Tướng nhân trung |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
| người Rục |
Cuối năm 1959, bộ đội Biên phòng Cà Xèng đóng tại Thượng Hóa trong một lần tuần tra đã phát hiện nhóm “người rừng” nhút nhát, không mảnh vải che thân, leo trèo vách đá, chuyền cành nhanh như thú hoang. Sau nhiều tháng tiếp cận, bộ đội đã vận động được họ rời hang đá về định cư ở thung lũng Rục Làn, xã Thượng Hóa.
Từ đây tộc người Rục được biết đến như là em út trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến đầu năm 2013, tộc người Rục được quốc tế đưa vào danh sách 10 bộ lạc còn nhiều điều bí ẩn nhất thế giới.
Hiện trong cộng đồng người Rục còn tồn tại hai dạng phép thuật bí hiểm mà các tộc người khác không có, đó là thuật thổi thắt, thổi mở và thuật hấp hơi. Chưa ai tiếp cận nghiên cứu được hai phép thuật này bởi người Ruacj coi chúng là linh thiêng, không tiết lộ ra ngoài.
Thuật thổi thắt, thổi mở của người Rục là dùng bùa chú thổi vào người phụ nữ để sinh hoạt vợ chồng không có con (gọi là thổi thắt); còn khi cần có con cũng dùng bùa chú để thổi vào người phụ nữ (gọi là thổi mở).
Ngoài ra, người Rục còn có thuật hấp hơi để tránh thú dữ. Mỗi khi vào rừng, người Rục chỉ cần đọc câu thần chú thì dù có hổ, báo, voi rừng cũng không dám đến gần để tấn công. Điều này qua thực tế, dù sống chốn thâm sơn cùng cốc, nhưng chưa ai ghi nhận người Rục bị mãnh thú tấn công.
Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, Cao Văn Đàn cho biết, những phép thuật nói trên nay không còn phổ biến trong cộng đồng người Rục, nhưng những thầy Ràng (dạng thầy Mo) vẫn còn lưu giữ. Thầy Cao Ống năm nay đã 80 tuổi, ốm yếu, không đi lại được nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Sau một hồi thuyết phục, ông cũng đồng ý diễn lại các động tác trong thuật thổi thắt thổi mở. Những dụng cụ để ngay góc nhà, thế nhưng không ai dám đến lấy, vì sợ.
Thầy Ràng Cao Ống ngồi xổm trên giường, hai tay cầm hai ống nứa cà phần đầu nhọn vào phiến đá phát ra âm thanh trầm bổng. Cùng lúc, ông đọc thần chú có vần điệu như hát theo giai điệu từ hai ống nứa. Vừa đọc, ông vừa thổi hơi vào bát nước. Theo thông lệ, chừng 30 phút sẽ đưa bát nước có sợi tóc, hoặc sợi chỉ cho người phụ nữ muốn thắt không sinh nở uống và sẽ hiệu nghiệm.
Ông Cao Ống cho biết, thổi mở cũng ở dạng này, nhưng bài chú sẽ có nội dung khác. Ông còn có thể thổi chữa bệnh đứt tay, chân, chảy máu, rắn độc cắn… và mỗi dạng bệnh tật có những câu chú khác nhau. Ngoài thuật hấp hơi để tránh thú dữ cho riêng mình, ông có thể dùng phép thuật vẽ một vòng tròn cho nhiều người ngồi trong đó để chống lại thú dữ.
Tuy nhiên, khi hỏi về nội dung các câu chú, và nhờ dịch sang tiếng phổ thông thì ông lắc đầu: “Đó là điều thiêng và tối kỵ của người Rục, không thể để người ngoài biết được”.
Đến nay, với lối sống khép kín, xa văn minh cùng những phép thuật kì lạ, chưa có lời giải đáp thì người Rục là tộc người kì bí nhất ở Việt Nam. Bức màn bí mật về văn hóa và đời sống tâm linh của dân tộc này là một thách thức lớn với các nhà nghiên cứu.
Theo Báo Đời sống
Những câu nói hay về tình yêu đơn phương. Tình yêu không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ hai phía. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp tình yêu chỉ xuất phát từ một người. Mối tình ấy vẫn thường được gọi là tình đơn phương.
Có nhiều người chọn cách yêu đơn phương khác nhau. Có người chọn cách âm thầm, lặng lẽ quan tâm tới người kia, theo dõi từng bước đi của người ấy và không bao giờ tiết lộ tình cảm của mình. Tuy nhiên, cũng có người dù biết đối phương không yêu mình nhưng vẫn thể hiện tình cảm của mình. Nhưng dù chọn cách thể hiện như thế nào, tình yêu đơn phương cũng khiến cho người ta có những cảm giác cô đơn. Nếu bạn cũng đang có một mối tình đơn phương, bạn cho mình thuộc vào trường hợp nào?
Hãy cùng đọc những câu nói hay về yêu đơn phương dưới đây để xem có ai đang cùng tâm trạng với bạn nhé.
1. Đơn phương là thế, dù rất thích, rất muốn bày tỏ nhưng bản thân không cho phép. Vì em sợ rằng một mai sẽ không còn là bạn mà là người dưng.
——–
2. Có bao giờ, bạn nhấc máy chờ nghe giọng nói ấm áp của một người để rồi… lặng lẽ mỉm cười sau những tiếng tút dài trong vô vọng và tự dối lòng rằng, chắc người ta đang bận đó thôi.
3. Người không biết quý trọng mình không đáng để mình tiếp tục cho đi tình yêu vì cuối cùng người bị tổn thương nhiều nhất sẽ là mình mà thôi.
4. Vì hãy yêu thương nhau khi còn có thể nên anh đâu thể bỏ hình ảnh em ra khỏi trái tim anh.
5. Có những nỗi nhớ không được đặt tên, có những yêu thương không được gửi trao nhưng vẫn lâng lâng một niềm hạnh phúc vì được yêu đúng cảm xúc trái tim.
6. Sợ nhất là khi ta lấy hết dũng cảm để nhắn tin cho một người, Để rồi trả lại là sự im lặng lạnh người hay câu nói vô tình: ” Đừng làm phiền tôi nữa”.
7. Em không muốn đón nhận anh, cũng không sao. Không được gặp em cũng chẳng sao cả… Nhưng hãy để cho anh được biết em vẫn ổn, nhé!.
8. Có phải em quá ngốc, vì em mà anh chẳng thèm đoái hoài tới tình cảm của em?.
9. Đôi khi việc lặng lẽ đi sau một người dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim đã có thể gọi là yêu.
10. Trời cho em đôi mắt là để nhìn những điều tốt đẹp. Vậy sao cứ nhìn anh hoài rồi lặng lẽ cụp mi khi người ra đi lạnh nhạt.
11. Có một người, dạy bạn thế nào là yêu nhưng không yêu bạn. Có một người, trao cho bạn hàng ngàn nỗi nhớ nhưng chẳng bao giờ nhớ về bạn.
12. Anh hiểu rằng, khi em chẳng nhìn thấy tim anh thì tình yêu của anh có lớn đến bao nhiêu vẫn chỉ là một số 0 tròn trĩnh.
13. Vì em yêu anh thật lòng, trước hàng trăm lí do từ bỏ. Vậy nên đừng hỏi vì sao em luôn cố tìm ra một lí do để tiếp tục yêu.
14. Đã có lúc em nhớ lắm nhưng vẫn giả vờ không có gì, muốn gặp lắm nhưng vẫn cố gắng kiềm chế. Em thích lắm nhưng vẫn nói chỉ là bạn bè thôi. Muốn bày tỏ tình cảm lắm nhưng lại sợ không được đáp trả.
15. Dù anh cứ hững hỡ với tình cảm của em nhưng xin đừng lạnh lùng quá như thế, đừng cắt đứt mọi liên lạc, để cho em cảm giác rằng mình đáng ghét đến thế này.
16. Em sợ tất cả chỉ là nhất thời, chỉ là cảm xúc bộc phát, chỉ là cái gì đó không rõ ràng. Sợ khi yêu rồi sẽ lại phải chấp nhận bị bỏ quên.
17. Anh và em như hai đường thẳng song song không một tia hy vọng.
18. Có một người, với bạn là tất cả nhưng với người ta bạn chẳng là gì. Có một người, lúc ở bên cạnh có thể bạn sẽ nở nụ cười nhưng khi quay đầu đi bạn đã bật khóc.
19. Vì yêu thương vẫn ở đây và em sẽ là nhà chờ anh về với tình yêu ấy.
20. Tớ muốn được ôm chặt cậu, dù biết trái tim cậu đang gọi tên một người khác. Bởi tớ thật yếu đuối nên tớ muốn dựa vào vai cậu mãi, dù biết cậu chỉ xem tớ là một người bạn thân.
Ai cũng muốn có cho mình một tình yêu trọn vẹn, tuy nhiên, tình cảm của con người là thứ mà chúng ta không thể nào điều khiển được. Lỡ yêu một người, cho dù không nhận được tình cảm đáp lại, cho dù biết càng yêu đậm sâu càng làm cho bạn thân đau khổ thì người ta vẫn cứ muốn yêu. Với những ai đang yêu đơn phương, sau khi đọc những câu nói hay về yêu đơn phương, chúng tôi hy vọng đã an ủi bạn được phần nào cho những lúc cô đơn. Đây cũng là một lời động viên đến bạn rằng biết đâu một ngày nào đó người ấy sẽ thấu hiểu tình cảm của bạn và đáp lại tình cảm ấy. Hoặc biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ nhận ra một nửa đích thực của riêng mình.
Sao Vũ Khúc trong tử vi lấy hình tượng từ Chu Vũ Vương Cơ Phát (hay Tây Bá Phát) - người lật đổ vua Trụ tàn bạo của nhà Thương, sáng lập nên nhà Tây Chu.
Tây Bá hầu Cơ Xương bị Trụ Vương giam lỏng tại Dữu Lý suốt bảỵ năm trời. Con trai trưởng của ông là Bá Ấp Khảo quá lo lắng cho cha, nên đã giao lại việc triều chính cho em trai là Cơ Phát, lên đường đến Triều Ca và không còn trở về. Sau khi kiếp nạn bảy năm của Cơ Xương đã chấm dứt, ông trở về dốc sức chấn chỉnh Tây Kỳ, khiến cho việc cai trị càng thêm hoàn chỉnh.

Ông còn chú ý trọng dụng người tài, cuối đời gặp được Khương Tử Nha, tôn làm thừa tướng, khiến Khương Tử Nha có thể phát huy trọn vẹn tài năng, đưa đất nước phát triển đến mức thịnh trị. Khi còn sống, Cơ Xương theo tham mưu của Khương Tử Nha dẫn quân vượt sông Hoàng Hà đi về phía đông, diệt các chư hầu thân Trụ Vương, chiếm cứ phần lớn vùng đất phía nam của sông Vị. Nhờ đó hình thành cục diện "ba phần thiên hạ có hai". Nhưng vẫn xưng thần với Trụ Vương, chờ đợi thời cơ chính muồi. Lúc lâm chung, Cơ Xương căn dặn con trai là Cơ Phát phải tôn Khương Tử Nha làm Tướng phụ. Trong thời kỳ Vũ Vương phạt Trụ, Khương Tử Nha chính là người trù tính mưu lược, trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương.
Vũ Vương Cơ Phát bản tính nhân từ, yêu dân như con. Trong giai đoạn trù bị cho sự nghiệp diệt Trụ, ông dốc lòng chăm lo kiến thiết Tây Kỳ, khiến cho trăm họ ấm no, dân giàu nước mạnh. Ông đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế, đưa ra nhiều công trình kiến thiết thu hút nhân dân tham gia, và trả thù lao xứng đáng cho họ. Trị an được đảm bảo, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Pháp luật nghiêm minh, nhân dân phạm pháp chỉ cần vạch đất làm nhà tù, người dân ai ai cũng tuân thủ. Dưới sự cai trị của Cơ Phát, Tây Kỳ ngày càng trở nên cường thịnh.
Đến một ngày, trước đông đủ bá quan văn võ, Cơ Phát trao quyền cho Tướng phụ Khương Tử Nha chức Thống lĩnh Đại nguyên soái, Binh mã Nguyên soái Hoàng Phi Hổ (sao Thất Sát), Lý Tịnh (sao Thiên Lương), Na Tra (sao Hoả), Dương Tiễn (sao Kình Dương), Hoàng Thiên Hoá (sao Đà La) làm tướng tiên phong, chọn ngày lành xuất quân tiến thẳng về Triều Ca.
Từ lúc vượt ải chém tướng, phá trận hạ thành, cho đến khi tiến sát chân thành Triều Ca, Cơ Xương luôn nghĩ đến sự an nguy của nhân dân, không nỡ tổn thương đến dân chúng trong thành Triều Ca. Trụ Vương tự thiêu chết trên lầu Trích Tinh, trọng trách thảo phạt Trụ Vương đã hoàn thành tốt đẹp, mở đầu cho cơ nghiệp của vương triều Chu, một vương triều với thời gian trị vì lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài suốt hơn tám trăm năm.
Chu Vũ Vương tại vị 19 năm, một đời cần cù việc chính, yêu thương nhân dân, hết lòng vì quốc thái dân an, xây dựng nền kinh tế. Khi sống hết tuổi đời, linh hồn ông bay về đài Phong Thần, được phong làm chủ nhân sao Vũ Khúc, chủ về vũ dũng và giàu có, trở thành nhân vật tượng trưng cho tài phú trong Tử Vi Đẩu số.
Vũ Khúc là sao thứ 6 trong chòm sao Bắc Đẩu, ngũ hành Âm Kim, hóa khí là tài, chủ cung Tài bạch. Sao chính tài Vũ Khúc nếu nhập cung Tài bạch thì chủ về vượng tiền tài, giỏi quản lý tiền bạc.
| ► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh |
![]() |
![]() |
Tiểu Mãn là tiết khí thứ 8 trong 24 tiết khí, là thời điểm Mặt trời tạo với đường xích đạo góc 60 độ. Theo dân gian tiết Tiểu Mãn kéo dài từ ngày 20,21 tháng 5 đến mùng 5 tháng 6. Vào năm 2016, tiết Tiểu Mãn bắt đầu vào ngày 20 tháng 5 (tức 14 âm lịch). Tiểu mãn có nghĩa là các loại lương thực vào đòng, nhưng chưa thể thu hoạch.
Tiết Tiểu Mãn có thể chia thành 3 khoảng thời gian rõ rệt dựa trên các hiện tượng thiên nhiên. Thời gian đầu, các cây diếp đắng xanh tươi sum suê, sau đó cây tề thái (cây mã thầy) lần lượt lụi tàn, đó chính là khoảng thời gian thứ hai. Cuối cùng, tại những ngày cuối của tiết Tiểu Mãn các loài cây tiếp tục quá trình phát triển của bản thân. Vào thời kỳ trước và sau tiết Tiểu Mãn, lượng mưa thường rất lớn, nhiều năm mưa to đã gây ra những trận lũ nhỏ và vừa. Lũ Tiểu Mãn thường không lớn nhưng là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, bổ sung cho nước cho hồ chứa trước khi đến mùa khô hạn thiếu nước.
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
| => Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
![]() |
![]() |
Điểm khác biệt ở tướng bàn tay của người giàu sang
Dự đoán tương lai giàu nghèo qua những đường vân đặc biệt trong bàn tay
Phòng bếp cần phải đặt ở vị trí đảm bảo ánh sáng hài hòa, phải có cửa thông gió, tránh bị quá tối tăm, ẩm thấp. Bếp không nên bị nhìn trực diện từ cửa phòng khách, bên ngoài cổng hay đối diện nhà vệ sinh. Khoa học phong thủy cho rằng, vị trí của bếp còn phải tránh gió và tránh những nơi bị đường đi. Nếu gian bếp lộ thì sẽ bất lợi về mặt tài lộc của chủ nhân.
Bếp được xem là nơi “hậu cung”, vì thế phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà, không nên bố trí đối diện với cửa nhà hoặc phòng khách. Có thể sử dụng một quầy bar chắn giữa bếp và phòng khách, không chỉ tạo sự phân lớp không gian kiến trúc mà còn đảm bảo sự kín đáo. Tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang vì theo khoa học phong thủy, nếu xà ngang áp trên bếp sẽ khiến gia chủ hao tài tốn của.

Bên cạnh đó, vị trí của bếp phải kê trên nền cao ráo, sạch sẽ, không khí thoáng và đầy đủ ánh sáng. Một điều tối kỵ đó là chân bếp bị gập ghềnh, ghiêng lệch. Không được để mái nhà bếp bị dột hoặc có nước rơi vào. Bếp thuộc hỏa nên kỵ nhất với khí mát lạnh của nước, vì thế không đặt bàn nấu trên mương, rãnh hoặc đường nước. Không để hỏa lò kẹt giữa 2 đồ đạc có mang theo thủy như bồn rửa, tủ lạnh, máy giặt…
Khi năng lượng nhà bếp có lợi thì các thành viên trong gia đình sẽ có xu hướng thích quây quần ăn uống tại nhà, điều này sẽ giúp mối quan hệ của các thành viên trong gia đình được gắn kết hơn. Còn khi phòng bếp không nhận được năng lượng có lợi thì cả gia đình sẽ bị ảnh hưởng xấu.
Trường hợp phòng bếp của bạn đã có sự trì trệ quá lâu, bẩn thỉu, bừa bộn nghiêm trọng thì cần làm nó sống lại bằng mọi cách. Việc làm sống lại phòng bếp sẽ có tác dụng tiếp thêm sinh lực cho sức khỏe, tài lộc và các mối quan hệ của bạn.
Vệ sinh thường xuyên để cải thiện của cải
Điều đơn giản nhất bạn có thể làm cho phòng bếp đó là luôn giữ bếp ngăn nắp và sạch sẽ. Trong đó, tủ lạnh và tủ bếp là 2 khu vực cần được vệ sinh sạch sẽ nhiều nhất.
Vệ sinh sạch sẽ trước khi lưu trữ thực phẩm
Thời điểm tốt nhất để bạn vệ sinh tủ lạnh hay tủ bếp là trước khi bạn bạn cất trữ thực phẩm mới mua được. Sau đó, hãy dành ra một vài phút để kiểm tra mọi thứ trong tủ lạnh và lấy ra những lọ, hộp, túi đựng thức ăn đã hết hoặc không sử dụng nữa.
Làm như vậy tủ lạnh của bạn trông sẽ sạch và gọn gàng hơn. Còn đối với tủ bếp, việc sắp xếp gọn gàng sẽ giúp công việc bếp núc trở nên nhanh và dễ dàng hơn.
Giải phóng bề mặt bếp
Nếu bạn muốn có cảm hứng nấu nướng và làm những món ăn ngon hơn và gia đình thì luôn luôn phải giữ cho bề mặt bếp được ngăn nắp. Điều này còn mở đường cho dòng chảy năng lượng tốt tràn vào phòng bếp và tác động lên toàn bộ cuộc sống của bạn.
Bỏ đi các đồ vật hư hỏng để tránh thất thoát về tài chính
Chảo chầy xước, bát đĩa sứt mẻ,… đều mang năng lượng tiêu cực đến với thực phẩm của bạn. Cần lưu ý, khi bạn thay thế bát đĩa sứt mẻ bằng đồ mới thì hãy nhớ vứt đồ cũ đi ngay lập tức.
Bố trí thùng rác ở góc khuất
Thông thường, dòng chảy năng lượng hay hướng về không gian tiêu cực, như thùng rác chẳng hạn. Do đó, nếu điều đầu tiên bạn nhìn thấy trong bếp là thùng rác bẩn thỉu thì có nghĩa là bạn đang nhìn thấy sự thất thoát năng lượng.
Thậm chí, các thực phẩm ôi thui, thối rữa trong thùng rác có thể khiến các mối quan hệ nhanh chóng xấu đi.
Hãy đặt thùng rác ở vị trí khuất tầm mắt hoặc trong ngăn tủ bếp có cửa và nhớ giữ cho nó sạch nhất có thể. Bạn sẽ ngạc nhiên trước thay đổi về cảm xúc khi không phải nhìn thấy thùng rác bẩn lù lù trước mặt mỗi lần bước vào phòng bếp.
Ngoài những yếu tố trên, bạn cũng nên đặt một rổ đầy trái cây tươi, một vài cây gia vị tươi tốt hoặc dự trữ thật nhiều thức ăn để đảm bảo sự giàu có và dư thừa.
![]() |
![]() |
![]() |
Nhân tướng học là gì?
Tác dụng của hồ cá trong phong thủy
Quan niệm về sinh khí
Phong thuỷ là học thuật về cảnh quan môi trường sống của người xưa dựa trên quan niệm về sinh khí. Theo đó, vạn vật đều sinh ra từ khí; khí gặp gió thì tan, gặp nước thì dừng; sinh khí được bảo toàn trong môi trường “tàng phong, đắc thuỷ”. Thuật phong thuỷ coi “đắc thuỷ” quan trọng hơn “tàng phong”; khí và thuỷ có quan hệ rất mật thiết với nhau; nước đến đâu thì khí theo đến đó, nơi nào có nước thì nơi đó có khí; vì vậy mà rất nhiều khu dân cư cổ xưa đều đòi hỏi phía trước nhà phải có nước; nếu không có thì phải đào ao, hồ để trữ nước với mục đích bảo tồn “chân khí”. Hầu hết các thành phố lớn trên thế giới đều được xây dựng bên các con sông hay là cảng biển. Điều này cho thấy vị trí của nước quan trọng như thế nào trong quan niệm và đời sống của con người xưa nay.
Thời hiện đại, khi mà hầu hết dân cư phải sống chen chúc trong các không gian chật hẹp, tù túng ở đô thị thì hồ cá cảnh chính là hình ảnh thu nhỏ hay vật thay thế cho ao, hồ. Người ta thường đặt hồ cá gần lối đi, phòng khách hay ở những vị trí trang trọng trong nhà với mục đích cải thiện môi trường cảnh quan và làm tăng sinh khí cho những nơi đó. Chất lượng nước và cảnh quan bố trí trong hồ được hết sức chú trọng; nước đục hay cảnh quan trơ trọi sẽ làm giảm tác dụng phong thuỷ của hồ cá nếu không nói là có hại vì phát sinh “tà khí”.
Vị trí đặt hồ cá
Thuật phong thuỷ được nâng lên một mức độ cao hơn khi hình thành khái niệm về phương vị; nó xuất phát từ việc kết hợp ngũ hành với cửu cung bát quái. Mỗi phương vị hay cung bây giờ đều mang một ý nghĩa và được gán cho một hành cùng với hình dạng và màu sắc tương ứng. Cung thường được sử dụng để đặt hồ cá là cung Tốn, tức cung Tài Lộc, ở hướng Đông Nam; cung này thuộc hành Mộc; hồ cá thuộc hành Thuỷ; mà Thuỷ dưỡng Mộc theo nguyên lý ngũ hành tương sinh; đặt hồ cá ở đây để làm vượng cung này và nhờ đó gia chủ sẽ được phát tài! Hồ cá hay hòn non bộ đặt ngoài vườn thường nằm về bên trái của cửa chính cũng không nằm ngoài ý này.
Được biết, nhà ở của cư dân thưở xưa thường được xây dựng theo hướng “toạ Bắc triều Nam”, do đó phía bên trái chính là hướng Đông Nam. Đây là hướng tốt nhất dựa trên đặc điểm khí hậu gió mùa tại các nước nằm ở Bắc bán cầu. Một số hướng tốt khác để đặt hồ cá là hướng Bắc tức cung Quan Lộc tượng trưng cho sự nghiệp. Những ai mong muốn sự nghiệp được thăng tiến, hãy đặt hồ cá ở hướng này. Hồ cá sẽ bổ sung năng lượng và giúp họ có nhiều ưu thế cạnh tranh so với đồng nghiệp. Hướng Đông tức cung Gia Đạo tượng trưng cho hạnh phúc gia đình cũng là hướng tốt.
Nhiều trường phái khác nhau ra đời cùng với sự phát triển và phổ biến của thuật phong thuỷ. Mỗi trường phái đều có quan niệm và phương pháp lý luận riêng. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu hai trường phái phổ biến hiện nay là Du Niên Bát Trạch và Huyền Không Phi Tinh cùng cách ứng dụng chúng vào việc xác định vị trí đặt hồ cá.
Du Niên Bát Trạch
Trường phái này kết hợp phương vị với tính mệnh của trạch chủ, tức chủ nhà; theo đó hướng tốt hay xấu đối với một người là tuỳ vào tính mệnh của người đó. Trước tiên phải tính toán mệnh quái hay quái số; cách tính toán quái số khá phức tạp nên không bàn ở đây; muốn biết thì chỉ cần tra bảng đã tính sẵn như ở dưới. Nếu trong nhà có nhiều người sinh sống thì quái số được tính cho người có vai trò trụ cột chẳng hạn như người chồng, người cha mà sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp của người này sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thành viên khác trong gia đình.

Quái số được chia làm hai nhóm là Đông tứ trạch gồm 1, 3, 4, 9 và Tây tứ trạch gồm 2, 6, 7 và 8. Mỗi quái số đều bao hàm các hướng “cát”, “hung”; trong đó, các hướng Sinh Khí và Diên Niên là các hướng “thượng cát”, hướng Thiên Y là hướng “trung cát” và hướng Phục Vị là hướng “tiểu cát”. Sau khi có được quái số, tiếp tục tra bảng dưới đây để xác định các hướng “cát” tương ứng với nó:

Hồ cá nên được đặt theo hướng “thượng cát” của trạch chủ để gia tăng sinh khí cho nó. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong xây dựng cho nên cửa chính cũng thường là hướng thượng cát của chủ nhà, vì vậy hình ảnh hồ cá được đặt phía trước nhà hay ở phòng khách cũng không phải là điều hiếm gặp.
Huyền Không Phi Tinh
Một cách tính phương vị khác là phương pháp của phái Huyền Không Phi Tinh; theo đó, mỗi ngôi nhà được lập quẻ dựa trên thời vận tức thời điểm toà nhà được xây dựng, cửu cung và vận động của cửu tinh. Thời vận có ảnh hưởng mạnh nhất đến khí số của con người là tiểu vận tức mỗi 20 năm; mỗi tiểu vận lại ứng với một tinh trong cửu tinh bao gồm Nhất bạch Thuỷ, Nhị hắc Thổ, Tam bích Mộc, Tứ lục Mộc, Ngũ hoàng Thổ, Lục Bạch Kim, Thất xích Kim, Bát bạch Thổ và Cửu tử Hoả; chẳng hạn, thời vận hiện tại là tiểu vận 8 (2004-2023) ứng với Bát bạch Thổ tinh. Trong vận này, Bát bạch Thổ tinh nhập vào trung tâm của cửu cung còn các tinh khác nằm ở các cung tương ứng với quy luật vận động của cửu cung; chúng tác động lên khí trường của ngôi nhà tại phương vị tương ứng của cửu cung; từ đó ảnh hưởng trực tiếp lên khí số của những người sống trong đó. Dựa trên các quẻ được lập người ta có thể chọn ra hướng tốt nhất để xây nhà, bổ cứu thiếu sót và dự đoán được phương vị cát, hung. Cách tính quẻ dựa trên các bước như sau:
Bước 1: giả sử nhà được xây dựng trong vận 7 thì số 7 được đặt vào trung tâm, các số khác được đặt vào các ô còn lại theo quy luật vận động của cửu cung như ở hình bên.
Bước 2: xác định hướng cho toà nhà; nó không nhất thiết là cửa ra vào mà có thể là phía cửa sổ nhìn ra biển, vùng trũng, ao hồ, vùng trống như bãi đậu xe hoặc xa lộ nơi xe cộ qua lại; ngược lại với hướng là sơn. Hai yếu tố này nằm ở ngay phía trên vận ở mỗi cung. Giả sử toà nhà hướng về phía Nam thì vận ở các cung hướng Nam (hướng) và hướng Bắc (sơn) sẽ di chuyển vào các vị trí hướng và sơn tương ứng ở cung trung tâm.

Bước 3: mỗi hướng lại chia làm 3 phần Thiên, Địa và Nhân. Dùng la bàn để xác định xem hướng nằm ở phần nào theo bảng sau:

Kế đó, dựa trên tính chẵn lẻ của sơn và hướng ở trung tâm, tra tiếp bảng sau để biết quy luật vận động của sơn và hướng là thuận hay nghịch theo quy luật vận động của cửu cung. Trường hợp đặc biệt khi sơn hay hướng có giá trị là 5, người ta sẽ dựa vào vận để xác định tính chẵn lẻ.

Giả sử nhà ở hướng Nam-Địa và thì khi tra bảng sơn (số 3) sẽ vận động theo hướng thuận, còn hướng (số 2) sẽ vận động theo hướng nghịch. Kết quả được trình bày ở hình dưới.
Bước 4: đánh giá quẻ được lập dựa trên hướng chuyển động của sơn và hướng. Trường hợp tốt nhất là “nghịch sơn, nghịch hướng” tức “vượng sơn, vượng hướng”, không cần phải bổ cứu gì cả. Trường hợp thứ hai là “thuận sơn, nghịch hướng” tức “thượng sơn, hạ thuỷ” thì bên hướng nhất định phải có nước. Trường hợp thứ ba là “nghịch sơn, thuận hướng” thì bên sơn nhất định phải có núi.
Trường hợp thứ tư là “thuận sơn, thuận hướng” tức “song tinh đáo hướng” thì bên hướng nhất định phải có nước, bên sơn nhất định phải có núi. Núi có thể được bổ cứu bằng cách trồng cây cao còn nước được bổ cứu bằng cách đặt hồ cá cảnh hay đào ao… Chẳng hạn, dựa theo quẻ vừa tính được, chúng ta thấy hướng tinh là loại “thuận sơn, nghịch hướng” do đó hướng Nam-Địa phải có nước, nếu không có thì phải đào ao hay đặt hồ cá cảnh để bổ cứu.

Cá trong phong thủy
Con cá chiếm một vị trí quan trọng trong phong thủy. Cá là nguồn thực phẩm được khai thác nhiều nhất ngoài tự nhiên bởi vì chúng có khả năng sinh sôi rất mạnh mẽ. Mặt khác, trong tiếng Hoa, từ “ngư” () với từ “dư” () phát âm như nhau (yú). Do đó mà con cá được xem như là hình ảnh tượng trưng cho sự dư giả và giàu có.
Nếu nước sạch, nước “động” tạo ra sinh khí thì nước ô nhiễm, nước tù sẽ tạo ra tà khí. Yếu tố “động” ở đây chính là dòng chảy và để tạo ra nó, người ta thường phải đào kênh dẫn nước đi vào và đi ra khỏi hồ. Nếu không có khả năng đào kênh thì người ta có thể áp dụng phương pháp khác, đó là nuôi cá. Hoạt động bơi lội của chúng sẽ đem lại yếu tố “động” cần thiết, từ đó làm gia tăng sinh khí cho môi trường. Ngày nay, việc tạo ra dòng chảy trong hồ cá được máy bơm hay máy sục khí đảm nhiệm nhưng sự hiện diện của cá vẫn rất cần thiết vì chúng tạo ra sự cân bằng và cảm giác bình an cho con người. Chính thái độ dửng dưng và vô tư của chúng đối với “thế giới bên ngoài” sẽ có tác động tích cực đến tâm lý của chúng ta.
Màu sắc
Màu sắc của cá cũng có ý nghĩa trong phong thủy. Các màu nóng như đỏ, cam và vàng tượng trưng cho sự giàu sang, thịnh vượng còn màu xanh được cho là đem lại sự may mắn. Màu đen có tác dụng thu hút những điều xui xẻo vì vậy con cá có màu đen trong hồ là con dễ bị chết nhất. Nếu cá chết thì không nên xem đây là chuyện buồn vì người ta cho rằng nó đã nhận thay phần xui xẻo cho gia chủ và nên thay ngay con cá khác vào hồ. Đặc biệt, một hồ nuôi toàn cá đen có tác dụng trấn sát thường được đặt ở hướng hung tinh của ngôi nhà để thu hút mọi xui rủi xảy ra cho những người sống trong đó.
Màu của cá cũng mang thuộc tính của ngũ hành. Chẳng hạn, màu trắng thuộc về hành Kim, mà Kim sinh Thuỷ theo nguyên lý ngũ hành tương sinh; như vậy cá có màu này làm tăng thuộc tính Thủy của nước, nhờ đó sinh khí phát ra từ hồ càng mạnh. Ý kiến khác lại cho rằng bản thân con cá không hề có tác dụng rõ rệt về mặt hành khí; vì vậy, nếu muốn làm vượng hành Thuỷ thì chúng ta phải đặt vật thực sự bằng kim loại vào đó hoặc làm chân đế hồ bằng khung kim loại cũng là một cách để hỗ trợ hành Thuỷ.
Số lượng
Có nhiều cách lý giải khác nhau về số lượng cá trong hồ. Cách thứ nhất dựa trên ý nghĩa của cửu tinh mà theo đó nuôi cá với số lượng 1, 4, 6, 8 hay 9 là tốt vì chúng tương ứng với những cát tinh như Nhất bạch Thuỷ tinh, Tứ lục Mộc tinh, Lục Bạch Kim tinh, Bát bạch Thổ tinh hay Cửu tử Hoả tinh. Điều này không hoàn toàn chính xác vì một sao có ảnh hưởng tốt hay xấu là tuỳ thuộc vào cung mà nó đang chiếm giữ; chẳng hạn, hiện nay đang là vận 8 thì Bát bạch Kim tinh đóng ở chính cung hay vượng cung là cát tinh, Cửu tử Hoả tinh và Nhất bạch Thuỷ tinh đóng ở sinh cung cũng là cát tinh, nhưng Tứ lục Mộc tinh và Lục Bạch Kim tinh lại đang đóng ở sát cung nên là hung tinh.
Vì vậy, số lượng cá nuôi trong hồ phải được tính toán dựa trên thời vận. Chẳng hạn, hiện đang là vận 8, nếu kết hợp thời vận hiện tại với ý nghĩa về ngũ hành của màu sắc thì nên nuôi 8 con cá vàng cùng với 1 con cá đen. Số 8 ứng với Bát bạch Kim tinh; Bát bạch Kim tinh hiện đóng ở vượng cung; mặt khác số 8 ứng vào cung Cấn – hành Thổ có màu vàng như con cá vàng. Số 1 ứng với Nhất bạch Thuỷ tinh hiện đóng ở sinh cung; mặt khác số 1 ứng vào cung Khảm – hành Thủy có màu đen như con cá đen.
Hơn nữa, tổng số cá là 9 lại ứng với Cửu tử Hoả tinh cũng đang nằm ở sinh cung. Nuôi cá với số lượng và màu sắc như vậy là “thuận thời vận”. Quan điểm này rất phổ biến trong thế giới quan của người phương Đông theo đó vũ trụ biến đổi không ngừng và có quy luật, con người nếu tuân theo quy luật biến đổi vũ trụ thì tồn tại, bằng đi ngược lại thì sẽ bị tổn hại.

Theo một cách lý giải khác thì số 8 âm Hán Việt là “bát” phát âm tương tự như từ “phát” trong phát tài. Số 9 âm Hán Việt là “cửu” phát âm tương tự như từ “cửu” trong trường cửu. Nước tượng trưng cho thuộc tính Âm, số lượng cá là số lẻ tượng trưng cho thuộc tính Dương. Vì vậy, toàn thể hồ cá tượng trưng cho những điều may mắn tốt lành, Âm-Dương hòa hợp… Tuy nhiên, dù lý giải theo cách nào thì công thức kết hợp ở trên có lẽ là công thức được áp dụng phổ biến nhất trong thực tế.
Trong một số trường hợp, số lượng cá được nuôi lại không liên quan gì đến các lý luận ở trên; chẳng hạn, người ta nuôi một cặp cá đơn giản chỉ để tượng trưng cho sự gắn kết khăng khít và bền vững trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Loài
Lại bàn đến vấn đề rằng loài cá nào có ý nghĩa trong phong thủy? Theo quan niệm truyền thống thì đó là con cá chép vàng. Hình ảnh cá chép rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày; chúng diện diện nơi hồ cảnh, tranh vẽ và trong cả truyền thuyết dân gian chẳng hạn chuyện cá chép vươt vũ môn để hoá rồng. Nếu không nhầm thì cá chép vàng là con cá cảnh duy nhất xưa kia rồi sau đó từ chúng, người ta mới lai tạo ra vô số loại cá vàng khác nhau.

Hiện tại, thị trường cá cảnh rất đa dạng với vô số chủng loại cá. Ngoài con cá vàng, một số loài cá khác cũng được đề cập đến như là cá “phong thủy”. Chẳng hạn, theo quan niệm của một số người thì đó chính là cá La Hán. Ngoài các màu đỏ và xanh mang ý nghĩa thịnh vượng và may mắn như đã đề cập ở trên, người ta còn lý luận rằng đầu cá nổi u lên như hình trái núi tức là tượng Sơn còn thân hình vuông vức của nó thuộc về hành Thổ. Xét trên bát quái đồ thì cung Sơn-Thổ là cung Cấn, ứng với thời vận 8 trong hiện tại.
Theo chúng tôi, cách lý luận như vậy là thiếu căn cứ vì tượng hình chỉ áp dụng cho các hành chớ không áp dụng cho các cung, vì nếu vậy thì cung Tốn, tức tượng Phong (gió) sẽ có hình gì? Vì vậy, đặc điểm thuận với thời vận, nếu chúng thực sự có ý nghĩa, chính là ở thân hình vuông vức và màu vàng-cam thuộc về hành Thổ mà thôi; và như vậy thì rất nhiều loài cichlid Trung Mỹ kích thước lớn khác cũng có thể được coi là cá “phong thuỷ”.
Việc gán một con cá cảnh với thời vận như trên có lẽ khởi đầu từ con cá rồng. Người ta lý luận như sau: thân hình con cá rồng trông giống như con dao, dao được làm bằng kim loại, như vậy cá rồng thuộc hành Kim! Với những con có màu trắng như Thanh Long hay Kim Long thì hành Kim lại càng mạnh. Vận 7 (1984-2003) đóng ở cung Đoài có hành Kim cho nên giai đoạn đó mọi người đổ xô đi nuôi cá rồng vì cá rồng “hợp thời”. Nhưng mà cách gán như vậy cũng nảy sinh vấn đề bởi vì đã nói về thời vận thì phải có lên có xuống. Bây giờ bước sang vận 8 (2004-2023), con cá La Hán lên ngôi, những gì ứng với vận 7 đều rơi vào thoái cung, không xấu cũng không tốt. Nhưng bước sang đến vận 9 (2024-2043) thì những gì lên quan đến vận 7 sẽ rơi vào sát cung, rất không tốt. Vậy khi đó hỏi còn ai muốn nuôi cá rồng nữa hoặc là nếu đang nuôi thì có đem vứt đi hay không?
Trong cách tính toán truyền thống, thời vận được gán cho ngôi nhà dựa trên năm mà nó được xây dựng bởi khí trường thịnh suy của nó sẽ tác động lên những người sống bên trong. Loài cá rồng đã xuất hiện trên trái đất cả trăm triệu năm nay rồi và vẫn tiếp tục tồn tại; vận mệnh thịnh suy của chúng trong lịch sử tiến hoá, nếu có, chắc phải tính bằng đơn vị triệu năm. Do vậy việc gắn cá rồng hay bất kỳ loài nào khác với một thời vận cụ thể phải chăng là hành động quá khiên cưỡng? Cá nào cũng vậy mà thôi bởi vì con cá tự bản thân nó đã mang những ý nghĩa tốt đẹp trong phong thuỷ.
Ứng dụng Âm Dương – Ngũ hành
Như đã biết, hồ cá thuộc về hành Thuỷ có thể được sử dụng để hỗ trợ hay làm suy giảm tác dụng của một hành nào đó. Theo nguyên lý ngũ hành tương khắc, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả; như vậy nếu đặt hồ cá trong phòng của người có mệnh Thổ thì không có vấn đề gì nhưng nếu là người mệnh Hoả thì đó có thể là nguyên nhân làm cho người đó bị đau bệnh. Như vậy, hồ cá nhìn chung không thích hợp đối với những người mệnh Hoả, nhưng nếu là người mệnh Hoả quá vượng thì lại khác, hồ cá có tác dụng hạn chế bớt hành Hoả và giúp cho người đó thăng bằng hơn.
Mặt khác, theo nguyên lý ngũ hành tương sinh, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc; như vậy hồ cá rất phù hợp với người có mệnh Mộc còn với người có mệnh Kim mà không quá vượng thì phải cẩn thận. Để biết được mệnh của một người có vượng hay không, người ta lập bảng Tứ Trụ bao gồm bốn yếu tố ngày, tháng, năm và giờ sinh kết hợp với can, chi. Nếu một hành xuất hiện quá nhiều trong bảng tính thì chứng tỏ người đó vượng về hành ấy.
Tương tự, khi đặt hồ cá ở hướng Đông Nam người ta đã lưu ý đến một đặc điểm rằng hướng này thuộc về hành Mộc và nếu đặt hồ cá ở đó thì hành Thuỷ của hồ cá càng làm hành Mộc vượng hơn, từ đó chủ nhà sẽ được phát tài vì hướng này là hướng tài lộc. Một số ví dụ khác về Thuỷ khắc Hoả, chẳng hạn trường hợp có một ngọn đèn đường chiếu thẳng vào nhà, người ta có thể đặt hồ cá ở hướng đối diện để triệt bớt hành Hoả của ánh đèn, như vậy môi trường sẽ được hài hoà hơn. Rồi hồ cá cũng được khuyên là nên bố trí trong bếp để đề phòng hoả hoạn…
Theo một lý luận khác dựa trên Hà Đồ, sơ đồ thể hiện quan niệm về vũ trụ của người Trung Hoa cổ, theo đó 1 dương và 6 âm nằm ở phương Bắc thuộc hành Thuỷ, 2 âm và 7 dương nằm ở phương Nam thuộc hành Hoả, 3 dương và 8 âm nằm ở phương Đông thuộc hành Mộc, 4 âm và 9 dương nằm ở phương Tây thuộc hành Kim, 5 dương và 10 âm nằm ở Trung tâm thuộc hành Thổ. Số lượng cá được nuôi sẽ quyết định hồ thuộc hành nào chứ không phải là hồ luôn có hành Thuỷ như đã biết; chẳng hạn hồ nuôi 5 hay 10 con cá sẽ có hành Thổ. Kiểu suy luận này có vẻ không được hợp lý nên không mấy phổ biến lắm.
Cũng từ cách bố trí số theo Hà Đồ mà các số lẻ có thuộc tính Dương còn các số chẵn có thuộc tính Âm. Nước vốn có thuộc tính Âm nên số lượng cá được nuôi nên là số lẻ có thuộc tính Dương để Âm-Dương được hòa hợp, cân bằng.
Kết luận
Phong thuỷ vốn không phải là bộ môn khoa học chính xác mà là một nghệ thuật chứa đựng nhiều mâu thuẫn bởi có quá nhiều quan niệm, trường phái và phương pháp lý luận khác nhau; kể cả trong cùng một phương pháp, thì cách nhìn nhận vấn đề cũng có thể chứa đựng những yếu tố cảm quan dẫn đến các kết quả khác biệt tuỳ vào mỗi cá nhân khi áp dụng; chẳng hạn như phép xác định hướng khi lập quẻ phi tinh.
Có vô số ví dụ về các ý kiến mâu thuẫn nhau chẳng hạn như cá chết là do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là vì môi trường không tốt chứ không phải vì chúng thu hút hết sự xui xẻo mà chết thay cho chúng ta; hoặc con cá chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà không hề có tác dụng thực sự về lý khí; hoặc không nên đặt hồ cá trong bếp vì hành Thuỷ của nó khắc chế hành Hoả của bếp; từ đó gia chủ không làm ăn gì được…
Vì vậy, tuỳ vào trường phái và cách áp dụng mà mỗi người có thể chọn ra cách bố trí hồ cá thích hợp cho mình nhưng tựu trung, có một số yếu tố chính trong việc bố trí hồ cá theo thuật phong thuỷ mà chúng ta có thể tóm gọn trong mấy từ sau đây: sinh khí-phương vị-ngũ hành.
| ► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi của bản thân chuẩn xác |
![]() |
![]() |
| Không nên kê giường có tầm nhìn trực tiếp ra cửa |
Những căn phòng khiến bạn khó thoát khỏi “kiếp FA”| ► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương |
Tôn Quyền đích thực là bậc anh hùng, từng được Tào Tháo tán thưởng - "Sinh con phải như Tôn Trọng Mưu".
Dưới thời Tôn Quyền cai trị Đông Ngô, thế lực nước này được xem là hùng mạnh. Là quận chúa của Đông Ngô, Tôn Thượng Hương cũng được xem là "cành vàng lá ngọc".
Trong khi đó, Lưu Bị dù là lãnh đạo một thế lực quân phiệt, dù được tiếng "ngang vai" với Tôn Quyền, nhưng thực lực kém xa.
Hơn nữa, Bị được đánh giá là "quê mùa chất phác, phiêu bạt nửa đời người". Bất luận Bị và Tôn Thượng Hương "tương ngộ" ra sao đều bị coi là "một sai lầm".
Chính vì vậy, nguyên nhân thực sự khiến bá chủ Giang Đông chịu gả "kim chi ngọc diệp" Tôn Thượng Hương cho "ông già" Lưu Bị, đến nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Tôn Thượng Hương chỉ là quân cờ trong cục diện "tam phân thiên hạ", vốn đã nằm trong tính toán của Tôn Quyền?
Tôn Quyền có sợ Lưu Bị?
Thực tế, với thực lực quân sự của Đông Ngô, Tôn Quyền không hề e ngại thế lực của Bị.
Thứ nhất, dưới trướng Đông Ngô, nhân tài văn võ "như mây trên trời", Giang Đông nổi danh "địa linh nhân kiệt".
Văn thần có Trương Chiêu, Trương Hoành, Gia Cát Cẩn... Võ tướng có Cam Ninh, Trình Phổ, Hoàng Cái, Lăng Thống...
Các nhân vật như Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn thậm chí được đánh giá là "dụng binh như thần", văn võ kiêm toàn.
Ngoại trừ quy mô tổng thể lực lượng và địa bàn Đông Ngô không bằng Tào Ngụy, Tôn Quyền thực chất hoàn toàn có khả năng "ngẩng cao đầu" làm bá chủ Giang Đông.
Thứ hai, Tôn Quyền đã là đời thứ 3 của Tôn gia cát cứ Giang Đông.
Trải qua 3 đời phát triển, dân giàu nước mạnh, hiền tài "tùy nghi sử dụng". Về điểm này, Gia Cát Lượng đã nói với Lưu Bị ngay từ ngày Lượng "xuất sơn".
Đông Ngô, không cần nghi ngờ gì, là lực lượng "binh hùng tướng mạnh", Lưu Bị không phải ngày một ngày hai có thể so bì được.
Thứ ba, Tôn Quyền cùng Chu Du sau khi đại thắng tại Xích Bích, tiếng tăm lừng lẫy vô cùng.
Bên cạnh đó, trong vai trò là phe cầm trịch trong liên minh quân sự với Lưu Bị, thực lực Đông Ngô cũng hoàn toàn áp đảo Lưu Bị - thời điểm đó lực lượng thiệt hại nghiêm trọng sau thất bại ở Kinh Châu trước Tào Tháo.
Lý do Lưu Bị lấy được mỹ nhân Tôn Thượng Hương
Nhận định rõ Tào Tháo là kẻ địch lớn nhất, chính Tôn Quyền chủ trương "liên Thục kháng Tào"?
Việc Tôn Quyền gả Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị, sử liệu Trung Quốc nói rằng không phải do mưu kế của Chu Du, mà thực chất là Tôn Quyền "cam tâm tình nguyện".
Trong "Tam Quốc Chí - Lưu Bị bản truyện", sử gia Trần Thọ cho rằng, Tôn Quyền nhận thấy thế lực của Lưu Bị dần dần lớn mạnh, nên mới chủ động gả em gái cho Bị.
Hôn sự này được diễn ra vào năm 209 (năm Kiến An thứ 14, Hán Hiến Đế). Việc Lưu Bị rước dâu Giang Đông là một trong những sự kiện lịch sử trọng đại.
Các học giả hiện đại đã nêu ra một số luận điểm để lý giải tính toán của Tôn Quyền khi kết thông gia với Thục Hán.
Thứ nhất, Tôn Quyền xét đến toàn cục.
Ngay từ trước đại chiến Xích Bích, Lỗ Túc đã khuyên Tôn Quyền "nên qua lại" với Bị.
Thời điểm đó, Tào Tháo vừa đoạt Kinh Châu từ tay Lưu Bị. Với tài năng chính trị trác tuyệt của mình, Lỗ Túc đã không bỏ lỡ thời cơ "hội kiến" và lung lạc Bị, nhờ đó mới hình thành liên minh Tôn - Lưu, đem tới chiến thắng Xích Bích.
Đặc biệt hơn, đại chiến Xích Bích là chiến dịch quan trọng nhất trong lịch sử Tam Quốc, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Lưu Bị đã nhanh tay chiếm giữ 4 quận Kinh Nam, đẩy mạnh bành trướng thế lực quân sự, khiến Tôn Quyền "phải nhìn mình bằng con mắt khác".
Thứ hai, Tôn Thượng Hương là con gái Tôn gia Giang Đông, quan điểm của Tôn Quyền đương nhiên cho rằng em gái mình có nghĩa vụ hy sinh cho đại nghiệp của Tôn gia.
Nếu nàng không hy sinh hạnh phúc cá nhân, liên minh Tôn - Lưu khó có khả năng củng cố sâu sắc mối quan hệ, cùng tiến công Tào Tháo.
Thứ ba, dù hoàn cảnh, vai vế khác nhau, nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng, Lưu Bị và Tôn Quyền đều là những bậc anh hùng thời Hán mạt, "chí lớn gặp nhau" cũng không phải là điều khó hiểu.
"Tiên chủ (Lưu Bị) đến Kinh (Giang Tô Trấn Giang ngày nay) gặp Quyền, giống như tri kỷ".
Luận điểm này cho rằng, hoàn toàn không có chuyện Tôn Quyền "giả hứa hôn" để mưu hại Lưu Bị.
Chu Du nhận định Lưu Bị là đối thủ nguy hiểm, cần phải trừ khử. Nhưng Tôn Quyền đã chủ định cùng Thục, Ngụy hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Thứ tư, Chu Du từng muốn "triệt" Lưu Bị để trừ hậu họa.
Sau khi Du biết tin Lưu Bị tới Đông Ngô thành hôn, đã vội gửi thư cho Tôn Quyền.
Trong thư, Chu Du viết - "Lưu Bị là bậc kiêu hùng, lại có hổ tướng như Quan Trương, tuyệt đối không phải kẻ chấp nhận đứng dưới người khác".
Chu Du can gián Tôn Quyền nên tìm cách giữ Lưu Bị, đồng thời thực hiện kế ly gián quan hệ giữa Bị và các tướng Quan Vũ, Trương Phi.
Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm của Chu Du, nhân vật mưu lược như Tôn Quyền cũng có kiến giải của riêng mình.
Quyền hiểu rõ mặc dù Tào Ngụy là phe bại trận ở Xích Bích, nhưng vẫn là mối đe dọa lớn nhất đối với Giang Nam.
Việc mượn thế lực Lưu Bị trấn thủ Kinh Châu, đẩy Bị vào vị trí đối đầu trực diện với Tào Ngụy, để cho Đông Ngô có thêm nhiều sự lựa chọn chiến lược, chính là suy tính lớn nhất của Tôn Quyền khi tác hợp "mối lương duyên" của Bị và Tôn Thượng Hương.
Vì vậy, Quyền mới không nghe Chu Du, mà vẫn kết thân cùng Lưu Bị.
Tiếc rằng, nhiều chuyện về sau đã không theo đúng định hướng của Tôn Quyền, đặc biệt là mối quan hệ Lưu Bị - Quan Vũ - Tôn Quyền, dẫn đến liên minh quân sự tan rã.
Dù vậy, Đông Ngô vẫn "nuốt trọn" 9 quận Kinh Tương.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra, hôn nhân Lưu Bị - Tôn Thượng Hương hoàn toàn không phải là "mỹ nhân kế", mà là một cuộc hôn nhân chính trị hoàn toàn bình thường vào thời đại đó.
Vấn đề cuộc sống vợ chồng Lưu Bị có hạnh phúc hay không, thực tế không phải là mối quan tâm của Tôn Quyền.
Điều quan trọng là, Tôn gia Giang Đông đã "có chân" ở ít nhất 2 thế lực quân phiệt trong cục diện "tam phân thiên hạ".
Trong vị thế một lãnh đạo quốc gia, hiển nhiên Tôn Trọng Mưu chỉ chú trọng tới đại nghiệp của Đông Ngô, tới việc ông có thể giữ vững địa bàn Giang Đông hay không.
Tôn Thượng Hương là một nhân vật đầy cá tính trong "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, nhưng thực tế có lẽ chỉ đóng vai trò "quân tốt" trên bàn cờ của người anh Tôn Quyền.
theo Trí Thức Trẻ
-Đối tượng xem bói trong tử vi là số mệnh con người.
Số mệnh con người được xét trong tử vi là số phận con người gắn liền với gia đình, dòng họ (ông bà, bố mẹ, anh em, con cái) và những mối quan hệ xã hội.
-Các sao trong Tử Vi
Bộ Tử Vi Chính Nghĩa được coi như là chính thư không thấy nói về số sao. Song xét trong mục dạy an sao thì có 93 sao. Nhưng những lá số phụ lục thì chỉ chép có 89 sao. Không thấy an sao Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng. Điều này dễ hiểu bởi 4 sao trên đều ở vị trí cố định, không cần thiết an vào.
Có môn phái Tử vi an tới 118 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa. Sao này khi tương tác với sao khác lại có ý nghĩa khác.

-Theo Hi Di tiên sinh thì các sao đó là:
14 chính tinh
Vòng Tử Vi có 6 sao: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương và Thiên cơ.
Vòng Thiên Phủ có 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát và Phá quân.
Các phụ tinh
Các sao này mang bản sắc riêng biệt được an định trong 12 Cung trên một Thiên Bàn:
Vòng Thái tuế – 5 sao là Thái tuế, Tang môn, Bạch hổ, Điếu khách, Quan phù. Các phái khác thêm vào 7 sao nữa là: Thiếu dương, Thiếu âm, Trực phù, Tuế phá, Long đức, Phúc đức, Tử phù.
Vòng Lộc tồn – 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.
Vòng Trường sinh – 12 sao là Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Các sao an theo tháng – 7 sao là Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa, Thiên hình, Thiên riêu, Đẩu quân.
Các sao an theo giờ – 8 sao Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên quý, Thai phụ, Phong cáo, Thiên không, Địa kiếp. Vị trí chính của sao Thiên Không được các phái khác thay bằng sao Địa Không, còn sao Thiên Không thì được an liền sau sao Thái Tuế và đồng cung với Thiếu dương.
Tứ trợ tinh – 4 sao là Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Hóa kỵ.
Các sao an theo Chi – 17 sao là Long trì, Phượng các, Thiên đức, Nguyệt đức, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên mã, Hoa cái, Đào hoa, Phá toái, Kiếp sát, Cô thần, Quả tú, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên khốc, Thiên hư. Hai sao Hỏa tinh và Linh tinh được các phái khác an theo giờ sinh.
Các sao an theo Can – 5 sao là Lưu hà, Thiên khôi, Thiên việt, Tuần không, Triệt không.
Các sao cố định – 4 sao là Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng.
-Lá số tử vi
Lá số tử vi được trình bày trên Thiên bàn, Địa bàn. Thiên Bàn ở giữa, chung quanh là Địa Bàn với 12 cung.
Tại Thiên bàn, ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, mạng và cục.
Địa Bàn gồm 12 cung cố định, được đặt tên theo mười hai địa chi, mỗi cung phản ảnh một lĩnh vực, một mặt của đời sống một con người qua những liên hệ công danh, tiền bạc, bạn bè, vợ con, phúc đức, cha mẹ… Các cung trên địa bàn lần lượt mang các tên là: Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ.
Những phương thức để xác định vị trí của khoảng 110 sao lên trên địa bàn được gọi là “an sao”.
12 cung của Tử Vi như sau:
Cung Mệnh và Thân
Cung Phụ Mẫu
Cung Phúc Đức
Cung Điền Trạch
Cung Quan Lộc
Cung Nô Bộc
Cung Thiên Di
Cung Tật Ách
Cung Tài Bạch
Cung Tử Tức
Cung Phu Thê
Cung Huynh Đệ (hay cung Bào)
-Cách lập lá số tử vi
Lá số tử vi của mỗi người được thành lập dựa vào các yếu tố vào giờ, ngày, tháng, năm sinh (âm lịch) và giới tính.
Trước hết vẽ bản đồ, giữa Thiên Bàn, chung quanh là Địa Bàn với các cung. Bản đồ phải đủ lớn để viết trên 100 Sao.
Ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, an mạng và tính cục, ghi vào Thiên bàn.
Sau đó xác định các đai vận và ghi trên Địa bàn.
Tiếp đến, tiến hành an sao. Đầu tiên là an sao Tử vi. Sau đó là an các bộ sao Tử vi, Thiên phủ, Thái tuế, Thiên không, Lộc tồn, Tràng sinh, Hung sát tinh, Trung tinh.
Sau cùng ghi tiểu vận.
-Cách đoán giải
Muốn lập thành một lá số Tử vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Cách lập thành lá số Tử vi nói chung có nguyên tắc, trình tự được chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm… của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau.
Khi luận đoán một lá số tử vi, nói chung cần phải theo đúng những tiến trình luận đoán số, nắm được những đặc tính của các sao, nắm được những cung cần phải xem và những vận hạn trong cuộc đời phải biết.
Giới hạn
Có tất cả 518.400 (60 can chi, 12 tháng, 30 ngày, 12 giờ, và 2 giới tính) lá số khác nhau trong Tử Vi. Có người dùng con số nầy để đi đến kết luận rằng Tử Vi không thể dùng để lý giải sự khác nhau của những người sinh cùng thời điểm. Tuy nhiên, muốn giải đoán chính xác một lá số của một người thì cũng nên khảo sát thêm những lá số của những người thân của người đó, mới có thể biết được khá chính xác lá số của người đó .
Mâm ngũ quả thể hiện đạo lý thiêng liêng uống nước nhớ nguồn. Mỗi miền có một cách bài trí và bày biện khác nhau.
Mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ gia tiên dịp Tết theo 5 sắc màu tượng trưng cho mong ước được ngũ phúc: giàu có, sang trọng, sống lâu, khỏe mạnh, bình yên. Theo thuyết ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5 sắc màu đó để phối trí.
Ở mỗi một vùng miền, người ta lại có những cách bày biện mâm ngũ quả khác nhau.
Ở miền Bắc, trên mâm ngũ quả thường có 5 loại quả với 5 màu khác nhau, cụ thể gồm chuối/táo màu xanh; bưởi (hoặc phật thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; roi, mận, đào hoặc lê màu trắng; hồng xiêm hoặc nho đen, măng cụt, mận màu đen.
Ở miền Trung, người dân không quá câu nệ hình thức của mâm ngũ quả mà chủ yếu có gì cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên. Mặt khác, do chịu sự giao thoa văn hóa hai miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả của người miền Trung bày biện đủ chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài…
Nhìn chung mâm ngũ quả bày trên ban thờ không cần nhiều về số lượng. Tất cả chỉ cần gọn gàng và sạch sẽ, vậy là đủ.
Nếu như người miền Bắc, nải chuối xanh thường ít thiếu vắng trên mâm ngũ quả thì người miền Nam lại kiêng kỵ bày một số trái cây. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”, hay như trái lê đồng nghĩa với “lê lết”…
Mâm ngũ quả người miền Nam thường mâm ngũ quả thường là: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, đọc chệch thành các tên “cầu vừa đủ xài” hoặc “cầu vừa đủ sung”.
Mâm ngũ quả truyền thống với 5 loại quả, số quả lẻ thể hiện sự sinh sôi, nảy nở, phát triển. Ngày nay để thể hiện lòng hiếu thảo đến ông bà, tổ tiên cộng với tính thẩm mỹ người ta không quá cứng nhắc trong chuyện phải là 5 loại quả nữa nhưng ở người Bắc vẫn chọn số quả lẻ khi bày mâm ngũ quả ngày Tết.
Ngược lại, miền Trung và miền Nam thoải mái hơn khi không quan trọng chuyện chọn số quả lẻ hay chẵn mà chủ yếu chọn ý nghĩa của loại quả khi bày mâm ngũ quả ngày Tết.
Mâm ngũ quả tuy không quá quan trọng chuyện số quả lẻ hay chẵn nhưng vẫn giữ nguyên các quy ước dân gian như: mâm ngũ quả chỉ bày quả, không đặt thêm hoa hoặc thực phẩm gì, số lượng trên mâm ngũ quả chỉ tính loại, không tính quả (chuối chỉ cần một nải mà không quan tâm số lượng quả).
Ý nghĩa từng loại trái cây trong mâm ngũ quả ngày Tết:
Tuy mỗi miền có sự khác biệt về văn hóa, song việc bày biện mâm ngũ quả ngày Tết luôn là một nét văn hóa đặc sắc, thể hiện lời cầu chúc cho một năm mới ấm no, hạnh phúc của người dân Việt Nam. Cho dù sinh sống ở phương trời nào, đã là người dân Việt Nam thì sẽ không bao giờ quên được tục lệ này trong dịp Tết nguyên đán nhằm gìn giữ bản sắc dân tộc cho bản thân và cho con cháu.
Khi nhắc đến những loại đá quý, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến kim cương, ruby… mà quên mất rằng có một loại đá đã được con người khai thác và sử dụng rất sớm. Đó chính là đá mã não. Bài biết sau đây Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não.

Nội dung
Về bản chất, mã não là một biến thể của thạch anh, và thuộc nhóm Chalcedony. Tuy có cùng công thức hóa học như Thạch anh và Chalcedony, nhưng mã não lại có cấu trúc vi hạt rất mịn. Điều này khiến cho mã não đa số có chất lượng ngọc, chất đá mã não rất dai, do vậy khi được chế tác sẽ cho bề mặt cực kỳ bóng, mịn, bền, đẹp. Mức độ phổ biến của mã não cũng giúp cho các sản phẩm ngọc mã não có giá thành rất phải chăng, phù hợp với túi tiền đại đa số người tiêu dùng.

Trong tự nhiên, mã não có thể được hình thành từ nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh (Nguồn gốc vô cơ) hoặc từ xác thực vật, động vật hóa thạch như gỗ hóa thạch, xương, vỏ ốc hóa thạch … (Nguồn gốc hữu cơ). Khi nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh, nó sẽ cuốn vào trong lòng rất nhiều loại tạp chất khác nhau như đất, đá, tro, bụi, cây cỏ … Các tạp chất này không kịp thoát ra sẽ tạo ra cho mã não những vân đá rất riêng biệt. Chính nguồn gốc hình thành đa dạng nêu trên khiến cho mã não có tới hàng trăm loại khác nhau, khó có thể kể hết tên. Trong đó có những viên mã não độc nhất vô nhị, không bao giờ đụng hàng.
Do Mã não được hình thành khi nham thạch nguội lạnh nhanh nên hầu hết các trường hợp, trong lòng khối mã não sẽ có khoảng rỗng do không khí không kịp thoát ra và nằm lại trong lòng đá. Ở vùng rỗng này đá có điều kiện kết tinh, hình thành một lớp thạch anh mỏng lấp lánh nhỏ li ti bám trên bề mặt gọi là tinh đám thạch anh trên mã não (Druzy Agate). Lớp đá lấp lánh này nhìn rất giống châu báu trong lòng đá nên trong phong thủy, những khối đá này thường được bổ đôi để lộ phần lấp lánh ra ngoài, dùng làm vật phẩm chiêu tài lộc và gọi là Bát tụ bảo (Tụ Bảo Bồn). Một số trường hợp trong lòng đá chứa nước chứ không phải không khí, hình thành mã não nước, một trong những loại mã não hiếm mà dân sưu tầm rất ưa chuộng.

Cần lưu ý rằng, đặc trưng của Mã não là màu sáng, do vậy trong tự nhiên không có mã não đen. Nếu bạn bắt gặp quảng cáo về mã não đen của các cửa hàng phong thủy thì đó là thông tin không chính xác, do sự thiếu hiểu biết về đá của chủ cửa hàng, hoặc cố tình gây lầm lẫn cho khách hàng. “Mã não đen” đó có thể là một trong các loại: Mã não được nhuộm màu đen, đá Onyx đen, đá Obsidian đen, đá Tourmaline đen hoặc thậm chí là nhựa/thủy tinh đen.
Các nhà khoa học khẳng định rằng có tới trăm loại mã não khó lòng có thể kể hết các tên gọi của chúng. Tất nhiên trong đó sẽ có những viên mã não độc nhất vô nhị do sở hữu lớn vân khác biệt.
Không những vậy, màu sắc tinh thể của mã não cũng rất phong phú chẳng kém cạnh gì Sapphire vậy. Chúng có thể mang sắc màu sáng như trắng sữa, phớt vàng, vàng sậm cho tới xanh lá cây, cam, đỏ… Loại đá mã não đẹp nhất là mã não mắt kính, chúng sở hữu các đường vân tròn đều được xoay quanh tâm.

Tuy nhiên hãy lưu ý một điều rằng mã não tự nhiên hoàn toàn không có màu đen tuyền. Nếu như bạn được một địa chỉ cửa hàng phong thủy nào đó quảng cáo về mã não đen thì sẽ là không chính xác. Mã não đen có thể là nhân tạo, loại đã được nhuộm màu, là dòng đá Onyx đen hay nhựa, thủy tinh đen giả mạo mà thôi.
Trong phong thủy, mã não được chế tác thành vô vàn các sản phẩm khác nhau. Từ những mặt đá nhỏ làm mặt nhẫn, mặt dây chuyền, khuyên tai … cho tới những khối đá được chế tác thành những sản phẩm nghệ thuật, những linh vật phong thủy như tỳ hưu, thiềm thừ, rồng, hổ … để bày bàn. Với những khối ngọc lớn, thậm chí người ta còn chế tác những bức tượng, bộ bàn ghế … vô cùng đẹp và quý hiếm. Mang viên đá hộ mệnh bằng mã não trên người giống như mang một lá bùa hạnh phúc, vì bản thân cái tên Agate cũng xuất phát từ chữ “achates” trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “hạnh phúc.
Trong văn hóa tâm linh, có lẽ Mã não là loại đá gắn với nhiều quyền năng nhất. Ngay từ thời Ai Cập cổ đại, Mã não đã được sử dụng làm vòng đeo tay, bát, bình đựng … Các loại bùa chú bằng đá Mã não thường được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, chống lại sấm sét, bão tố. Khi đi trên sa mạc, người ta tin rằng ngậm một viên mã não trong miệng sẽ giúp tránh khỏi cơn khát nước.

Ở châu Âu, Mã não (Agate) là biểu tượng của sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ. Ở Ấn Độ, nó là biểu tượng của của sự hưng thịnh. Đồ trang sức bằng mã não làm cho chủ của nó trở nên dễ mến trong giao tiếp và biết ăn nói, cũng như bảo vệ chủ chống lại kẻ thù thâm độc. Nhẫn gắn mặt đá mã não làm cho người đàn ông trở nên quyến rũ hơn trong mắt phụ nữ.
Trong thạch học trị liệu, năng lượng cảm thụ âm của Mã não có tác dụng tới tất cả các luân xa tuỳ thuộc vào màu sắc của đá. Mã não làm tăng tiềm năng, giúp điều trị bệnh ho lâu ngày và bệnh ở vùng họng. Người ta tin rằng, Mã não giúp làm giảm co giật, chống lại sự sợ hãi, bảo vệ cơ thể chống lại bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ở dạ dày.
Phong thủy nhà ở không tốt chẳng những ảnh hưởng đến sức khỏe, tài lộc công danh mà còn bất lợi cho đường tình cảm của gia chủ nữa. Cùng xem ngay phong thủy để vượng vận đào hoa nhé. Ngày nay tỷ lệ nam nữ chênh lệch khá cao, mọi người cũng có xu hướng kết hôn muộn, số nam nữ độc thân quá lớn khiến cho các nhà xã hội học cũng phải lo lắng. Chẳng ai muốn sống cô đơn cả, có nhiều người điều kiện cũng không đến nỗi nào nhưng không hiểu sao dù cố gắng ra sao cũng vẫn chẳng tìm được một nửa cho mình. Có thể bạn chưa biết, tình trạng độc thân của bạn rất có thể là chịu ảnh hưởng của phong thủy nhà ở đó. Phong thủy trong nhà không tốt dễ khiến cho vận đào hoa tàn lụi. Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu xem phải chú ý những điểm nào để vượng vận đào hoa nhờ phong thủy nhà ở nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Theo các chuyên gia về tướng số, việc bướm xuất hiện trong nhà là một điềm báo cho bạn và gia đình. Cùng giải mã điềm báo từ việc bướm bay vào nhà xem đây là điềm báo hiệu điều lành hay điềm dữ cho gia chủ?
Bướm bay vào nhà là điềm lành hay dữ
Loài bướm bay từ bông hoa này đến bông hoa kia hút mật hoa tượng trưng cho một đời sống hạnh phúc của những người trẻ. Đây là một loại hạnh phúc phù phiếm, mang tính chất giai đoạn đối với những người trẻ tuổi, chưa sẵn sàng cho hôn nhân. Vì thế một số người cho rằng bướm tượng trưng cho tình yêu không nghiêm túc.
Tuy nhiên, truyền thuyết về Lương Sơn Bá - Trúc Anh Đài, mối tình bất diệt thủy chung của chàng thư sinh nghèo và cô tiểu thư giàu có nhưng bị cha mẹ của cô gái ngăn cấm. Họ hết sức đau khổ và tìm đến cái chết. Sau khi chết, cả hai hóa thành bướm và mãi mãi bên nhau.
Khi thấy có con bướm bay vào trong nhà, nhiều gia đình thường tỏ ra lo sợ và tìm cách xua đuổi vì nghĩ rằng lông của con bướm bay sẽ bám vào quần áo, đồ dùng gây ngứa da cho mọi người. Tuy nhiên bạn đừng bao giờ tìm cách xua đuổi những con bướm này ra khỏi nhà của bạn. Bởi vì những con bướm này hầu như luôn luôn mang lại tin tốt lành. Bạn cũng đừng cố gắng bắt nó, cũng như là vô tình giết chết một con bướm vì như thế có thể bạn đang làm suy giảm may mắn của bạn đi đấy.
Theo các chuyên gia phong thủy bướm là một linh hồn, thường là điểm kết nối giữa sự sống và cái chết. Quá trình sinh trưởng từ một con sâu bướm xấu xí thành một con bướm xinh đẹp cũng giống như “hành trình” của một đời người: từ khi sinh ra, lập gia đình, đến khi chết đi, chôn cất, sang cát. Nhiều người còn tin rằng bướm là một linh hồn, vì loài bướm lúc nào cũng bay chập chờn như linh hồn người chết đang còn vất vưởng chốn dương gian.
- Nếu con bướm bay vào nhà bạn có màu sắc tươi sáng, có nghĩa là bạn sắp có những tin tốt liên quan đến chuyện tình yêu của bạn.
– Nếu con bướm là màu xám hoặc gần như đen bay vào nhà bạn là điềm báo sẽ mang lại cho bạn tin tốt lành liên quan đến nghề nghiệp hoặc công việc sự việc của bạn
Có nên ướp xác bướm khô không?
Nếu bạn là người thích bướm và muốn trưng bày bướm trong nhà, thì bạn nên nhớ rằng bướm khô được ghim vào gỗ sẽ phát ra nhiều năng lượng âm. ( không tốt cho phụ nữ, và những người có gia đình). Những con bướm này được bán làm quà lưu niệm cho du khách, nhưng thực tế đây chỉ là những xác bướm. Chúng tượng trưng cho cái chết, trưng bày bướm chết không mang lại lợi ích gì. Không những thế còn rất nguy hiểm, giống như việc bạn không chôn một người mà để xác họ bên cạnh vậy. Chính vì thế, bạn tuyệt đối không nên chơi xác bướm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Cửa chính của nhiều nhà đối diện với cầu thang và không hợp với phong thủy, nhưng trong những nhà tập thể kiểu cũ vẫn giữ kiến trúc này, mang lại nhiều bất lợi cho gia chủ.

Đối với những căn nhà tập thể cũ, hay nhà đông người phải chia tầng, chia phòng, thường hay gặp phải tình trạng của phòng của bạn đối diện với cầu thang.
Nếu cửa chính của phòng bạn, hay nhà bạn đối diện với cầu thang hướng xuống dưới, thì khí tốt sẽ theo đó mà thoát đi không có lợi cho tài vận của chủ nhà, hơn nữa cửa quay theo hướng nào còn ảnh hướng nhất định tới những người trong nhà.
– Cửa chính phía Đông đối diện với cầu thang hướng xuống thuộc quẻ Chấn, ảnh hưởng xấu nhất tới con trai lớn trong nhà.
– Cửa chính phía Đông Nam đối diện với cầu thang hướng xuống thuộc quẻ Tốn, ảnh hưởng xấu nhất tới con gái lớn trong nhà.
– Cửa chính phía Nam đối diện cầu thang hướng xuống thuộc quẻ Ly, ảnh hướng xấu nhất tới con gái thứ hai trong nhà.
– Cửa phía Tây Nam thuộc quẻ Khôn, ảnh hưởng xấu nhất tới người mẹ.
– Cửa phía Tây thuộc quẻ Đoài, ảnh hưởng xấu nhất tới con gái thứ ba.
– Cửa chính phía Tây Bắc thuộc quẻ Càn, ảnh hưởng xấu nhất tới chủ nhà.
– Cửa phía Bắc thuộc quẻ Khảm, ảnh hưởng xấu nhất tới con trai thứ hai.
– Cửa phía Đông Bắc thuộc quẻ Cấn, ảnh hưởng xấu nhất tới con trai thứ ba.
Phương pháp hóa giải đơn giản nhất là bạn nên treo trước cửa một tấm kính lõm, vì kính lõm có thể thu khí lại, không để khí tốt thoát ra ngoài.
Cửa trước, hoặc cửa chính có vai trò rất quan trọng trong phong thủy. Đó là nơi đón luồng năng lượng từ vũ trụ vào nhà. Do đó, cửa trước càng mạnh mẽ, càng cân đối thì chất lượng nguồn năng lượng càng tốt cho những người sống trong nhà. Vậy thế nào là một cánh cửa trước tốt nhất cho phong thủy? Dưới đây là 5 tính chất bạn có thể tham khảo để giúp gia tăng sức mạnh cho ngôi nhà của bạn.
Mở dòng chảy cho năng lượng Một dòng chảy năng lượng tràn trề không bị cản trở sẽ đi qua cửa chính để vào nhà của bạn. Điều này có nghĩa là không được phép đặt thùng rác, chậu cũ đã nứt vỡ, những cái cây đã chết hoặc bất kỳ vật nào có thể ngăn cản dòng chảy năng lượng phong thủy.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Những câu nói hay và ý nghĩa về mùa thu. Mùa thu, mùa của hương cốm, mùa của những chiếc lá vàng, mùa khơi nguồn cho các thi ca sáng tác nên những bài thơ, những câu nói hay về mùa thu.
Mùa thu của hương ổi, mùa thu của hoa cúc vàng nở, mùa thu – mùa của màu vàng nên thơ và tươi sáng. Mùa thu còn là ngày bắt đầu của một năm học mới, các bạn trẻ nô nức tới trường. Không còn hòa phượng, hoa bằng lăng tím nơi góc sân trường, mùa thu là mùa của những chiếc lá vàng, mùa của sân trường đầy lá rụng.
Hãy cùng ## cảm nhận và khám phá những câu nói hay nhất về mùa thu, âm hưởng của mùa thu qua bài thơ: “Mùa thu”
MÙA THU
Tác giả: Khánh Trang
Lá vàng rơi rớt sân trường cũ
Báo hiệu mùa thu đã đến rồi
Mùa thu vàng lá vàng mong đợi
Mang cả ưu tư cả ngậm ngùi
Mùa thu năm cũ chốn quê xa
Theo bước chân cha đến trường nhà
Rồi theo năm tháng dần kỉ niệm
Chất cả trong tim những ánh tà
Mùa thu cho phượng hết trổ hoa
Cho tháng ngày xa bạn cũng qua
Cho ngày tựu lớp thầy cô cũ
Hớn hở vui mừng rộn tiếng ca
Mùa thu năm đó tôi mười bảy
Mười tám anh vừa mới bước qua
Tình cờ không hẹn mà chung bước
Tôi biết được anh ở gần nhà
Mùa thu sau anh vào đại học
Theo bạn bè đi đến miền xa
Còn tôi năm cuối cùng trung học
Ôm mối tình đầu dệt tiếng ca
Mùa thu đó lá vàng mơ mộng
Với trời xanh tôi bước đến trường
Áo tôi xanh ngát màu hy vọng
Anh đã nhìn tôi thật thiết tha
Mùa thu năm trước đã chia xa
Tôi bỗng ngồi đây với xót xa
Áo xanh còn đấy người đâu mất
Có thấu chăng lòng ta với ta
Mùa thu còn thấm đượm đâu đó, những nỗi buồn xa xăm của đôi trai gái, mùa thu gắn với chúng ta bao kỷ niệm nên thơ, với những chốn hẹn hò đầy ý nghĩa. Hãy cùng đọc và cảm nhận những câu nói hay nhất về mùa thu qua bài thơ “Mùa thu ơi”
MÙA THU ƠI
Tác giả: Vũ Kim Thanh
Ừ nhỉ…MùaThu rồi
Lá vàng tóc em tôi
Ngược dòng thơ năm ấy
Lòng xao xuyến bồi hồiMùa Thu qua hồn tôi
Như tình qua ngõ tối
Hơi thở nghe vồi vội
sầu dâng tím làn môiToà lâu đài xa xôi
Chưa hẳn là đã mất
Bao đắng cay chớp giật
Có thể bật thành ngườiTrái tim anh còn lửa
Và giông bão cuộc đời
Trong tay em còn sóng
Lùa dần về biển khơi…Mùa Thu ơi…chơi vơi …
LIỄU MÙA THU
Tác giả: Nguyên Đỗ
Liễu mùa thu mái tóc còn xanh mượt
Bên hồ trong mắt ươn ướt vì sao?
Gió mùa thu bên hồ vẫn dạt dào
Liễu xanh biếc chắc vì đôi mắt liếc?Mùa thu về, lá vàng khơi muôn việc
Quét sân nhà, tưởng tiếc tháng ngày qua
Buổi xuân thì em mặc áo hoàng hoa
Đứng cạnh gốc dựa thân phong mơ mộngCây phong lớn, lá cành càng cao rộng
Trải xuống sân hoa gấm với mộng mơ
Anh đứng đây, cầm chổi, mắt trông chờ
Em có đến nhìn xem anh quét láMỗi ngày xa, từng giờ thêm khác lạ
Những buổi chiều êm ả gió ra khơi
Lá lả lơi, buông thả xuống lưng đồi
Bay bốn hướng, về phương trời vô địnhMùa thu đến mùa thu đi yên tĩnh
Cõi bình yên gờn gợn sóng thu ba
Những mùa thu, những chiếc lá đậm đà
Còn nhung nhớ những thời xanh như ngọc
Mùa thu của bé, thật đơn giản, nhưng cũng không kém phần thơ mộng, có màu vàng của hoa cúc, có hương cốm mới, có hội trăng rằm và mùa thu khai trường. Hãy cùng ## chiêm nghiệm những câu nói hay về mùa thu qua giọng thơ quen thuộc của nhờ thơ Quang Huy với bài “Mùa thu của em”
MÙA THU CỦA EM
Tác giả: Quang Huy
Mùa thu của em
Là vàng hoa cúc
Như nghìn con mắt
Mở nhìn trời đêm.Mùa thu của em
Là xanh cốm mới
Mùi hương như gợi
Từ màu lá sen.Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng tám
Chị Hằng xuống xem.Ngôi trường thân quen
Bạn thầy mong đợi
Lật trang vở mới
Em vào mùa thu.
Tác giả Xuân Diệu cũng đã góp cho đời không ít những bài thơ bất hủ, những câu nói hay về mùa thu. Các bạn có thể dễ dàng nhận ra giọng thơ say đắm và truyền cảm qua bài thơ “Đây mùa thu tới”
ĐÂY MÙA THU TỚI
Tác giả: Xuân Diệu
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rữa mầu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Mùa thu nơi em còn chan chứa bao nỗi nhớ về anh, bao kỷ niệm đôi lứa vào những buổi chiều hoàng hôn mùa thu say đắm. Cảnh vẫn còn đó, nhưng người xưa đâu? Để em mòn mỏi ngóng trông. Hãy cùng đọc và cảm nhận những câu nói, ý thơ hay nhất mà tác giả Đỗ Ngọc khắc họa qua bài thơ “Mùa thu tóc rối”
MÙA THU TÓC RỐI
Tác giả: Đỗ Ngọc
Một mùa thu tóc rối
Còn hoài trên môi em
Khi anh đến cạnh bên
Nâng cằm rồi chạm khẽMột mùa thu thật nhẹ
Chim lượn cánh bên hồ
Hoàng hôn chẳng buồn nhô
Chiều nghiêng nghiêng tĩnh lặngMột mùa thu nhạt nắng
Lá đổ ngập con đường
Nhuộm khoảng trời yêu thương
Bằng màu vàng tinh khiếtMột mùa thu mải miết
Đuổi theo một mùa thu
Anh đi xa biền biệt
Giăng mắt thu mịt mùHồn thu nay ở lại
Trên năm nhánh tay thon
Đưa tình vào dĩ vãng
Thu chết trong mỏi mòn
Bao yêu thương cho tôi xin gửi vào từng nhịp đập, hơi thở của mùa thu
TRÁI TIM MÙA THU
Tác giả: Đào Công Điện
Bởi quả tim chia hai phần phải, trái
Em ở đâu mà tim nhói đau hoài
Trước mùa thu đành lựa lời nói dối
Những buổi chờ giọt gõ suốt trên vaiNên tim vốn chứa trăm nghìn kiểu đập
Người thoáng qua tim loạn nhịp mưa rơi
Dáng khuất nẻo tim gầy như áp thấp
Đến thu nào tim sẽ một lần ngơi?
Mùa thu nhớ ai? Mùa thu kỷ niệm, mùa thu làm tim em rộn ràng, ngơ ngác, thu về chông chênh giấc ngủ, nhớ người xưa. Hãy cùng ## chiêm nghiệm những câu nói hay về mùa thu qua bài thơ “Dịu dàng mùa thu”
DỊU DÀNG MÙA THU
Tác giả: Minh Tuấn
Mùa thu mãi vẫn còn
Dẫu dở dang chờ đợiNay gặp mùa thu mới
Tim em vẫn rộn ràng
Bởi trong ngập lối vàng
Ai làm ngơ con mắt.Dẫu mùa thu góp nhặt
Những kỷ niệm đầy vơi
Lệ em vẫn thầm rơi
Thương nhớ NGƯỜI THU cũ.Thu về chông chênh ngủ
Với trăng thu mơ màng
Gió thu cố mang sang
Muôn lời người xin lỗi.Ai biết tình yêu vội
Một thoáng để thu phai
Để thu sau nối dài
Đắng cay và ân hận.Thứ tha làm lẽ sống
Như mùa thu nhớ ai
Hay những câu nói hay về mùa thu, những vần thơ ý nghĩa, mang tính chân thực sâu sắc của anh chàng sinh viên mới ra trường viết nhân dịp sinh nhật của bạn gái.
SINH NHẬT MÙA THU
Tác giả: Khiếu Long
Không có gì tặng em ngày sinh nhật
Mấy tháng nay ta thất nghiệp lâu rồi
Túi áo trái chỉ còn toàn nỗi nhớ
Tặng em nha… em không chịu thì thôiChiều ở đây mùa thu vàng góc phố
Đi lang thang tìm kỷ niệm hôm nào
Áo ai bay chập chùng chiều lộng gió
Trái tim buồn từng nhịp đập xôn xaoHai bên đường những chùm hoa tím dại
Nở dịu dàng trên từng bước thu sang
Ta vẫn chờ với tháng ngày hiu quạnh
Em đi qua ….ta lặng đứng bên đàngCon tim ta chiều nay sao trống vắng
Sinh nhật em… nỗi nhớ gởi đi rồi
Em có nhận hay dù em không nhận
Tình yêu ta …tât cả chỉ thế thôiĐời sẽ buồn …nếu không còn nỗi nhớ
Nếu ghét nhiều thì nhớ trả lại ta
Cho tháng ngày dù buồn thiu tàn tạ
Ta vẫn yêu ….như thưở mới như là
Mùa hè qua đi với cơn mưa rào bất chợt, không còn tiếng ve, phai tàn màu hòa phương, nhường chỗ lại cho mùa thu xao xuyến, đầy suy tư.
GÓC PHỐ NHỎ MÙA THU
Tác giả: Dã Qùy
Góc phố nhỏ mùa thu
Sáng nay chợt tỉnh giấc
Bao cánh bướm học trò
Đang cười đùa náo nứcGóc phố nhỏ mùa thu
Lẳng lặng bên sách vở
Mùa hè cũ đi qua
Con phố nào thoáng nhớ ?Góc phố nhỏ mùa thu
Hương Ngọc Lan dìu dịu
Loang loáng nắng giao mùa
Bao ngọc ngà níu kéoGóc phố nhỏ mùa thu
Chợt như vừa mới lớn
Mắt liếc bỗng có đuôi
Mắc cỡ gì hoa bướm ?Góc phố nhỏ mùa thu
Ngập ngừng lời bỏ ngỏ
Đi chung một con đường
Trang thư còn nguyên đóGóc phố nhỏ mùa thu
Trinh nguyên tà áo trắng
Guốc mộc khua nhịp chân
Tóc ươm ngàn tia nắngGóc phố nhỏ mùa thu
Nón che nghiêng e lệ
Ướp mộng cho quê hương
Tình nồng nàn đến thếGóc phố nhỏ mùa thu
Vạn vật đang thay áo
Nai vàng hát ngu ngơ
Bướm hoa màu hư ảo
Có nắng, có gió, có cốm xanh, có mùa hoa sữa, có gốc sấu cổ thụ và còn cả bao kỷ niệm em và anh đất trời mùa thu Hà Nội. Hãy cùng ## cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của mùa thu Hà Nội cùng những góc yêu thương của đôi bạn trẻ qua những câu nói hay về mùa thu trong bài thơ “Mùa thu phương xa nhớ mùa thu Hà Nội”
MÙA THU PHƯƠNG XA NHỚ MÙA THU HÀ NỘI
Tác giả: A Phủ
Anh gửi về em một chút mùa thu
Có nắng gió với khí trời nơi anh sống
Có màu của cỏ cây không gian chuyển động
Gửi về em…anh đổi chút thu nhà.
Mùa thu bên anh!mùa thu phương xa
Cũng lá vàng rơi mặt trời tắt vội
Sao anh mãi nhớ mùa thu hà nội
Anh nắm tay em dạo bước hồ tây.
Vẫn con đường cũ ghế đá hàng cây
Đã quen thuộc với chúng mình quá đỗi
Bên gốc sấu già nhiều năm cằn cỗi
Ghi lại bao nhiêu câu chuyện tình yêu.
Mùa thu Hà Nội thêm đẹp trong chiều
Thêm lộng lẫy trong hoàng hôn nhuốm đỏ
Hương hoa sữa ngạt ngào bay trong gió
Để ai xa…thu đến…lại nhớ về.
Mùa thu bên anh!cháy bỏng đam mê
Có một chút hương mùa thu Hà Nội
Chút sắc màu nơi phồn hoa đô hội
Chút kỷ niệm xưa em sẽ gửi cho anh.
Đã mấy mùa thu lạnh lẽo vắng tanh
Không có em tay trong tay cùng bước
Anh thấy mùa thu nhạt màu hơn trước
Đi trên lối quen sao vẫn lạ xa.
Mùa thu bên anh!hình bóng quê nhà
Mùa thu phương xa!nhớ mùa thu Hà Nội
Và anh yêu em!càng thêm gấp bội
Lá vàng rơi…hay nỗi nhớ…đang rơi!
Sinh giờ Tý (23-1h): Mùi mệnh Thổ khắc chế Tý mệnh Thủy.
Sinh giờ Sửu (1-3h): Mùi mệnh Thổ sánh ngang Sửu mệnh Thổ. Sinh ngày này là người có nếp sống khoa học, chỉn chu. Trong đời mọi việc đều diễn ra bình thường, đôi lúc cũng bị hao tài tốn của.
Sinh giờ Dần (3-5h): Mùi mệnh Thổ khắc Dần mệnh Thổ. Giờ này có sao Tử Vi chiếu mệnh nên tuổi Mùi có số may mắn, sự nghiệp tiến tới. Tuy có lúc bị kiện tụng nhưng cuối cùng cũng được giải cứu.
|
|
|
Sinh giờ Thìn (7-9h): Thìn mệnh Thổ sánh ngang Mùi mệnh Thổ. Người tuổi Mùi sinh giờ này có sao tốt chiếu mệnh nên nếu đi xa quê hương sẽ có số thuận lợi, tốt đẹp.
Sinh giờ Tỵ (9-11h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Mùi mệnh Thổ. Giờ này có sao Dịch Mã chiếu mệnh nên người tuổi Mùi có số ly hương, phải đi Nam về Bắc để cầu danh lợi.
Sinh giờ Ngọ (11-13h): Ngọ mệnh Hỏa sinh Mùi mệnh Thổ. Người tuổi Mùi sinh vào giờ này cả đời vui vẻ, gia đình hạnh phúc. Tuy có lúc mắc bệnh nhẹ nhưng cũng tai qua nạn khỏi.
Sinh giờ Mùi (13-15h): Người sinh giờ này có sao Hoa Cái chiếu mệnh, thường rất thông minh, tài năng, đức độ. Tuy nhiên, do phạm phải sao Thái Tuế nên thường hay bị chóng mặt, đau đầu.
Sinh giờ Thân (15-17h): Mùi mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Nhờ có sao Thái Dương cao chiếu nên người sinh giờ này tuy có số cô đơn nhưng mọi việc đều thuận lợi, mưu sự tất thành, niềm vui nối tiếp.
Sinh giờ Dậu (17-19h): Mùi mệnh Thổ sinh Dậu mệnh Kim. Là người không may mắn, có số lao đao, khốn khổ, nên đề phòng oan khiên, kiện tụng, cãi cọ rắc rối.
Sinh giờ Tuất (19-21h): Mùi mệnh Thổ sánh ngang Tuất mệnh Thổ. Người sinh giờ này bị sao Cẩu Giảo chiếu mệnh nên thường gặp bất lợi trong hôn nhân.
Sinh giờ Hợi (21-23h): Mùi mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Là người trong đời bị tiểu nhân quấy phá, cãi cọ liên miên. Tuy nhiên, do được sao Quan Phù chiếu mệnh nên nếu có địa vị tốt, mọi việc sẽ được hóa giải.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
|
![]() |
| Ảnh minh họa |