Mơ thấy con trai: Sự nghiệp phát triển- làm ăn hưng thịnh –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Người tuổi Tị thường được nhận xét là thông minh, tài trí. Họ thường đạt được những thành công rực rỡ trong sự nghiệp của mình.
Sinh ngày 13/12/1989
![]() |
| Cô ca sĩ của dòng nhạc đồng quê. |
Cô ca sĩ của dòng nhạc đồng quê hiện là tên tuổi sáng chói trên sân khấu ca nhạc thế giới. Đĩa hát của Swift luôn nằm trong top những đĩa nhạc bán chạy nhất trên thế giới.
Giành được 6 giải Grammy, bán được 26 triệu album trên toàn thế giới, sở hữu khối tài sản ước đoán trị giá 165 triệu đô la, Taylor Swift là gương mặt trẻ thành công nổi bật trong ngành giải trí hiện nay.
Swift sinh tuổi Tỵ, do đó cô mang rất nhiều đặc trưng của người tuổi Tỵ như biết cách tìm được chỗ đứng, biết tính toán sáng suốt. Cùng với trí thông minh, cô còn có vẻ ngoài thanh lịch, khuôn mặt xinh xắn, rất thích hợp với sân khấu, âm nhạc. Có lẽ vì những nhân tố ấy đã đưa lại cho Swift sự thành công vang dội trong sự nghiệp âm nhạc của mình.
Sinh ngày 23/7/1989
![]() |
| Chàng trai nổi tiếng với vai diễn Harry Potter. |
Daniel Radcliffe là diễn viên người Anh nổi tiếng trên màn ảnh thế giới với vai diễn Harry Potter. Radcliffe khởi nghiệp lúc 10 tuổi. Bắt đầu với những vai diễn nhỏ nhưng bằng tài năng diễn xuất của mình, Radcliffe đã tiến được tới những vai diễn lớn hơn. Trong đó phải kể đến vai diễn Harry Potter.
Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, Daniel Radcliffe còn sẵn sàng thử nghiệm với những lĩnh vực khó nhằn trong nghệ thuật diễn xuất. Cậu bước lên sân khấu kịch và thử sức cả ở thể loại nhạc kịch vốn đòi hỏi sự toàn diện (diễn xuất, ca hát và nhảy múa) của diễn viên.
Cả Taylor Swift và Daniel Radcliffe đều nổi tiếng là những người trẻ biết chia sẻ với cộng đồng. Cả hai đều hoạt động từ thiện tích cực. Người sinh năm Tỵ quản lý chặt chẽ chuyện tiền bạc nhưng lại hào phóng với bạn bè và gia đình. Con giáp này không thích cho vay tiền, nhưng sự cảm thông lại dễ dàng khiến họ ra tay giúp đỡ.
Sinh ngày 31/7/1965
![]() |
| Tác giả nổi tiếng của cuốn Harry Potter. |
Từ một phụ nữ nghèo bị đổ vỡ trong hôn nhân, hằng ngày ngồi lỳ bên bàn viết chỉ mong kiếm đủ tiền nuôi con, giờ đây, J.K. Rowling đã là một trong những người giàu nhất thế giới. Trong gần 10 năm, từ một người viết lách vì miếng cơm manh áo, Rowling đã trở thành tỷ phú.
Sự thay đổi này là nhờ vào bộ truyện Harry Potter. Tác phẩm nổi tiếng của Rowling đã tạo thành cơn sốt đối với độc giả trên khắp thế giới, được dịch ra gần 70 thứ tiếng và đạt doanh số khổng lồ hơn 400 triệu bản.
J.K. Rowling mang nét tính cách giỏi chờ đợi của người tuổi Tỵ. Họ có thể chờ hàng năm và kiên nhẫn quan sát nhưng khi thời cơ tới, họ sẽ dồn toàn bộ sức lực để hành động. Người tuổi này kiên định theo đuổi mục tiêu dù quá trình thực hiện khó khăn tới mức nào.Và kết quả giành được sẽ vinh quang tương xứng với cái họ chờ đợi.
(Theo Dantri.com.vn)
Cửa chính

Hướng Đông là hướng cửa may mắn nhất trong năm 2015
Phương hướng của cửa chính là một yếu tố vô cùng quan trọng trong bố cục nhà cửa. Thông thường cửa chính là nơi sát khí ra vào thường xuyên. Năm 2015, hướng cửa chính may mắn nhất là hướng chính Đông, đây cũng là hướng tài vận tương đối dồi dào. Các đồ dùng trong gia đình cũng có thể đặt theo hướng này.
Phòng khách

Ghế sofa tốt nhất nên đặt ở vị trí “tài” trong phòng khách
Phòng khách được cho là không gian vượng tài nhất trong nhà, vì thế cần bố trí phòng khách đúng phương vị. Theo phong thủy tài lộc, vị trí của ghế sofa trong phòng khách cũng quan trọng không kém. Ghế sofa tốt nhất nên đặt ở vị trí “tài” trong phòng khách để nâng cao may mắn, tiền tài và vận thế của chủ nhân.
- Nếu cửa của ngôi nhà thiết kế ở bên trái, thì tài vị nằm ở góc đối diện bên phải của cửa phòng khách.
- Nếu cửa ngôi nhà thiết kế ở bên phải thì tài vị nằm ở góc đối diện phía bên trái của cửa phòng khách.
- Nếu cửa của ngôi nhà thiết kế ở giữa thì tài vị nằm ở góc đối diện 2 bên.
Phòng bếp

Phòng bếp không nên đặt quá gần phòng ngủ và phòng khách
Vị trí của phòng bếp nên tránh xa các phòng may mắn như phòng ngủ và phòng khách. Trong bố cục nhà cửa, phòng bếp thường được đặt ở vị trí “hung”, bởi vì nếu đặt ở vị trí may mắn sẽ làm hỏng việc tiếp nhận khí tốt của gia đình. Phòng bếp cũng nên đặt một số linh vật phong thủy để ổn định từ trường, tránh sự ảnh hưởng của hung khí từ phòng bếp.
Phòng ngủ
Với phòng ngủ, ngoài việc lựa chọn vị trí tốt, cũng nên chọn hướng tốt hợp tuổi của cả hai vợ chồng. Nếu như đặt đúng phương hướng, tình cảm vợ chồng sẽ mặn nồng, gia đình hạnh phúc. Bên cạnh đó, tuyệt đối không bao giờ đặt phòng ngủ ở vị trí Đông Bắc vì đây là hướng không thuận lợi nhất cho vợ chồng sinh sống, sẽ phá hỏng cuộc sống gia đình, hơn nữa cũng dễ dẫn đến cãi vã.
(Theo Eva/Khám phá)
Người xưa thường nói: “Tiền bạc là vật ngoài thân. Con người sinh ra không mang theo đến, khi mất cũng không mang đi được”. Và người ta cũng thường hay nói : “Có tiền mua tiên cũng được”. Có tiền hay không có tiền là một bức tranh muôn màu muôn vẻ,. Có người thì cố gắng tiết kiệm, tích cóp, người thì trở thành “phá gia chi tử”, nhưng sức mạnh của nó trong xã hội hiện tại thì là điều ta không thể phủ nhận. Vậy trong tháng 3 này, con giáp nào sẽ cực kỳ dồi dào tiền của đây?
Hạng ba: Tuổi Ngọ
Tháng 3 là tháng mà cả thu nhập chính và thu nhập phụ của tuổi Ngọ đều rất tốt. Họ là người dám cống hiến hết mình, bất kỳ ai cũng nhìn thấy được sự nỗ lực không ngừng nghỉ của họ. Tháng 3 này, tài vận của tuổi Ngọ thực sự đi đến đỉnh điểm. Ngày tháng đủ đầy càng ngày càng nhiều và cuộc sống cũng ngày càng hạnh phúc hơn.

Hạng nhì: Tuổi Tý
Tháng 3 là tháng tuổi Tý gặp được quý nhân, tổng thể tài vận tốt. Họ dám đương đầu với những khó khăn, thách thức trong công việc. Không có gì là tuổi Tý không thể làm được, chỉ có những điều không thể tượng tượng được mà thôi. Những ngày tháng huy hoàng đang trải dài ra trước mắt, và cuộc sống của người tuổi Tý cũng không thoát khỏi được “kiếp giàu sang”.

Hạng nhất: Tuổi Hợi
Tuổi Hợi sinh ra vốn làm việc gì cũng không khoa trương thanh thế. Họ cũng không tự cao, tự đại, có khó khăn đều dũng cảm vượt qua. Tương lai thì tuổi Hợi là người có phúc lớn, dĩ nhiên tài vận cũng không thể tuột khỏi tay họ. Chỉ cần tuổi Hợi nỗ lực thì ắt thành công. Tài vận trong tháng 3 được ví như “diều gặp gió”. Tuổi Hợi hãy đợi để thu tiền về nhé!

– Năm sinh dương lịch: 1996, 2056
– Năm sinh âm lịch: Bính Tý
ban-tho-than-tai-tuoi-binh-ty
– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Bính tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.
– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Bính tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).
– Gia chủ tuổi Bính tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.
– Gia chủ tuổi Bính tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Đông (Diên Niên); Bắc(Sinh Khí); Nam (Thiên Y); Đông Nam (Phục Vị). Đối với tuổi Bính tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc(Sinh Khí); Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị).
– Gia chủ tuổi Bính tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây Bắc (Họa Hại);Tây Nam(Ngũ Quỷ); Tây (Lục Sát); Đông Bắc (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Bính tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là: Đông (Họa Hại);Đông Nam(Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); Bắc (Tuyệt Mệnh).
*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy
– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.
– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ
– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.
– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.
– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.
– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.
– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.
– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.
– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Bính tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.
– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.
ệc bố trí sắp xếp đồ đạc cho phòng ăn còn phải lưu ý đảm bảo cho khí được lưu thông và giữ phòng được sạch sẽ, gọn gàng, không được có quá nhiều đồ đạc sẽ tạo cảm giác bừa bộn, lộn xộn.

Bô” trí trong phòng ăn, tuy yêu cầu đẹp tao nhã nhưng việc chú trọng về mặt phong thủy học cũng không nên coi thường. Bô” trí phòng ăn ở các phía Đông, Đông Nam, Nam và Bắc của ngôi nhà sẽ được cát lành.
Phòng ăn ở phía Nam, nơi có đầy đủ ánh sáng mặt trời, thuộc hành Hoả, sẽ làm cho gia chủ ngày càng hưng vượng.
Phòng ăn ở phía Đông, Đông Nam thuộc hành 112 mộc, chất chứa nhiều năng lượng, sinh cơ, rất tốt cho việc dùng bữa buổi sáng.
Cửa sổ phòng ăn không nên đốì diện nhau vì khí vào cửa này lại ra cửa kia không thể tụ khí do đó không tốt cho khí vận của ngôi nhà.
Thông thường, phòng ăn không thích hợp nằm trong gian bếp, vì mùi dầu mỡ và khí nóng sẽ làm ảnh hưởng đến việc ăn cơm. Phòng ăn và gian bếp nên bố trí liền kề nhau, nếu xa nhau sẽ rất bất tiện khi dọn bữa ăn. Tốt nhất là giữa phòng ăn và gian bếp có cửa liên thông tạo đoạn đường ngắn. Không được tận dụng không gian ở gần nhà vệ sinh để làm phòng ăn. Nếu không thể tránh được thì nhất thiết phải để bàn ăn tránh càng xa nhà vệ sinh càng tốt
– Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại. Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.
11. Thất bại lớn nhất của đời người là tự mãn
Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại.
Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.
12. Sự kém hiểu biết lớn nhất của đời người là oán trách
Bản thân kém hiểu biết, không thấy được đạo lý, không thấu tình đạt lý, khi gặp điều không như ý bèn quay ra oán trời trách đất, oán than con người thế gian không giúp đỡ, oán trách cả xã hội, bạn bè, thân quyến.
Đó chính là sự kém hiểu biết nhất trong cuộc đời mỗi con người. Sao không tự soi trách mình trước mà còn oán than bạn bè, họ hàng thân thuộc, trút giận lên mọi thứ xung quanh.
![]() |
Mệnh chính là giá trị NHÂN SINH con người![]() |
| => Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
7 điều đừng hiểu sai về sai về đạo Phật
Hành: KimLoại: Phúc Tinh, Quý TinhĐặc Tính: Thịnh vượng, gia tăng tài lộc, con cái
Phụ Tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người uy nghi, đường bệ, tính tình quảng đại, từ thiện, bác ái, có tài lãnh đạo, có óc lãnh tụ.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ
Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.
Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".
"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.
Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.
Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.
Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?
Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:
Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.
Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN
1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng
Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.
Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.
Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.
Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.
Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.
Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".
Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.
Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.
Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.
Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.
2- Quan sát toàn diện 12 cung
Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.
Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.
Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.
3- Các bước luận đoán mệnh bàn
Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:
3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.
Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.
3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch
Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.
Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.
3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức
Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.
Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.
3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý
Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.
Xin đưa ra một ví dụ thực tế:
- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.
3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn
Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.
Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.
Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).
Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.
Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".
Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.
Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.
3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung
Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.
Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo
- Mượn sao an cung
Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.
Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.
Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.
Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.
Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.
Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.
Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.
Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.
Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau
Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".
Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:
Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.
Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.
Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.
Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).
Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.
Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.
Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".
"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm
Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.
Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.
Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.
Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:
+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang
+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt
+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã
+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.
Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.
- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.
- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.
- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".
- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.
Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:
Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).
Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.
"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN
Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.
Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.
Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.
Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.
Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.
Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.
Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )
Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.
Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".
Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.
Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".
Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".
Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.
Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN
1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu
Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).
Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".
Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch
- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn
Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.
Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:
1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)
2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)
Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.
Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.
Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:
1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.
2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.
3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.
4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.
Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.
Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.
Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.
Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.
Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.
Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.
Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.
2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên
Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.
Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:
Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.
Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.
Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.
Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.
Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.
Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.
Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).
Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.
Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.
Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.
Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.
Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.
Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.
Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"
Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.
Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.
Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.
Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.
Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao
Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.
Mệnh bàn nguyên cục:
- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.
Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.
Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.
Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.
Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.
Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.
Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.
Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.
Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.
Ghi chú về phép định Tiểu hạn
Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.
3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt
Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.
Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.
Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.
Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.
Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.
Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".
Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.
Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.
Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.
Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.
Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.
Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt
Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.
- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát
- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.
- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.
- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.
- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.
- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.
- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban
Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con
Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.
Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:
- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)
Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.
4)- Cách luận đoán lưu nhật
Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.
Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.
Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...
Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.
Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.
Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.
Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:
- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.
Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.
Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.
Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.
Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.
Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.
Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.
Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.
Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.
Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.
Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.
Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.
5)- Cách luận đoán lưu thời
Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.
Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:
- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý
Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.
Tặng quà là một trong những hình thức xã giao có thể giúp cải thiện quan hệ, tăng cường nhân duyên. Nhưng tuyệt đối đừng chọn những món quà không nên tặng người khác ở dưới đây kẻo tốt lành đâu chẳng thấy, chỉ thấy họa kéo tới.
![]() |
![]() |
![]() |
Câu hỏi:
![]() |
A. Mắt một mí
B. Bên một bên hai
C. Mắt hai mí
D. Mắt nhiều hơn hai mí
E. Mắt sụp mí
Maruko (theo Sohu)
– Cửa sổ phòng khách đối diện cửa ra vào, hoặc các cửa trong nhà đối nhau, sức khỏe giảm sút, tình duyên trục trặc; Giày dép trong tủ giày hướng mũi ra ngoài, vợ chồng bất hòa, xuất hiện tình trạng ngoại tình... là hàng loạt những cấm kị phong thủy mà nữ giới cần tránh.
![]() |
![]() |
![]() |
Dự đoán gia vận đi xuống với 5 điềm báo phong thủy
iệu sẽ mang đến vận may về tiền bạc, sức khỏe, sự nghiệp cho bạn.
1. Khi dơi làm tổ trong nhà của bạn
Theo ## thì đây là một trong những dấu hiệu mạnh mẽ nhất rằng gia đình sẽ gặp những may mắn trong tiền bạc, tài chính. Đối với người Trung Quốc, dơi như là biểu tượng của sự giàu có dồi dào.
Chúng ta thường thấy các mô hình tròn năm con dơi (Ngũ Phúc) là một tính năng thiết kế rất phổ biến được tìm thấy trên đồ nội thất, tranh vẽ, gốm sứ. Người Trung Quốc tin rằng con dơi chỉ làm tổ ở những nơi tốt lành nhất – họ cho rằng cảm nhận của dơi rất nhạy bén, nó có thể “ngửi” ra khỏi nơi có khí tốt lành. Nếu các con dơi bay đến và làm tổ dưới mái hiên nhà bạn thì điều này báo hiệu niềm vui, sự may mắn sắp tới với bạn.
2. Khi ai đó cho bạn tiền vào những ngày may mắn

Đây là dấu hiệu chắc chắn rằng bạn sẽ có một sự gia tăng đáng kể về tiền bạc. Ngày may mắn thường được xem là ngày rằm và ngày mùng một trong tháng hay những ngày hợp với tuổi của bạn. Có thể tìm thấy ngày này trong lịch vạn sự. Hãy chắc chắn rằng bạn giữ tiền mặt cho bạn trong ngày đó, vì nó được coi là “đồng tiền may mắn”.
Tiền có thể được giao cho bạn theo nhiều cách. Nó có thể là một ai đó trả nợ cho bạn, hoặc một người nào đó đem lại cho bạn một tin tốt lành có lợi lớn cho dự án hay công việc của bạn. Đó cũng chính là niềm tin đằng sau các truyền thống lì xì lấy may trong những ngày đầu năm mới âm lịch. Đặc biệt, ngày rằm tháng giêng còn được xem là “Ngày của phép lạ”. Do đó, tiền nhận được vào ngày này luôn luôn được coi là tiền may mắn.
3. Khi phân chim rơi vào đầu bạn
Nhiều người tin rằng đây là một dấu hiệu chính của sự giàu có đến từ thiên đường. Do đó, mặc dù nó thực sự là kinh khủng và một sự bất tiện lớn, khi điều này xảy ra với bạn. Hãy thoải mái, vì trong thực tế là điều này được mô tả là chỉ một sự may mắn.
Trong thực tế, hầu hết những thứ liên quan tới gia cầm đều có xu hướng mang lại vận may, chẳng hạn như khi con chim bay về nhà của bạn và bắt đầu làm tổ trong và xung quanh ngôi nhà của bạn. Trong khi loài dơi mang lại sự phong phú, chim mang tin tốt và cơ hội tốt. Tuy nhiên, nếu có những loài chim như chim ác, quạ, diều hâu, chim lợn…bay đến nhà bạn thì đó lại là biểu hiện của sự xui xẻo.
4. Tìm tên bạn trên mạng nhện

Đây được cho là một dấu hiệu cho thấy bạn sẽ có gặp may mắn mãi mãi. Tất cả các kế hoạch của bạn sẽ phát triển và có kết quả tốt và bất cứ điều gì trở ngại có thể được ngăn chặn các dự án của bạn sẽ được hoá giải. Cũng giống như nhện, bạn sẽ thu hút thức ăn và tiền bạc mà không cần cố gắng. Điều này thường xảy ra trước khi bạn nhận ra dấu hiệu đó.
5. Khi bạn gặp rắn
## cho rằng gặp rắn là một dấu hiệu của may mắn. Nếu bạn gặp rắn trong khu vườn, bên trong nhà hoặc ngoài đường có nghĩa là một cái gì đó hoặc ai đó quan trọng sẽ bước vào cuộc sống của bạn (còn gọi là Quý nhân phù trợ).
Đừng bao giờ cố gắng để gây tổn hại hoặc giết một con rắn khi phải đối mặt với nó. Những con rắn càng độc thì càng may mắn. Các vua rắn hổ mang được mô tả là một con rắn của sự may mắn tột bậc. Dù bạn làm gì, không bao giờ được giết một con rắn vì nó có liên kết tới một số mặt tinh thần. Nó thường tự trốn đi khi ý thức được sự hiện diện của con người.
6. Khi tay bạn thấy rộn ràng náo nức
Đó là một dấu hiệu chắc chắn rằng tiền bạc sắp đến với các bạn. Theo quan niệm chung, khi bàn tay trái bạn rung lên rộn ràng thì bạn có thể sắp trúng vé số hay có tiền bất minh. Bàn tay phải rung lên thì bạn sẽ có tiền mà do bạn làm ra. Và ngược lại, nếu lòng bàn tay phải của bạn bị ngứa thì bạn sắp phải chi tiêu khá lớn. Và nếu lòng bàn tay trái của bạn bắt đầu ngứa, thì bạn sắp có niềm vui lớn hay có “lộc trời cho”.
7. Khi bạn nhìn thấy sao băng

Tại thời điểm nhìn thấy sao băng, bạn lập tức nguyện ước điều bạn mong muốn và sẽ có kết quả trong thời gian ba mươi ngày sau đó. Nếu bạn bị bệnh, sức khỏe bạn sẽ dần tốt hơn; nếu vận may của bạn đang kém, sau đó sẽ gặp nhiều may mắn hơn. Nếu bạn đã mất đi một cái gì đó, bạn sẽ lấy lại nó.
Ví dụ: nếu bạn vừa chia tay với bạn trai của bạn, bạn sẽ làm lành với anh ta hoặc tìm được một bạn trai mới. Vì vậy hãy luôn chuẩn bị điều ước cho mình, mỗi khi gặp sao băng lập tức nhắm mắt lại và ước nguyện.
8. Khi tổng ngày sinh của bạn cộng lại là 80
Trong giai đoạn thuộc vận 8, tính đến ngày 4/2/2024, nếu tổng các chữ số ngày sinh của bạn cộng lại lớn hơn 80 thì bạn sẽ nhận được nhiều điều may mắn. Ví dụ ngày sinh của bạn là 9/6/65 (9 + 6 + 65 = 80). Số 8 được xem là số vượng nhất trong thời kỳ này, nó giống như một dấu hiệu may mắn.
Những người có Cung Phi Bát Quái là Cấn – 8 cũng sẽ được hưởng may mắn trong chu kỳ vận 8 này.
9. Khi tai của bạn hay bị nóng
Nhiều người tin rằng điều đó là có ai đó đang nói về bạn. Nếu nó là tai trái, có nghĩa là bất cứ ai là nói về bạn là nói những điều tốt đẹp. Trong khi nếu đó là tai phải thì là nói những điều không hay. Và có một quan điểm đi kèm với hiện tượng này là nếu bạn có thể nghĩ đúng người đang nói về mình, tự nhiên tai bạn sẽ hết nóng hoặc đỏ. Bạn hãy thử kiểm chứng điều này.
"Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu"
|
| Lễ hội chọi trâu |
"chôn rau cắt rốn". Nơi có lễ hội truyền thống "độc nhất vô nhị" tại Việt Nam. Đó là lễ hội chọi trâu được tổ chức hàng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn.
Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo họ thì điều quan trọng nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. Thông thường, sau Tết Nguyên Đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Cạn... mới tìm được con trâu vừa ý.
Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường "giật" giải nhiều hơn. Bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu.
Chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỷ mỉ. Trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng chống chịu được đòn của đối phương. Thông thường, những chú trâu da đồng, lông móc, một khoang 4 khoáy, hàm đen là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như 2 cánh cung, giữa 2 sừng có túm lông hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay.
Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu thường là những người có nhiều kinh nghiệm. Trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà, cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó.
Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét. Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo. Sau khi huấn luyện, trâu nào được chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là "ông trâu". Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn lên thành "cụ trâu".
Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi. Những người này được coi là nghệ nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của "ông trâu"…
Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thủy thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ.
Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi… Từ 2 phía của sới chọi, "ông trâu" được dẫn ra có người che lọng và múa cờ 2 bên. Khi 2 "ông trâu" cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Đôi trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, đôi trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân Đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là lá cờ vóc hồng thêu 2 chữ "Thượng Đẳng" bằng kim tuyến và bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.
Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần... Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc…
Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một điểm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương đến với Hải Phòng. Chính vì vậy lễ hội chọi trâu đã được nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước.
(Theo Baomoi)
![]() |
Kim Bạc Kim là một loại kim loại mỏng (Tuổi Nhâm Dần và Qúy Mão). Kim Bạc Kim được hiểu như một loại kim loại mỏng dùng làm chất tô màu, mạ cho các kim loại khác nên phải dùng Thủy (nước), mà màu thì lại phải tô trên gỗ thích hợp gặp Bình Địa Mộc (gỗ phẳng) và khi đã gặp mộc này rồi đi không thể gặp lại hỏa không thì sẽ bị chủ yếu chiết (chết non). Kim Bạc Kim sợ nhất là Lô Trung Hỏa (tức tuổi Bính Dần và Đinh Mão) vào vị trí thì tương khắc, Kim Bạc Kim thích gặp Tuyền Trung Thủy và Giản Hạ Thủy, Thiên Hà Thủy là nước trong, tại ngày sinh (nhật trụ), giờ sinh (thời trụ), có nước trong ba loại thủy trên, tháng sinh (nguyệt trụ) phải có Mộc, đây mới là mệnh tốt. Sợ gặp Đại khê thủy thì lông bông phiêu dạt. Đại Hải Thủy không có Mộc làm nền, nếu gặp thì chủ độc ác, tàn nhẫn.
không thận trọng có thể gây thất tán tài sản, hại đến sức khoẻ.

(1) Trên bàn ăn không nên dùng đèn hình cây nến
Một số loại đèn giá treo được làm bằng các cây nến trắng hình ống, tuy đây là loại đèn kiểu cách mới lạ thiên về giá trị thưởng thức, nhưng nếu để nó trên bàn ăn thì chắng khác gì xếp một đống nến trắng lên bàn, điều này thực sự là không tốt. Vì nến trắng tượng trưng cho chuyện tang lễ, để nó ở nơi mọi người trong nhà tập trung ăn uống thì hậu quả thật khó lường. Vì vậy phải hết sức tránh. Tuy nhiên với một số loại nến có màu sắc khác thì không hại gì.
(2) Không nên dùng bàn ăn làm bằng đá và thuỷ tinh
Bàn ăn làm bằng đá và thủy tinh cứng và lạnh, tuy cảm quan nghệ thuật của chúng mạnh nhưng nó dễ hấp thu nhanh năng lượng từ cơ thể người sau bữa ăn toả ra, sẽ không có lợi trong trường hợp mọi người ăn xong còn ngồi lại chuyện trò.
(3) Bàn ăn và ghế ngồi không nên để bị “đèn” ép
Vì khi người ta ngồi ăn có đèn ở trên đầu đè xuống sẽ ảnh hưởng đến tư duy, đồng thời cũng gây bất lợi cho phát triển sự nghiệp.
(4) Bàn ăn không nên đặt đối diện cửa chính
Bàn ăn đặt đối diện cửa chính dễ làm thất tán của cải trong nhà, phong thuỷ học về nhà ở đã cảnh báo “hỉ hồi triền kị xung”, nếu phạm sẽ dễ làm cho nguyên khí gia chủ thất thoát, vì thế mà ảnh hưởng lớn đến phong thuỷ. Nếu bàn ăn và cửa chính nằm trên một đường thẳng, đứng ngoài cửa đã nhìn thấy cả nhà ngồi ăn cơm, thật sự bất tiện.
(5) Bàn ăn không nên đối diện với phòng bếp
Bếp thường xuyên thải ra hơi dầu mỡ, nhiệt độ lại tương đối cao, bàn ăn đối diện với bếp sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ mọi người trong nhà, ví dụ dễ phát sinh các vấn đề về tâm lý như phiền muộn, tì khí nóng.
(6) Bàn ăn rất kị đối diện cửa phòng vệ sinh
Nhà vệ sinh theo phong thuỷ là nơi xấu “ô uế”, càng giấu kín được nó càng tốt, nếu để cửa nhà vê sinh đối diện với bàn ăn sẽ hại đến sức khoẻ mọi người trong nhà.
(7) Gần bàn ăn tránh bầy biện đồ vật ô tạp
Quá nhiều đồ vật ô tạp sẽ phá hỏng phong thuỷ bàn ăn và phòng ăn, dỗ làm cho gia đình bất hoà, ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng.
(8) Bàn ăn không đặt đối diện bàn thờ
Bàn thờ là nơi thờ cúng tổ tiên, nghiêm túc mà nói, không được bố trí nơi ăn của người phàm trần gần đó, âm dương chia lối, trần tiên khác biệt. Hơn nữa, nếu bàn thờ là nơi thờ cúng Quan âm, Phật tổ, do các vị này đều ăn chay và không sát sinh, đồ ăn của người phàm trần trước mặt họ lại là những thịt những cá, như vậy thật không hợp chút nào. Nếu có diều kiện, tốt nhất phải giữ một khoảng cách cần thiết giữa bàn ăn và bàn thờ.
(9) Làm thế nào để chọn được “hình” bàn ăn
Các thầy phong thuỷ cho rằng, bàn ăn kị ở chỗ bốn bên có góc. Kiểu bàn ăn vuông của người phương Tây là không phù hợp, nhất là với bàn ăn hình chữ nhật có 4 góc nhọn thì càng không hợp. Nếu bắt buộc phải dùng kiểu bàn hình chữ nhật thì hãy chọn dùng bàn góc tròn. Chi tiết có thể tham khảo các ý kiến sau:
– Bàn hình tròn: Bàn ăn hình tròn thích hợp với những gia đình bình thường vì nó có hiệu quả đối với đoàn tụ và hoà khí, nó tượng trưng cho sự công bằng, không phân biệt địa vị cao thấp. Mọi người trong nhà sẽ rất dễ hoà đồng, trò chuyện với nhau nếu sử dụng kiểu bàn này.
– Bàn hình chữ nhật: Loại bàn này chú yếu được sử dụng tại các gia đình khá giả hoặc những trường hợp vì điều kiện hạn chế về diện tích. Bất kể là nguyên nhân gì, gia đình dùng bàn ăn hình chữ nhật rất dễ tạo sự phân biệt chủ khách, có nghĩa là vị trí của người chủ trong nhà thường khá trội. Như vậv trong giao lưu tình cảm dễ xuất hiện hiện tượng mệnh lệnh, gia trưởng.
– Bàn hình vuông: Bàn ăn hình vuông rất ít gia đình sử dụng, nếu có sử dụng thì cũng chỉ vì một số nguyên nhân đặc biệt nào đó. Trong nhà dùng bàn hình vuông không những dễ xảy ra tình trạng xung đột và đối lập giữa mọi người mà còn có thể có hiện tượng thai nhi biến dạng. Bàn hình vuông chỉ có thể dùng được cho 4 người, vì vậy thường mang lại cảm giác cô quạnh.
– Bàn hình bầu dục: Gia đình dùng loại bàn này dễ xảy ra tình hình kéo bè kéo cánh của các thành viên. Tốt nhất là không dùng, đặc biệt là các gia đình lớn.
– Bàn nhiều cạnh hoặc cạnh không bằng nhau: Là loại bàn thường chỉ dùng trong một vài gia đình có diện tích nhà ở quá hạn hẹp, có thể nói là hiếm có. Gia đình sử dụng loại bàn ăn này rất dễ phiêu bạt bất định, các thành viên trong nhà phân tán, không đoàn kết, tình cảm rạn nứt.
Trao đổi với VnExpress.net, Tiến sĩ Nguyễn Đệ, Giảng viên khoa Văn hóa học, Đại học Văn hóa TP HCM cho biết, trong đời sống người dân Việt, Tết Nguyên Đán được xem là thời điểm rất quan trọng. Nếu như ngày Mùng Một Tết bắt đầu một mùa xuân mới của đất trời, thì đối với con người nó có ý nghĩa bắt đầu của một chu trình sống, làm việc cũng như một chu trình tình cảm mới.
Không biết tự bao giờ những tập tục ngày đầu xuân này đã chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa cũng như tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngày nay, con người hiện đại vẫn truyền tai nhau giữ nét truyền thống này như một phương thức tâm linh để tự bảo vệ trước những điều bất trắc, điềm “gở”, đồng thời chủ động đón điều lành đến nhà.
Đề cập riêng về hệ quả của việc tuân thủ hay không những điều kiêng kỵ này, Tiến sĩ Đệ cho rằng, nó tùy thuộc vào quan niệm và tín ngưỡng riêng của từng người, từng gia đình. Bởi trên thực tế chưa có trường hợp cụ thể nào chứng minh được tính đúng sai của nó. Song ông nhìn nhận, việc hiểu biết các tập tục này sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử trong các mối quan hệ.
Xuân Tân Mão 2011 đang đến gần, ông Đệ cũng chia sẻ 14 điều kiêng kỵ phổ biến trong ngày Tết ở nước ta như sau:
Kiêng quét nhà:
Dân gian cho rằng nếu quét nhà vào 3 ngày đầu năm thì cả năm đó gia đình sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Hoặc có thể quét nhà nhưng tập để rác ở một góc nhà chứ không hốt đi.
Tập tục này xuất phát từ truyền thuyết, ngày xưa ở Trung Hoa có một lái buôn thật thà tên là Âu Minh. Khi ông đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần thương ban cho một người hầu tên là Như Nguyệt. Từ ngày thương gia này đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to.
Một hôm Như Nguyệt phạm lỗi, Âu Minh không kiềm được cơn giận đã ra tay đánh cậu bé. Như Nguyệt hoảng sợ trốn vào đống rác và sau đó biến mất tăm. Từ ngày đó, Âu Minh làm ăn sa sút, buôn bán không được nên nghèo kiết xác. Dân làng bàn tán xôn xao cho rằng Như Nguyệt là một vị thần đã mang lại sự giàu có, hưng thịnh mà nhà Âu không biết quý trọng. Từ đó, dân gian đã lập bàn thờ Như Nguyệt và đặt tên là Thần Tài với hy vọng vị thần này sẽ độ trì cho gia đình được nhiều tài lộc.
Cũng xuất phát từ truyền thuyết này mà ngày Tết, nhân dân có tục kiêng hốt rác trong ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi thì cả năm đó làm ăn sẽ thất bát. Vì thế từ trước đó cho đến đêm giao thừa, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, đồng thời ý tứ ức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.
Riêng ở Nam bộ người ta còn cho rằng sau khi quét dọn phải cất hết chổi, bởi nếu trong ngày Tết bị mất chổi là điềm gở, cả năm đó nhà sẽ bị trộm vào vét sạch của cải.
Kỵ mai táng:
Tết Nguyên Đán được gọi là “Tết Cả”, là ngày vui nhất của một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng mở đầu cho một vận hội mới của đất trời, của con người và cả dân tộc. Vì thế dù gia đình có tang cũng phải tạm gác chuyện buồn để hòa chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết, tức là nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, còn ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh đó.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng Chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Còn nếu qua đời đúng Mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng Mùng Hai làm lễ phát tang.
Kỵ cho nước, cho lửa:
Người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình. Vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, cho người khác cái may trong ngày Mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều xui rủi như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai vạ.
Ngoài ra, cũng kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc, nguồn công năng cho gia đình. Nếu cho nước thì sẽ bị mất “lộc”.
Bởi quan niệm này nên ngay từ những ngày cuối năm, dân gian luôn chủ động đưa nước đầy ắp lu vại, lửa hồng trong bếp để tránh phải đi xin mấy ngày đầu năm.
Kỵ vay mượn, trả nợ ngày đầu năm và đầu tháng:
Người xưa dạy, không nên vay hoặc cho tiền bạc, đồ đạc vào những ngày đầu năm mới vì sẽ khiến gia đình rơi vào cảnh túng thiếu cả năm. Điều kiêng kỵ này xuất phát từ quan niệm ngày đầu xuân con người mở cửa để đón lộc vào nhà, còn nếu cho mượn hoặc trả giống như “dâng” tài lộc vào tay khác.
Kiêng ăn thịt chó, cá mè, vịt, trái chuối…
Là những loài mà tên gọi của nó gắn liền với những điều không may lành như “trượt vỏ chuối”…
Không làm vỡ đồ đạc:
Vỡ bát đĩa, ấm chén hoặc cãi nhau, chửi tục, khóc lóc, buồn tủi, nói điều xui rủi…sẽ khiến gia đình bất hòa, chia rẽ.
Kiêng mặc quần áo màu đen (hoặc trắng):
Theo quan niệm của người xưa, màu đen và trắng là màu của tang lễ, chết chóc. Thay vào đó nên mặc đồ màu hồng, đỏ, vàng, xanh... tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới.
Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mùng Một Tết:
Xuất phát từ phong tục xông nhà xông, xông đất đầu năm, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày Mùng Một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Vì thế người ta nên tránh đi chúc Tết vào sáng Mùng Một nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến điều không tốt đẹp gia đình đó.
Kiêng giặt giũ vào Mùng Một và Hai Tết:
Vì ngày sinh của thần Thủy là ngày 1, 2 tháng Giêng Âm lịch, do đó nên tránh giặt quần áo trong hai ngày này để phòng xui xẻo.
Không treo tranh ảnh có nội dung tiêu cực:
Không treo tranh khóc lóc, đánh ghen, tai nạn. Ngược lại nên dùng những bức tranh thể hiện sự may mắn, sung túc như đàn lợn, gà, em bé, vàng bạc…
Kiêng Mở tủ:
Một số gia đình kiêng mở tủ vào ngày Mùng Một Tết do tin rằng mở tủ lấy tài sản tức là “tống tiễn” tài lộc ra khỏi nhà. Do vậy, người lớn thường nhắc trẻ con cần lấy sẵn đồ đạc, quần áo diện ngày đầu năm ra ngoài trước lúc giao thừa.
Kiêng chụp hình hoặc chúc Tết người đang nằm ngủ:
Bởi đây là tư thế của người chết, người bệnh, nên chụp hình hoặc chúc Tết lúc này không khác gì “rủa” họ bệnh tật, chết chóc cả năm. Ngoại trừ trường hợp nằm để tạo dáng chụp ảnh…
Kiêng xuất hành ngày Mùng Năm:
Người Việt thường tin rằng Mùng 5 là ngày nguyệt kỵ không thích hợp cho xuất hành. Chẳng vậy mà ca dao Việt Nam có câu: "Mồng năm, mười bốn, hăm ba. Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn".
Kiêng xõa tóc:
Ở vùng quê Việt Nam và một số gia đình gốc Hoa, người ta kỵ việc xõa tóc của các thiếu nữ. Họ cho rằng tóc xõa rũ rượi gợi lên liên tưởng đến những hình ảnh ma quái, cõi âm. Vì vậy, tốt nhất, vào những ngày này, phụ nữ nên chọn các kiểu tóc buộc, tết, kẹp gọn gàng khi ra đường. Tuy nhiên theo ghi nhận của Tiến sĩ Nguyễn Đệ, tập tục này không phổ biến lắm.
Thi Ngoan
![]() |
![]() |
| ► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
Người có nhiều thần sát là mệnh cục tương đối phức tạp, nhưng nếu tổ hợp tứ trụ tốt lại phối hợp với thần sát thì người đó thường là bậc siêu quần xuất chúng. Người bình thường thì thần sát không nhiều và việc dự đoán càng đơn giản.
|
| Chữ "Phúc" |
Ngoài ra, sát hay hung ở thần sát cũng không phải là tuyệt đối, chỉ có thể nói rằng một thần nào đó lấy cát làm chính, một sát nào đó lấy hung làm chính. Cát thần mà gặp phải hình xung khắc hại thì cũng không có tác dụng gì; hung sát mà bị chế hợp không đủ sức làm hại thì cũng không đáng sợ.
Trong mệnh cục, nếu người nào gặp được cát thần thì cả cuộc đời thuận lợi. Trong vận, trong năm gặp được cát thần thì đã tốt càng thêm tốt. Trong tứ trụ kỵ gặp phải hung thần vì như thế cả cuộc đời hay bị tai họa. Trong vận, trong năm gặp phải hung thần thì hung càng thêm hung.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
Tuổi Hợi

Họ vốn là người biết chờ đợi thời cơ, không bao giờ tự ti mặc cảm, luôn dũng cảm xông pha trước những khó khăn thử thách của cuộc sống.
Chính vì thế họ luôn là con giáp phúc khí tràn đầy trong tương lai. Dựa vào khả năng và bản lĩnh của mình cùng với sự nỗ lực không ngừng nghỉ họ sẽ luôn có những thành công rực rỡ.
Tháng 3 tới vận thế của họ thăng hoa, tài khí dồi dào. Các nguồn thu dồn dập tới tấp giúp họ trở thành con giáp quán quân về tài lộc dồi dào, vượng phát trong tháng 3.
Tuổi Tý
Sang tháng 3, tuổi Tý sẽ có được sự giúp đỡ của các quý nhân. Vì thế, tổng thể vận thế rất tốt. Các mối quan hệ tốt, làm việc gì cũng thuận, dễ dành được thành công, tiền tài rủng rỉnh.
Họ lại là tuýp người dám chọn những công việc mang tính thử thách. Chỉ cần muốn làm thì việc gì cũng làm được và giành được thành công.
Tuổi Mão
Tháng 3 này, tuổi Mão cũng là những người hết sức may mắn. Họ được thần tài phù trợ nên các khoản thu chính rất dồi dào. Ngoài ra, họ cũng hưởng lộc khá nhiều từ các khoản thu thêm.
Những người tuổi Mão lại có đức tính cẩn thận và khôn khéo, chính vì thế, họ đa phần rất may mắn.
Tuổi Dậu
Tài vận tháng 3 của những người tuổi Dậu có phần lạc quan. Ngoài nguồn thu chính ổn định thì họ cũng khá may mắn vì các khoản thu ngoài khác.
Tuổi Dậu là những người khá chu đáo, cẩn thận, biết nỗ lực trong công việc, chỉ cần cố gắng là mọi việc tất thành công.
Có nhiều tiêu chí để lựa chọn một chiếc sofa phù hợp. Ngoài việc chọn theo hình dáng, diện tích, phong cách...của phòng khách, còn có cách lựa chọn sofa theo tính cách của chủ nhà. Theo đó, hãy chọn một chiếc sofa có kiểu dáng, màu sắc, chất liệu phù hợp với bản thân để bạn luôn cảm thấy cuộc sống thật thoải mái, tiện nghi. Dưới đây là những tiêu chí cụ thể để bạn dễ dàng lựa chọn được một chiếc sofa phù hợp với tính cách của mình:
Quan niệm của người Việt nói riêng và phương Đông nói chung cho rằng, nếu trang trí nhà hợp phong thủy thì cuộc sống gia đình sẽ hòa thuận, hạnh phúc, công việc làm ăn thuận lợi, phát tài. Đó cũng là lý do nhiều người rất quan tâm đến việc trang trí nhà hợp phong thủy theo tuổi.
Với những người tuổi Tuất, bên cạnh việc trang trí ngôi nhà với các gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ, để tăng thêm may mắn, người tuổi Tuất nên dùng thêm miếng mã não có hình thỏ hoặc mèo để làm vòng đeo tay hoặc cổ; đặt tượng voi và ngọc sẽ giúp tăng tài lộc, bình an.

Những gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ hợp phong thủy với người tuổi Tuất
Nếu trang trí quả cầu thủy tinh trong nhà, người tuổi Tuất nên đạt ở phía Đông Nam, không được đặt tại hướng Tây Bắc.
Nếu muốn treo tranh tranh phong thủy để mang lại may mắn, vượng tài, người tuổi Tuất nên chọn một trong những loại tranh như Mẫu đơn hoa 8 bông, mẫu đơn hoa 9 bông; hoặc có thể treo tranh hoa điểu; tranh sơn thuỷ thuộc diện bình bình chỉ có tác dụng trấn trạch an gia. Ngoài ra, người tuổi Tuất cũng có thể treo một số loại tranh phong thuỷ khác trong nhà như tranh ngựa hoặc tranh hổ.
Việc treo các loại tranh này trong nhà được cho là sẽ giúp các gia chủ tuổi Tuất ngày một vinh hiển, phú quý dài lâu, chuyển nguy thành an, thay đổi vận số, khiến cho sự nghiệp, công việc gặp trắc trở thành thuận lợi.
Lưu ý, dù các loại tranh này có thể treo ở hầu hết các không gian như phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ hay thư phòng nhưng nên treo tại hướng Đông, Đông Nam hoặc theo mệnh cung phong thuỷ của gia chủ. Tốt nhất nên nhờ một chuyên gia phong thuỷ hoặc người am hiểu tư vấn.
Những người tuổi Tuất thuộc hành Thổ, do đó thích hợp sống ở gần núi non. Cửa chính của ngôi nhà cũng nên hướng về phía Tây Bắc, Đông hoặc Nam.
Người tuổi Tuất hợp với các con số 0 và số 5, không hợp với con số 3. Trong sinh hoạt hàng ngày hay khi đặt địa điểm làm việc, những người tuổi Tuất cũng nên tránh các con số kỵ để mọi việc may mắn.
Khi trang trí nhà ở, người tuổi Tuất cũng phải lưu ý đến những màu kỵ. Vì Tuất là Dương Thổ, Mộc khắc Thổ còn Thủy khắc Hỏa, vì vậy, người tuổi Tuất sẽ không hợp với các màu như xanh lá cây (Mộc), nâu đất (Thổ), đen và xanh lam (Thủy).
Với gam màu trắng vốn thuộc Kim, người tuổi Tuất cũng có thể dùng nhưng nên hạn chế.
Cần chú ý thêm, người tuổi Tuất kị các tuổi Sửu, Mùi và Thìn, vì thế trong nhà cũng nên tránh bày các vật trang trí có hình của những con vật này.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, mọi người rất hay sử dụng các loại đá quý, ngọc quý hình quan âm hay hình đức phật làm các mặt dây đeo: dây đeo cổ, đeo tay, treo trên ô tô, bàn làm việc…. Chúng vừa mang tính chất trang trí, làm đẹp, làm nổi bật người đeo mà còn mang các yếu tố tâm linh. Người đeo luôn mong muốn sẽ gặp nhiều may mắn, thuận lợi và tránh các điều không hay. Nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của chúng và đeo cho đúng . Hôm nay, lichvannien365.com sẽ cung cấp cho các bạn một số lưu ý:
- Thứ nhất, người con trai thì nên đeo các mặt Ngọc có hình đức Quán Thế Âm, còn người con gái thì nên đeo mặt hình đức Phật Di Lặc. Rất nhiều các bạn trẻ hiện nay không biết điều này. Không phải ngẫu nhiên ngày xưa các cụ thường nói : “Nam Đới Quán Âm Nữ Đới Phật”. Vậy tại sao lại có câu nói như vậy. Thông thường, trong một gia đình về thông thường thì người Nam chủ Ngoại mà Nữ chủ Nội.
Ra ngoài bôn ba làm việc phần nhiều là người Nam nhân, đối đầu với nhiều khó khăn, nguy hiểm, tai họa, vận hạn dễ phát sinh, mà Quán Thế Âm Bồ Tát tức là vị Bồ Tát “Cứu Khổ Cứu Nạn” nên khi người Nam đeo Ngọc Bội hoặc trang sức hình Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ mong được sự hỗ trợ giúp đỡ cấp kỳ. Gặp hung hóa cát, gặp dữ hóa lành. Đeo Ngọc Bội hoặc trang sức mặt dây hình Quán Thế Âm cũng có tác dụng cảnh tỉnh nhắc nhở, để mỗi khi người đàn ông có việc nóng nảy thì thấy đó mà nhẫn nhịn, cầu hòa làm quý. Bởi Quán Thế Âm Bồ Tát chính là Từ Bi Nhu Hòa.

Người Nữ đeo Ngọc Phật đa số là Di Lặc Phật. Đeo mặt hình Phật Di Lặc tức để nhắc nhở người Phụ Nữ học theo Đức Phật Tương Lai Di Lặc, có bụng dạ khoáng đạt rộng lượng, biết tha thứ, miệng luôn tươi cười, ít nói chuyện ganh ghét, ít nói chuyện thị phi, vui vẻ với cuộc sống, tình yêu hiện tại…
- Thứ hai, anh sáng mặt trời là yếu tố bất lợi với độ bền và sắc màu của đá, nhất là viên đá thạch anh tím, hoàng ngọc… để giữ sắc màu của đá được sử dụng bền, không nên đeo chúng trong khi tắm nắng, làm việc dưới ánh mặt trời hay treo chúng ở các vị trí bị nắng chiếu tới.
- Và cuối cùng điều cần chú ý khi đeo mặt dây chuyền thạch anh 24 giờ mỗi ngày, nhưng những khi làm công việc nhà hay hoạt động chân tay, hãy tháo đồ mặt dây chuyền ra và cất chúng cẩn thận.
Khi cần, chúng ta có thể làm sạch mặt đá bằng dung dịch xà phòng loãng hoặc dùng bàn chải mềm chà nhẹ, sau đó lau khô bằng khăn mềm. Tốt nhất nên làm điều đó vào một ngày tốt, đẹp trời, khi sáng sớm thanh tịnh.
Hy vọng lichvannien365.com giúp bạn hiểu thêm về mặt dây đeo làm bằng đá quý, ngọc quý và đeo sao cho tôt nhất./
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự |
Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?
Người tuổi Mão nên thờ Phật nào? Vị thần hộ mệnh, bảo vệ và che chở cho người tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát. Mỗi con giáo đều có một bản mệnh Phật, một vị thủ hộ thần ở bên soi đường chỉ lối, dẫn dắt và khai thông, đồng thời hộ thân, tăng phúc tăng may. Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Mão?
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Khám phá Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác |
Thông thường tên gọi theo màu sắc sử dụng từ Hán Việt là chính và kết hợp với các từ đi kèm tạo thành tên đệm hài hòa. Xét theo góc độ ngũ hành, đây là cách đặt tên rất ý nghĩa. Ví dụ con bạn mệnh Hỏa, có thể đặt tên con là các từ hàm nghĩa màu xanh (ý chỉ hành Mộc). Vì Mộc sinh Hỏa nên sẽ rất tốt cho bé.
![]() |
| Màu vàng (Hoàng): biểu hiện sự quang minh, trung thành |
Màu đỏ (Hồng, Đan, Xích): biểu hiện sự vô tư, tinh thần xả thân, sự thịnh vượng, mạnh mẽ, thắng lợi chói lọi... Một số tên gọi theo gam màu này: Ánh Hồng, Bích Hồng, Minh Hồng, Thu Hồng, Vân Hồng, Hồng Thắm, Hồng Ngọc, Hồng Hà, Hồng Hoa, Hồng Duy, Hồng Sơn; Triệu Đan, Chu Đan, Trần Đan, Đan Hồng, Tân Hồng; Ngọc Xích, Thế Xích, Xích Trung...
Màu vàng (Hoàng): biểu hiện sự quang minh, trung thành, ôn hòa, tôn quý... Một số tên gọi theo màu vàng: Kim Hoàng, Chấn Hoàng, Huy Hoàng, Minh Hoàng, Đỗ Hoàng, Hoàng Anh, Hoàng Minh, Hoàng Thanh, Hoàng Diệu, Hoàng Hà, Hoàng Vân...
Màu xanh (Thanh): thể hiện sự bình tĩnh, lòng cương nghị, sự phát triển... Một số tên gọi theo màu xanh: Hoàng Thanh, Dương Thanh, Diệp Thanh, Thanh Hà, Thanh Sơn, Thanh Mai; Thanh Lam...
Màu lam: biểu hiện sự mát mẻ, tươi sáng. Một số tên gọi theo màu lam: Vu Lam, Kha Lam, Thiên Lam, Lam Sinh, Thái Lam, Lam Viên, Hồng Lam, Nhã Lam...
Màu tím (Tử): biểu hiện sự hào hoa, cao quý, nhã nhặn, bí ẩn... Một số tên gọi theo màu này: Diệp Tử, Mạnh Tử, Tử Đào, Tử Vân, Tử Long, Tử Dương, Tử Chi...
Màu trắng (Bạch, Tố): biểu hiện sự thuần khiết, trong sáng, thẳng thắn, thành thật... Một số tên gọi theo màu trắng: Lý Bạch, Sa Bạch, Đại Bạch, Tân Bạch, Bạch Vũ, Bạch Ngọc; Dương Tố, Ngụy Tố, Tố Văn, Tố Mai, Tố Hương, Tố Bình, Trọng Tố...
Màu đen (Hắc): biểu hiện sự cường tráng, mạnh mẽ, trầm tĩnh và cả sự đau buồn... Thông thường tên gọi đặt theo màu sắc này ít được dùng, trừ khi đặt tên hiệu, bút danh... Mai Hắc Đế, Lý Nam Đế, Trương Tử Hắc...
Nếu khéo kết hợp giữa họ, tên đệm và tên đặt theo màu sắc, con bạn sẽ có tên gọi đầy ý nghĩa và ấn tượng. Ví dụ tên gọi Hoàng Bích Huy mang ý nghĩa hạt ngọc sáng lấp lánh ánh vàng óng xanh biếc, ý chỉ tương lai tốt đẹp.
Theo Khoa học và nghệ thuật đặt tên...
![]() |