Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tử vi Mậu thìn Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi lý số Mậu Thìn là rồng nơi biển cả, tướng mạo uy nghiêm, ngoài cương trong nhu, chính trực, lương thiện, trọng lời hứa, được xem là bậc quân tử.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

MẬU THÌN: ĐẠI LÂM MỘC

Trong tử vi lý số Mậu Thìn là rồng nơi biển cả, tướng mạo uy nghiêm, ngoài cương trong nhu, chính trực, lương thiện, trọng lời hứa, được xem là bậc quân tử.

Đại lâm Mộc là rừng cây chắn gió, cao vút hiên ngang che lấp mặt trăng mặt trời. Mộc này sinh vào giao mùa xuân hạ phương Đông Nam, sinh trưởng thành rừng, lấy Thổ làm nguồn nuôi dưỡng, Quý Sửu là núi. Nếu không bị hình xung phá hại, chủ phúc lộc quyền quý.

Gặp Thổ gánh vác như Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ thì ưa gặp Tân Mùi, chủ về hiển quý, ưa Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ; Bính Tuất, Đinh Hợi ốc thượng Thổ, lại được Nhâm Thân hoặc Quý Dậu Kiếm phong Kim là mệnh cách cát lợi, sự nghiệp có thành tựu, vinh hoa phú quý. Nếu không phải là lương tướng cũng là hiền thần.

Mộc này bất luận vượng hay suy đều cần gặp Thổ, nếu không sẽ là không có gốc, không những bần cùng chán nản mà còn đoản thọ.

Trụ khác có Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa; Mậu Ngọ Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa đều chủ về trường thọ. Hành đến đại, tiểu hạn cũng chủ về cát tường như ý.

Gặp Đinh Mùi Thiên hà Thủy, mang quý gọi là Linh trà thiên hà cách, sinh vào hai mùa thu, đông là tốt.

Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, chủ bần cùng yểu mệnh.

Mậu Thìn gặp Quý Hợi gọi là Thương long đằng hải cách. Nếu ngũ trụ phối hợp tốt chủ vô cùng hiển quý.

Cũng ưa Đinh Sửu Giản hạ Thủy.

Không nên gặp các Kim, duy có Ât Sửu Hải trung Kim thì có thể được, còn các Kim khác không dùng, gặp phải chủ yểu mệnh, ti tiện.

Với Mộc, ưa gặp Quý Sửu Tang đố Mộc. Nếu là Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc cần gặp Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ, gọi là Bình lâm tại dã cách.Can khác tối kỵ gặp Giáp, phạm vào thì gặp phúc biến thành thành họa, khiến cho mệnh chủ bần cùng chán nản.

Mậu lộc tại Tỵ, chi khác có Tỵ là không tốt do phạm Kiếp sát, Cô quả. Trước giàu sau nghèo, đến trung niên gặp phá bại.

Mậu quý tại Mùi, chi khác gặp Mùi, chủ phú quý.

Trong tử vi lý số  Người sinh năm Mậu, Thiên cơ hóa kỵ, dễ bị thương tật, công việc và kê hoạch không dễ thực hiện.

Mệnh nữ tối kỵ, chủ phúc mỏng, hôn nhân không bền, nhiều bệnh tật, con cái yểu mệnh, cô độc đau khổ.

Mỗi khi gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến ngưòi nhà.

Bạn đời chớ nên gặp ngưòi sinh năm Giáp, Ât. Nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Chi khác có Thìn, phạm Phục ngâm, còn phạm hình, làm việc có đầu mà không có cuối, vợ chồng duyên mỏng.

Nếu thời chi có Thìn, nên nương nhờ nơi cửa Phật.

Trong tử vi nếu Địa chi của ngũ trụ có 4 Thìn, nam khắc 4 vợ, nữ khắc 4 chồng.

Mậu Thìn, Mậu Tuất là Khôi canh tương hội, Càn Khôn hậu đức, được che chở lại hàm chứa tương sinh, không thể là xung.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Mậu thìn Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

3 con giáp muốn sự nghiệp tiến tới phải học cách "lùi"

Ai cũng hy vọng bản thân có sự nghiệp thành công, ngoài kỹ năng và sự may mắn thì thái độ là nhân tố không thể thiếu. Ba con giáp sau muốn thăng tiến cần phải
3 con giáp muốn sự nghiệp tiến tới phải học cách "lùi"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng hy vọng bản thân có sự nghiệp thành công, ngoài kỹ năng và sự may mắn thì thái độ là nhân tố không thể thiếu. Ba con giáp sau muốn thăng tiến cần phải học cách "hạ mình".

 
3 con giap muon su nghiep tien toi phai hoc cach lui hinh anh
 
Tuổi Dần

3 con giap muon su nghiep tien toi phai hoc cach lui hinh anh 2
 
Người tuổi Dần từ nhỏ đã có năng lực dẫn dắt người khác, thể hiện phong thái lãnh đạo dù trong công việc hay trong gia đình. Tuy nhiên, chính thái độ này khiến nhiều người không quen khi mới gặp, từ đó xuất hiện nhiều xung đột, dù bề ngoài không thể hiện nhưng trên thực tế tất cả mọi người đều không thấy thoải mái. Mệnh chủ chỉ cần nghe người khác nhiều hơn, để họ ra quyết định thì sự nghiệp sẽ càng mở rộng.

Mơ thấy ác quỷ và thiên thần là điềm báo gì?
Đôi khi, giữa đêm khuya, bạn giật mình tỉnh giấc, toát mồ hôi vì vừa nằm mơ thấy ác quỷ. Mơ thấy ác quỷ khiến cho bạn sợ hãi nhưng giấc mơ này lại là cát mộng,
 

Tuổi Thìn

3 con giap muon su nghiep tien toi phai hoc cach lui hinh anh 3
 
Con giáp Thìn thường làm việc theo nguyên tắc nhất định, mặc dù biết khiến đồng nghiệp cảm thấy không thoải mái, nhưng ngoài miệng hay trong lòng đều không hạ mình, cách làm quá cứng nhắc sẽ khiến nhiều người không dám đến gần, đồng thời chuốc lấy không ít tiểu nhân. Nếu người tuổi Thìn mềm mỏng hơn thì mọi việc sẽ diễn ra thuận lợi
  Tuổi Dậu
3 con giap muon su nghiep tien toi phai hoc cach lui hinh anh 4
 
Bát tự trụ năm Dậu khi đã đạt thành tích liền kiêu ngạo, cho rằng bản thân là "khổng tước", ra sức thể hiện bản thân, điều này dễ dàng thái độ kiêng kỵ ghen ghét của đồng nghiệp. Mệnh chủ sẽ bị vô vàn lời nói mỉa mai quấy rầy, tất cả vì thái độ ra vẻ ta đây của họ. Vậy nên, chỉ cần hạ mình, khiêm tốn thì không có điều gì có thể cản trở họ.

=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp muốn sự nghiệp tiến tới phải học cách "lùi"

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Cùng tìm hiểu khái quát về khái niệm Bình Địa Mộc, Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Tìm hiểu về khái niệm Bình Địa Mộc

Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh

Bất phùng Kim giả bất năng thành

Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại

Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh

Giải thích : Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc), mà còn cần hòa hợp mới thành vật hữu dụng (cưa, búa đẻo gọt cây thành vật để dùng như tủ, bàn, ghế).

Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc gặp nhau thì tốt. Lưỡng Mộc thành Lâm.

Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn, âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để nảy nở.

Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình thường dù được vận hay.

Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng

Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì?

Khi tìm hiểu Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì bạn có thể biết được người phụ nữ ấy có tướng phú quý hay không. Đối với Nốt ruồi ở ngực phụ nữ có 4 vị trí với các ý nghĩa khác nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Nhân tướng học có nêu rõ về vị trí của các nốt ruồi và ý nghĩa của chúng. Khi tìm hiểu Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì bạn có thể biết được người phụ nữ ấy có tướng phú quý hay không. Đối với Nốt ruồi ở ngực phụ nữ có 4 vị trí với các ý nghĩa khác nhau.

Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì?

Xem thêm:

+ Nốt ruồi xanh, nốt ruồi son là gì?

+ Nốt ruồi trên má bạn gái có ý nghĩa gì?

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh của bạn

1. Nốt ruồi ở xung quanh xương quai xanh:

Đây cũng có thể coi là Nốt ruồi ở ngực.

Với vị trí này thì Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì? Đây được gọi là nốt ruồi khoan hồng đại lượng. Nghĩa là họ là người thân thiện, dễ gần, không toan tính. Mẫu người này thường vì bạn bè, người thân. Do đó nên dễ bị vụ lợi, lợi dụng.

2. Nốt ruồi ở dưới 2 bầu ngực:

Khi có Nốt ruồi ở ngực này thì được coi là sở hữu Kho tiền vì những người có nốt ruồi này sẽ cực kỳ giàu có, không giàu tiền bạc cũng giàu vì tài sản khác như ruộng dất, bất động sản v.v Có những câu chuyện thi vị kể về các đại gia Trung Quốc tìm vợ có nốt ruồi này để kén vợ vì cho rằng họ mang lại nhiều may mắn, của cải.

3. Nốt ruồi ở trên hoặc xung quanh bầu ngực:

Theo quan niệm Nhân tướng học thì đây là nốt ruồi Phú quý, cũng là nốt ruồi tốt nhất trong các loại Nốt ruồi ở ngực phụ nữ. Người sở hữu nốt ruồi này không chỉ giàu có tài sản mà còn luôn thuận lợi trong đường công danh, sự nghiệp, con cái v.v và có phúc phần của tổ tiên để lại. Tất cả như Của hồi Môn của kiếp trước để dành cho họ vậy.

Có rất nhiều người trong giới Nghệ sĩ sở hữu nốt ruồi này và đã chứng minh cho nhận định trên là đúng. Tuy nhiên, không phải vì biết Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì khi ở trên bầu ngực mà bạn đi cấy nốt ruồi. Điều đó không có nghĩa sẽ làm cho bạn có số mệnh giống người đã có từ trước, bẩm sinh.

4. Nốt ruồi ở 2 khe ngực:

Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì khi nó mọc ở 2 khe ngực? Nếu 3 trường hợp trên nốt ruồi đều mang ý nghĩa tốt thì với trường hợp ở giữa 2 khe ngực thì Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì? Đây lại là trường hợp trái ngược hẳn, là vị trí xấu nhất. Theo nhân tướng học thì nốt ruồi này là nốt ruồi lòng lang dạ sói. Ai sở hữu nốt ruồi này là người thâm độc, gian xảo, luôn đặt vị trí của mình lên trên hết, bất kể là nam hay là nữ.

Khi gặp khó khăn, người có nốt ruồi này sẽ lo thoát thân trước tiên, thậm chí là đẩy người khác vào tình thế nguy hiểm để tốt cho bản thân mình. Đây là mẫu người bạn nên tránh xa, không nên giao thiệp vì không biết bạn sẽ thành kẻ thế thân của họ bất cứ khi nào.

Như vậy, Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì đã được giải đáp. Tuy nhiên, vì nốt ruồi này mọc ở vị trí “nhạy cảm” nên khó có thể nhận biết hết tất cả. Do đó, khi đánh giá nhìn nhận một người bạn cũng nên đánh giá toàn diện để có kết quả chính xác nhất nhé!

Tìm kiếm liên quan: nốt ruồi ở ngực, nốt ruồi ở ngực phụ nữ, nốt ruồi trên ngực phụ nữ, nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì, nốt ruồi ở ngực trái phụ nữ, nốt ruồi ở ngực phải phụ nữ, nốt ruồi trên ngực phải phụ nữ, nốt ruồi trên ngực trái phụ nữ, not ruoi o nguc nu gioi, not ruoi tren nguc phu nu, not ruoi tren nguc phu nu co y nghia gi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở ngực phụ nữ nói lên điều gì?

Quỷ Thần kính sợ và tôn trọng loại người nào?

Mỗi người đều hy vọng nhận được sự tôn trọng của người khác, cũng như hy vọng nhận được sự tôn trọng của quỷ thần. Rốt cuộc ai xứng được nhận vinh dự này?
Quỷ Thần kính sợ và tôn trọng loại người nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người đều hy vọng nhận được sự tôn trọng của người khác, cũng hy vọng nhận được sự tôn trọng của quỷ Thần. Rốt cuộc là những người như thế nào mới xứng đáng nhận được sự vinh hạnh đặc biệt này đây? “Duyệt vi thảo đường bút kí” có đề cập đến mấy loại người, chúng ta hãy đọc thử, xem xem có ở trong  số đó hay không.

“Duyệt vi thảo đường kí” có ghi chép rằng, viên ngoại Cố Đức Mậu nói ông ta là minh vương của Đông Nhạc, những lời mà ông ta nói cũng rất có đạo lý. Trước đây ở nhà Cầu Văn Đạt, ông ấy nói rằng:

“Trong địa phủ rất xem trọng những bậc trung trinh liệt nữ, nhưng cũng có phân thành đẳng cấp. Hoặc vì tình cảm trai gái, hoặc vì gia sản nhà chồng kếch xù, nên có phần lưu luyến mà không tái giá, là thuộc hạ đẳng; có nảy sinh cảm tình với người khác nhưng có thể dùng lễ nghĩa để mà khắc chế bản thân, là thuộc trung đẳng; lòng như giếng khô, không nảy sinh những cơn sóng cảm tình, không tham luyến vinh hoa phú quý, đói rét cũng không màng, cũng không so tính thiệt hơn, là thuộc thượng đẳng.

Những người như vậy trong nghìn người cũng không dễ có được một người. Nếu là người như vậy, quỷ Thần cũng sinh tâm kính ngưỡng. Một ngày kia, trong địa phủ truyền rằng có một tiết phụ đã đến, Diêm Vương thần thái nghiêm trang cùng với các âm quan đều ăn mặc chỉnh tề, đứng dậy nghênh đón. Chỉ thấy một bà cụ già dáng vẻ rất mệt mỏi đi đến, chân bà dường như đang bước lên bậc thang. Mỗi bước một cao hơn, đợi đến khi bước đến Diêm Vương điện, bỗng từ nóc điện đi lên, không biết đã đi đâu rồi. Diêm Vương kinh ngạc nói: ‘Người này đã thăng thiên rồi, không ở trong cõi ma quỷ của chúng ta nữa’”.

Cố Đức Mậu lại nói: “Hiền thần cũng chia làm ba đẳng, những người sợ chế độ pháp luật là thuộc vào hạ đẳng, yêu thanh danh khí tiết là thuộc về trung đẳng, lòng trung với triều đình, chỉ một lòng vì nước vì dân, không màng họa phúc vinh nhục là thuộc hàng thượng đẳng”.

Ông ấy còn nói: “Địa phủ vốn rất căm ghét những kẻ vì cầu danh cầu lợi mà tranh mà đấu, cho rằng kết thảy mọi tội ác trên thế gian đều từ đây mà sinh ra. Vậy nên luôn khiến cho loại người này không được như ý muốn, khiến cho cái được của họ chẳng bằng với cái mất. Lòng người càng xảo trá, thì an bài của quỷ Thần cũng càng tinh xảo”.

Lại nói: “Chế độ pháp lệnh nơi âm gian cũng giống như phẩm hạnh khí tiết của của các bậc Thánh hiền vậy, luôn có thiện ý giúp đỡ người khác. Quân tử vì cố chấp phiến diện của bản thân mà tổn hại sự việc nào đó, cũng sẽ bị ghi chép lại làm thành khuyết điểm; tiểu nhân có một chuyện gì mà làm có lợi cho người khác, cũng phải dùng chút thiện báo để báo đáp y. Con người thế gian vốn không hiểu được đạo lý này, vậy nên luôn luôn hoài nghi nhân quả báo ứng có những lúc không ứng nghiệm”.

Những chuyện được đề cập ở trên, có lẽ không được tường tận rõ ràng cho lắm, nhưng cũng đủ để cho chúng ta thức tỉnh, biết nên làm người như thế nào rồi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quỷ Thần kính sợ và tôn trọng loại người nào?

Những màu sắc không nên sử dụng để trang trí nhà cửa theo phong thủy

Muốn gia đình yên ấm, hạnh phúc, tình thần phấn chấn và mạnh khỏe thì tuyệt đối không dùng hoặc hạn chế sử dụng các gam màu dưới đây để sơn hay trang trí nhà cửa.
Những màu sắc không nên sử dụng để trang trí nhà cửa theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bấm vào hình mũi tên để đọc các trang kế tiếp!

KHÔNG DÙNG MÀU HỒNG CHO PHÒNG NGỦ CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG
nhung-mau-sac-khong-nen-su-dung-de-trang-tri-nha-cua-theo-phong-thuy nhung-mau-sac-khong-nen-su-dung-de-trang-tri-nha-cua-theo-phong-thuy-1

Màu hồng gây hại cho tình cảm đôi lứa, có nguy cơ khiến quan hệ vợ chồng ngày càng đi xuống, thậm chí dẫn đến đổ vỡ, hơn nữa nó còn có thể gây ra các rắc rối liên quan đến ngoại tình, người thứ ba.

Alexandra V (theo F.B)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những màu sắc không nên sử dụng để trang trí nhà cửa theo phong thủy

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Cách bài trí để biến tủ lạnh thành “kho của” hút tài lộc cho gia chủ

Vị trí đặt tủ lạnh có ảnh hưởng khá quan trọng đến phong thủy chung của ngôi nhà. Tủ lạnh thuộc Kim nên vị trí tốt nhất cho tủ lạnh là phòng bếp. Bởi lẽ, bếp thuộc Hỏa, nơi vượng Hỏa thì cần có sự xuất hiện của Kim để cân bằng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đời sống xã hội ngày càng phát triển, những thiết bị điện tử như lò vi sóng, tủ lạnh ngày càng trở nên phổ biến trong mỗi gia đình. Thế nhưng ít người biết, sắp đặt các thiết bị này trong nhà cũng cần chú ý đến yếu tố phong thủy. Đặc biệt, nếu phạm phải những kiêng kỵ khi đặt tủ lạnh hay lò vi sóng, gia chủ có nguy cơ phải đối mặt với vận hạn khó ngờ.

Trong thư gửi đến báo GĐ&XH Cuối tuần, anh Nguyễn Văn Sơn (Q. Đống Đa, TP. Hà Nội) kể: “Gia đình tôi diện tích khá chật hẹp. Bởi vậy khi mua lò vi sóng, để tiết kiệm không gian, tôi đã bố trí luôn lò vi sóng trên nóc tủ lạnh. Không ngờ sau một thời gian, sức khỏe các thành viên đều đi xuống, hay ốm đau. Cũng bởi thế, mọi người sinh ra cáu bẳn, không khí gia đình luôn căng thẳng. Tình cờ, một người bạn đến nhà chơi phát hiện. Người này đã nói cho tôi biết đặt lò vi sóng trên nóc tủ lạnh như vậy là điều tối kỵ, phạm phong thủy. Nhưng bài trí lại thế nào thì đúng là tôi cũng chưa nghĩ đến”.

Câu chuyện của anh Sơn chỉ là một trong nhiều sai lầm khi sắp đặt lò vi sóng, tủ lạnh trong nhà. Theo chuyên gia phong thủy Băng Sơn, gia đình anh Sơn đã không tìm hiểu kỹ lưỡng về công năng, cũng như vận trình phong thủy khi sắp đặt đồ vật như vậy. Chẳng hạn theo phong thủy, lò vi sóng là Hỏa, đặt trên nóc tủ lạnh là Kim thì dẫn đến tương xung. Như vậy khó tránh khỏi việc sức khỏe suy yếu, nảy sinh xung đột.

Vậy, sắp đặt tủ lạnh và lò vi sóng thế nào mới phù hợp, giúp gia chủ tránh được vận hạn phong thủy?

 cach bai tri de bien tu lanh thanh “kho cua” hut tai loc cho gia chu - 1

Tủ lạnh tốt nhất nên đặt trong phòng bếp

Tủ lạnh nên bố trí đặt trong bếp

Vị trí đặt tủ lạnh có ảnh hưởng khá quan trọng đến phong thủy chung của ngôi nhà. Tủ lạnh thuộc Kim nên vị trí tốt nhất cho tủ lạnh là phòng bếp. Bởi lẽ, bếp thuộc Hỏa, nơi vượng Hỏa thì cần có sự xuất hiện của Kim để cân bằng (vì Hỏa khắc Kim nên tiết chế được tính hỏa ở không gian này).

Tuy nhiên, không phải vị trí nào trong bếp cũng thích hợp để đặt tủ lạnh. Cụ thể, tủ lạnh không được kê ngay đối diện hoặc quá gần bếp nấu. Vì khí nóng của bếp tỏa ra khi sử dụng và hơi lạnh từ tủ thoát ra rõ ràng là xung khắc với nhau quá mạnh nên gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe gia chủ. Bên cạnh đó, phong thủy học cho rằng cách bố trí này ít nhiều sẽ khiến các thành viên trong gia đình hay cãi vã, không thuận hòa.

Nếu bạn đã đặt trong phòng bếp một chiếc tủ lạnh rồi lại còn đặt thêm một chiếc nữa ở đây thì đối với những người có mệnh kỵ với mệnh Kim (chẳng hạn như Mộc) thì lại không tốt. Việc tăng Kim trong nhà như vậy sẽ dẫn đến hung vận và gia chủ dễ gặp rủi ro. Bạn có thể xử lý bằng cách đặt tủ lạnh vào trong tủ gỗ giống như các khách sạn, quán bar thường làm để hóa giải bớt vận xấu.

Phong thủy học gọi tủ lạnh là “Tài khố” (Kho của). Vì vậy, nếu tủ lạnh đặt trong phòng khách thì tuyệt đối không kê tủ chéo góc với cửa ra vào. Bạn cũng không nên đặt tủ lạnh đối diện với cửa này bởi như vậy sẽ khiến tài lộc, của cải không ổn định, thậm chí dẫn đến nguy cơ công danh tài lộc đi xuống, thất thoát tiền của.

Lò vi sóng phải cách xa bồn rửa, vòi nước

Lò vi sóng là một trong số những thiết bị điện quen thuộc. Tuy kích thước không quá cồng kềnh, chiếm diện tích nhỏ trong không gian nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ qua yếu tố phong thủy khi bố trí lò vi sóng trong nhà.

Lò vi sóng (cùng với lò nướng, bếp ga, bếp lò) thuộc tính Hỏa, còn các vật dụng như bình thủy, máy pha cafe, vòi nước, bồn rửa chén,… lại thuộc tính Thủy. Như chúng ta đã biết, Thủy khắc Hỏa nên khi bạn bố trí lò vi sóng ngay đối diện hoặc quá gần kề thì sẽ xảy ra sự tiếp xúc xung khắc giữ chúng. Cách sắp đặt này vừa không tốt về mặt phong thủy (dẫn đến bất đồng ý kiến, cãi cọ, tranh chấp lẫn nhau, hạnh phúc hôn nhân bị ảnh hưởng) lẫn về mặt khoa học (nguy cơ cháy nổ,…). Rất nhiều bà nội trợ vì tiết kiệm diện tích nên đã đặt lò vi sóng (hay lò nướng) ngay trên đầu tủ lạnh. Điều này là rất cấm kỵ bởi vì Hỏa khắc Kim, đặt gần như vậy rất xung khắc. Hơn nữa, về khoa học, sóng điện từ do các thiết bị điện này phát ra sẽ ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người dùng. Tốt nhất, trên đầu tủ lạnh bạn nên để thông thoáng, không nên đặt gì lên đó để thu hút lộc cho “Tài khố” (trên đã đề cập).

Như vậy, đặt lò vi sóng đúng cách, tránh xa những vị trí nêu trên, ngoài quan niệm phong thủy thì cũng là một cách sử dụng, bảo quản để kéo dài tuổi thọ của thiết bị điện. Một gợi ý là bạn có thể đặt lò cao hơn nền nhà ít nhất 80 cm, cách tường 10 - 15cm, cách trần ít nhất 40 cm để thông gió. Ngoài ra có thể chọn mua các loại tủ chuyên dụng cho lò vi sóng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bài trí để biến tủ lạnh thành “kho của” hút tài lộc cho gia chủ

Mơ thấy hổ: Bị áp lực đè nặng –

Từ xa xưa, loài hổ vốn đã được mệnh danh là “chúa tể sơn lâm”. Hổ đại diện cho uy vũ và dũng mãnh. Hổ còn là biểu tượng của sức mạnh, là tượng trưng của tính hung hăng, bạo tàn. Thông thường, đa số mọi người đều mơ thấy cảnh bị hổ rượt đuổi và tấn c
Mơ thấy hổ: Bị áp lực đè nặng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hổ: Bị áp lực đè nặng –

Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

Nếu bạn mơ thấy xe bị hư tức là bạn sẽ hao tổn tiền bạc, mơ thấy gãy răng, rụng tóc là gia đình bạn sắp có chuyện...
Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mơ thấy bị người yêu bỏ rơi

Giấc mơ này ám chỉ kế hoạch của bạn sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở, quan trọng hơn là không ai có thể giúp đỡ bạn, bạn buộc phải tự lực cánh sinh.

2. Mơ thấy ăn đồ cay

Mơ thấy bạn đang ăn tỏi, hành tây hoặc những thứ gia vị cay ám chỉ bạn sắp có chuyện ngoài ý muốn xảy ra, có thể là họa đến từ miệng, bệnh do ăn uống gây ra hoặc là do tranh chấp, ẩu đả.

Thu-pham-gay-dau-da-day-4-8353-141783476

3. Mơ thấy nói lời tạm biệt với mọi người

Giấc mơ này báo hiệu có kẻ đang giở trò xấu với bạn, kẻ này ở sau lưng bạn đang giở thủ đoạn khiến bạn gặp nhiều phiền phức.

4. Mơ thấy rơi từ trên cao xuống

Mơ thấy rơi từ trên cao xuống hoặc bị ngã và tỉnh dậy ám chỉ sắp có bất trắc xảy ra, có thể là thất vọng trong công việc, các mối quan hệ hoặc chuyện tình cảm khiến bạn nản lòng.

5. Mơ thấy xe bị hư

Mơ thấy bánh xe bị thủng, đèn vỡ… là những của cải ngoài thân, giấc mơ này báo bạn sắp hao tổn tiền bạc.

6. Mơ thấy răng bị gãy, rụng hoặc cắt tóc

Mơ thấy răng bị gãy, rụng nhưng không chảy máu, ám chỉ trong gia đình của bạn sắp xảy ra chuyện. Răng và tóc là bộ phận trên cơ thể, nếu nó bị thương tổn nghĩa là sẽ liên quan đến người trong gia đình, có thể là vấn đề về sức khỏe của người thân hoặc hao tổn chuyện tiền bạc.

1-9589-1417834765.jpg

7. Mơ thấy bóng tối

Mơ thấy bạn đang ở một mình trong bóng tối báo hiệu sắp xảy ra chuyện khiến bạn phải chịu oan ức. Bạn nên cẩn thận với những việc mình đang làm hoặc những người đang có ác ý đổ hết mọi lỗi lầm lên đầu bạn.

8. Mơ thấy ngôi nhà bị hư hỏng

Mơ thấy ngôi nhà bị hư hỏng như cửa bị nghiêng, tường bị nứt… Ngôi nhà là nơi bạn sinh sống và bảo vệ bạn, giấc mơ này nói lên sẽ có tai họa ngoài ý muốn xảy ra, nặng thì tai nạn nghiêm trọng, nhẹ thì bị thương tích do ngã. 

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công

Qua đôi mắt còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của mỗi người, biết được có họ phải là người hay gặp thất bại, khó thành công hay không.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn, thông qua nó người ta không chỉ nhìn thấy được suy nghĩ trong nội tâm của mỗi người mà còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của họ. Vậy đôi mắt như thế nào là đại diện cho sự thất bại và nghèo khó?

1. Tròng trắng nhiều hơn tròng đen: Thông thường mắt người tròng trắng không nên nhiều hơn tròng đen, vì tròng trắng mắt quá lớn đồng nghĩa với sự phản bội, xui xẻo. Những người như vậy hôn nhân thường gặp rắc rối, dễ bị bỏ rơi phản bội, sự nghiệp khó thành, bấp bênh.

2. Mắt quá lớn hoặc quá tròn kết hợp với ngũ quan nhỏ: Mắt lớn hay tròn xoe không phải điềm xấu tuy nhiên nếu trên khuôn mặt có một bộ phận quá nhỏ, ví dụ như mặt nhỏ hay miệng nhỏ là tướng người hay thất thoát, hao hụt tài lộc, dễ vướng vào chuyện thị phi lại hay gặp tai họa bất ngờ, khó né tránh.


3. Mắt nhỏ, hốc mắt sâu: Những người có tướng mắt này vận may không tốt. Đa phần họ đều hay tính toán chi li, hay soi mói lại nhỏ nhen, không có lý tưởng hay khát vọng lớn. Chính vì vậy mà về mặt công tác hay sự nghiệp họ rất an phận, dễ bị tụt hậu so với đồng nghiệp và bạn bè xung quanh. Ngoài ra vì vận may không tốt nên dù họ có cố gắng, chăm chỉ thế nào đi nữa thì tài vận vẫn không được như ý, dễ nản lòng.

Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công - Ảnh 1.

Qua đôi mắt còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của mỗi người (Ảnh: Internet)

4. Đầu mắt có sẹo, có nốt ruồi: Nếu đầu mắt bị thương để lại sẹo hoặc có vết lõm sâu, có nốt ruồi là tướng người không may mắn trong chuyện tài chính. Những người này hay gặp vận xui trong công việc, hay thiếu thốn tiền tài, thường xuyên gặp rắc rối. Dễ để mất tài sản vào tay người khác nên tuyệt đối không được gây dựng sự nghiệp hay kinh doanh.

Những người này cũng dễ bất hòa với người khác, lại không giỏi giao tiếp ăn nói nên hay vướng phải chuyện thị phi, gặp phiền toái.

5. Mắt thâm quầng, sẫm màu, tối tăm: Hốc mắt sẫm màu, tối tăm là người có tính cách không tốt, hay gặp chuyện rắc rối, tiền tài dù lo lắng nỗ lực thế nào cũng không được như ý. Những người này không chỉ sự nghiệp không như ý mà hôn nhân cũng chẳng hài lòng.

6. Ánh mắt vô thần, con ngươi ngả màu vàng nâu: Đa phần người châu Á đều có con ngươi màu đen hoặc màu nâu sẫm. Nếu có con ngươi màu vàng nâu, ánh mắt vô thần nghĩa là họ thuộc tướng người hao tổn tiền bạc vì chuyện tình cảm, nên kết hôn muộn để tránh rắc rối. Đa phần những người này đều khắc vợ khắc chồng. Cả cuộc đời dễ thất thoát tiền bạc, trắng tay vì người khác phái.

7. Đuôi mắt dài tới chân tóc: Đây là tướng xấu, được coi là tướng phá tài, phá của. Dù kiếm được nhiều bao nhiêu cũng sẽ tiêu hết trong chớp mắt. Những người có tướng này không thể giữ được tiền bạc lâu dài nên thường gặp rắc rối, khó khăn trong chuyện tài chính.

8. Mắt lồi: Đa phần những người có mắt lồi đều có tính cách keo kiệt, khó sống chung. Đặc biệt nếu là phái nữ thường có số phận bấp bênh, hôn nhân hay gặp bất trắc, vợ chồng bất hòa với nhau. Về tài lộc họ cũng rất hay gặp xui xẻo, thường xuyên thiếu thốn tiền bạc.

Lưu ý: Nhân tướng học là phép tính thống kê xác suất dựa trên đặc điểm tướng mạo của người Á Đông. Chính vì vậy nhân tướng học không thể áp dụng với những người thuộc các khu vực địa lý khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công

Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Bước sang tháng 11, người tuổi Tị chịu ảnh hưởng của mối quan hệ tương xung, mọi phương diện trong cuộc sống đều có sự biến động lớn, nhất là về mặt công việc.
Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Vận trình sự nghiệp của người tuổi Ngọ ảm đạm trong tháng 11. Làm việc gì, bản mệnh luôn trong trạng thái lực bất tòng tâm, không thể nghĩ ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết triệt để mọi việc. Cứ thế, việc nọ dồn đống lên việc kia, tứ phía bộn bề, đầy rẫy những rắc rối. 

   

1. Người tuổi Tị

  Theo luận giải tử vi năm 2016, bước sang tháng 11, người tuổi Tị chịu ảnh hưởng của mối quan hệ tương xung, mọi phương diện trong cuộc sống đều có sự biến động lớn, nhất là về mặt công việc, sự nghiệp.    Khối lượng công việc tăng nhiều, kèm theo đó là áp lực từ những mối quan hệ xã giao khiến dân văn phòng một phen chao đảo. Đã vậy, dù bản mệnh nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao theo cách hoàn hảo nhất, nhưng điều đó lại không được cấp trên ghi nhận hay mọi người chú ý. Trong đầu bạn nảy sinh nhiều ý nghĩ tiêu cực, thậm chí không còn nhiệt huyết muốn cống hiến như trước.    Làm việc vất vả, có sự sáng tạo mà lại không được đánh giá cao, như vậy chẳng khác nào mọi công lao cố gắng đều đổ xuống sông xuống biển. Một số tuổi Tị vì bất mãn như thế, muốn ra ngoài tìm việc khác phù hợp hay tự lập nghiệp, nên tỷ lệ nhảy việc trong tháng khá cao.    Người kinh doanh, buôn bán tạm thời chưa đưa ra dự án hoặc ý tưởng kinh doanh mới mẻ nào, tạm thời vẫn nên dành thời gian để nghiên cứu và khai thác thị trường mới. Tiến trình diễn ra khá chậm, cần kiên nhẫn chờ đợi, manh động là hỏng chuyện.    Ngoài ra, vận tiểu nhân đeo bám trong tháng không hề ít, trong hợp tác làm ăn tuổi Tị phải đề cao cảnh giác kẻo bị “hớt tay trên” tiền bạc, lợi ích kinh tế lúc nào không hay.  
Thuoc nhom tuoi nay, su nghiep lao dao tu phen trong thang 112016 hinh anh goc
 


2. Người tuổi Thân

  Lâm cục diện Lục Hại, tử vi sự nghiệp của người tuổi Thân cũng thăng trầm, nhiều biến động trong tháng 11. Nhất là khi quan điểm trong công việc của bản mệnh không được mọi người đón nhận và ủng hộ. Cảm giác lên kế hoạch làm gì cũng khó, cũng vấp phải trở ngại tứ bề.   Thêm nữa, kẻ đố kị, ghen ăn tức ở xung quanh lại nhiều, lúc nào cũng rình rập chỉ chờ mệnh chủ có chút sơ hở là moi móc, phá đám cho bằng được. Sống trong tập thể mà lúc nào cũng phải rè chừng, lo lắng như thế quả thực khiến đầu óc bạn lúc nào cũng căng thẳng, không thể tập trung suy nghĩ tới những việc lớn lao.    Thời gian từ giữa tháng trở đi, khối lượng công việc càng nhiều. Việc cứ dồn ứ lại, không được giải quyết triệt để nên cứ như mớ bòng bong, càng cố làm càng thấy rối. Áp lực công việc lớn còn khiến sức khỏe của bản mệnh giảm sút đáng kể. Hơn thế, bạn lại thường xuyên nổi giận vô cớ, khiến hình ảnh và uy tín bản thân giảm sút.  
Thuoc nhom tuoi nay, su nghiep lao dao tu phen trong thang 112016 hinh anh goc
 

3. Người tuổi Ngọ

  Tử vi sự nghiệp của người tuổi Ngọ ảm đạm trong tháng 11. Làm việc gì, bản mệnh luôn trong trạng thái lực bất tòng tâm, không thể nghĩ ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết triệt để mọi việc. Cứ thế, việc nọ dồn đống lên việc kia, tứ phía bộn bề, đầy rẫy những rắc rối.    Tuổi Ngọ vốn dĩ năng động và có thực lực. Nhưng có vẻ như bạn chưa tìm được “đất dụng võ”. Muốn phát huy tài năng, khẳng định cá tính đấy nhưng khổ nỗi thiên thời địa lợi nhân hòa đều chưa có. Bạn cần dành nhiều thời gian để tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm, chờ cơ hội tốt đến là “bách chiến bách thắng”.   Người kinh doanh, buôn bán, hành nghề tự do cũng có một tháng vất vả, chạy đôn chạy đáo khắp nơi mà thu về thành quả không ưng ý, thậm chí còn bị lỗ. Nếu có ai rủ rê bạn tham gia các hạng mục đầu tư mạo hiểm, nên từ chối thẳng thừng kẻo nguy cơ lừa gạt, thua lỗ càng lớn.

Xem chi tiết vận hạn, luận giải lá số tử vi cuộc đời của mười hai con giáp, mời bạn đọc tham khảo: Trọn bộ Tử vi cuộc đời của 12 con giáp

 
Nhật Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuộc nhóm tuổi này, sự nghiệp lao đao tứ phen trong tháng 11/2016

Cách để vượng khí phong thủy luôn ở nhà bạn

Theo triết lý Trung Hoa, phong thủy tạo ra sự cân bằng và hài hòa xung quanh những vật thể sống. Với thời đại này, chúng ta vẫn có thể áp dụng phong thuỷ tạo để sống trong môi trường tốt hơn, và thân thiện với môi trường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mọi người tin rằng phong thủy có thể làm các mối quan hệ trở nên tốt hơn, công việc trở nên thuận lợi hơn, và mang lại sự an khang thịnh vượng cho gia chủ. Đây là một số bí quyết phong thuỷ mà mọi người ít quan tâm nhất.
Nếu muốn biết phong thuỷ có thể giúp các bạn hay không? Sau khi đọc xong bài này các bạn nên áp dụng ngay và chăm chút để căn nhà của bạn thành một nơi có phong thuỷ tốt hơn và góp phần thay đổi cuộc sống, khai thông tài lộc cho chính mình và gia đình mình.

Phong thuỷ cổng nhà
Phong thuỷ cổng nhà
Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà.
Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào.
Cổng tốt nhất là kéo vào khi đi ra, cũng có nghĩa là khi về nhà bạn đẩy cổng vào bên trong nhà. Như thế cái cổng đó mang ý nghĩa chào đón.
Phong thuỷ nhà bếp
Bạn không nên đặt một tấm gương sau bếp, hoặc tấm inox sáng bóng sau lưng bếp như một số người đã hướng dẫn để làm rộng bếp, hay hoá giải bếp ở hướng xấu, để tiện việc lau dọn sạch sẽ,.v.v...Vì họ không am tường hoặc không biết rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến hôn nhân gia đình, bạn có muốn ba mình hay mình có tình nhân, hay có quan hệ ngoài hôn nhân hay không? Tuỳ bạn quyết định.

Phong thuỷ nhà bếp
Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại.
Phong thuỷ Phòng tắm và nhà vệ sinh Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến, vì có thể thủy là kỵ thần của một hay vài thành viên trong gia đình. Giữ toilet sạch sẽ, dùng thùng đựng rác có nắp đậy để giữ vệ sinh.
Sàn toilet luôn sạch và khô ráo.

Phong thuỷ Phòng khách
Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa).
Phong thuỷ Phòng khách
Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn. Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt sẽ rất sống động. Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để lưng ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng.
Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà.
Đồ đạc theo quan niệm phong thuỷ

Đồ đạc theo quan niệm phong thuỷ
Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy.
Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà. Nhưng tuyệt đối không làm cản trở hoặc áp chế lối đi vào nhà. Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà.
Phong thuỷ Cửa và cầu thang
Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau.
Phong thuỷ cầu thang
Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên, và năng lượng sẽ thoát ra ngoài nhanh hơn (không tụ khí được). Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc bình phong để thay đổi, điều tiết năng lượng.
Phong thuỷ Phòng ngủ Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy. Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn.
Phong thuỷ Phòng ngủ
Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ. Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ, vì phòng ngủ lấy tịnh làm chủ, tránh động, ánh sáng chịu ấm. Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường. Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự.
Lưu ý phong thu: Việc đặt gương hoặc bát quái trong nhà phải thật cẩn thận, bạn không nên tuỳ tiện sử dụng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách để vượng khí phong thủy luôn ở nhà bạn

Tướng pháp về các hình dạng đầu |

Dáng tròn: Thông tuệ, giàu, sang. Dáng to vuông: Quyền uy, dũng mãnh. Dáng hóp: Kém cỏi, ít phúc hậu. Dáng bẹt (cá trê): Bần tiện. Đầu vẹo: Hèn mọn, tầm thường. Đầu gồ ghề, u bướu: Bướng bỉnh, bần tiện. Đầu gồ hai bên thái dương: Sống khỏe, gặp may
Tướng pháp về các hình dạng đầu |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng pháp về các hình dạng đầu |

Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Theo quan niệm phong thuy nha o của người xưa, bếp đóng một vai trò quyết định sự thịnh vượng, nguồn tài lộc của cả gia đình.
Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nói đến phong thủy nhà bếp nhiều người coi đó là việc mê tín dị đoan. Thế nhưng, nếu chú ý kỹ sẽ thấy đây là điều rất có khoa học mà ông cha ta phải trải qua cả ngàn năm mới đúc kết được, nó thuộc về khoa học thống kê.

Việc đặt bếp theo phong thủy không quá khó, nếu bạn nắm được những bí quyết sau:

Theo tu vi 2015, bạn không nên đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh là nơi có chứa nhiều vi trùng có hại rất dễ lây bệnh cho người qua đường ăn uống.

Hướng cho bếp phải hợp với cung bổn mạng, toạ hung mà hướng cát. Hỏa môn (của bếp) cần đặt ở hướng lành vừa trấn áp được khí hung vừa hút được khí lành. Nó sẽ giúp cho tài lộc của gia chủ hưng vượng.

Bếp cũng không nên đặt hướng sát so với nhà. Bếp đặt ở hướng sát thường làm thận suy, mắt kém, bị bệnh huyết áp hay bị phong tà gây lở ngứa.

Nếu nhà bạn ở hướng Đông thì sát ở cung Thân, nhà hướng Tây thì sát ở cung Tỵ, hướng Nam thì sát ở cung Hợi, hướng Bắc thì sát ở cung Thìn, hướng Đông-nam thì sát ở cung Dậu, Tây bắc thì sát ở cung ngọ…

Nên nhớ tránh đặt bếp gần phòng ngủ hoặc đối diện với phòng ngủ. Bếp là nơi nấu nướng, thường xuyên sinh nhiệt. Khi đun nấu, khói dầu mỡ sinh ra từ bếp rất độc hại, không tiện để gia chủ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Cũng không nên đặt ở góc tường hoặc góc nhọn, ngoài trường hợp bất khả kháng.

Muốn thức ăn nấu ra luôn ngon thì bạn nên đặt bếp ở hướng Thiên y, tất nhiên là có phần đóng góp của tay nghề nấu nướng của các nội tướng. Đặc biệt, đặt bếp theo hướng này có lợi cho sản phụ.

Bạn cũng cần tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang. Bởi xà ngang áp trên bếp chủ hao tài tốn của. Vị trí gian bếp nên đảm bảo ánh sáng hài hoà, tránh bị quá ẩm thấp, tối tăm, phải có cửa thông gió, khử mùi hoặc đặt cay cảnh để điều hòa không khí lưu thông.

Theo phong thủy, thế bếp còn phải tránh gió, tránh những nơi có đường đi nếu không gia chủ sẽ gặp bất lợi về tài lộc. Bếp cần được đặt ở cung tương hợp và cung sơn chủ (mặt hậu của nhà) nên phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà. Cửa vào bếp phải tương hợp với nơi đặt bếp thì tài lộc của gia chủ sẽ phát, gia đình thịnh vượng.

Màu sắc gian bếp phải hài hoà. Dưới bếp không nên để đọng nước. Bởi thủy hoả đạo tặc, nước để đọng dưới bếp khiến cho gia chủ dễ mắc bệnh thần kinh, khí huyết, bị rối loạn tâm lý, đặc biệt không tốt cho nhà có phụ nữ mang thai. Nếu bạn chưa có em bé thì đường con cái rất khó khăn dù cả hai không hề mắc bệnh gì về vấn đề sinh sản.

Bếp cũng không nên đặt trên giếng nước, hầm rút. Đặt bếp ở những vị trí này gia chủ và người thân thường hay ốm đau, thường mất hoà khí trong nhà.

Trong những ngôi nhà hiện đại, bếp thường kết hợp cùng máy hút khói, bồn rửa chén. Bạn cần đặt máy hút khói ngay trên bếp. Còn bồn rửa chén thì không được cao hơn bếp, cách xa nơi đỏ lửa ít nhất 60 cm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Xếp hạng IQ của 12 con giáp

Chỉ số IQ cao nhất giúp người tuổi Tỵ được vinh danh vị trí đầu bảng, đứng cuối cùng là người tuổi... Tuất ^^.
Xếp hạng IQ của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Tỵ

Ưu điểm lớn của người tuổi Tỵ là trí tuệ thông minh và kỹ xảo ngụy trang thành người hiền lành, chất phác trước mặt mọi người, để mọi người tin rằng họ thực thà và vô hại. Thực tế lại cho thấy điều trái ngược, bởi con giáp này thông minh tuyệt đỉnh với chỉ số IQ đứng đầu trong 12 con giáp.

du-doan-tinh-duyen-trong-nam-2-9484-5373

No2: Tuổi Tý

Người tuổi Tý thông minh, nhạy bén, chỉ cần nhìn qua sự việc là đoán biết ngay kết quả cũng như quy luật phát triển của vấn đề. Họ xứng đáng là người tiên phong trong việc phát hiện sự việc mới lạ.

No3: Tuổi Sửu

Người tuổi Sửu có chỉ số IQ cao, họ rất giỏi trong việc hoạch định kế hoạch và đường đi nước bước cho cuộc đời của mình. Bạn đừng để vẻ bề ngoài chất phác, ngây ngô của họ đánh lừa nhé.

du-doan-tinh-duyen-trong-nam-2-5544-3023

No4: Tuổi Ngọ

Ấn tượng mà người tuổi Ngọ để lại trong mắt mọi người chính là tinh thần căng tràn sức sống. Đó là do họ sở hữu sức khỏe dồi dào, thân hình cường tráng, hài hòa, cộng với bộ não thông minh một cách tự nhiên. Nếu có thắc mắc gì cần giải đáp hoặc giúp đỡ, bạn nên tìm người tuổi Ngọ để tìm câu trả lời nhé.

No5: Tuổi Thân

Sự nhanh nhạy không những về thể chất mà còn về trí tuệ của người tuổi Thân khiến họ giải quyết sự việc một cách nhanh gọn và hiệu quả. Đôi khi họ nhún nhường hoặc nhượng bộ ai đó, vì một lợi ích nào đó. Bạn đừng tưởng họ cù lần không biết gì nên mới chịu đựng như vậy, chỉ là họ đang lùi một bước để tiến hai, ba bước vững vàng kế tiếp.

du-doan-tinh-duyen-trong-nam-2-6928-1444

No6: Tuổi Mùi

Điểm nổi bật ở người tuổi Mùi là năng lực lĩnh hội sự việc. Có thể nói, trong 12 con giáp thì khả năng này ở người tuổi Mùi là xuất sắc hơn cả. Họ dễ dàng nắm bắt được cốt lõi vấn đề, nhìn nhận và đánh giá sự việc một cách nhanh nhạy, triệt để.

Xem tiếp

Mr.Bull

298354958a48fdd5fc-1402975661-8613-8305-

Người tuổi nào dễ giàu có nhất?

Dù số mệnh giàu sang của người tuổi Hợi chỉ có 2 phần, nhưng vì dựa vào thực lực và sự cố gắng không ngừng nghỉ, họ dễ dàng trở thành tỷ phú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xếp hạng IQ của 12 con giáp

Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Theo nhân tướng học, mỗi nốt ruồi trên cơ thể đều có một ý nghĩa nhất định. Dưới đây là một số cách nhận biết nốt ruồi giàu sang trên khuôn mặt đàn ông. Nốt ruồi trên mũi Mũi còn gọi là cung Tài Bạch, 1 trong 12 cung trên mặt. Theo nhân tướng học, nế
Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông qua nốt ruồi –

Hướng của cửa sổ –

Cửa sổ mở về hướng Đông là một điềm lành vì dương khí ở hướng Đông rất dồi dào. Trong phong thủy gọi là “tử khí đến từ hướng Đông” (“tử” ở đây tức là màu tím trong tia cực tím). Cửa sổ mở về hướng Bắc không có lợi cho sức khỏe của mọi người trong nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

file.394957

Cửa sổ mở về hướng Đông là một điềm lành vì dương khí ở hướng Đông rất dồi dào. Trong phong thủy gọi là “tử khí đến từ hướng Đông” (“tử” ở đây tức là màu tím trong tia cực tím).

Cửa sổ mở về hướng Bắc không có lợi cho sức khỏe của mọi người trong nhà, vì phương Bắc trong ngũ hành phong thủy thuộc “âm thủy”, cửa mở về hướng Bắc dễ dẫn “âm sát” vào nhà. Trong khi đó, cửa sổ mở về hướng Nam, nếu nhìn thấy các vật như góc nhà, cây khô, đá nhọn hoặc đường chân trời thì không có lợi cho sức khoẻ, dễ bị các bệnh về mắt.

Cửa sổ phòng khách và phòng ngủ nếu đối diện với những vật không may mắn sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và của cải của chủ nhà và gây ra nhiều vấn đề bất cập.

Ngoài cửa chính, cửa sổ là con đường duy nhất để những người trong nhà kết nối với thế giới bên ngoài, vì thế cửa sổ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thông thường, các nhà có cửa sổ hướng Đông Nam tương đối dễ chịu, mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, nhưng theo quan điểm phong thủy thì trước hết phải nhìn rõ cảnh vật xa gần bên ngoài cửa sổ. Nếu cảnh vật là “xung sát” kém may mắn thì cho dù ‘cửa sổ ở hướng Đông Nam cũng là điều không tốt.

Nếu cửa sổ bị che khuất tầm nhìn bởi một nhà bên cạnh, ngưòi trong nhà vì thế không cách nào mở rộng tầm mắt vượt qua bên ngoài cửa sổ thì đó cũng là một điều bất cập. Phong thủy gọi đó là: “quái khí bất đáo”, nói cách khác tức là “sinh khí” và “tài khí” không thể vào được trong nhà. Đốỉ với chủ nhân của ngôi nhà thì điều này quả thật không có lợi.

Ngoài ra, nếu cửa sổ đối diện ngay với một con đường cái dài và thẳng thì cũng không tốt, vì trên đường cái chắc chắn sẽ có xe cộ thường xuyên qua lại. Nếu những chiếc xe đó đi thẳng qua cửa sổ nhà bạn thì đó là “xung tâm thủy”. Đây là một trong những “hung sát” có ảnh hưởng không tốt với sức khỏe con người. Ngược lại, nếu xe đi qua về hướng con đường đối diện với cửa sổ đó thì sẽ tạo thành thế “chỉ thủy”. Những nhà thường xuyên bị “chỉ thủy” đương nhiên khó mà tích luỹ được của cải. Vì thế, cửa sổ đối diện với đường cái nhỏ và hẹp, dù là theo hướng nào cũng đều là không tốt.

Cửa sổ lí tưởng nhất là đối diện với một con đường hơi ngoằn nghèo uốn lượn, đó chính là thế hiếm gặp – “cửu khúc thủy”. Nhờ có “cửu khúc thủy” mà con cháu đời sau trong nhà mới có thể giữ được địa vị và sự giàu sang phú quý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng của cửa sổ –

Những điều cần cân nhắc trong phong thủy văn phòng (Phần 1) –

Cho dù là cơ quan chính phủ hoặc là các tầng lớp lãnh đạo, cho dù là ông chủ cửa hàng nhỏ hoặc là giám đốc công ty lớn, văn phòng của nhà lãnh đạo và bàn làm việc đều rất quan trọng. Bời vì trường khi phương vị cát tường có những tác dụng nhất định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cho dù là cơ quan chính phủ hoặc là các tầng lớp lãnh đạo, cho dù là ông chủ cửa hàng nhỏ hoặc là giám đốc công ty lớn, văn phòng của nhà lãnh đạo và bàn làm việc đều rất quan trọng. Bời vì trường khi phương vị cát tường có những tác dụng nhất định đối với đàn lược, trí tuệ của con người, từ đó mà ảnh hưởng đến sự hưng thoái trong làm ăn, sự thành bại của sự nghiệp.

vanphong-cho-thue

1-  Văn phòng có hay không bố cục gọi là “tăng long tụ khí”? Nó có ảnh hưởng như thế nào đối với công ty?

Tăng long tụ khí chẳng qua là một tên gọi, người tập cửu cung phi tinh, khi xem hoặc viết phong thủy toà nhà văn phòng chủ yếu là xem môn hành và vị trí ngồi của toà nhà, có đúng với tinh vị của đương thời hay không?

2-   Phong thủy học của Trung Quốc có cách nói “Hoa thiêu Tây Nam”, đặt trong trường hợp văn phòng xem xét thì có hay không? Nếu có thì hoá giải như thế nào?

Cửu cung phi tinh không có cách nói: “Hoả thiêu Tây Nam”, do vị trí của tinh vị mỗi năm đều không giống như tọa hướng, chính vì vậy, vị trí Tây Nam chưa chắc là không tốt. Nếu vị trí Tây Nam là hỷ tinh, vậy ngồi ở đó cũng chẳng xấu gì.

3-   Những nơi ở Hồng Kông rất ít hoặc rất nhiều các khu thương mại lớn đều có bố cục gọi là “xuyên diệu”, thế nào là “xuyên diệu” đây?

Chữ “diệu” trong từ “xuyên diệu” trong góc độ phong thủy học mà nói, đại diện cho một loại long mạch, đúng như Tả thanh long hữu Bạch hổ vậy. “Xuyên diệu” chính là chỉ long mạch bị xuyên qua, làm phá vỡ đi cục diện của “diệu”.

Nếu văn phòng đặt ở tòa nhà có cục diện “xuyên diệu”, làm thế nào có thể hoá giải?

Do toàn bộ tòa nhà mỗi đơn vị phong thủy đều không giống nhau, chính vì vậy chỉ ảnh hưởng những đơn vị bộ phận trong đó, chúng ta có thể dùng bố cục hoá giải “xuyên diệu” của phi tinh mỗi năm.

4- Phân biệt “hung” trong văn phòng có những loại nào? Lần lượt có bốn loại là: tam hung, thất hung, thái tuế hung và ngũ hoàng hung. Nếu cần hoá giải, mỗi năm phải đối diện với bốn hung vị này, lần lượt những hung kỵ văn phòng nói trên đại diện cho cái gì, có thể lý giải như thế nào?

Tam hung và thất hung đại diện cho hướng đối nghịch của thái tuế; thái tuế hung lại đại diện ở thái tuế; mà ngũ hoàng hung lại đại diện cho vị trí không nên động thổ.

5- Từ góc độ huyền học xem xét, đặt bàn làm việc ở những nơi như “trực xung”, “đối xung”, “cô lập” có phải là vị trí không tốt của phong thủy hay không? Nếu có thì có gì không tốt và phải hoá giải nó như thế nào?

Từ góc độ phi tinh học mà nói thì không có cái gì gọi là “trực xung”, “đối xung”, “cô lập” là những cục diện phong thủy không tốt, chính vì vậy mà không cần phải hoá giải.

6-  Bàn làm việc cát lợi nhất nên đặt ở vị trí nào của văn phòng? Tài vị chính là vị trí cát lợi nhất trong toàn bộ văn phòng, bàn làm việc có thể đặt ở đó.

7- Nhân viên có thể đặt những gì trên bàn làm việc để có lợi cho việc thăng chức, lên lương và quan hệ tốt với đồng nghiệp. Thực ra nhân viên không cần phải đặt lên bàn làm việc bất kỳ vật gì đặc biệt, nếu cần “động” tài khí, chỉ cần khi được lệnh thì ngồi ở hỷ tinh vị hoặc bảo đi là đi.

8-  Các văn phòng hiện đại ngày nay đa phần thiết kế theo kiểu khép kín, dễ dàng truyền nhiễm vi khuẩn. Theo góc độ huyền học, chúng ta có thể đặt ở cơ quan những thứ để nâng cao sức khỏe vận?

Điều này không liên quan gì đến phong thủy, phong thủy học thuần tuý cần xem vị trí đường đi hướng ngồi, vị trí người đi lại có hay không “động” hung.

9-   Bộ mặt của một ông chủ tốt có những đặc trưng gì?

Một ông chủ tốt, đầu mũi phải có thịt, tai phải có chùy chầu (hạt ngọc rơi), ông chủ có bộ mặt như vậy sẽ đối xử tốt với nhân viên.

Bộ mặt của ông chủ xấu là gì?

Người xưa có câu: “Bảo nha thoát kỷ hoàng diện mục”, nếu người này có hai răng cửa thưa, ngoài ra lại có mũi của chim ưng và tai sau nhìn người khác, đều là ông chủ xấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần cân nhắc trong phong thủy văn phòng (Phần 1) –

Số 7 có nghĩa gì đặc biệt trong Phật giáo và các tôn giáo khác

Ở mỗi tôn giáo khác nhau, con số 7 lại mang màu sắc riêng biệt. Trong Phật giáo, số 7 có nghĩa gì? Nó gắn liền với cuộc đời của Đức Phật.
Số 7 có nghĩa gì đặc biệt trong Phật giáo và các tôn giáo khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở mỗi tôn giáo khác nhau, con số 7 lại mang màu sắc riêng biệt. Trong Phật giáo, số 7 có nghĩa gì? Nó gắn liền với cuộc đời của Đức Phật từ lúc Ngài sinh ra cho đến suốt cuộc đời hành đạo. Với Thiên Chúa giáo, số 7 là biểu trưng cho sự hoàn thiện hay hoàn hảo về cả thể xác và linh hồn...  

1. Số 7 có nghĩa gì trong Phật giáo?

 

- Số 7 đại diện cho 7 bước chân đầu tiên của Đức Phật khi đản sinh

  Về mặt tâm linh, hình ảnh 7 bước chân đầu tiên của Đức Phật tương ứng với 7 đóa sen khi đản sinh là điều rất quen thuộc đối với những hành giả. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi, vì sao Đức Phật vừa mới sinh ra lại biết đi và đi 7 bước chứ không đi 3 bước, 5 bước hay 8 bước không?    Đó chính là sự màu nhiệm. Với những hàng học giả, đó không là một vấn đề đáng tranh cãi bởi điều này là một sự tất yếu của một bậc Thánh khi giáng trần. Nhưng một số người vẫn còn tò mò, thắc mắc, vì sao một trẻ thơ lại có thể bước đi ngay khi mới chào đời như Thái Tử Tất Đạt Đa.   
So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Thái Tử Tất Đạt Đa bước đi ngay sau khi chào đời là một huyền thoại, nhưng huyền thoại này được chấp nhận và dần đi vào nhận thức như một lẽ tất yếu về sự kỳ diệu của một Đấng Giác Ngộ giáng trần. Huyền thoại này không làm khiến mọi người mê tín, mà sự kiện lịch sử này còn mang ý nghĩa sâu sắc, là cốt lõi chính yếu trong đạo Phật.   Đức Phật ra đời mục tiêu duy nhất là “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai thị cho chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật” ( Kinh Pháp Hoa). Ngộ nhập tri kiến Phật để đánh tan sự vô minh đang che lấp Phật Tính trong mỗi chúng ta, khi Phật Tính đã hiện hiển thì đồng nghĩa với việc giác ngộ và giải thoát. Học Phật giải thoát sân hận, tiến gần hạnh phúc. Giải thoát chính là thoát khỏi 6 nẻo luân hồi: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, A Tu La, Trời, Người, để bước lên bậc cao hơn, đó là vô sinh, là bước thứ 7 của Đức Phật.   Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Đức Phật bước 7 bước chân mà đó thể hiện sự ung dung, tự tại của một đấng Giác Ngộ, vào 6 nẻo luân hồi để độ thoát và bước ra khỏi đó. Bước thứ 7 mà không là bước thứ 8 để khẳng định rằng, sự giải thoát 6 nẻo luân hồi là mục tiêu duy nhất mà Đức Phật sẽ giúp cho chúng sinh khi Ngài thị hiện ở cõi Ta Bà.  

- Con số 7 gắn liền với 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc Bồ đề

 
So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Thành đạo sau 49 ngày thiền định dưới gốc Bồ Đề là một mốc son quan trọng không chỉ trong cuộc đời Đức Phật mà là của cả nhân loại.   49 ngày đánh đấu sự ra đời của đạo Phật thiêng liêng. Thiền định với lời đại nguyện sâu rộng “ Cho dù thịt nát xương tan, nếu ta không thành đạo quyết không rồi khỏi gốc Bồ Đề này” là lời dạy của Đức Phật về sự tinh tấn trong quá trình tu hành.   49 ngày cũng gắn liền với số 7. Đó là cấp số nhân của 7 ( 7x7=49 ngày), để nhấn mạnh sự tinh tấn và càng phải tinh tấn hơn nữa mới đạt đạo.  

- Số 7 gắn liền với 7 ngày tinh tấn niệm Phật về cõi Tịnh Độ

  Sự tinh tấn tu học lại gắn liền với số 7 trong 7 ngày niệm Phật nhất tâm bất loạn để về với cõi Tây Phương Cực Lạc theo Kinh A Di Đà đã dạy: “Khi sắp lâm chung, mau thì 1 ngày chậm thì 7 ngày niệm Phật liền được vãng sinh Tịnh Độ”.   Nhiều người cũng sẽ thắc mắc, vì sao không niệm 6 ngày hay 8 ngày mà niệm 7 ngày sẽ về cõi Tịnh Độ? Vì sao về cõi Tịnh Độ lại dễ dàng như thế, trong khi Đức Phật phải ngồi thiền định 49 ngày mới thành đạo?  
So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Niệm Phật 7 ngày với tâm bất loạn, nghĩa ra phải dùng câu niệm Phật để điều ngự những dục vọng mà chúng ta đang có sẽ được vãng sinh. Theo Tịnh Độ Tông, vãng sinh nghĩa là hành giả muốn chuyển hóa thế giới phiền não ngay trong tâm mình thì phải tu tập pháp môn niệm Phật, để tâm được thanh tịnh. Chỉ có chính ta mới biết sự tham lam, nóng giận và si mê đang hoành hành như thế nào, mạnh mẽ hay âm ĩ, mức độ hoạt động như thế nào? Chúng ta chuyển hóa nó bằng phương pháp niệm Phật.   Những lo toan, tính toán trong cuộc đời được hành giả thay vào đó bằng phương pháp niệm Phật, như một biện pháp ngăn chặn, không cho phiền não hoạt động hoặc xâm nhập. Khi chạy theo 6 trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì ô nhiễm xuất hiện, tâm của chúng ta sẽ đón nhận cảnh khổ như ở địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, nên có câu: “Lục căn lục trần vọng tác vô biên chi tội, mê luân khổ hải ngạ quỷ đạo trung”.   Theo đó, niệm Phật 7 ngày để được vãng sinh chỉa là ngụ ý để sách tấn chúng ta phải cố gắng, nỗ lực điều chỉnh lại thân tâm cho thật thanh tịnh, không bị vướng mắc bởi bất kỳ điều gì, khi đó sẽ được vãng sinh về thế giới chư Phật, thoát khỏi luân hồi. Xem thêm Lợi ích khi niệm Phật.  

2. Con số 7 có nghĩa gì trong Thiên Chúa giáo?
 

Nhắc đến sự kì bí và những truyền thuyết về số 7 thì không thể không nói đến sự xuất hiện của số 7 trong đạo Thiên Chúa và Kinh Thánh. Số 7 xuất hiện rất nhiều lần đến nỗi nó trở thành một con số biểu tượng liên hệ chặt chẽ đến tín ngưỡng Thiên Chúa giáo.

Con số 7 được sử dụng biểu thị sự hoàn thiện hay hoàn hảo về cả linh hồn lẫn thể xác. Chúa được khắc họa với 7 tia sáng ở giữa 6 tia sáng tạo. Đức chúa trời đã mất 7 ngày để sáng tạo nên vũ trụ.

Eva cũng được tạo ra từ xương sườn thứ 7 của Adam trong khi đó Adam được “tạo ra” vào ngày 7/10 (ngày đầu tiên của Tishri – tháng 7 theo lịch Do Thái).
 

3. Ý nghĩa số 7 trong đạo Hindu

 
So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Số 7 trong quan niệm của những người theo đạo Hindu tượng trưng cho Trái Đất. Thánh kinh của đạo Hindu tuyên bố rằng, Trái đất là một trong số 14 hành tinh tồn tại, chúng nằm ở các vị trí cao thấp khác nhau.    Theo đó thì Trái đất nằm ở vị trí chính giữa với 7 hành tinh ở trên và 7 hành tinh nằm bên dưới (bao gồm cả hành tinh số 0 - hành tinh không được biết đến).   Bảy hành tinh phía trên tương ứng với 7 “thế giới” khác nhau trong đạo Hindu: mặt đất thế giới của con người, không khí thế giới của các vì sao, thiên đường trên trời thế giới của chúa, thế giới của các sinh vật lộng lẫy, thế giới của các vị thần, thế giới của linh hồn thuần khiết và thế giới của sự thật.   Số 7 xuất hiện rất nhiều trong kinh Hindu. Thần lửa Agni được miêu tả với 7 bàn tay và bảy ngọn lửa – tương ứng với những phần của cơ thể người và 7 nguồn năng lượng sẽ thức tỉnh trong quá trình thực hành tâm linh của con người.   Số 7 cũng có ý nghĩa quan trọng trong đám cưới của người Hindu. Cặp đôi mới cưới thường phải đi 7 bước vòng quanh một đám lửa. Theo truyền thống, khi đã cưới thì mối nhân duyên giữa 2 người sẽ kéo dài đến 7 kiếp. Có thể thấy, số 7 ở đây phần nào tượng trưng cho sự lâu bền của tình yêu.  

4. Ý nghĩa số 7 ở một số nước trên thế giới

 

- Ở Trung Quốc


So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, số 7 đại diện cho sự kết hợp của Yin, Yang (tạm dịch: Âm - Dương) và 5 nguyên tố căn bản của tự nhiên ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sự kết hợp này được coi là một sự hài hòa tuyệt hảo trong tư tưởng của Khổng giáo. Trong khi đó, theo tư tưởng của Lão giáo thì số 7 đại diện cho “Tao”, có sự liên hệ chặt chẽ với lòng tốt và cái đẹp.
  Số 7 được sử dụng rộng rãi trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, ví dụ như 7 kho báu trong Kinh Phật, ngày lễ Thất tịch 7/7 hàng năm khi mà Ngưu Lang Chức Nữ có cơ hội được gặp mặt trên cây cầu Ô Thước. Câu nói “làm được một bài thơ trong bảy bước đi” cũng được sử dụng để ám chỉ sự nhanh nhẹn của một người thời xưa...   Bên cạnh những ý nghĩa tích cực thì số 7 cũng bị coi là một con số không may mắn. Về một mặt nào đó, con số này tượng trưng cho sự bỏ rơi và tức giận, hay kể cả cái chết.  

- Ở Nhật Bản


So 7 co nghia gi dac biet trong Phat giao va cac ton giao khac hinh anh
 
Tại quốc gia này số 7 được coi là một con số may mắn. Niềm tin này phát triển từ nền văn hóa và tôn giáo của đất nước chứ không phải chỉ là một trào lưu được truyền vào từ những nước khác.
  Là một quốc gia mà người dân đa số theo Phật giáo, số 7 có ý nghĩa khá quan trọng trong đời sống tâm linh của người Nhật. Theo Phật giáo, một người có thể được tái sinh 7 lần trước khi vào được cõi Niết Bàn. Phật nhập cõi Niết Bàn để lại 4 câu trả lời cho mọi vấn đề. Hình tượng biểu tượng của con số 7 này có thể được coi là điểm gốc của hình tượng con số 7 trong văn hóa Nhật.   Một biểu tượng may mắn của số 7 trong văn hóa Nhật là “7 vị thần may mắn”. Theo đó, 7 vị thần này thường được miêu tả đang chèo trên một con thuyền đầy châu báu và sẽ cập bến vào ngày đầu năm mới.   Tại đây, số 7 cũng gắn liền với lễ kỉ niệm sự sống và cái chết của con người. Người Nhật thường tổ chức lễ mừng 7 ngày sau sinh của trẻ con. Ngược lại, người ta cũng cho rằng 7 ngày là khoảng thời gian cần thiết để linh hồn người chết về với cõi âm. Nhiều lễ hội của Nhật cũng được tổ chức liên quan đến số 7 như ngày lễ 7-5-3 của trẻ con hay lễ Tanabata vào 7/7.   T.H   Hiểu ý nghĩa con số trong phong thủy sẽ đem lại tài lộc vô biên
Con số trong phong thủy ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và số phận của từng người. Hiểu được ý nghĩa con số trong phong thủy sẽ giúp bạn cải biến được rủi ro

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Số 7 có nghĩa gì đặc biệt trong Phật giáo và các tôn giáo khác

Kinh dị búp bê ma ám

Khi còn bé, hẳn bạn nữ nào cũng sở hữu ít nhất một con búp bê xinh xắn và vô cùng yêu quý nó. Tuy nhiên, bạn đã bao giờ gặp phải trường hợp, con búp bê đó có
Kinh dị búp bê ma ám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sở thích kỳ lạ là luôn muốn chiếm giữ tâm hồn, thể xác bạn hay phá rối đồ đạc trong nhà. Cùng điểm lại một vài con búp bê ma ám đáng sợ mà hẳn bạn sẽ không bao giờ muốn sở hữu nó theo danh sách chuyên trang Mentafloss.

1. Búp bê Mandy

Kinh di bup be ma am hinh anh
 
Câu chuyện bắt đầu xảy ra vào năm 1991 khi một người phụ nữ tên Mereanda tặng con búp bê này cho Bảo tàng Quesnel ở British Columbia, Canada. Bà kể rằng, vào một đêm, bà bị đánh thức bởi tiếng khóc lạ dưới tầng hầm.
 
Khi xuống kiểm tra, bà phát hiện cửa sổ mở toang, một con búp bê cũ kĩ đang ngồi trên đó nhìn bà chăm chăm. Quá sợ hãi, sáng hôm sau, bà đã đem con búp bê tới tặng Bảo tàng và người ta đặt tên nó là Mandy.
 
Mandy là một con búp bê được sản xuất ở Anh hay Đức vào năm 1910 hay 1920. Giờ đây, quần áo của nó đã nhàu nát, cũ kỹ, khuôn mặt nhiều vết nứt. Khi đưa vào bảo tàng, nhiều người cho rằng, Mandy chỉ là một cô búp bê bình thường nhưng ngay sau đó, những điều kỳ lạ đã bắt đầu xuất hiện.
 
Đầu tiên là việc những nhân viên bảo tàng không tìm được bữa trưa của mình dù họ đã cất chúng trong tủ. Họ đã đi tìm khắp nơi nhưng cuối cùng tìm thấy chúng trong ngăn kéo nhỏ.
 
Kỳ lạ hơn, nhiều vật dụng khác của nhân viên cũng “không cánh mà bay”. Mỗi đêm, người bảo vệ bảo tàng nói rằng họ nghe thấy những tiếng chân đi lại xung quanh phòng nhưng họ không phát hiện thấy bóng dáng một ai.
 
Từ những mối nghi ngờ sẵn có, người ta bắt đầu điều tra về nguồn gốc của búp bê Mandy. Tuy nhiên, không một ai biết Mandy đến từ đâu và ra đời như thế nào. Chỉ biết rằng, hình như con búp bê này có một quyền năng lạ thường, được tích tụ trong nhiều năm.
 
Lúc đầu, Mandy được đặt ngay tại lối đi vào. Những vết nứt nẻ trên gương mặt cộng thêm nụ cười và cái nhìn bí ẩn khiến nhiều người cảm thấy hoảng sợ. Sau đó, người ta đã chuyển Mandy đến một căn phòng riêng biệt.
 
Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà nhiều người đến quay phim và chụp ảnh Mandy nhưng tất cả đều bị che lấp bởi một luồng sáng kỳ lạ, rồi chỉ sau khoảng 5 giây tất cả các máy đều tự động vụt tắt. Khi sang các phòng khác trong bảo tàng, chiếc máy này hoạt động bình thường.
 
Một số du khách kể lại rằng, khi đến thăm bảo tàng, họ cảm nhận như có một ánh mắt luôn dõi theo. Thỉnh thoảng người ta vẫn thấy mắt của Mandy chớp chớp nhìn họ, nhiều người thấy con búp bê di chuyển sang một vị trí khác rồi chỉ trong nháy máy nó lại trở về chỗ cũ.
 
2. Huyền thoại về búp bê Robert

Kinh di bup be ma am hinh anh
 
Khi nói đến những con búp bê ma ám, búp bê Robert của Mỹ được cho là nổi tiếng nhất. Búp bê Robert chính là nguồn cảm hứng để các nhà làm phim xây dựng nhân vật búp bê đáng sợ Chucky trong bộ phim nổi tiếng “Ma búp bê”.
 
Robert thuộc về chủ sở hữu là Robert Eugene Otto. Năm 1906, cô hầu gái Bahamas đã tự tay làm con búp bê cao khoảng 91cm tặng cậu bé Eugene. Nhiều người cho rằng, chính cô hầu gái này đã nguyền rủa món đồ chơi này sau khi cha mẹ của Robert tỏ thái độ không hài lòng với cô. Ngay sau khi cô hầu gái này bỏ đi, các sự việc bí ẩn bắt đầu xảy ra, gây rắc rối cho gia đình Otto.
 
Robert đã đặt tên cho búp bê bằng chính tên của mình và rất thích nói chuyện với nó, có người khẳng định là con búp bê đã cất giọng đáp lại. Họ cũng nói rằng, món đồ chơi này có thể thay đổi biểu cảm theo ý thích và có thể tự di chuyển về nhà riêng của mình.
 
Hàng xóm nói với nhau đã nhìn thấy con búp bê di chuyển từ cửa sổ này đến cửa sổ khác khi gia đình Otto đi vắng. Các thành viên trong gia đình thì nghe thấy tiếng cười khanh khách, lạnh lẽo phát ra từ món đồ chơi này.
 
Búp bê Robert gây ra nhiều câu chuyện dị thường vào ban ngày, nhưng vào ban đêm nó chỉ tập trung “chơi” với cậu bé Eugene Robert. Những vật dụng trong nhà tự động bị vỡ hoặc biến mất; đồ thủy tinh và vàng bạc trong phòng ăn tự rơi, vỡ; quần áo tự bị xé rách; những bộ chăn đệm tự động co rúm lại, nhàu nát.
 
Eugene Robert bỗng nhiên yếu dần đi, cậu bé trở nên kỳ lạ. Cứ mỗi tối, cậu bé lại lẻn qua cửa sổ và đi lang thang trong đêm. Khi bố mẹ cậu bắt đầu để ý và phàn nàn cũng là lúc họ nhận thấy có chuyện không ổn. Eugene cứ luôn miệng nói: “Robert làm đấy!”. Và rồi người ta bắt đầu bàn tán việc chính con búp bê Robert đã gây ra những chuyện này.
 
Dần dần, những câu truyện kỳ lạ cứ liên tiếp xảy ra, người nhà của Eugene Robert lần lượt ra đi trong nghi vấn. Ngay cả khi Eugene cưới vợ, những chuyện kỳ lạ tiếp tục xảy ra.
 
Ngay từ khi cưới nhau, Eugene đã thỏa thuận với vợ là phải luôn cho Robert ở cạnh hai vợ chồng. Nhưng rồi tai họa vẫn ập tới, búp bê Robert dường như chỉ muốn giữ Eugene cho riêng nó. Sau khi cưới, vợ Eugene tự nhiên hóa dại và chết không rõ nguyên nhân.
 
Khi Eugene qua đời, Robert được chuyển tới tay người chủ mới. Người chủ mới này cũng không thoát khỏi sự ám ảnh, phá rối của búp bê Robert. Quá sợ hãi, người chủ mới nhanh chóng bỏ đi còn Robert được trao lại cho Viện Bảo tàng Martello, Key West.
 
Kể cả khi được đưa vào bảo tàng, nhiều người kể rằng, con búp bê sẽ nguyền rủa bất cứ ai chụp ảnh nó mà không xin phép, nếu búp bê Robert đồng ý, nó sẽ nghiêng nhẹ đầu bày tỏ sự cho phép. Du khách quên không thực hiện điều này phải quay lại để xin tha thứ vì những gì họ quay được trong chuyến đi luôn bị hỏng một cách bí ẩn sau đó.
 
3. Búp bê Annabelle

Kinh di bup be ma am hinh anh
 
Vào năm 1970, một phụ nữ khi đi qua một cửa hàng đồ cũ đã phát hiện ra búp bê Annabelle xinh xắn và mua về cho con gái mình để làm quà. Cô con gái rất thích Annabelle nên đặt nó trên đầu giường.
 
Tuy nhiên, sau đó ít lâu, các hiện tượng kỳ lạ bắt đầu xảy ra. Con búp bê có thể tự di chuyển qua các căn phòng dù không ai đụng vào nó. Những mẩu giấy da cũ kỹ cũng xuất hiện với những dòng chữ nguệch ngoạc của trẻ con. Có ngày người ta còn thấy con búp bê đứng thẳng dậy trên đôi chân làm bằng vải.
 
Quá sợ hãi, cô gái bắt đầu đi tìm nhà ngoại cảm để giải đáp những hiện tượng kỳ lạ thì được biết, trong búp bê Annabelle có linh hồn của một cô bé đã mất khi xây dựng căn nhà này. Linh hồn này nói rằng, nó rất thích cô chủ của nó hiện nay và muốn ở lại.
 
Cả nhà đồng ý và tiếp tục giữ búp bê trong nhà. Nhưng những hiện tượng kỳ lạ này ngày càng gia tăng. Một người bạn nam sau khi đến chơi nhà đã bị búp bê tấn công và cào rách bụng lẫn ngực một cách tàn nhẫn.
 
Cô gái quyết định liên lạc với 2 nhà ngoại cảm nổi tiếng. Cặp đôi ngoại cảm này cho biết, linh hồn bên trong không phải là của một cô bé, mà là của một con quỷ thích nói dối để được gần gũi với các cô gái nhằm chiếm giữ tâm hồn họ.
 
Quá sợ hãi, chủ nhân của Annabelle sau đó đã trao tặng lại con búp bê cho Viện bảo tàng huyền bí Warren, thuộc làng Moodus, thị trấn East Haddam, bang Connecticut, Mỹ và được mọi người ở đây trông giữ.
 
Bí ẩn còn bỏ ngỏ Dù ở cả ba trường hợp trên, các nhà khoa học đã tới tìm hiểu và nghiên cứu nhưng mọi câu hỏi vẫn đi vào bế tắc. Nhà nghiên cứu Johua P. Warren cho rằng, có một nguồn năng lượng xung quanh những con búp bê này. Dường như, bên trong sâu thẳm của mỗi búp bê có một con người thực sự ở trong đó. Dù đã chỉ ra được vài nghi vấn nhưng bí ẩn về những con búp bê ma ám này vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh dị búp bê ma ám

Tiền bạc thất thoát, tán tài tán lộc chỉ vì những thói quen này

Có những thói quen nhỏ nhưng ảnh hưởng rất lớn đến tài lộc của bạn, khiến tiền bạc thất thoát không rõ nguyên nhân.Bỏ ngay những thói xấu để tài lộc dồi dào
Tiền bạc thất thoát, tán tài tán lộc chỉ vì những thói quen này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những thói quen dù nhỏ nhưng cũng ảnh hưởng rất lớn đến tài lộc của bạn, khiến tiền bạc thất thoát mà không rõ nguyên nhân. Nếu bạn có những thói xấu này, hãy bỏ ngay để đón Thần Tài nhé.   Trong cuộc sống hàng ngày, có thể bạn có những thói quen nhỏ nhưng vô tình khiến tiền bạc thất thoát, tán tài tán lộc. Nếu không sớm sửa đổi thì dù bạn có vất vả cả đời, Thần Tài vẫn mãi tránh xa bạn.


Tien bac that thoat, tan tai tan loc chi vi nhung thoi quen nay hinh anh 2
 
Tài vận không tốt, tiền bạc không như ý thường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Ngoài vận mệnh, phong thủy ra thì theo quan điểm tướng số, hành vi thói quen của con người cũng là một trong những yếu tố khá quan trọng ảnh hưởng đến con đường tài lộc. Những thói quen tốt sẽ khiến tiền tài, lộc lá “ầm ầm” rót vào túi bạn, còn những thói quen xấu sẽ khiến cho tài lộc thất thoát, Thần Tài tránh xa. Muốn cầu tài lộc thì hãy thay đổi ngay những thói quen xấu dưới đây nhé.
 

1. Mua sắm bừa bãi
 

Nhiều người có thói quen mua sắm không theo nhu cầu mà tùy thuộc vào sở thích hay tâm trạng lúc bấy giờ. Gặp chuyện vui, đi mua sắm. Vướng chuyện buồn, shopping giải sầu. Dạo này mấy hãng hàng hiệu đang giảm giá, còn chần chừ gì nữa, đi khuân ngay kẻo muộn.
 
Cứ thế, họ vác về nhà cả đống đồ có khi cả đời không đụng đến, tiện tay vứt vào 1 góc hay dúi vào tủ đồ. Tới lúc sửa soạn quần áo, dù tủ ngập đồ nhưng vẫn kêu không có gì mặc.
 
Hành động này kì thực là biểu hiện của việc tham lam, có quá nhiều dục vọng, do đó không thể nào tài lộc dồi dào.
 

2. Tùy tiện vứt bỏ tiền cũ rách
 

Tiền bị cũ rách, không tiêu thụ được thì nên đem đến ngân hàng đổi lấy tiền mới. Song có những người lỡ tay làm hư hỏng tiền, hay vô tình nhận được tiền bị thủng rách lại chẳng hề chú ý đến điều đó. Họ thường tùy tiện vứt bỏ tiền, để vương vãi đâu đó trong nhà hoặc nhét tạm vào ví.
 
Thái độ như vậy đâu có đúng, Thần Tài có thấy bạn rồi cũng sẽ tránh xa. Nhanh nhanh thay đổi trước khi quá muộn nhé.


Tien bac that thoat, tan tai tan loc chi vi nhung thoi quen nay hinh anh 2
 

3. Không nhặt tiền lẻ rơi vãi trên đường
 

Hầu như ai trong chúng ta cũng đã từng ít nhất một lần nhìn thấy tiền lẻ rơi vãi trên đường đi hay những nơi công cộng khác. Phần lớn mọi người đều sẽ nhặt lên khi thấy đó là tiền mệnh giá lớn, song thường bỏ qua những đồng tiền lẻ. 
 
Nếu hỏi bất kì một người nào đó rằng “Bạn có nhặt 1, 2 nghìn tiền lẻ trên đường không?”, chắc hẳn không ít người sẽ trả lời là không. Chúng ta thường chỉ liếc qua rồi bỏ đi, có người dừng lại thì chẳng qua là thấy trò vui, lấy chân đá đi chỗ khác mà thôi. 
 
Chúng ta không biết rằng vô tình làm như vậy cũng chính là đẩy Thần Tài cách xa mình, để tiền tài lọt khỏi bàn tay. Không lấy tiền lẻ chẳng khác gì coi khinh Thần Tài. Những người giàu có thường không bao giờ có thái độ hay hành vi coi thường tiền bạc, dù chỉ là những đồng hào lẻ, bởi họ hiểu rõ đạo lý ẩn sâu trong đó.
 

4. Nơi nào trong nhà cũng thấy tiền 
 

Có những người hay tiện tay về nhà là để tiền ở bất cứ chỗ nào, ngăn kéo, tủ sách, bàn làm việc hay thậm chí trên bàn trà phòng khách cũng vương vãi tiền bạc. Khắp nơi trong nhà đều có thể nhìn thấy tiền.
 
Nhiều người thường nghĩ nhà mình không có người lạ nên tiện đâu để đấy. Về phong thủy, đây là thói quen rất xấu, ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Muốn để tài vận tốt thì tiền phải để tập trung một chỗ mới tụ tài khí.
 
Có lúc khi đi mua sắm, tiền thừa là số nhỏ lẻ nên nhiều người cũng có thói quen không lấy lại. Có thể giá trị thực sự của nó không đáng là bao nhưng dù sao cũng là tiền của mình, bạn không thu về cũng chính là để tài lộc của mình rơi vào tay người khác. 
 
Nếu bạn không muốn tán tài tán lộc, tiền bạc thất thoát thì hãy sửa ngay thói quen xấu này nhé. Cứ mãi như vậy sẽ khiến cho bạn rơi vào cảnh nghèo khó, làm hoài làm mãi mà chẳng thấy tiền đâu.
 

5. Chọn bừa chỗ đặt két sắt đựng tiền
 

Nhiều người hiểu và không phạm phải những thói xấu trên, họ mua riêng két sắt để đựng tiền, cho rằng như thế thì mọi chuyện sẽ tốt lành, vạn sự đại cát, tụ lộc tụ tài. 
 
Tuy nhiên, dù làm vậy mà tiền tài vẫn đội nón ra đi là cớ làm sao? Xin thưa, trong nhà muốn bài trí gì cũng cần tuân thủ quy tắc phong thủy. Nếu ở vị trí đắc địa đặt két sắt sẽ tích lộc tụ tài, còn đặt ở nơi không thích hợp thì sớm muộn gì tiền bạc trong két sắt của bạn cũng rơi rớt hết mà thôi.   Đừng tùy tiện đặt két sắt ở bất cứ chỗ nào bạn thấy tiện, nên đặt ở nơi tài vị trong nhà, chú ý để chỗ khuất nẻo hoặc ngụy trang cẩn thận vì “tài bất lộ bạch”, có thế thì tài lộc mới ngày càng thịnh vượng.

Tien bac that thoat, tan tai tan loc chi vi nhung thoi quen nay hinh anh 2
 

 

6. Không có ví thích hợp mang theo người
 

Ví là nơi đựng tiền. Theo phong thủy thì sử dụng ví tiền thích hợp sẽ giúp bạn thu hút nhiều vượng khí tiền tài.
 
Nên chọn ví có màu sắc thích hợp. Ví màu bạc, màu trắng, màu vàng, màu nâu có thể sinh tài, màu đen thuộc mệnh Thủy cũng có thể phát tài. Màu đỏ thuộc mệnh Hỏa sẽ khắc Kim, tốt nhất không nên dùng ví màu này.
 
Có người còn không thích dùng ví, thấy bất tiện, đi ra ngoài là nhét tiền bừa vào túi quần túi áo, kẹp tiền trong sách, để tiền trong hốc xe… Làm vậy chính là không tôn trọng tiền bạc, không tôn trọng Thần Tài, cũng dễ hiểu khi tiền bạc thất thoát ra ngoài.

 

7. Bỏ quên tiền cho vào máy giặt
 

Khi mua sắm, còn tiền thừa nhiều người tiện tay để ngay trong túi áo túi quần, về nhà thay đồ quên không bỏ mà cho thẳng vào máy giặt hay chậu giặt quần áo. Chẳng thế mà đôi khi phơi đồ lại nhặt được tiền rơi ra, mừng vui hồ hởi như bắt được tiền thật.
 
Kì thực, làm vậy không tốt chút nào. Chẳng những tiền có thể bị hỏng, biến dạng mà tài vận của bạn còn bị rửa trôi sạch sẽ. Hãy tập cho mình thói quen kiểm tra túi quần áo trước khi đem đi giặt nhé.
 
Hy Vũ

Những đồ phong thủy chiêu tài mang lại vượng khí đầy nhà 5 nên, 6 kị thúc đẩy tài vị, thăng cấp tài lộc trong năm 2017 Làm thế nào để cải thiện phong thủy tài lộc năm 2017?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiền bạc thất thoát, tán tài tán lộc chỉ vì những thói quen này

12 con giáp: Ngày sinh may mắn tiết lộ cuộc sống vinh hoa

Có những người sinh ra vào ngày đẹp nên được sao may mắn chiếu mệnh. Cả đời họ không phải bận nỗi lo cơm áo gạo tiền.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Có những ngày sinh may mắn dành riêng cho từng con giáp. Những người được sinh ra vào ngày hoàng đạo được trời ban cho tài năng xuất chúng - một số rất thông minh, và một số có thể sống trọn đời bình an. Bạn có biết liệu mình có phải sinh ra vào ngày may mắn? Có điều gì đặc biệt mà bạn nên biết về ngày hoàng đạo của mình?

Tuổi Tí

Ngày may mắn: Mùng 4, 13, và 30 âm lịch

1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 âm lịch của bất kì tháng nào trong năm Tý sẽ rất thông minh và hợp theo con đường nghiên cứu. Những người này sẽ tìm được một người bạn đời tốt và luôn trân trọng mình. Họ sẽ sống một cuộc sống ổn định ở tuổi thanh niên, có con cái hiếu thảo và của cải dồi dào ở độ tuổi trung niên, và sống một cuộc sống hạnh phúc khi về già.

2. Những người người sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Tý sẽ được ban phước lành vô hạn và may mắn. Họ rất dễ đạt được thành công lớn trong sự nghiệp của mình. Những người này cũng sống lâu với của cải dồi dào.

3. Người sinh ra vào ngày 30 âm lịch rất liêm chính và thông minh. Họ luôn muốn làm việc thiện, Cuộc đời của họ chẳng bao giờ phải chật vật lo nghĩ về cơm áo gạo tiền. Họ sẽ sống một cuộc sống giàu có ở độ tuổi trung niên. Những người sinh ngày 30 âm cũng sẽ tận hưởng tuổi già vui thú với con đàn cháu đống.

 12 con giap: ngay sinh may man tiet lo cuoc song vinh hoa - 1

Tuổi Sửu

Ngày may mắn: 13 và 27 âm lịch

1. Những đứa trẻ sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Sửu sẽ có một tương lai vô cùng hứa hẹn. Chúng và con cái đời sau không phải lo lắng về kinh tế. Khi gặp khó khăn sẽ luôn có quý nhân giơ tay ra cứu giúp họ vượt qua cơn khốn cùng.

2. Ngày 27 âm cực kì may mắn với người sinh vào năm Trâu. Người nam thì trung thực, thẳng thắn, hào phóng và luôn sẵn sàng làm tất cả mọi việc bất chấp khó khăn. Họ sẽ giàu có và cưới được người vợ đẹp. Người nữ sinh ngày 27 thì thông minh và lanh lợi. Họ sẽ có cuộc sống bình an trọn đời.

Tuổi Dần

Ngày may mắn: 16 và 27 âm lịch

1. Những người tuổi Dần sinh vào ngày 16 âm lịch sẽ có một cuộc sống phong phú và đầy màu sắc. Họ sẽ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có. Nhờ đó, họ dễ dàng có khả năng để tìm được một mối quan hệ hoàn hảo.

2. Nếu bạn tuổi Hổ và sinh vào ngày 27 thì không cần phải lo lắng về sự nghiệp của mình. Trong công việc, bạn luôn được quý nhân phù trợ. Bạn cũng sẽ có một cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con trai và cháu trai.

Tuổi Mão

Ngày may mắn: 26, 27, và 29 âm lịch.

1. Những người may mắn sinh ra vào ngày 26 âm lịch trong năm Mão hay đạt được địa vị cao và được mọi người tôn trọng. Kỹ năng chuyên môn mang lại cho họ thu nhập cao.

2. Sinh ra ngày 27 thì con người sẽ thông minh thiên về học thuật. Họ sẽ mang lại vinh dự cho tổ tiên. Họ cũng sẽ sống một cuộc sống giàu có và có thể trông đợi vào một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

3. Những em bé chào đời vào ngày 29 cực kì may mắn. Lớn lên, các bé trai nên đi theo con đường kinh doanh vì có lộc về tiền tài. Các bé gái thông minh, tốt bụng, và có khả năng quản lý tiền bạc cực kì tốt.

Tuổi Thìn

Ngày may mắn: Mùng 1 và 16 âm lịch

1. Những người tuổi Thìn vốn có cuộc đời sung sướng hơn các con giáp khác nhưng những người sinh ra vào ngày mùng 1 hàng tháng càng gặp nhiều may mắn. Họ sẽ có một sự nghiệp thuận lợi và có tiềm năng trở thành quan chức cấp cao.

2. Những người sinh ra vào ngày 16 âm lịch thông minh hơn những người bình thường. Họ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có do sự siêng năng và sự ham học hỏi kiến ​​thức mới.

 12 con giap: ngay sinh may man tiet lo cuoc song vinh hoa - 2

Tuổi Tỵ

Ngày may mắn: Mùng 1 và 23 âm lịch

1. Các bé sinh vào ngày mùng 1 trong năm Tỵ sẽ có một cuộc đời bình an và hạnh phúc.

2. Những người tuổi Rắn sinh vào đúng ngày 23 sẽ được ban cho lòng dũng cảm và trí tuệ. Trong suốt cuộc đời của mình, họ sẽ đạt được sự tôn trọng của nhiều người.

Tuổi Ngọ

Ngày may mắn: Mùng 5 và 20 âm lịch

1. Những người sinh vào ngày mùng 5 có thiên phú về nghệ thuật. Dù cho có khó khăn, họ cũng sẽ vượt qua và đạt được thành công trong sự nghiệp.

2. Người tuổi Ngọ sinh ra vào ngày 20 có một cuộc sống phong phú. Về già, họ sẽ tận hưởng cuộc sống bình an bên con cháu.

Tuổi Mùi

Ngày may mắn: Mùng 7 và ngày 30 âm lịch

1. 'Những con dê' sinh vào ngày mùng 7 rất hiền lành và khoan dung. Họ luôn nhận được sự quan tâm của hàng xóm và đồng nghiệp.

2. Những người sinh ra vào ngày 30 âm lịch trong năm con Dê rất may mắn và tài năng. Do đó, họ dễ dàng thành công trong cuộc sống.

 12 con giap: ngay sinh may man tiet lo cuoc song vinh hoa - 1

Tuổi Thân

Ngày may mắn: 14 và 28 âm lịch

1. Người tuổi Khỉ sinh vào ngày 14 sẽ sống một cuộc sống giàu có nhờ sự giúp đỡ từ cha mẹ và quý nhân.

2. Những em bé chào đời vào ngày 28 đã được sinh ra dưới một ngôi sao may mắn. Các bé sẽ có khả năng lãnh đạo thiên bẩm và hợp với những công việc chức quyền, người nổi tiếng. 

Tuổi Dậu

Ngày may mắn: mùng 4 và 26 âm lịch.

1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 sẽ tạo dựng được danh tiếng ngay từ khi còn trẻ. Cuộc sống xa hoa sẽ kéo dài đến tận tuổi trung niên.

2. Người tuổi Gà sinh ra vào ngày 26 được trời phú cho tài kinh doanh. Họ luôn tìm ra cách tốt nhất để đầu tư và làm số tiền có trong tay sinh sôi nảy nở.

Tuổi Tuất

Ngày may mắn: Mùng 7 và 28 âm lịch

1. Những người tuổi Tuất sẽ sống lâu do sức khỏe hơn người khi được sinh ra vào ngày mùng 7.

2. Sinh ra vào ngày 28 âm lịch trong bất kì tháng nào của năm Tuất, mọi người đều sẽ được chòm sao may mắn chiếu mệnh, Họ sẽ có địa vị xã hội cao và một gia đình lớn.

Tuổi Hợi

Ngày may mắn: 17 và 24 âm lịch

1. Những người sinh ra vào ngày 17 vượt qua người bình thường cả về trí thông minh và lòng dũng cảm. Do đó họ sẽ nổi tiếng vì tính cách cao quý và uy tín của mình.

2. Người sinh ra vào ngày 24 đạt được sự tôn trọng của đủ mọi người từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Nhờ vào khả năng chuyên môn của mình, cuộc sống của họ sẽ luôn dư dả.

 12 con giap: ngay sinh may man tiet lo cuoc song vinh hoa - 2




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp: Ngày sinh may mắn tiết lộ cuộc sống vinh hoa

Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Đừng nghĩ rằng đó là do sai lầm nhất thời hay yêu lầm mù quáng, nhiều trường hợp lá số tử vi của người đa tình có từ khi vừa mới ra đời đấy.
Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả mọi người đều có ác cảm với người thứ ba, đánh giá không tốt về nhân phẩm và đạo đức của những người này. Đừng nghĩ rằng đó là do sai lầm nhất thời hay yêu lầm mù quáng, nhiều trường hợp lá số tử vi của người đa tình có từ khi vừa mới ra đời đấy.


 

1. Nữ giới có số làm người thứ 3


La so tu vi cua nguoi da tinh, menh lam ke thu 3 ro mon mot hinh anh
 
Nữ mệnh có bát tự Quan Sát hỗn tạp: bất cứ mệnh nữ nào mà Chính Quan đại diện cho người chồng và Thất Sát (hay Thương Quan) đại diện cho tình nhân hỗn tạp hoặc Thất Sát sinh vượng thì rất dễ chen chân vào chuyện tình của người khác. Thậm chí, người này sau khi kết hôn thì người chồng cũng ngoại tình, dẫn tới cục diện rắc rối. Nữ mệnh có bát tự Thực Thương vượng: lá số tử vi của người đa tình báo có Thực Thần và Thương Quan vượng và Chính Quan hoặc Thiên Quan lại nhược, tạo thành cục diện Thương Quan chế Quan hoặc Thực Thần chế Sát.   Nữ mệnh có bát tự Tỷ Kiếp kẹp Quan: bất cứ người phụ nào mà trong lá số tử vi có hai Tỷ Kiếp kẹp một Quan Sát thì chắc chắn có số mệnh làm người thứ 3.  

2. Nam giới có số làm người thứ 3


La so tu vi cua nguoi da tinh, menh lam ke thu 3 ro mon mot hinh anh
 
Nam mệnh có bát tự Tỷ Kiếp vượng: bất cứ người đàn ông nào nếu Tỷ Kiếp vượng hoặc có hai Tỷ Kiếp với một Thê Tài thì bản thân tranh vợ cướp người yêu của người khác.   Nam mệnh có bát tự Chính Tài Thiên tài hỗn tạp: trong tử vi, Chính Tài biểu hiện cho người vợ, Thiên Tài biểu hiện cho tình nhân, mệnh có hỗn tạp hoặc Thiên Tài vượng thì là lá số tử vi của người đa tình.   Nhưng đặc biệt, những người này không chỉ đi phá hoại gia đình của người khác mà chính bản thân cũng chịu nạn kiếp của người thứ 3, bị vợ hoặc chồng “cắm sừng”, qua lại với người khác, phản bội lại mình, tạo thành thế cục gia đình nhiều tranh chấp.   Kiến nghị với những người có lá số tử vi xấu như vậy nên tham khảo ý kiến của các bậc thầy về việc làm thế nào để đi đúng hướng trong đường đời. Cách hóa giải chủ yếu là tiết chế bản thân, tu dưỡng đạo đức, hạn chế những cơ hội có thể nảy sinh tình cảm, quan hệ với người khác phái đã có người yêu, gia đình, thận trọng trong mọi hành xử.
Bát tự không an phận, cả đời tìm bình yên Xem lá số tử vi đoán mệnh nữ hai chồng Xem tử vi cho người sinh tháng cô hồn
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi của người đa tình, mệnh làm kẻ thứ 3 rõ mồn một

Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Đinh Sửu là con trâu nuôi ăn cỏ, tính cách cương dũng, chính trực, trung hậu, không có tư tâm.
Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Dinh Suu theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Đinh Sửu là người không ức hiếp kẻ hiền lành, gặp ác không sợ hãi, dám làm dám chịu, có tài năng, có kiến thức, thông minh nhưng ít hưởng phúc.
 
Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, sau trở nên chảy xiết, nối liền dòng Nam Bắc, đứng đối mặt với cung vị Khảm, Ly. Lục Thập Hoa Giáp của Đinh Sửu là mệnh Thủy tụ phúc, ưa nhất gặp Kim; kỵ Tân Mùi, Bính Tuất tương hình, Bính Thìn tương phá. Nếu nạp âm Thủy Mộc vượng khí, âm dương hài hòa tất thành người hiển quý, phát đạt.
 
Thủy này trong xanh, ưa Giáp Ngọ Sa trung Kim, Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim, không ưa Canh Tuất Thoa xuyến Kim và Ất Mùi Sa trung Kim do phạm hình.
 
Nạp âm gặp Thổ, là người ăn chơi trác táng. Nếu là Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ còn có lý trí, hoặc còn biết “quay đầu là bờ”. Nếu là Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ; Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ chủ tán tài gặp họa, hồ đồ, hết thuốc cứu chữa.
 
Không có Mộc mà có Thổ là tối kỵ. Không có Mộc lại gặp Tam hình, chủ hung tai.
 
Kỵ gặp Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa. Nếu trụ khác có 2 Hỏa mà không có Kim là người hoang dâm vô độ, dung mạo hung ác, lòng dạ đen tối, không thể làm bạn, nhất thiết chớ nên kết hôn. Chỉ ưa Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa.
 
Ưa nhất Bính Ngọ Thiên hà Thủy, gọi là Dẫn phàm nhập thánh cách, là tượng hàn môn xuất danh tướng, cá chép vượt vũ môn, trước nghèo sau giàu. Nạp âm có Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, là người nóng vội.
 
Nếu nạp âm chỉ có Kim và Thủy, không có Thổ, Hỏa, là Thủy nguồn dài và trong, mệnh chủ là người quân tử.
 
Chi khác có Thân hoặc Dậu, phạm Không vong. Tọa thai chi là người mê muội, một đời phiêu bạt, mưu sự bất thành. Tọa nhật chi, vợ hoặc chồng mất sớm. Tọa thời chi, con cái yểu mệnh, cuối đời phá bại.
 
Chi khác có Hợi, mã bị hình, không nên làm kinh doanh. Chi khác có Tỵ, mã bị xung. Chi khác có Dần, phạm Kiếp sát, gặp năm Dần, không nên đi xa; tọa nhật trụ, vợ mất sớm; tọa thời trụ, con cháu bần cùng nghèo khổ.
 
Chi khác có Mùi, con cái duyên mỏng.
 
Can khác có Nhâm, thanh danh không tốt, mệnh nữ ngoại tình.
 
Can khác có Quý, cẩn thận đề phòng những việc tổn hại danh dự. Kỵ nhất Quý Hợi Đại hải Thủy, Quý Tỵ Trường lưu Thủy.
 
Đinh lộc tại Ngọ, ưa chi khác có Ngọ.
 
Người sinh năm Đinh Sửu mỗi khi gặp năm Sửu, Mùi, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
 
Người tuổi Đinh Sửu chọn bạn đời chớ nên gặp người sinh năm Nhâm, Quý. Nên tìm người sinh năm Canh, Tân.

Theo Tử vi toàn tập
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Bảng xếp hạng những chòm sao bản lĩnh không sợ trời đất –

Mỗi con người đều có một số mệnh và vận mệnh riêng của mình. Trong 12 cung hoàng đạo cũng vậy, có những cung hoàng đạo yếu đuối, luôn cần được bảo vệ. Nhưng cũng có rất nhiều cùng hoàng đạo khác lại mạnh mẽ. Không sợ gì trời đất. luôn có bản lĩnh vượ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

t qua mọi giông tố. Sau đây chúng ta sẽ cùng khám phá bảng xếp hạng những chòm sao bản lĩnh không sợ trời đất. Trong đó cung Nhân Mã xếp hạng nhất trong lĩnh vực phiêu lưu mạo hiểm, luôn thích khám phá những điều mới lạ.

Nội dung

  • 1 Tốp 1: Nhân Mã
  • 2 Tốp 2: Bạch Dương
  • 3 Tốp 3: Song Tử
  • 4 Tốp 4: Sư Tử
  • 5 Tốp 5: Bảo Bình
  • 6 Tốp 6: Song Ngư
  • 7 Tốp 7: Cự Giải
  • 8 Tốp 8: Bò Cạp
  • 9 Tốp 9: Ma Kết
  • 10 Tốp 10: Xử Nữ
  • 11 Tốp 11: Kim Ngưu
  • 12 Tốp 12: Thiên Bình

Tốp 1: Nhân Mã

nhan-ma-4245-1400632308

Vốn được sự lạc quan và may mắn trời phú “hậu thuẫn” phía sau Nhân Mã, nên chòm sao này không biết sợ trời đất ra sao. Họ vô cùng thích thú với những điều mang tính chất mạo hiểm như du lịch leo núi, khám phá hang động, tìm hiểu cuộc sống động vật hoang dã…

Tốp 2: Bạch Dương

bach-duong-2278-1400632308

Chòm sao này có sự gan dạ, dũng cảm hơn người. Với họ, cuộc sống thiếu đi cảm giác mạo hiểm hoặc mới lạ thì không khác nào đã chết. Do vậy, những việc mang tính chất khám phá, mạo hiểm có sức hút cực lớn với Bạch Dương.

Tốp 3: Song Tử

song-tu-5537-1400632308

Người thuộc cung hoàng đạo này luôn theo đuổi cuộc sống có sự biến đổi không ngừng. Với họ, sống là phải trải qua mọi cung bậc để trải nghiệm được trọn vẹn và đầy đủ nhịp sống đang diễn ra thường ngày. Vậy nên, Song Tử cũng thích sự mạo hiểm cũng như biến đổi mới lạ, phá cách trong cuộc sống.

Tốp 4: Sư Tử

su-tu-6842-1400632308

Chinh phục sự nguy hiểm cũng là cách để Sư Tử thể hiện khí phách oai hùng của mình, đồng thời nó giúp chòm sao này “củng cố” sự tự tin để đón nhận mọi thách thức trong cuộc sống.

Tốp 5: Bảo Bình

bao-binh-1386-1400632309

Đối với chòm sao thích làm việc hiệp nghĩa này mà nói, trải nghiệp sự thách thức và nguy hiểm cũng là một trong những thú vui khôn xiết. Họ vừa có thể giúp đỡ người khác, lại tạo cảm giác mới lạ cho chính cuộc sống của mình.

Tốp 6: Song Ngư

song-ngu-6656-1400632309

Hơn ai hết, Song Ngư biết rõ rằng cuộc sống khá yên bình của mình cần có chút mạo hiểm để khuấy động nó. Nhìn bề ngoài, có vẻ chòm sao này thích an phận thủ thường, nhưng thực chất bên trong nội tâm lại vô cùng hứng thú với sự thay đổi. Trải nghiệm và chinh phục thử thách cũng như nguy hiểm là điều Song Ngư luôn muốn có được.

Tốp 7: Cự Giải

Thông thường Cự Giải thích cuộc sống yên, không phải suy nghĩ hay lo lắng quá nhiều. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, ví dụ như mang đến sự bất ngờ cho người yêu trong ngày lễ Tình nhân, bạn sẽ thấy sự thay đổi ngoạn mục trong tính cách cũng như hành động của chòm sao này.

cu-giai-6816-1400632309

Một chút mạo hiểm nhưng mang lại cảm giác mới lạ cũng như hạnh phúc cho người yêu, là điều Cự Giải có thể đánh đổi sự yên bình trong cuộc sống thường nhật vốn có của mình.

Tốp 8: Bò Cạp

bo-cap-1836-1400632309

Hiếm khi thấy Bò Cạp đề xuất việc đi du lịch leo núi hay chơi các trò chơi mang tính mạo hiểm khác. Tuy nhiên, nếu bạn bè xung quanh khuấy động không khí, Bò Cạp sẵn sàng hưởng ứng nhiệt tình.

Tốp 9: Ma Kết

ma-ket-4587-1400632309

Khi làm bất cứ việc gì, Ma Kết phải chắc chắn mười mươi độ an toàn của nó thì mới tiến hành các bước tiếp theo. Dù cũng khá thích mạo hiểm, nhưng tỷ lệ an toàn vẫn gần như chiếm tuyệt đối trong suy nghĩ của chòm sao này.

Tốp 10: Xử Nữ

xu-nu-3721-1400632309

Chòm sao này cho rằng theo đuổi sự mạo hiểm không mang lại lợi ích hay ý nghĩa thực chất nào. Hơn thế, Xử Nữ còn luôn theo đuổi cuộc sống hoàn mỹ, nên tính chất mạo hiểm là điều trước tiên họ phải tránh xa.

Tốp 11: Kim Ngưu

kim-nguu-3165-1400632310

Điều mà Kim Ngưu yêu thích nhất đó là hòa bình và cuộc sống an phận thủ thường, không có quá nhiều biến đổi. Hơn thế, chòm sao này cho rằng, để thực hiện được sở thích mạo hiểm, bạn sẽ phải tốn không ít tiền bạc. Đây là điều mà Kim Ngưu luyến tiếc và không đành lòng nhất.

Tốp 12: Thiên Bình

thien-binh-3929-1400632310

Chòm sao này yêu thích cuộc sống yên bình và giản dị. Với Thiên Bình, được sống một cuộc đời yên ản, không sóng gió là điều khiến họ cảm thấy hạnh phúc tột cùng. Đó tưởng chừng như đơn giản nhưng lại không dễ thực hiện chút nào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng xếp hạng những chòm sao bản lĩnh không sợ trời đất –

Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Giới là lộ trình sống thực của chân lý, kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, yếu tố tác thành đức Phật quả.
Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Giới là lộ trình sống thực của chân lý, được kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả. Giới cũng chính là cơ năng nòng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”.

Đức Thế Tôn đã là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chu đáo, không sơ sót dù là một chuyện nhỏ. Trong 12 năm đầu khi giáo đoàn thành lập chúng tăng hầu hết phần đông là căn cơ trình độ giáo pháp cao siêu là những bậc thánh A- la- hán, thành phần tu tập đoạn dứt lậu hoặc. Những vị căn cơ còn thấp kém chỉ nghe đức Thế Tôn khai thị vài lần liền chứng ngộ. Vì thế nếp sống của chư Tăng thuở ấy hoàn toàn thanh tịnh. Tuy đức Thế Tôn chưa chế Giới luật nhưng Giới vẫn có, chỉ giới hạn được trình bày dưới dạng những hình thức đơn giản tổng quát về mặt hộ trì các căn.

Thế Tôn dạy: “Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, mũi ngửi hương, thân xúc chạm, ý duyên pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến cho các căn không được duyên theo, không bị sinh tâm tham ái, ưu bi và các bất thiện pháp khởi lên, nếu có khởi lên Tỳ kheo liền chế ngự nguyên nhân ấy sống thực hành hộ trì các căn”.

Đức Thế Tôn thực hành qua giai đoạn thực hành Trung Đạo Đế, hành Bát chánh đạo dưới hình thức, Tỳ kheo nên giữ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Qua sự trình bày như trên chúng ta thấy Giới luật tuy có mà chưa rõ ràng.

Trong Ngũ Phần Luật quyển 1, Ngài Xá Lợi Phất trình thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn làm sao để Chánh Pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi Chánh Pháp ấy được tồn tại lâu dài”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Thế Tôn tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói Pháp?”

Đức Phật nói: “Này Tôn giả, ta biết thời phải làm gì, nay chưa đến thời ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.

Ngài còn dạy rằng : “Nếu Ta chế Giới trước khi vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta. Họ sẽ bảo rằng tôi không có gây tội, sao lại cưỡng chế ra Giới luật. Đây không phải là nhất thiết trí. Như thế là Như Lai không có tâm từ bi, không lợi lạc, không bảo bọc chúng sanh. Như người không có con lại nói rằng sẽ sanh con vào giờ ấy. Chuyện ấy không thể tin, vì không chân thật. Nếu là sự thấy đứa con người ta mới tin được, cũng thế hữu lậu chưa sanh, tội chưa làm, trời người chưa thấy làm sao chế Giới được. Cho nên cần phải thấy rõ phạm tội, rồi sau đức Thế Tôn mới chế Giới, đây là đúng thời. Này Xá Lợi Phất như y sĩ biết là nguyên nhân tật bịnh và biết thuốc nào ngọt để trị bịnh ấy”.

Từ đó, dần dần về sau trong Giáo đoàn Tăng sinh các hữu lậu với mục đích tâm họ không chân chánh. Do đó tăng đoàn đã xảy ra nhiều trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ cương nề nếp, đời sống buông lung phóng túng, vi phạm tịnh hạnh … khiến cho Giáo đoàn của Phật bị mang tiếng xấu lây, lại có nhiều ý kiến mâu thuẫn. Để giải quyết những vấn đề đó, Thế Tôn bắt đầu chế Giới để đối trị những lỗi lầm đã xảy ra, ngăn ngừa hành vi bất thiện pháp sắp vi phạm hay đã phạm thì phải sám hối, đồng thời duy trì uy tín của Tăng đoàn.

Giới luật được đức Thế Tôn chế vào khoảng năm thứ 13 sau khi đức Phật thành đạo, nhưng tùy phạm tùy kiết, những Giới không nhất định phải chế Giới từ 3 – 4 lần mới thành một Giới. Đây là một trường hợp điển hình nói lên tính linh động và tầm mở rộng của Giới Luật. Trường hợp khác điển hình giới dâm, phải trải qua ba giai đoạn mới thành:

đức Phật
Tinh thần của đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của đại chúng trong Tăng đoàn, Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng.

– Giai đọan thứ nhất : Tôn Giả Tu Đề Na con trai của thôn trưởng Ca Lan Đa, do sự yêu cầu của người mẹ phải để lại đứa con trai để nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với người vợ cũ. Sau sự việc xảy ra Tôn Giả bị lương tâm cắn rứt, cảm thấy hổ thẹn với những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận tội với chư Tăng, chư Tăng bạch Phật, Phật quở trách rồi chế giới: “Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được ở chung”.

– Giai đoạn thứ hai : Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm với vợ cũ. Vì trong Giới Phật chế không cho trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó, Thế Tôn chế thêm “Tỳ kheo nào đã trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới sút kém nhưng không phát lồ, hành dâm dục Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

– Giai đoạn thứ ba : Một Tỳ kheo sống trong rừng, bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã hành dâm với con vượn cái. Nghĩ rằng Giới luật đức Thế Tôn dạy không có trường hợp cùng với loài súc sanh, thêm lần nữa Đức Thế Tôn bổ túc thêm Giới trên cho đầy đủ “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo chưa hoàn giới, giới sút kém những không phát lồ mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

Đức Thế Tôn thị hiện trên cõi đời vị mục đích giải thoát chúng sanh ra khỏi dòng sanh tử, nên Giới luật của Ngài không có tính cách cưỡng chế, bó buộc mà hoàn toàn vì an lạc của chúng đệ tử. Chính nhờ những Giới pháp đó mà Đức Thế Tôn đã tu hành đạt thành Chánh giác và đem sự sáng suốt truyền lại cho chúng sanh coi như Giới thân Huệ mạng của chính mình. Bởi thế trước khi nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn đã ân cần Di giáo: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tôn trọng giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa, như người nghèo gặp được của báu, như qua sông đặng ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc v.v… phải biết pháp này là Thầy của các ngươi, dù ta có trụ thế cũng không ngoài pháp ấy”. Đức Phật là vị thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sanh, nếu người không bệnh mà ra toa bốc thuốc thì người ấy sẽ phản kháng, họ sẽ nhất định không chịu, còn người mắc bệnh nếu được trị liệu họ sẽ cảm kích vô cùng, đây là tâm lý thông thường của mọi chúng sanh.

Như chúng ta nhận xét qua lời giải trong các kinh đức Thế Tôn giảng dạy xong lại nói rằng: “Tất cả pháp ta nói ra chỉ là phương tiện khi tu hành xong hãy buông bỏ”. Nếu hành giả đang thời hành đạo Giới thể đã mất, thời Giới thân Huệ mạng cũng không còn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd