Tướng người có bàn chân nhỏ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Ảnh minh họa |
Câu hỏi: Bạn cảm thấy nơi nào dưới đây có thể giúp tình yêu của bạn tiến triển thuận lợi?
A. Trung tâm thương mại
B. Vườn bách thú
C. Rạp chiếu phim
D. Quán cà phê
A. Chia tay không có gì đáng sợ
Bạn biết chuyện tình yêu không thể miễn cưỡng, nếu duyên phận hai người đã hết, bạn cũng có thể thoải mái “bye bye” người ta và chúc họ hạnh phúc. Với bạn, mỗi lần yêu là một lần trải nghiệm để hiểu và học cách yêu. Bạn có suy nghĩ tích cực và sáng suốt về tình yêu mà không phải ai cũng có.
B. Bị tổn thương nặng nề
Bạn rất dễ bị tình yêu làm tổn thương sâu sắc, bởi bạn là người rất trọng tình cảm, luôn dành toàn bộ tâm tư tình cảm cho đối phương. Nếu thất tình, bạn sẽ lập tức lạc mất phương hướng, không biết phải làm sao. Bạn không chỉ đau khổ vì tình mà còn tự nhốt mình trong phòng, cần thời gian rất dài để hàn gắn vết thương lòng.
C. Chia tay là chuyện nhỏ
Bạn không coi thất tình là chuyện gì quá nghiêm trọng. Với bạn, tình yêu như một trò chơi, mất cái này thì còn cái kia, người cũ đi sẽ có người mới tới. Bạn có thể nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, chuyển hướng đến đối tượng khác một cách dứt khoát.
D. Nhớ mãi không quên tình cũ
Bạn rất tôn trọng ý kiến của đối phương, nếu tình yêu đi đến hồi kết, bạn sẽ chấp nhận chia tay trong hòa bình. Tuy nhiên, trong lòng bạn lại tràn đầy tiếc nuối, không lúc nào nguôi nhớ đến những hồi ức về người cũ. Dù đã qua một quãng thời gian, cuộc sống dần trở lại bình thường, nhưng trong sâu thẳm trái tim bạn vẫn hy vọng có cơ hội nối lại tình xưa.
Nhiều gia đình người Việt Nam lập bàn thờ thần linh và bàn thờ gia tiên trong nhà. Họ cho rằng vị trí đặt bàn thờ gia tiên thuận lợi nhất là tại đại sảnh đốì diện trực tiếp với cửa chính sao cho mỗi khi bước vào nhà đều nhìn thấy bàn thờ. Tuy nhiên, để phù hợp với phong thủy, bàn thờ gia tiên nên đặt ở hướng Tây Bắc của ngôi nhà hoặc của căn phòng. Bởi vì, đây là hướng tượng trưng cho trời.
Bàn thờ gia tiên phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp nhang. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bàn thờ hướng trực tiếp ra cửa chính. Tượng thần thánh hoặc vật thể thiêng liêng phải đặt trên bàn kệ cao. Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương. Điều này có tác dụng tốt hơn treo đèn chùm trong đại sảnh.
Khi bài trí bàn thờ thần linh cần lưu ý những điều sau:
Người xưa và nay vẫn quan niệm rằng, khi con người chết là chỉ mất đi phần xác, vong hồn của họ vẫn tồn tại, vẫn có thể viếng thăm, phù hộ người thân, cho dù người sống không nhìn thấy. Cũng vì vậy, việc thờ cúng ông bà là tập tục có từ cổ xưa.
Nhiều người khi được hỏi về đức tin tâm linh vẫn nói là mình theo đạo thờ ông bà. Đức tin ấy được cụ thể hóa bằng bàn thờ tổ tiên trong mỗi ngôi nhà, không phân biệt giàu nghèo hay địa vị xã hội.
Dù có sự khác nhau đôi chút về hình thức, nhưng ỏ đâu, bàn thờ cũng đều được đặt ở khu vực trung tâm, nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình.
Bàn thờ thần linh thường là một giá gỗ được gắn ở bức tường trung tâm của ngôi nhà chính, ở tầm cao trên tay với của người lớn, mỗi lần hương khói người ta phải đặt ghế để đứng lên trong tư thế thành kính. Ở một số vùng vị trí ấy là chiếc tủ thờ bằng gỗ, cao gần tầm đầu người lớn, được chế tác công phu.
Ở những nhà khá giả, tủ thờ được làm bằng gỗ quý, chạm khắc tinh xảo, ở những gia đình bình dân, chiếc tủ thờ vẫn là vật đẹp nhất trong nhà, thể hiện lòng thành kính, hiếu thảo của người đang sống với tổ tiên.
EQ là một bộ những kỹ năng bao gồm: Biết mình; tính lạc quan; khả năng lựa chọn cách phản hồi cảm xúc phù hợp nhất; sự cảm thông với mọi người.
- Người có đường Trí Đạo ngắn thì trí tuệ xúc cảm không cao lắm. Trong tình yêu họ thích sự yên ổn, cho rằng một mối tình yên ổn mới là thực tế.
- Cuối đường Trí Đạo bị phân nhánh, nếu phân nhánh ngắn thì EQ rất thấp; nếu phân nhánh lớn, có thể coi như hai đường Trí Đạo thì người này có EQ khá cao.
- Người có Đường Trí Đạo sâu dài và rõ ràng, trong phương diện tình cảm biết nắm bắt cơ hội, nỗ lực đạt được danh tiếng và của cải nhờ vào trí thông minh của mình, nhưng nói chung trong tình yêu cũng dễ gặp khó khăn.
- Đường Trí Đạo uốn éo chứng tỏ suy nghĩ tình cảm phức tạp, sống thiếu nguyên tắc và khá vô tổ chức, nên hay ưu sầu buồn bã.
- Có hai đường Trí Đạo, là người "hai mặt", nhưng tính tình khá ôn hòa.
- Người có đường Trí Đạo quá dài, trong suy nghĩ và hành động luôn xem bản thân là trung tâm, do quá tự tin nên khó có thể đối mặt với thất bại.
- Đầu đường Sinh Đạo cách xa đường Trí Đạo, tính tình kiêu ngạo, không biết kiểm soát cảm xúc của mình, EQ không cao.
- Đường Trí đạo mở rộng đế tận gò Thủy Tinh, là người tính tình kiên cường, không sợ khó khăn. Đồng thời EQ khá cao, giỏi giao tiếp, chuyện tình yêu cũng nhờ vậy mà thuận lợi.
- Sinh Đạo và Trí Đạo xuất phát cùng một điểm, thích làm việc theo kế hoạch, cẩn thận tỉ mỉ, nhưng là người dễ kích động, chuyện bé xé ra to, cho nên khó phát huy được tài năng của mình.
- Đường Trí Đạo gần với đường Sinh Đạo, sau đó cắt đường Sinh Đạo, kéo dài đến tận cổ tay, người này tính tình ích kỷ, yếu đuối, không làm được việc.
- Trên nhánh của đường Trí Đạo có đường gạch chéo, EQ cao, sắc bén, sáng suốt, phù hợp làm kinh doanh, trong tình yêu có thể khiến đối phương yêu mình sâu đậm.
Xem tiếp
Kunie
Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống. |
Người ta thường cho rằng Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bay, tàu hỏa…Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã là tính năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…Vởi những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các cung chính như Quan Lộc, Thiên Di…là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp. Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ “dịch” là xê dịch, chuyển đổi, di chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và Thủy…v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị mai một như một kẻ sinh bất phùng thời.
Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh, thương mại…Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh và có Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai lĩnh vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác tương tự như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê. Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu đường .v.v…
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và những thành qủa tốt đẹp của mình. Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình. Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn, mình làm thì khó khăn, trở ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao một công việc cần có kết qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người có số Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến mạo hiểm của người có trách nhiệm.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Thiên Mã là một trong những lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa l2 vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch” khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.
Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch v.v…Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không thay đổi việc làm, đi xa v.v… Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một lúc. Những gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc vào những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm việc khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này mới là Mã của mình. Ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà thôi.
Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người hoàn toàn khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở lên, người Dịch Mã là người đa tài. Họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự đổi thay và những chuyến hành trình như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ. Về khía cạnh này, cá tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người Thân Cư Thiên Di mà chúng ta đã đề cập trước đây.
Phong thủy là một kho tàng tri thức biến ảo thần kỳ được sàng lọc những gì mê tín dị đoan, đem lại sự hiểu biết chân chính về quy luật của vũ trụ…
Những gì cho đến ngày nay khoa học chưa chứng minh được thì có thể tạm gọi là huyền bí. Nhưng thực ra tất cả những điều đó thuộc về tâm linh của chúng ta.Con người vì hướng ngoại quá nhiều nên đã bị lãng quên khả năng nội lực tiềm tàng bên trong. Thật nghịch lý khi chúng ta tạo ra được radio, tivi, điện thoại di động…mà bỏ quên tâm linh của chúng ta. Tại sao ta không là một cái radio hay là một cái tivi hoặc là điện thoại di động? Tâm linh chúng ta hoàn toàn có khả năng nhận biết mọi luồng từ trường, mọi luồng sóng điện năng không thua kém gì một thiết bị điện tử nào.
Nếu bên ngoài chúng ta tạo ra được thì bên trong cũng tạo ra được. Phải chăng theo đà tiến triển của xã hội, con người ngày càng vật lộn với cuộc sống nên ít chịu dành ra một chút thời gian để lo lắng cho phần tâm linh của chúng ta. Vậy huyền bí cũng do nơi không thấu đáo thực tướng của vạn vật.
Kiến thức phong thủy là một kho tàng tri thức biến ảo thần kỳ đã được sàng lọc cẩn thận để có thể loại bỏ những gì được coi là thuộc về mê tín dị đoan hầu đem lại sự hiểu biết chân chính và cùng tột những quy luật tuần hoàn trong vũ trụ nhằm nâng cao hơn nữa đời sống con người…. Con người đã biết chọn đất xây nhà tại vùng bình nguyên, đây là vùng đất mầu mỡ, có thể canh tác nông nghiệp thuận lợi. Gần nguồn nước mà vẫn tránh được lụt lội, tai hoạ thời tiết, thiên tai.
Ta lịch sử phát triển của các triều đại, đời nào cũng có những học giả kế tục và phát triển thuật phong thủy.
Trong lịch sử phát triển, thuật phong thủy hình thành nên nhiều trường phái khác nhau, mỗi trường phái có phương pháp lý luận và ứng dụng riêng, dựa trên những suy luận khác biệt nhau, thậm chí có khi đối lập nhau. Cho đến nay, phong thủy vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, vẫn còn mang nhiều sự huyền bí
Ngày nay dù ở Phương Tây hay ở Phương Đông khi xây dựng nhà ở đều phải chọn những vị trí hợp với môi trường địa lý xung quanh địa bàn, dù theo một lối kiến trúc nào thì cũng phải căn cứ vào địa thế xung quanh để tạo dựng một kiến trúc đẹp về thẩm mỹ, lợi về sinh hoạt. Phong thủy dù còn vẻ huyền bí nhưng rất thực tế và gần gũi với đời sống con người.
Quan niệm phong thủy của ngườ Việt
Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Nên những việc như xem ngày cưới hỏi, ngày tốt ngày xấu, việc xem tuổi làm nhà, xem hướng nhà hợp với gia chủ… đã thành thói quen ăn sâu vào tiềm thức đa phần người dân. Điều các “thầy” phán chưa biết có đúng hay không nhưng điều quan trọng là xem để người ta cảm thấy yên tâm ngay lúc đó. Đúng là như vậy, bởi làm việc gì mà tinh thần thoải mái thì mọi việc sẽ ắt sẽ hanh thông, thuận lợi. Giả dụ sau này nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra thì cũng không phải ân hận, say dứt bởi vì đã không nghe theo thầy phong thủy.
Phong thủy, cưới hỏi, xem ngày, tử vi, bói.
Ở Việt Nam có nhiều gia đình và nhiều người mê xem xét, bói toán nên có rất nhiều sách về phong thủy, tử vi, ngũ hành, tướng số… Mỗi khi làm việc gì bác cũng đều phải “nói có sách, mách có chứng” như việc đi đâu, có việc gì quan trọng phải xem ngày giờ tốt, tránh ngày xấu sẽ làm hỏng mọi chuyện, kiêng làm các việc đại sự trong tháng 7 âm lịch…
Cũng có nhiều người của thế hệ mới không tin vào các chuyện thờ cúng, bói toán nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi một số điều kiêng kị như không lấy vợ, làm nhà, mua xe trong tháng cô hồn. Ngày rằm mùng 1 tôi không ăn mực, thịt chó vì sợ đen.
Tuy nhiên cũng không phải tin mù quáng mà cần phải chọn lọc những điều có cơ sở khoa học, hoặc theo quan niệm dân gian truyền lại chứ không phải bất cứ điều gì cũng tin và làm theo. Những điều thầy phán chưa chắc đã đúng mà còn cần phải tham khảo thêm ý kiến của người thân, bạn bè, và những nghiên cứu khoa học.
Còn ở đời đúng như bạn nói, có luật nhân quả, bạn gieo nhân nào thì gặt quả ấy, chỉ có tu nhân tích đức thì tâm hồn mới được thanh tịnh, đầu óc sáng suốt, minh mẫn thì mọi việc sẽ trôi chảy, dễ dàng giải quyết được mọi chuyện.
Chúc bạn may mắn và thành công!
Nhiều người quan niệm, nhà có hướng Tuyệt mạng, Ngũ quỷ hay Họa hại, Lục sát đều không tốt cho gia chủ, thậm chí có thể mang lại tai họa, chết chóc. Những lý giải khoa học của các chuyên gia phong thủy sẽ giúp bạn hiểu và “hóa giải” các yếu tố này.
Xét về lý thuyết, các khái niệm này thuộc trường phái Phong thủy Bát trạch. Tức phái nghiên cứu sự tương tác giữa tuổi của gia chủ với phương vị của ngôi nhà. Đó là những thuật ngữ mang tính ước lệ để chỉ những hướng nhà chưa phù hợp với tuổi của chủ nhà.
Trong phong thủy bát trạch có 8 cung với 8 ý nghĩa khác nhau. Trong đó có 4 cung tốt là Sinh khí, Thiên y, Niên duyên, Phục vì; 4 cung xấu là Họa hại, Ngũ quỷ, Lục sát, Tuyệt mạng.
Tùy vào tuổi của chủ nhà sẽ ứng với một hướng (cung) phù hợp trên la bàn và bát trạch để xác định. Ví dụ, người chồng sinh năm 1976 thì hướng Ngũ quỷ là chính Đông, hay chồng sinh năm 1973 hướng chính Tây là hướng Ngũ quỷ.
Trong đó, tùy vào mỗi gia cảnh, ngành nghề cũng như từng vị trí nhà sẽ thể hiện các điều không tốt cho cuộc sống.
Ví dụ, cung Họa hại thường không tốt cho sức khoẻ người nhà, người nhà bị chia rẽ, gặp nhiều tai ương.
Cung Ngũ quỷ dễ gặp điều thị phi, người nhà phải mổ xẻ, đặc biệt vợ chồng hay gặp trắc trở.
Cung Tuyệt mệnh xấu về đường con cái, nhà thường có chuyện u sầu. Cung Lục sát thường làm gia chủ hao tài, tốn của, đặc biệt người nhà có nguy cơ bị thương tật…
Đa cát thắng tiểu hung
Các chuyên gia phong thủy sẽ có nhiều dụng cụ trong nghiệp vụ để có thể xác định khả năng tuyệt mệnh hay không và nguy cấp đến mức nào tùy theo từng hạn mục. Khi không may rơi vào hướng Tuyệt mệnh hay Lục sát, Ngũ quỷ thì gia chủ nên tìm gặp chuyên gia phong thủy để có biện pháp hóa giải hữu hiệu nhất.
Các chuyên gia phong thủy sẽ có nhiều dụng cụ trong nghiệp vụ để có thể xác định khả năng tuyệt mệnh hay không và nguy cấp đến mức nào tùy theo từng hạn mục.
Ví dụ, khi nói nhà của bạn là hướng Nam nhưng theo nguyên tắc phải biết chính xác phương vị bao nhiêu và tính chất của phương vị đó có hung hiểm hay không.
Theo các chuyên gia phong thủy, dù trên lý thuyết các cung được xem là không mang lại may mắn cho gia chủ, nhưng nếu xét chung ở phương diện khoa học thì hướng nhà chỉ là một trong nhiều yếu tố của Phong thủy ngôi nhà.
Phong thủy luôn có biện pháp hóa giải theo nguyên tắc “đa cát thắng tiểu hung”. Tức nhiều yếu tố tốt trong nhà sẽ lấn át số ít điều xấu.
Vì thế, dù hướng nhà không tốt vẫn có thể hóa giải. Cụ thể, trong trường phái Bát trạch, khi gặp hướng nhà xấu, người ta vẫn có thể dùng các yếu tố khác để bổ cứu như dùng hướng bếp, hướng giường ngủ, hướng ban thờ tốt có thể khắc phục được những bất lợi do hướng nhà gây ra.
Ngoài ra, các chuyên gia phong thủy sẽ có kinh nghiệm để nhận thức và hóa giải các yếu tố, chẳng hạn như cần phải xác định các phòng ốc hay vật dụng cho đúng phương vị và hướng tốt nhất cho gia chủ, xác định chiều cao, chiều dài của bếp hay các cánh cửa nhà cho đúng kích thước chuẩn xác.
Cũng cần nghiên cứu về hướng cầu thang, các bậc thang theo sinh, lão, bệnh, tử và độ cao thấp theo tiêu chuẩn của kiến trúc.
Ngoài những yếu tố trên khi chuẩn bị xây một căn nhà chúng ta cần phải quan sát rộng rãi về nhà đối diện, nhà bên hông hay hình thể kích thước nhà ở, xem có hung trạch hay không, ví dụ, theo dạng nhà hình chữ Z, hình bình hành, góc nhọn, góc tù, xuyên góc, tù hãm hoặc tóp hậu… và xem được tính chất đất lành hay đất dữ, mà chúng ta cần phải hóa giải hoàn toàn. Vì vậy, nếu hướng nhà có phạm Tuyệt mạng, Ngũ quỷ hay Lục sát thì cũng không phải là vấn đề quá lo ngại.
► ## cung cấp công cụ Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tuổi Thìn: Gồm các tuổi sinh năm: 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000. Đối với những người tuổi này họ cần chọn treo tranh nào để hợp phong thủy. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi Thìn nhé!
Tuổi Thìn khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:
a- Hoa mẫu đơn, Rồng xanh hí thuỷ, Hầu vương hiến thuỵ, Bách mã đồ, Nhật xuất thiên sơn, Hồ quang sơn sắc.
b- Hoa mẫu đơn: Kích hoạt nhân duyên với người độc thân và mang đến sự thuận thảo cho các thành viên trong gia đình. Long – Mã tương phối, tinh thần bậc quân tử, trụ cột quốc gia. Tượng quẻ mã thuộc trời, ngũ hành thuộc hoả; đại biểu hưng vượng, thành công nối tiếp, cao quý hơn người, trên dưới trong ngoài phối hợp nhịp nhàng, trật tự quy củ.
c- Nếu là tranh ngựa hoặc hoa, cấm kỵ treo phương Nam, vì sẽ tạo ra “Hoả thiêu thiên môn”, con cái khó dạy, chủ hay đau đầu hoa mắt. Tốt nhất treo phương Đông hoặc phía bên trái của phòng khách (kể từ trong nhà nhìn ra phía trước).
trực phù (Kim)
***
1. Ý nghĩa của trực phù:
2. Ý nghĩa của trực phù và một số sao khác:
- Trực Phù, Thái Tuế: nói nhiều, nói thẳng và nói xấu
- Trực Phù, Đế Vượng: ngụy quân tử, bề ngoài quân tử, bề trong tiểu nhân; có lời nói quân tử mà lòng dạ tiểu nhân
- Trực Phù, Tử Vi: nghĩa tương tự như trên nhưng Tử Vi nặng về trung hậu nên giảm chế tính cách tiểu nhân của Trực Phù rất nhiều và mạnh hơn Đế Vượng. Nếu thêm Thiên Tướng hội họp thì cái dở giảm nhiều hơn nữa.
- Trực Phù, Thái Tuế, Tang Môn: bất hòa, gây thù chuốc oán.
- Trực Phù, Đào, Hồng, Cái, Phục, Tướng, Phá: dâm đãng
Các bộ sao trên nằm ở cung nào sẽ có ý nghĩa tùy theo cung đó.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
► Tham khảo thêm: Những lời tiên tri của Vanga gây chấn động thế giới |
Đặt tên cho con là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các cặp vợ chồng khi chào đón thiên thần bé bỏng của mình. Đối với những bé trai, bố mẹ nào cũng đặt nhiều kì vọng sau này con sẽ mạnh khỏe, giỏi giang, cuộc đời nhiều niềm vui và điều cực kì quan trọng là công danh, sự nghiệp tốt đẹp. Để chọn được cái tên hay cho bé trai, hỗ trợ đem đến nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và thành đạt cho cuộc sống của bé sau này, mời các bậc cha mẹ tham khảo những tên đẹp, ý nghĩa cho bé trai năm 2016 Bính Thân dưới đây
Tên "Thiên Phú" là mong con được trời ban cho tài năng, tư chất đặc biệt.
Tên "Quang Khải" là những chàng trai thông minh, sáng láng, cuộc đời nhiều niềm vui
Tên "Duy Khôi" là chàng trai trí tuệ, thành đạt vẻ vang
Tên "Tuấn Kiệt" với mong ước con là người xuất chúng trong thiên hạ
Tên "Tuấn Khang" là người tài giỏi, xuất chúng, gặp nhiều phú quý, hưng vượng.
Tên "Tuấn Minh" với mong ước con sẽ là chàng trai thông minh, khôi ngô, tuấn tú.
Tên "Gia Khánh" là chàng trai niềm vui của gia đình.
Tên "Hoàng Bách" là mong muốn con luôn là cây bách mạnh mẽ, vững vàng, trường tồn.
Tên "Hữu Lộc" với mong muốn đường đời của con luôn suôn sẻ, nhiều tài lộc.
Tên "Thiện Tâm" là chàng trai luôn giữ tâm trong sạch, có tấm lòng nhân ái
Tên "Đại Dương" với hi vọng con sẽ là biển cả bao la, rộng lớn.
Tên "Anh Duy" là chàng trai thông minh, sáng láng.
Tên "Anh Hoàng" là chàng trai thông minh, luôn tỏa sáng.
Tên "Phúc Thịnh" với mong ước con sẽ có cuộc đời gặp nhiều phúc đức, hưng thịnh.
Tên "Xuân Trường" mang ý nghĩa mạnh mẽ, sôi nổi như mùa xuân, với sức sống trường tồn.
Tên "Nhật Minh" sẽ là mặt trời rạng rỡ, sáng láng.
Tên "Hạo Nhiên" là chàng trai luôn sống ngay thẳng, chính trực.
Tên "An Tường" với hi vọng con sẽ luôn sống bình an, vui sướng, gặp nhiều may mắn
Bài viết của tác giả Trần Việt Sơn
Trong kỳ trước, chúng tôi đã thuật lại những kinh nghiệm giải đoán nòng cốt của cụ Thiên Lương. Những kinh nghiệm đó khởi phát từ một cuộc khám phá rồi tiếp đó là những cuộc chiêm nghiệm lâu dài. Theo các cách giải đoán đó, chúng tôi đã xét lại nhiều lá số và thấy đúng, rồi đây chúng tôi sẽ xin trình bầy về những cuộc chiêm nghiệm đó hầu chuyện bạn đọc.
Trong kỳ này, chúng tôi xin lược ghi vài nét đã dẫn đến kinh nghiệm trên. Chúng tôi cũng xin kiểm điểm lại kinh nghiệm và nói kỹ hơn.
KHỞI ĐẦU CỦA SỰ KHÁM PHÁ
Trước hết, chúng ta ghi nhận rằng Thái Tuế là sao Vua, và vòng sao Thái Tuế hẳn phải có một sự kiện nào quan trọng khác với những điều người ta thường tưởng (từng chỉ đoán về vài sao trong vòng Thái Tuế, còn bỏ lại những sao khác).
Trong Tử vi, khi ghi các sao trong vòng Thái Tuế, chúng ta lại thấy Thái Tuế bao giờ cũng được ghi ở cung tuổi (như người tuổi Mùi thì Thái Tuế ghi ở cung Mùi). Và rồi 12 sao trong vòng Thái Tuế bao giờ cũng được ghi theo chiều thuận trên lá số, mỗi cung một sao, khác với những vòng sao khác ghi thuận hay nghịch theo âm dương của tuổi
12 sao của vòng Thái Tuế là: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc đức, Điếu Khách, Trực phù.
Những sự kiện về vòng Thái Tuế bao giờ cũng đi một chiều và Thái Tuế bao giờ cũng ở cung tuổi, khiến người tìm tòi suy nghĩ rằng vòng Thái Tuế có liên quan lớn đến vận mạng con người, ít nữa là trong đại cương, và do đấy, tự tìm tòi hướng đến việc so sánh thế sao dàn ra của vòng Thái Tuế với vị trí của cung Mạng và Thân; hay nói ngược lại là vị trí của Mạng và Thân với vòng sao Thái Tuế. Những thế, vị trí này thay đổi tùy theo năm sinh tháng sinh và giờ sinh của mỗi người.
Câu hỏi tiên khởi đặt ra là tại sao có những người mà Mệnh đóng ngay cung tuổi, tức là đóng ngay cung có Thái Tuế, và hai cung tam hợp của cung đó; có những người khác mà Mệnh lại đóng ở thế tam hợp đối nghịch với thế tham hợp của cung tuổi (xin xem tập trước). Hoặc ở một thế tam hợp lệch với thế tam hợp của cung tuổi.
Long Phượng Hổ Cái
Nhận xét có ngay là khi Mệnh (hay Thân) đóng ngay cung tuổi hoặc ở hai cung tam hợp với cung đó, thì con người được hưởng ngay bộ Long Phượng Hổ Cái.
Một chút kiểm chứng nhờ cách tính 4 sao đó là cho thấy ngay. Hoặc các bạn kiếm trên một bảng lập thành để tính sao là thấy. Như trong mấy giòng ghi đây:
Ta đã biết rằng trong vòng Thái Tuế, Bạch hổ bao giờ cũng ở thế tam hợp với Thái Tuế. Lấy 1 thí dụ theo bảng trên: tuổi Sửu, nếu mạng ở Sửu, thì có Thái Tuế ở Sửu, Long Trì ở Tị, Phượng Các ở Dậu, Hoa Cái ở Sửu. Như thế người tuổi Sửu, mạng ở Sửu, có Long Phượng Hổ Cái. Nếu Mạng ở Tị hay ở Dậu (trong thế tam hợp) thì cũng có Long Phượng Hổ Cái.
Hầu hết các vị trí Mạng (hay Thân) có Thái Tuế hay ở cung tam hợp với Thái Tuế (tức là có Quan Phù hay có Bạch Hổ), đều có Long, Phượng, Hổ, Cái. Có một vài trường hợp bị thiếu – nhưng không được đủ bộ, thì cũng được 3 (thí dụ được Long, Hổ, Cái). Bộ Long Phượng Hổ Cái là bộ quý nhất trong Tử vi, chỉ có bậc Vua mới có đủ bộ này, dĩ nhiên Vua còn phải có thêm những bộ sao khác thành: quân, thần, khanh, tướng.
Chỉ nói về người thường, thì ai mà Mạng (hay Thân) có Thái Tuế, hoặc Quan Phù, hoặc Bạch Hổ, là cũng có bộ Tứ linh Long, Phượng, Hổ, Cái, đó là quý cách, khiến con người được xứng ý toại lòng, được tự hào rằng mình có chánh nghĩa, và được sung sướng rằng việc làm của mình không sai với chánh nghĩa mà mình ấp ủ. Trong đời, thiết tưởng dù sang hay hèn, giầu hay nghèo, nếu đạt được cách đó cũng là khoái tâm hồn rồi, còn giàu sang cũng có thể khổ vì trái ý, hay vì vẫn chưa được toại nguyện.
NẾU MỆNH Ở THÁI TUẾ? Ở QUAN PHÙ? Ở BẠCH HỔ?
- Mệnh ở Thái Tuế là cái thế của con người tự hào về chánh nghĩa của mình.
- Mệnh ở Quan Phù, trong thế tam hợp với Thái Tuế, cũng là của con người tự coi mình có chánh nghĩa, những người này tính toán nhiều hơn, xét các lợi hại để hành động sao cho phải.
- Mệnh ở Bạch Hổ, trong tam hợp với Thái tuế, cũng là của người tự coi mình có chánh nghĩa, và người này ít tính toán, cứ cố gắng mà làm trong phạm vi của mình.
Được cả Thân và Mệnh đóng tại cung có Thái Tuế, Quan Phù, hay Bạch Hổ, là tốt nhất. Nếu chỉ có Mệnh đóng đó, và Thân lại đóng khác đi, thì chỉ hưởng cái thế của Mệnh trong hẳn nửa cuộc đời. Nếu Mệnh không được hưởng thế đó, mà Thân được hưởng, thì lúc đầu không được toại nguyện về việc làm của mình, nhưng sau được toại nguyện rằng đi đúng chánh nghĩa như mình quan niệm.
THẾ TAM HỢP
Để dễ ghi nhận kinh nghiệm trên và các kinh nghiệm sau, chúng tôi xin trình bầy 4 thế tam hợp mà người yêu tử vi nào cũng biết.
Thế Hợi Mão Mùi tức là thế Mộc
…(bị mất trang)
Tuổi Dần, Ngọ, Tuất (Thế Hỏa)
Thế so le đuổi theo, là khi Mạng ở Tỵ Dậu Sửu (thế Kim), Hỏa khắc Kim
Thế so le lấn lên, là khi Mạng ở Hợi Mão Mùi (thế Mộc), Mộc sinh Hỏa.
Ở các thế này cũng đoán về đại vận như trên, nghĩa là: những đại vận nào trong thế tam hợp của cung tuổi, tức là những đại vận có Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ là những đại vận tốt, khá nhất trong cuộc đời.
Một kỳ sau, chúng tôi sẽ xin trình bầy những lá số dẫn chứng mà chúng tôi nhân đó, chiêm nghiệm được cách giải đoán căn bản của cụ Thiên Lương là đúng.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Nhìn khuôn mặt đoán mọi phương diện cuộc sống |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
=> Xem tướng người đoán vận mệnh chuẩn xác. |
5 bộ phận càng BÉO thì càng có PHÚC
Theo nhân tướng học, người có phúc khí là người có tướng mạo đẹp đẽ, không quá gầy yếu nhưng cũng không được quá béo phì. Thế nhưng, có 5 bộ
2. Tư thế đứng ưỡn ngực, hóp bụng, mắt nhìn thẳng
Con giáp sinh ra để mang may mắn cho cha mẹ
– Nhờ hồng phúc của những con giáp này, đường công danh, sự nghiệp, tài vận và quan vận của cha mẹ như được chắp thôi đôi cánh, ngày càng
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Lịch trong xã hội xưa:
Lịch giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm của người á đông thời xưa, ở Trung Hoa lịch được xem là lệnh trời bày cho dân để theo đó mà làm nông vụ cũng như tế lễ, còn vua là thiên tử, thay trời trị vì thiên hạ và hàng năm ban lịch cho thần dân và các nước phiên bang. ở Việt Nam mỗi năm lễ ban lịch gọi là Ban Sóc cũng được tổ chức rất long trọng có nhà vua và hàng trăm văn võ bá quan tham dự. Các cơ quan làm lịch ở nước ta trước đây rất quy củ, Thời Lý có Lầu chính Dương, Thời Trần có Thái sử Cục, thời Lê có Thái Sử Viện, thời Lê Trung Hưng có Tư Thiên Giám, thời Nguyễn có Khâm Thiên Giám…Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn "Coi các việc": suy lượng độ số của trời, làm lịch, báo thời tiết, như thấy việc tai dị hay điềm lành, được suy luận làm khải trình lên’
Trích từ Nguyên sử và Đại việt sử ký toàn thư” thì vào thời trần (1301), Đặng Nhữ Lâm khi đi sứ sang Nguyên đã bí mật vẽ đại đồ Cung Uyển, thành Bắc Kinh, mang sách cấm về, sự việc lộ ra và bị vua Nguyên trách cứ. Có thể trong các sách cấm đó có thư tịch về lịch pháp nên sau này con cháu ông là đặng Lộ ra làm quan Thái sử cục lệnh Nghi hậu lang đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát hiên tượng tỏ ra rất đúng và vào năm 1339 đặng Lộ trình vua Trần Hiến Tông xin đổi lịch thụ thời sang lịch Hiệp kỷ đã được vua chấp thuận.
Như vậy các cơ quan làm lịch bao gồm cả chức năng dự báo thời tiết, thiên văn và chiêm tinh học. Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về lịch Việt Nam còn lại rất ít nguyên nhân một phần do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chiến tranh liên miên tàn phá, một phần do lịch pháp gần như là một thứ bí thuật không phổ biến, cộng với việc khoa học nhất là khoa học tự nhiên không được chú trọng phát triển trong thời phong kiến. Điều này gây trở ngại cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ và đó cũng là lý do khiến các nghiên cứu về lịch ở nước ta rất hiếm hoi.
Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp thời xưa có Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán vào cuối thời Trần (1325-1390) và Trần Hữu Thận (1754-1831), Nguyễn Hữu Hồ (1783-1844) ở thời Nguyễn … Trần Nguyên Đán là người thông hiểu thiên văn , lịch pháp và đã viết sách Bách thế Thông kỷ tiếc rằng đến nay không còn, ông chính là cháu tằng tôn Trần Quang Khải là ngoại tổ Nguyễn Trãi.
Liên quan đến nguồn sử liệu còn có các cuốn lịch cổ đáng chú ý sau: Khâm định vạn niên thư (lưu trữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) in lịch từ năm 1544 đến năm 1903, trong đó các năm từ 1850 trở đi là lịch dự soạn cho thời gian tới, Bách Trúng kinh ( lưu giữ tại Viện hán nôm) in lịch thời Lê Trung HƯng ( Lê - Trịnh) từ năm 1624 đến năm 1785, Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (lưu giữ tại Viện hán nôm ) in lịch từ năm 1740 đến năm 1883, ngoài ra còn cuốn Bách trúng kinh khác thấy ở Hà nội năm 1944, sách này chép lịch từ năm 1624 đến năm 1799 nhưng nay không còn.
Lịch Việt cổ và nguồn gốc Lịch Âm Dương Á Đông:
Lịch âm Dương Á Đông mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng hiện nay được xem là lịch nhà Hạ (2140 trước c.n -1711 trước c.n , tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Lịch Âm Dương là kết quả của sự giao thoa văn hoá giữa hai vùng Hoa Bắc và Hoa NAm của Bách Việt hay Việt cổ. Vùng Hoa Bắc trồng kê mạch và chăn nuôi còn vùng hoa Nam tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước. Lịch với chức năng chính là phục vụ nông nghiệp (tục gọi là lịch nhà nông) nên phải phù hợp với thời tiết khí hậu của vùng hoa Nam là vựa thóc chính của trung Hoa. Mặt khác sử sách cũng ghi lại một số tư liệu về sự tồn tại lịch của người Việt cổ như truyền thuyết về lịch rùa mà Việt Thường thị khi sang chầu đã dâng lên vua Nghiêu đời Đào đường ( Sách Việt sử thông giám cương mục) hoặc theo thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi vua nhà Hán (Thế kỷ 2 trước c.n) thì “ từ thời Tam đại thịnh trị đất Hồ đất Việt không tuân theo lịch của Trung Quốc” (Đại việt sử ký toàn thư).Ngoài ra cũng có những bằng cớ chứng tỏ là từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc cư dân nước Văn Lang đã sử dụng một thứ lịch riêng, chẳng hạn các tư liệu về lịch của dân tộc Mường và nhứng điều được miêu tả trong Đại Nam thống nhất chí: “ Thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương, hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm, hàng tháng lấy ngày 2 làm đầu tháng, gọi là ngày lui tháng tiến, lại gọi là ngày nội, dùng trong dân gian, còn ngày quan lịch, thì gọi là ngày ngoại, chỉ dùng khi có việc quan”.
Lịch Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau
Các sự kiện lịch sử ở nước ta vốn được ghi chép theo theo Lịch âm Dương Á Đông và để có một niên biểu lịch sử chính xác cần biết rõ loại lịch nào đã được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. tuỳ thuộc vào quan hệ bang giao giữa hai nước trong từng thời kỳ mà lịch Việt Nam có lúc trùng có lúc lại lại khác với lịch Trung Quốc. Mặt khác bản thân lịch Trung Quốc đã trải qua nhiều lần thay đổi, cải cách (tính từ Thế kỷ 14 trước c.n là năm bắt đầu xuất hiện đến nay riêng lịch Trung Quốc đã trải qua hơn 50 cải cách khác nhau), điều này làm cho việc so sánh đối chiếu niên đại lịch sử giữa hai nước thêm phức tạp. Các kết quả khảo cứu của Gs. Hoàng Xuân hãn và pgs. Lê Thành Lân cho biết:
Trong 1000 năm Bắc thuộc (từ khi Triệu Đà đánh bại nhà Thục và xâm chiếm nước ta đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lập nên Đại Cồ Việt) lịch dùng chính thức ở nước ta là lịch Trung Quốc hoặc thuộc phần phía nam Trung Quốc bị phân chia (Việt sử ở thời kỳ này được ghi chép rất sơ sài gây khó khăn cho việc khảo cứu).Trong thời kỳ đầu của nền độc lập từ đời Đinh (969) đến hết thời Lý Thái Tông (1054) nước ta vẫn tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống ( như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên).
Từ đời Lý Thánh tông lên ngôi cuối năm 1054 Việt Nam có lẽ bắt đầu tự soạn lịch riêng, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt, chấn hưng việc nhà nông, việc học. Lý Nhân Tông nối ngôi năm 1072 và 3 năm sau chiến tranh bùng nổ giữa Đại Việt và Tống ( Lý Thường Kiệt xuất quân đánh Tống đẻ ngăn chặn), bang giao gián đoạn giữa hai nước cho đến năm 1078,trong thời gian này chắc chắn nước ta đã dùng lịch riêng.
Các đời Lý và Trần từ 1080 đến năm 1399; lúc đầu nước ta dùng lịch được soạn theo phép lịch đời tống , sau chuyển sang sử dụng lịch Thụ Thời ( có từ năm 1281 đời Nguyên) và năm 1339 vua Trần Hiến Tông đổi tên lịch Thụ Thpì thành lịch Hiệp kỷ.
Năm 1401 nhà Hồ ( thay nhà Trần tè năm 1399 đổi lịch Hiệp kỷ sang lịch Thuận thiên, không rõ chỉ đổi tên hay phép làm lịch cũng thay đổi.
Năm 1407 nhà Hồ bị mất, nhà Minh đô hộ nước ta và dùng lịch Đại Thống ( nhà Minh lên thay nhà Nguyên năm 1368 và dến năm 1384 thì đổi tên lịch Thụ thời thành lịch Đại Thống, nhưng phép lịch vẫn như cũ. Năm 1428 nước ta được giải phóng nhưng triều Lê tiếp tục sử dụng phép lịch Đại thống cho đến năm 1644 và theo Gs. Hoàng Xuân hãn thì phép lịch này còn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1812 (Gia Long thứ 11 đời Nguyễn) mặc dù từ năm 1644 nhà Thanh đã thay thế nhà Minh và khoảng 3 năm sau thì chuyển sang dùng lịch Thời Hiến.
Gs. Hoàng Xuân hãn rút ra kết luận trên dựa vào sự phục tính lịch Đại Thống từ đời nhà Hồ đến năm 1812 và đem so sánh với quyển Bách trúng kinh do ông sưu tầm được, quyển này in lịch từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Theo một số tư liệu thì vào thời Lê Trịnh( từ năm 1593 đến năm 1788) lịch nước ta có tên là lịch Khâm thụ và Gs. Hoàng Xuân Hãn đồ rằng tên này có từ đầu triều Lê, tên khác nhưng phép lịch có thể vẫn là phép lịch Đại thống nếu như kết quả phục tính của Gs. Hoàng Xuân Hãn ở trên là đúng. Nhà Mạc từ năm 1527-1592 nằm trong khoảng thời gian giữa đầu triều Lê và thời Lê- Trịnh có lễ đã dùng lịch Đại thống do nhà MInh phát hành ít nhất cũng là từ năm 1540.
Về giai đọan từ thời Lê - Trịnh đến năm 1802 có một số ý kiến khác:
Qua khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (hiện lưu giữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) Pgs. Lê Thành Lân cho biết trong vòng 100 năm từ năm Giáp thìn 1544 đến năm 1643 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau 12 lần, trong đó có 11 ngày Sóc , 1 ngày nhuận và tết. Điều này khác với nhận định của Gs. Hoàng Xuân hãn cho rằng trước năm 1644 vào thời Lê Trinh lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc cùng dùng theo phép lịch Đại thống nên Giống nhau. Cũng theo Pgs. Lê Thành Lân từ năm Tân Mùi (1631)đến năm Tân Dậu (1801)lịch ở đàng trong trong cuốn Khâm Định vạn niên thư khác với lịch Trung Quốc 92 lần. lịch ở đàng trong tồn tại song hành với lịch Lê- Trịnh (hai lịch khác nhau 45 lần) và lịch Tây Sơn ( hai lịch khác nha 5 lần), mặt khác lịch thời Tây Sơn từ năm Kỷ dậu (1789) đến năm Tân Dậu (1801) khác với lịch nhà Thanh nhưng chưa có sử liệu chứng minh điều này. Lịch đàng trong lúc này có tên là lịch Vạn Toàn (hay Vạn Tuyền, phải đổi tên kị huý).
Từ năm 1813 đến năm 1945: Nhà Nguyễn dùng phép lịch thời Hiến ( giống như nhà Thanh)và gọi là lịch Hiệp Kỷ. Sau khi Pháp cai trị nước ta họ cũng lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhã Nguyễn vẫn soạn và ban lịch của mình ở Trung Kỳ.
Việc chuyển sang dùng phép lịch thời Hiến là do công của Nguyễn Hữu Thuận, khi đi sứ sang Trung Quốc ông đã mang về bộ sách có tên là lịch tượng khảo thành và dâng lên vua Gia Long, sau đó vua sai Khâm Thiên Giám dựa vào đấy để soạn lịch mới. Bộ sách về thiên văn và lịch pháp này do vua Khang Hy sai các lịch quan Trung Hoa cùng với các giáo sỹ Tây phương kết hợp biên soạn và vua Ung Chính sai đem khắc vào năm 1723. Vào tháng chạp năm 1812 lịch Vạn Toàn được đổi tên thành Hiệp Kỷ.
Từ năm 1946 đến năm 1967: Trong giai đọan này Việt Nam không biên soạn Lịch âm Dương mà các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ năm 1968 đến năm 2010: vào năm 1967 Nha khí tượng công bố Lịch âm Dương Việt Nam soạn theo múi giờ 7 cho các năm từ 1968 đến năm 2000 (Sách lịch Thế kỷ XX). Trước đó vào năm 1959 Trung Quốc cũng công bố Lịch âm Dương mới soạn theo múi giờ 8. Sau đó BAn lịch do K.s Nguyễn Mậu Tùng phụ trách tiếp tục biên soạn l Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010 in trong cuốn lịch n 1901-2010 (xuất bản năm 1992).
(Tổ biên soạn Nha khí tượng được chuẩn bị Thành lập từ năm 1959 dưới sự chỉ đạo cuẩ Gs. Nguyễn Xiển là giám đốc Nha khí tượng. Tổ làm nhiệm vụ quản lý lịch nhà nước và biên soạn, dịch thuật lịch Thiên văn Hàng hải cung cấp cho Hải quân. Đến năm 1967 tổ soạn được 33 năm Âm lịch, thi hành ở miền Bắc từ 1968. Lịch Thiên văn Hàng hải xuất bản đến năm 1989,1990 thì kết thúc. Năm 1979 theo quyết định của Chính Phủ, phòng Vật lý khí quyển và Thiên văn cùng bộ phận tính lịch chuyển từ tổng cục Khí tượng thuỷ văn sang viện khoa học Việt Nam. Bộ phận quản lý lịch nhà nước được đặt trụ sở thuộc Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam. Trong các năm từ 1968-1992 Ban lịch đã soạn thêm được một số năm Âm lịch và kết quả thành bảng lịch Việt Nam (1901-2010). từ năm 1993-1997 do thay đổi về tổ chức hành chính (Uỷ ban vũ trụ giải tán ) nên Ban lịch (thực tế chỉ còn một vài người) chuyển về văn phòng thuộc trung tâm KHTN&CNQG. Ngày 16/4/1998 Giám đốc Trung tâm KHTN&CNQG (gọi tắt là ban lịch nhà nước) trực thuộc Trung tâm thông tin Tư liệu.)
Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự trong xã hội, ngày 8-8-1967 chính phủ đã ra quyết định số 121/CP do cố thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (ngày 14-10-2002 Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số 134/2002/QĐ-TTg sửa một vài câu chữ trong Điều 1 của QĐ 121/Cp cho chính xác hơn nhưng về cơ bản tinh thần của QĐ 121/CP không có gì thay đổi). Theo QĐ 121/Cp giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7 bên cạnh Dương lịch (lịch Gregorius) được dùng trong các cơ quan với nhân dân thì Âm lịch vẫn dùng để tính năm tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ tết cổ truyền. QĐ 121/Cp cũng nêu rõ Âm lịch dùng ở Việt Nam là Âm lịch được tính theo giờ chính thức của nước ta chư Chỉ thị số 354/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư liên bộ số 88-TT/LB ngày 23-11-1970 của Bộ Văn Hoá và Nha Khí tượng, Quyết định 129-CP ngày 26-3-1979 của Hội đồng Chính phủ…
Những thay đổi về giờ pháp định trong Thế kỷ 20 ở Việt Nam:
Mặc dù hầu hết đát liền nước ta nằm dọc theo múi giờ 7 (kinh tuyến 105 độ đông đi qua gần Hà Nội) nhưng trong Thế kỷ 20 này giờ pháp định của nước ta đã bị nhiều lần thay đổi) theo ý định của chính quyền thực dân và hà đương cục. sự biến động chính trị trong Thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hay từng miền bị thay đổi tới 10lần. Sau đây là các mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở nước ta kể từ khi hình thành khái niệm này:
Ngày 1/7/1906
Khi xây dựng xong Đài thiên văn Phủ Liễn, Chính quyền Đông dương ra Nghị định ngày 9/6/1906 (Công báo Đông Dương ngày 18/6/1906)ấn định giờ pháp định cho tất cả các nước Đông Dương theo kinh tuyến đi qua Phủ Liễn (104°17’17” đông Paris) kể từ 0 giờ ngày 1/7/1906
Ngày 1/5/1911
Sau khi nước Pháp ký Hiệp ước quốc tế về múi giờ, theo nghị định ngày 6/4/1911 (Công báo Đông Dương ngày 13/4/1911-trang 803) quy định giờ mới lấy theo múi giờ 7 (tính từ kinh tuyến đi qua Greenwich) cho tất cả các nước Đông Dương bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/5/1911.
Ngày 1/1/1943
Chính phủ Pháp ra nghị định ngày 23/12/1942 (Công báo Đông Dương ngày 30/12/1942)liên kết Đông Dương vào múi giờ 8 và do vậy đồng hồ được vặn nahnh lên 60 phút vào lúc 23 giờ ngày 31/12/1942.
Ngày 14/3/1945
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và buộc các nước Đông Dương theo múi giờ của Tokyo (Nhật Bản) tức là múi giờ 9 nên giờ chính thức lại được vặn nhanh lên 1 giờ vào 23 giờ ngày 14/3/1945.
Ngày 2/9/1945
Sau cách mạng tháng Tám Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (Sắc lệnh số năm/SL Của Bộ nội vụ).
Ngày 1/4/1947
Theo nghị định ngày 28/3/1947 của chính quyền thực dân (Công báo Đông Dương ngày 14/10/1947) thì trong các vùng bị tạm chiếm ở Việt Nam, ở Lào và Campuchia giờ chính thức là múi giờ 8 kể từ ngày 1/4/1947. Tuy nhiên trong các vùng giải phóng vẫn giữ múi giờ 7 và sau Hiệp định giơnevơ các vùng giải phóng ở miền bắc cũng theo múi giờ 7 (Hà nội từ 10/1954 và Hải phòng cuối tháng 5/1955); riêng Lào trở lại múi giờ 7 vào ngày 15/4/1955.
Ngày 1/7/1955
Miền Nam Việt Nam trở lại múi giờ 7 từ 0 giờ ngày 1/7/1955.
Ngày 1/1/1960
Chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 362-TtP ngày 30/12/1959 quy định giờ chính thức của Nam Việt Nam là múi giờ 8, đồng hồ phải vặn nhanh lên 1 giờ kể từ 23 giờ đêm ngày 31/12/1959 (tức 0 giờ ngày 1/1/1960)
Ngày 31/12/1967
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Quyết đinh 121/CP ngày 8/8/1967 khẳng định giờ chính thức của nước ta là múi giờ 7 kể từ 0 giờ ngày 1/1/1968.
Ngày 13/6/1975
Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, chính phủ cách mạng Lâm thời đã ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7 và giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
1. Sao Yếu Yên (Thiên Quý): tốt mọi việc nhất là việc cưới hỏi
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Dần; tháng 2: ngày Thân; tháng 3: ngày Mão; tháng 4: ngày Dậu; tháng 5: ngày Thìn; tháng 6: ngày Tuất; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Hợi; tháng 9: ngày Ngọ; tháng 10: ngày Tý; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: ngày Mùi.
Tranh cát tường |
2. Sao Dịch Mã: tốt mọi việc nhất là việc xuất hành
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Thân; tháng 2: ngày Tỵ; tháng 3: ngày Dần; tháng 4: ngày Hợi; tháng 5: ngày Thân; tháng 6: ngày Tỵ; tháng 7: ngày Dần; tháng 8: ngày Hợi; tháng 9: ngày Thân; tháng 10: ngày Tỵ; tháng 11: ngày Dần; tháng 12: ngày Hợi.
Sao Mẫu Thương tốt cho việc khai trương |
3. Sao Tam Hợp: tốt mọi việc
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Ngọ, Tuất; tháng 2: ngày Mùi, Hợi; tháng 3: ngày Thân, Tý; tháng 4: ngày Dậu, Sửu; tháng 5: ngày Tuất, Dần; tháng 6: ngày Hợi, Mão; tháng 7: ngày Tý, Thìn; tháng 8: ngày Sửu, Tỵ; tháng 9: ngày Dần, Ngọ; tháng 10: ngày Mão, Mùi; tháng 11: ngày Thìn, Thân; tháng 12: ngày Tỵ, Dậu.
4. Sao Lục Hợp: tốt mọi việc
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Hợi; tháng 2: ngày Tuất; tháng 3: ngày Dậu; tháng 4: ngày Thân; tháng 5: ngày Mùi; tháng 6: ngày Ngọ; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Thìn; tháng 9: ngày Mão; tháng 10: ngày Dần; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: ngày Tý.
5. Sao Mẫu Thương: tốt cho việc cầu tài, khai trương
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Hợi, Tý; tháng 2: ngày Hợi, Tý; tháng 3: ngày Hợi, Tý; tháng 4: ngày Dần, Mão; tháng 5: ngày Dần, Mão; tháng 6: ngày Dần, Mão; tháng 7: ngày Thìn, Sửu; tháng 8: ngày Thìn, Sửu; tháng 9: ngày Thìn, Sửu; tháng 10: ngày Thân, Dậu; tháng 11: ngày Thân, Dậu; tháng 12: ngày Thân, Dậu.
Theo Bàn về lịch vạn niên
Đó chính là: Tướng phu thê.
Để hiểu rõ hơn vấn đề, trước tiên chúng ta phải nói đến luật hấp dẫn và khả năng bắt chước.
Khả năng bắt chước thì chắc không cần phải nói nhiều: đó chính là khả năng sàng lọc, noi gương và làm theo. Dù bạn tin hay không tin bạn đều có xu hướng bắt chước hành động của 1 ai đó, đó có thể là người thân cũng có thể là 1 người trước đây hoàn toàn xa lạ.
Luật hấp dẫn thì thông thường gắn liền với sự ngưỡng mộ, yêu thương và tôn trọng.
Khi kếp hợp cả 2 yếu tố: luật hấp dẫn và khả năng bắt chước chúng ta sẽ có cái gọi là tướng phu thê.
Để biết 1 cặp vợ chồng nào đó có thực sự yêu thương nhau và sống hạnh phúc hay không, đơn giản hãy nhìn vào tướng phu thê của họ là đủ.
Tướng phu thê được giải thích như thế này: khi bạn ngưỡng mộ, tôn trọng và yêu thương thực lòng 1 ai đó, bạn sẽ có xu hướng bắt chước người đó. Từ hành động, nụ cười, cách cư xử, cách viết, nét chữ, cách ăn, cách ngồi v.v… nhưng thông thường nó sẽ được thể hiện và nét mặt nhiều hơn, cụ thể mà mọi người thướng thấy nhất đó chính là: nét mặt, nụ cười…
Dù bạn tin hay không tin, nét chữ hiện tại mà bạn viết đều có liên quan đến người mà bạn đã rất ngưỡng mộ lúc nhỏ.
Dù bạn muốn hay không muốn, nụ cười của bạn sẽ rất giống với người mà bạn hết mực yêu thương, đó có thể là: ba mẹ, anh chị, bạn thân, nhưng đa phần mọi người sẽ nói rằng bạn và người yêu có nụ cười, nét mặt rất giống nhau. Nếu thực sự bạn và người yêu có nụ cười, nét mặt giống nhau thì chúc mừng bạn. Điều đó có nghĩa là 2 bạn đã vô tình bắt chước hành động của nhau và điều đó cũng có nghĩa là 2 bạn rất thực lòng yêu thương nhau, tôn trọng nhau.
Khi bạn tôn trọng, ngưỡng mộ và yêu thương 1 ai đó. Bạn sẽ có xu hướng bắt chước hành động của người đó: nụ cười, nét mặt, hành động, cư xử, tính khí, thói quen v.v… và v.v…
Nếu vẫn còn nghi ngờ, bạn hãy ngồi xuống, hít vài hơi thật sâu, thở ra chầm chậm. Sau đó hãy từ từ suy nghĩ lại thử xem : bạn tôn trọng ai, bạn ngưỡng mộ ai, và bạn yêu thương ai hết mực. Hãy tìm thử xem nhé, có thể chắc chắn 100% bạn sẽ có những nét rất giống, rất tương đồng với những người mà bạn đang suy nghĩ như đã kể ở trên.
Trong cuộc sống có rất nhiều điều quý giá nhưng quan trọng nhất là tâm. Tâm khởi phát cho mọi khổ đau và hạnh phúc, cùng lắng nghe lời Phật dạy về chữ tâm để có thêm những suy nghĩ đúng đắn cho con đường mình đi. Nhiều người thích tiền tài, danh vọng, vật chất, điều này không sai, đó là nhu cầu thiết thực và đáng trân trọng. Nếu làm theo tâm mình thì những thứ kia sẽ giúp cuộc sống trở nên xa hoa, tốt đẹp, thoải mái hơn. Nhưng ngược lại, làm trái tâm thì có bao nhiêu cũng chỉ khiến cuộc sống bế tắc, bất hạnh hơn mà thôi.
Theo sự tiến bộ của xã hội, kiểu tóc cũng ngày càng đa dạng hơn. Bằng sự phát triển của xu hướng thời trang, các công cụ và kỹ thuật làm tóc, thời nay bất cứ ai cũng có thể có được một kiểu tóc theo đúng ý bản thân với đủ hình thức đa dạng.
Tuy nhiên đa phần mọi người đều chỉ quan tâm đến kiểu tóc xấu đẹp, hợp thời trang hay không mà quên mất rằng kiểu tóc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến vận may của mỗi người. Trong thời buổi hiện nay, mốt để tóc mái đang được nhiều người yêu thích vì tạo cảm giác trẻ trung hơn so với tuổi thực đồng thời đây cũng là kiểu thời trang được các sao Hàn yêu thích. Tuy nhiên cùng một kiểu tóc mái nhưng có người lại hợp có người lại không. Vì vậy đôi khi không phải cứ kiểu tóc hợp thời trang hay hợp khuôn mặt sẽ tốt cho chị em phụ nữ. Vì vậy cần lưu ý những điều sau đây:
1. Không nên để tóc mái quá dài
(Ảnh: Internet)
Nếu để tóc mái quá dài là điều không tốt chút nào, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Theo nhân tướng học trán, lông mày hay tai đều có liên quan đến tài vận của mỗi người. Tóc mái dài che mất những bộ phận này sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến vận mệnh của mỗi người.
Ngoài ra tóc quá dài che tầm mắt lâu ngày sẽ khiến tâm lý sinh ra cảm giác hoang mang, lạc lõng và dễ dàng đánh mất phương hướng.
Kiểu tóc này cũng khiến bạn dễ tạo thành cảm giác u ám, cô độc và lạnh lùng, ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội, không tốt trong việc kết bạn.
2. Người dưới 30 không nên để tóc mái
(Ảnh: Internet)
Theo các chuyên gia nhân tướng học, trán là một trong những bộ phận quan trọng ảnh hưởng đến vận may, hạnh phúc và thành công của mỗi người. Giai đoạn trẻ tuổi là giai đoạn đặt nền tảng cho sau này của mỗi người, trán cũng vì thế mà có khá nhiều sự thay đổi. Để tóc mái che kín trán đồng nghĩa với việc che khuất vận may của bản thân, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này.
3. Người ế không nên để tóc mái
(Ảnh: Internet)
Đối với những người thường không gặp may mắn trong chuyện tình cảm hay sống độc thân lâu năm dù cố gắng tìm kiếm một nửa còn lại thì rất có thể tóc mái là một phần nguyên nhân.
Theo các chuyên gia nhân tướng học, trán cũng là một trong những bộ phận quan trọng trong chuyện tình duyên của mỗi người. Để tóc mái che trán sẽ làm mất đi vận đào hoa hoặc dễ gặp chuyện không vui khi hẹn hò.
Ngoài ra chúng ta cũng nên lưu ý đến những điều sau:
Trong ngũ hành, tóc thuộc hành Mộc. Vì vậy độ dài của tóc cũng ảnh hưởng đến số mệnh của mỗi người. Nếu ngũ hành của bạn hợp với Mộc thì để tóc dài rất tốt. Nhưng nếu ngũ hành kị với Mộc thì tốt nhất nên cắt tóc ngắn.
Khi đi nhuộm tóc cũng nên lưu ý đến ngũ hành của mình. Nếu như ngũ hành của bạn kị Hỏa thì đừng nhuộm màu đỏ hay hồng. Cũng đừng nên chọn màu nhuộm tóc quá quái dị, dù nổi nhưng không tốt cho số mệnh. Không nên nhuộm quá 3 màu trên tóc.
Thái Âm là một trong 14 Chính Tinh trong Lá số Tử vi, sao thứ 2 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Thái Âm là phú tinh nên có nhiều ý nghĩa tài lộc nhất
Thái âm chủ về tình cảm, hóa khí là phú, chủ cung Điền trạch.
Thái âm lạc hãm, vợ không hỗ trợ, cha mẹ không thể giúp đỡ, bất động sản không nhiều, tình cảm bất lợi, muôn sự không được như ý, Thái âm thêm sát tinh chủ về gan không tốt.
- Đại, tiểu hạn gặp thì nữ giới trong nhà chịu thương tổn.
- Thái âm lạc hãm chủ về muôn sự không toại ý, nếu thêm sát tinh thỉ có thể thương tổn. Mệnh nữ gặp chồng không tốt, tái giá 3 lần.
- Thái âm miếu vượng, vợ đảm đang, hiền thục, xinh đẹp hoặc ít ra có 1 trong 3 đặc điểm trên.
Thái âm ở cung đối diện có Dương nhân chủ về vì ung thư Gan hoặc ung thư tuyến tụy mà qua đời.
- Thái âm và Văn xương đồng cung, có thể học xem mệnh, làm giáo viên hoặc hoạt động trong giới nghệ thuật
- Thái âm đồng cung với Thiên đồng ở cung Ngọ là người dễ mắc bệnh tương tư ,thuộc dạng người dễ thất tình hoặc yêu thầm người khác
- Thái âm đóng tại cung Tỵ là người số phạm đào hoa là mệnh nữ phần lớn là không chính trực ,nam thì đam mê tửu sắc, những người này có tài nhưng không gặp thời ,cả đời thường lưu lạc tha hương
- Thái âm miếu vượng tại Tuất ,Hợi tuy không tọa cung phụ mẫu cũng có mẹ tốt, không tọa cung điền trạch cũng có bất động sản
Xác định hướng bàn thờ
Hướng của bàn thờ không phải như nhiều người vẫn thường nghĩ là hướng của người đứng thắp hương. Cũng giống như là xác định hướng bếp, thì hướng của bàn thờ vẫn phải căn cứ vào tuổi của chủ nhà rồi mới tính hướng.
Hướng của bàn thờ là hướng ngược lại với hướng của người đứng thắp hương.
Xác định hướng cho bàn thờ là việc căn cứ vào các bài vị của gia tiên, tức là ta lấy hướng cho các bài vị trên bàn thờ chứ không phải lấy hướng cho người đang sống.
Bàn thờ phải đặt ở phương vị nào trong nhà ở cho thích hợp?
Nói chung đều khuyên nên đặt bàn thờ ở Tài vị, mà Tài vị là nơi ở bên trái cửa, bước vào nhìn thấy ngay.
Luận điểm này cũng phải châm chước vì nhà ở hiện đại, cửa (môn khẩu) không có nghĩa là tọa hướng, đó là điểm thứ nhất; còn điểm thứ hai thì nơi cửa bước vào nhìn thấy ngay không nhất định là Tài vị.
Thí dụ, tọa Nam hướng Bắc, cửa chính tại phương Bắc, phương bên trái khi bước vào cửa nhìn thấy ngay là phương Đông Nam, đối với nhà mà nói rõ ràng Đông Nam là cát vị, nếu đặt bàn thờ ở đó thì bàn thờ hướng Tây Bắc, như vậy là không tốt.
Do đó nơi đặt bàn thờ phải thích nghi với đất cát của nhà ở mới là thượng sách.
Trước hết phải hiểu rõ tọa hướng của nhà ở, mà tọa hướng của nhà ở hiện đại phải lấy phương có không khí lưu thông nhiều nhất, ánh sáng đầy đủ nhất làm hướng, không thể câu nệ vào cửa chính.
Sau khi xác định được rõ ràng tọa hướng, dùng la bàn xác định xem nhà ở thuộc trạch nào, rồi đặt bàn thờ ở phương vị xấu, hướng nào phương vị tốt nhất, đó là cách đặt bàn thờ chính xác nhất.
Dưới đây là bảng kê phương hướng bàn thờ, để tránh lầm lẫn, bảng này lấy hướng làm trạch.
Thiên Đồng dương thủy, hóa khí là ‘Phúc’ chủ về Phúc đức thuộc Nam Đẩu hệ. Ở đắc địa người đầy đặn, vào hãm địa người thấp nhỏ. Thiên Đồng gặp Đà La nơi Mệnh cung hay có tật ở mắt như lác, lé, cườm mắt. Thiên Đồng hành thủy nên cũng ưa động, bị động chứ không chủ động, tâm thần không kiên nhẫn mà dao động, luôn luôn đổi ý. Thiên Cơ già dặn kinh lịch, Thiên Đồng động một cách non nớt, ấu trĩ.
Thiên Đồng gặp Thiên Riêu tâm tình y như người đồng bóng ưa giận dỗi, nay thế này, mai thế khác. Số nữ có Thiên Đồng thì hiền thục nhưng khó chiều, dễ hờn mát. Thiên Đồng khoái hưởng thụ hơn phấn đấu. Chủ về Phúc nên đóng ở cung Phúc Đức kể như tốt nhất. Phúc Đức cung có sao Thiên Đồng đời đời mãi mãi sống sung túc với điều kiện không đi cùng Cự Môn.
Điểm đặc biệt của Thiên Đồng là không sợ Sát Kỵ, dễ có thể dựa vào Sát Kỵ làm khích phát lực. Sát Kỵ đẩy Thiên Đồng vào quyết liệt phấn đấu. Đó chính là lý do cổ nhân đưa ra câu phú: ‘Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ Mệnh ngộ phản vi giai (Thiên Đồng tại Tuất hội Hóa Kỵ thủ Mệnh hóa ra tốt)
"Đồng đóng cung Tuất yên vìHãm cung nhưng lại được bề hiển vinhNhờ sao Hóa Kỵ thêm xinhẤy là ưng hợp dễ thành giàu sang"
Cách Thiên Đồng cung Tuất hội Hóa Kỵ cổ thư gọi bằng ‘Càn cung phản bối’. Không phải chỉ gặp Hóa Kỵ không là đủ. Hóa Kỵ còn cần Cự Môn, Hóa Lộc, Văn Xương thì mới đến tình trạng bĩ cực thái lai sức dồn ép đến sức cùng bật ngược trở lại.
Song song với cách ‘Càn cung phản bối’ là cách ‘Mã đầu đới tiễn’ (Cung tên treo cổ ngựa). Mã đầu chi cung Ngọ, tiễn là Kình Dương. Chỉ những người tuổi Bính Dậu mới gặp Kình Dương thôi.
Phú nói ‘Thiên Đồng Kình Dương cư Ngọ vị, uy chấn biên cương’ nghĩa là ‘Thiên Đồng đóng cung Ngọ gặp Kình Dương uy thế ra tới ngoài biên ải. Đừng nhầm lẫn hễ cứ thấy Thiên Đồng hội Kình Dương cả ở cung Tí mà gọi là ‘Mã đầu đới tiễn’. Cung tên chẳng thể treo ở cổ chuột.
Tử Vi Đẩu Số viết: ‘Người tuổi Bính an Mệnh ở cung Tỵ, Hợi gặp Thiên Đồng, công danh tiền bạc tốt’. Đó là cách Điệp Lộc (hai sao Lộc). Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung xung chiếu Tỵ. Cách Điệp Lộc thì giàu có. Nếu thêm Tả, Hữu, Khôi, Việt còn sang cả nữa.
Thiên Đồng đóng Dậu, người tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn từ cung Tài Bạch đứng cùng Cự Môn chiếu qua, Hóa Quyền đi theo Thiên Cơ chiếu lên, tiền bạc khá giả nhưng không hay bằng cách Điệp Lộc của Thiên Đồng Tỵ Hợi bởi lẽ cả ba sao Đồng Cơ Cự không đắc địa.
Còn như Thiên Đồng tại Sửu mà tuổi Bính cũng Điệp Lộc. Hóa Lộc tại Mệnh, Lộc Tồn cung Quan kém hơn. Vì Cự Đồng đồng cung gây chướng ngại trên hoàn cảnh cũng như trên tính tình. Và Lộc ở Quan cũng chẳng bằng Lộc ở cung Tài Bạch.
Điệp Lộc còn vào người tuổi Đinh khi Thiên Đồng đóng Ngọ, nên Tử vi trong tinh điển mới viết: “Đồng Ngọ hãm, Đinh nhân nghi chi”. Đồng Âm Ngọ hãm địa, nhưng tuổi Đinh lại tốt vì có Điệp Lộc. Vậy thì Thiên Đồng cần Điệp Lộc.
Với tuổi Canh, cách Thiên Đồng có một điểm nghi nan trên an bài Tứ Hóa. Tuổi Canh Đồng gặp Hóa Kỵ hay Hóa Khoa? Là Nhật Vũ Đồng Âm hay Nhật Vũ Âm Đồng? Theo trình tự của Tứ Hóa? Không ai đủ uy quyền mà quyết định. Bên Trung Quốc đã bàn cãi nhiều mà rút cục phe nào làm theo ý phe ấy. Người trọng tài duy nhất chỉ là Trần Đoàn tiên sinh thôi, mà tiên sinh thì chưa sống lại. Tuổi Canh hễ dính dấp đến Thiên Đồng vấn đề muốn nát óc, phải mượn tướng cách mà đoán thêm.
Toàn thư viết rằng: “Nhược tại Hợi địa, Canh sinh nhân hạ cục cách ngộ Dương Đà Linh Kỵ xung hội, tác cô đan phá tướng mục tật”. Câu trên nghĩa là Nếu Đồng đóng Hợi mà tuổi Canh thì xấu, lại gặp cả Dương Đà Linh Kỵ nữa, thì cô đơn, phá tướng, có mục tật (cận thị nặng hoặc đui mù). Vịn vào câu trên mới lập luận chắc Thiên Đồng bị Hóa Kỵ nên mới thành hạ cục, thiết nghĩ không lấy chi làm rõ lắm. vì cũng câu trên lại bảo ‘cánh ngộ’ (lại gặp cả) Hóa Kỵ. Sao phải dùng chữ ‘cánh ngộ’ nếu như đương nhiên Thiên Đồng đi với Hóa Kỵ.
Và rõ ràng hơn ở mục sắp xếp các sao thì chính Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư vẫn sắp Hóa Kỵ đứng bên Thái Âm.
"Canh Nhật Vũ Đồng Âm vi thủTân Cự Dương Khúc Xương chí."
Riêng tôi thấy Đồng Âm đúng. Bên Trung Quốc, Tử vi thấu phái chủ trương Âm Đồng.
Về cách ‘Càn cung phản bối’ của Thiên Đồng tại Tuất đứng với Hóa Kỵ, cách này chỉ hiện lên vì hai tuổi Tân và Đinh. Tuổi Tân, Hóa Kỵ theo Văn Xương đóng Tuất hoặc Thìn (tùy theo giờ sinh Tí Ngọ). Tuổi Đinh, Hóa Kỵ theo Cự Môn đóng Thìn. Tuổi Tân Cự Môn còn có cả Hóa Lộc nữa. Tuổi Đinh thì Đồng đứng bên Hóa Quyền
Khi giải thích về: “Càn cung phản bối”, cổ nhân viết câu :”Thiên Đồng tại Tuất, Đinh Tân nhân ngộ phản vi kì” là thế.
Thiên Đồng cần đi với Hóa Lộc, ở trường hợp ‘Càn cung’ nó cần Hóa Kỵ để làm sức khích động, sức khích động ấy chuyển tình trạng bất lợi sang tình trạng thuận lợi, chuyển hàn vi thành khá giả.
Bĩ cực thái lai, cổ nhân ngầm báo cho hay rằng cách Càn cung phản bối trước khi nên công phải bị đẩy vào chỗ bĩ đa. Thiên Đồng còn được nhận như bạch thủ hưng gia (tay trắng làm nên) chính là rút tỉa từ cách ‘Càn cung’ vậy. Cách ‘Càn cung phản bối’ cổ nhân cho rằng không hợp với nữ mạng. Đàn ông con trai phải thiên ma bách triết được, đàn bà mà như thế chẳng khác gì cô thôn nữ chất phác dấn thân vào chốn phồn hoa.
Chỉ thấy nói Thiên Đồng tại Tuất mới có cách Càn vi phản bối. Thiên Đồng tại Thìn thì không. Không thấy Đẩu số toàn thư giảng tại sao? Tuy nhiên có luận cứ của người đời sau cho rằng Thìn là cung Thiên La, Tuất là cung Địa Võng. Đã Thiên thì hết khích động phản ứng, chỉ có Địa tiếp xúc với cái thực tế trước mặt mới chịu khích động phản ứng mà thôi. Luận cứ này cũng cho rằng Thiên La nên hiểu theo nghĩa Thiên Nhai, Địa Võng nên hiểu theo nghĩa Địa Dốc (chân trời góc biển). Thiên Nhai (chân trời) không tạo khích động lực như Địa dốc. Cái gì thuộc trời như đã an bài rồi, cái gì thuộc đất còn tiếp tục đấu tranh.
Vào số nữ, cổ nhân cho rằng không nên nếu nó đi với Thái Âm hay Thiên Lương.
"Đồng Âm ở Ngọ ở TíĐồng ở Tuất hội chiếu Cơ Âm ở DầnĐồng ở Dậu đối xung với Thái Âm tại MãoĐồng đóng Mão, Thái Âm tam hợp từ HợiĐồng Lương cùng đóng Dần ThânĐồng ở Tỵ Lương ở Hợi, Đồng ở Hợi Lương ở Tỵ"
Đẩu Số Toàn Thư viết:”Nữ mệnh bị sát xung phá ắt hẳn hình phu khắc tử, Nguyệt Lương xung phá và hợp thường làm thứ thất hay lẽ mọn”. Ngoài ra cũng sách trên viết câu: “tuy mỹ nhi dâm” (tuy đẹp nhưng mà dâm). Thiên Đồng cung Tí là người đàn bà nhan sắc diễm lệ:
"Đồng Nguyệt Tí gái hoa dungGặp Tang, Riêu, Khốc khóc chồng có phen"
Đồng Âm tại đây nếu bị Tang Riêu Khốc thường ly phu, khắc phu thậm chí sát phu. Đồng Âm ở Ngọ đa đoan, nhan sắc không đẹp như Đồng Âm cung Tí nhưng tính dục cực vượng thịnh. Đồng Dậu, Nguyệt Mão, Đồng Mão Nguyệt Hợi cũng đẹp và dâm vậy. Luận đoán quan kiện đặt trên căn bản ý chí lực và tình tự. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thái Âm làm cho ý chí lực bạc nhược. Nếu bị xung phá của Hỏa Linh càng bạc nhược lại thêm bị kích thích. Thiên Đồng chịu ảnh hưởng của Thiên Lương đưa ý chí vào mộng cảnh. Nếu bị Kình Dương Đà La thì càng như sống trong mơ.
Chủ yếu khi luận đoán về Thiên Đồng là ý chí và tình tự. Ý chí với tình tự phải cân bằng khi vào nữ mạng thì cuộc đời mới yên ổn thảnh thơi. Bị Thái Âm làm cho bạc nhược ý chí, bị Thiên Lương làm cho viển vông tình tự đều không hay, nếu như lại chịu xung phá của Kình Đà Linh Hỏa lại càng thêm phiền nữa.
"Thiên Đồng mừng thấy Khoa Lộc đi bênÝ chí tình tự vừa đúng, cân bằng"
Nếu Thiên Đồng gặp Quyền, Kỵ, Lộc, ý chí tình tự cũng mất thăng bằng như gặp Linh Hỏa Lương Âm Kình Đà. Cổ nhân cho rằng cơm no ấm cật quá tất nghĩ chuyện dâm dật.
Phú có câu: “Nữ Mệnh Thiên Đồng tất thị hiền” (Người nữ Thiên Đồng thủ mệnh hiền thục). Thiên Đồng không giản đơn như thế đâu. Như cách Cự Đồng vào nữ thì tâm trạng không lúc nào hết thống khổ.
Bản chất hiền thục tất cần an định êm ả, không có khả năng chống trả với phá phách phiền nhiễu nên Thiên Đồng ý chí phải vững vàng không bạc nhược, không quá khích, tình tự phải chân chất, không viễn vông mơ ước hão. Bởi vậy Thiên Đồng sợ Kỵ, Kình Đà, Lương Âm, Hỏa Linh.
Các sao trong Tử vi khoa ẩn chứa cái lý của nhân sinh thật phong phú. Thiên Đồng Thái Âm đi vào nam mạng thì sao? Đồng với Thái Âm ở Tí Ngọ đều là con người hào hoa đa tình. Thiên Đồng Dậu Mão dễ vướng bẫy tình. Cự Đồng đóng cung Sửu Mùi, nam mạng tầm thường cuộc đời nhiều chướng ngại.
Cần nghiên cứu thêm qua những câu phú sau đây nói về Thiên Đồng:
- Thiên Đồng ngộ Kiếp Không bất cát(Thiên Đồng thủ mệnh gặp Kiếp Không thành xấu)
- Đồng Âm Ngọ, Bính Mậu tuế cư phúc tăng tài hoạch, gia hãm Long Trì tu phòng mục tật(Đồng Âm đóng Ngọ tuổi Bính Mậu công danh phát đạt, tiền tài phấn chấn, ngại gặp Long Trì tất có tật ở mắt)
- Đồng Âm tại Tí, Nguyệt Lãng Thiên Môn, dung nhan mỹ ái, Hổ Khốc Riêu Tang xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên(Đồng Âm thủ Mệnh tại Tí, như mặt trăng sáng nơi cửa trời nhan sắc xinh đẹp, nếu bị Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Riêu, Tang Môn xâm nhập thì dang dở, khổ tình hay góa bụa)
- Phúc điệu phùng Việt điệu ư Tí cung định thị hải hà dục tú(Đồng Âm đóng tại Tí thủ mệnh gặp Thiên Việt có vẻ đẹp sang trọng uy nghi)
- Phúc điệu nhi ngộ Cự Môn thê nhi lãng đãng(Thiên Đồng Cự Môn Đồng cư thủ Mệnh lận đận cuộc đời, nhưng Thiên Đồng Cự Môn đóng phối cung thì hoặc muộn chồng, muộn vợ con hoặc gãy đổ duyên tình)
- Đồng Lương viên, ngộ Khôi Quyền tăng phùng Linh Kỵ, giao lại Song Lộc doanh thương dị đạt phú cường (Đồng Lương đóng Mệnh gặp Thiên Khôi Hóa Quyền lại có Linh Kỵ và Song Lộc chiếu làm thương mại dễ nên giàu)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)