Tướng chỉ tay đường Thái Dương –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
| ► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Nhuận của lịch là gì? Vì sao lại có nhuận?
Nhuận là do chủ quan của người làm lịch đặt ra nhằm cho thời gian phù hợp với quy luật thiên nhiên. Dương lịch và âm lịch đều có nhuận.
Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển của lịch sử loài người là quá trình tìm kiếm để chọn lọc những đơn vị thời gian đó thành những hệ đếm để phục vụ cho hoạt động xã hội. Lịch (âm lịch và dương lịch) là những bảng ghi thứ tự thời gian, chia chuỗi thời gian liên tục thành những đơn vị thời gian và sắp xếp chúng thành một hệ đếm phù hợp với nhu cầu của con người.
Ta biết rằng trong Thế giới trời sao có 3 đơn vị thời gian thiên nhiên quan trọng, nó gắn liền với thế giới trần gian - một thế giới của muôn loài động vật rất phong phú và đa dạng. Ba đơn vị thời gian đó là:
- Năm Mặt trời biểu thị chu kỳ thời tiết, tức là chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời có độ dài bằng 365,242198... ngày (gần 365,25 ngày).
- Tháng Mặt trăng biểu thị chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5... ngày.
- Ngày là thời gian ánh sáng Mặt trời trở lại do nguyên nhân Trái đất tự quay quanh mình vừa tròn một vòng.
Ba đơn vị thời gian này là bộ máy chỉ thời gian trong thái dương hệ của chúng ta không phải do con người tự đặt ra. Các nhà thiên văn khí tượng đã nhận thấy 3 đơn vị thời gian thiên nhiên này không thông ước với nhau, nghĩa là không tìm được một số nào chia hết cho cả 3 đơn vị. Vì vậy, nếu lấy ngày làm đơn vị thì tháng Mặt trăng và năm Mặt trời không phải là số ngày nguyên, mà có vô số số lẻ.
Người làm lịch thì phải tính năm, tháng có bao nhiêu ngày. Bởi vậy những phần lẻ trên đây đã làm cho bài toán tính lịch trở thành hắc búa. Nếu bỏ phần lẻ đi thì tháng không đúng với tuần trăng, năm không đúng với mùa khí hậu; mà lịch thì phải lấy tròn. Do đó trong âm lịch phải có tháng thiếu (29 ngày), tháng đủ (30 ngày); trong dương lịch có tháng 30 ngày, tháng 31 ngày; riêng tháng hai là 28 ngày hoặc 29 ngày. Năm, phải có năm thường, năm nhuận (dài hơn). Ðây không phải là một quy luật thiên nhiên, mà là một quy luật chủ quan dùng thuật lấy thừa bù thiếu của người xếp lịch. Bởi vậy dương lịch và âm lịch đều có nhuận.
a. Nhuận của dương lịch
Là để khắc phục phần lẻ của năm Mặt trời (0,242198... ngày) do chưa đưa vào để xếp lịch. Vì vậy cứ 4 năm dư ra 1 ngày, một thế kỷ dư ra gần một tháng... Ðể tránh sai sót này, người làm lịch đã quy ước trung bình 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2, tức là năm đó có 366 ngày (năm Nhuận) và tháng hai có 29 ngày.
b. Nhuận âm lịch
Là để khắc phục sự sai khác tháng Mặt trăng (tháng âm lịch) với quy luật thời tiết - chu kỳ thời tiết (năm dương lịch). Bởi vì, tháng âm lịch chỉ có 29-30 ngày, nên dẫn đến năm âm lịch chỉ có 354-355 ngày, ngắn hơn năm dương lịch trung bình 11 ngày; hay nói cách khác là năm âm lịch đi nhanh hơn năm dương lịch là 11 ngày, 3 năm nhanh hơn 1 tháng, 9 năm nhanh hơn một mùa. Vì vậy, ngày đầu năm vào mùa Xuân thì 9 năm sau vào Hạ... Chính vì thế người đời xưa phải ăn Tết Nguyên Ðán vào đủ các loại hình thời tiết, không còn mang tính cổ truyền khí tiết của ngày tết đượm sắc Xuân mới.
Ðể khắc phục tình trạng trên, người làm lịch đã phải tăng số ngày cho năm âm lịch bằng hình thức nhuận với quy ước là Thập cửu niên thất nhuận nghĩa là cứ 19 năm có 7 năm nhuận, năm nhuận âm lịch có 13 tháng.
c. Năm nhuận theo lịch pháp
Ðể đảm bảo đúng vào tiết xuân ngày Mồng Một Tết chỉ ở trong khoảng từ tiết Lập Xuân đến tiết Vũ Thủy, tức là từ ngày 21.01 đến 20.02 dương lịch. Nếu năm âm lịch nào (khi chưa tính thêm tháng nhuận) có ngày Mồng Một Tết năm sau sớm hơn này 21.01 dương lịch thì năm đó phải là năm nhuận.
- Theo quy ước trên, qua năm 2001, ngày Mồng Một Tết Tân Tỵ nhằm vào ngày 24.01 dương lịch (hợp với quy ước). Do vậy, năm 2001 - Tân Tỵ là năm không có nhuận âm lịch (13 tháng).
Ðể dễ nhớ, muốn biết năm nào là năm nhuận âm lịch, cứ lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong 7 con số: 0, 3, 6, 8, 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó là năm nhuận.
d. Tháng nhuận theo lịch pháp
- Tháng âm lịch nào trong năm nhuận không có ngày Trung khí thì tháng ấy gọi là tháng nhuận, nghĩa là tháng gọi tên của tháng trước kề liền.
- Nếu 1 hay 2 năm liền kề nhau có 2 tháng đều thiếu ngày Trung khí thì tháng trước là tháng nhuận, tháng sau không phải là tháng nhuận nữa.
2. Tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay dương lịch?
Hiện nay ở nước ta và một số nước khác trong khu vực Ðông Nam Á đang còn xuất bản và sử dụng hai loại lịch, đó là dương lịch và âm lịch.
+ Dương lịch là loại lịch theo Mặt trời, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là năm Mặt trời, tức là độ dài chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời.
+ Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là tháng Mặt trăng, tức là độ dài chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất.
Theo Hán - Việt thì Mặt trời là Thái Dương, Mặt trăng là Thái Âm. Do vậy, lịch theo Mặt trời gọi là dương lịch, lịch theo Mặt trăng gọi là âm lịch.
Vì tồn tại hai loại lịch như vậy và cứ mỗi lần đón mừng xuân mới của năm âm lịch lại là một dịp bàn tán xôn xao về tên của năm ấy.
Người ta cho rằng nếu năm nào có nhuận thì năm đó sẽ là một năm mất mùa, thiên tai lắm, địch họa khôn lường... Vậy sự thực tên năm âm lịch, nhuận có phải do thượng đế, thần thánh sinh linh gì tạo ra như một số học thuyết của chủ nghĩa duy tâm đã truyền bá trong nhân dân ta? Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ đề cập đến việc đặt tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay theo dương lịch để cùng tham khảo.
Từ thời xa xưa, con người vẫn tin rằng có một mối liên hệ huyền bí nào đó giữa vũ trụ và sự sống. Vì vậy, người thượng cổ đã xây dựng lên cả một kho tàng thần thoại lý thú về bầu trời sao ngoạn mục thể hiện trong các chuyện cổ Hy Lạp. Tất nhiên trong những chuyện hoang đường như vậy đã không thoát khỏi tư tưởng huyền bí mà vai trò thiêng liêng của thượng đế đã ngự trị trong các tôn giáo suốt thời gian dài.
Từ thế kỷ XVI, khoa học thiên văn phát triển đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của con người trong nhận thức thế giới trời sao. Trong những thế kỷ gần đây, người ta biết rằng Mặt trời là nguyên nhân tồn tại của sự sống và phát triển của loài người. Nhờ sự hiểu biết về thuyết chuyển động tương đối trong vật lý cơ học, con người mới khẳng định rằng Trái đất cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt trời tạo thành hệ Mặt trời và gọi chuyển động ấy là chuyển động biểu kiến của Mặt trời xung quanh Trái đất hay còn gọi là đường Hoàng Ðạo.
Người phương Ðông chia đường Hoàng Ðạo ra làm 12 cung kể từ điểm Xuân Phân, qua Hạ Chí, đến Thu Phân và đến Ðông Chí để biểu thị các mùa khí hậu nóng, lạnh khác nhau như: xuân, hạ, thu, đông.
Người phương Tây đặt tên ấy theo tên của các chòm sao như Ðại Hùng, Tiểu Vương, Thiên Vương, Tiên Nữ, Phi Mã...
Các nhà cổ đại Trung Quốc lại đặt 12 cung trên theo chi, tượng trưng cho Trời là: Tý, Sửu, Dần, ...Tuất, Hợi. Họ kết hợp với 10 can, tượng trưng cho Ðất là: Giáp, Ất, Bính... Nhâm, Quý để đặt tên năm âm lịch theo nguyên tắc Can chi ký pháp, tức là ghép can với chi theo một trật tự thứ tự được thể hiện rõ trong thuật số tử vi.
Thực ra tên năm âm lịch hàng năm chỉ là một quy ước của lịch pháp âm lịch mà nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã dùng trong việc sắp xếp lịch trong các kỷ nguyên và được truyền sang nước ta trở thành lịch cổ truyền. Cho đến nay vẫn còn nhiều người cho rằng tên năm âm lịch có ảnh hưởng quyết định đến tương lai cuộc sống của mỗi con người, có năm ảnh hưởng đến chu kỳ thời tiết trong năm như: Năm Thìn nhiều bão, năm Mão mất mùa, năm Tý, năm Dần nhiều thiên tai, địch họa....
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay còn một số vùng quen dùng âm lịch để tính toán chỉ đạo sản xuất nông nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lỡ thời vụ, đặc biệt vào những năm âm lịch có nhuận. Chính vì vậy, kể từ năm 1968, Chính phủ đã quyết định Nông lịch theo dương lịch và nước ta bắt đầu sử dụng loại âm lịch mới được tính toán theo múi giờ số 7 (Kinh độ 105 độ Ðông) đi qua Thủ đô Hà nội để thay thế cho loại âm lịch cũ được tính toán theo múi giờ số 8 (Kinh độ 120 độ Ðông) đi qua Thủ đô Bắc Kinh - Trung Quốc. Dương lịch ứng dụng trong nông nghiệp dựa vào 24 ngày Tiết (12 Tiết khí và Trung khí), mỗi Tiết khoảng 15-16 ngày, biểu thị thời vụ, thời tiết sát với từng vùng lãnh thổ của nước ta.
Theo các chuyên gia, tính tuổi con để hợp tuổi cha mẹ đem lại nhiều mặt tích cực trong cuộc sống gia đình, ảnh hưởng đến tính nết đứa trẻ sau này.
Thế nhưng, cách chọn tuổi như thế nào không phải ai cũng biết. Và việc con cái không hợp tuổi bố mẹ không phải lúc nào cũng chỉ đem lại điềm xấu. Nếu bạn lo lắng tuổi của vợ chồng bạn khắc với tuổi của con mình. Cũng như lo lắng tuổi vợ chồng bạn không hợp nhau. Bạn hãy yên tâm, sẽ có cách hóa giải xung khắc nhé. Bài viết sau chúng tôi có nêu rõ cách hóa giải xung khắc tuổi bạn hãy đọc và tham khảo nhé!
Nội dung
Thừa nhận có những câu chuyện cha mẹ sẵn sàng tước đi mạng sống của hài nhi chỉ vì không hợp tuổi, ông Nguyễn Hoàng Điệp, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật, Dịch vụ văn hóa và Khoa học – Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam cho rằng, đó là cách hành xử “bất nhân”. Cũng theo ông Điệp thì “không thể phủ nhận việc chọn tuổi này là hợp quy luật”!
Dựa trên lĩnh vực cổ học phương Đông, ông Điệp chỉ ra rằng, để tính sự hợp hay không đó thì người ta phải dựa trên những tiên đề của Âm Dương, Ngũ hành và Bát quái. “Mọi sự vật đều tồn tại dưới hai dạng đối lập là âm và dương. Chỉ khi có âm có dương, âm dương hòa hợp thì sự vật, hiện tượng ấy mới tồn tại. Thêm nữa, vật chất được tạo nên từ 5 loại gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; ngũ hành có tương sinh, tương khắc và cũng phải đảm bảo tính âm dương.
Bên cạnh đó, có 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Trong đó, có can âm – can dương, chi âm – chi dương. Với hàng can thì Giáp là dương, Ất là âm, Bính – dương, Đinh – âm… Với chi cũng có sự xen kẽ như thế khi Tý – dương, Sửu – âm… Các can và chi kết hợp với nhau theo dạng can dương – chi âm sẽ tạo thành âm dương hòa hợp. Nếu can và chi cùng dương thì không tốt vì sẽ đẩy nhau. Xưa kia, người ta dùng hệ can chi để ghi năm, tháng, ngày, giờ nên can chi có quyết định tới tính cách, số mệnh mỗi người là hoàn toàn khoa học và hợp quy luật.
“Thực tế, có những đứa trẻ từ lúc mới sinh ra đã ốm đau dặt dẹo. Lại có những đứa trẻ chỉ xung khắc với bố mà không xung khắc với mẹ hoặc ngược lại. Thậm chí, có gia đình từ khi sinh con xong thì kinh tế yếu đi, làm ăn không được may mắn, kể cả gặp tai ương cho cha hoặc mẹ. Nguyên nhân một phần là do tuổi của đứa con không hợp tuổi của bố hoặc mẹ hoặc cả hai bố mẹ”, ông Điệp bổ sung thêm.
Bà Trần Thị Hoa, chuyên gia tử vi và phong thủy của Trung tâm Ứng dụng văn hóa Á đông (Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam) cho rằng: Việc tính tuổi con hợp tuổi cha mẹ hay không được tính theo thuyết Âm dương Ngũ hành là có cơ sở. Tuy nhiên, để cho chính xác thì cần phải tính theo mệnh quái.

Theo ông Điệp, cách tính dân gian hiện nay cơ bản vẫn dựa vào thuyết “tam hợp” và “tứ hành xung” kết hợp Ngũ hành tương sinh tương khắc. Chẳng hạn, những người tuổi Tỵ thì tránh sinh con vào năm Dần, Thân, Hợi thuộc “tứ hành xung”. Hay cha tuổi Mậu Tý, sinh con tuổi Giáp Ngọ thì phạm vào “tứ hành xung” là Tý, Ngọ, Mão, Dậu; thêm nữa, cha sẽ mang hành Hỏa, con mang hành Kim. Theo đó, trường hợp này, Giáp sẽ phá Mậu, Kim sẽ khắc Hỏa thì sẽ không thể sống trong yên ổn được. Hoặc mẹ tuổi Bính Dần (1986), Đinh Mão (1987) cùng mệnh Lô trung lỏa mà đẻ con năm 2013 là cực kỳ vất vả vì gặp Trường lưu thủy.
Theo bà Trần Thị Hoa, cách tính đem lại xác suất thành công cao hơn là dựa theo mệnh quái, ngũ hành. Cách tính mệnh quái khá đơn giản và phải tuân theo quy tắc sau: Nếu là nam, lấy số 100 trừ đi hai số cuối của năm sinh rồi chia cho 9, được số dư sẽ căn chiếu vào bảng mệnh quái theo quy tắc thì sẽ ra được mệnh của người đó. Còn đối với nữ, lấy số dư của mệnh quái bằng phép tính: Hai số cuối của năm sinh cộng 5 rồi chia cho 9.
Đối với nữ: 
Đối với nam: 
Theo thuyết Âm dương ngũ hành, các mệnh này lại được quy ước thành: Càn thuộc dương Kim, Đoài thuộc âm Kim, Khôn thuộc âm Thổ, Cấn thuộc dương Thổ, Chấn thuộc dương Mộc, Tốn thuộc âm Mộc, Khảm thuộc Thủy, Ly thuộc Hỏa.
Chẳng hạn: Nam sinh năm 1987 thì (100 – 87) : 9 = 1 (dư 4), mệnh là Tốn Mộc (âm Mộc).
Nữ sinh năm 1987: (87 + 5) : 9 = 1 (dư 2), mệnh là Khôn Thổ (âm Thổ).
Các mệnh kết hợp với nhau tạo ra sinh khí tốt là cặp Cấn – Khôn, Đoài – Càn, Chấn – Ly, Tốn – Khảm; các mệnh Càn – Khôn, Cấn – Đoài, Khảm – Ly, Chấn – Tốn kết hợp với nhau sẽ có phúc lộc thọ. Các mệnh không nên kết hợp với nhau vì phạm vào tuyệt mệnh là Càn – Ly, Chấn – Đoài, Cấn – Tốn, Khôn – Khảm. Những cách kết hợp này hoàn toàn dựa trên thuyết âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc.
Với cách tính này, theo bà Hoa, không cần đến gặp thầy thì mọi người cũng đều có thể tính được tuổi con hợp với cha mẹ.
Theo các chuyên gia, một điều đáng tiếc hiện nay là nhiều người vẫn lầm tưởng rằng chọn tuổi đẹp cho con (hợp với bố mẹ) có ý nghĩa quyết định đến tương lai, vận mệnh của chính đứa trẻ và thậm chí là cha mẹ chúng. Thế nhưng, theo bà Trần Thị Hoa, “cách tính tuổi đó chỉ để tham khảo, vì tuổi không phải là kênh duy nhất để quyết định đến vận mệnh, tiền tài của các thành viên trong gia đình”.
Trong trường hợp con không hợp tuổi bố mẹ thì hóa giải bằng cách nào là vấn đề được không ít các bậc cha mẹ quan tâm. “Thậm chí, có những người phải làm lễ cúng bái rình rang để cầu cho đứa trẻ được khoẻ mạnh, đỡ đau ốm”, ông Nguyễn Hoàng Điệp cho biết.
Thừa nhận việc con cái không hợp tuổi cha mẹ có khi gây ra những tác động tiêu cực như đứa trẻ ốm đau, gia đình thiếu may mắn… bà Hoa cho rằng, hóa giải sự không hợp đó hoàn toàn không khó. Bà nhấn mạnh nguyên tắc: Phải hài hòa các hành giữa cha mẹ với con, nếu thiếu hành gì thì phải bổ sung hành đó bằng tên gọi, màu sắc, hướng đặt giường ngủ…
Ví dụ: Bố mẹ cùng mệnh Chấn (dương Mộc), con mệnh Đoài (âm Kim). Vì thế, để hài hòa giữa tuổi của cha mẹ với tuổi của con thì nên đặt nước ở trong phòng bố mẹ và phòng con vì Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Hoặc có thể chọn quần áo màu đen, tím đậm, xanh đen (thuộc hành Thủy) cho con… “Đây chỉ là một trong số nhiều giải pháp để tham khảo khi tuổi cha mẹ không hợp tuổi con”, bà Hoa bổ sung.
Còn theo ông Nguyễn Hoàng Điệp, cách tính, cách làm đó chỉ có ý nghĩa tham khảo mà thôi, vì “tuổi tác chỉ là một phần, việc gia đình giáo dục đứa trẻ như thế nào, quan tâm tới đứa trẻ ra sao… cũng ảnh hưởng đến nhân cách đứa trẻ, đến mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái”
Thái dương quá hẹp, không rõ ràng
Phụ nữ có tướng mặt mà Thái dương (góc trán) hẹp, không rõ ràng thường gặp khá nhiều xui xẻo trong cuộc sống.
Bản thân họ dễ dàng thay đổi tình cảm, có thể bỏ phản bội chồng, bỏ con mình dứt ruột đẻ ra để chạy theo danh lợi. Thậm chí, ngay cả cha mẹ mình cũng không đoái hoài tới.
Sống mũi lỗi lõm hoặc gãy gập
Xem bói sống mũi thể hiện phần nào công danh sự nghiệp của một con người. Nếu có sống mũi cao là người tự tin, dễ thành công. Ngược lại, nếu sống mũi lồi lõm hoặc gẫy gập thường hay bị kẻ xấu hãm hại trong công việc.
Ngoài ra, tướng mặt phụ nữ này còn cho thấy sự nản chí và chùn bước khi gặp khó khăn trở ngại. Họ không có quan điểm sống rõ ràng và sợ phải đối mặt với chính mình. Do đó, làm việc gì cũng trong trạng thái hoang mang, lo lắng. Đa phần thất bại nhiều hơn thành công.
Cằm thụt, xương gò má nhô cao
Xem tướng mặt phụ nữ, khi nhìn ngang một người mà có cằm thụt, xương gò má nhô cao tạo cảm giác không tin tưởng được. Phụ nữ có tướng mạo này thì dã tâm rất lớn, tham vọng đầy mình, khó có thể yên phận tại gia để chăm chồng chăm con được.
Ảnh minh họa
Lông mày thô đậm, mọc lộn xộn
Phụ nữ có tướng mặt với lông mày thô đậm nhưng mọc lộn xộn thường nóng vội, hành xử không khéo léo, dễ gặp trở ngại và thất bại trong công việc. Tuy nhiên, người này không xấu, đôi khi vì khả năng giao tiếp kém cộng với tính khí nóng nảy nên làm việc gì cũng bị thua thiệt. Đường công danh sự nghiệp của họ do đó mà không khả quan.
Lỗ tai lộ ra ngoài
Trong nhân tướng học, lỗ tai còn gọi là Phong môn. Lỗ tai càng lộ ra ngoài rõ ràng chứng tỏ chủ nhân của nó thiếu tinh thần trách nhiệm trong cuộc sống. Lúc cao hứng thì hứa hẹn nhiều điều, khi mất hứng lại sẵn sàng buông bỏ tất cả.
Người này thường “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”, gặp việc khó khăn là bỏ dở giữa chừng trong khi lúc nào cũng chỉ muốn ăn ngon mặc đẹp.
Miệng nếp nhăn
Miệng nếp nhăn hay còn gọi là miệng túi vải, có đặc điểm là hai môi ngậm chặt, khóe miệng trễ xuống, có rất nhiều nếp nhăn trên môi, mặt giống như đang khóc. Người có miệng này kết hôn và có con muộn. Thuở nhỏ sống vất vả, về già cô đơn, cả cuộc đời nghèo khó.
![]() |
| ► Mời các bạn xem sao hạn, xem tuổi xông đất 2017 để mang lại may mắn cho gia chủ |
Phân tích các vận thế
Để phân tích các phần trong Họ Tên khi số hóa và để các giá trị số biểu lý được cụ thể theo từng phần phù hợp với từng mặt, từng giai đoạn của một người mà qua số biểu lý của từng phần trong Họ và Tên phản ánh, ta tuân theo quy ước gồm: Họ vận, Tên vận, Mệnh vận, Tổng vận và Phụ vận. Những vấn đề này thể hiện tiền vận, hậu vận, Tổng vận.

Năm vận thế của các giai đoạn và tình cảnh của một người được biểu trưng bằng số biểu lý. Mỗi chữ số mang biểu lý mà qua đó ta có thể dự báo được những thông tin về các mặt của đời sống của một con người. Nó được tham chiếu qua các số lý Họ, Tên. Đương nhiên qua số biểu lý chỉ có thể cung cấp một phần dự báo mà thôi. Nó không hoàn toàn khẳng định. Nhưng dự báo số biểu lý Họ Tên chỉ mang nghĩa Tiên thiên bởi vì con người còn có Hậu thiên chi phối lớn. Những dự báo có tính “Tiên thiên” không quyết định tất cả cuộc đời. Những gì có trong “Tiên thiên” ví như một ván cờ bày sẵn ban đầu. Quá trình diễn biến các thế cờ cho đến khi kết thúc ván cờ là “Hậu thiên”. Như vậy ở đây “Hậu thiên” mới là kết cục. Mà “Hậu thiên” của mỗi cá nhân khác nhau thì phần lớn là khác nhau. Không ai lại có mọi thứ ở “Hậu thiên” hoàn toàn giống hệt nhau. Tức là giống nhau từ hoàn cảnh gia đình, hay sự nuôi dưỡng, giáo dục và có nhà cửa, biển hiện, mã số v.v… đều giống hệt nhau. Hơn nữa điều kiện xã hội, vận hội đất nước của mỗi cá nhân ở mỗi thời điểm thời đại khác nhau là rất khác nhau. Từ những lý do đó mà những người có Họ, Tên, Đệm, Phụ tên giống y hệt đi nữa thì cũng không thể có kết cục giống nhau (như đã giải thích ở phần trên). Khi đặt tên cho hậu duệ của mình, các thành viên trong gia đình dù có muốn hậu duệ của mình có cái tên giống hệt một bậc vĩ nhân tiền bối nào đó đi nữa thì gia đình họ cũng phải có những điều kiện “tiền đề” nào đó. Và với những tiền đề đó, họ hy vọng hậu duệ của họ có thể thành đạt như bậc tiền bối mà họ muốn mượn tên đặt cho hậu duệ của họ. Mong muôn chỉ là mong muốn chứ làm sao có thể hoàn toàn giống được. Bởi lẽ hai con người sống ở hai thời đại khác nhau, ngay cả những người cùng thời mà có Họ Tên hoàn toàn giống nhau đi nữa nhưng vì gia đình của họ lại hoàn toàn khác nhau. Những điều kiện “Hậu thiên” cũng không bao giờ như nhau được.
Ý nghĩa của số biểu lý Họ Tên
Số biểu lý Họ Tên là “Tiên thiên”. Nhưng một phần “Tiên thiên” ấy vẫn tồn đọng trong “Hậu thiên” của cá thể đó đến cuối đời. Đó là tính cách, một phần thành quả tu luyện hay vận mệnh và duyên phận v.v…
Gia đình nhạc sỹ đương nhiên là tiền đề để con cái họ có gen về âm nhạc, bố mẹ họ muôn hậu duệ của gia đình họ sau này sẽ giống Bá Nha, hay giống Đặng Thái Sơn v.v… về khả năng âm nhạc và dẫu gia đình đó có cả Họ Tên giống hệt đi nữa thì cũng sẽ không có Bá Nha hay Đặng Thái Sơn ở hai thời khác nhau được, về “định tính” thì có; nhưng về “định lượng” thì không. Nghĩa là đều có năng khiếu âm nhạc đấy song mức độ tài năng sẽ hơn kém khác nhau, nhưng sở trường thì giống nhau. Song do thời đại khác nhau, vận thế đất nước lúc này lúc khác sẽ chi phối nhiều đến điều kiện sống và sự thành đạt. Vì vậy trong “Họ Tên dự đoán” có 5 vận thế để xem xét cụ thể. Nhưng chúng ta cần có nhận thức về thiên thời, khí vận nữa.
Phong thủy âm trạch vốn sâu xa và có nhiều quan hệ tới hạnh phúc, bình an của những người trong nhà. Do đặc thù, tính chất, âm trạch có thể tạo ra những ảnh hưởng phong thủy mà con người không thể lường trước được. Người xưa có câu, “người chết là chuyện lớn, xuống mồ mới bình an” là vì như vậy. 8 hướng có điểm hung và điểm cát riêng, cần lưu ý lựa cát tránh hung khi chọn đất đặt mộ. Vị trí mộ mà gần đường xoay về 8 hướng thì có những điểm đặc biệt sau. Mộ phần mà hướng Cấn có đường, khoảng 5m về hai phía trái phải thì con cháu xảy ra cường đạo, trở thành kẻ trộm, Đường lớn thì sinh ra thổ phỉ, đường nhỏ thì sinh ra trộm vặt, con gái yêu đương vụng trộm. Đất đặt mộ này trai thì làm cướp, gái thì phong trần. Mộ phần mà hướng Khảm có con đường nhỏ, nói trước sau thông nhau thì trong nhà liên tục gặp hung, nhà bị hao tổn, nuôi gia súc mau chết. Khảm cung chiếu thẳng ra đường thì có yêu vong, đường nhiều nhánh thì càng bi thương, có người thắt cổ, tự vẫn khi còn trẻ hoặc có người tha phương khất thực. Càn hướng có đường nhiều nhánh xiên vào đất đặt mộ phần thì nhà có người treo cổ. Nếu đường không nhiều nhánh thì trong nhà có người què hoặc gãy chân. Hướng Đoài có đường đâm thẳng vào mộ phần thì trong nhà liên tiếp xuất hiện con gái bị đột tử, nếu đường càng rộng thì nữ nhân trong nhà càng bị hao tổn, gọi là đoản kiếm lộ. Hướng khôn có đường bắn thẳng tới phần mộ thì đời sau có con gái bị đột tử. Nếu đường hình cong thì trong nhà đề phong người phụ nữ lớn tuổi, còn xuất hiện con gái không đứng đắn, tính dâm đãng, phá hoại gia phong. Phương Ly có đường xa thấp thoáng là phòng ngoài lộ, trong nhà xuất hiện con gái đào hôn, người nam lấy vợ phương xa. Nếu đường có nhiều ngã rẽ thì con trai trong nhà mỗi người một ngã làm ăn. Phương Tốn có đường, đối với trưởng nữ bất lợi, nếu là đường xấu, nhỏ thì không may mắn với con trai giữa. Sách xưa có viết, phương Tốn chính Đông có đường thì con trai lạnh lùng, không sớm qua đời cũng không lấy vợ, cả đời trăm sự vất vả, không thu được gì. Phương Chấn có đường, như đao kiếm hình thứ hướng phần mộ, trung nam bị hao tổn. Nếu đường hẹp thì tử vong nhiều hơn, xảy ra việc uống thuốc độc, thắt cổ tự sát. Chấn phương cung quẻ Thiên Lôi cầm chùy, nhiều hung hiểm, hại cho con trai giữa. Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Hãy có tâm từ đối với đàn-việt, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt. Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ, đồng thời thí chủ cũng nương tựa chư Tăng Ni để tu học và thành tựu phước báo hộ trì.
Hành giả an cư ngoài việc tinh chuyên trau dồi giới định tuệ còn quán niệm bốn ơn. Trong đó, luôn nhớ nghĩ công ơn thí chủ và thể hiện bằng cách rải từ tâm đến đàn-việt để người thí và người nhận thí đều thanh tịnh, đều được công đức.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hãy xem đàn-việt thí chủ như thế nào?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
– Thế Tôn là vua của các pháp. Cúi mong Thế Tôn nói nghĩa này cho các Tỳ-kheo, chúng con nghe xong sẽ vâng giữ tất cả.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ phân biệt nghĩa này cho các Thầy.
– Hãy cung kính đàn-việt thí chủ như con hiếu thuận cha mẹ, nuôi dưỡng, hầu hạ, làm tăng trưởng ngũ ấm. Ở cõi Diêm-phù-đề hiện các thứ nghĩa: Quán đàn-việt thí chủ hay thành tựu giới, văn, tam muội, trí tuệ cho người. Này các Tỳ-kheo, đàn-việt có nhiều lợi ích, đối với Tam bảo không có chướng ngại, hay bố thí các Thầy y phục, thức ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh. Thế nên, này các Tỳ-kheo, hãy có tâm từ đối với đàn-việt, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt, nói hạnh trong sạch của thân, miệng, ý chẳng thể cân xứng, cũng không có giới hạn. Thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn, có danh tiếng lớn, lưu truyền pháp vị cam lồ trong thế gian. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Thí để thành của lớn/ Chỗ nguyện cũng thành tựu/ Vua và những tên trộm/Chẳng thể đoạt vật kia/ Thí để được ngôi vua/Nối dõi ngôi Chuyển luân/ Bảy báu thành đầy đủ/Vốn do thí mà được/Bố thí thành thân trời/Đầu đội mũ báu đỏ/Cũng các kỹ nữ dạo/Vốn quả báo của thí/Thí được trời Đế Thích/Vua trời oai lực thịnh/Ngàn mắt trang nghiêm thân/Vốn quả báo của thí/Bố thí thành Phật đạo/Đủ ba mươi hai tướng/Chuyển Pháp luân vô thượng/Vốn quả báo của thí.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hộ tâm, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.107)
Y theo lời Phật dạy, hành giả an cư thương kính và trân trọng đàn-việt, thí chủ vì nhờ ơn ngoại hộ mà mình có đầy đủ bốn vật dụng (y phục, thức ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc thang) để yên tâm tu học, và nhất là “thành tựu giới, văn, tam muội, trí tuệ”.
Cho nên, “hãy có tâm từ đối với đàn-việt; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt; thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn” chính là một trong những pháp hành quan trọng của các hành giả an cư.
Tâm từ là một chất liệu kết dính mối quan hệ giữa bốn chúng đệ tử Phật luôn bền chặt, hòa hợp và thanh tịnh. Nhờ ban rải từ tâm mà người thí và người nhận đều thành tựu công đức, phước báo vô lượng.
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Trong cuộc sống hàng ngày có thể nói vấn đề “sợ vợ” thường được đề cập tới, bất luận đối với giới nào. Vì vậy, trong lĩnh vực tử-vi, tôi cũng muốn nêu vấn đề này ra và mong sẽ ”mua vui” được cho quý bạn trong dịp tất niên, đồng thời tôi cũng xin cáo lỗi trước với bạn nào tình cờ nằm trong trường hợp điển hình mà tôi nêu ra dưới đây, vì sự trùng hợp rất dễ xảy ra trên phương diện lý thuyết tử-vi.
Tôi còn nhớ hồi mới học Tử-Vi, mỗi khi ông này, ông nọ hỏi tôi xem lá số có biết nổi thế nào là người chồng sợ vợ hay không?, thì tôi chỉ cần vài giây đồng hồ là khẳng định liền, một cách rất ư là tự tin, vì tôi cho rằng khía cạnh đó dễ ợt, cứ việc xem cung Thê có Hóa Quyền hoặc Tướng Ấn hay không hoặc “Thân” có cư Thê và có Thái âm tọa thủ hay không.v.v.v. Thật là đơn giản và rõ rệt như hai với hai là bốn. Và khổ một nỗi là rất nhiều lần trúng, nên tôi càng hãnh diện về sự hiểu biết tử-vi của mình, nhưng đôi ba lần bị sai trật hẳn mặc dầu giờ sinh trúng thì đâm ra ấm ức chẳng biết giải thích làm sao. Về sau tôi có gặp được vài vị cao thâm tử-vi chỉ dẫn khá kỹ càng về khía cạnh đoán “sợ vợ”, khiến cho tôi như bừng tình giấc mơ và cảm thấy hổ thẹn về khả năng tử-vi của mình. Bây giờ tôi xin cố gắng tổng hợp lại những điều đã học được cùng những kinh nghiệm riêng của tôi, để giúp quý bạn có một ý niệm chính xác hơn về vấn đề nêu trên, và tôi tạm chia bài này làm hai phần:
1- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
Trước hết tôi cần phải nói rằng, bao giờ ta cũng phải so sánh thật kỹ lưỡng và tỉ mỉ hai cung Mệnh và Thê, chứ không thể xét đơn thuần một cung Thê để xem có sự chênh lệch hay tương đồng. Trong mục này tôi bàn riêng về hai cung tương đồng, phần hai dành cho trường hợp hai cung chênh lệch.
Chắc quý bạn thắc mắc không biết làm sao phân biệt được tương đồng hay không vì các yếu tố tử-vi rất uyển chuyển chứ đâu có rõ rệt và cố định. Thực ra điểm này rất tương đối, nghĩa là quý bạn cứ tạm cho các sao cùng một nhóm đều tương đương với nhau hoặc nhóm này tương đương với nhóm khác. Tỷ dụ như Nhóm Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cùng có một “năng lực” như nhau hoặc nhóm Cự Nhật có thể sánh với Phủ Tướng.v.v.. Trường hợp cung Mệnh và cung Thê cùng Vô chính diệu thì các trung tinh và bàng tinh sẽ đóng vai trò chủ yếu mặc dầu chính tinh của cung xung chiếu vẫn gây ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp. Tỷ dụ như một cung có Khôi Việt, còn cung kia có Hóa Khoa, Thai Tọa thì tạm coi là tương đồng.
Khi nhận định được yếu tố tương đồng rồi ắt là ta có khái niệm về “cán cân lực lượng” của đôi bên nhưng đừng vội cho như thế là hai vợ chồng chẳng ai bắt nạt được ai vì còn cần xét thêm như sau:
– Nếu “hành” bản mạng (của chồng) tương hòa với chính tinh tại cung Thê thì không có sự lấn át với nhau, nhưng nếu khắc chính tinh hoặc được “hành” của chính tinh sinh thì người chồng trội hơn vợ. Còn trường hợp sinh chính tinh thì chồng phải “o bế” vợ khiến cho vợ làm tàng, nhưng không thua thiệt bằng trường hợp chính tinh khắc bản mạng.
– Sau khi xét đến “hành” sinh khắc phải để ý xem cung nào (Mệnh hoặc Thê) có nhiều sao phú và quyền quý hơn, nhất là khi các cung này vô chính diệu. Tỷ dụ như Mệnh có Tử-Sát hội Hóa Khoa trong khi cung Thê có Phủ Tướng (tức là tương đương với Tử-Sát) mà lại thêm Song Lộc, Long Phượng, Thai, Tọa thì người vợ cao sang, giàu có hơn chồng, hoặc xuất thân từ một gia đình quyền qúy hơn gia đình nhà chồng, như thế là có yếu tố lấn áp chồng. Đấy là tôi chưa kể đến sao Hóa Quyền là sao biểu lộ rõ rệt sự đàn áp (thuộc phần 2 bàn về sự chênh lệch mạnh mẽ mà tôi sẽ nói sau).
– Sau nữa phải lưu ý đến các sao tháo vát, thông minh, lanh lẹ dồn vào cung nào. Tỷ dụ như Khôi Việt, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hồng, Hỷ đều hội chiếu vào cung Thê thì cung Mệnh phải chịu lép, dù cho chính tinh của hai cung tương đồng.
– Sau hết ta còn phải phối hợp với Đại hạn. Sở dĩ không xét đến Tiểu hạn là vì một năm chưa đủ để thay đổi phong độ của một người, chẳng lẽ năm trước ta đang sợ vợ mà năm sau lại dám bắt nạt vợ hay sao? Còn Đại hạn 10 năm là một giai đoạn có thể làm đảo lộn từ thể chất tinh thần một người. Do đó ta mới cần kết hợp với Đại hạn thật tốt và thật phù hợp với Mệnh tức là đời người đó “lên hương” mạnh khiến cho vợ phải kiêng nể, kính mến, nhưng nếu Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với mệnh lại “ăn khớp” với cung Thê thì đó là môi trường thuận lợi cho vợ lên mặt.
Ví dụ: Mệnh có Cự Nhật và cung Thê có Đồng âm mà gặp Đại hạn có Cơ Lương (Thìn-Tuất) hội Quyền Lộc thì chỉ lợi cho Thê vì Cơ Lương ưa nhóm Đồng âm hơn Cự Nhật và kéo theo cả Quyền Lộc. Do đó Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với Mệnh, thành ra vợ có cơ hội trội hơn chồng.
Qua những điểm phân tích trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy rằng có nhiều người chẳng thấy gì là sợ vợ qua lá số của họ mà trên thực tế họ đúng là hạng “râu quặp”, đó chẳng qua là quý bạn không cân nhắc kỹ lưỡng mà thôi. Và ngay cả khi quý bạn kết hợp tỷ mỉ nhưng máy móc quá; cũng vấn có thể sai lầm. Ví dụ như khi thấy cung Thê có chính tinh tương đồng với cung Mệnh mà lại hội nhiều sao quyền quý, nếu bạn kết luận ngay là chồng sợ vợ cũng có trường hợp chẳng đúng; vì nếu có thêm các sao hiền thục như Tràng Sinh, Đế Vượng, Quan Phúc thì chừng đó người vợ tuy cao sang, quyền quý nhưng nhất mực phục tòng chồng, chẳng khi nào dám khinh khi chồng. Cái khó khăn là ở chỗ thêm bớt, kết hợp cho tinh vi và uyển chuyển.
Tuy nhiên, nói chung khi trúng vào mục 1 này, qúy bạn có thể nắm được yếu tố tiên khởi là không có sự lấn áp mạnh mẽ giữa hai bên. Do đó, sau khi “gia giảm” theo các tiêu chí mà tôi đã nêu ra ở trên, qúy bạn có thể kết luận là khía cạnh “sợ vợ” ngược lại chỉ là “nể nang” mà thôi nếu có thêm yếu tố chứng minh liên hệ.
2- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
Phần này mới đích thực là phần quan trọng vì vấn đề sợ vợ hay không? sẽ nổi bật trong lá số, nhưng chính cũng vì thế mới dễ lầm và khó đoán. Tôi không muốn nói là luôn luôn phải đoán trái ngược lại, nhưng ta phải cận thận vì có trường hợp không ứng nghiệm chút nào. Về phần nguyên tắc cũng tương tự như phần 1, nhưng về phần thực hành khó hơn nhiều. Do đó tôi thấy cần đưa ra nhiều ví dụ điển hình để quý bạn giải đoán linh động và uyển chuyển hơn.
– Nếu bình thường Mệnh có Thiên Phủ gặp Tuần Triệt án ngữ mà cung Thê có Liêm Phá chẳng hạn thì phải nói rằng sự chênh lệch qúa rõ ràng, vì Thiên Phủ hiền lành bao nhiêu thì Liêm Phá dữ dằn bấy nhiêu. Do đó khi không có yếu tố gì khác chế hóa ta có thể kết luận là chồng sợ vợ tuyệt đối, chẳng cần có Hóa Quyền hay Tướng Ấn cư Thê. Nhưng nếu trong trường hợp này, Mệnh không bị Tuần Triệt án ngữ và lại có thêm Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả, Hữu, Thai, Tọa, Song Lộc, Đào Hồng thì đừng vội kết tội người chồng sợ vợ, vì khi ấy người chồng hội đủ mọi “phương tiện” để bắt vợ vào khuôn phép một cách rất tinh vi, khoa học và tế nhị. Người vợ khi đó trái lại chỉ hùng hục làm việc tay chân cả ngày để phục vụ chồng vì Liêm-Phá đã chuyển hướng từ miệng la hét qua làm lụng bằng chân tay. Trường hợp này nếu cung Thê có thêm Tướng Ấn cũng chẳng sao, có khi còn tăng thêm hiệu lực quán xuyến nội trợ, để cho chồng được hưởng thụ mà thôi. Vì dù sao Thiên phủ cũng chủ về bề thế, thanh nhàn và hưởng thụ.
– Nếu Mệnh vô chính diệu (thường bị coi là yếu mềm nhu nhươc) và cung Thê có Tử-Sát chẳng hạn, lại hội thêm Tướng-Ấn, Hóa Khoa, Long Phượng, Hổ, Cái, Quang, Qúy, Lộc, Mã ai thấy mà chẳng đoán là vợ nắm quyền hoàn toàn, thế mà vẫn có trường hợp không ứng nghiệm; là vì khi cung Mệnh có Tang Hổ, Tả Hữu, Thai Tọa, Thanh Long, Mộc Dục chẳng hạn, thì cung Thê khi đó gần như bị vô hiệu hóa về khía cạnh bắt nạt chồng. Tại sao vậy?. Vì các sao Tang Hổ tuy chỉ là sao ưu tư phiền muộn theo nghĩa bình thường nhưng thực ra cũng chủ về uy lực tiềm tàng hoặc gián tiếp, chủ về óc cách mạng (canh tân, đổi mới …), quật cường, như thế đâu có chịu nhục nhã, kiềm chế. Thêm vào đó có bộ Thai Tọa còn chủ về tư cách, bề thế, chững chạc đâu có để cho tự ái bị va chạm mạnh mẽ. Ngoài ra, Thai Tọa còn chủ về thích an nhàn nên thường cho vợ quán xuyến mọi việc (ứng vào Tướng-Ấn) để mình lo việc khác có tính cách “đàn ông” hơn. Còn Thanh-Long hội Tả Hữu chủ về ăn nói khéo léo, lý luận vững vàng tháo vát xoay xở thì làm gì mà không thuyết phục nổi vợ khi vợ muốn lấn áp, nhất là khi có sao Mộc Dục hội với sao Thanh Long là cách “thừa vạn phái dĩ thanh quang” (nghĩa là có tiếng thơm) chứng tỏ được người đời thán phục, hàng xóm làng giềng khen ngợi, như thế không có lẽ lại “râu quặp” để mang tai mang tiếng nhục nhã?. Do đó bao nhiêu cái trội ở cung Thê chỉ là để phục vụ đắc lực cho chồng hưởng thụ thanh nhàn; nếu đôi khi những sao “hách” muốn hoạt động thì chừng đó người vợ chỉ lộ ra với người khác mà thôi.
– Thường thường ai cũng ngán cung Thê có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Kình hoặc Đà vì như thế dễ bị vợ sai khiến, áp đảo dễ dàng, nhưng yếu tố này này cũng chưa hẳn tuyệt đối nếu cung Mệnh có những yếu tố chi phối nổi các sao đó, tỷ dụ như có Liêm Sát hội Khôi Việt, Tả Hữu, Thanh Long, Song Lộc thì những sao trên sẽ phục tùng hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp này còn phải dựa thêm vào Đại hạn tốt cho cung Mệnh (như đã bàn ở phần 1) thì mới chắc ăn vì cung Thê có “lực lượng” quá hùng hậu không dễ gì áp đảo được mạnh mẽ.
– Trong một vài sách Tử-Vi có nêu ra trường hợp “Thân” cư Thê có Thái âm tọa thủ là sợ vợ. Nếu cứ áp dụng như thế rất dễ bị sai lầm vì tôi có xem nhiều lá số có trường hợp đó mà chẳng hề sợ vợ chút nào, trái lại còn được vợ chiều chuộng hết mình. Sở dĩ “công thức” trên không ứng nghiệm vì có những yếu tố khác chế hóa mạnh mẽ: Bình thường “Thân” cư Thê tức là phải nương nhờ vợ, nhất là khi có Thái âm tọa thủ (vì sao này chủ về vợ mà đóng đúng tại cung Thê thì không khác gì cá gặp nước, rồng gặp mây tha hồ thao túng, hoạt động), nhưng khi cung Thê có Quan, Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, bộ Tứ Đức, Long Phượng, Quang Quý … thì người vợ khi đó nai lưng ra mà phục vụ chồng, yêu thương chồng, còn người chồng chỉ vui chơi suốt ngày, chẳng phải quan tâm đến chuyện sinh kế hằng ngày, nhất là khi cung Mệnh có những sao thành nhàn bề thế (như Thai Tọa, Hỷ Thần, Phong Cáo, Thai Phụ …) và cung Phúc Đức tốt có yếu tố thụ hưởng (như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thanh Long … ). Rất có thể trước nhãn quan của thiên hạ người chồng trong trường hợp này bị coi là nhu nhược, hèn hạ vì ăn bám vợ nhưng thực sự thì không có vấn đề “sợ vợ”. Lẽ dĩ nhiên nếu cung Mệnh và Phúc đều xấu và cung Thê lại thêm Hóa Quyền, Kình, Đà chẳng hạn thì khi đó người chồng thực là bất hạnh vì hoàn toàn nô lệ vợ, có khi bị vợ coi như kẻ ăn người ở ….
– Những thí dụ trên đây cho thấy có yếu tố sợ vợ mà vẫn không ứng nghiệm vì đó là yếu tố “nổi” đã bị yếu tố “chìm” làm mất hiệu lực. Ngược lại cũng vậy, nhiều khi thấy cung Mệnh mạnh hơn cung Thê gấp bội mà vẫn chịu thua vợ. Tỷ dụ như Mệnh có Liêm-Tham (Tị hoặc Hợi) hội Hóa Quyền mà cung Thê có Thiên Phủ gặp Tuần thì đúng là chồng bắt nạt vợ tuyệt đối, nhưng khi cung Thê không bị Tuần án ngữ thì Thiên Phủ lấy lại được năng lực bình thường của một chính tinh “đầu đàn” đủ sức làm cho Liêm-Tham nể vì, nhất là khi có thêm Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hình, Hổ, Song Lộc thì người chồng khó lòng mặt được, nếu có tức khí la hét được vài tiếng thì cũng chùn bước trước cách cư xử và thái độ khéo léo, tế nhị nhưng đầy uy nghi của người vợ. Thực tế, nếu quý bạn xét kỹ lưỡng các sao phụ trên thì thấy nguyên Song Lộc (cách của Lã Hậu) (Lã Hậu sinh năm Giáp Dần ngày 7 tháng 3 giờ Dần) cũng đủ quyền hành áp đảo người chồng, huống chi lại có thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Qúy là các sao khôn khéo, bặt thiệp cộng thêm Hình Hổ là các sao tăng cường hiệu lực của lời nói cũng như hành động, trong khi đó Liêm-Tham của của chồng chủ về “hữu dõng vô mưu” đâu có đủ sâu sắc mà đương đầu lại nổi.
Về phần hai này, nói chung phải luôn chấp nhận rằng ít khi có trường hợp ứng nghiệm trái ngược. Do đó qúy bạn cần hiểu là những thí dụ tôi nêu ra trên đây đều là ngoại lệ, và tôi mong qúy bạn không có người nào gặp trường hợp cung Thê hoặc cung Phu qúa trội để khỏi phải mất công tìm kiếm những yếu tố khác chế hóa đi.
Tôi ước mong bài trên đây có thể giúp được quý bạn phái nam nhận ra được phần nào năng lực của mình đối với người bạn đời để liệu cách “đối phó” hoặc điều chỉnh cách sống làm sao cho gia đình được êm ấm thuận hòa. Còn đối với quý bạn phái nữ, tôi chắc quý bạn sẽ sáng suốt hơn khi nhận định về người chồng của mình và sẽ không tìm cách bắt nạt hoặc lấn quyền một cách bừa bãi và mù quáng để hạnh phúc lứa đôi khỏi bị xáo trộn./.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
| ► Theo dõi: Tử vi hàng ngày, tử vi hàng tuần của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
![]() |
![]() |
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: làng Nành (tên chữ là Phù Ninh), xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Phật Mẫu Man Nương, Pháp Vân (Bà Nành), đức phật Thích Ca, đức Trần Hưng Đạo.
Nội dung: Lễ hội chùa Nành gồm có lễ Tế, rước kiệu bà Nành ra Thạch Bàn (bãi cây vông). Lễ kéo ngựa, rước hương, rước hoa từ nhà tổ lên Chùa. Trong lễ hội còn diễn ra nhiều trò chơi dan gian vô cùng đặc sắc như: đấu vật, cờ người, thi nấu cơm, thi hát, chọi gà, bơi thuyền, rối nước. Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là trò nâng cây phan. Cây phan là một bó khoảng 60 cây tre để bó nguyên cả thân và ngọn. Mọi người luôn tin rằng, nghệ thuật nâng cây phan thể hiện cuộc sống ấm no của cả dân làng. Các trò chơi trong hội đều nhằm ý nghĩa thể hiện sự cầu mưa, cầu nước, cầu phần thực của cả dân với nền nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng.
2. Sắm lễ:
Vào ngày Giỗ Đầu, ngoài mâm lễ mặn, hoa, quả, hương, phẩm oản, người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã, giấy mà còn cả các vật dụng như quần , áo, nhà cửa, xe cộ mà thậm chí còn mua sắm cả hình nhân bằng giấy nữa.
“Hình nhân” ở đây không phải để thế mạng cho ai mà là tục tín ngưỡng tin rằng, với phép thuật của thuật của thầy phù thủy thì hình nhân bằng giấy khi đốt đi sẽ hóa thành người hầu hạ vong linh nơi Âm giới.
Sau buổi lễ những đồ vàng mã sẽ được mang ra tận ngoài mộ để hóa (đốt). Nhưng đồ vàng mã đốt trong ngày Tiểu Tường còn được gọi là “mã biếu”. Gọi là mã biếu vì người ta nghĩ rằng những đồ mã này chỉ cúng cho vong linh người mất, nhưng người đó không được dùng mà phải mang biếu các ác thần để tránh sự quấy nhiễu.
3.1. Văn khấn Thổ Thần, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh trước khi Giỗ Đầu
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Bản gia Táo Quân, ngài Bản gia Thổ Công, Long Mạch, Thần Tài.
- Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Hôm này là ngày ….. tháng ….. năm ……………………………………………………..
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………………………………………..
Ngụ tại:……………………………………………………………………………………...
Nhân ngày mai là ngày Giỗ Đầu của……………………………………………………….
Chúng con cùng toàn thể gia quyến tuân theo nghi lễ, sắm sửa hương hoa lễ vật kính dâng lên trước án tọa Tôn Thần cùng chư vị uy linh, kính cẩn tâu trình.
Kính cáo Bản gia Thổ Công, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh, cúi xin chứng minh, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.
Kính thỉnh các Tiên linh, Gia tiên chúng con và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
3.2 Văn khấn ngày Giỗ Đầu
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………………………………
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………………………………………
Ngụ tại:…………………………………………………………………………………….
Hôm nay là ngày …………... tháng ………..….. năm ……………………………………
Chính ngày Giỗ Đầu của……………………………………………………………………
Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.
Thành khẩn kính mời………………………………………………………………………
Mất ngày…………. Tháng………………năm……………………………………………
Mộ phần táng tại:…………………………………………………………………………..
Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.
Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên, nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Cô Di và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.
Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
ng lúc nào không sản sinh các hiệu ứng chính phụ đối với trái đất. Mà con người, là sinh vật cao cấp có năng lực cảm ứng sinh tồn mạnh nhất trên trái đất, tự nhiên cũng tùy lúc chịu ảnh hưởng các hiệu ứng của thiên thể vũ trụ đối với trái đất.

Ví dụ: Mặt trời sản sinh quang năng, nhiệt năng đối với trái đất, khiến cho vạn vật có thể sinh trưởng vì phát triển, nhưng tia tử ngoại của mặt trời cũng ảnnh hưởng nghiêm trọng đến nhân loại và động thực vật trên trái đất. Sự tròn khuyết và vận động theo chu kỳ của mặt trăng cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự lên xuống của mực nước biển, đồng thời cũng ảnh hưởng nhất định đến chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.
Những thay đổi khác lạ thiên thể đặc thù như nhật thực, nguyệt thực và tuệ tinh… đều sản sinh tác dụng lực đặc thù đổi với từ trường, khí hậu, địa trấn, nạn hạn hán, lũ lụt của trái đất. Đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đối với sinh lý, tâm lí, tư duy, hứng thú của con người và dẫn đến bệnh tật, tai hoạ… từ đó cũng có thể sản sinh sự xao động, rối ren và biến thiên của xã hội. Hoặc tia tử ngoại của mặt trời sản sinh các ảnh hường đối với sức khỏe con người, nhật thực, nguyệt thực có tác dụng khá lớn đối với trái đất và nhân loại, không có gì có thể kiểm chứng được quan hộ cảm ứng của thiên thể vũ trụ và trái đất, nhân loại.
Trên đây đã đưa ra các hiện tượng và quy luật, hoàn toàn phù hợp với nhu cầu tìm hiểu ý niệm thống nhất hài hòa “thiên, địa, nhân” của phong thủy học truyền thống. Phong thủy học kinh điển tương truyền hàng ngàn năm: “Hoàng đế trạch kinh” đã sớm chia ra việc quan sát phong thủy đạt đến ranh giới: “Nhân trạch tương phũ, cảm thông thiên địa”.
Nội hàm của phong thủy học và một trong các sử mệnh chính là: Phải tiếp duyên học thuyết thống nhất hài hoà “thiên, địa, nhân” trong phong thủy học truyền thống với thiên thể học vũ trụ hiện đại. Nghiên cứu và dự kiến thiên thể và quy luật hiệu ứng chính phụ của nó đối với trái đất và con người, nắm bắt, điều chỉnh và giảm hớt biến động của năng lượng tự nhiên, vũ trụ ảnh hưởng không tốt đối với trái đất và con người, đồng bộ tam vị nhất thể vũ trụ, trái đất, con người đối ứng và hài hoà với ranh giới lý tưởng cùng sinh tồn.
Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất bởi vì vậy khi coi tướng nếu như thấy cái mũi xấu thì … khỏi cần coi tiếp cũng được … Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con …

Cái mũi được chia ra làm 2 loại :
1/ Thượng cách gồm có 3 hạng :
– Thiện tướng : Không cần phải giầu nhưng suốt đời vui sướng và khi chết cũng an toàn.
– Quý tướng : Kẻ quý thì dỉ nhiên là giàu nhưng chưa chắc gì la thiện.
– Phú tướng : Mũi cần phải đầy dặn, to lớn và 2 lổ mũi ẩn kín.
Trên đời ta không bao giờ thấy có 3 tướng mũi như đã nói trên đi chung. Ta có thể thấy quý dể đi đôi với phú hoặc có thể đi đôi với thiện nhưng phú thì ít đi đôi với thiện.
2/ Hạ cách ta cũng gòm có 3 hạng [ác, tiện và bần] :
– Tướng mũi ác là xấu nhất vì người có tướng mũi ác sẽ chết bất đắc kỳ tử hoặc có thể cả nhà sẽ bị thảm tử.
– Tướng mũi ác không nhất định phải kiêm cả bần bởi vì Tướng mũi ác đa số dễ giàu có.
– Tướng mũi bần không nhất định phải kiêm cả tiện nhưng ta thường hay thấy tướng bần và tướng tiện rất nhiều còn tướng ác thì ít hơn.
Mũi nên đầy đặn cao lớn có thịt như trái mật treo, ngay ngắn không chênh lệch, không thô, không nhỏ, nhưng nên nhớ là to lớn nhưng không được thô tục thì mới tốt, thì những người này không giàu thì cũng sang.
Mũi chó, diều hâu, dao nhọn, gồ ghề, gẫy lỗ mũi hếch, lệch và yếu ớt, sống mũi lộ, cao và cô đơn như ngọn núi là những người phải chịu lao đao, vất vả tâm tính gian tham.
Mũi thẳng, đầu mũi tròn trịa có da thịt thì tính tình nhân từ, bộc trực.
Mũi ngưỡng [hay liếc ] thiên thì vô nhân vô nghĩa .
Mũi nhọn, đầu mùi không có thịt thì tính tình sảo trá.
Mũi khoằm như lưởi câu hay mỏ chim ó thì tính tình hiểm độc.
Sống mũi có đốt lộ ra [hay có người gọi là mũi gãy] là vộ chồng lục đục và đôi khi khắc, sát.
Mũi chảy xệ là người mắc chứng ho lao hoặc suyễn và nếu như mũi xệ che khuất nhân trung thì kẻ đó sống không quá 40.
Khi xem tướng mũi ta cũng phải nên coi sắc khí của mũi vì mũi cần có quang nhuận da dẻ mịn màng và màu hồng vàng dưới làn da . Mũi không được đỏ như kẻ nghiện rượu vì kẻ đó sẽ bị vất vả và mũi đen như tro là kẻ làm cho lắm nhưng vẫn không đủ ăn.
4 loại mũi tốt nhất :
1/ Mũi trái mật treo : Đầy đặn, lổ mũi kín và sống mũi cao không lộ cốt chạy lên đến sơn căn [giữa 2 con mắt] là kẻ phú quí nhiều may mắn.
2/ Mũi như ống tre : Sống mũi cao thẳng, bóng bẩy, đầu mũi và cành mũi chắc chắn đầy đặn là kẻ phú quí.
3/ Mũi như sư tử : Nở to đầy, lổ mũi kín nhưng không được sần sùi là kẻ phú bất quí.
4/ Mũi rồng : Mũi này hiện nay rất ít có người có vì nó gòm lại 3 tướng mũi vừa được nói trên hợp lại mà mũi này thuộc về vua chúa về thời xưa …
Những tướng mũi xấu :
1/ 2 lỗ mũi rộng toác là kẻ nghèo khổ, túng bấn.
2/ Mũi gẫy là kẻ cô độc
3/ Mũi như cái núi là kẻ tự cao tự đại dễ bị ghét nên nghèo khổ.
4/ Mũi chó là thuộc loại mũi gầy lộ sống mũi và hình dung thô tục là loại hèn hạ.
5/ Mũi chim ưng là kẻ gian tà ác tâm.
Khi coi tướng mũi ta cần phải phối hợp với lưỡng quyền vì mũi lớn đẹp mà lưỡng quyền thấp thì không được và tướng mũi cần phải đi đồi với tướng mắt bởi vì mũi lớn đẹp mà tướng mắt hỏng thì cho dù có giàu cũng không sang được.
Người xưa cho rằng: mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.
Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm (là tốt nhất) hoặc hàng tháng tại chùa (là tốt nhất) hay tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:
Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng
Lễ cúng dâng sao Thái Dương vào ngày 27 hàng tháng. Thắp 12 ngọn nến.
Bài vị màu vàng, mũ vàng, cùng hương hoa, phẩm oản.
Tiền vàng và 36 đồng tiền
Hướng về phương Đông làm lễ giải sao.
Theo quan niệm của người xưa, sao Thái Dương chỉ tốt với nam giới, không tốt với nữ giới.
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cực Tử Vi Tràng Sinh Đại đế.
- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Nhật cung Thái Dương Thiên tử Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiên lập linh án tại (địa chỉ)……………………………………………………………để làm lễ giải hạn sao Thái Dương chiếu mệnh:
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
tốt. Nhưng có thật sự là ai sinh vào năm đó cũng tốt không?
Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Ngũ Hành
Ngũ Hành của bản mệnh là yếu tố đầu tiên được xem xét đến khi chọn năm sinh con. Quy luật tương sinh tương khắc của Ngũ Hành rất đơn giản và dễ nhớ:

Như vậy, khi sinh con cần lựa chọn năm sinh để con không khắc với bố mẹ và ngược lại. Ví dụ: Bố mệnh Kim, mẹ mệnh Hỏa thì có thể chọn con sinh năm có bản mệnh Thổ là hợp tương sinh nhất.
Thông thường con khắc bố mẹ gọi là Tiểu Hung, bố mẹ khắc con là Đại Hung, nếu không tránh được Hung thì nên chọn Tiểu Hung sẽ đỡ xấu rất nhiều.
Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Thiên Can
Thiên Can (hay còn gọi là Can) là cách đánh số theo chu kỳ 10 năm (Thập Can) của người Trung Hoa cổ. Can cũng phối hợp được với Ngũ Hành và Âm Dương:
| Can | Năm | Hành | Âm – Dương |
| Giáp | Cuối cùng là 4 (94,04,14…) | Mộc | Dương |
| Ất | Cuối cùng là 5 (95,05,15…) | Mộc | Âm |
| Bính | Cuối cùng là 6 (96,06,16…) | Hỏa | Dương |
| Đinh | Cuối cùng là 7 (97,07,17…) | Hỏa | Âm |
| Mậu | Cuối cùng là 8 (98,08,18…) | Thổ | Dương |
| Kỷ | Cuối cùng là 9 (99,09,19…) | Thổ | Âm |
| Canh | Cuối cùng là 0 (00,10,20…) | Kim | Dương |
| Tân | Cuối cùng là 1 (01,11,21…) | Kim | Âm |
| Nhâm | Cuối cùng là 2 (02,12,22…) | Thủy | Dương |
| Quý | Cuối cùng là 3 (03,13,23…) | Thủy | Âm |
Trong Thiên Can có 4 cặp tương xung (xấu) và 5 cặp tương hóa (tốt), làm cơ sở để lựa chọn năm sinh phù hợp:
| 4 cặp tương xung (xấu) | 5 cặp tương hóa (tốt) |
|
|
Như vậy, năm sinh của con sẽ có thể dùng Thiên Can để so với bố mẹ dựa vào các cặp tương xung và tương hóa. Nếu Thiên Can của con và bố mẹ có tương hóa mà không có tương xung là tốt, ngược lại là không tốt. Ví dụ: Bố sinh năm 1979 (Kỷ Mùi), mẹ sinh 1981 (Tân Dậu), con sinh 2010 (Canh Dần) thì bố mẹ và con không có tương xung cũng như tương hóa và ở mức bình thường.
Chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ dựa theo Địa Chi
Địa Chi (hay còn gọi là Chi) là cách đánh số theo chu kỳ 12 năm (Thập Nhị Chi) và nói đơn giản là 12 con giáp cho các năm. Chi từng được dùng để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm, giờ ngày xưa và Chi gắn liền với văn hóa phương Đông.
Khi xem hợp – xung theo Chi, có các nguyên tắc cơ bản sau:
Tương hình:
– Tý chống Mão
– Dần, Tỵ, Thân chống nhau
– Sửu, Mùi, Tuất chống nhau
– Hai loại tự hình: Thìn chống Thìn, Ngọ chống Ngọ.
Lục xung:
– Tý xung Ngọ (+Thuỷ xung + Hoả)
– Dần xung Thân (+ Mộc xung + Kim)
– Mão xung Dậu (-Mộc xung -Kim)
– Thìn xung Tuất (+Thổ xung +Thổ)
– Tỵ xung Hợi (-Hoả xung -Thuỷ)
Tương hại:
– Tý hại Mùi
– Sửu hại Ngọ
– Dần hại Tỵ
– Mão hại Thìn
– Thân hại Hợi
– Dậu hại Tuất
Thông thường để đơn giản trong Tương Hình, Lục Xung, người ta thường ghép thành 3 bộ xung nhau gọi là Tứ Hành Xung:
Tuy nhiên cũng không hoàn toàn chính xác. Ví dụ: Dần và Hợi không xung, Mão và Ngọ không xung, Ngọ và Dậu không xung, Tí và Dậu không xung, Thìn và Mùi không xung, Thìn và Sửu không xung.
| Lục hợp | Tam hợp |
|
|
Như vậy, nếu dựa theo Địa Chi, việc chọn năm sinh, tuổi sinh cần chọn Lục Hợp, Tam Hợp và tránh Hình, Xung, Hại. Ví dụ: Bố tuổi Dần thì tránh con tuổi Thân, Tỵ, Hợi sẽ tránh được Xung của Địa Chi.
Nói tóm lại, lựa chọn năm sinh con để hợp tuổi bố mẹ có thể dựa vào Ngũ Hành, Thiên Can hoặc Địa Chi, cũng có thể dựa vào cả 3 yếu tố trên và lựa chọn phương án tốt nhất. Tuy nhiên, các yếu tố này cũng chỉ là một phần trong cuộc đời con người, cũng có nhiều trường hợp bố mẹ khó chọn được 1 dải năm để sinh con hợp tuổi do vậy không nên nhất thiết phải chọn năm để sinh, còn rất nhiều yếu tố khác như môi trường, xã hội, gia đình… hay kể cả về lý số cũng còn yếu tố Tử Vi để xem hung cát.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Ma quỷ trong Phật giáo là khái niệm rất khác so với quan điểm ma quỷ trong tâm linh dân gian. Vì thế, khi nhà Phật nhắc tới ma quỷ thì hãy hiểu sâu xa hơn, có tính triết lý hơn nhé. Ma quỷ trong tâm linh là một dạng năng lượng kì bí, ma quỷ có thể là vong linh người chết chưa siêu thoát hoặc những năng lượng xấu xa tích tụ, thường xuyên quấy nhiễu khiến con người hoảng sợ. Ma quỷ tượng trưng cho cái xấu và cái ác, có thể làm hại hoặc ám ảnh linh hồn. Ma quỷ trong Phật giáo cũng có một số nét tương đồng, là năng lượng xấu nhưng nhà Phật không cho rằng có ma thực sự mà đó là “quỷ sứ cám dỗ”. Ma quỷ không phải linh hồn mà nảy sinh trong chính mỗi con người, tượng trưng cho xu hướng tâm thần bấn loạn và sự lầm lẫn, u mê cản trở con đường tu tập của hành giả.
![]() |
![]() |
Cây thông là biểu tượng mạnh nhất của nội lực và lòng kiên định. Giữa mùa đông lạnh giá, cây thông không hề rụng lá, nó cho thấy một sức mạnh và khả năng chịu đựng dẻo dai. Củ thể cây thông phong thủy có ý nghĩa gì chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!
Nội dung

Cây thông còn là biểu tượng của sự trường thọ, rất được ưa chuộng và hay được vẽ nhất.
Hầu như tất cả tranh phong cảnh đều vẽ cây thông với những tảng đá và cây thủy tiên tượng trưng cho một cuộc sống thành đạt lâu bền; hoặc với cây tre và cây mận.
Ba loại cây này hợp lại tượng trưng cho ba người bạn trong mùa đông. Chúng tượng trưng cho tình bạn trong nghịch cảnh, bất chấp mọi khó khăn.
Cây thông cũng trở thành một hình tượng phổ biến trong thi ca. Khổng Tử thường dùng hình ảnh này để ngụ ý cho bản tính kiên định và khả năng đứng vững trong nghịch cảnh.
Cây thông được trân trọng nhất, vì vậy nếu bạn muốn trồng thông trong vườn, hãy đối xử trân trọng với chúng. Một cây thông tươi tốt cũng là biểu tượng hạnh phúc trong hôn nhân.
Bên trái là một bức họa phong cảnh với núi và nước – hai yếu tố quan trọng nhất trong phong thủy cảnh quan.
Nổi bật lên trong đó là cây thông, cành lá xanh tươi cho thấy đó là mùa hè. Bức họa này thể hiện ước mơ trường thọ và có nhiều tài lộc. Nước chảy vào phía trong, hướng về bạn theo hướng tốt nhất.
Thời gian: tổ chức vào ngày 27 tới ngày 29 tháng giêng âm lịch.
Địa điểm: xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Hùng Hải Vương - em thứ 19 của vua Hùng.
Nội dung: Tương truyền vào thời Hùng Vương dựng nước, Hùng Hải được anh là Vua Hùng cử đến cái quản vùng Tam Giang (nơi giáp 3 con sông: sông Đà, sông Hồng, sông Bứa) gồm địa phận Đào Xá, Hưng Hóa và Thọ Sơn. Hùng Hải lấy Trang Hoa đã lâu mà chưa có con. Ngày 28 tháng giêng năm ấy hai ông bà cùng đi thuyền du xuân từ Thọ Sơn sang Đào Xá dựng lều nghỉ ở đây một đêm sau về Trang Hoa thụ thai, tròn 1 năm sinh được ba người con trai là: Đạt Công Long Vương, Mãn Công Long Vương, Uyên Công Long Vương. Các con vừa cất tiếng khóc chào đời thì Trang Hoa hóa thân. Hùng Hải ở lại dạy dân trị thủy làm ăn và nuôi dạy các con khôn lớn rồi ông giao miền đất này cho 3 người con cai quản còn mình về trông nom vùng sông Nhị (địa phận tỉnh Hải Dương) ngày nay. Vua Hùng thấy ông là người có công lớn đã ban thưởng cho 2 thớt voi chiến làm phương tiện đi lại. Trước khi chia tay về sông Nhị, ông đã dẫn đôi voi về làm lệ tạ 3 lần. Cuộc tiễn đưa vua Hùng Hải ra đi đầy quyến luyến và cảm động.
Sau này nhân dân Đào Xá đã tôn ông làm thành hoàng của làng, lập đình thờ tại đây, hàng năm tổ chức tế lễ, mở hội rước voi truyền thống.
Lễ hội gồm 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ tiến hành rước voi, hương án, long báu, bài vị, hòm sắc và tế Thành Hoàng. Phần hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, cướp gà, lấy nước, dã gạo, kéo lửa, nấu cơm thi... Hình ảnh đôi voi rước trong ngày hội đã trở thành tâm điểm đi vào tiềm thức của mỗi người dân nơi đây, vì vậy mọi người vẫn quen gọi hội đình Đào Xá là hội rước voi Đào Xá. Để ngày hội voi mãi là ấn tượng đẹp đẽ của mọi người, hàng năm cứ đến thán 10 âm lịch các cụ cao niên trong xã lại tuyển người khéo tay đan lát ra đình đan voi, may áo, khâu bành, dựng lầu voi và cử 8 người đến 10 thanh niên khỏe mạnh có tầm vóc ngang nhau vào đội rước voi luyện tập.
Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Thổ
Loại: Tài Tinh, Quyền Tinh
Đặc Tính: Tài lộc, uy quyền
Tên gọi tắt thường gặp: Phủ
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ nhất trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Miếu địa (tốt nhất) ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.
Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất.
Đắc địa (tốt vừa)ở các cung Tỵ, Hợi, Mùi.
Bình hòa (bình thường)ở các cung Mão, Dậu, Sửu.
Thiên Phủ không có hãm địa.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Thiên Phủ thì thân hình đầy đặn, da trắng, vẻ mặt thanh tú, răng đều và đẹp. Riêng người nữ có Thiên Phủ ở cung Mệnh thì vẻ mặt tươi đẹp như hoa mới nở, người có cốt cách phương phi. Nếu Thiên Phủ gặp Tuần Triệt hay Không Kiếp thì cao và hơi gầy, da dẻ kém tươi nhuận.
Tính Tình
Thiên Phủ ở cung Mệnh thì tánh tình khoan hòa, nhân hậu, ưa việc thiện, biết suy tính và có nhiều mưu cơ để lo việc khó khăn.
Thiên Phủ rất kỵ Tuần, Triệt, Không, Kiếp nếu gặp các sao này thì tính tình bướng bỉnh, ương ngạnh, phóng túng thích phiêu lưu, du lịch, hay mưu tính những chuyện viễn vông và gian trá, hay đánh lừa, nói dối.
Tài Lộc Phúc Thọ
Thiên Phủ là tài tinh và quyền tinh, và là sao chính quan trọng bậc nhì, cho nên có nhiều ý nghĩa phú quý và thọ. Nhưng nếu bị Tuần Triệt, Không hay Kiếp xâm phạm thì hiệu lực kém sút nhiều: túng thiếu, bất đắc chí, tuổi thọ bị giảm, phá di sản lại hay bị tai họa. Nếu đi tu thì mới yên thân và thọ. Riêng phụ nữ thì phải lao tâm khổ trí, buồn bực vì chồng con. Dù sao, Thiên Phủ vẫn là sao giải trừ nhiều bệnh tật, tai họa.
Những Bộ Sao Tốt khi đi với sao Thiên Phủ:
Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung.
Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách: Hai cách này tốt toàn diện về mọi mặt công danh, tài lộc, phúc thọ.
Phủ, Tướng: Giàu có, hiển vinh.
Thiên Phủ, Vũ Khúc: Rất giàu có. Càng đi chung với sao tài như Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng thịnh về tiền bạc.
Những Bộ Sao Xấu khi đi với sao Thiên Phủ:
Sao Thiên Phủ rất kỵ các sao Không Kiếp, Tuần, Triệt, Kình, Đà, Linh, Hỏa.
Nếu gặp các sao này thì uy quyền, tài lộc bị chiết giảm đáng kể. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Thiên Phủ chế được hung tinh của sát tinh như Kình, Đà, Linh hay Hỏa. Nhưng, nếu Thiên Phủ gặp đủ cả bốn sao, Thiên Phủ không chế nổi, mà còn bị chúng phối hợp tác họa mạnh mẽ.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Thiên Phủ tại Tỵ, Hợi, thì cha mẹ khá giả, có danh chức. Ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu, thì hai thân phú quý song toàn nhưng sớm xa cách một trong hai thân. Đồng cung với Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh thì cha mẹ giàu có, hoặc có danh tiếng, chức quyền.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Phúc Đức
Đồng cung với Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh và riêng ở Tỵ Hợi thì tốt phúc, họ hàng hiển vinh. Ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu thì kém hơn phải lập nghiệp xa nhà. Họ hàng giàu nhưng ly tán.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Điền Trạch
Sao Thiên Phủ tại Dần, Thân: Có nhiều nhà đất, được thừa hưởng của cha mẹ, người thân, dễ có nhà đất, đi đâu cũng có nơi ăn chốn ở ổn định, có quý nhân giúp đỡ về nhà đất.
Sao Thiên Phủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: Có nhà đất bình thường, đi đâu cũng có nơi ăn chốn ở.
Tử Vi đồng cung: Có nhiều nhà đất, được thừa hưởng của cha mẹ, người thân, dễ có nhà đất, đi đâu cũng có nơi ăn chốn ở ổn định, có quý nhân giúp đỡ về nhà đất.
Liêm Trinh đồng cung: Được hưởng nhà đất, hoặc tạo dựng bình thường.
Vũ Khúc đồng cung: Giữ gìn được tổ nghiệp, nếu không được hưởng điền sản, thì cũng thừa hưởng được nghề nghiệp của cha mẹ, dòng họ. Về sau càng làm nên sự nghiệp nhà đất.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Quan Lộc
Đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh thì công danh dễ dàng, có tiếng tăm, giàu có.
Vũ Khúc đồng cung: đường công danh dễ gặp sự toại nguyện, tài hoa, hoặc buôn bán, kinh doanh, làm công kỹ nghệ, pha chế, chế biến cũng phát tài. Ngoài ra còn thích hợp ngành nghề tài chánh, ngân hàng, ngân khố, sổ xố, thủ kho.
Sao Thiên Phủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu thì rất hạp việc kinh doanh mua bán, mở cơ xưởng. Đi vào quan chức tuy cũng tốt, nhưng cũng chỉ được tốt trong một thời gian ngắn.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Nô Bộc
Sao Thiên Phủ là sao lành, nên đóng tại Cung Nô Bộc thường gặp bè bạn, người giúp việc hiền lành, tận tâm.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Tật Ách
Thiên Phủ là sao giải rất mạnh, giúp né tránh hay giảm được nhiều tai họa, bệnh tật.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Tài Bạch
Sao Thiên Phủ tại Tỵ, Hợi: Giàu có, giữ của bền vững.
Sao Thiên Phủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: Khá giả, đôi khi có lộc bất ngờ.
Tử Vi đồng cung: Rất giàu có, hoặc dễ kiếm tiền. Thường gặp quý nhân giúp đỡ về tiền bạc hay cơ sở làm ăn.
Liêm Trinh đồng cung: Giàu có, giữ của bền vững.
Vũ Khúc đồng cung: Rất giàu có, kiếm tiền nhanh chóng, giữ của bền vững.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Phu Thê
Sao Thiên Phủ ở Tỵ, Hợi, hoặc đồng cung với Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh thì vợ chồng giàu có, hòa thuận, ăn ở lâu dài với nhau. Trường hợp Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu thì vợ chồng sung túc nhưng hay bất hòa.
Ý Nghĩa Thiên Phủ Ở Cung Tử Tức
Sao Thiên Phủ là sao tốt lành, nên đóng trong cung Tử Tức thì dễ có con, con cái làm nên sự nghiệp, hiền lành.
Nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc, hoặc Thiên Khôi, Thiên Việt, thì con cái thông minh, học giỏi, nhân hậu.
Nếu có Trường Sinh, Đế Vượng, Tả Phù, Hữu Bật thì số đông con, hoặc có nhiều người giúp việc, hoặc làm những ngành nghề có liên quan đến trẻ con, nhi đồng, bảo dưỡng.
Sao Thiên Phủ Khi Vào Các Hạn
Chỉ tốt nếu không gặp Tam Không. Nếu gặp Tam Không thì bị phá sản, hao tằi, mắc lừa, đau yếu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Tháng 7 âm lịch không chỉ có lễ tình nhân phương Đông, có lễ Vu Lan báo hiếu mà còn là tháng cô hồn mở cửa địa ngục, ma quỷ tới chốn dương gian tìm về nơi chốn cũ khi còn sống. Tháng cô hồn là tháng tâm linh, ma quỷ quay về trần gian, nhất là những linh hồn còn vất vưởng, còn lưu luyến nơi cõi sống. Chính vì vậy mà trong tháng này người Việt có truyền thống cúng xá tội vong nhân, ban phát thí thực cho những linh hồn không nơi nương tựa đồng thời tuân thủ những điều kiêng cữ để đón lành tránh dữ. Tháng cô hồn kiêng gì? Tháng này có khá nhiều điều kị nhưng quan trọng nhất là 10 điểm sau: 1. Kiêng cưới hỏi, xây sửa nhà cửa vì người Việt cho rằng tháng này nhiều âm khí, không may mắn tốt lành. Cưới xin thì hôn nhân không hạnh phúc, xây nhà thì gia trạch không yên ổn nên tuyệt đối không tiến hành, kể cả là những việc có liên quan tới hai việc lớn kể trên.
![]() |
![]() |
![]() |
Ký hiệu
Hào -x-: là hào lão âm, vì cực nên mới biến mà thành hào âm động có biệt số là 6, trong kinh dịch gọi hào âm động là Sơ lục, lục nhị, lục tam, ...., hoặc thượng lục.
Hào -o-: là hào lão dương, vì cực nên mới biến mà thành hào dương động có biệt số là 9, trong kinh dịch gọi hào dương động này là Sơ cửu, cửu nhị, cửu tam,..., hoặc thượng cửu.
Hào
: là hào thiếu dương chưa cực nên không biến, có biệt số là 7, trong kinh dịch thì không bàn đến các hào dương tĩnh.
Hào
: là hào thiếu âm chưa cực nên không biến, có biệt số là 8, trong kinh dịch cũng không bàn đến các hào âm tĩnh.
A) Phương Pháp Dùng 3 Đồng Tiền
Theo cách lấy quẻ bằng 3 đồng tiền thì người lấy quẻ thẩy 3 đồng tiền, sau đó tùy theo kết quả có bao nhiêu mặt ngửa hoặc mặt úp để định quẻ. Đặt mặt ngửa, hay đầu là H, trị số là 3, mặt úp, hay đuôi là T, trị số là 2.
Khi ta thẩy ba đồng tiền lên thì ta có một trong các kết quả sau đây:
H: đầu (head); T: đuôi (tail)
H + H + H = 3 + 3 + 3 = 9 => -o-, 9 là lão dương tức là hào dương động
H + H + T = 3 + 3 + 2 = 8 => - -, 8 là thiếu âm
H + T + H = 3 + 2 + 3 = 8 => - -
H + T + T = 3 + 2 + 2 = 7 => ---, 7 là hào thiếu dương, không động
T + H + H = 2 + 3 + 3 = 8 => - -,
T + H + T = 2 + 3 + 2 = 7 => ---,
T + T + H = 2 + 2 + 3 = 7 => ---,
T + T + T = 2 + 2 + 2 = 6 => -x-, 6 là hào lão âm tức là hào âm động
Đó là tất cả các trường hợp có thể xảy ra khi ta gieo 3 đồng tiền. Tất cả có 8 cách, trong đó
Hào -x-, xảy ra 1 lần trong 8 kết quả nên có xác suất là 1/8 hay 2/16 vậy
Hào ---, xảy ra 3 lần trong 8 kết quả nên có xác suất là 3/8 hay 6/16 vậy
Hào - -, xảy ra 3 lần trong 8 kết quả nên có xác suất là 3/8 hay 6/16 vậy
Hào -o-, xảy ra 1 lần trong 8 kết quả nên có xác suất là 1/8 hay 2/16 vậy
Ta dùng 2/16 mà không dùng 1/8 là vì muốn so sánh xác suất của các hào giữa hai phương pháp gieo đồng tiền và phương pháp cỏ thi.
B) Phương Pháp dùng Cỏ Thi
Có 50 cọng cỏ, để ra 1 cọng, còn lại là 49 cọng
1) Lần thứ nhất (49 cọng)
Chia làm 2 nhóm, A và B, lấy 1 cọng từ nhóm B kẹp vào tay trái, A và B tổng cộng còn lại là 48 cọng.
Sau đó trong nhóm A, mỗi lần lấy 4 cọng, tiếp tục khi nào còn lại 4 cọng hoặc ít hơn. Kẹp những cọng còn thừa này vào trong các ngón tay trái.
Trong nhóm B, cũng lấy đi 4 cọng mỗi lần cho tới khi nào còn lại 4 hoặc là ít hơn. Kẹp những cọng còn thừa lại này vào trong các ngón tay trái.
Xác suất của lần thứ nhất như sau:
Số cọng cỏ kẹp trong tay trái sẽ là
1 + 1 + 3 = 5
1 + 2 + 2 = 5
1 + 3 + 1 = 5
1 + 4 + 4 = 9
Cho nên xác suất của 5, P(5) = 3 / 4, xác suất của 9, P(9) = 1 / 4.
2) Lần thứ nhì (còn lại 44, hoặc 40 cọng)
Chia làm 2 nhóm, A và B, lấy 1 cọng từ nhóm B kẹp vào tay trái, A và B tổng cộng còn lại là 43 hoặc 39 cọng.
Sau đó trong nhóm A, mỗi lần lấy 4 cọng, tiếp tục khi nào còn lại 4 cọng hoặc ít hơn. Cũng như lần 1, kẹp các cọng thừa này vào các ngón tay trái.
Trong nhóm B, mỗi lần cũng lấy 4 cọng cho đến khi nào còn thừa lại 4 hoặc ít hơn. Kẹp mấy cọng thừa này vào trong các ngón tay trái.
Xác suất của lần thứ hai như sau:
Số cọng cỏ kẹp trong tay trái sẽ là
1 + 1 + 2 = 4
1 + 2 + 1 = 4
1 + 3 + 4 = 8
1 + 4 + 3 = 8
Cho nên xác suất của 4, P(4) = 1 / 2, xác suất của 8, P(8) = 1 / 2
3) Lần thứ ba (còn lại 40, 36, hoặc 32 cọng)
Lập lại y như lần thứ hai.
Xác suất của lần thứ ba như sau:
Số cọng cỏ kẹp trong tay trái sẽ là
1 + 1 + 2 = 4
1 + 2 + 1 = 4
1 + 3 + 4 = 8
1 + 4 + 3 = 8
Cho nên các sác xuất giống như lần thứ hai. P(4) = 1 / 2, P(8) = 1 / 2
Sau 3 lần như thế ta có thể có những trường hợp như sau:
5 và 4 có trị số là 3, 9 và 8 có trị số là 2
5, 4, 4 = 3 + 3 + 3 = 9, P(5,4,4) = P(5) * P(4) * P(4) = 3/4 * 1/2 * 1/2 = 3/16
5, 4, 8 = 3 + 3 + 2 = 8, P(5,4,8) = P(5) * P(4) * P(8) = 3/4 * 1/2 * 1/2 = 3/16
5, 8, 4 = 3 + 2 + 3 = 8, P(5,8,4) = P(5) * P(8) * P(4) = 3/4 * 1/2 * 1/2 = 3/16
5, 8, 8 = 3 + 2 + 2 = 7, P(5,8,8) = P(5) * P(8) * P(8) = 3/4 * 1/2 * 1/2 = 3/16
9, 4, 4 = 2 + 3 + 3 = 8, P(9,4,4) = P(9) * P(4) * P(4) = 1/4 * 1/2 * 1/2 = 1/16
9, 4, 8 = 2 + 3 + 2 = 7, P(9,4,8) = P(9) * P(4) * P(8) = 1/4 * 1/2 * 1/2 = 1/16
9, 8, 4 = 2 + 2 + 3 = 7, P(9,8,4) = P(9) * P(8) * P(4) = 1/4 * 1/2 * 1/2 = 1/16
9, 8, 8 = 2 + 2 + 2 = 6, P(9,8,8) = P(9) * P(9) * P(9) = 1/4 * 1/2 * 1/2 = 1/16
Tóm lại, theo phương pháp Cỏ Thi, xác suất của các hào như sau
Hào 9, -o-, P(9) = P(5,4,4) = 3/16
Hào 8, - -, P(8) = P(5,4,8)+P(5,8,4)+P(9,4,4) = 3/16 + 3/16 + 1/16 = 7/16
Hào 7, ---, P(7) = P(5,8,8)+P(9,4,8)+P(9,8,4) = 3/16 + 1/16 + 1/16 = 5/16
Hào 6, -x-, P(6) = P(9,8,8) = 1/16
Sau đây là bản xác suất của các hào trong của 2 phương pháp, Đồng Tiền và Cỏ Thi
...............3 Đồng Tiền.........Cỏ Thi
6 -x- : .........2/16,.................1/16
7 --- : .........6/16,.................5/16
8 - - : .........6/16,.................7/16
9 -o- : .........2/16,.................3/16
C) Phương Pháp Dùng Bài Cào
Theo bản xác suất trên, nếu bạn muốn có xác suất giống như phương pháp cỏ thi bằng cách dùng bộ bài cào, thì theo cách sau đây:
Cơ đỏ = 7 --- : là hào dương tỉnh, là Hỏa, lấy 5 lá
Rô đỏ = 9 -o- : là hào dương biến, là Kim, lấy 3 lá
Chuồn đen = 8 - - : là hào âm tỉnh, là Mộc, lấy 7 lá
Bích đen = 6 -x- : là hào âm biến, là Thủy, lấy 1 lá
Đỏ là dương, Cơ thiếu dương nên không biến, Rô là lão dương vì cực mà động rồi biến.
Đen là âm, Chuồn là thiếu âm nên không biến, Bích là lão âm vì cực mà động rồi biến.
Tóm lại là 5 lá cơ, 3 lá rô, 7 lá chuồn, và 1 lá bích, tổng cộng là 16 lá. Xào bày (16 lá) sau đó rút 1 lá, được cơ thì là thiếu dương ---, được rô là lão dương -o-, được chuồn là thiếu âm - -, được bích là lão âm -x-. Đây là hào sơ. Sau đó bỏ lá bài lại, xào đều rồi rút tiếp hào 2, hào 3, hào 4, hào 5, và hào 6. Như vậy là đã có một quẻ trùng. Phương pháp này độ xác suất giống y như cách bói cỏ thi nhé, và có thể có cả 6 hào đều động.
Xác suất của hào theo phương pháp Bài Cào như sau:
Cơ, 7: --- : 5/16
Rô, 9: -o- : 3/16
Chuồn, 8: - - : 7/16
Bích, 6: -x- : 1/16
So sánh xác suất của các hào theo 3 phương pháp Đồng Tiền, Cỏ Thi và Bài Cào
...............3 Đồng Tiền..........Cỏ Thi............Bài Cào
6 -x- : .........2/16,.................1/16,.............Bích:.......1/16
7 --- : .........6/16,.................5/16,.............Cơ:..........5/16
8 - - : .........6/16,.................7/16,..............Chuồn:....7/16
9 -o- : .........2/16,.................3/16,..............Rô:..........3/16
Phương pháp lấy quẻ Dịch dùng bài cào có các xác suất của hào giống y như của phép lấy bằng cỏ thi.
Khi xem tướng cho người khác trước tiên nên xem họ thuộc vào loại nào trong Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Trần Đồ Nam chỉ ra rằng:
Hình tướng người hình Kim nên vuông ngay ngắn, khí sắc trắng tinh khiết, da thịt không quá đầy đặn nhưng xương cốt không được mỏng bạc.
Hình tướng của người hình Mộc xương cốt rắn chắc, nếu khí sắc có sắc xanh, người đó thông minh tuấn tú hơn người.
Hình tướng người hình Thủy nên tròn bóng đầy đặn, khí sắc là sắc đen. Nếu bụng xệ xuống, lưng gồ cao, người này có khí phách.
Hình tướng người hình Hỏa trong sự đầy đặn có chút vuông nhọn, khí sắc màu đỏ là tốt lành. Nếu người này có tướng xương lộ rõ, khí sắc tiểu tụy, vận thế sẽ không tốt.
Hình tướng người hình Thổ nên đôn hậu, khí sắc có mang sắc vàng, mông lưng lộ rõ, tính cách điềm tĩnh.
Lã Thượng chỉ ra rằng: Mộc gầy Kim vuông là bình thường, Thủy tròn Thổ dày nào phải sửa sang.
Lân phượng ký chép: Trong hình tướng có tình trạng tương khắc của Ngũ hành chủ người có vận mệnh khó khăn, cả đời gặp nhiều tai nạn.
Mật quyết chỉ ra rằng:
Sự tương khắc trong hình tướng Ngũ hành chủ về hung họa. Ví như:
Hình tướng người hình Kim lại mang hình tướng người hình Mộc, chủ về người này từ sớm cầu danh lợi nhưng thường gặp chuyện không may, tuy nhiên sau đó sẽ giành được thành công lớn.
Người hình Mộc mà mang hình tướng của người hình Kim, chủ về cả đời gặp tai ương, tựa như dùng đao búa chặt cây vậy, mọi việc đều không thuận lợi, cha mẹ sớm gặp phải họa hình thương, vận số của vợ và con cũng không tốt.
Người hình Thủy mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thổ, chủ về gia nghiệp bị phá bại, nhiều năm liên tiếp gặp tai họa, cả đời khổ cực, cuộc sống khó khăn.
Người hình Hỏa mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thủy là tướng hung họa, chủ người khắc hại con của mình, gia nghiệp tàn lụi, đến cuối đời trắng tay.
Người hình Thổ mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Mộc, chủ người này làm việc khó được thành công, nếu không mất sớm cũng sẽ gặp cảnh ngộ lẻ loi cô đơn, rất bi thảm.
Sự tương sinh trong hình tướng Ngũ hành chủ về cát lợi. Ví như:
Người hình Kim mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thổ là hình tướng rất đáng quý, như hạt trân châu, chủ người lập mọi kế hoạch đều có thể được thành công.
Người hình Mộc mang đặc trưng hình tướng của người hình Thủy chủ rất phú quý, trên lĩnh vực văn chương có tiếng tăm, tựa như tìm được vật quý giá trong nơi bình dị, rạng rỡ ngay trước mắt.
Người hình Thủy mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Kim, chủ về danh lợi song toàn, tri thức uyên bác, hành vi cử chỉ đoan chính, có trí tuệ, thông đạt, cương nghị.
Người hình Hỏa mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Mộc, chủ người thăng tiến rất nhanh, khi 30 tuổi đã có thể làm quan đến chức khanh tướng, công danh nổi vang thiên hạ.
Người hình Thổ mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Hỏa, tựa như đèn tiếp thêm dầu, càng ngày càng trở nên thịnh vượng.
“Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”
Cái tên Chùa Dâu – ngôi chùa cổ nhất Việt Nam đã ngày càng trở nên quen thuộc với người dân Bắc Ninh nói riêng người dân cả nước nói chung. Chùa Dâu nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km. Được trụ trì bởi Sư bà Thích Đàm Tùy
Chùa Dâu được coi là một ngôi chùa rất thiêng nên còn được gọi là chùa Diên Ứng (diên là câu, ứng là hiệu, tức cầu gì được nấy). Chùa còn có nhiều tên gọi khác là Pháp Vân, Chùa Cả hay Cổ Châu. Chùa tọa lạc ngay trung tâm của khu di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu và phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bắc. Theo lịch sử ghi chép và bia đá trong chùa thì đây là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, là nơi giao lưu của hai văn hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226. Chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Năm 1913, chùa được xây dựng lại và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông đã sai Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Trải qua bao thăng trầm và chiến tranh tàn phá nhưng chùa Dâu với tháp gạch cao sừng sững, với tòa ngang, dãy dọc nguy nga, cổ kính vẫn còn đó.
Đạo Phật đến chùa Dâu sớm nhất, người xứ Bắc đã chọn lọc và sáng tạo ra dòng thiền độc đáo Việt Nam mà người xưa quen gọi là hệ thống Tứ pháp. Đặc trưng của dòng thiền này là người phụ nữ được đề cao. Tượng Phật Việt Nam là trung tâm của chùa Dâu – niềm tự hào chính đáng của người Đại Việt. Tượng Pháp Vân được đặt ở chính điện, thể hiện lòng tự cường dân tộc và tôn vinh những phụ nữ tài năng đức độ.
Chùa gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), là biểu hiện sinh động sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập.
Chùa Dâu ngày nay là đặc trưng nét kiến trúc của thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Cũng giống như nhiều ngôi chùa cổ Việt Nam, chùa được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhất bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi.
Thượng Điện để tượng bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp vũ), hai bên tượng bà Dâu là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ với khuôn mặt sống động trong tư thế của một điệu múa cổ xưa, phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá hủy, nên tượng bà Đậu (Pháp Vũ) được đưa về thờ ở chùa Dâu. Ngoài ra, trong chùa còn có rất nhiều pho tượng như: tượng tổ sư Tỳ – ni – đa – lưu – chi, 18 vị La Hán,…
Chính giữa sân chùa trước bái đường, có ngôi tháp Hòa Phong, xây bằng gạch trần cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành, cao chín tầng, nay chỉ còn ba tầng, cao khoảng 17m. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương – 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời- cao 1,6 m ở bốn góc.
Bên phải tháp có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Truyền sử kể rằng: vào thời Luy Lâu còn là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo Phật. Ông dắt theo 2 con cừu. Một hôm sơ ý để 2 con đi lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc đến Lăng Sĩ Nhiếp (thái thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu bằng đá ở nơi chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay chùa Dâu có 1 con, Lăng Sĩ Nhiếp (cách đó 3 km) có 1 con.
Hàng năm, vào ngày 8-4 âm lịch được coi là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, nhân dân trong vùng lại nô nức, tưng bừng mở hội chùa Dâu. Đây là một lễ hội lớn, nổi tiếng là điểm đến của Phật tử cũng như du khách trong ngoài nước
Du khách đến với chùa Dâu như về với cội nguồn của đạo Phật nước Nam, để cầu nguyện một sự bình yên trong tâm hồn như cái tên bình dị, mộc mạc của ngôi chùa cổ trên đất Bắc Ninh.