc một nguồn hy vọng, một nơi ký thác. Đồng thời ta cũng không thể hoàn toàn bỏ qua tác dụng là khiến người ta trốn chạy thế giới, gây ra ý niệm tiêu cực không dám đối diện thực tế; rốt ráo dẫn đến sự lạc hậu về khoa học.

Trong xã hội quốc tế hiện đại hóa, chúng ta thấy rõ các địa khu càng mê tín thì khoa học càng lạc hậu, xã hội càng nghèo khó, quốc gia càng biến động loạn lạc. Nếu bình thản kiểm thảo đời sống con người, các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến hóa của “tinh thần”, “nhục thể”, và “vật chất” đại ước có thể phân làm ba loại chính:

1. Điều kiện khởi từ ta: Bao quát các điều kiện có tính tiên thiên như tinh thần, tâm lý, nhục thể do thiên phú bẩm sinh, di truyền v.v… và các điều kiện có tính hậu thiên như học tập, nỗ lực, học lực, công việc, kinh nghiệm, cùng với khả năng thích ứng hoàn cảnh v.v…

2. Điều kiện quan hệ nhân tế: Trong thì có lục thân, dòng tộc, gia đình; ngoài thì có điều kiện liên hệ xã hội như bạn học, bạn bè, bạn làm việc, cấp trên, cấp dưới, khách hàng v.v…

3. Điều kiện hoàn cảnh xã hội, hệ thống bên ngoài: Các quy phạm của chế độ như thời đại, tập tục xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị, kinh tế v.v… ảnh hưởng đến vấn đề cơm áo đi lại, và điều kiện hơn thắng kém thua.

“Mệnh” là khái niệm mang nặng tính tiên thiên của những điều kiện “khởi từ ta”: Thân ta không do ta quyết định, mọi điều kiện bất bình đẳng đã có từ lúc ta sinh ra… “Vận” diễn tả sự phát huy, tiêu trưởng biến hóa của điều kiện tiên thiên, là tiết tấu hoặc hình sóng của những ưu điểm hiện rõ hoặc khuyết điểm bạo lộ, những nhân tố chủ yếu tùy mỗi giai đoạn thời gian biến hóa ảnh hưởng đến ý nguyện, tâm thái của cá nhân.

Mười hai cung Tử Vi chưa lường đến các điều kiện hậu thiên “khởi từ ta” như ý hướng thăng cao, nỗ lực, chọn lựa đường hướng v.v… cũng không có công năng trù tính các điều kiện thời đại, hoàn cảnh. Muốn hiểu rõ đời sống của một người, đầu tiên phải biết phối hợp các điều kiện tiên thiên và hậu thiên, biến chúng thành điều kiện cá nhân xem ra sao đã; sau đó lại phải xét xem cá nhân với các điều kiện ngoại tại như thời đại, hoàn cảnh v.v… hợp nhau thế nào, phát sinh những tình huống nào. Ấy bởi vì tiêu chuẩn giá trị vốn tùy theo hoàn cảnh mà khác nhau, điều kiện hơn được kém thua cũng theo đó mà biến hóa. Hai người tư chất giống nhau có thể vì đường đi định bởi ý nguyện, nỗ lực khác nhau mà gặp may mắn hoặc bất hạnh khác nhau; cũng có thể vì hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau mà thành tựu cao thấp khác nhau.

Con người hiện đại không thể không nhận biết sự thật cực kỳ trọng yếu là “Con người là sinh vật của hoàn cảnh”. Điều kiện cá nhân như hạt giống, hoàn cảnh như đất đai khí hậu. Trong hoàn cảnh tốt đẹp cho sự phát triển học thuật ở Hoa Kỳ, các Hoa kiều với tư chất đặc biệt đã có bốn vị được giải Nobel. Chẳng ai dám nói nếu ở lại Đài Loan họ cũng thành tựu tương tự. Sinh hoạt trong cảnh học thuật èo uột của xã hội “quan lớn học vấn cũng lớn” nhất định có nhiều người thông minh tài trí chẳng thua gì bốn vị kể trên nhưng vì thiếu hoàn cảnh nghiên cứu tốt đẹp nên rốt cuộc mai một; đây cũng ví như trong thế kỷ 20 mang hạt lê đến Ả Rập Saudi mà trồng, tuyệt đối chẳng thể kỳ vọng khai hoa kết trái cho được.

HAI

Tìm hiểu mệnh vận chẳng qua là nỗ lực “tri kỷ” (biết ta), với mục đích là phối hợp với “tri bỉ” (hiểu rõ những điều kiện ngoại tại “không phải ta”) để chọn lựa và quyết định con đường thích hợp nhất. Bói toán (chú 5) truyền thống đã diễn giải sai quan hệ này, ru ngủ thường dân, gây ra tai hại hết sức to lớn cho sức sống của dân tộc. Lỗi lầm này không thể tiếp tục dung dưỡng mãi được. Tệ hại nhất là những trò “cải mệnh”, “cải vận” của bói toán. Một số thuật sĩ giang hồ lợi dụng tâm lý bất an, sợ hãi của dân chúng, và nhược điểm của con người là không chịu nhọc công mà muốn được hưởng quả, đặt ra chuyện hối lộ quỷ thần để cải vận. Hành vi tệ hại này một khi tích lũy, bói toán trở thành một loại sinh hoạt hạ tiện xa rời kiến thức hiện đại, không thể không nói là một lỗi sai đáng nhục.

Mệnh vận chẳng qua là điều kiện nội tại của một cá nhân, lực không mạnh bằng điều kiện quần thể của xã hội. Điều kiện quần thể của xã hội lại không mạnh bằng lực tự nhiên của phép tắc khoa học. Xã hội tiến bộ, sự chọn lựa đa dạng hóa, chế độ phép tắc xác định rõ ràng, nghĩa chung của xã hội mở rộng; trong hoàn cảnh khách quan đó mà ỷ lại vào thủ thuật bất thường “quậy nước mò cá” thì khả năng thành công càng ngày càng giảm. Cho nên, chỉ khi nào điều kiện trong ngoài phối hợp tốt đẹp, cát hung trong việc đoán mệnh mới có ý nghĩa. Như một em bé thiên tư thông huệ được thầy giỏi chỉ dạy, gia đình tài bồi, thêm hoàn cảnh xã hội giúp cho thi triển, thì mới có thể sáng tạo bùng vỡ; lại như một nhân viên công chức trừ phi lạm dụng đặc quyền phạm pháp tham ô không kể, khi đến tài vận chẳng thể nào có “tài” gì để phát, tài vận thêm tốt cũng chỉ là chuyện nói chơi thôi; (lại như) một vị học giả kiên trì nghiên cứu, gặp cung tài hóa ba Kỵ (chú 6) thì có “tài” gì để mà phá?

Trong đời sống hiện thực, tuyệt nhiên không có chuyện giản dị là “vào hạn tốt nhất định tốt, vào hạn xấu nhất định xấu”. Trong xã hội Đài Loan bảo thủ khép kín, năng lực của một người không quan trọng bằng quan hệ giao tế; muốn thăng chức đầu tiên phải nói đến quan hệ, kế đó mới đến năng lực. Một phần của quan hệ đến từ yếu tố tiên thiên (như con nhà gia thế chẳng hạn), một phần đến từ yếu tố hậu thiên do ta kinh doanh; nhưng trừ phi cố gắng tu trì, biến cải tâm thái, không nhiều thì ít cũng bị yếu tố tiên thiên lấn áp.

BA

Trong xã hội khác nhau, hoàn cảnh sinh tồn khác nhau, cách định giá mệnh cách tốt xấu cũng có nặng nhẹ khác nhau, đó chính là cái lý “thích ứng sinh tồn, hơn thắng kém thua”. Hiểu rõ thực tế ấy thì mới đào sâu được cái lợi ích tích cực của mệnh vận, chứ không phải là dùng mệnh vận làm nguồn an ủi, trốn chạy cái cảm giác thất bại. Có một số sinh viên đại học nghiên khảo tử vi chủ trương đặt giá trị của mệnh lý vào tầng diện tiêu cực, coi quan điểm cho rằng số mệnh không cưỡng được như một loại tôn giáo tín ngưỡng dựa trên tâm lý bình thường. Tôi thấy đây chẳng phải là điều hay, phản lại e là tăng cái nguy của họa ngu dân.

Cách cải vận chân chính là gặp điều kiện ứng với hoàn cảnh bất lợi thì dùng phép tắc khoa học, suy luận tri thức và công phu cá nhân để giảm thiểu những cảm tính, tâm thái khuyết hãm, bất lợi đến tự chính ta; cơ bản là điều chỉnh lực điểm của điều kiện chủ quan đến từ ta, rồi lại tái điều chỉnh cho đến khi điều hòa với hoàn cảnh bất khả kháng. Bởi thế, cải vận chẳng phải là chuyện nhẹ nhàng dễ làm, càng không phải là chuyện hối lộ các quỷ thần có tiếng huyền diệu; mà là đi thuyền trên giòng nước ngược, là nỗ lực phản lại cái ý đến từ ta, và khắc phục cái xung động của cảm tính, thêm vào với việc vận dụng tri thức khoa học và hoàn cảnh xã hội để tự giúp ta phát triển.

Người Trung quốc rất trọng “quý nhân”. Họ bị hấp dẫn hơn hết bởi tình tiết “anh hùng cứu mỹ nhân” trong ca, kịch, sách, tiểu thuyết, theo công thức “mưa đúng lúc”, giữa lúc hiểm nguy đột nhiên quý nhân xuất hiện. Thanh Thiên đại nhân một lúc thành kẻ chịu hàm oan, không người giúp đỡ, ký thác tâm linh… Muốn thâm cứu mệnh học, không thể để rơi vào loại bệnh thái kỳ cục này.

Người Trung quốc cũng rất thích nói đến “duyên phận”. “Duyên” căn bản là ngôn ngữ tôn giáo nhưng đã thấm sâu vào cái ý niệm trừu tượng đầy tính bị động, không-thể-cưỡng-lại-hoàn-cảnh của họ. Hơn nghìn năm nay, quan điểm này đã thấm sâu vào mô thức suy nghĩ, thành một cách trốn thoát khỏi trách nhiệm: Sinh ly tử biệt thì nói là duyên tận, hôn nhân thành bại tất (nói) là do tiền thế chi phối.

Người bạn tôi có cô con gái đã ba mươi tuổi chưa lập gia đình. Cha mẹ mười phần nóng nẩy, muốn biết khi nào mới gả con đi được. Sau khi phân tích ra týp tâm lý của tiểu thư (chú 7), tôi phát hiện cô là người cẩn thận, nội hướng lại nghiêm túc. Tôi bảo với người bạn rằng, giả như chờ quý thiên kim (chú Posted Image tự đi tìm đối tượng, đợi lương duyên, rất có thể sẽ lỡ hết thời xuân. Như quả muốn tính chuyện hôn nhân, cha mẹ phải tích cực động viên thân bằng quyến thuộc giới thiệu đối tượng, tạo cơ hội cho con gái mình, cho con mình được tiếp xúc nhiều, có nhiều sự lựa chọn. Riêng bản thân cô con gái cũng cần biết khuyết điểm của mình, chú ý lựa chọn người phù hợp, không thể quá phần khó tính.

Đây chỉ là chuyện thường thức đơn giản, (vậy mà) vợ chồng người bạn tôi nghe qua như nằm mộng bừng tỉnh dậy, cám ơn tôi liền ba bốn bận. Hiện trạng loại này khiến ta cảm khái, tự hỏi những huyền thoại (chú 9) truyền thống đã hại bao nhiêu người Trung quốc rồi!

BỐN

Tóm lại, trong ba điều kiện lớn ảnh hưởng đến đời người đã trình bày ở trên, mệnh vận mặc dù có tùy cá nhân mà khác biệt, song không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Cho nên, lấy tất cả những tế ngộ của đời người quy về mệnh vận là một loại chạy trốn hiện thực, một hành động co rụt lìa xa thường thức.

Nhiều trường hợp tế ngộ, có một số cái nhân khởi từ ta hoặc cái nhân dính líu đến ta đóng vai trò quan trọng thì thuộc phạm trù tham thảo của mệnh vận. Nhưng cũng có chẳng ít trường hợp tế ngộ do nguyên nhân ở ngoài ta (vượt quá ta) tạo thành, thì chẳng thể nào dùng mệnh vận mà nghị luận được.

“Mệnh vận” và “tao ngộ” tuyệt nhiên không phải là hai từ đồng nghĩa; sự phân biệt này hết sức quan trọng. Người xưa vì không biết mà cuồng vọng, vọng tưởng; giảng ra rằng đời sống nhất luật là quan hệ nhân quả; như có người sinh ra đã lắm bệnh, khiến gia đình hao hết gia tài, rồi chết đi ở tuổi ấu thơ; người xưa bảo “Đó là chủ nợ kiếp trước, kiếp này lại đòi nợ!” Ai mà biết chuyện kiếp trước? Ước đoán quá nhiều cốt cho phù hợp với thần thoại chẳng phải là văn hóa lành mạnh. Thiên tai nhân họa chẳng phải mệnh vận, có người bị chết, có người được cứu, nhất định nguyên nhân chẳng phải là điều kiện đến từ ta hết cả, mà còn có một phần do xác xuất, ngẫu nhiên nữa. Mệnh vận rốt ráo chỉ là những điều kiện cá nhân bao hàm trong 12 cung tử vi mà thôi, không hơn và không kém.

Hình vuông lớn bằng bốn cung ở giữa lá số (ứng với) cái lớn của “thái nguyên thuật”, “thái” ám chỉ cấp tuyệt đối, thuộc điều kiện ngoại tại ngoài tầm tay của ta (chú 10); cộng với giáo dục, cảnh ngộ là những yếu tố hậu thiên. Lý này phải được tôn trọng, không thể tùy ý thổi phồng thành sai hỏng, tạo ra sự siêu việt vô lý. Lên lớp, đi thi rõ ràng là cạnh tranh dựa vào trí lực và nỗ lực tích lũy lâu năm; giải quần vợt rõ ràng là loại tỉ thí đòi hỏi công trình tập luyện dài lâu về kỹ thuật cũng như thể lực; tưởng rằng có thể mang lý tiêu trưởng của lưu niên ra dự đoán thắng thua là tự căn bản đã rời xa cái phép tắc của kinh nghiệm là “phải có nhân trước rồi mới bàn đến quả”.

Không chịu nhìn thẳng vào cái giới hạn của mệnh vận, lầm lẫn cho rằng mệnh vận quyết định tất cả; tìm hiểu mệnh vận như thế thì biến thành một người đầu óc chất phác giải đáp một câu đố khó, so với chuyện chơi xổ số ở Đài Loan nào có khác gì (xem thêm phần chú thích của tác giả ở cuối bài).

Một người bạn nghiệp dư (chú 11) trình độ đại học bảo tôi rằng những lý luận mà tôi đề ra đều đúng, các xã hội dân chủ pháp trị quả như thế, nhưng mà nhiều lá số ông đã xem qua lại chẳng hoàn toàn như thế, bởi vì nhiều hoàn cảnh thực tế không tuân theo diễn biến thường tình, có khi ở chỗ không bảng mà đưa bảng ra -tức là làm ngược- lại thành ra có kết quả. Vì vậy ông hoài nghi, chẳng biết đoán mệnh có thuộc loại thuật dự đoán không dựa trên lý lẽ hay không. Tôi thì chẳng thấy như vậy. Thuật đoán mệnh đáng tin cậy tất phải có căn cứ và phương pháp, tuyệt chẳng thể đoán loạn xạ như người đánh bạc. Xã hội có một số sự kiện dị thường, đó là do những chuyện kỳ cục phát triển mà thành, như theo pháp luật lẽ ra bị xử thua, nhờ tặng hồng bao (chú 12) mà được xử thắng, đó chỉ là luật thường của hoàn cảnh, chẳng thể coi là việc không lường được. Ở một số quốc gia lạc hậu, giết người “có lý do” có thể được miễn tội, với các xã hội văn minh đây quả là chuyện kỳ cục, nhưng ở các quốc gia ấy lại là chuyện thường tình.

Luận mệnh phải suy tư tận lẽ về hiệu ứng của các nhân tố này, bởi chúng và 12 cung tử vi là hai loại dữ kiện khác nhau, thiên vạn không thể trộn vào nhau thành một chuyện. Những việc mà 12 cung tử vi diễn tả toàn thuộc về điều kiện cá nhân, và thiên về các hình loại bẩm sinh, chỉ là tín hiệu về các hình loại có tính lịch sử đã được biết rồi. Nếu muốn căn cứ vào đó mà đoán con người trong một hoàn cảnh nào đó, trong một cảnh ngộ hoặc thất bại nào đó sẽ phản ứng ra sao, qua một diễn trình lịch duyệt, tập luyện sẽ thành tựu thế nào thì tất phải nghiên khảo xem các nhân tố nội ngoại hỗ ứng ra sao, lại phải thêm ý nguyện, nỗ lực cá nhân vào mà cân nhắc định lượng; những yếu tố này tuyệt chẳng đơn thuần nằm hết trong mệnh lý. Phép luận này đòi hỏi học thức cao thâm, kinh nghiệm dạn dày, lịch duyệt quảng đại, bác học tinh thông nhân tình thế thái mới mong làm nổi. Lời bàn thống hợp cũng chỉ là một tấm địa đồ dùng để tham khảo, không thể bảo đảm nhất định phải ra như vậy.

Đời sống con người là một kết quả của nhiều biến số kết hợp chồng chéo phức tạp với nhau. Những gì chúng ta lấy hết sức bình sinh ra tìm hiểu được chẳng qua chỉ là những phần hiện ra ngoài, những mạch thô sơ chính yếu mà thôi. Tuyệt đối chẳng thế nào nắm vững các tình tiết li ti. (Thế nhưng) Lấy kinh nghiệm ấy làm kim chỉ nam cho đời sống, nói chung vẫn hơn kẻ mù mò mẫm rất nhiều. Giá trị của việc tìm hiểu mệnh lý chính là như vậy.

Đối với sự kiện mệnh lý không chính xác lắm, chỉ có thể họa cho ta những nét chấm phá các bạn trẻ chắc chắn cảm thấy vô cùng thất vọng. Chúng ta khát vọng một phép dự đoán tương lai có tính khẳng định, rõ ràng mà lại chính xác. Khoa học hiện đại không thỏa mãn được khát vọng ấy. Phép đoán mệnh truyền thống mạnh miệng bảo đảm là thỏa mãn được, nên (các bạn ấy) mới nguyện ý tin tưởng mệnh vận. (Thiết nghĩ các bạn ấy) cần phải điều chỉnh tâm lý này lại cho phù hợp với tri thức trưởng thành. Thế gian vốn có rất nhiều sự thật chúng ta không thích mà chẳng thể nào thay đổi được./ &n bsp;

Hứa Hưng Trí, 1995

VDTT phỏng dịch

5 tháng 8, 2005

Phần chú thích của tác giả Hứa Hưng Trí

Nếu chỉ đơn thuần dựa vào mệnh vận cá nhân mà xác định được thành bại; rõ hơn nếu sự thành bại trong sự nghiệp, việc sống chết của con người đều do mệnh vận quyết định mà không cần biết đến yếu tố khách quan nào khác, thì ta có thể tiến hành một cuộc thí nghiệm phản chứng. Chúng ta kiếm một người có mệnh cách vinh hoa phú quý, tại lưu niên có ba Lộc giao trì (chú 6), rồi bảo người ấy nằm trên đường rầy xem thử có bị xe lửa cán chết không. Nếu cán không chết thì quả đúng là vận tốt xe lửa cán không chết. Tôi dám lấy hết tài sản đánh cuộc với bất cứ ai là người ấy sẽ bị cán dẹp vụn, máu thịt bầy nhầy.

Đài Loan có câu tục ngữ “tiền không có hai đồng không kêu”, mọi hiện tượng muốn phát sinh tối thiểu phải có nội nhân tố và ngoại nhân tố; toán học gọi là điều kiện cần và điều kiện đủ. Mệnh vận là nội nhân tố, điều kiện khách quan và phép tắc khoa học là ngoại nhân tố. Ngoại nhân tố mạnh hơn nội nhân tố nhiều (người xưa nói là “hình thế mạnh hơn người”, dân Đài Loan thì nói “chiếm được địa vị tốt thì thắng Đổng chưởng pháp”). Cho nên chỉ có nội nhân tố không thể xem là tất nhiên được. Thành công tương đối khó khăn là vì nội ngoại nhân tố phải phối hợp hoàn mỹ. Thất bại tương đối giản dị vì chỉ cần -hoặc nội nhân tố hoặc ngoại nhân tố- một trong hai có vấn đề. Chẳng hạn như muốn xe hơi chạy được tất nhiên công năng của mỗi bộ phận đều phải ở trong tình trạng chính thường; nhưng muốn chạy không nổi chỉ cần tháo bỏ vít lửa hoặc gỡ một bánh mang đi là xe phải dừng ngay. Ngoại nhân tố vượt quá sức của cá nhân, chẳng thể khống chế hoặc đối kháng. Chúng ta chỉ có thể nắm vững và khống chế được nội nhân tố. Phương sách là hiểu rõ và điều chỉnh nội nhân tố, rồi phối hợp với ngoại nhân tố mà tranh thủ cơ hội, giảm thiểu tai hại. Nhận rõ được quan hệ này thì nghiên cứu mệnh vận mới có giá trị./

VDTT phỏng dịch

Phần chú thích của dịch giả

  1. Lời phê bình này khá nặng nề. Dịch giả không đồng ý, nhưng quyết định giữ nguyên ý để độc giả rộng đường luận xét.
  2. “Tinh tượng mệnh quan” rất khó dịch xuôi, đại khái là khái niệm về số mệnh khởi từ những hiện tượng thiên văn mà người xưa quan sát thấy và cho là có liên hệ mật thiết với đời sống.
  3. Tác giả Hứa Hưng Trí cũng không chú thích nên dịch giả không rõ tiến sĩ Lý Ước Sắt là nhân vật nào.
  4. Tiến sĩ Lý Ước Sắt có vẻ phân biệt đạo gia và đạo giáo, không hiểu dựa trên cơ sở nào. Người Việt ta nói chung đều coi là một, thuộc hệ suy tư Lão Trang cả.
  5. Nguyên văn là “Túc mệnh”; rất khó dịch. Hai chữ “bói toán” chỉ là phỏng dịch mà thôi.
  6. Đây là cách xem dựa trên lưu tứ hóa khá thông dụng ở Đài Loan. Như sinh năm Giáp ở Tuất có Thái Dương hóa Kỵ, khi đại hạn vào Tuất thì Thái Dương bị thêm đại hạn Kỵ, trong đại hạn ấy lưu niên vào năm Giáp tất lưu niên hóa Lộc cũng ứng vào Thái Dương, là thêm một Kỵ nữa, thành ba Kỵ (nguyên thủy, đại hạn, lưu niên). “Ba Lộc giao trì” là ba sao hóa Lộc cùng cung hoặc xung chiếu.
  7. Cách phân tích này nói chung phối hợp hai phái phân tâm của Adler và Jung. Ở Hoa Kỳ được xử dụng khá nhiều để nhận định cá tính con người.
  8. Con gái người ta, mình tỏ ý trọng thì gọi là “quý thiên kim”. “Quý thiên kim” đây tức cô gái 30 tuổi đã đề cập ở trên.
  9. Tác giả dùng chữ “mê tư” là chữ phiên âm có nghĩa của danh từ Anh ngữ “myth”. Myth nghĩa là huyền thoại nên đây chỉ dịch là “huyền thoại”.
  10. Đoạn này ngắn nhưng rất khó hiểu. Dịch giả không chắc đã dịch đúng nghĩa mong muốn của tác giả. Âm Hán Việt nguyên văn là “Tại mệnh bàn cách thức trung ương đích đại tứ phương cách – ‘Thái nguyên thuật’ đích đại ‘Thái’ đích tuyệt đối hạng”. (Vì ở phần khác của sách ông Trí cho rằng Tử Vi được gợi ý từ thuật Thái Nguyên, một phép tính đại số do toán học gia Chu Thế Kiệt đời Nam Tống nghĩ ra) dịch giả phỏng đoán ý của ông Trí là: Hình vuông lớn ở giữa lá số tử vi vì lớn bằng 4 cung nên phải ứng với những yếu tố tối quan trọng, nhưng cung này tử vi không an sao, có nghĩa đây là yếu tố quan trọng mà khoa tử vi không biết nổi.
  11. “Bạn nghiệp dư” đây ắt hẳn là bạn nghiên cứu tử vi. Vì có nghề nghiệp khác, nên tử vi chỉ là “nghiệp dư” thôi (tác giả, tức tiến sĩ Hứa Hưng Trí, cũng thế).
  12.  “Hồng bao” nguyên là bao giấy đỏ đựng tiền lì xì, ở Đài Loan khi tặng tiền người ta cũng hay dùng phong bì đỏ, nên “tặng hồng bao” là tiếng lóng thông dụng, ám chỉ việc hối lộ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Lý Số: Tử vi theo quan điểm khoa học (tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Đài Loan)

Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Trong phong thủy có cách nhận biết như nào cho người phụ nữ khắc chồng không ạ? Mình có nghe nói nhiều đến vấn đề này nhưng lại thiếu thông tin, các bạn cung cấp cho mình chút thông tin với ạ? Mình rất cảm ơn ạ! Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rấ
Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Giải nghĩa sao Tham lang trong lá số Tử vi –

Sao Tham Lang trong lá số Tử Vi chính là hóa thân của Đắc Kỷ - một người đàn bà xinh đẹp nhưng dâm đãng, lẳng lơ bên cạnh Trụ Vương. Chính vì vậy, sao Tham Lang tượng trưng cho mẫu người nhiều dục vọng, có khả năng nghệ thuật, ưa chơi bời, đa dục, tử
Giải nghĩa sao Tham lang trong lá số Tử vi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tham Lang trong lá số Tử Vi chính là hóa thân của Đắc Kỷ – một người đàn bà xinh đẹp nhưng dâm đãng, lẳng lơ bên cạnh Trụ Vương. Chính vì vậy, sao Tham Lang tượng trưng cho mẫu người nhiều dục vọng, có khả năng nghệ thuật, ưa chơi bời, đa dục, tửu sắc. Tuy nhiên còn phải xét thêm về vị trí và các trung tinh đi kèm Thang Lang trong một lá số.
Đặc điểm sao Tham Lang.Tuvikhoahoc.com

– – Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
– – Tính: Âm
– – Hành: Thủy
– – Loại: Hung Tinh, Dâm Tinh
– – Chủ về: Họa phúc, uy quyền
– – Tên gọi tắt: Tham

sao-tu-vi-1387874084

Vị trí Tham Lang ở các Cung

– – Miếu địa ở các cung Sửu, Mùi.
– – Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất.
– – Đắc địa ở các cung Dần, Thân.
– – Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Tham Lang là Sao thứ 3 thuộc chòm Thiên Phủ và cũng là sao chính trong 14 chính tinh. Chòm Thiên Phủ hợp cùng Chòm Tử vi sẽ tạo thành 14 chính tinh. Chòm Thiên Phủ bao gồm các sao an theo Thiên Phủ: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Tham Lang ở cung Mệnh

Ý nghĩa ngoại hình, tướng mạo, tính cách:

+ Cung Mệnh có Tham Lang miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ, nên thân hình cao lớn, đẫy đà, da trắng, mặt đầy đặn, lông tóc, râu rậm rạp, có ẩn tinh, (Miếu địa: có nốt ruồi kín) khá thông minh, tính trung hậu, nhưng hiếu thắng và tự đắc, ưa hoạt động, có óc kinh doanh, có tài tổ chức, lòng tham dục không bờ bến, hay, mưu tính những việc to lớn, làm việc gì cũng muốn chóng xong, nhưng chỉ chuyên cần siêng năng buổi đầu, rồi về sau sinh lười biếng, chán nản và bỏ dỡ, lại thích lui tới những chỗ đông người ồn ào thích ăn ngon mặc đẹp, choi bời cho thỏa chí.

+ Tham hãm địa, nên thân hình cao vừa tầm, hơi gầy da thô xấu, mặt dài, không được đầy đặn, tiếng nói to, kém thông minh.

+ Tham hãm địa, Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi là người gian hiểm, tham lam, có nhiều dục vọng, cũng có kinh doanh nhưng không quả quyết, không bền chí, lại thêm tính dâm dật, chơi bời hoang đãng.

– Nam mệnh

+ Tham miếu, vượng hay đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, là người tài giỏi thao lược, thường hiển đạt về võ nghiệp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy danh lừng lẫy và phúc thọ song toàn.

+ Tham hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn,
phải lang thang phiêu bạt, có nhiều bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở bộ
sinh dục, thường mắc những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào xích xiềng và dĩ
nhiên là yểu tử.

– Nữ mệnh

+ Tham miếu, vượng hay đắc địa tọa thủ Mệnh, là người tài giỏi, đảm đang, gan góc, bạo tợn, hay ghen tuông, nhưng hưởng giàu sang và sống lâu. Nếu Tham gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, phúc thọ song toàn.

+ Tham hãm địa, phải muộn lập gia đình, hay lấy kế lấy lẽ mới tránh được mấy độ buồn thương.

+ Tham hãm địa, Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi là người gian tham hiểm độc, dâm dật, hay lăng loàn, suốt đời vất vả, có nhiều bệnh tật, thường mắc những tai nạn đáng lo ngại, nếu không sớm ly tổ, tất không thể sống lâu được.

+ Tham hãm địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, lại có nhiều bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở bộ sinh dục, thường hay mắc những tai nạn khủng khiếp và dĩ nhiên là yểu tử.

Ý nghĩa công danh tài lộc

+ Sao Tham Lang ở cung đắc địa trở lên thì giàu sang. Nhưng vì Tham Lang là sao Bắc Đẩu nên càng về già càng thịnh vượng, an nhàn, sung sướng. Nếu có thêm cát tinh, thì mức tài lộc, công danh càng tăng. Nếu đồng cung với Kỵ thì buôn bán giàu có.

+ Tham miếu, vượng hay đắc địa, tất được hưởng giàu sang và sống lâu.

+ Tham miếu địa, lúc thiếu thời vất vả, chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng. Nhưng từ ngoài 30 tuổi trở đi, thật là phú qúy song toàn và càng về già lại càng sung sướng an nhàn.

+ Tham miếu, vượng hay đắc địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc hay Hỏa Linh đắc địa, chắc chắn là được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy quyền hiển hách, danh tiếng lừng lẫy và sống lâu.

+ Tham vượng địa, gặp Kỵ hoặc đồng cung hoặc xung chiếu, tất buôn bán, kinh doanh mà nên giàu có.

+ Tham Lang hãm địa Tý, Ngọ, Hợi thường là người đi theo nghề kỹ nghệ, thủ công, hay đi buôn nhưng suốt đời lao khổ, hay bị phá ngang bỏ dở nửa chừng, nửa đời sau mới có chút danh phận, sự nghiệp.

Ý nghĩa phúc thọ tai họa

+ Tham hãm địa Mão Dậu là người yếm thế, làm việc gì cũng thất bại, và hay gặp những sự chẳng lành. Chỉ có tu hành mới mong được yên thân và hưởng phúc thọ.

+ Tham hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình thật là chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, có nhiều bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, giọng ở bộ tiêu hóa, hoặc ở bộ sinh dục, thường mắc những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào xích xiềng, và dĩ nhiên là yểu tử.

+ Tham, dù miếu, vượng, đắc hay hãm địa, hoặc gặp Kỵ đồng cung, hoặc gặp Riêu đồng cung, tất hay bị bắt bớ giam cầm, nếu không, thật là khó tránh thoát được tai nạn sông nước.

Những Bộ Sao Tốt

Tham Lang, Hỏa Tinh đồng cung miếu địa hay Tham Lang, Linh Tinh đồng cung miếu địa: phú quí tột bậc, danh tiếng lừng lẫy. Rất hiển đạt về võ nghiệp. Rất tốt cho hai tuổi Mậu Kỷ vì ứng hợp với cách này.

Tham Lang, Trường Sinh ở Dần Thân: Sống rất lâu.

Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung ở Tứ mộ: thì ngoài 30 tuổi công danh, sự nghiệp mới có sự tiến triển tốt đẹp, làm nên sự nghiệp nhưng phải có thêm cát tinh nhiều ở Mệnh. Nếu thêm cả Hỏa Linh thì rất quí hiển. Nhưng nếu cung Thân ở Tứ mộ có Tham Vũ thì lại là hạ cách, không quí hiển được, nhất là thiếu cát tinh.

Các cách trên nếu có thêm sao tốt như Khoa, Quyền, Lộc, Xương, Khúc, Tả, Hữu thì rất tốt cả về công danh, tài lộc, phúc thọ, tâm tính.

Những Bộ Sao Xấu

Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung gặp Phá Quân: Lụy thân vì sa đọa tửu, sắc.

Tham Lang, Liêm Trinh đồng cung ở Tỵ, Hợi: Con trai đàng điếm, du đãng, con gái dâm dật đĩ thõa, giang hồ. Chỉ có sao Hóa Kỵ hay Tuần Triệt mới hóa giải được bất lợi này.

Tham Lang, Liêm Trinh ở Dần Thân gặp Văn Xương đồng cung: Phải có phen bị tù hình khổ sở (nếu thiếu sao giải).

Tham Lang, Liêm, Tuyệt, Linh đồng cung: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).

Tham Lang, Liêm, Kình, Kiếp Không, Hư Mã: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).

Tham Lang, Kình (hay Đà đồng cung) ở Tý Hợi: Giang hồ, lãng tử, chơi bời lang thang hay hoang đàng. Nếu ở Dần thì còn bị đánh đập vì chơi bời.

Tham Lang, Thất Sát: Trai trộm cướp, gái giang hồ; nếu thêm hung tinh thì nguy hiểm càng tăng.

Tham Lang, Thất Sát, Tang Môn, Bạch Hổ ở Dần, Ngọ: Bị sét đánh, thú cắn.

Tham Lang, Không Kiếp ở Mão Dậu: Đi tu phá giới.

Tham Lang Đào, Tham Lang Hồng hay Tham Lang Liêm: Dâm đãng, lăng loàn. (Nếu gặp Tuần Triệt thì đoan chính).

Tham Lang ở Cung Phụ Mẫu

– Bất cứ tại vị trí nào cũng sớm khắc một trong hai thân. Nếu không, cũng phải xa cách hai thân.

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: cha mẹ giàu có, nhưng con không được thừa hưởng. Trong nhà thiếu hòa khí.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: hai thân túng thiếu, bất hòa, hay xa cách nhau, cha mẹ không hợp tính con.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: cha mẹ bình thường. Trong nhà thiếu hòa khí. Nên làm con nuôi họ khác.

– Tử đồng cung: cha mẹ bình thường. Nên làm con nuôi họ khác. Nếu không, tất sớm xa cách một trong hai thân.

– Liêm đồng cung: cha mẹ khốn cùng hay mắc tai ương và xa cách nhau. Sớm lìa bỏ hai thân.

– Vũ đồng cung: cha mẹ giàu, nhưng con không hợp tính cha mẹ. Trong nhà thiếu hòa khí.

Tham Lang ở Cung Phúc Đức

– Âm phần: Tham Lang: mộ tổ xa đời (thường là sáu hay bảy đời). đất nổi cao như hình con chó ngồi, sắc đen như bùn có nhiều cây cỏ mọc rậm rạр.

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: được hưởng phúc. Về già rất sung sướng. Trong họ nhiều người giàu có, nhưng thường lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: Không được hưởng phúc dồi dào, nhưng cũng sống lâu. Họ hàng bình thường, có nhiều người lập thân bằng võ nghiệp.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: bạc phúc nên giảm thọ. Phải lập nghiệp ở xa quê hương, phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, càng ngày càng sa sút, lại có nhiều người rất dâm đãng.

– Tử đồng cung: suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng, giảm thọ vì bạc phúc. Họ hàng ly tán, người nào khá giả lại chết sớm.

– Liêm đồng cung: giảm thọ, khó tránh được tai ương, họa hại. Trong họ có nhiều người bần hàn hay mắc tù tội, thường phải bạt quán xiêu cư.

– Vũ đồng cung: được hưởng phúc sống lâu. Về già, lại càng xứng ý toại lòng. Trong họ thường có người giàu sang hay hiển đạt về võ nghiệp.

Tham Lang ở Cung Điền Trạch

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: phá tán tổ nghiệp, hay phải lìa bỏ tổ nghiệp. Nhưng về sau mua tậu khá nhiều nhà đất.

– Đơn thủ tại Dần, Thân, Tý, Ngọ: nếu có nhà đất của tổ nghiệp để lại, rồi cũng phá tán hết hay là phải lìa bỏ mà không được thừa hưởng. Gây dựng cơ nghiệp rất vất vả, chật vật may mắn lắm về già mới có nhà ở chắc chắn.

– Tử đồng cung: không gìn giữ được tổ nghiệp, về sau sa sút

– Liêm đồng cung: nhà đất của tổ nghiệp để lại khá nhiều, nhưng không được thừa hưởng. Về già cũng không có nơi an chốn ở chắc chắn.

– Vũ đồng cung: có nhà đất của có nghiệp để lại nhưng rất ít, không đáng kể. Tự tay lập nghiệp. Tuy vậy, phải ngoài ba mươi tuổi, mới có nhà đất chắc chắn.

Tham Lang tại cung Quan Lộc

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: võ nghiệp hiển đạt. Nếu buôn bán kinh doanh, cũng được xứng ý toại lòng.

– Đơn thủ tại Dần, Thần: có chức vị quân sự nhưng nhỏ thấp. Suốt đời không được toại nguyện. Công danh trắc trở nhưng nếu buôn bán lại phát đạt.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: chức vị nhỏ thấp, thăng giáng thất thường, là hạng tham quan ô lại

– Tử đồng cung: bình thường. Nếu công danh rực rỡ, tất sinh tai họa.

– Liêm đồng cung: có võ chức, nhưng nhỏ thấp. Trên đường công danh thường gặp nhiều trở ngại, tai ương, nhất là hình ngục. Chỉ có lánh mình ra khỏi chỗ lợi danh, mới được an toàn.

– Vũ đồng cung: giàu có và thành công trong việc kinh doanh, buôn bán. Nếu có danh chức, cũng chỉ sau một thời gian ngắn lại trở về thương trường. Lúc thiếu thời mọi sự chẳng được hành thông, từ 30 tuổi trở đi, mới được xứng ý toại lòng.

Tham Lang ở Cung Thiên Di

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: dễ kiếm tiền, hay gặp qúy nhân.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: ra ngoài rất bất lợi, hay gặp những sự phiền lòng, sau này chết ở xa nhà.
– Đơn thủ tại Dần, Thân: hay mắc tai nạn, xa nhà rất bất lợi.

– Tử đồng cung: rời khỏi nhà hay gặp những sự phiền lòng, may ít rủi nhiều, thường có kẻ tiểu nhân theo dõi quấy rối. Sau này chết ở xa nhà.

– Vũ đồng cung: buôn bán phát tài, trước khó sau dễ, hay gặp sự cạnh tranh ráo riết.

– Liêm đồng cung: ra ngoài tất bít lợi, hay gặp những tai ương bất kỳ, nhất là về hình ngục hay kiện tụng. Qúy nhân ít gặp, còn tiểu nhân, ác nhân, lúc nào cũng sẵn sàng làm hại.

Tham Lang ở Cung Tật Ách

– Đơn thủ tại Dần, Thân: bệnh ở chân

– Đà đồng cung tại Dần, Thân: mắc tai nạn xe cộ hay bị súc vật cắn đá, nếu không, cũng vì ăn uống mà sinh bệnh khó chữa.

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: thú dữ cắn đá, nếu không, cũng mác tai nạn xe cộ rất nguy hiểm.

– Hổ đồng cung tại Tuất: thú dữ cắn chết

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: chơi bời mà mắc bệnh.

– Kỵ đồng cung: tai nạn sòng nước.

– Lương, Kỵ: mác kiện cáo tù tội.

– Riêu đồng cung: mắc tai nạn sông nước, hay mang bệnh phong tình.

Tham Lang ở Cung Tài Bạch

– Đơn thủ tai Thìn, Tuất: hoạnh phái tiền tài, kiếm tiền nhanh chóng và dễ dàng, càng về già càng giàu có.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: hoang phí, chơi bời nên hao tán, suốt đời túng thiếu.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: tiền vào tay này sang tay kia.

– Tử đồng cung: bình thường, được hưởng của hương hỏa để lại, nhưng về sau cũng suy kém.

– Liêm đồng cung: túng thiếu, suốt đời khổ sở vì tiền. Hay mắc tai họa vì tiền, nhất là kiện tụng và hình ngục.

– Vũ đồng cung: từ ngoài 30 trở đi, mới giàu.

Tham Lang ở Cung Tử Tức

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: sinh nhiều nuôi ít. May mắn lắm mới có ba con. Con bất hiếu, bất mục, xung khắc với cha mẹ.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: nhiều nhứt là hai con. Sau con cũng hiển đạt, nhưng không hợp tính với cha mẹ.

– Đơn thủ lại Tý, Ngọ: sinh nhiều nuôi ít. May mắn lắm mới có một con. Nhưng con chơi bời hư hỏng, lúc bé khó nuôi, lớn lên lại khó dạy.

– Coi Tử Vi (Tham đồng cung) – Liêm Trinh (Tham đồng cung) – Vũ Khúc (Tham đồng cung).

Tham Lang ở Cung Phu Thê

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: trai lấy được vợ giàu, tài giỏi nhưng hay ghen, gái lấy được chồng sang nhưng hay chơi bời. Nên muộn lập gia đình để tránh những hình khắc hay chia ly.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: trai lấy phải vợ hay ghen và dâm đãng. Gái lấy phải chồng nghèo hay hoang đãng lưu manh. Nên muộn đường hôn phối, vì dễ gặp nhau để rồi lại dễ xa nhau, hay hình khắc nhau.

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: nhận xét như trên nhưng vợ nên là con gái trưởng.

– Tử đồng cung: muộn lập gia đình mới mong được bách niên giai lao. Nhưng dù sao chăng nữa, trong nhà cũng hay có sự bất hòa vì một trong hai người hay ghen tuông.

– Liêm đồng cung: vợ chồng ở với nhau hay sinh tai họa, dễ gặp nhau lại dễ bỏ nhau, nếu không cũng sớm khắc.

– Vũ đồng cung: nên muộn lập gia đình, vợ chồng phải chênh lệch nhau nhiều tuổi. Cả hai đều tài giỏi đảm đang nhưng nếu sớm đường hôn phối tất bị hình khắc.

Tham Lang ở Cung Huynh Đệ

– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: hai người.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: một người

– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: may mắn lắm mời có một người, nhưng hay chơi bời, suốt đời lang thang đây đó. Đôi khi lại có thêm nhiều anh chị em dị bào rất khá giả.

– Tử đồng cung: nhiều nhất là ba người, thường ly tán và vất vả trên đường đời.

– Liêm đồng cung: may mắn lắm mới có hai người nhưng ly tán, cùng khổ. Trong nhà thiếu hòa khí. Anh chị em oán hận lẫn nhau, đôi khi lại còn cãi nhau.

– Vũ Tham đồng cung: nhiều nhất là ba người, sau đều giàu có nhưng sớm xa nhau.

Tham Lang ở Hạn

– Sáng sủa tốt đẹp: mọi sự hành thông, có công danh, có hoạnh tài, nếu nhập Hạn tại Tứ Mộ hợp với tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nên lại càng phát đạt hiển hách. Trong trường hợp này, nếu may mắn gặp thêm Hỏa, Linh phải quyết đoán là hoạnh phát danh tài.

– Mờ ám xấu xa: hao tán tiền tài, chơi bời phóng đãng đến nỗi mang tai họa, mọi sự đều bế tắc, nếu có công danh chắc chắn là bị truất giáng.

– Vũ, Lộc, Mã: có danh chức và tài lộc.

– Hồng, Đào: thành gia thất (lấy vợ lấy chồng)

– Lương, Kỵ: vật bằng gỗ, đá rơi xuống người gây nên thương tích.

– Riêu, Kỵ: tai nạn về sông nước, mắc khẩu thiệt, hay kiện tụng, có sự lo buồn.

– Không, Kiếp: mọi sự đều bế tắc, hao tổn tiền tài, nếu có công danh tất bị truất giáng.

– Hổ: súc vật hay ác thú cắn đá (đáng lo ngại nhất là Tham nhập Hạn tại Dần, Tuất) nếu không, tất mắc tai nạn xe cộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa sao Tham lang trong lá số Tử vi –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd