Tướng số những chàng trai không tốt |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
Lã Phạm thưa:
– Tôi xin bói một quẻ xem hay dở ra sao.
Quyền ưng lời. Phạm bói cỏ thi. Thành quẻ rồi, thì là quẻ địa thuỷ sư, lại có sao Huyền Võ lâm vào hào Ứng, chủ về việc giặc chạy ra ngoài.
Quyền hỏi Lã Mông rằng:
– Cứ như quẻ này, thì giặc tất phải chạy, ngươi nên dùng mẹo gì mà bắt cho được.
Mông cười nói rằng:
– Quẻ này chính hợp với ý tôi. Quan Công dẫu có tài hay lên trời, cũng không thoát được ra ngoài lưới của tôi phen này”
Hồi 77
Tôn Quyền hỏi Lã Mông mẹo làm sao, Mông thưa rằng:
– Tôi chắc Quan mỗ ít quân, không dám chạy ra đường lớn. Mé bắc Mạch Thành, có con đường nhỏ hiểm hóc lắm, hắn tất chạy trốn ra lối ấy. Ta nên sai Chu Nhiên dẫn năm nghìn tinh binh, phục ở ngoài hai chục dặm mé bắc Mạch Thành. Quân giặc đi đến, không nên ra địch, để cho đi khỏi rồi sẽ đuổi theo mà đánh, quân giặc tất phải chạy về Lâm Thư. Ta sai Phan Chương phục sẵn năm trăm tinh binh ở đường núi hẻm Lâm Thư, thì chắc bắt được Quan mỗ. Nay cho quân sĩ cứ việc đánh các cửa, duy chỉ bỏ cửa bắc không đánh, để cho chạy ra rồi sẽ hay.
Quyền nghe kế ấy, sai Lã Phạm bói một quẻ nữa. Phạm gieo quẻ xong nói rằng:
– Quẻ này tất là giặc chạy về tây bắc, giờ hợi đêm hôm nay thì bắt được.
Quyền mừng lắm, sai Chu Nhiên, Phan Chương dẫn hai cánh quân tinh nhuệ ra các mặt mai phục.”
Đêm hôm ấy Quan Vũ bị quân Ngô bắt và chém đầu.
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 10 (cũng có thể là ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch).
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thần Tam Thanh.
Nội dung: Theo phong tục tập quán Việt tộc, rằm tháng mười hàng năm được tổ chức trọng thể, vượt thoát phạm vi gia đình và trở thành một lễ hội tâm linh của dân tộc Việt, một sinh hoạt tín ngưỡng mang đậm tính nhân văn nơi chốn già lam tịnh địa. Đây cũng chính là điều mà nhà thơ Huyền Không đã khẳng định trong bài thơ Nhớ chùa:
“Mái chùa che chỡ hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”
Mái chùa xưa và nay, dù ở nơi đất Tổ hay trời phương ngoại vẫn là nơi hội tụ của muôn ngàn con dân đất Việt chung giòng máu Lạc Hồng, chung một ý niệm đồng bào ruột thịt. Và rằm tháng Mười giờ đây không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là Tết Hạ nguyên mà trở thành một nếp sống tâm linh của người con Phật. Trong ngày lễ Hạ nguyên, người Phật tử dâng trọn tấm lòng tưởng niệm ân đức sâu dày của chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, đã từng khai sáng và trùng hưng huyết mạch của Đạo Phật tại thế gian này.
Hàng đệ tử chúng ta, những người mang sứ mệnh truyền thừa chánh pháp của Thế Tôn, mang đuốc tuệ vào lòng thế cuộc, vận chuyển bánh xe chánh pháp giữa rừng đời phải chọn một ngày thích hợp như lễ Hạ nguyên để “Tiên tri Tam đức, hậu báo tứ ân” nhằm thắp sáng tiền đồ hoằng dương Phật pháp.
Lễ Hạ nguyên ở chùa tuy hình thức có phần đơn sơ hơn so với các lễ hội Phật giáo khác như Đại lễ Phật đản, Đại lễ Vu Lan, nhưng về nội dung vẫn phản ánh đậm nét mầu sắc tâm linh, và nhắc nhỡ người con Phật hãy sống như chánh pháp, hành xử theo chánh pháp theo gương các bậc Tiên hiền cổ thánh ngàn xưa.
Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 20 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng.
Nội dung: Hội có lễ rước và tế thần. Phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian như đấu vật, múa rối nước, cờ tướng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
![]() |
![]() |
| ► Tham khảo thêm: Xem tuổi xây nhà hợp phong thủy để đón lành tránh dữ |
Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc Nam Đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ. Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé, cườm mắt. Thiên Đồng hành thủy nên cũng ưa động, bị động chứ không chủ động, tâm thần không kiên nhẫn mà dao động, luôn luôn đổi ý. Thiên Cơ già dặn kinh lịch, Thiên Đồng động một cách non nớt, ấu trĩ.
Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.
Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kỵ, dễ có thể dựa vào Sát Kỵ làm khích phát lực. Sát Kỵ đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kỵ thủ Mệnh hóa ra tốt)
"Đồng đóng cung Tuất yên vìHãm cung nhưng lại được bề hiển vinhNhờ sao Hóa Kỵ thêm xinhẤy là ưng hợp dễ thành giàu sang"
Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kỵ cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kỵ không là đủ. Hóa Kỵ còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.
Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiễn là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.
Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.
Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.
Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.
Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.
Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kỵ hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.
Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kỵ xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kỵ nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kỵ nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kỵ. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kỵ.
Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kỵ đứng bên Thái Âm.
"Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủTân Cự Dương Khúc Xương chí."
Riêng tôi thấy Đồng Âm đúng. Bên Trung Quốc, Tử vi thấu phái chủ trương Âm Đồng.
Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kỵ, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kỵ theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kỵ theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền
Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.
Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kỵ để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.
Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.
Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.
Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.
"Đồng Âm ở Ngọ ở TíĐồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở DầnĐồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại MãoĐồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ HợiĐồng Lương cùng đóng Dần ThânĐồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ"
Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:
"Đồng Nguyệt Tí gái hoa dungGặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen"
Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.
Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.
"Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bênÝ chí tình tự vừa đúng, cân bằng"
Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kỵ, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.
Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.
Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kỵ, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.
Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.
Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên Đồng:
- Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát(Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)
- Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm Long Trì tu phòng mục tật(Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)
- Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên(Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)
- Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú(Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang trọng uy nghi)
- Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng(Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ con hoặc gãy đổ duyên tình)
- Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kỵ, giao lại Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kỵ và Song Lộc chiếu làm thương mại dễ nên giàu)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)

– Nằm mơ thấy đi vào chùa: điềm vui.
– Nằm mơ thây Bồ Tát: sống lâu.
– Nằm mơ thấy tăng ni: mọi việc đều hợp.
– Nằm mơ thấy lễ Phật: được quý nhân trợ sức.
– Nằm mơ thấy ăn chay: đại cát.
– Nằm mơ thấy đốt hương: có chuyện cưới xin.
– Nằm mơ thấy miếu thần: người tiên xin ăn.
– Nằm mơ thấy đạo chú: có sự thay đổi.
Các số liên quan đến giấc mơ:
Phật: 57 – 75
Đây là điển cố thứ Hai ba trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Hoài Đức Chiêu Thân (còn gọi là Hoài Đức Thành Thân). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Hoài Đức Chiêu Thân có bắt nguồn như sau:
Cao Hoài Đức (926 – 982) là một đại tướng nối tiếng thời Bắc Tống, có sức mạnh hơn người, từng lập nhiều chiến công hiển hách. Khi nổ ra cuộc binh biến Trần Kiều, ông đã đem long bào khoác lên mình Triệu Khuông Dấn, buộc Triệu Khuông Dấn lên ngôi hoàng đế. Sau này, khi Triệu Khuông Dấn đã làm hoàng đế, Cao Hoài Đức và Thạch Thủ Tín thấy được ý đồ “tiệc rượu trả bỉnh quyền” (Triệu Khuông Dần mượn cớ tố chức tiệc rượu đế thu hồi binh quyền của các tướng), nên hai người đã chủ động trao trả binh quyền, rồi rút lui để toàn thân.
Triệu Khuông Dấn rất yêu mến Cao Hoài Đức, viên đại tướng có khí phách anh hùng, ứng biến linh hoạt, tuy không thích đọc sách nhưng rất hiểu âm luật (Cao Hoài Đức có thể tự sáng tác nhạc khúc), nên ông đã chủ động chọn Cao Hoài Đức làm rể của nhà mình.
Cao Hoài Đức đến trung niên thì mất vợ, vào chầu cả ngày mặt ủ mày chau, cũng không thích trò chuyện với người khác. Triệu Khuông Dấn thấy vậy, liền bàn bạc với Đỗ thái hậu, muốn gả em gái là Yên Quốc Trưởng công chúa cho Cao Hoài Đức. Đỗ Thái hậu rất vui mừng, nhưng chưa đồng ý ngay. Nguyên nhân là “đàn ông được tái hôn, nhưng phụ nữ không được tái giá”, Trưởng công chúa tuy tuổi chưa quá hai mươi, vẫn trẻ trung xinh đẹp, nhưng lại là quả phụ, xét về lễ là không được.
Biết được nguyên do khiến Thái hậu lưỡng lự, Triệu Khuông Dấn nghĩ cách rồi cười nói: “Vậy để trẫm hỏi ý công chúa xem sao!” Thái hậu cười, gật đầu đồng ý. Triệu Khuông Dấn gọi Trưởng công chúa đến, hỏi công chúa đã từng gặp đại tướng Cao Hoài Đức của nhà Tống, ấn tượng với Cao Hoài Đức như thế nào. Trưởng công chúa đã gặp Cao Hoài Đức, thấy người này lưng hố eo gấu, phong thái ngời ngời, lại đang ở trong độ tuổi có sức hấp dẫn nhất của người đàn ông. Trưởng công chúa khéo léo dùng một vài lời ca ngợi để thể hiện thiện cảm với Cao Hoài Đức cho Triệu Khuông Dấn biết. Triệu Khuông Dan ngầm hiểu công chúa đã bằng lòng, bèn vỗ tay mà nói: “Vậy hãy để trẫm làm chủ, gả công chúa cho Cao tướng quân!” Công chúa đáp: “Thánh thượng là hoàng đế, lại là huynh trưởng, tiểu muội làm sao dám trái ý?”
Về phía Trưởng công chúa đã có được câu trả lời, Triệu Khuông Dẩn bèn triệu kiến hai trọng thần là Triệu Phổ và Đậu Nghị, để giao phó việc hôn nhân. Triệu Phố và Đậu Nghị đích thân đến nhà Cao Hoài Đức, muốn làm người mai mối cho Cao Hoài Đức. Cao Hoài Đức vừa nghe đến Yên Quốc Trưởng công chúa thì rất vui mừng, ông đã gặp Trưởng công chúa, biết nàng còn trẻ và xinh đẹp, nhan sắc hơn người. Hơn nữa, cưới Trưởng công chúa, như vậy sẽ không còn giống như Tôn Quyền và Chu Du “đã thiệt phu nhân lại mất quân”, không chỉ cưới được người vợ đẹp, lại đường đường trở thành phò mã, danh chính ngôn thuận là hoàng thân quốc thích!
Ba người trò chuyện vài câu, Triệu Phổ và Đậu Nghị liền vào triều bẩm báo. Triệu Khuông Dấn lệnh cho quan Thái sử chọn ngày tốt, cử hành hôn lễ cho Cao Hoài Đức và Yên Quốc Trưởng công chúa, lại ban cho Cao Hoài Đức một dinh cơ ở phường Hưng Ninh, phong cho ông làm Phò mã Đô úy. Trưởng công chúa được gặp vị lang quân như ý, không còn cô quạnh nữa. Cao Hoài Đức vui mừng vì có được người vợ xinh đẹp bầu bạn, để lại giai thoại “trong không có đàn bà không chồng, ngoài không có đàn ông không vợ”, ai nấy đều chọn được bạn đời như ý.
![]() |
| Đàn ông có những nét tướng này không chỉ thành công trong sự nghiệp mà còn là người chồng người cha tốt |
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.
Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.
Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.
Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.
So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.
Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:
Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh
Bình sinh tác sự quả thông minh
Chí cao khí đại vô nam nữ
Bất miễn hình phu lịch khổ tân
(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)
Thất Sát cô tinh Tham tú phùng
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí
Nữ mệnh đắc thử tính bất lương
Chi hảo cô phòng vi tì thiếp
(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)
Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm sảo dung
Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ
Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông
(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.
Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)
Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.
Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.
Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu
Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc
Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.
Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:
- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân
(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)
- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư
(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)
- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương
(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)
- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật
(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)
- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)
- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong
(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)
- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân
(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)
- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong
(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)
- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn
(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)
- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong
(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)
- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ
(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)
- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai
(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)
- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)
- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân
(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)
- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)
- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư
(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)
- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)
- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân
Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành
(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)
- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn
(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)
- Mấy người thủy ách, hỏa tai
Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham
(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)
- Dần Thân Sát Kị trùng gia
Thương chiêu đá mạ thật là gian truân
(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)
- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ
Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không
- Sát phùng Phù Hổ hay đâu
Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung
- Sát tinh chiếu ở cung Đoài
Vì người tham của Phật đài họa toa
(Câu này không rõ nghĩa lắm)
- Ngôi cao chức trọng công hầu
Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung
- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát
Tính cang kiên tài cán đảm đương
Được thêm Kỷ Ất sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen
- Sát Kình ở tại Ngọ cung
Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế
Bậc anh hùng địa vị thênh thênh
- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi
Sát Phá Tham lại hội Văn Xương
Ấy là góa bụa đáng thương
Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình
- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân
(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)
- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân
(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)
- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương
(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)
- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết
(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)
- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược
(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)
- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá
Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi
Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì
- Thìn Tuất Thất Sát xem qua
Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên
Bên cạnh những sát khí về hình thể loan đầu tồn tại những dạng sát tinh thuộc dạng lý khí. Những sát tinh này chúng ta không thể nhìn thấy được, cầm nắm được, hay cảm nhận được. Như những luồng sóng điện từ, sóng truyền thanh, truyền hình, sóng viễn thông hay từ phổ của Trái đất, trường khí mà sát tinh lý khí này tạo ra gây những ảnh hưởng vô cùng bất lợi đối với cư nhân trong dương trạch.
Mặc dù không cầm nắm, đo đếm, nhìn thấy được nhưng trên cơ sở tính toán nghiên cứu về phong thủy và thực nghiệm nhiều lần trong thực tiễn cuộc sống, con người ta đã rút ra những quy luật về nó.
So với sát khí về hình thể thì sát tinh lý khí đơn giản hơn, chủ yếu có mấy dạng, nhưng uy lực gây họa của nó không hề nhẹ, nhất là khi nó cộng hưởng với sát khí hình thể càng tạo nên nhiều nguy cơ cho người ở trong căn nhà.
Trong Thái dương hệ của chúng ta có một hành tinh là Mộc tinh. Mộc tinh là hành tinh thứ năm trong hệ Mặt trời tính từ Mặt trời trở ra, theo thuyết Nhật tâm của Bruno, cũng là một quan điểm khoa học hoàn toàn đúng đắn về vũ trụ, thiên văn.
Người xưa, đã quan sát kỹ lưỡng chu kỳ chuyển động của Mộc tinh, và ghi chép lại thành hệ thống những kiến thức khoa học thiên văn. Ta có thể dễ dàng tìm thấy các thông tin về hành tinh này trong Sử ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán hoặc trước đó nữa. Mộc tinh chuyển động quanh Trái đất theo một quỹ đạo có chu kỹ là 12 năm, hệ quả của nó tạo ra từ quá trình này là trường khí của nó tạo ra lực hút, sự tương tác mạnh yếu khác nhau tại các phương vị trên Trái đất, và quá trình tương tác này sẽ có những yếu tố may rủi họa phúc khác nhau. Người ta đã biểu diễn chu kỳ này bằng hệ thống 12 địa chi, 12 trực…Mộc tinh còn được gọi một cái tên rất quen thuộc đó là Thái tuế.
Các môn khoa học dự đoán như Tử vi đẩu số, Tứ trụ Tử bình đều đặt vấn đề nhập hạn Thái tuế rất quan trọng. Nhà đẩu số Thiệu Vĩ Hoa có nói: “Hợp Thái tuế thì may mắn cát lợi, xung Thái tuế tất có điều hung họa”. Trong Tử vi người ta hay có câu: “Gặp Thái tuế không có hỷ cũng có họa”.
Đối với Phong thủy, gặp Thái tuế thường mang lại những điều bất lợi, có thể gặp những điều xấu bất ngời, họa vô đơn chí, hao tiền tốn của, gia đạo lục đục, tai nạn bệnh tật… Người ta có câu: “Động thổ trên đầu Thái tuế”. Nghĩa là tại các phương vị khác nhau, mỗi khi Thái tuế nắm lệnh tại phương vị đó sẽ gặp nhiều bất lợi, ai làm nhà, xây dựng…cũng đều hết sức kiêng dè. Câu nói trên còn dùng để chỉ những người thiếu hiểu biết, vô minh, liều lĩnh, hồ đồ. Thái tuế được tính như sau.
Năm Tý – Thái tuế ở Chính Bắc
Năm Sửu, Dần – Thái tuế ở Đông Bắc
Năm Mão – Thái tuế ở Chính Đông
Năm Thìn, Tị - Thái tuế ở Đông Nam
Năm Ngọ - Thái tuế ở Chính Nam
Năm Mùi, Thân – Thái tuế ở Tây Nam
Năm Dậu – Thái tuế ở Chính Tây
Năm Tuất, Hợi – Thái tuế ở Tây Bắc.
Tại các phương vị Thái tuế, người ta kiêng kỵ động thổ, xây dựng. Nếu như căn nhà mà đã xây dựng trước đó, người ta cũng hạn chế hoạt động, để máy móc rung chuyển tại các phương vị đó. Thái tuế được coi là một là một một sát tinh có uy lực mạnh nhất, đứng đầu sát tinh về lý khí.
Đối với Thái tuế không có cách chế giải, người ta chỉ thường né tránh nó, tránh động thổ, khởi công, xây dựng, đào bới, san lấp, tu sửa ở các phương vị này.

Chòm sao Đại Hùng trong vũ trụ còn gọi là chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao này có dạng hình cái gáo, được hợp thành bởi 9 vì sao trong đó có các sao Thiên Toàn, Thiên Khu, Thiên Lộc, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang, Tả phù, Hữu Bật. Đó chính là hệ thống Cửu tinh trong Phong thủy Huyền không…Chòm sao này có chu kỳ chuyển động và tạo ra những trường khí và lực hấp dẫn khác nhau, con người sống trên Trái đất và đương nhiên cũng chịu những lực tác động vô hình đó
Sao Ngọc Hành còn gọi là sao Ngũ Hoàng, Liêm Trinh, là một trong những đại sát tinh của trạch vận, sao này mang hành Thổ, khi thất lệnh sẽ gây ra nhiều tai họa bệnh tật, người ta gọi là Ngũ hoàng sát, Liêm trinh sát, Mậu kỷ sát, Chính quan sát. Nếu Ngũ hoàng trùng lặp với Thái tuế thì sát khí lại càng mạnh
Khi Ngũ hoàng nhập trung cung là Hoàng cực đóng tại chính vị, ngôi vị tôn quý. Khi bay ra 8 cung còn lại thì sẽ tạo ra những ảnh hưởng hung họa. Cụ thể:
Phương Khảm: Phương vị chính Bắc, chủ về bệnh tiết niệu, tai, thận, bệnh đường huyết, phụ nữ gặp tai nạn thai sản
Phương Cấn: Phương vị Đông Bắc, chủ về bệnh đường ruột, dạ dày, chân trái bị thương, bệnh khớp, trẻ nhỏ suy nhược, đau đầu, chóng mặt
Phương Chấn: Phương vị chính Đông, đau đầu, đau lưng, tai nạn xe cộ, vì tiền mang họa
Phương Tốn: Phương vị Đông Nam, chủ về đốt sống cổ, bệnh thần kinh, bệnh ngoài da, con cái học kém
Phương Ly: Phương vị chính Nam, chủ về bệnh mắt, tim, não, huyết áp không ổn, chóng mặt, tai nạn đổ máu, cãi cọ, kiện tụng
Phương Khôn: Phương vị Tây Nam, chủ về người mẹ mắc bệnh tỳ vị, đau vai phải, tranh chấp ruộng đất, tai nạn đổ máu
Phương Đoài: Phương vị chính Tây, chủ về chịu hình phạt, mang tiếng xấu, đau thắt lưng trái, bị kim loại tổn thương, ngộ độc thực phẩm
Phương Càn: Phương vị Tây Bắc chủ về người cha mắc bệnh, đau đầu, kiện cáo, đau chân phải, đau tim, bệnh não
Trung cung: chủ bệnh tim, gia đình bất hòa, lở loét, gặp tai nạn bỏ mạng
Ngũ hoàng sát có một đặc tính là thích tĩnh, nên tại những phương vị này nên hạn chế các hoạt động, tránh đặt các máy móc rung động lớn. Nếu như căn nhà đã xây mà Ngũ hoàng tới hướng, có thể đặt các vật khí phong thủy bằng kim loại để hóa giải sát khí này vì Thổ sinh Kim, nên sát khí của hung tinh này bị chiết giảm và hóa giải.
Ngoài ra, nếu động thổ, khởi công tại phương vị có Ngũ hoàng lưu niên, Ngũ hoàng tháng, ngày có thể dùng những ngày Giáp, Ất thuộc Mộc, hoặc Canh, Tân thuộc Kim để hóa giải, đó là về thiên can, ngoài ra có thể sử dụng các ngày có địa chi Dần – Mão – Thìn (Tam hội Mộc cục), Hợi – Mão – Mùi (Tam hợp Mộc cục), Thân – Dậu – Tuất (Tam hội Kim cục), Tỵ - Dậu – Sửu (Tam hợp Kim cục) để hóa giải sát khí

Như hình vẽ trên năm 2006 Bính Tuất thì Ngũ hoàng lưu niên bay đến phương vị chính Tây, nếu khởi công tại đó thì sẽ phạm Ngũ hoàng
Tam sát chia ra làm hai loại bao gồm
Dần – Ngọ - Tuất (Hỏa cục)
Tị - Dậu – Sửu (Kim cục)
Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục)
Nếu chọn ngày xây dựng hay khởi công động thổ và những năm, tháng, ngày, giờ tam hội cục đối nghịch là sẽ phạm tam sát về thời gian.
Ví dụ cụ thể: Năm Thân thuộc tam hợp Thân – Tý – Thìn (Thủy cục) mà lại tiến hành khởi công vào các tháng, hoặc ngày, hoặc giờ Tị - Ngọ - Mùi (Tam hội cục Hỏa), Thủy, Hỏa đối khắc nên phạm tam sát về thời gian. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy.
Ví dụ: Năm Mũi, thuộc tam hợp Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục) mà động thổ tại phương vị chính Tây có các tam hội cục Thân – Dậu – Tuất (Kim cục) nên trường hợp này gọi là phạm tam sát về phương vị.
Để tránh tam sát về phương vị, kinh nghiệm dân gian ta thường nói rằng, năm dương bào gồm có các địa chi dương Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thì đại lợi theo hai hướng Tây – Đông
Các năm âm, gồm các địa chi âm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thì đại lợi ở các phương vị Nam – Bắc.
Tam sát thường gây ra bốn hậu quả có thể xảy ra
+ Tai nạn bất ngờ, như tai nạn lao động, hoặc tai nạn giao thông
+ Kiện tụng
+ Hao tài
+ Sức khỏe bị ảnh hưởng: Bắc (Xương cốt, sức khỏe giới tính, đường tiết niệu, thận, tử cung, bàng quang), Nam (Tim, huyết quản, huyết áp, trúng gió), Đông (Kinh lạc, gan, mật), Tây (Đường hô hấp, miệng, mũi, da).
Hóa giải tam sát bằng những biện pháp sau:
Theo tín ngưỡng dân gian có nhiều vật dụng phong thủy đem lại sự may mắn, giàu có. Trong đó, tượng con cóc ba chân ngậm đồng tiền xu chính là một trong những vật phẩm được nhiều gia đình sử dụng. Đây là vật phẩm phong thủy đứng thứ hai, sau Tỳ Hưu, được cho là mang lại điềm lành và tài lộc.
Nếu để ý kĩ những tượng con cóc ba chân này, bạn sẽ thấy trên đầu cóc có hình “Lưỡng nghi” (hình tròn), phía bên trong hình tựa như hai con cá quay đầu lại với nhau. Đặc biệt, trên lưng cóc có những nốt sần gọi là chòm sao Đại Hùng.
Con cóc ba chân ngồi trên giá tài lộc là một đống tiền, miệng ngậm một đồng tiền và hai bên sườn đeo hai xâu tiền cổ.
Tượng con cóc ba chân gắn liền với một truyền thuyết. Con vật vốn là yêu tinh xấu được thu phục, cải tà quy chính và tỏa đi muôn nơi giúp đỡ người nghèo bằng cách nhả tiền cho họ. Vì thế vào những đêm trăng tròn con vật này ở gần nhà ai thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Từ đó nó được tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài.
Con cóc ngậm tiền như được mô tả trong truyền thuyết thì nó có thể "phun ra của cải" và chỉ sống ở những nơi có sự giàu có. Nó rất nhạy cảm với các "mùi" của sự giàu có. "Thực phẩm" chủ yếu của nó bao gồm vàng, bạc, đá quý. Vì thế, ý nghĩa của con cóc trong phong thủy mà dân gian tin rằng nó xuất hiện ở nơi nào thì nơi đó sẽ có nhiều vàng bạc, trở nên giàu có.
Vị trí chính xác của cóc ba chân
Cách thức đặt cóc phụ thuộc rất nhiều vào thiết kế của nó.
(1) Con cóc ngậm một đồng xu trong miệng
Trong suốt cả năm, vị trí đặt con cóc nên quay mặt vào bên trong nhà để biểu thị rằng nó "nhổ nước bọt, nhổ tiền bạc" vào nhà. Đừng để nó trong phòng ngủ, nhà bếp hoặc phòng tắm. Ngoài ra, đừng bao giờ để nó quay mặt vào nhà vệ sinh, điều đó thể hiện sự bẩn thỉu, ô uế, thiếu tôn trọng đối với vật phẩm phong thủy.
Bên cạnh đó, không đặt con cóc cạnh bể cá, hồ bơi, ao vì khi đối diện với nước nó sẽ có nghĩa là "cơ hội kiếm tiền bị trôi đi".
Nếu bạn không ngại rắc rối, buổi sáng trước khi ra khỏi nhà hãy quay mặt con cóc hướng ra ngoài và buổi tối thì quay mặt con cóc hướng vào trong để biểu thị sự tích lũy của cải. Điều này không nhất thiết phải được thực hiện mỗi ngày, có thể làm khi nào bạn nhớ.
(2) Con cóc không ngậm một đồng xu trong miệng
Các cóc vàng thiết kế kiểu này giúp xua đuổi tà ma và rắc rối hơn là đem lại sự giàu có.
Nếu ngôi nhà của bạn đang sống gần khu vực bệnh viện, nghĩa trang, tang lễ có khí âm nặng thì nên đặt một con cóc trong miệng không ngậm đồng xu. Hướng con cóc ngồi nên được đặt ra ngoài.
Trong văn phòng, bạn có thể đặt con cóc ở phía trên bên trái bàn làm việc để làm giảm sự ghen tị, ghen ghét (nếu có) từ đồng nghiệp.
Đồ trang trí cóc vàng
Sau đây là khuyến cáo khi sử dụng đồ trang trí hay những bức tượng hình con cóc vàng:
- Đối với vòng cổ hình con cóc vàng, đầu của con cóc tốt nên được hướng lên trên, như vậy là để thu hút sự giàu có.
- Đối với vòng đeo tay, đeo nó ở bên tay trái vì theo quan niệm dân gian, sự giàu có đi vào từ bàn tay trái và ra tay phải.
- Treo một số đồ trang trí hình cóc vàng trong xe ô tô để tiêu tan năng lượng tiêu cực.
- Con cóc rất thích nuốt bảo vật, vì thế có thể đeo đồ trang sức hình con cóc vàng khi đi đến những nơi có rất nhiều của cải, ví dụ như ngân hàng hay cửa hàng đồ trang sức.
- Đừng để người ngoài chạm vào bức tượng cóc vàng của bạn. Nếu ai đó vô tình chạm phải thì hãy rửa lại bằng nước sạch và lau khô bằng vải mới.
iệu những căn nhà có một đơn nguyên số 01 từ tầng 1 lên đến tầng 32 đều có phong thuỷ giống hệt nhau không? Tất nhiên là không thể, tuy nhiên tình huống gặp phải của những người sống trong căn nhà đó là gần như tương đồng. Ví dụ, căn nhà số 01 ở tầng 1 phạm thanh sát thì phần lớn các căn số 1 của tầng 2 đến tầng 32 có khả năng cũng gánh chịu tiếng ồn làm nhiễu loạn. Đây là do ảnh hưởng của Phi Tinh gây nên.
Nhưng có điểm cần chú ý, không phải tất cả các căn nhà trên đều cho rằng đó là sự nhiễu loạn. Điều nàv là vì từ trường ảnh hưởng đến “nhân” (con người). Bản thân con người cũng có từ trường, khi sống trong một căn nhà thì từ trường của căn nhà đó chịu sự ảnh hưởng của con người nên cũng thay đổi. Hơn nữa, nếu dùng la bàn để tính toán tỉ mỉ thì bạn sẽ phát hiện ra những căn nhà trên có nhiều điểm khác biệt rất nhỏ. Độ cao thấp của căn nhà không giống nhau, hướng cũng khác (dù không rõ rệt) đều khiến kim la bàn thay đổi. Từ đó, hướng của căn nhà cũng thay đổi. Chúng ta có thể nói rằng dù sống trong căn nhà cùng vị trí nhưng cát hung lại khác nhau rõ rệt. Cũng giống như những người sinh đôi hoặc sinh ba có khuôn mặt, dáng vẻ giống nhau nhưng tính cách và thói quen sinh hoạt lại không hoàn toàn như nhau.

Nếu người ngũ hành cần Kim sống trong căn nhà luôn có xe cộ đi lại, tiếng ồn, còi xe nhiễu loạn thì anh ta cảm thấy rất thoải mái, không khó chịu chút nào. Nguyên nhân là do tiếng còi xe ngũ hành thuộc Kim. Ngược lại, nếu một người ngũ hành kỵ Kim sống trong căn nhà đó thì tiếng còi xe sẽ tạo thành một loại thanh sát, không những làm tinh thần của anh ta căng thẳng, không tập trung mà còn ảnh hưởng đến sự nghiệp và sức khoẻ của anh ta.
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy, thực ra con người là nhân tố của phong thuỷ. Con người khiến cho từ trường tạo ra phản ứng khác nhau, từ đó làm thay đổi phong thuỷ của căn nhà. Bản thân toạ hướng của căn nhà không thể thay đổi, nhưng khi có con người dọn đến sinh sống thì nó dần dần phát sinh biến hoá. Cho nên khi dùng la bàn tìm được vị trí của căn nhà xong, nhân tố con người không thể thiếu để tham khảo. Chúng tôi cũng nhắc các bạn một điều: Trong tất cả các nhân tố khiến từ trường thay đổi thì sức mạnh lớn nhất là của động vật.
Trong cơ thể động vật phát ra một loại khí và từ trường vô cùng mãnh liệt khiến kim của la bàn chuyển động liên tục. Chính vì điểm này mà cách giải tượng của la bàn được phân thành hai tầng lớp: Một là vị trí đó đúng là của Trái Đất. Hai là vị trí đó đã được con người cải tạo. Điều đó chứng tỏ rằng phong thuỷ là từ trường được điều giải ngũ hành âm dương sau khi con người xuất hiện. Vậy làm thế nào bảo vệ trạng thái phong thuỷ tốt của căn nhà? Điều này rất cần tới bố cục phong thuỷ. Những căn nhà bình thường đều chịu sự ảnh hưởng của từ trường con người và Phi Tinh mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ. Từ đó vận khí của căn nhà cũng thay đổi theo. Bố cục phong thuỷ có thể khiến từ trường của căn nhà duy trì trạng thái nào đó rất nhiều năm mà không sản sinh ra biến động nào lớn.
Thân đều tốt, đặc biệt là ở Phúc.
Thiên Đồng: sao này cũng phải miếu, vượng và đắc địa mói có ý nghĩa tốt như Thiên Lương. Thiên Đồng càng thiện khi hội tụ với Thiên Lương ở Dần, Thân: xu hướng bác ái nhờ đó càng thêm mạnh.
Thiên Quan, Thiên Phúc: chủ làm việc thiện, tư tưởng thiện, tinh thần cứu nhân độ thế, niềm tin nơi thiêng liêng, năng khiếu tu hành, triển vọng đắc đạo. Nếu cả hai sao này cùng hội chiếu vào Phúc, Mệnh hay Thân thì hiệu lực càng mạnh thêm.
Ân Quang, Thiên Quý: mang rất nhiều ý nghĩa phúc đức và trường thọ. Về mặt tính tình, người có Quang Quý là kẻ nhân hậu, từ thiện, thành tín với bạn bè, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng, sùng đạo với thiêng liêng. Về mặt giải họa, Quang Quý biểu tượng cho sự phù hộ của thần linh, sự trợ lực của người đời trong nhiều phương diện. Về mặt siêu hình, Quang Quý hỗ trợ cho sự cảm thông với linh thiêng, tinh thần vọng đạo hết sức mạnh mẽ. Từ đó, năng khiếu đi tu có triển vọng thành đạt nhiều hơn kẻ khác.
Tứ Đức: đều chủ cái hạnh tốt đẹp của người thiện tâm, lấy nhân nghĩa lễ trí tín làm kim chỉ nam xử thế.
Hóa Khoa: cái hạnh của Hóa Khoa cũng tương tự như cái hạnh của Tứ Đức. Sự khác biệt khả dĩ là hạnh của Tứ Đức xuất phát từ tâm, trong khi cái hạnh của Hóa Khoa bắt nguồn từ văn hóa, học vấn mà có.
Những sao này thường đóng ở Mệnh, Thân có thể là ở Phúc cũng mang ý nghĩa tương tự: Tử Vi với sát tinh - Vũ Khúc với sát tinh - Thiên Phủ, Tuần, Triệt với sát tinh. Đây là phá cách gọi chung là "đế ngộ hung đồ" ngụ ý một kẻ thất bại, bất đắc chí ở trường đời.
Cơ, Lương, Kình, Đà, Linh, Hỏa, Tướng
Cơ, Lương, Tuần, Triệt với sát tinh
Xương, Khúc, Tuần, Triệt với sát tinh
bất hạnh nặng nề cho kiếp sống con người, thúc đẩy thế nhân đi tìm nguồn an ủi khác trong cõi đạo.
Tử, Tham với Không, Kiếp: ở Mão Dậu là người yếm thế, bi quan, có khiếu tu hành. Gặp thêm Không, Kiếp là bị nghiệp chướng ở đời.
Mệnh vô chính diệu gặp sát tinh - Sát tinh vây hãm các cung cường: cách của người dễ đi tu.
Hồng Loan, Thiên Không: kẻ thất bại vì tình, thường tìm sự đoạn tuyệt nghiệp tình để đi tu.
Cô Thần, Quả Tú - Đẩu Quân - Vũ Khúc: điển hình cho sự cô độc, nói rộng hơn là sự đơn thân, lẻ bóng trong gia đạo, dù đóng ở Mệnh, Thân, hay ở Phu Thê, Tử. Càng gặp nhiều, tình trạng cô đơn càng chắc chắn, nhất là đối với nữ số.
Danh: Thanh tú, ôn hòa, lanh lợi, trung niên cát tường, cuối đời hưởng phúc.
Dậu: Nhiều bệnh tật, nếu kết hôn và sinh con muộn sẽ đại cát, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời phát tài phát lộc.
Dĩ: Thông minh, nhanh nhẹn. Công danh, tiền đồ sáng sủa nhưng hiếm muộn đường con cái.
![]() |
| Diệp - Thanh tú, đa đài, hiền hậu |
Diễn: Cuộc đời thanh nhàn, trung niên cát tường, có 2 con sẽ đại cát, cuối đời phiền muộn.
Diệu: Thuở nhỏ vất vả, gian khó, trung niên thành công, phát tài phát lộc, là nữ thì trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Diệp: Thanh tú, đa tài, hiền hậu, trung niên cát tường, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.
Do: Phóng khoáng, đa tài, có số đào hoa, trung niên phát tài phát lộc.
Doãn: Đa tài, đa nghệ, trí dũng song toàn. Cả đời thanh nhàn, hưởng vinh hoa phú quý.
Du: Bản tính thông minh, ôn hòa, hiền hậu, danh lợi song toàn nhưng có thể mắc bệnh tật, cuối đời phát tài phát lộc.
Dụ: Học thức uyên thâm, công chính liêm minh, tiền đồ rộng mở, trung niên thành công, có số xuất ngoại.
Dục: Hiền hậu, có số xuất ngoại, trung niên thành công hưng vượng, sống thanh nhàn, phú quý.
Duệ: Bản tính thông minh, đa tài, trung niên hưng vượng, gia cảnh tốt, có số xuất ngoại.
Dũng: Nên kết hôn muộn, đa tài, hiền lành, trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Dụng: Tính tình ôn hòa, chịu thương chịu khó, sau thành công, con cháu hưởng lộc phúc.
Dư: Bản tính thông minh, danh lợi song toàn, trung niên thành công, cuối đời hưởng hạnh phúc.
Dự: Có số làm quan, tay trắng lập nên sự nghiệp, cuối đời thịnh vượng, gia cảnh tốt.
Dữ: Thanh nhàn, đa tài, trung niên đề phòng gặp chuyện không hay, cuối đời hưởng phúc.
Dực: Tài năng, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Dương: Cuộc đời thanh nhàn, nếu kết hôn và sinh con muộn thì đại cát, trung niên bôn ba, vất vả, cuối đời cát tường.
Dưỡng: Lương thiện, phúc thọ viên mãn, có tài trị gia, gia cảnh tốt, con cháu hưng vượng.
Duy: Nho nhã, sống đầy đủ, phúc lộc viên mãn.
Duyên: Phúc lộc song toàn, danh lợi song hành, được quý nhân phù trợ, cuối cát tường.
Duyệt: Cần kiệm, chịu thương chịu khó, trọng tín nghĩa, trung niên vất vả, cuối đời hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
|
![]() |
| Thêm sắc đỏ để tránh xung đột bất hòa |
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem |
3 con giáp sinh ra để hưởng chức cao vọng trọng
| Tên sao | Đẩu phận | Âm dương - ngũ hành | Chủ | Bị khảo |
| Thiên mã | Trung thiên đẩu (cát tinh) | Dương hỏa | Dịch mã, di động, cai quan lộc | Mệnh mã và nguyệt mã |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Mã là dương hỏa, là cát tinh trong chòm sao Trung Thiên Đẩu, hóa khí là dịch mã, là sao chưởng quản lộc, chủ về di động. Trong mười hai cung của mệnh bàn, sao Thiên Mã chỉ ở bốn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi, vì vậy bốn cung này được gọi là "tứ mã chi địa" (đất của sao Thiên Mã). Cũng bởi vì bốn cung này chính là cung vị của sao Trường Sinh trong mười hai sao Trưởng Sinh cục ngũ hành, nên bốn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi, còn được gọi là "tứ sinh chi địa" (đất của bốn sao Trường Sinh). Do bản thân sao Thiên Mã hóa khí là dịch mã, chủ về di động, nên đây là sao bẩm sinh giàu sức sống và rất hiếu động, lại ở vào bốn cung Trường Sinh vốn giàu có lại tăng thêm sức sống mạnh mẽ, vì vậy trợ giúp chó tính cơ động về danh lợi bên ngoài.
Thiên Mã là sao mang tính động thái, có câu "động thì cát lợi, tĩnh thì vô công", do đó sao Thiên Mã càng vất vả bôn ba, thì thu hoạch càng lớn, đại biểu cho tiền tài do vất vả làm ra. Nếu gặp lục cát tinh Lộc Tồn, Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, Vũ Khúc cùng với hai sao Thất Sát và Tham Lang miếu vượng, phần nào có thể khiến sao Thiên Mã phát huy được sỡ trường, nếu không ngừng bôn tẩu sẽ phát đạt tại quê người mà áo ấm về quê, chỉ có điều khá vất vả và lao lực.
Sao Thiên Mã thích nhất là tọa cung phu thê, nam mệnh sẽ được vợ trợ giúp. Nếu đồng cung hoặc bị hội chiếu với tài tinh sao Lộc Tồn, thì nhờ vợ mà trở nên giàu có. Nữ mệnh thì có thể nhờ chồng sáng quý, bản thân cũng có vận giúp chồng.
| ► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy phòng ngủ và những ảnh hưởng đến gia chủ |
![]() |
![]() |
| ► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Dây nắp ấm là món quà lý tưởng mừng sinh nhật hoặc trưng bày tại nhà; có tác dụng thúc đẩy không khí hòa thuận, tăng cường tình yêu đôi lứa.
Dây nắp bình hay nắp ấm, còn có tên là cỏ chuồng heo, là thực vật thân cỏ lâu năm. Lá hình bầu dục dài, mép lá có dạng lượn sóng; gân giữa kéo dài là các tua cuốn. Đầu tua cuốn có một cái lồng lá dạng bình nhỏ, mép bình dày, trên có nắp, khi trưởng thành nắp mở ra.

Cây nắp ấm biểu tượng cho hạnh phúc dài lâu.
Chiếc “lồng” của dây nắp ấm trông rất đẹp mắt, có màu xanh lục là chính cùng các đường vân và đốm màu đỏ hoặc nâu. Đây là cây đơn tính, hoa mọc theo thứ tự.
Dây nắp ấm là món quà lý tưởng mừng sinh nhật hoặc trưng bày tại nhà; có tác dụng thúc đẩy không khí hòa thuận, tăng cường tình yêu đôi lứa. Nên chọn những cây có thân thô, to, phiến lá xanh tươi, hình dạng lá nguyên vẹn và dáng vẻ trang nhã.

Nơi thích hợp nhất để trưng bày là hướng Đông, Đông Bắc hoặc Đông Nam của căn phòng. Loại cây này có thể điểm xuyết vẻ đẹp cho không gian phòng khách, ban công, bệ cửa sổ, treo bên hành lang… Có thể bày cây tại nhà ở, văn phòng hoặc bệnh viện.
Lạm dụng phong thủy sẽ gây ảnh hưởng xấu. Hiện nay, phong thủy trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều người hiểu rằng khi gia đình và công việc không thuận lợi, bất hòa thì có thể tạo ra những điều không may mắn đến các mối quan hệ cũng như sự nghiệp. Chúng ta thừa hiểu rằng năng lượng là một yếu tố thực. Chúng chuyển động bên trong cơ thể của chúng ta, trong các ngôi nhà và cả vũ trụ.
Vì thế, không có gì là ngạc nhiên khi năng lượng cũng có mặt lợi và mặt hại. Bởi năng lượng không phải là một thứ gì đó để “chơi” mà không cần quan tâm đến kết quả. Thực tế thì có rất nhiều yếu tố phong thủy bị hiểu sai và vận dụng sai gây ra những tác hại không mong muốn. Kiểm tra lại ngôi nhà của bạn để xem nó có phạm phải một trong những sai lầm sau đây không. Một điều tuyệt vời về phong thủy bạn nên biết, đó là bạn dễ dàng sửa chữa những sai lầm phong thủy một khi hiểu rõ về nó.
SAI LẦM 1
Treo một chiếc gương đối diện với cửa ra vào để mang lại năng lượng tốt Điều này có thể gây ra sự suy giảm về tài chính và các cơ hội kinh doanh liên quan. Cho dù là văn phòng hay nhà ở, một chiếc gương treo ở phía đối diện với cửa ra vào sẽ đẩy năng lượng ra ngoài. Về cơ bản là chặn đứng nguồn năng lượng đi vào nhà khi gặp chiếc gương. Bởi vì cửa ra vào là miệng của các chi, nhà ở hoặc văn phòng sẽ trở nên “nghèo đói” hoặc cạn kiệt năng lượng. Do đó, không nên treo một chiếc gương đối diện cửa ra vào. Gương treo đối diện cửa ra vào thực chất là đẩy năng lượng
SAI LẦM 2
Sơn cửa ra vào màu đỏ. Đỏ là một màu sắc mạnh mẽ, và nó có thể gây ra ảnh hưởng không tốt, thậm chí là thiệt hại nặng nề đối với một số không gian. Điều này đặc biệt đúng với cánh cửa ở hướng Tây Bắc. Hướng Tây Bắc có mối liên hệ trực tiếp với bầu trời, tượng trưng cho người cha hoặc người đàn ông trụ cột của gia đình. Vì vậy, góc này không nên có các ngọn lửa hoặc màu đỏ. Nếu làm như vậy tức là tạo ra “ngọn lửa trên bầu trời”, có thể khiến người cha hoặc người đàn ông trụ cột gặp phải tai nạn nghiêm trọng, bệnh tật, phá sản, mất việc làm. Nếu cửa ra vào ở hướng Tây (tượng trưng cho trẻ em) hoặc hướng Tây Bắc (tượng trưng cho người cha/người đàn ông) thì bạn nên sơn cửa màu trắng, xám, vàng hoặc màu be.
SAI LẦM 3
Treo một tấm gương phía sau bếp Bếp nấu là một phần của yếu tố Hỏa và khi có quá nhiều lửa thì nó sẽ thiêu rụi ngôi nhà. Sai lầm này xuất phát từ việc vị trí đặt bếp nấu khiến bạn không thể quan sát phía sau lưng, không biết được mọi người đang làm gì, ra vào như thế nào sau lưng mình. Cũng có một số ý kiến cho rằng việc đặt gương sau bếp nấu sẽ tăng gấp đôi sự giàu có của bạn vì gương nhân đôi số thức ăn bạn nấu trên bếp. Sự thật thì việc khuếch đại năng lượng của lửa quá mức là rất có hại. Treo gương đối diện bàn ăn tăng sự sung túc, dư dả. Nếu bạn muốn tăng sự sung túc, dư dả bằng cách sử dụng gương, tốt nhất bạn nên treo nó ở phòng ăn hoặc khu vực bố trí bàn ăn. Thức ăn bày trên bàn được nhân đôi tốt hơn là những ngọn lửa trên bếp. Một điều bạn nên lưu tâm là đối với hai yêu tốt nước và lửa thì cần sử dụng một cách điều độ, đúng và đủ.
SAI LẦM 4
Sử dụng gương bát quái hoặc gương phong thủy để đẩy năng lượng tiêu cực đi. Gương bát quái thường được sử dụng để xua đuổi năng lượng tiêu cực, tạo ra một ngã ba ở cửa ra vào hoặc ngôi nhà hoặc chống lại năng lượng xấu đến từ các hướng không mong muốn.
Những chiếc gương này sử dụng bát quái âm, phát ra nguồn năng lượng rất mạnh và có hại nên không được tùy tiện sử dụng. Bạn chỉ nên sử dụng gương bát quái nếu gặp trường hợp bất khả kháng và phải có lời khuyên của người am hiểu về phong thủy hoặc người tư vấn phong thủy. Gương bát quái không nên sử dụng tùy tiện
SAI LẦM 5
Mang cây xanh và nước vào trong phòng ngủ Theo phong thủy, cây xanh và nước cần được sử dụng một cách hợp lý. Để cây xanh trong phòng ngủ sẽ gây hao tổn sức lực cho chủ nhân của căn phòng khi ngủ vì ban đêm cây nhả khí CO2. Đối với phòng ngủ của vợ chồng thì cây xanh còn làm giảm đi sự lãng mạng và tình yêu giữa hai người.
Về phần nước, nếu nước chuyển động (tiểu cảnh) sẽ gây ra sự thất thoát tiền bạc, các vấn đề về hô hấp, bệnh xoang, sự trầm cảm hoặc trạng trái tinh thần mê man cho người ở trong căn phòng đó. Tránh để cây xanh và hoa cảnh, trừ khi một ai đó bị bệnh và không bao giờ mang nước vào trong phòng ngủ. Trong phòng ngủ của trẻ nhỏ, các bức tranh hoặc giấy dán tường có họa tiết về cảnh biển hoặc đại dương có thể gây ra bệnh tật và thiếu sáng kiến cho trẻ.
SAI LẦM 6
Treo pha lê trên cửa ra vào và cửa sổ Treo pha lê trên cửa ra vào hoặc cửa sổ được cho là lưu chuyển năng lượng nhưng thực chất là ngăn chặn dòng chảy năng lượng bên trong ngôi nhà. Pha lê mang năng lượng của đất. Khi treo chúng lên một ô cửa thì nó mất đi ý nghĩa vốn có. Nó khiến cho người sống trong ngôi nhà đó thiếu tính quyết đoán, khó tiến về phía trước, sống lộn xộn và gặp các vấn đề về chuyển hóa như tăng cân. Nếu bạn chỉ treo một viên pha lê trên một ô cửa sổ nhất định thì nó lại trở thành một biểu tượng. Cần phân biệt rõ việc treo chúng trên một hoặc hai cửa sổ trong nhà để đón ánh nắng là điều tốt. Nhưng treo pha lê ở tất cả các ô cửa trong nhà lại trở thành không tốt.
BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ PHONG NGUYÊN
1. CÓ YẾU TỐ TỬ VI ĐỨNG ĐẮN MÀ VẪN NGOẠI TÌNH
- Hỏi: Tôi xin gởi kèm theo đây lá số của vợ tôi để xin ông vui long xem giúp 1 điểm duy nhất: tại sao số vợ tôi không thấy có yếu tố gì đa tình mà vẫn phản bội? Tôi biết chắc ngày giờ sinh của vợ tôi rất chÍnh xác vì những điểm khác đều ứng nghiệm, nhưng mỗi điểm trên tôi không tài nào tìm hiểu nổi, mặc dù tôi cũng đã nghiên cứu tử vi khá vững vảng. Nếu ông có thể chứng minh được xin ông cho tôi biết sớm bằng thư riêng hoặc trên KHHB cũng được, miễn là ông đừng nêu rõ danh tánh của tôi cũng như ngày giờ sinh của vợ tôi.
- Đáp: ông đã nhận xét rất đúng khi cho rằng lá số của vợ ông không có yếu tố gì chứng tỏ bà nhà thiếu đứng đắn. Thực thế, mạng có Thiên Tướng mà lại không có sao gì đa tình tọa thủ (như Đào, Hồng, Riêu, Hỉ…) và "Thân" (vì bà nhà đã trên 30 nên tôi phải xét đến Thân nữa) cư Thiên Di lại hội toàn sao lạnh lùng, cô đơn như Cô Quả, Đẩu Quân, Vũ khúc, Lộc Tồn thì còn ai dám quyết đoán là đa tình. Thậm chí cung Nô Bộc cũng chẳng có sao gì chứng tỏ đương số giao du với những người ăn chơi, trụy lạc vì chỉ có Thất Sát hội Tả Hữu, Tang Hổ, Khốc Hư….
Quả thực lá số của bà nhà rất khó xem vì phải xét đến khía cạnh tâm lý trên các cung số nhiều hơn. Nếu ông để ý tới cung Phu (tức là liên quan đến chính ông), cung Tài, Quan và Di thì ông sẽ vỡ lẽ ra liền. Bây giờ xin ông cùng tôi phân tích từng cung: cung Phu có tử vi, Tham Lang hội Song Hao, Đào Hồng (Đào ở Quan, Hồng ở Phúc) chủ về chồng (tức là ông) có tay làm ra tiển nhiều, có môi trường dễ ăn chơi, rồi lại được nhiều phụ nữ thương yêu (nhờ Tham Lang hội Đào Hồng). Đó là lý do khiến bà bất mãn về ông. Cung Tài Bạch có Xương Khúc Khôi Việt Đào Hồng chứng tỏ đương số có tâm hồn nghệ sĩ, chứ không ham bon chen trên con đường danh lợi, chỉ thích giao thiệp rộng hoặc vui chơi (như lui tới phòng trà, ca nhạc, cờ bạc) để phù hợp với Thân cư Di có Vũ Phá (2 sao này chủ về sự phóng khoáng, không chịu gò bó, quy tắc…) và cung Quan có Đào Hoa chủ về sự hoạt động ngoài xã hội sớm nếu không xuất than đi làm việc ăn lương sớm khi cung Phu thừa khả năng nuôi dưỡng vợ. Đó là lý do làm cho bà không thể giữ lòng trung thành với ông. Ngoài ra cung Thân và cung Phúc lại còn chứng tỏ bà nhà luôn cảm thấy mình cô đơn, cần tìm 1 nguồn an ủi nơi người đàn ông khác khi chồng mình luôn theo phụ nữ bên ngoài. Với những lý do nêu trên, ông thấy rằng bà không trung thành với ông thực ra chỉ vì vấn đề tâm lý, vì hoàn cảnh trái ngược với chí hướng, ý nguyện của mình chứ không phải do bản chất đa tình, lường gạt chồng của bà. Theo tôi, chính ông đã đưa bà đến môi trường thiếu đứng đắn vì nếu ông không ăn chơi thì chắc chắn bà nhà không bao giờ dám hướng lòng mình về người khác vì dù sao Thiên Tướng thủ mạng cũng giữ được tư cách hiên ngang của mình, ngay cả ở trong hoàn cảnh ăn chơi bừa bãi nữa. Rất mong lời nói thật không làm mất lòng ông.
2. ĐÀ LA GẶP BẠCH HỔ LÀ CÁCH GÌ?
- HỎI: Có 1 vài thầy Tử vi coi lá sốcủa tôi cứ khen tôi được cách Đà La gặp Bạch HỔ mà dẹp bỏ tất cả các cách khác tại mệnh của tôi. Vậy xin ông cho biết cách đó có tốt thật không mà sao tôi không thấy sách nào đề cập tới? Tôi xin ông thứ lỗi đã không gởi lá số của tôi vì tôi biết ông không nhận giải đoán dùm độc giả KHHB mà chỉ trả lời về 1 điểm có lợi ích chung mà thôi.
- Đáp: Xin cám ơn ông thông cảm đường lối của tôi và nay xin trả lời về điểm ông nêu ra, chứ không đề cập đến cá nhân ông qua tử vi. Thú thực với ông là phú tử vi hoặc các cách về tử vi nhiều vô kể, không ai dám tự hào biết được hết, người biết được 1 số câu hóc búa này, kẻ nhớ được 1 số câu lạ lùng kia. Riêng về cách Đà La gặp Bạch Hổ thì tôi được biết các cụ Tử vi khi xưa thường hay nói tới: "HỔ TÒNG PHONG VI LINH VẬT" và khen cách này hay lắm. Hổ tức là Bạch Hổ, phong tức là Đà La. Cách này giúp cho ta trởi thành người độc đáo khác thường nhưng với điều kiện không gặp những cách "hiền" khác thì mới đáng gọi là "linh vật". Cũng như cách Thiên Hình gặp Bạch Hổ cũng phải độc thủ mới hữu hiệu, nếu có các cách khác như Cơ Lương, Thai Tọa, Khôi Việt… cùng hiện diện thì đương nhiên hết linh. Nhưng thường thường cách độc đáo như trên chỉ phát được 1 thời gian, không khác gì hung tinh Không Kiếp đắc địa hoạnh phát hoạnh phá, nhưng khi đã bắt đầu phát thì không có chướng ngại gì cản trở nổi. Vậy khi xem ai có cách như trên, không thể hồ đồ quyết đoán luôn là hay được vì còn phải xét xem có cách nào chế hóa đi không, cũng như bùa càng linh nghiệm càng khó tôn trọng, khó giữ gìn. Sau hết xin ông theo dõi loạt bài về "Tìm hiểu phú tử vi" trên KHHB do tôi phụ trách nếu ông tò mò các câu phú lạ.
3. THAM LANG NGỘ BẠCH HỔ NHƯ THẾ NÀO MỚI TỐT?
- HỎI: Tôi và 1 người bạn cùng đi xem tử vi. Tôi có Tham Lang đồng cung với Bạch Hổ bị thầy tử vi chê quá xá trong khi bạn tôi cũng có Tham Lang hội Bạch Hổ (chứ không đồng cung) lại được thầy khen hết lời. Ông thầy không chịu giải thÍch, có lẽ vì muốn dấu nghề, nên tôi xin ông chỉ dẫn cho nếu có thể. Tôi xin đính kèm 2 lá số để ông tiện nghiên cứu và trả lời
- Đáp: trước hết tôi cần nói với ông rằng trong khi thầy tử vi đó không chịu giải thích mà tôi lại trả lời ông thì hơi thiếu tế nhị, nhưng vì tôi luôn luôn chủ trương đóng góp thành thực và tối đa vào lĩnh vực tử vi nên tôi chẳng ngại gì, dù có bị chê là thiếu tế nhị. Tôi chỉ tiếc mình không biết nhiều để cống hiến độc giả KHHB mà thôi. Nay xin trả lời câu hỏi của ông.
Nếu ông có học Tử vi chắc ông biết rằng Tham Lang, Bạch Hổ đều là các con thú (Lang là con beo, Hổ là con cọp), cho nên khi nhốt chúng chung 1 chuồng (tức là đồng cung) thì thế nào cũng có lúc chúng cắn xé nhau, tức là cuộc đời mình xáo trộn, dù cho con nào được hay thua cũng vậy. Tuy nhiên cũng cần để ý đến ngũ hành của mình vì nếu mình hành Kim thì Bạch Hổ thuộc phe ta, và nếu mình hành Mộc thì Tham Lang thuộc phe mình (cũng có nhà Tử vi cho Tham Lang thuộc hành Thủy). Do đó khi ph eta thắng bao giờ cũng lợi hơn, còn phe địch thắng tuy không nguy khốn nhưng ta phải chịu đựng môi trường trái ngược, bất mãn. Muốn biết con thú nào thắng, ta cần phải kết hợp với các yếu tố khác, ví dụ Tham Lang có đủ cả bộ SPLT thì sẽ mạnh hơn Bạch Hổ có đủ cả Long Phượng, Hoa Cái (cách tứ linh) sẽ thắng Tham Lang dễ dàng nến Tham Lang cô đơn. Sau nữa cần phải xét đến ngũ hành của cung xem sinh sao nÀO thì sao đó mạnh, đồng thời lại phải đếm xem trong cung có nhiều sao Kim hoặc nhiều sao Mộc, sao kim nhiều thì lợi cho Bạch Hổ, sao Mộc nhiều thì lợi cho Tham Lang. Nhưng nói tóm lại, bao giờ Tham Lang đồng cung với Bạch Hổ cũng bất lợi mà ông lại ở trong trường hợp này cho nên thầy chê là đúng
Còn bạn ông thì trái lại được khen nhiều cũng là đáng, vì Tham Lang không đồng cung với Bạch Hổ và ở ngoài chiếu về Mệnh mà lại còn thêm Phi Liêm tức là 2 con thú ấy có cánh, di chuyển mau lẹ mỗi khi cần đến không khác gì chàng Tarzan mỗi khi hú gọi các thú vật, chúng ùa đến cứu giúp liền. Hai con thú ấy nếu không cùng 1 chuồng chúng sẽ không cắn xé nhau mà lại trở thành bạn với nhau. Do đó ông bạn ông có cuộc sống suông xẻ hơn và có hậu thuẫn vững vàng và hữu hiệu, nhất là trong lĩnh vực chÍnh trị. Không những thế, bạn ông còn được cả Hoa Cái, Thanh Long đều tượng trưng cho thú vật cả, như thế coi như hội đủ tất cả các con thú trong tử vi tại mệnh, đáng làm chúa tể trong chốn sơn lâm vậy.
Sau hết, ông bạn của ông lại còn có Thất Sát (Thân) thủ mệnh, tức là có chÍnh tinh miếu địa và có đủ khả năng chỉ huy nhóm thú nêu trên nên càng hữu hiệu. Trường hợp không có chÍnh tinh nào thì sẽ kém đi rất nhiều vì khi các con thú ấy ùa về mệnh (VCD) mà không có ai chỉ huy thì đương nhiên sẽ ô hợp, hỗn loạn hoặc nếu có chÍnh tinh hiền lành như Thiên Phủ, Thiên Lương cũng chẳng hay mấy vì làm sao chế ngự được các mãnh thú
Bây giờ chắc ông hết thắc mắc về sự chênh lệch quá nhiều giữa ông và bạn ông, và mong ông đừng kể lại cho thầy tử vi đã xem cho ông và bạn ông để tránh chuyện "múa rìu qua mắt thợ" hoặc mọi hiểu lầm không hay.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí