Mơ thấy ngón tay cái: Người nằm mơ yêu thích nghệ thuật, vận mệnh khi tốt khi xấu –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Thương nhân mơ túi tiền rỗng thì nên đề phòng |
![]() |
| Mơ thấy mình lấy được một túi tiền đầy ắp từ người khác là ngụ ý vong ân bội nghĩa |
Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng
![]() |
Doanh nhân tuổi Thân có tính kiên định. Dù phải đối mặt với tình thế khó khăn, nguy hiểm nhưng họ không hề nao núng, dao động. Trái ngược với doanh nhân tuổi Hợi vốn tính ôn hòa, doanh nhân tuổi Thân là người ưa tranh đấu. Tuy nhiên, họ thường giữ bí mật về các kế hoạch của bản thân và vì vậy thường nắm được thế chủ động trước đối phương trong các dự án đầu tư làm ăn.
Người tuổi Thân không chỉ giỏi trong lĩnh vực kinh tế mà còn là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Họ luôn có phương pháp tiến hành công việc hợp lý để đạt hiệu quả cao. Đây cũng là những người khá sòng phẳng trong cuộc sống. Vốn tính thông minh, người tuổi Thân luôn tự tin và điều này đôi khi khiến họ trở nên chủ quan.
Doanh nhân tuổi Thân hợp với người tuổi Tý, tuổi Thìn và không hợp với người tuổi Tỵ, Dần.
(Theo Việt Báo)
Danh: Thanh tú, ôn hòa, lanh lợi, trung niên cát tường, cuối đời hưởng phúc.
Dậu: Nhiều bệnh tật, nếu kết hôn và sinh con muộn sẽ đại cát, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời phát tài phát lộc.
Dĩ: Thông minh, nhanh nhẹn. Công danh, tiền đồ sáng sủa nhưng hiếm muộn đường con cái.
![]() |
| Diệp - Thanh tú, đa đài, hiền hậu |
Diễn: Cuộc đời thanh nhàn, trung niên cát tường, có 2 con sẽ đại cát, cuối đời phiền muộn.
Diệu: Thuở nhỏ vất vả, gian khó, trung niên thành công, phát tài phát lộc, là nữ thì trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Diệp: Thanh tú, đa tài, hiền hậu, trung niên cát tường, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.
Do: Phóng khoáng, đa tài, có số đào hoa, trung niên phát tài phát lộc.
Doãn: Đa tài, đa nghệ, trí dũng song toàn. Cả đời thanh nhàn, hưởng vinh hoa phú quý.
Du: Bản tính thông minh, ôn hòa, hiền hậu, danh lợi song toàn nhưng có thể mắc bệnh tật, cuối đời phát tài phát lộc.
Dụ: Học thức uyên thâm, công chính liêm minh, tiền đồ rộng mở, trung niên thành công, có số xuất ngoại.
Dục: Hiền hậu, có số xuất ngoại, trung niên thành công hưng vượng, sống thanh nhàn, phú quý.
Duệ: Bản tính thông minh, đa tài, trung niên hưng vượng, gia cảnh tốt, có số xuất ngoại.
Dũng: Nên kết hôn muộn, đa tài, hiền lành, trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.
Dụng: Tính tình ôn hòa, chịu thương chịu khó, sau thành công, con cháu hưởng lộc phúc.
Dư: Bản tính thông minh, danh lợi song toàn, trung niên thành công, cuối đời hưởng hạnh phúc.
Dự: Có số làm quan, tay trắng lập nên sự nghiệp, cuối đời thịnh vượng, gia cảnh tốt.
Dữ: Thanh nhàn, đa tài, trung niên đề phòng gặp chuyện không hay, cuối đời hưởng phúc.
Dực: Tài năng, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Dương: Cuộc đời thanh nhàn, nếu kết hôn và sinh con muộn thì đại cát, trung niên bôn ba, vất vả, cuối đời cát tường.
Dưỡng: Lương thiện, phúc thọ viên mãn, có tài trị gia, gia cảnh tốt, con cháu hưng vượng.
Duy: Nho nhã, sống đầy đủ, phúc lộc viên mãn.
Duyên: Phúc lộc song toàn, danh lợi song hành, được quý nhân phù trợ, cuối cát tường.
Duyệt: Cần kiệm, chịu thương chịu khó, trọng tín nghĩa, trung niên vất vả, cuối đời hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
|
![]() |
| Ảnh minh họa |
Nằm mơ thấy giếng nước trong sạch, nước trong giếng sạch và mát lạnh là điềm báo công việc trôi chảy, gặp nhiều thuận lợi và may mắn.
Chiêm bao thấy một người đang đào giếng có nước là bạn sắp nhận được tin vui.
Chiêm bao thấy nước giếng dâng cao là điềm báo bạn sắp nhận được nhiều tài lộc.
Chiêm bao thấy mình múc bùn từ dưới giếng đem lên là bạn sắp phát tài.
Chiêm bao thấy trong giếng có cá là điềm báo bạn gặp vui vẻ, may mắn.
Mơ thấy giếng khô cạn, bạn có thể gặp khó khăn, thiếu hụt về tiền bạc.
Mơ thấy giếng lở, bạn nên thận trọng bởi gia đình có thể ly tán.
Mơ thấy mình bị ngã xuống giếng, điềm báo cơ thể bạn sắp bị bệnh.
Bạn mơ thấy mình trốn dưới giếng, bạn có thể gặp phải rắc rối liên quan đến luật pháp.
Chiêm bao thấy người say ngã xuống giếng, bạn nên đề phòng một số chuyện tranh chấp có thể xảy ra.
Mơ nhìn xuyên qua thành giếng thấy nước dự báo có tin từ xa tới.
Mơ thấy giếng nước sôi lên là điềm báo bạn sắp phát tài.
Mơ thấy lấy nước từ trong giếng lên cho thấy mọi việc đều tốt đẹp.
Mơ thấy người ra khỏi giếng hoặc đồ vật rơi xuống giếng cho thấy gia đình sắp có chuyện vui.
Mơ thấy bóng mình dưới giếng dự báo sắp có tài lộc.
Mơ thấy đào giếng, làm giếng dự báo gia đình giàu sang, hạnh phúc.
Tuy nhiên, mơ thấy nhà ở trong giếng báo hiệu con trưởng trong nhà gặp chuyện không lành.
Mơ thấy giếng bị hỏng cho thấy kinh tế gia đình sa sút nghiêm trọng.
Bạn mơ thấy mình trốn dưới giếng, bạn có thể gặp phải rắc rối liên quan đến luật pháp.
Chiêm bao thấy người say ngã xuống giếng, bạn nên đề phòng một số chuyện tranh chấp có thể xảy ra.
Tổng hợp
một trong những cách phụng dưỡng mà bạn không phải tốn nhiều thời gian công sức mà vẫn tỏ được lòng hiếu thảo của mình.

Trong cuộc sông, để thuận lợi cho sinh hoạt giải trí và mang lại cho người già giấc ngủ ngon, khi bố trí phòng ngủ của người già cần chú ý những điểm sau đây:
– Phòng ngủ cho người già phải yên tĩnh và có ánh nắng:
Theo tâm sinh lý, người già thích ánh sáng mặt trờiể Mặt khác, người già có thời gian ở nhà dài nhất nên phải bố trí phòng ngủ ở nơi có nhiều ánh nắng để họ có thể ngồi trong nhà mà vẫn hấp thụ được ánh sáng mặt trời.
Người già thường ít ngủ, khi ngủ cần phải có một không gian tuyệt đối yên tĩnh vì vậy cần phải bố trí phòng ngủ của người già ở nơi khuất nẻo, môi trường sạch sẽ, tĩnh lặng, cách xa phòng khách và phòng ăn, không quá xa phòng ngủ của người nhà để khi họ cần giúp đỡ bạn có thể đến kịp thời. Nếu bạn ở nhà tầng thì nên để phòng của người già ở tầng một, tránh cầu thang.
ý4
Bố trí phòng ngủ của người già ở phía Nam hoặc phía Đông là hợp với yêu cầu này.
Do đặc điểm sinh lý, người già hay dùng nhà vệ sinh, do đó cần bố trí nhà vệ sinh độc lập để người già dùng cho thuận tiện.
– Làm cho người già cảm thấy thoải mái nhất
Khi về già, xương cốt sẽ bị canxi hoá, trở nên cứng
và giòn, rất dễ gãy vì vậy khi trang trí phòng ngủ cho người già cần hết sức cẩn thận khi lựa chọn chất liệu, hình dáng, thậm chí là vị trí sắp xếp của đồ nội thất, tránh đặt các đồ vật cứng và có góc cạnh ở những nơi người già hay lui tới, đi lại. Những đồ vật họ thường hay sử dụng như ghế phải sắp xếp cố định sao cho họ cảm thấy thoải mái dễ chịu. Những đồ vật bày trên bàn cần để trong tầm với của người già để tiện sử dụng. Để tập trung tại một khu vực nhất định những đồ vật người già thường hay sử dụng.
– Tạo một không gian sáng nhưng không quá chói
Thị giác của người già không nên bị kích thích quá
mạnh. Sự phôi hợp màu trong phòng của người già phải lấy gam màu nhạt, dịu nhẹ. Đối với ánh sáng nên chọn cách có thể lợi dụng được ánh sáng tự nhiên để tạo ra một không gian sáng sủa mà vẫn dịu nhẹ.
Bà lão mù Vanga
Đầu tiên không thể không kể đến bà lão mù Baba Vanga. Bà sinh ra vào năm 1911 tại một vùng ngoại ô ở thành phố Strumica, phía đông Đế quốc Ottoman (nay thuộc Cộng hòa Macedonia), sau đó chuyển đến Bulgari.
Bà là một nhà nghiên cứu thảo dược với tài tiên tri nổi tiếng. Đôi mắt bà bị mù khiến bà không thể nhìn thấy được. Nhưng thay vào đó, bà có thể nhìn thấy được trước tương lai của thế giới.
Khi bà lên 12 tuổi, một trận bão mạnh càn quét nơi bà ở. Bà bị gió cuốn đi đến một cách đồng gần đó. Dân làng tìm thấy bà với hai hốc mắt đầy cát bụi, từ đó bà trở nên mù lòa. Sự kiện này được nhiều người cho rằng đã gây tác động lớn, khiến bà Vanga có thể dự đoán trước tương lai.
Bà Vanga lúc nhỏ với cặp mắt mù lòa.
Những năm tháng tiếp theo, bà sống trong nghèo khổ và khó khăn. Cuộc sống trầm bình không có gì nổi bật. Cho tới năm 16 tuổi, đàn cừu của cha cô bị lạc mất một con, cô bé Vanga mô tả lại đường đi đến chỗ con cừu đó và giúp cha tìm lại được chú cừu thất lạc.
Gần 15 năm sau, bà Vanga nhìn thấy những binh đoàn lính chiến đi ngang nhà và hỏi người em mình có thấy như vậy không, nhưng cô em gái không thấy gì và cho là chị mình ngủ mơ.
Tuy nhiên, vào tháng 1 năm sau, năm 1941, đội quân phát xít của Đức tiến vào Nam Tư và đến thành phố Strumica nơi bà sinh sống. Dân làng hoảng sợ bỏ đi trốn, chỉ có hai chị em của bà là ở lại trong nhà, không đi đâu. Những tên lính Đức lùng sục mọi ngóc ngách của căn nhà nhưng lại bỏ qua hai chị em đang đứng giữa nhà.
Vài ngày sau, dân làng trở lại và thấy Vanga đứng nép ở góc tường, miệng thốt ra những lời kỳ lạ bằng một giọng nói của ai đó. Bà nói về số phận những người bị lính Đức bắt đi, và cho biết chính xác thời gian họ sẽ trở về. Và quả thật, những người dân trong làng trở về đúng với thời gian mà bà đã nói.
Bà Vanga nổi tiếng thế giới với khả năng biết trước được tương lai của thế giới.
Tin đồn lan truyền từ làng bà nhanh chóng ra khắp đất nước. Mọi người lũ lượt kéo về nhà của Vanga nhờ bà nói về số phận và ngày trở về của người thân họ, những người đã ra đi trong Thế chiến thứ hai.
Sau khi chiến tranh kết thúc, bà liên tục đưa ra những lời tiên đoán chính xác về thế giới trong tương lai. Rất nhiều người đến gặp bà và xin những lời tiên đoán. Bà cũng biết được trước ngày chết của mình, trước khi chết, bà cho rằng một cô bé ở Pháp sẽ thừa hưởng khả năng tiên tri của mình.
Bà đã đưa ra nhiều lời tiên đoán như về sự sụp đổ của liên bang Xô viết, thảm họa nhà máy điện nguyên tử Chernobyl, cái chết của Stalin. Về thảm họa 11/9, bà đã từng cho biết niềm tự hào của người Mỹ sẽ bị sụp đổ sau cuộc tấn công của những con chim sắt, máu người lương thiện sẽ đổ.
Bà qua đời ngày 11/6/1996 vì căn bệnh ung thư vú. Đám tang của bà gây chấn động khắp một vùng rộng lớn. Rất nhiều người thương tiếc đã đến dự đám tang và đưa tiễn bà về nơi an nghỉ cuối cùng.
Jeane Dixon
Bà Jeane Dixon sinh ra ở Đức nhưng định cư ở Mỹ. Lên 8 tuổi, bà có một lần gặp gỡ thầy bói người Ai Cập sống ở California, vị thầy bói này cho rằng Dixon có khả năng đặc biệt và tặng bà một quả cầu pha lê.
Từ đó, cuộc đời bà bước sang trang mới. Bà có thể nhìn vào quả cầu pha lê bằng giác quan thứ sáu và có thể đưa ra được những dự đoán trong tương lai chính xác đến kinh ngạc.
Nữ tiên tri Dixon người Mỹ gốc Đức với quả cầu pha lê có thể nhìn thấy được tương lai.
Năm 1942, Dixon khuyên nữ tài tử Carole Lombard nên hủy chuyến lưu diễn sắp tới của mình vì cô sẽ gặp tai nạn máy bay. Tuy nhiên, Carole không nghe và quyết định lên đường. Chuyến bay đi của cô an toàn. Lúc về, cô lo sợ nên chuyển sang đi tàu hỏa, nhưng lại đổi ý vào giờ chót và đi bằng máy bay.
Chuyến bay về của nữ diễn viên Carole phải quá cảnh ở bang New Mexico, lúc này nhân viên hãng hàng không hỏi cô về việc nhường vé cho một anh lính trận vì đã hết vé, nhưng cô không nhường vì mong muốn được về nhà an toàn. Không may, chiếc máy bay gặp một trận dông lốc lớn và đã lao vào vách núi, không một ai sống sót.
Sự kiện Tổng thống John Kennedy bị ám sát đã được Dixon tiên đoán từ một thập kỷ trước.
Thập kỷ sau đó, Dixon cho biết bà nhìn thấy một vị Tổng thống trẻ bị ám sát khi diễu hành trên phố. Vị Tổng thống đó là John Kennedy, ông bị ám sát khi đang đi vận động bỏ phiếu cho nhiệm kỳ tới ở bang Texas. Dixon cho rằng thế kỷ 20 là thế kỷ u ám của chiến tranh và bệnh tật.
Maria Lenorman
Vào năm 1772 ở ngoại ô Paris, cô gái Maria Lenorman được sinh ra với tiếng thét kinh hãi đầu đời cùng những dị tật trên cơ thể. Đứa trẻ gào khóc những âm thanh đáng sợ rất to lớn, khiến hàng xóm bàn tán và gia đình phải đưa cô vào một tu viện Thiên Chúa giáo ở địa phương.
Lên 6 tuổi, bé Maria cho rằng sơ trưởng của tu viện sắp rời khỏi nơi đây vì đi lấy một người đàn ông giàu có. Sự tiên đoán đơn giản này đã trở thành sự thật vào vài tháng sau đó.
Nữ tiên tri Maria Lenorman sinh ra với tiếng thét kinh hãi và nhiều dị tật trên người.
Lớn lên, cô gái Maria tiên đoán được nhiều điều khác về việc hai thủ lãnh Marat và Robespiere của Pháp sau thời quân chủ chuyên chế sẽ bị chết thảm khốc. Hay việc Hoàng đế Napoleon sẽ lên ngôi và việc hai sĩ quan cấp cao Ryleev và Muraviev sẽ bị chính Sa hoàng Nga treo cổ.
Sau này, bà dần sống khép kín cùng những điều luật của Chúa, bà tránh tiên đoán những điều liên quan tới xã hội nơi bà sống, vì những điều bà nói hầu hết đều là các tai họa, chính quyền không cho phép điều này vì nó gây hoang mang dân chúng.
Chị em sinh đôi Linda Jamison và Terry Jamison
Hai chị em Linda và Terry Jamison là hai nữ diễn viên khá tiếng tăm trong giới nghệ sĩ Hollywood với khuôn mặt khả ái, giọng nói trong trẻo cùng tài diễn xuất tuyệt vời. Hai chị em càng nổi tiếng hơn với tài dự đoán trước tương lai của mình.
Họ sinh ra và lớn lên tại một thị trấn nhỏ ở West Chester, Pennsylvania, trong một gia đình người Mỹ không có truyền thống tâm linh. Cả hai từng giúp nhiều gia đình thất lạc người thân được đoàn tụ, hỗ trỗ điều tra các vụ giết người nhiều khuất tất bằng cách sử dụng tiềm năng trong trạng thái vô thức.
Trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999 trên một đài phát thanh địa phương, hai chị em cho biết đã mơ thấy sự việc khủng khiếp khi Tòa tháp Thương mại ở New York bị tấn công và sụp đổ trong chốc lát.
Trong tháng 01/2010, trong một bài đăng trên tạp chí, Terry và Linda dự đoán Al-Qaeda sẽ trở thành mối đe dọa lớn cho Anh, Pháp và Đức trong mùa thu năm 2010. Sự thật là vào ngày 29/09/2010, các cơ quan tình báo đã kịp thời phát hiện âm mưu tấn công khủng bố của Al-Qaeda vào châu Âu.
Nhập đầu: Có nghĩa là nhập vào đầu. Lomg đến từ xa, khi sắp kết huyệt, đầu tiên thu khí qua khe hẹp rồi đột nhiên nâng thành sơn thể, chuẩn bị kết huyệt, hình thể của đoạn sơn long này gọi là “nhập đầu”. Các nhà phong thủy thường ít về thiên lý hải long, đầu tiên xem hình thể của đầu dung kết, tức là luận long chi nhập đầu tình hình, hình thế nhập đầu có hai loại: một phân làm ba cách, tức là “tận long trực nhập”, “hoành long tắc nhập”, “hồi long chuyền nhập”; một phần là lục cách, tức là “trực long nhập đầu”, “hoành long nhập đầu”, “phi long nhập đầu”, “tiềm long nhập đẩu”, “hồi long nhập đầu”, “sản long nhập đầu”.

Thập hung địa: Mười thế đất khi lựa chọn phong thủy cho là không tốt cho cả Dương trạch và Âm phần, bao gồm:
Thiên bại: Khi phạm vào thế đất này thì con cháu lưu lạc, gia đình thất tán.
Thiên sát: Phạm vào thế đất này, con cháu buồn khổ.
Thiên cùng: Phạm vào thì con chau cô độc.
Thiên xung: Con cháu hư đốn
Thiên khuynh: Tiền bạc nguy khốn.
Thiên thấp: Tột bệnh liên miên.
Thiên ngục: Con cháu bướng bình, tù đầy.
Thiên cẩu: Con chau bất hiếu.
Thiên ma: Con cháu nghèo đói.
Thiên khô: Tuyệt tự.
Trong Đồng lâm biệt quyết – thập hung có viết: “Thứ nhất là Thiên bại, mảnh đất bị hung đó vừa bị nước lũ tràn qua, đem theo hung hoạ đến; thử hai là Thiên sát, mảnh đất vừa bị sét đánh, long thần kinh sợ; thứ ba là Thiên cùng, mảnh đất bơ vơ lạc lõng, long thần không tụ; thứ tư là Thiên xung, bốn mặt thấp, luôn có gió thổi bốn bề, long thần bất định: thứ nam là Thiên khuynh, minh đường nghiêng, thủy không tụ, nước không về, long thần không ở: thứ sáu là Thiên thấp, minh đường ẩm ướt, hoặc không gọn, cỏ mọc um tùm, long thần không tốt: thứ bảy là Thiên ngục, đất ở hố sâu không được ánh nắng mặt trời chiếu, long thần ám muội; thử tám là Thiên cẩu, nằm ở lưng trừng núi chênh vênh, không thể xây dựng, long thần quay lưng lại; thứ chín là Thiên ma, chất đất hư phù, không chắc, long thần bạc nhược; thứ mười là Thiên khô, đất cằn cỗi, khô cứng, long thần hung bại.
Thập tiện Sa: Huyệt trường nằm ở eo núi gọi là Sa. Thập tiện sa tức là chỉ mười hình thế Sa xấu, không hợp với dương trạch hay âm phần. Người sống ở đó thì địa vị xã hội thấp. Sa hình và địa thế không ủng hộ. Nhưng không chỉ tính riêng phần Long sa, mà cần phải tính đến cả hình trạng địa thế, lai long thủy. Vương Đạo Hưởng đời Thanh có viết: “Thứ nhất là bị gió thổi vào huyệt (vì làm tán khí), thứ hai là Chu tước bị chối, thứ ba là Thanh long không ở lại, thứ tư là thủy khẩu nhiều nhánh, thứ năm là đầu cuối loạn xị, thứ sáu là gió thổi thông từ trước ra sau. thử bảy là sơn bay thủy chạy, thử tám là hai bên tà hữu trống không, thứ chín là núi tan núi lở, thứ mười là có chủ không có khách.
Táng hữu lục hung: Phong thủy âm trạch cho rằng có 6 loại, tình hình tạo mộ chôn tang hoặc không được thiên thời, hoặc địa không lợi nhân không hòa khiến chủ nhà và con cháu gặp phải hung họa. Theo sách Tang thư có viết: “Âm dương lẫn lộn không rõ ràng là cái hung thứ nhất; thời gian ngang trái không thích hợp là hung thứ hai; sức yếu nhưng mong làm lớn, tổ chức to là cái hung thú ba; cậy thế và của cải giàu có là cái hung thử tư; lấn trên ép dưới là cái hung thứ nám; ứng xứ quái dị, điềm báo lung tung là cái hung thứ sáu”. Ngoài ra còn có quan điểm rằng: Vận khí, long mạch hỗn loạn là hung thứ nhất; Mất thiên thời, lựa chọn thổ đất sai là cái hung thứ hai: Đức nhỏ mà tham, chọn thế đất lớn, vượt qua phúc phận của mình và gia đình là cái hung thứ ha; Dựa mình giàu có, chiêm lấy phúc phận của người khác là cái hung thứ tư: Dẫm đạp lên mộ của nhà người khác là cái hung thứ năm: Mộ phần đào phải hang rắn, nguồn nước, hoặc khi chôn cất có hiện tượng đất lở núi tan là hiện tượng trời không dung là cái hung thứ sáu.
![]() |
Đừng biến vòng tay thành còng tay![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Từ thời xa xưa, các cụ thường coi phụ nữ “thắt đáy lưng ong” mới là người có vẻ đẹp chuẩn mực. Xét dưới góc độ nhân tướng học, phụ nữ có vòng eo khắng khít thắt đáy lưng ong là quý tướng.

Thông thường, tướng eo tốt là eo không quá cao, không quá thấp. Eo quá cao thì cuộc đời vất vả, đời sống ái ân nhạt nhẽo, eo quá thấp thì chủ nhân nghèo khó.
Tướng eo tốt là cân đối, đầy đặn, kết hợp với mông tròn, khi ngồi eo bằng phẳng nếu nhìn từ phía trước; nhìn từ phía sau thì eo vuông vức, đây chính là quý tướng.
Đối với nữ giới, vòng eo càng nhỏ càng tốt. Phụ nữ eo thon nhỏ nhưng bằng phẳng, đầy đặn là người người đảm đang, khéo léo, khỏe mạnh, nhẫn nại, tướng này thường được gọi là “thắt đáy lưng ong”.
Trong Nhân Tướng học, người phụ nữ có tướng eo “thắt đáy lưng ong” thường là tướng người đảm đàng, biết chăm lo cho chồng con. Người xưa thường nói: “trai thì lưng hùm eo gấu, gái thì thắt đáy lưng ong” đây là 2 tướng diện tốt của cả đàn ông lẫn phụ nữ. Vì thế nếu người phụ nữ nào có tướng eo này, thường thì họ về bên nhà gia đình chồng thì luôn được yêu thương chiều chuộng.
Nhưng trong xã hội ngày nay, do cuộc sống với bộn bề lo toan. Chị em phụ nữ họ phải lo toan mọi công việc từ gia đình đến xã hội, vì thế họ khó có được tướng eo “thắt đáy lưng ong” như phụ nữ thời xưa. Còn đối với các cô gái trẻ có tướng eo này, thường họ là những cô công chúa được nuông chiều. Trong việc chăm sóc gia đình họ ít khi đảm đang, rất ít sẽ có được các cô gái có bản tính đảm đang biết chăm sóc gia đình. Vì thế thường họ khi về nhà chồng thường sẽ là người rất hậu đậu và hay làm gì cũng thất bại.
Theo nhân tướng học, cũng là phụ nữ có eo “thắt đáy lưng ong” mà lại kết hợp thêm, người mỏng không dầy và nặng, da dẻ không mịn màng, xồ xề, phong thái thô lỗ, da bóng lên như bôi dầu, bị một trong những tướng trên là xấu.
Người có tướng này thì phong trần, đa truân mặc dầu đó cũng là tướng cách phong lưu, có thể chiều chồng nhưng không giúp được chồng, không khéo nuôi con.
Ngược lại, đàn ông mà eo nhỏ “thắt đáy lưng ong” là tướng cực xấu, đại kỵ, vì cả đời sẽ hay gặp khó khăn, bất hạnh; từ công việc, sự nghiệp, tiền bạc tới cuộc sống gia đình, là người yểu tướng.
Ngày vía được định nghĩa là ngày liên quan đến tâm linh, sự thay đổi linh hồn của một người. Ngày vía này có thể là ngày sinh, ngày mất, ngày thành đạo… Chẳng hạn “Lễ vía Đức Phật A Di Đà đản sanh 17-11 âm lịch” là ngày sinh, “ngày vía Bồ tát Quán Thế Âm thành đạo” là ngày thành đạo… Còn thần tài, theo ghi chép sớm nhất liên quan đến ngày sinh của thần tài là “Ngọc hạp ký” của Hứa Chân Quân, đời Tấn vào ngày 22 tháng 7 âm lịch. Hiện nhiều nơi ở Trung Quốc vẫn tổ chức đón thần tài vào ngày này.
Thần tài quen thuộc nhất trong dân gian là Triệu Công Minh. Ngày sinh của Triệu Công Minh có nhiều thuyết, thông dụng nhất là hai ngày: 15 tháng 3 (theo Nam Sơn cư sỹ đời Tần) và 22 tháng 7 (trùng với thuyết của Hứa Chân Quân ở trên), đồng thời các nhà thiên văn cổ cho rằng đây là ngày “mặt trời sáng nhất”. Do đó, ngày vía thần tài nếu có sẽ là ngày 22 tháng 7 hàng năm.
Những năm gần đây xuất hiện trào lưu người dân đổ xô đi mua vàng trong ngày "vía thần tài" mùng 10 tháng Giêng, mong được may mắn tài lộc trong năm mới. Một số ý kiến cho rằng, ngày này chỉ là do một số người kinh doanh tuyên truyền nhằm thúc đẩy việc bán hàng đầu năm, chứ không có tài liệu nào ghi chép, cũng như phong tục trong dân gian. Tuy nhiên thì hiện tại ngày mùng 10 đã được coi như ngày vía thần tài ở Việt Nam
Đầu năm, hầu hết các gia đình người Việt đều có lễ đón Thần tài theo phong tục dân gian cho rằng đầu năm cần chào đón thần tài từ thiên đình về hạ giới. Lịch trình cụ thể là mùng 2 làm lễ đón Hỷ thần (thần may mắn, hạnh phúc), mùng 3 đón Tài thần (thần tài lộc), mùng 4 là đón tiếp các vị thần khác từ thiên đình về hạ giới, mùng 5 là ngày phá trừ, dỡ bỏ đồ cúng. Riêng với các cửa hàng kinh doanh thì cúng thần tài hàng ngày.

HƯỚNG DẪN SẮM LỄ CÚNG THẦN TÀI VÀO NGÀY 10 THÁNG 1 HÀNG THÁNG
Lễ cúng mặn từ tháng 1 âm lịch tới tháng 6 âm lịch:
- 1 bình bông thọ, 5 thứ trái cây ( có trái dừa ), 5 cây nhang, 5 chun rượu đế, 2 đèn cầy, 2 điếu thuốc, gạo , muối hột, vàng bạc đại 2 miếng .
- một bộ tam sên gồm : 1 miếng thịt ba rọi, 1 hột vịt , 1 con tôm ( hay cua ), tất cả đều luộc.
Lễ cúng chay từ tháng 7 âm lịch đến cuối năm, tháng 12 âm lịch:
- 1 bình bông thọ, 5 thứ trái cây ( có trái dừa ), 5 cây nhang, 5 chun nước , 2 đèn cầy , 2 điếu thuốc, gạo, muối hột , vàng bạc đại 2 miếng.
- Bánh chay như là bánh ít, bánh tét, bánh ngọt ...v...v ...
Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và chưng thờ nải chuối chín vàng.Tránh để các con vật chó mèo quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài.Hàng tháng thường lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác.
Lời dặn cần thiết:
- Gạo, muối thì cất lại dùng cho có lộc , không được rãi ra ngoài.
- vàng, bạc đại đốt ở ngoài.
- rượu hay nước thì đứng ngoài cửa tưới vào nhà, có ý nghĩa là đem lộc vào .
- bộ tam sên hay bánh trái chia nhau trong nhà dùng không cho người ngoài .
Bài cúng thần tài:
Văn khấn Thần Tài Thổ Địa
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
- Con kính lạy Thần Tài vị tiền.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
Tín chủ con là:…………………………………Tuổi:…………………..
Ngụ tại………………………………………………………………………..
Hôm nay là ngày…….tháng…….năm…………………(âm lịch).
Tín chủ con thành tâm sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị và chư vị tôn Thần.
Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.
Phục duy cẩn cáo!
Hi vọng bài viết của chúng tôi đã góp phần hữu ích cho các đọc giả trong việc thờ cúng Thần Tài - Ông Địa
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Thời nay vợ chồng trẻ xưng hô với nhau "anh anh em em" âu yếm thân thiết biết bao! Dẫu chồng ít hơn dăm ba tuổi vẫn là anh. Lùi lại bốn mươi năm trước, những gia đình ít nhiều được Âu hoá, vợ chồng gọi nhau bằng "mình" cũng thể hiện được tình cảm đậm đà, gọi nhau bằng "cậu, mợ" cũng thanh nhã, nhưng những từ đó còn xa lạ với nông thôn, một số tân tiến muốn gọi nhưng vẫn còn ngượng ngùng với hàng xóm, chỉ thầm kín tỏ tình với nhau trong buồng, thỏ thẻ chỉ đủ hai người nghe với nhau.
Cách gọi nhau bằng tên "trống không" cũng là một bước cải tiến lớn, chứ các cụ ngày xưa, thời trẻ chỉ gọi nhau bằng "bố thằng cu", "u nó", "mẹ hĩm"... Người mới lấy nhau chưa có con, chồng chẳng có chức vị gì mà gọi thì làm sao? Bí quá, có cô mới về làm dâu, muốn gọi chồng đang chơi bên nhà hàng xóm về, chẳng biết xưng hô ra sao bèn ra ngõ gọi thật to "ai ơi! Về nhà ăn cơm". Từ "ai" ở đây không phải là đại từ nghi vấn, hay đại từ phiếm chỉ mà có nghĩa là "chồng tôi ơi".
Còn khi nói chuyện với người khác thì giới thiệu vợ mình hay chồng mình là "nhà tôi". Từ "nhà tôi" thật là đậm đà gắn bó, "mình " và "tôi" tuy hai nhưng một. "Nhà tôi" tức là "chồng tôi" hay "vợ tôi" chứ không thể nói "vợ anh", "chồng nó" là "nhà anh nhà nó".
Vợ chồng nói chuyện với nhau thường hay nói trống không: "Này! Ra tôi bảo!" hoặc: "nào ai bảo mình"...
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 – 17). Đền tọa lạc tại phố Xã Đàn, Đống Đa, Hà Nội.
Lịch Sử: Đền Kim Liên vốn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại Vương (theo tín ngưỡng dân gian, thì đây là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau theo mẹ lên núi). Theo tấm bia đá đặc biệt cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m hiện còn lưu giữ tại đền (đây cũng là di vật quý giá nhất ở đền này) có bài tựa “Cao Sơn đại vương thần từ bi minh” cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt.
Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ “Cao Sơn đại vương”. Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn được lập ở Phụng Hóa. Sau nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, nên năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ.
Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiên trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Hồ Chí Minh.
Kiến Trúc: Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần tương đối rõ: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên.
Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Bốn bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu chồng rường giá chiêng, cột trốn. Nhà đại bái gồm 5 gian mới được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, xây gạch trần mái lợp ngói ta. Trong nhà xây vòm cuốn: gian ngoài cùng, bó bệ gạch cao để đặt hương án; gian thứ hai xây bệ gạch cao để đặt long ngai và các đồ tế khí. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa).
Di vật còn giữ lại tại đình Kim Liên là tấm bia đá “Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh” do sử thần Lê Tung soạn năm 1510 nói về công lao của thần Cao Sơn trong việc ngầm giúp vua Lê giành lại ngai vàng từ tay ngoại thích và hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620).
Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội diễn ra tưng bừng với nhiều chương trình, trò chơi dân gian thu hút khá nhiều bạn bè, người trẻ quan tâm. Làng Kim Liên từ trước đến nay nổi tiếng với các tay kéo cắt tóc khéo léo và cẩn thận. Một trong nhưng cuộc thi diễn ra vào ngày hội chính là cắt tóc, vừa thể hiện phong cách hiện đại, trẻ trung nhưng cũng không quên truyền thống của cha ông từ xưa.
Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: Canh Tý Tân Sửu thì Sửu là chính vị của Thổ, mà Tý là đất vượng của Thủy, Thổ gặp Thủy biến thành bùn cho nên gọi bằng "Bích Thượng Thổ".
Bùn nhuyễn mềm muốn trát thành vách phải tựa vào kèo cột phên, thiếu chỗ tựa khó thành vánh tường. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ phải tựa vào người mà thành sự, làm quản lý, làm kẻ thừa hành tốt, đứng ngôi chủ dễ thất bại.
Tuy nhiên cũng có những loại đất chất dính mạnh phơi nắng trở thành cứng cáp không phải dựa vào kèo cột cũng đứng vững được. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần phải trải nhiều kinh lịch mới hay.
Vách để che gió, chắn mưa cho nên tâm chất thường bao dong. Mệnh nhiều hung sát đa nghi thủ đoạn mà mang nạp âm Bích Thượng Thổ dễ đưa đến sơ hở mà bị hại. Canh Tý, Tý Thủy bị Thổ khắc, khí thế nhược. Tân Sửu, Thổ vào chính vị sức đề kháng cương mãnh.
1. Mơ thấy mình giơ tay ôm hoặc tóm thỏ vào lòng, điềm báo bạn sẽ có khách từ phương xa tới thăm nhà. Nếu chưa có người yêu, điều này cho thấy bạn sẽ tìm được nửa kia ưng ý.
2. Nếu trong giấc mơ thấy bản thân nuôi thỏ, đây như lời nhắc nhở bạn cần phải thận trọng hơn về lời nói và hành động, tránh kẻ xấu lợi dụng sơ hở để gây phiền toái cho bạn.
3. Con thỏ xuất hiện trong giấc mơ của bạn, tín hiệu cho thấy bạn sẽ tìm thấy người thân đã phải ly biệt từ rất lâu.
Nếu mơ thấy những chú thỏ này đang bị bắt nhốt lại, điềm báo mọi sự tốt lành sẽ đến với bạn.
![]() |
4. Mơ thấy người nào đó cùng chú thỏ đi tiến về phía bạn, bạn cần đề phòng bị lừa gạt trong chuyện tình cảm.
5. Nếu mơ thấy bản thân đang đi săn thỏ, bạn sẽ thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn.
6. Con gái mơ thấy mình bắt được một chú thỏ bên đường, sau đó ôm nó vào lòng. Điều này có nghĩa bạn sẽ là trụ cột của gia đình sau này cả về lĩnh vực tài chính và tinh thần.
7. Mơ thấy cả đàn thỏ bay lên trời, điềm báo cực tốt lành về địa vị trong xã hội của bạn. Mọi người sẽ thêm phần tôn kính và nể phục bạn.
Mr.Bull
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy vịt Việc bắt gặp loài vịt trong giấc mơ mang rất nhiều tầng ý nghĩa, trong đó ý nghĩa phổ biến nhất là điềm báo rằng bạn sắp có công chuyện cần phải đi xa. |
Ôn tửu trảm Hoa Hùng
Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.
Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương.
Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.
Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến.
Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.
Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng.
Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới.
Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"
Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!"
Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.
Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu.
"Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa.
Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất.
Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".
Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công".
Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?
Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.
Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.
Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác.
Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.
Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này.
Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.
Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.
Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.
Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.
Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.
Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?
Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng".
Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.
Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.
"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".
Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác.
Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.
Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu.
Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.
Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.
Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này.
Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.
Lữu Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần.
Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.
Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.
Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.
Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.
Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:
Uy chấn càn khôn đệ nhất công,
Viên môn họa cổ hưởng đông đông.
Vân Trường đình trản thi anh dũng,
Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.
theo Trí Thức Trẻ
Theo tính toán của các nhà vật lý thiên văn, mặt trời chúng ta đang ở độ tuổi trung niên. Khi về già, mặt trời sẽ tăng dần thể tích lên cho đến khi nuốt trọn trái đất. Đó là thời điểm đi dần đến sự kết thúc thái dương hệ của chúng ta.
Khi nhìn vào hình thái Thuần Ly (quẻ thứ 30) hình thái Sáng - Lồi, chúng ta có được sự trùng hợp lý thú ! Quẻ 30 mô tả diễn tiến rất đúng trạng thái Mặt trời ở hào thứ 6 _ Nuốt trọn Trái Đất !
Ta hãy xem :
Hào 1 : Dẫm đạp lung tung
Giai đoạn hoạt động ban sơ của Mặt trời
Hào 2 : Sắc vàng phụ vào giữa
Giai đoạn Mặt trời hoạt động mạnh mẽ nhất
Hào 3 : Mặt trời xế chiều gần lặn
Giai đoạn Mặt trời hoạt động đi dần đễn mức tiêu hao hết năng lượng của nó.
Hào 4 : Thình lình chạy tới như muốn đốt người ta vậy
Giai đoạn Mặt trời phình to
Hào 5 : Nước mắt ròng ròng
Sự phình to bắt đầu tác động đến những hành tinh, thiên thể gần nó.
Hào 6 : Giết đầu đãng mà bắt kẻ sống, kẻ khác phải theo mình
Giai đoạn Mặt trời nuốt các hành tinh ở gần nó. Những hành tinh ở xa không bị nuốt, nhưng phải chịu chung số phận trở thành các khối thiên thạch quay quanh ngôi sao lùn (Mặt trời lúc này).
Trong Chu Dịch, đối nghịch với Thuần Ly ta có hình thái Thuần Khảm. Nghĩa là có mặt trời tất phải có một hình thể vật chất mang tính chất & dạng thức vận động ngược lại với mặt trời. Khoa học hiện nay đã xác định được một cấu trúc hoạt động rất đặc biệt tồn tại trong vũ trụ của chúng ta, đó là Lổ Đen. Lổ Đen không phát tán vật chất như mặt trời. Nó hút ánh sáng, hút vật chất. Giả định rằng có những Lỗ Đen tiết diện bằng trái banh nhưng có thể hút được những khối vật thể to như Mặt trời, suy diễn theo lối thông thường thì trọng lượng của Lổ Đen to bằng trái banh ấy phải nặng gấp nhiều lần Mặt trời (!?) Ta hãy xem hình thái Thuần Khảm của Chu Dịch mô tả cái Lổ đen ấy như thế nào:
Hào 1 : Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu
Vật chất bị Lổ đen hút vào. Lổ Đen ấy có 2 chỗ hiểm, tức có 2 “Cửa”
Hào 2 : Ở chỗ hiểm lại có hiểm
Khối vật chất bị hút vào. Qua được 1 “Cửa” thì rơi vào sự tác động của cái “Cửa” thứ hai. Tức là, cửa thứ hai nằm bên trong cửa thứ nhất.
Hào 3 : Tới lui đều bị hãm.
Khối vật chất chịu sự tác động giam hãm ở giữa 2 cái “Cửa”
Hào 4 : Như thể chỉ dâng lên 1 chén rượu, 1 quỹ thức ăn thêm 1 vài thứ khác nữa, có thể tuỳ cơ ứng biến, đút khế ước qua cửa sổ.
Khối vật chất xoay vần trong khoảng giữa 2 cái “Cửa” cố thoát ra. Khối vật chất bị biến hình.
Hào 5 : Nước hiểm chưa đầy, nhưng khi đầy rồi thì thoát hiểm.
Không thể thoát được khi Lổ Đen chưa đầy (vật chất) Chỉ khi Lổ Đen hút thêm vật chất, và khả năng chứa của Lổ Đen đã tới giới hạn (đây rồi) thì khối vật chất bị hút trước đó sẽ được Lổ Đen tống ra. Tống ra ở “Cửa” nào ? Lổ Đen vừa hút vừa đẩy 2 khối vật chất khác nhau qua cùng 1 “Cửa” chăng ?
Hào 6 : Đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, 3 năm không ra được.
Hào 6 đã cho chúng ta câu trả lời: Khối vật chất sau khi bị hút vào qua “Cửa” thứ nhất sẽ bị Lổ Đen tống ra bằng “Cửa” thứ hai (Bị nhốt) Đằng sau cánh cửa thứ hai là vũ trụ của chúng ta chăng ? Không phải ! Hào 6 nói rằng khối vật chất ấy bị nhốt chưa ra được. Như vậy, đằng sau cánh cửa thứ hai của Lổ Đen phải là “Một Cái Khác” Cái khác ấy không thể là vũ trụ của chúng ta. Chưa ra được chứ không phải không ra được. Như vậy Lổ đen hoạt động 2 chiều.
Như vậy, hình thái Thuần Khảm của Chu Dịch Trung Hoa đã xác lập rằng ngoài cái vũ trụ của chúng ta còn tồn tại ít nhất 1 vũ trụ khác.
Theo các giả định hiện có, Lổ Đen có dạng hình phểu với 2 miệng phểu ở 2 đầu. Vật chất bị Lổ Đen hút vào miệng phểu bên này và bị tống ra qua miệng phểu bên kia. Ở miệng phểu bên kia, các nhà khoa học cho rằng đó là 1 vũ trụ khác.
Lưu ý : Ngôn từ sử dụng trong các lời hào của Chu Dịch chỉ là công cụ dùng để mô tả các hình thái & qui luật vận động.
![]() |
| Vào những năm 60 của thế kỷ trước, chùa Kim Liên bị đốt trơ trụi |
![]() |
| Nhà mẫu thuộc chùa Kim Liên khánh thành từ tháng 2 (âm lịch). |
![]() |
| Đây là một ngôi chùa rất linh thiêng |
![]() |
| Cụ Khuê (84 tuổi, người thôn Kim Ngưu) kể về những lần gặp ông mãng xà. |
1. Lễ chạm ngõ
Lễ chạm ngõ là thủ tục đầu tiên dành cho đám cưới truyền thống của người Việt. Lễ chạm ngõ là nhà trai sẽ mang lễ vật như trầu, cau, rượu, chè sang nhà gái. Trong đó, trầu cau là lễ vật chính. Vì theo quan niệm của người Việt “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là biểu thị cho tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gắn kết bền chặt, thủy chung như câu chuyện cổ tích trầu cau của người xưa để lại.
2. Lễ vấn danh (ăn hỏi)
Lễ vấn danh hay còn gọi là lễ ăn hỏi. Theo cách gọi của mộc mạc của dân gian đó là ngày bỏ rào. Khi lễ ăn hỏi được tiến hành nghĩa là người con gái đó đã có nơi có chốn, không được để ý nhòm ngó bên ngoài. Mà phải giữ lễ tiết với chồng và có bổn phận trách nhiệm với nhà chồng. Lễ ăn hỏi cũng là dịp để hai gia đình ngồi lại với nhau để định ngày cưới.
Mâm quả trong ngày ăn hỏi
Sau lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ mang lễ vật nhà trai mang sang để phân phát cho họ hàng với mục đích báo hỉ. Thông thường cau trầu được bọc trong giấy màu hồng hoặc hộp. Còn nhà trai sẽ báo hỉ với họ hàng bằng việc đi phát thiệp mời đám cưới.
3. Lễ cưới
Theo nghi thức lễ cưới truyền thống, trong đám cưới nhà trai phải thực hiện nghi lễ đầu tiên là lễ nạp tài. Trước khi tổ chức hôn lễ nhà trai sẽ mang sính lễ bao gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo cũng như đồ trang sức cho cô dâu sang nhà gái. Ý nghĩa của việc nạp tài là nhằm mục đích đóng góp với nhà gái tiền cỗ bàn, đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này.
Cô dâu chú rể trao nhẫn cưới cho nhau
Tuy nhiên, do hiểu sai mục đích của lễ nạp tài nên ở nhiều nơi, nghi thức này đã biến tướng thành hình thức thách cưới nặng nề. Đây là hủ tục còn tồn tại ở nhiều vùng đồng bào dân tộc và một số địa phương cần loại bỏ sớm, để đám cưới thực sự là ngày hạnh phúc của đôi uyên ương.
4. Lễ xin dâu
Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
5. Lễ rước dâu
Sau khi hoàn thành tổ chức tiệc ở nhà gái, nhà trai sẽ tiến hành lễ rước dâu. Lễ rước dâu truyền thống được thực hiện như sau: Đoàn rước dâu nhà trai sẽ đi theo từng đoàn, người cao tuổi trong dòng họ sẽ cầm hương đi trước theo sau là những người mang sính lễ.
Nhà trai rước dâu về đàng trai
Tại nhà gái, đại diện người cao tuổi sẽ thắp hương và vái trước bàn thờ tổ tiên cùng rước đoàn nhà trai vào. Cô dâu và chú rể cũng làm lễ trước bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau đó, cô dâu chú rể bưng trầu đi mời họ hàng. Bố mẹ và gia đình sẽ tặng quà cho con gái. Đồng thời nhà gái cũng bày cỗ bàn để quan viên hai họ cùng chung vui. Tiệc tan, đoàn sẽ rời nhà gái về nhà trai và tổ chức hôn lễ tại đó. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
6. Rước dâu vào nhà
Khi đoàn rước dâu về đến ngõ, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi tránh mặt một lúc để cô dâu bước vào nhà. Đến nay, chưa có những giải thích cụ thể về nghi lễ này. Nhưng dân gian cho rằng, đây là cách để giải quyết xung khắc “cảnh mẹ chồng nàng dâu” sau này.
7. Lễ tơ hồng
Sau khi lễ cưới ở nhà trai kết thúc, quan viên đã ra về, người thân sẽ ở lại để chứng kiến cô dâu chú rễ làm lễ tơ hồng. Vì theo quan niệm người xưa, duyên nợ vợ chồng là do ông tờ bà nguyệt xe nên. Cúng lễ tơ hồng với ý nghĩa cảm tạ hai ông bà này. Lễ vật cúng ông tơ bà nguyệt chỉ có rượu và hoa quả. Nghi lễ có thể được thực hiện trong nhà hoặc ngoài trời đều được.
Nghi lễ được thực hiện như sau: Người già nhất trong họ sẽ chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Những đám cưới của gia đình giàu có, việc tổ chức có quy cách hơn.
8. Trải giường chiếu
Nghi thức mẹ chồng trải chiếu lên giường
Sau lễ tơ hồng cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng tân hôn. Ở trên giường, sẽ để sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Mẹ chồng và đại diện người đông con hoặc cao tuổi của dòng họ sẽ trải đôi chiếu lên giường (ngày nay có thể thay bằng chăn, ra), ngay ngắn, xếp chăn gối gọn gàng, cẩn thận. Ý nghĩa của việc làm này, là chúc cô dâu chú rể nhanh có có tin vui và sinh được nhiều con cháu thảo hiền.
9. Lễ hợp cẩn
Là nghi lễ cuối cùng của đám cưới được tổ chức tại nhà trai. Trong nghi lễ này, cặp vợ chồng mới cưới sẽ được người cao tuổi trong dòng họ rót rượu vào chén để uống giao bôi và ăn bánh phu thê. Yêu cầu đôi tân lang, tân nương phải uống cạn rượu trong chén, ăn hết bánh không chia cho ai và không để dư thừa. Xong nghi thức này, mọi người sẽ ra ngoài để hai vợ chồng có thời gian tâm sự.
Ở một số nhà giàu có, thì những bạn bè với chú rể còn mang hoa, thắp đèn sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.
10. Lễ lại mặt
Lễ lại mặt hay còn gọi là ngày nhị hỉ. Sau ngày cưới, cô dâu sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật trong ngày lại mặt gồm có: trầu, xôi, lợn. Nhà gái sẽ chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời cặp vợ chồng mới cưới.
11. Lễ cheo
Trong đám cưới truyền thống, lễ cheo rất được chú trọng là một nghi lễ quan trọng của đám cưới. Những nhà nho học ngày xưa, gọi lễ cheo là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.
Lễ cheo được tiến hành trước nhiều ngày hoặc sau lễ cưới 1 ngày. Nghi lễ này được tiến hành như sau: Nhà trai sẽ mang lễ vật hoặc tiền bạc đến cho làng của cô dâu, để mong nhận được sự công nhận của làng xóm đối với chú rể. Hiện nay, thủ tục này đã không còn thay vào đó khi các cặp đôi đăng ký kết hôn sẽ ra ủy bản để đăng ký và khai báo.
Yeutre.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
A - Lệnh tháng
Một điều tối quan trọng trong môn Tứ Trụ là chi của tháng sinh được gọi là lệnh tháng, vì nó quyết định sự vượng suy của mọi can và chi trong tứ trụ, cũng như độ mạnh yếu giữa 5 hành với nhau. Tại sao lệnh tháng lại quan trọng đến như vậy? Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ trong tứ trụ có liên quan với tháng sinh như thế nào?
Theo môn Tứ Trụ thì vào các tháng mùa hè hành Hỏa là mạnh nhất (hay vượng nhất) so với các hành khác, vì vậy ai được sinh ra vào mùa hè mà trong tứ trụ lại có nhiều can và chi là Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ thì dĩ nhiên hành Hỏa quá vượng còn các hành khác thì lại quá yếu. Những người như vậy thường nhẹ thì ốm đau bệnh tật liên miên, nặng thì đoản thọ ......Các mùa khác cũng tương tự như vậy. Như mùa đông giá lạnh thì hành Thủy là vượng nhất, mùa xuân thì hành Mộc là vượng nhất, mùa thu thì hành Kim là vượng nhất. Nhưng giả sử sinh vào mùa hè, hỏa là vượng nhất nhưng tứ trụ lại ít can chi hành hỏa hoặc có can chi hành Thủy như Nhâm, Quý, Tý, Hợi thì không xấu. Nghĩa là căn cứ theo lệnh tháng để biết độ vượng suy của các can chi trong tứ trụ, sau đó tổng hợp xem độ lớn giữa các hành chênh lệch nhau như thế nào, từ đây mới có thể dự đoán được vận mệnh của con người.
B - Các trạng thái
Để giải quyết vấn đề này người ta đã xác định trạng thái vượng suy của các can chi theo các tháng trong một năm theo bảng sinh vượng tử tuyệt cũng như ý nghĩa của các trạng thái đó như sau:
1 - Trường sinh có nghĩa là vật hay con người mới sinh ra từ 0 đến 5 tuổi.
2 - Mộc dục chỉ vật hay con người đã bắt đầu phát triển xong vẫn còn yếu đuối, như trẻ em mới đi học tiểu học và trung học từ 5 đến 16 tuổi .
3 – Quan đới chỉ vật hay con người đã trưởng thành , như trẻ em đang ở tuổi thanh niên đang học đại học hay nghiên cứu sinh từ 16 đến 30 tuổi .
4 - Lâm quan chỉ vật hay sự nghiệp và sức khỏe của con người đã đạt tới sự hoàn thiện, vững chắc, như con người đang ở tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi. Ngoài ra lâm quan còn là trạng thái Lộc của Nhật Chủ (nó nghĩa là đó là nơi quy tụ bổng lộc hay sự may mắn do vua, cấp trên... hay do ông trời, các thần linh, tổ tiên.... phù hộ, giúp đỡ cho).
5 – Đế vượng chỉ vật hay con người đã đạt tới giai đoạn cực thịnh như công đã thành danh đã toại, như con người ở lứa tuổi 45 đến 60. Ngoài ra đế vượng còn là trạng thái Kình Dương của Nhật Chủ (nó nghĩa là khi con người đã đạt tởi đỉnh cao của quyền lực, hay danh vọng thì dễ kiêu căng, hống hách, lạm dụng quyền lực...vì vậy người đó dễ bị tai họa như tù tội, phá sản, bại quan, bệnh tật, tai nạn, chết ...).
6 – Suy chỉ vật hay con người đã qua thời kỳ cực thịnh thì tất phải đến thời kỳ suy yếu đi, như con người ở lứa tuổi 60 đến 70.
7 - Bệnh chỉ vật hay con người đã đến thời kỳ hỏng hóc hay bệnh tật, như con người ở lứa tuổi 70 trở ra.
8 - Tử chỉ vật hay người bị hỏng hay chết.
9 - Mộ chỉ vật hay người mang vất đi hay chôn xuống đất đắp đất nên thành cái mộ (chỉ còn lại linh hồn) .
10 - Tuyệt chỉ vật hay người bị phân hủy thành đất .
11 – Thai chỉ vật hay con người đang được hình thành từ một số yếu tố vật chất nào đó, như linh hồn đã thụ khí thành thai nhi trong bụng mẹ .
12 - Dưỡng là chỉ vật hay người đang trong thời gian chế tạo, nắp ráp để đến khi nào hoàn thiện thì mới xuất xưởng được, như thai nhi phải đủ 9 tháng 10 ngày mới ra đời thành con người.
Bảng sinh vượng tử tuyệt

Qua bảng này ta thấy 5 can và 6 chi dương cũng như 5 can và 6 chi âm có cùng hành nhưng độ vượng suy của chúng theo các tháng trong một năm là khác nhau. Như Giáp và Dần là Mộc, chúng ở trạng thái trường sinh trong tháng Hợi, trạng thái Mộc dục trong tháng Tý, ....... trạng thái Mộ trong tháng Mùi, ......... . Nhưng Ất và Mão cũng là Mộc nhưng chúng ở trạng thái tử trong tháng Hợi, trạng thái Bệnh trong tháng Tý,....... trạng thái Đế vượng trong tháng Dần,...... .
Từ bảng sinh vượng tử tuyệt này người ta đã gọi các trạng thái theo tháng sinh (thường được gọi là theo lệnh tháng) từ Trường sinh tới Đế vượng là vượng (thường được gọi là được lệnh), còn các trạng thái từ Suy đến Dưỡng là suy nhược, hưu tù... (thường được gọi là thất lệnh).
Ví dụ: Giáp hay Dần trong tứ trụ mà sinh vào các tháng từ Hợi tới Mão là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Thìn đến Tuất là thất lệnh (suy nhược, hưu tù).
Ví dụ: Ất hay Mão trong tứ trụ sinh vào các tháng từ Dần đến Ngọ là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Mùi đến Sửu là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Các can chi khác cũng xác định tương tự như vậy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
1. Hội Đình Tri Yếu
Thời gian: Tổ chức từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn các vị thành hoàng làng là Cao Sơn, Qúy Minh và Chàng Rồng (một võ tướng trung quân của Vua Hùng Duệ Vương).
Nội dung: Mở đầu hội đình Tri Yếu là lễ tế cáo Thần, rồi tiến hành lễ rước "bát hương Thánh" với những nghi thức trang trọng với đầy đủ bộ lễ, bát âm, chiêng trống. Ngoài các nghi lễ còn có các tiết mục biểu diễn hát chèo, cờ tướng, thi nấu bánh trưng, bánh giầy, đấu vật giành giải thưởng.
2. Lễ Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 7 tới ngày mùng 9 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: hội quán Lệ Châu, 586 Trần Hưng Đạo, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ông tổ nghề kim hoàn gồm hai nghi thức: tế Tổ trong hai ngày đầu và tế các bậc Tiền hiền, hậu hiền trong ngày cuối.
Trong thời gian lễ giỗ, những người thợ kim hoàn ở thành phố Hồ Chí Minh và các nơi từ khắp các vùng thuộc nam bộ về dâng hương lễ tổ, trao đổi những kinh nghiệm cũng như hỗ trợ nhau phát huy nghề của tổ sư. Những người thợ không về dự được thì có thể tổ chức cúng tổ tại nhà nhưng phải chọn ngày cúng sau những ngày lễ ở hội quán ở Lệ Châu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)