Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặc tính Thổ trong phong thủy –

Thổ là "Giá tường". Trồng trọt là giá, thu hoạch là tường. Thổ có chắc năng nuôi dưỡng vạn vật, sinh hoá, tàng nạp chính vì vậy Thổ bao gồm cả bốn hành còn lại, là mẹ của vạn vật, có tính chất cống hiến, trung hậu, Thổ chủ Tin. Trong tứ trụ Thổ vượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thổ là “Giá tường”. Trồng trọt là giá, thu hoạch là tường. Thổ có chắc năng nuôi dưỡng vạn vật, sinh hoá, tàng nạp chính vì vậy Thổ bao gồm cả bốn hành còn lại, là mẹ của vạn vật, có tính chất cống hiến, trung hậu, Thổ chủ Tin.

Alien_Landscape

Trong tứ trụ Thổ vượng mặt rộng mũi cao, cơ thể cường tráng, giữ chữ tín, lòi nói đi đôi với hành động, trung hậu thẳng thắn, dũng cảm, trung thành chí hiếu, vui vẻ cống hiến, vừa biết thu vừa biết giữ.

Nếu xét Tứ trụ của một người khi sinh ra mà Thổ quá nhiều thì người đó có tính cách hướng nội, bướng bỉnh, cố chấp, công việc không rõ ràng; Thổ mà thiếu thì mặt to mũi tẹt, thần sắc ngưng trệ, có lời bất tín, cay độc, kẹt xỉ, tự tư tự lợi, cố chấp, không hiểu lý tình.

Thổ chủ Tín, tính nặng, tình đầy, vị ngọt, màu vàng. Người Thổ thịnh, lưng tròn mũi rộng, mặt mày thanh tú, nói hay, âm thanh nặng, là người trung hiếu thành thật, độ lượng khoan dung, tính tình dứt khoát, lời nói việc làm thống nhất, làm việc thì hiệu quả.

Thổ khí quá nhiều thì suy nghĩ cứng nhắc, mờ tối chậm chạm, hướng nội, thích tĩnh. Nếu khí thổ ít thì người có dáng nặng nhọc, mặt to mũi thấp, làm điều độc hại cho người, không giữ chữ tín không hiểu lý tình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính Thổ trong phong thủy –

Xem tướng mũi –

Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất bởi vì vậy khi coi tướng nếu như thấy cái mũi xấu thì … khỏi cần coi tiếp cũng được … Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con … Cái mũi đượ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất bởi vì vậy khi coi tướng nếu như thấy cái mũi xấu thì … khỏi cần coi tiếp cũng được … Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con …

mui-dep-3-300x300

Cái mũi được chia ra làm 2 loại :

1/ Thượng cách gồm có 3 hạng :

– Thiện tướng : Không cần phải giầu nhưng suốt đời vui sướng và khi chết cũng an toàn.
– Quý tướng : Kẻ quý thì dỉ nhiên là giàu nhưng chưa chắc gì la thiện.
– Phú tướng : Mũi cần phải đầy dặn, to lớn và 2 lổ mũi ẩn kín.

Trên đời ta không bao giờ thấy có 3 tướng mũi như đã nói trên đi chung. Ta có thể thấy quý dể đi đôi với phú hoặc có thể đi đôi với thiện nhưng phú thì ít đi đôi với thiện.

2/ Hạ cách ta cũng gòm có 3 hạng [ác, tiện và bần] :

– Tướng mũi ác là xấu nhất vì người có tướng mũi ác sẽ chết bất đắc kỳ tử hoặc có thể cả nhà sẽ bị thảm tử.
– Tướng mũi ác không nhất định phải kiêm cả bần bởi vì Tướng mũi ác đa số dễ giàu có.
– Tướng mũi bần không nhất định phải kiêm cả tiện nhưng ta thường hay thấy tướng bần và tướng tiện rất nhiều còn tướng ác thì ít hơn.

Mũi nên đầy đặn cao lớn có thịt như trái mật treo, ngay ngắn không chênh lệch, không thô, không nhỏ, nhưng nên nhớ là to lớn nhưng không được thô tục thì mới tốt, thì những người này không giàu thì cũng sang.

Mũi chó, diều hâu, dao nhọn, gồ ghề, gẫy lỗ mũi hếch, lệch và yếu ớt, sống mũi lộ, cao và cô đơn như ngọn núi là những người phải chịu lao đao, vất vả tâm tính gian tham.

Mũi thẳng, đầu mũi tròn trịa có da thịt thì tính tình nhân từ, bộc trực.

Mũi ngưỡng [hay liếc ] thiên thì vô nhân vô nghĩa .

Mũi nhọn, đầu mùi không có thịt thì tính tình sảo trá.

Mũi khoằm như lưởi câu hay mỏ chim ó thì tính tình hiểm độc.

Sống mũi có đốt lộ ra [hay có người gọi là mũi gãy] là vộ chồng lục đục và đôi khi khắc, sát.

Mũi chảy xệ là người mắc chứng ho lao hoặc suyễn và nếu như mũi xệ che khuất nhân trung thì kẻ đó sống không quá 40.

Khi xem tướng mũi ta cũng phải nên coi sắc khí của mũi vì mũi cần có quang nhuận da dẻ mịn màng và màu hồng vàng dưới làn da . Mũi không được đỏ như kẻ nghiện rượu vì kẻ đó sẽ bị vất vả và mũi đen như tro là kẻ làm cho lắm nhưng vẫn không đủ ăn.

4 loại mũi tốt nhất :

1/ Mũi trái mật treo : Đầy đặn, lổ mũi kín và sống mũi cao không lộ cốt chạy lên đến sơn căn [giữa 2 con mắt] là kẻ phú quí nhiều may mắn.
2/ Mũi như ống tre : Sống mũi cao thẳng, bóng bẩy, đầu mũi và cành mũi chắc chắn đầy đặn là kẻ phú quí.
3/ Mũi như sư tử : Nở to đầy, lổ mũi kín nhưng không được sần sùi là kẻ phú bất quí.
4/ Mũi rồng : Mũi này hiện nay rất ít có người có vì nó gòm lại 3 tướng mũi vừa được nói trên hợp lại mà mũi này thuộc về vua chúa về thời xưa …

Những tướng mũi xấu :

1/ 2 lỗ mũi rộng toác là kẻ nghèo khổ, túng bấn.
2/ Mũi gẫy là kẻ cô độc
3/ Mũi như cái núi là kẻ tự cao tự đại dễ bị ghét nên nghèo khổ.
4/ Mũi chó là thuộc loại mũi gầy lộ sống mũi và hình dung thô tục là loại hèn hạ.
5/ Mũi chim ưng là kẻ gian tà ác tâm.

Khi coi tướng mũi ta cần phải phối hợp với lưỡng quyền vì mũi lớn đẹp mà lưỡng quyền thấp thì không được và tướng mũi cần phải đi đồi với tướng mắt bởi vì mũi lớn đẹp mà tướng mắt hỏng thì cho dù có giàu cũng không sang được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mũi –

Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016 - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016, 12 con giáp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016, tu vi Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016, tu vi 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016

Sang tháng 3, top con giáp này sẽ gặp được rất nhiều may mắn, đặc biệt là đường tài lộc. Hãy xem bạn có nằm trong top con giáp may mắn này không nhé!

Tuổi Hợi

Họ vốn là người biết chờ đợi thời cơ, không bao giờ tự ti mặc cảm, luôn dũng cảm xông pha trước những khó khăn thử thách của cuộc sống.

Chính vì thế họ luôn là con giáp phúc khí tràn đầy trong tương lai. Dựa vào khả năng và bản lĩnh của mình cùng với sự nỗ lực không ngừng nghỉ họ sẽ luôn có những thành công rực rỡ.

Tháng 3 tới vận thế của họ thăng hoa, tài khí dồi dào. Các nguồn thu dồn dập tới tấp giúp họ trở thành con giáp quán quân về tài lộc dồi dào, vượng phát trong tháng 3.

Tuổi Tý

Sang tháng 3, tuổi Tý sẽ có được sự giúp đỡ của các quý nhân. Vì thế, tổng thể vận thế rất tốt. Các mối quan hệ tốt, làm việc gì cũng thuận, dễ dành được thành công, tiền tài rủng rỉnh.

Họ lại là tuýp người dám chọn những công việc mang tính thử thách. Chỉ cần muốn làm thì việc gì cũng làm được và giành được thành công.

Tuổi Mão

Tháng 3 này, tuổi Mão cũng là những người hết sức may mắn. Họ được thần tài phù trợ nên các khoản thu chính rất dồi dào. Ngoài ra, họ cũng hưởng lộc khá nhiều từ các khoản thu thêm.

Những người tuổi Mão lại có đức tính cẩn thận và khôn khéo, chính vì thế, họ đa phần rất may mắn.

Tuổi Dậu

Tài vận tháng 3 của những người tuổi Dậu có phần lạc quan. Ngoài nguồn thu chính ổn định thì họ cũng khá may mắn vì các khoản thu ngoài khác.

Tuổi Dậu là những người khá chu đáo, cẩn thận, biết nỗ lực trong công việc, chỉ cần cố gắng là mọi việc tất thành công.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp tài vận tốt nhất tháng 3/2016 - 12 con giáp - Xem Tử Vi

Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Thìn

Nhìn chung vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Thìn không mấy suôn sẻ. Mặc dù họ bận rộn trong công việc nhưng tiền bạc thu về không đáng kể.
Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Van the nam At Mui cua nguoi tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Tổng quan: Người tuổi Thìn sinh vào năm 1940, 1952, 1976, 1988, 2000, 2012. Xét về tổng thể, vận thế năm 2015 của  người tuổi Thìn không thuận lợi và may mắn so với năm trước. Công việc vất vả và bận rộn hơn, việc gì cũng đến tay nên không có nhiều thời gian nghỉ ngơi. Do đó, luôn cảm thấy áp lực, mệt mỏi. Công việc tạm ổn định nhưng dễ dính họa thị phi, cạnh tranh trong nghề nghiệp, đặc biệt là vào tháng 3 và tháng 9. 
 
Tài vận: Trong năm Ất Mùi, tài vận của người tuổi Thìn không gặp nhiều thuận lợi, dù vất vả bận rộn trong công việc. Người sinh vào mùa Đông có tài vận tốt hơn những mùa khác. Con giáp này cần phải chủ động nắm bắt cơ hội, tăng cường bài trí phong thủy phòng làm việc để kích hoạt trường khí cho mình, tránh bỏ lỡ những thời cơ hiếm có.
 
Sự nghiệp: Công việc bận rộn, số tiền thu về không nhiều nhưng bù lại, trong năm nay, người tuổi Thìn có cơ hội thăng chức. Người kinh doanh tự làm chủ đều có cơ hội làm giàu trong năm nay, tuy nhiên, công sức bỏ ra cũng rất nhiều. Với người làm công ăn lương, công việc khá ổn định, tiền bạc vẫn ở mức thường. Ngoài ra, trong công việc, người tuổi Thìn dễ gặp chuyện thị phi, mâu thuẫn với đồng nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới công việc. Đặc biệt là những người sinh năm 1988, cần phải điều chỉnh tốt cảm xúc của mình, tránh bị kéo vào những rắc rối thị phi phức tạp nơi công sở.
 
Sức khỏe: Năm nay, sức khỏe của người tuổi Thìn ở mức trung bình. Cộng thêm với công việc bận rộn nên lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi. Nam mệnh tuổi Thìn cần chú ý hơn về vấn đề tiêu hóa, đặc biệt là những người sinh năm 1952, 1964 và 1988. 
 
Tình duyên: Chuyện tình cảm trong năm 2015 của người tuổi Thìn không thuận lợi. Tuy không ít người theo đuổi nhưng đều không đi đến kết quả tốt đẹp. Dù ấn tượng ban đầu tốt, nhưng trong quá trình xuất hiện nhiều cản trở, khiến tình cảm đôi bên chưa thông suốt đã bị đứt đoạn. 
 
Cách hóa giải: Người tuổi Thìn được Phật bản mệnh Phổ Hiền Bồ tát độ trì, do đó có thể bài trí tượng phật này trong nhà. Ngoài ra, có thể dùng các đồ trang sức, ngọc phong thủy để hóa giải sự xui xẻo. Bạn có thể chọn các loại trang sức màu đỏ hoặc tím như mã não, ruby, thạch anh…đều mang lại may mắn và sự thuận lợi cho bạn.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Thìn

Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ

Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ hay và ý nghĩa nhất gửi tới người vợ yêu quý của mình. Hãy thể hiện lời chúc như cám ơn bà xã của mình
Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ hay và ý nghĩa nhất gửi tới người vợ yêu quý của mình. Hãy thể hiện lời chúc như cám ơn bà xã mỗi ngày nấu bữa ăn ngon cho cả gia đình, đã sinh được bé kháu khỉnh., cám ơn vì bà xã đã động viên.

Vậy bạn hãy cùng xem những lời chúc mừng sinh nhật hay nhất nhé. Chúc bạn có được cho mình những lời chúc mừng sinh nhật vợ ý nghĩa và đáng yêu nhất!

Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ

Vợ yêu của anh à. Anh và con chúc em luôn luôn mạnh khỏe, xinh đẹp, vui vẻ. Vợ ơi! Yêu vợ nhiều lắm. Cảm ơn vợ đã vất vả vì bố con anh!

———-

Hôm nay là sinh nhật của Vợ yêu, Anh muốn gửi tới Em tình cảm yêu thương nhất từ sâu thẳm trong trái tim Anh. Với Anh, Em là tất cả, tài sản vô giá của cuộc đời Anh. Anh luôn cầu nguyện và hằng mong cho Em có sức khoẻ để được bên Anh trên cuộc đời này. Anh luôn chúc Em thành công trong sự nghiệp, nhưng với Anh sức khoẻ của Em là quan trọng nhất để Anh luôn có Em bên cạnh. Anh yêu Em nhiều và nhất, chỉ một mình Em thôi!

———–

Sinh nhật này hay các sinh nhật các năm mới tiếp theo vợ yêu sẽ vẫn mãi là Em trong lòng Anh! Những gì tốt đẹp nhất sẽ luôn luôn đến với Em!

Anh luôn dành cho em trọn vẹn tình yêu thương trong trái tim. Chúc em luôn khỏe, trẻ và là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho anh và các con! Yêu em nhiều! Happy birthday!

Chúc Em mãi mãi xinh đẹp, mãi tươi trẻ, đáng yêu, đằm thắm như thủa ban đầu và mãi là như thế … Cám ơn Em về tất cả những gì Em đã mang lại cho anh…anh vẫn luôn lấy đó là niềm tự hào hãnh diện vì có Em, một người vợ xinh đẹp, ngoan ngoãn và chu đáo, hết mực yêu thương chồng.

Chúc em yêu ngày sinh nhật tràn đầy vui vẻ và hạnh phúc. đầu tiên anh muốn gửi đến yêu thương của anh là anh rất nhớ em và yêu em rất nhiều. Em có biết rằng anh yêu em nhiều lắm không. Không được ở bên em trong ngày sinh nhật ý nghĩa nhưng trái tim… luôn hướng về em.

Chúc mừng người phụ nữ rất xinh đẹp, rất đảm đang và vô cùng tuyệt vời…Đặc biệt rất thương chồng thương con và luôn chăm lo hết mình đến gia đình nhỏ bé của mình. Anh yêu em nhiều lắm, Anh hạnh phúc vì đã có em.

Nhân ngày sinh nhật vợ yêu, chúc vợ sức khỏe, hạnh phúc, vui vẻ, luôn sát cánh và chăm lo cho chồng con. Anh yêu em nhiều!

Anh chẳng biết nói gì hơn, nhân ngày sinh nhật em, Anh chỉ biết chúc em luôn luôn mạnh khoẻ, hạnh phúc, xinh đẹp và luôn luôn là vợ hiền, người mẹ tuyệt vời của các con.

Nhân ngày sinh nhật vợ, xin gửi tới vợ ngàn lời yêu thuơng, ngàn lời hạnh phúc.Vợ mãi mãi xinh đẹp, đáng yêu, Anh luôn tự hào về một người vợ xinh đẹp, ngoan ngoãn, đảm đang.

Bà xã của anh ơi. Em đã vất vả với cả bố con anh nhiều rồái. Bố con anh rất cám ơn những bữa ăn ngon, những bộ quần áo thơm tho, đặc biệt tình yêu vô bờ mà em đã dành cho anh và các con . Anh chúc bà xã sinh nhật sức khỏe, xinh đẹp. Nhà này mẹ các con là số 1 nha. Bố con yêu mẹ nhiều lắm.

Vợ yêu của anh à. Anh và con chúc em luôn luôn mạnh khỏe, vui vẻ và… ăn khỏe. Vợ ơi! Cố gắng an nhiều vào nhé! Yêu vợ nhiều lắm. Cảm ơn vợ đã vất vả vì bố con anh!

Vợ yêu, thế là đã đến ngày sinh nhật của em rồi đấy!
Hôm nay là sinh nhật của Vợ yêu, Anh muốn gửi tới Em tình cảm yêu thương nhất từ sâu thẳm trong trái tim Anh. Với Anh, Em là tất cả, tài sản vô giá của cuộc đời Anh. Anh luôn cầu nguyện và hằng mong cho Em có sức khoẻ để được bên Anh trên cuộc đời này. Anh luôn chúc Em thành công trong sự nghiệp, nhưng với Anh sức khoẻ của Em là quan trọng nhất để Anh luôn có Em bên cạnh. Anh yêu Em nhiều và nhất, chỉ một mình Em thôi!

Chúc Vợ yêu thêm một tuổi đầy hạnh phúc bên chồng và Em mãi mãi xinh đẹp, mãi tươi trẻ, đáng yêu, đằm thắm như thủa ban đầu và mãi là như thế … Anh đã rất hạnh phúc lắm lắm Em biết không? anh cám ơn Em về tất cả những gì Em đã mang lại cho anh…anh vẫn luôn lấy đó là niềm tự hào hãnh diện vì có Em, một người vợ xinh đẹp, ngoan ngoãn và chu đáo, hết mực yêu thương chồng.

Vợ yêu, thế là chúng ta đã là một gia đình ngọt ngào
Chồng luôn tự hào về một người vợ xinh đẹp ,ngoan ngoãn
Cho dù chúng ta ít khi chia sẻ với nhau hơn như hồi trước , vợ nhỉ ^:^, nhưng đối với chồng _vợ luôn có một ý nghĩa thật quan trọng và đặc biệt.
Gửi tới vợ ngàn lời yêu thuơng,
ngàn lời hạnh phúc,
Vợ mãi mãi xinh đẹp, đáng yêu, ….

Chồng yêu vợ thật nhiều, muốn ôm vợ yêu thật chặt, muốn tặng vợ yêu với những nụ hôn thật sâu. Chồng yêu vợ. Sinh nhật chồng chúc vợ bản lĩnh trong công việc và chúc cho tình yêu của vợ chồng mình dành cho nhau ngày càng ngập tràn trong căn phòng của vợ chồng mình. Mãi yêu vợ, mình sẽ mãi mãi hạnh phúc nhé vợ yêu của chồng……Chúng mình cùng nhau vươtj qua tất cả nhé…yêu vợ nhiều……chụt chụt chụt……

Em yêu!
Cho dù chúng ta ít thời gian bên nhau để chia sẻ bao nổi lo toan cuộc sống Em nhỉ?, nhưng đối với anh, Em luôn có một ý nghĩa thật quan trọng và đặc biệt trong cuộc đời Anh. Cảm ơn Mẹ đã sinh ra Em vào ngày này  năm ấy và cảm ơn cuộc đời đã dành Em cho Anh! ước gì lúc này Anh đang được ở bên Em và ôm Em thật chặt vào lòng để Em không bao giờ rời xa Anh dù chỉ một phút cũng không. Anh nhớ Em quá…!!! Nhiều lúc Anh cũng đã nghĩ nếu không có Em thì anh sẽ như thế nào? Anh cũng không biết nữa.

Đây chính là sinh nhật đầu tiên có Anh phải không? Em đừng buồn nhé! Mặc dù không ở bên Em nhưng con người Anh, trái tim Anh luôn luôn nghĩ về Em và lo lắng cho Em. Vợ yêu qúy của Anh không được buồn đâu đấy nhé, Vợ yêu ơi ! hãy cười lên cho Anh xem nào… Đấy!!! Như thế có phải xinh hơn không. Em có biết không, chính nụ cười của Em là lẽ sống của Anh.

Một lần nữa chúc Em sinh nhật vui vẻ! Chúc Em thêm tuổi mới sẽ vẫn mãi là Em trong lòng Anh! Những gì tốt đẹp nhất sẽ luôn luôn đến với Em!
Anh yêu Em nhiều lắm, Vợ yêu qúy và đáng yêu của Anh!

Anh muốn gửi tới Em tình cảm yêu thương nhất từ sâu thẳm trong trái tim Anh. Với Anh, Em là tất cả, tài sản vô giá của cuộc đời Anh. Anh luôn cầu nguyện và hằng mong cho Em có sức khoẻ để được bên Anh trên cuộc đời này. Anh luôn chúc Em thành công trong sự nghiệp, nhưng với Anh sức khoẻ của Em là quan trọng nhất để Anh luôn có Em bên cạnh. Anh yêu Em nhiều và nhất, chỉ một mình Em thôi!!!

Vợ yêu,
Chúc Vợ yêu hạnh phúc bên chồng và Em mãi mãi xinh đẹp, mãi tươi trẻ, đáng yêu, đằm thắm như thủa ban đầu và mãi là như thế … Anh đã rất hạnh phúc lắm lắm Em biết không? anh cám ơn Em về tất cả những gì Em đã mang lại cho anh…anh vẫn luôn lấy đó là niềm tự hào hãnh diện vì có Em, một người vợ xinh đẹp, ngoan ngoãn và chu đáo, hết mực yêu thương chồng.

VỀ NGÔI NHÀ MỚI EM ƠI !
VỀ NGÔI NHÀ MỚI CHO ĐỜI THÊM HƯƠNG
NGÔI NHÀ ẤM ÁP TÌNH THƯƠNG
CỦA ĐÔI TA ĐÓ THIÊN ĐƯỜNG TRẦN GIAN
CÓ TA VÀ CŨNG CÓ NÀNG
CHUNG VUI SUM HỢP NỒNG NÀN BÊN NHAU !
ĐÊM VỀ TA CÓ TRĂNG SAO
CÓ TRĂNG CHIẾU SÁNG VƯỜN AO CÁ MÈ
DƯỚI TRĂNG TA SẼ NGUYỆN THỀ
THƯƠNG NHAU GIỮ TRỌN LỜI THỀ TRĂM NĂM !
ĐÊM NAY RỰC ÁNH TRĂNG RẮM
YÊU NHAU NGÂY NGẤT TA NẰM BÊN NHAU !
ĐÊM MƠ MÁ ẤP MÔI ĐÀO
NGUYỆN XIN TRỜI ĐẤT TRĂNG SAO CHỨNG LÒNG
TRỌN ĐỜI CHUNG THỦY VỢ, CHỒNG
LÒNG KHÔNG THAY ĐỔI MÁ HỒNG EM ƠI !
ANH YÊU EM SUỐT CUỘC ĐỜI
SẼ LÀ SUỐT KIẾP VỚI NGƯỜI TÔI YÊU !

Anh luôn dành cho em trọn vẹn tình yêu thương trong trái tim. Chúc em luôn khỏe, trẻ và là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho anh và các con! Yêu em nhiều! Chúc mừng năm mới

Gà ngốc của anh, hôm nay sinh nhật em, anh chúc vợ yêu của anh luôn vui vẻ, trẻ trung và quyến rũ nhé. Love you!

Trên đây là tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ yêu cực kì dễ thương và ý nghĩa thay lời muốn nói. Hãy gửi gắm những tình cảm của mình vào các câu thơ, lời chúc nhân ngày sinh nhật vợ nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những lời chúc mừng sinh nhật vợ

Phong thủy và 4 lưu ý khi sử dụng pha lê

Cùng với sự phát triển của trào lưu hiện đại, ngày càng có nhiều gia đình sử dụng chất liệu pha lê trong trang trí nhà ở. Tuy nhiên, từ góc độ phong
Phong thủy và 4 lưu ý khi sử dụng pha lê

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thủy, vẫn còn một số điều cần lưu ý.

1. Pha lên không thích hợp để ngăn cách phòng

Một số gia đình sử dụng pha lê làm vách ngăn phòng khách và phòng ngủ. Họ cho rằng như vậy sẽ có lợi cho việc mở rộng không gian xét về mặt thị giác. Tuy nhiên, không phải bất cứ địa điểm nào cũng thích hợp để dùng vách ngăn pha lê, với nhà ở thì lại càng cần lưu ý.

Từ góc độ phong thủy, hoạt động của khu vực phòng khách có sự khác biệt rõ rệt với phòng ngủ. Phòng khách là nơi diễn ra các hoạt động giao lưu, thuộc dương trong khi phòng ngủ là nơi chủ nhân nghỉ ngơi, thuộc âm. Nếu như sử dụng chất liệu pha lê sẽ khiến cho âm - dương mất cân bằng, khiến tâm tư của người sống trong nhà bất ổn, ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh.

2. Chú ý với pha lê trong nhà vệ sinh

Một số nữ chủ nhân trẻ tuổi sau khi kết hôn thích cải tạo nhà vệ sinh khép kín trong phòng ngủ với chất liệu pha lê nhằm tăng “không khí gợi cảm”. Tuy nhiên, cách thiết kế này không thích hợp về mặt phong thủy. Vì nhà vệ sinh bất luận như thế nào cũng đều chứa sát khí, thuộc âm, nên tránh xa, đóng kín. Nếu cần thiết dùng tường chắn thì cũng không nên dùng chất liệu pha lê.

3. Sàn pha lê gây cảm giác bất ổn

Trong một số thiết kế đặc biệt nhằm tăng vẻ mỹ lệ cho nội thất, có người thích dùng chất liệu pha lê để trang trí với các đồ án hoa văn đẹp mắt. Tuy nhiên, chất liệu pha lê trong suốt, khiến con người có cảm giác không thật mắt. Từ đó gây cảm giác bất an khi đi lại. Trong khi đó, hơn nơi nào hết, bề mặt sàn phải tạo cảm giác ổn định, vững chắc nhất trong sinh hoạt.

4. Tường pha lê không đối diện đầu giường

Tường pha lê cũng là một trong những "thủ pháp" được các kiến trúc sư hiện nay ưa dùng. Bởi nó tạo cảm giác không gian mở rộng và có sự biến đổi phong phú đến kinh ngạc. Bạn có thể sử dụng tường pha lê nhưng không nên bố trí đối diện giường ngủ.

Ngoài ra, tường pha lê cần được bố trí dựa vào tường thật để tránh không gian hư thực không rõ ràng.   (Theo Kmshsh.cn)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy và 4 lưu ý khi sử dụng pha lê

15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam

Tết nguyên đán rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Ngày tết đến người người nhà nhà sum họp vây quần bên nhau. Bên cạnh đó thì những phong tục truyền thống trong những ngày tết việt nam cũng rất quan trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cúng ông Công, ông Táo.
Ngay từ ngày 23 tháng Chạp, các gia đình Việt Nam đã dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp để cúng ông Công, ông Táo, lễ cúng truyền thống phải có cá vàng để tiễn ông về trời, mong ông sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng những điều tốt vì theo quan niệm dân gian đây là ngày mà Ngọc Hoàng sẽ trách phạt hay thưởng gia chủ dựa trên những gì mà ông Táo báo cáo.
 


2. Gói bánh Chưng
Bánh Chưng là món ăn truyền thống, lâu đời của người Việt. Ngay từ những ngày 28, 29 Tết, các gia đình Việt Nam thường gói bánh Chưng để làm quà biếu Tết và để thưởng thức. Ăn bánh Chưng để nhớ về công ơn của tổ tiên, cha mẹ và gợi nhớ đến câu chuyện vua Hùng kén phò mã từ rất lâu đời.
 


3. Hoa Tết

Ngày Tết, người Việt thường mua những cây hoa tượng trưng cho sự may mắn như: đào, mai, quất..để xua đuổi tà ma, cầu cho một năm mới luôn vui vẻ, hạnh phúc, thịnh vượng, viên mãn cho cả gia đình.
 


4. Mâm ngũ quả

Bày mâm ngũ quả cũng là một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của các gia đình Việt. Mâm ngũ quả tượng trưng cho Kim- Mộc- Thủy- Hỏa- Thổ, 5 yếu tố cấu thành nên vũ trụ theo quan niệm của Khổng giáo với nghĩa chung sâu sắc, gắn liền vơi sụ hiếu thảo và mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới.
 


5. Rước vong linh ông bà

Đêm giao thừa, người Việt thường bày biện hoa quả, đồ cúng thành mâm cỗ để dâng lên ông bà, tưởng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của năm cũ, ước mong cho năm mới sắp đến.
 


6. Hái lộc

Hái lộc đầu xuân là một nét đẹp trong ngày Tết truyền thống của người Việt. Người dân Việt Nam thường đi hái lộc vào đêm giao thừa hoặc sáng mồng một để cầu một năm mới luôn may mắn và viên mãn, rước lộc về nhà.
 


7. Xông đất

Xông đất là một phong tục rất quan trọng của người Việt Nam vì họ quan niệm rằng, người xông đất sẽ quyết định cả một năm vui vẻ, phát đạt hay không may mắn của mình. Vì thế, họ thường mời những người có vận may, có tuổi hợp với chủ nhà đến xông đát vì họ tin rằng, người đó sẽ mang may mắn, điềm lành trong suốt cả một năm. Người xông đất phải ăn mặc chỉnh tề, sau đó phải đi hết 1 vòng quanh nhà với hi vọng may mắn sẽ luôn tràn ngập.

8. Chúc Tết

Vào ngày mồng một, người Việt Nam có phong tục đi chúc Tết họ hàng, bạn bè và những người thân quen của mình.
 


9. Mừng tuổi

Ngày Tết, người Việt Nam có phong tục lì xì cho trẻ em. Phong bao lì xì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn, đoàn viên, mong ước hạnh phúc sẽ đến cho năm mới.
 
10. Tống cựu nghinh tân
Những ngày cuối năm, người Việt có phong tục quét dọn nhà cửa sạch sẽ, mua sắm đồ dùng, quần áo mới. Người lớn cũng dặn dò con cháu, trong giây phút chuyển giao sẽ không cãi cọ, không trách phạt hay mắc lỗi. Những người có hiềm khích với nhau cũng xí xóa hết, giây phút năm mới chỉ chúc tụng nhau những gì tốt lành và may mắn.

11. Xuất hành

Ngày mồng một đầu năm, người Việt Nam thường chọn giờ đẹp, hướng đẹp để xuất hành, hi vọng có năm mới may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà.

12. Thăm mộ tổ tiên.

Con cháu thường đi thăm mộ tổ tiên từ khoảng 23 đến 30 tháng chạp, sửa sang, dọn dẹp để bày tỏ lòng hiếu thảo và mời vong linh tổ tiên về với con cháu.

13. Khai bút

Ngày đầu xuân, trẻ em có tục khai bút, treo câu đối đỏ để cầu may mắn và hi vọng tốt lành sẽ đến trong năm mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 15 phong tục truyền thống trong ngày Tết Việt Nam

Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nữ mang chi tiết

Tân Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tân Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1961, 2021 và 2081
Cung ĐOÀI
Mạng BÍCH THƯỢNG THỔ (đất trên vách)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CON ĐƯỜI ƯƠI

Bà Chúa Tiên độ mạng

Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài,
Đất ở đầu vách ít ai cuốc đ ào.
Tháng giêng lỗi số biết bao,
Thu Đông cũng cực số sao hẫm hiêu.
Số này khắc mẹ khắc cha,
Gần nhau xích mích đi xa lại buồn.
Tánh người nòi dữ nói hung,
Khẩu xà tâm phật nói rồi bỏ qua.
Gái thì lập nghiệp phương xa,
Tình đầu luống chịu vu chiều buôn mai.
Cho hay trời đã an bày,
Tu nhơn tích đức để rày mai sau.
Trời Phật tin tưởng phụng thờ,
Cho nên hậu vận mới nhờ tấm thân.

xem bói tử vi tuổi Sửu

CUỘC SỐNG

Tuổi Tân Sửu cuộc đời có nhiều tốt đẹp về vấn đề tình cảm. Số tuổi nhỏ vào tiền vận có nhiều lao đao về cuộc sống, trung vận mới được vững vàng, nhưng về gia đình và sự nghiệp có sụp đổ đôi lần mới thành công được, hậu vận mới được an nhàn.

Tuổi Tân Sửu hưởng thọ trung bình từ 68 đến 76 tuổi là mức tối đa. Nếu gian ác thì có thể sẽ bị giảm kỷ, ăn ở hiền lành phúc đức thì sẽ gia tăng niên kỷ.

TÌNH DUYÊN

Về vấn đề tình duyên, tuổi Tân Sửu có chia ra làm ba giai đoạn như sau:

Nếu sanh vào những tháng sau đây sẽ có ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, cuộc đời bạn có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5, 8, 10 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, đời bạn hưởng được hạnh phúc toàn vẹn, không có thay đổi tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo, có nhiều tốt đẹp vào tiền vận và trung vận. Phần công danh có nhiều tốt đẹp vào tiền vận, nhưng trung vận và hậu vận không được tốt đẹp mấy về vấn đề nầy.

Sự nghiệp có nhiều tốt đẹp và có thể hoàn thành vào khoảng 32 tuổi sắp lên. Tiền bạc được tốt đẹp và đầy đủ vào trung vận.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Sau đây là những tuổi hạp cho sự làm ăn của bạn, nếu hùn hạp hay giao dịch tiền bạc sẽ có thể thâu được nhiều kết quả tốt đẹp, đó là các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Nếu kết hôn với nhưng tuổi sau đây, cuộc đời bạn có thể được sống trong sự cao sang quyền quý, đó là kết hôn với các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu, Canh Tý, Kỷ Hợi.

Những tuổi trên rất hạp với tuổi bạn về vấn đề tình duyên lẫn tài lộc, nên có thể sẽ tạo được một cuộc sống cao sang, giàu có.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, đời sống của bạn chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Nhâm Dần, Mậu Thân. Những tuổi nầy chỉ hạp với tuổi bạn về đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.

Nếu kết duyên với những tuổi nầy, đời sống của bạn có thể bị nghèo khổ, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Giáp Thìn, Bính Thìn. Những tuổi nầy không hạp với tuổi bạn về đường tình duyên và tài lộc, nên bạn khó mà tạo được một cuộc sống như ý muốn.

Những năm nầy bạn không nên kết hôn. Đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 18, 20, 26, 30, 32, 38 và 42 tuổi. Nếu kết hôn vào những năm trên, bạn có thể sẽ phải gặp cảnh xa vắng triền miên.

Sanh vào những tháng nầy, bạn có số đa phu hay nhiều chồng. Đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4, và 5 Âm lịch.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Tuổi Tân Sửu có những năm khó khăn nhứt, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 24, 26 và 31 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng tai nạn hay bịnh tật, có hao tài vào những năm nầy.
NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Tân Sửu có những năm khó khăn nhứt, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 24, 26 và 31 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng tai nạn hay bịnh tật, có hao tài vào những năm nầy.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Nếu bạn xuất hành, vào những ngày lẻ, tháng chẵn vò giờ chẵn thì hay nhứt, việc làm ăn sẽ gặp được nhiều kết quả tốt đẹp, nhiều thắng lợi trong cuộc đời, không sợ bị thất bại trong mọi trường hợp của đời sống bạn.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: Thời gian nầy bạn có nhiều xui xẻo về tình duyên, có nhiều buồn rầu và đau khổ cho duyên số của bạn, tình cảm không được dồi dào cho lắm.

Từ 26 đến 30 tuổi: Thời gian nầy bạn sẽ có thắng lợi về vấn đề tình cảm, cuộc sống có phần êm đẹp, cuộc đời được hoàn toàn tốt đẹp về làm ăn, cũng như về vấn đề tài lộc trong những năm nầy.

Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian nầy việc làm ăn có phần bê bối. Vào tuổi 32 không nên đi xa, 33 tuổi có nhiều xui xẻo, nên cẩn thận về tiền bạc trong hai năm nầy. 34 và 35 tuổi, có lợi nhỏ, nên làm ăn hay giao dịch tiền bạc trong hai năm nầy được tốt.

Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi, việc làm ăn bình thường, gia đình hạnh phúc yên vui. 37 và 38 tuổi, nhiều triển vọng tốt đẹp cho nghề nghiệp và công danh, tài lộc sáng tỏ. 39 và 40 tuổi, hai năm nầy vượng phát về tài lộc, lẫn cả tình cảm.

Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian nầy có nhiều tốt đẹp cho cuộc sống, cuộc sống có phần sung túc nên cẩn thận việc làm ăn và giao dịch thì tốt.

Từ 46 đến 50 tuổi: Thời gian nầy có triển vọng hoàn thành sự nghiệp, tài lộc được dồi dào, việc làm ăn không gặp trở ngại, nên giao thương, buôn bán thì có nhiều tốt đẹp cho cuộc sống. Năm 47 tuổi, có đại kỵ vào tháng 2.

Từ 51 đến 55 tuổi: 51 tuổi trung bình. Những năm khác phần bổn mạng có yếu kém, việc làm ăn nên tránh những việc phải gây ra sự buồn lo cho gia đạo, có hao tài vào những năm nầy.

Từ 56 đến 60 tuổi: Thời gian nầy tình cảm, gia đình, tài lộc đều ở trong mức độ bình thường, nên đề phòng bệnh tật.

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nữ mang chi tiết

Mách bạn cách ngủ ngon dù cơ thể không mệt mỏi

Bạn muốn tạo thói quen đi ngủ sớm hơn nhưng chưa đến giờ cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ. Có rất nhiều thủ thuật, bạn có thể sử dụng để thư giãn tâm trí và cơ thể để làm cho mình rơi vào giấc ngủ nhanh hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tắt tất cả các thiết bị điện tử trước khi đi ngủ

Cách xa các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính, TV,...ít nhất 30 phút trước khi đi ngủ. Đôi mắt của bạn cần thời gian nghỉ ngơi và việc xem những hình ảnh động làm não bộ tỉnh táo hơn, thay đổi thất thường và khó tập trung.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 1

2. Điều chỉnh nhiệt độ

Nhiệt độ trong phòng nên hơi lạnh hơn so với nhiệt độ bình thường bạn cảm thấy thoải mái. Nhưng đừng để cho mình cảm thấy quá lạnh, đặc biệt là đôi chân. Bàn chân lạnh có thể gây gián đoạn cho giấc ngủ, do đó, nên ngâm chân nước nóng trước khi lên giường hoặc đi tất khi ngủ. 

Nó có thể mất vài giờ để nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường sau khi tập thể dục hoặc tiếp xúc với nhiệt độ quá cao. Do đó, hãy chắc chắn rằng cơ thể của bạn ở nhiệt độ bình thường khi chuẩn bị đi ngủ.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 2

3. Điều chỉnh ánh sáng

Nếu bạn muốn có một căn phòng hoàn toàn tối, tắt tất cả các nguồn đèn chiếu sáng như đồng hồ báo thức kỹ thuật số, hoặc bất kỳ thiết bị điện tử khác trong phòng ngủ của bạn có ánh sáng tỏa ra. Nếu bạn thích ngủ với ánh sáng yếu, hạ ánh sáng yếu rồi đeo miếng bịt mắt hoặc bật đèn ngủ. Đừng đi ngủ với ánh sáng tối đa vì điều này sẽ tác động với thần kinh khiến giấc ngủ không sâu.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 3

4. Điều chỉnh mức độ âm thanh

Nghiên cứu của các chuyên gia Đại học Standford, Mỹ cho thấy não bộ con người theo bản năng là thích tiếp nhận các tín hiệu bên ngoài. Sự ham muốn tiếp nhận thông tin của não khiến nếu có bất kỳ tiếng động ngẫu nhiên nào như âm thanh một chiếc xe chạy ngang, hay tiếng cót két của cửa, đều có thể khiến bạn thức giấc.

Tiếng ồn trắng là một bản remix cắt ghép hàng tỉ các âm thanh khác nhau trong cuộc sống với tần số từ 20 – 20.000 Hz. Bản remix này sẽ cung cấp đến não một hỗn hợp âm thanh. Não sẽ dần dần suy giảm khả năng hoạt động và dần rơi vào trạng thái ngủ. Bật một bản nhạc tiếng ồn trắng sẽ giúp bạn nhanh chóng rơi vào giấc ngủ.

Nếu không, bạn cũng có thể cân nhắc việc đeo nút bịt tai trước khi bạn đi ngủ. Nó có thể mất một thời gian để làm quen với vật thể lạ trong tai nhưng có thể ngăn chặn tiếng ồn từ ngoài đường, đồng hồ,...đặc biệt là tiếng ngáy của người bạn cùng giường.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 4

5. Cấm vật nuôi vào phòng

Bạn cần phải cấm cửa chú chó hay chú mèo khỏi chiếc giường của mình. Mặc dù có thể bạn rất yêu chúng và đã từng không ít lần cho chúng nằm cạnh, thế nhưng các nghiên cứu cho thấy những người ngủ với thú cưng khó đi vào giấc ngủ và duy trì giấc ngủ vì những con vật dễ thương có thể đánh thức bạn dậy vào giữa của đêm.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 5

6. Dọn giường

Chiếc giường quen thuộc sẽ giúp bạn an tâm và thả lỏng cơ thể hơn khi rơi vào giấc ngủ. Nửa tiếng trước khi đi ngủ, bạn cần dọn dẹp, không để quần áo, thú nhồi bông, gối ôm,...chiếm quá nhiều diện tích trên giường. Ngoài ra, vào mùa đông nên ủ ấm chăn nệm trước khi lên giường.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 6

7. Tập thể dục cho các ngón chân

Khi bạn đã nằm trên giường, gập các ngón chân trong một vài giây, sau đó lại thả lỏng. Lặp đi lặp lại 10 lần giúp bạn thư giãn đôi chân và cơ thể.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 7

8. Điều chỉnh vị trí nằm ngủ

Giữ lưng thẳng, và chắc chắn rằng cổ của bạn không được quá cao hoặc quá thấp so với cột sống. Tránh các tư thế tạo áp lực lên dạ dày, cột sống, tim. Ngoài ra, bạn có thể xoay người từ bên phải sang bên trái nếu bạn đang cảm thấy tỉnh táo ở vị trí cũ.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 8

9. Tránh các cuộc trò chuyện căng thẳng trước khi đi ngủ

Năm phút trước khi đi ngủ không phải là thời gian để có được vào một cuộc chuyện trò phàn nàn về tất cả những căng thẳng mà bạn đang phải đối mặt tại nơi làm việc. Nếu bạn cần tâm tình trước khi đi ngủ, hãy chắc chắn cuộc nói chuyện sẽ không vào các đề tài gây căng thẳng hoặc có khả năng biến thành cuộc khẩu chiến. 

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 9

10. Thực hiện các bài tập thở. 

Hãy thử hít vào phình bụng lên, thở ra hóp bụng xuống đều đặn như cách thở của môn Yoga. Nhắm mắt lại và tập trung hơi thở đều đặn. Trí óc của bạn sẽ buông bỏ những vấn đề tạp nham khác ở bên ngoài.

 mach ban cach ngu ngon du co the khong met moi - 10


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mách bạn cách ngủ ngon dù cơ thể không mệt mỏi

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy cây cối

Mơ thấy những cây cao thẳng tắp, điềm báo sức khỏe viên mãn dành cho bạn.
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy cây cối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trong mơ bạn nhìn thấy một loại cây có mật độ cành lá bình thường, chứng tỏ chủ nhân của giấc mộng là người có tính cách ôn hòa, đáng yêu và dễ gần gũi.

Nếu cây này có cành lá sum suê tuyệt đẹp, được bố trí theo trình tự nhất định. Điều này phản ánh người có giấc mơ này có tính cẩn thận, tỉ mỉ, thích làm việc theo trình tự rõ ràng.

Còn nếu cành lá trên cây rối loạn, không theo trật tự nào, biểu thị bạn là người khá bừa bộn và đang có tâm trạng rối bời cần tháo gỡ.

lacay-1617-1398659819.jpg

2. Mơ thấy rễ cây, điều này cho thấy sự ổn định trong cuộc sống hiện tại của bạn. Đồng thời, nó còn báo hiệu về sự thay đổi có chiều hướng tốt đẹp hơn về cuộc sống trong tương lai gần của bạn.

3. Nếu mơ thấy thân cây, điều này có nghĩa bạn đang chịu ảnh hưởng và tác động lớn từ môi trường xung quanh. Bạn cần sáng suốt và tự tin hơn trong những quyết định của mình, tránh bị những điều nhỏ nhặt chi phối bản thân.

4. Trong giấc mơ, cây cối bạn nhìn thấy đều thẳng tắp, cao ngút trời. Đó là điềm báo sức khỏe viên mãn dành cho bạn.

cd2-cd16a-7180-1398659820.jpg

5. Nếu mơ thấy cây cối xanh tốt, um tùm, báo hiệu sự nghiệp kinh doanh của bạn ngày càng phát triển và thuận lợi hơn, đạt được nhiều thành công hơn cả mong đợi. Sức khỏe của bạn cũng được phục hồi nhanh chóng và ngày thêm khỏe mạnh.

Con trai mơ thấy giấc mộng này rất có khả năng sẽ được thăng chức, tiền đồ rộng mở.

Con gái mơ thấy điều này hứa hẹn sẽ kết thân với những người bạn khác giới tốt tính, đặc biệt có thể lấy được người chồng giàu có.

6. Mơ thấy cây cối quanh nhà đều nở hoa kết trái, đây là điềm báo có việc tốt lành sẽ đến với bạn. Bạn hãy chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận nhé.

7. Nếu trong mơ thấy cây cối đang khô héo, biểu thị bạn đang buồn phiền về chuyện nào đó, dù bên ngoài bạn không thể hiện rõ điều này cho mọi người biết.

8. Mơ thấy hàng loạt cây cối có hình dáng to lớn, điều này có nghĩa bạn sẽ có được cuộc sống hạnh phúc và no đủ.

9. Mơ thấy bản thân đang trèo cây, có thể bạn đang thực hiện mục tiêu nào đó và nỗ lực để đạt được nó. Ngoài ra, điều này còn nhắc nhở  bạn cần cẩn thận trước lòng dạ hẹp hòi của một số người xung quanh.

10. Nếu mơ thấy mình chặt cây, đây là tín hiệu không mấy tốt lành. Rất có thể bạn sẽ tự gây rắc rối cho bản thân bằng chính sự tốt bụng có phần dại khờ của mình.

Mr.Bull

ladygagaanimalny-1398269896-13-4636-4137

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy người nổi tiếng

Bạn đã gặp minh tinh màn bạc, ngôi sao ca nhạc, vận động viên hay một nhân vật lịch sử nổi tiếng nào trong giấc mơ chưa?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy cây cối

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Lễ Hội Đền Bà Chúa được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 âm lịch tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Hội Đền Bà Chúa

Thời gian: tổ chức vào ngày 30 tháng 7 tới ngày 2 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công chúa Túc Trinh - người con thứ 4 của vua Trần Thánh Tông (là người có công khai hoang phục hóa, tạo dựng nên xóm làng).

Nội dung: Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày và có sự tham gia của nhân dân hai làng An Hội và Cổ Nhuế.

Ngày 30/7:

Sáng quân kiệu nam bao sái kiệu và chuyển giá văn ở đình về đền, sau đó đội tế lễ mang lễ lên mộ chúa để làm lễ tế cáo Chúa tại đền. Chiều ban tế và đội dâng hương An Hội cúng tế chúa,  đến đêm các cụ trong đội tế làm lễ mở cửa đền.

Ngày 01/08:

Rạng sáng được bắt đầu với lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục được một bô lão trong làng đảm nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế. Sau khi làm lễ mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới.

Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.

Khoảng 8h sáng sau khóa lễ cúng phật tại chùa Anh Linh đội tế về đền Chúa làm lễ tế khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc. Cỗ làm trong lễ hội là cỗ chay với những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc... Sau lễ khai quang là các đoàn của các làng xã lân cận và dân chúng thập phương vào dâng hương lễ Chúa đến tận xế chiều. (Ngày 02/08).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Top con giáp có trái tim khó nắm bắt nhất

Cùng xem con giáp nào khó đoán nhất trong tình cảm và cũng khiến người khác phải lao tâm khổ tứ nhiều nhất nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất kể là trong công việc, người phụ nữ có mạnh mẽ, tài giỏi đến đâu thì trong chuyện tình cảm họ vẫn thật mềm yếu, cần sự che chở và tình yêu thương thực sự. Khi một người bạn nam có những biểu hiện quan tâm đến bạn giống như cách của một người đàn ông thực thụ thì chứng tỏ anh ấy đang yêu bạn sâu đậm. Bạn nói bạn là người phụ nữ không thích ai đó đeo bám dai dẳng, nhưng những tin nhắn mà cứ đến rồi lại xóa, xóa rồi lại đến, lặp lại nhiều đến nỗi bản thân bạn cũng không biết nó đã trở thành thói quen tự lúc nào. Dưới đây là những con giáp đòi hỏi đối phương phải thật kiên nhẫn khi ngỏ lời yêu.

Xếp vị trí thứ 3: Tuổi Dậu

Vốn tính “kỳ kèo” nên bất kể là trong cuộc sống thường nhật hay trong công việc họ đều “cân đo đong đếm” với người khác, song họ lại là những người lắm phúc nhất. Nhưng cũng bởi tính cân đong trong cuộc sống mà không ít lần ảnh hưởng đến cả trong tình yêu. Trong chuyện tình cảm tuổi Dậu cũng thích suy xét kỹ lưỡng, khiến đối phương đau đầu nhức óc, gian khổ muôn phần nếu muốn chinh phục trái tim người tuổi Dậu.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 1

Xếp vị trí thứ 2: Tuổi Dần

Người tuổi Dần được biết đến với tính cách mạnh mẽ, thế nên họ thật khiến người khác phải đau đầu. Bởi sự nam tính biểu hiện ra bên ngoài quá cao nên đối phương khó cảm nhận được hết sự yếu mềm bên trong của họ. Sức hấp dẫn ở người tuổi Dần thực sự rất lớn. Những ai mà nhỡ phải lòng người tuổi Dần thì nên xác định tinh thần "kháng chiến trường kì" để chinh phục được trái tim của họ.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 2

Xếp vị trí thứ 1: Tuổi Hợi

Những người tuổi Hợi thường không mấy tỏ vẻ hứng thú, tích cực cho lắm về phương diện tình cảm. Từ trước tới nay ít khi tuổi Hợi lên tiếng tỏ tình hay thổ lộ tình cảm với người họ thương yêu trước. Cả đời này họ có thể yêu ai đó rất sâu đậm nhưng lại chẳng thể nói ra được những lời có cánh. Nói chuyện tình cảm với những người tuổi Hợi chẳng khác gì bạn đang nói chuyện với một khúc gỗ vậy, thật khiến người khác phải bó tay.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp có trái tim khó nắm bắt nhất

Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị

Tam hình Dần Thân Tị có quan hệ tương hình, ảnh hưởng lẫn nhau. Mối quan hệ này có nhất thiết sẽ là đối lập toàn diện, gây đại họa hay không.
Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tam hình Dần Thân Tị có quan hệ tương hình, ảnh hưởng lẫn nhau. Mối quan hệ này có nhất thiết sẽ là đối lập toàn diện, gây đại họa hay không, hãy cũng ## tìm hiểu.


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Giai ma quan he tam hinh Dan Than Ti hinh anh 2
 
Tương hình là một loại quan hệ của các địa chi với nhau, có tính chất đặc thù nhất là dễ tạo ra thương tổn. Nếu mở rộng phạm vi ứng dụng thì nếu không thương tổn cũng hao tài tốn của. Hình trong bát tự rất nhạy, người xưa khi giảng về quan hệ địa chi thường nhấn mạnh “hình, xung, hợp, hại”, đặt hình ở vị trí đầu tiên.    Tam hình Dần Thân Tị, ba địa chi gặp nhau tạo thành thế hình. Người mà bát tự có đủ 3 địa chi này tức là mệnh cách phạm tam hình, thực tiễn cho thấy, đây là cách cục tử vi không tốt. Người này nếu có thể trưởng thành bình thường thì sẽ không gặp tai nạn rủi ro quá lớn nữa nhưng người thân lại nảy sinh tại họa, nghiêm trọng còn có người thân chết trẻ. 
 
Giai ma quan he tam hinh Dan Than Ti hinh anh 2
 
Thực chất tam hình Dần Thân Tị là Trường Sinh lẫn nhau. Dần giấu Giáp Bính Mậu, Thân giấu Mậu Canh Nhâm, Tị giấu Bính Mậu Canh. Ba địa chi này xung đột với nhau, nếu bát tự Mộc vượng thì Thổ suy, Thủy vượng thì Hỏa nhược, Hỏa vượng thì Kim nguy, Kim vượng thì Mộc yếu. Vì thế, muốn hóa giải thế tam hình trong tử vi, không cần chú ý tới quá trình, chỉ xem kết quả là được.   Ví dụ như quẻ Càn ngày Canh Thân sinh năm Canh Dần tháng Tân Tị tạo thành tam hình, rất dễ gặp họa về xe cộ. Dần Tị Thân tam hình gây sóng gió nhưng họa không nặng, chủ yếu là lái xe không cẩn thận đụng phải người già. Nếu bản mệnh thành thật chịu trách nhiệm thì mọi sự sẽ không quá to tát, chỉ mất chút tiền bạc nhưng mọi sự sẽ êm thấm, chuyện lớn hóa nhỏ.

Giai ma quan he tam hinh Dan Than Ti hinh anh 2
 
Hay sinh ngày Đinh Tị gặp tháng Giáp Thân năm Canh Dần, phạm tam hình rõ ràng. Nếu vì tháng xung mà ngồi nhà tránh họa, tạm dừng hết mọi công việc thì rất hại. Vì nguyên cục là Hỏa Thổ Kim vượng, dễ tổn thương Thủy Mộc, Thủy là con, Mộc là cha mẹ nên càng tránh càng tai. Hãy vận dụng phục mệnh hoặc cải mệnh Hậu thiên để đem tai họa hạ xuống mức thấp nhất.

Tam hình Sửu Mùi Tuất, tưởng xấu mà hóa giàu
Trong 12 địa chi có những tổ hợp tương hình, tương xung, tương hại lẫn nhau, trong đó Sửu Mùi Tuất tam hình không ai không biết. Tam hình thường là xấu, nhưng
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Cách xem ngày, chọn thời điểm thích hợp để chuyển mộ

Vào các lễ tiết Thanh Minh, Trung Nguyên, Tế Tổ là nên tu sửa mộ phần, là thời điểm rất tốt để di chuyển hài cốt, an táng. Kho di chuyển Mộ Phần nhất định cần chú ý các việc sau đây.
Cách xem ngày, chọn thời điểm thích hợp để chuyển mộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem ngày tốt, chọn thời điểm thích hợp để tu sửa chuyển mộ tổ tiên, nên sửa chữa phần mộ nếu mộ phần vô cớ tự nhiên lún sụt, nứt vỡ hoặc trong nhà xuất hiện nhiều chuyện quái dị hỗn loạn, điều tiếng xấu xa.

Dân gian tục ngữ có câu “Cùng Bất Cải Môn, Phú Bất Di Mộ” ( Cùng đường không thay cửa, giàu có không chuyển mộ) tức là chỉ về chớ có nhắm mắt mà làm bừa về Phong Thủy hai trạch Âm Dương. Bởi phàm người ta, khi vào bước đường cùng, vận Khí sai hỏng, Tâm Thần hỗn loạn, dễ nghe lung tung mà sửa sai đi, đã sai càng thêm sai. Còn khi nhà giàu có lên, kiêu khí nổi lên, muốn hơn người đứng đầu thiên hạ, do vậy mà tùy tiện xây sửa Mộ Phần của Gia Tộc.

Khi nào thì nên chuyển hay sửa mộ tổ tiên

Xem bói nếu như Mộ Phần xuất hiện các hiện tượng sau thì nên có sự sắp xếp mà sửa chữ mộ phần:
1. Mộ phần vô cớ tự nhiên lún sụt, nứt vỡ.
2. Trong nhà xuất hiện nhiều chuyện quái dị hỗn loạn, điều tiếng xấu xa.
3. Con cái trong nhà bỗng thành ngỗ nghịch, điên cuồng, cướp hại.
4. Đời sau thường hay bệnh tật, bị thương tổn nhân khẩu, những của cải tích lũy dần tiêu tan.
5. Cây ở xung quanh mộ vô cớ chết khô héo.
6. Xung quanh mộ hỗn loạn, không còn bố cục, khiến cho vận trình con cháu có nhiều ngáng trở không thông thoáng, ruộng vườn hao tán, hay gặp quan tư.
Ngày nay do sự phát triển nhanh chóng của xã hội, nên việc hưng công động thổ và xây dựng đường xá cũng ngày một nhiều và từng ngày biến đổi. Vì vậy mộ phần cũng có nhiều nguy cơ, bị xâm hại về Phong Thủy. Có rất nhiều người khi nhắc đến việc xây sửa, hoặc di chuyển mộ phần đều có ý sợ hãi. Trên thực tế, việc di chuyển xây sửa nếu tiến hành đúng cách sẽ có sự trợ giúp lợi ích cho con cháu. Vấn đề chủ yếu là phải đảm bảo các Tiêu Chuẩn Phong Thủy chính xác và hợp lý. Ví dụ như nếu đưa được phần mộ Tổ Tiên vào Phong Thủy Bảo Địa, nhất định vận khí cháu con sẽ ngày càng tốt đẹp bội phần.

Vào các lễ tiết Thanh Minh, Trung Nguyên, Tế Tổ là nên tu sửa mộ phần, là thời điểm rất tốt để di chuyển hài cốt, an táng. Kho di chuyển Mộ Phần nhất định cần chú ý các việc sau đây.

1. Chọn Đất, là do chủ nhà hoặc trưởng họ quyết đoán họp bàn thống nhất chọn lựa mời Phong Thủy Sư chân chính chọn ra một miếng đất tốt.
2. Phong Thủy Sư chân chính phải là người kiêm bị cả Phong Thủy Địa Thượng, Địa Hạ. Địa thượng lấy Địa Lý Ngũ Quyết làm chuẩn; Địa Hạ lấy thưởng Thủy, sát Thổ làm chú ý.
3. Kỵ gặp Ác Thủy.
4. Kỵ gặp Đất Cứng Răn.
5. Kỵ gặp Sâu Kiến.
6. Kỵ gặp bên dưới sát cạnh có quan tài hài cốt của nhà khác.
7. Kỵ gặp gió lạnh lùa, cách thử là dùng nến đốt ở mệnh của mộ, nếu thấy lửa đứng im là không có gió lùa, nếu thấy lửa dao động là xem xét lại.
8. Huyệt mộ sau khi đào xong nên dùng giấy vàng trải lót xuống đáy mộ, dùng cổ tiền đè chặn, dùng hương xông tẩm, dân gian gọi là Ấp Mộ.

Cách xem ngày, chọn giờ tốt sửa mộ tổ tiên

Sửa Mộ Tổ Khác Với Chuyển Mộ

Sửa Mộ Tổ và Chuyển Mộ có sự khác biệt, Sửa Mộ tức là dùng theo các tiêu chuẩn Phong Thủy để tiêu Sa nạp Thủy, chỉnh đốn lại hướng Bia của Mộ để có được Hướng Mộ đem lại Sinh Khí, đạt đến mục đích đón lành tránh dữ. Còn chuyển Mộ là di chuyển toàn bộ Di Cốt sang một vùng đất mới.
Vậy khi nào thì cần Điều Chỉnh Mộ Tổ ?
1. Khi trong gia tộc có từ hai người trở lên mắc bệnh quái dị, trải qua chữa trị lâu dài mà không khỏi.
2. Khi trong gia tộc có từ hai người trở lên bị tàn tật.
3. Trong nhà hung sự liên tiếp, trong vòng 5 năm mà có từ hai người trở lên chết dữ (Độ 50 tuổi đổ lại)hoặc chết yểu.
4. Trong nhà toàn người nghèo kiệt, khốn khổ, tài vận nhiều năm không thông, muốn phát Tài.
5. Trong nhà bị quan tư kiện tụng liên tục, hay bị họa huyết quang hoặc tù đày.
6. Trong nhà nhiều con cái vướng vào ly hôn hoặc chôn vợ chôn chồng.
7. Trong nhà có xuất hiện nhiều kẻ dốt nát, hoặc trong nhà có người muốn cải tạo Mộ Tổ để trợ vận thăng quan tiến chức cải đổi sự nghiệp.
8. Trong Mệnh có Quan Vận song không có được sự trợ giúp của Mộ Tổ nên hoạn lộ không thông thoáng. Muốn thăng quan.

Bia Mộ Không Tốt !

Khi xem xét Mộ Phần cần để ý đến hướng và các hiện tượng của Bia Mộ. Nếu Dương Trạch lấy cửa ra vào làm Hướng thì Âm Trạch lấy hướng Bia làm Hướng.
Mộ Tổ như không có Bia Mộ, khiến Tổ Tiên không yên, con cháu cũng khó tốt. Bia Mộ không được nghiêng vẹo, nứt nẻ, sứt vỡ, mất chữ…khi có các hiện tượng này cần chọn ngày giờ tốt để thay ngay bia mộ. Bia Mộ khô bạc cũng không tốt, loang lổ rêu phong cũng xấu, ám đen xám xịt cũng là xấu, nói chung khi Mộ Phần có được Lý Khí phối hợp tốt thì tất Bia Mộ cũng tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem ngày, chọn thời điểm thích hợp để chuyển mộ

Trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy

Trong trang trí nhà theo phong thủy, người mệnh Thủy nên sử dụng các màu trắng, xanh lam, đen... Ngoài ra, họ cũng có thể bài trí bể cá, chậu cây thủy sinh để gặp thuận lợi trong sức khỏe và công việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc có lợi nhất cho người mệnh Thủy là màu trắng, thuộc Kim. Kế đến là các màu bản mệnh như đen, xanh lam; các màu thuộc Mộc như xanh lá cây và màu gỗ. Nếu trang trí nhà theo phong thủy, tốt nhất người mệnh này nên chọn màu trắng làm màu chủ đạo.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 1 Màu sắc có lợi nhất của người mệnh Thủy là màu trắng.

Để hỗ trợ cho mệnh, người mệnh Thủy nên sử dụng các đồ dùng hay các vật trang trí có màu bản mệnh là đen hoặc xanh lam. Ngoài ra, do Thủy sinh Mộc, họ cũng có thể sử dụng gam màu xanh, nhưng không nên quá nhiều.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 2 Xanh lam cũng là gam màu hỗ trợ tốt cho người mệnh Thủy.

Do Thổ khắc Thủy, người mệnh Thủy không nên trang trí nhà bằng các gam màu nâu và vàng.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 3 Người mệnh Thủy nên tránh các màu nâu, vàng.

Những thứ đại diện cho Thủy là nhà tắm, điều hòa nhiệt độ, bể cá, tranh vẽ về nước. Người mệnh Thủy nên đặt bể cá trong nhà, trồng các loại cây thủy sinh và bố trí một bồn tắm lớn, bởi chúng có ý nghĩa như một cái hồ chứa nước.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 4 Cây thủy sinh tượng trưng cho hồ nước.

Các đồ vật thuộc Kim cũng có tác dụng hỗ trợ cho vận mệnh của người mệnh Thủy. Ngược lại, đồ vật có tính Thổ như gốm sứ, đá lại có ảnh hưởng xấu, nên tránh hoặc hạn chế sử dụng.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 5 Người mệnh Thủy nên hạn chế sử dụng các chất liệu đá, gốm...

Vì Thủy sinh Mộc, người mệnh này cũng có thể sử dụng đồ gỗ, nhưng chỉ nên ở mức vừa phải bởi Mộc quá nhiều sẽ khiến Thủy sẽ bị tổn hại. Ngoài ra, khi sử dụng đồ gỗ, vải vóc, đồ da nên kết hợp với màu trắng để hạn chế những ảnh hưởng bất lợi.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 6 Sử dụng gỗ với mức độ vừa phải.

Kính hay thủy tinh đều láng bóng như kim loại và nước, do đó chúng mang đặc tính của cả Kim và Thủy, là vật dụng và vật trang trí lý tưởng cho người cần bổ sung tính Thủy.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 7 Chất liệu kính hoặc thủy tinh giúp bổ sung tính Thủy.

Người mệnh Thủy nên sử dụng các loại trang sức làm từ pha lê tím - loại đá phong thủy đặc trưng cho hành Thủy để tăng cường thêm sức khỏe.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 8 Pha lê tím.

Để thêm may mắn và thuận lợi trong công việc, người mệnh Thủy nên trang trí nhà bằng những đồ vật có hình khỉ và lợn - hai loài vật đại diện cho Thủy.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 9 Khỉ và lợn là 2 con vật tượng trưng cho hành Thủy.

Các đồ vật, chất liệu thuộc Thủy không nhiều do vậy mệnh người này có thể sử dụng tranh vẽ hoặc vật trang trí có hình sóng nước để thay thế hoặc sử dụng màu sắc để bổ sung.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 10 Thêm tính Thủy bằng các vật trang trí có hình sóng nước.

Người mệnh Thủy nên trồng 1 hoặc 6 chậu cây sau: thủy quỳ, dương xỉ, xương rồng tròn, thường xuân, trúc phú quý, cây đại tướng quân và lục thảo trổ để thêm có lợi trong sự nghiệp và tư gia.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 11 Đại tướng quân. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 12 Dương xỉ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 13 Lục thảo trổ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 14 Cây thường xuân. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 15 Thủy quỳ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 16 Trúc phú quý. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 17 Cây xương rồng.

1 và 6 là hai con số thuộc về phương Đông, đồng thời thuộc hành Thủy. Nếu ở chung cư, những người thuộc mệnh này nên chọn số tầng và số nhà có 1 và 6 ở đuôi. Các số thuộc Kim 4 và 9 cũng tốt cho người mệnh Thủy. Người mệnh này nên tránh các con số thuộc Thổ là 0, 5 và thuộc Hỏa là 2, 7.

Theo Tri thức trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy

Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác - Xem tuổi - Xem Tử Vi

Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác, Xem tuổi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác, tu vi Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác, tu vi Xem tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác

Chuyện sinh con đẻ cái là chuyện khá tế nhị trong chuyện vợ chồng. Có những cặp vợ chồng thích sinh con trai, có cặp vợ chồng lại thích sinh con gái. Tuy nhiên vẫn phải tuân theo sự kế hoạch hóa gia đình và cũng không nên sinh quá nhiều vì sẽ nuôi dạy con cái không tốt bằng sinh ít con. Vì thế hãy thử đọc bài viết sau để biết cách xem tuổi sinh con đẻ trai hay gái theo ý muốn.

    Đã có rất nhiều tệ nạn xã hội hiện nay ảnh hưởng tới đời sống con người. Nhưng điều tai hại hơn là phá thai khi biết giới tính của bé là ngoài ý muốn. Vì thế khi có kế hoạch sinh con cần có những kế hoạch thiết thực để sinh con có giới tính theo ý muốn. Những nhà bói toán đã tìm hiểu được cách xem tuổi sinh con đẻ con trai gái theo ý muốn.   Dưới đời nhà Thanh, bản tàng thư này được coi là rất quý và do một hoạn quan lưu giữ, không được truyền bá ra ngoài, được tính toán theo ngũ hành, bát quái và thời gian. Theo truyền thuyết, cách đây 300 năm, các vua chúa và cung tần mỹ nữ nhà Thanh đã áp dụng theo bản tàng thư này và thời gian chứng minh là đúng.   Nhưng đến cuối đời Thanh, ở Trung Hoa xảy ra chiến loạn. Quân đội tám nước phương Tây kéo vào Trung Hoa, tàn sát nhân dân, đốt nhà, giết người, cướp bóc vàng bạc châu báu trong cung Vua… Bản tàng thư này cũng bị lấy đi, phiêu dạt tới tận nước Anh. Sau khi được dịch toàn văn ra tiếng Anh, giai cấp phong kiến nước Anh cũng đã áp dụng và cũng không cho truyền bá ra ngoài. Nhưng không hiểu vì sao sau một thời gian dài, bản tàng thư này được lưu truyền đến nước Anh.   Gần đây, một học giả Hồng Kông đến Anh nghiên cứu khoa học. Trong một bữa tiệc, một vị Tiến sĩ vật lý người Anh có tổ tiên thuộc tầng lớp quý tộc trước đây, đã cho người bạn Hồng Kông biết về bản tàng thư này và cho sao chép lại. Trải qua biết bao năm thăng trầm lưu lạc, bản tàng thư dự tính sinh con trai hay con gái của đời nhà Thanh coi như đã quay trở về Hồng Kông.   Trên đây chính là một gợi ý về cách xem tuổi sinh con đẻ con trai hay con gái theo ý muốn mặc dù không đúng hoàn toàn thế nhưng cũng nên tham khảo bởi trong đây có những cách dựa trên những kinh nghiệm thời xưa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tuổi sinh con trai gái theo ý muốn chuẩn xác - Xem tuổi - Xem Tử Vi

‘Bắt bệnh’ qua những nốt ruồi mọc bất thường

Đột nhiên có nốt ruồi xuất hiện ở một vị trí nào đó trên cơ thể, điều này cũng như tín hiệu cho thấy tình trạng sức khỏe của bạn đang gặp vấn đề, cần hết sức
‘Bắt bệnh’ qua những nốt ruồi mọc bất thường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thận trọng.


► Mời các bạn: Bói nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

1. Nốt ruồi xuất hiện ở hai đầu lông mày
 
Nếu bình thường ở vị trí hai đầu lông mày của bạn không có nốt ruồi mà ngày nào đó đột nhiên xuất hiện, điều đó chứng tỏ rằng cơ thể bạn đang suy yếu, dễ bị đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim hoặc tim đập nhanh. 
 
Khi thấy những dấu hiệu sức khỏe này, bạn cần có chế độ ăn uống và tập thể thao hợp lí, tránh ăn đồ cay nóng và hạn chế vận động mạnh.

2. Nốt ruồi mọc ở trán
 
Nốt ruồi xuất hiện ở trên trán báo hiệu tinh thần bạn đang xuống dốc do chịu nhiều áp lực về công việc hoặc tình cảm. Kèm theo đó là những biểu hiện như tính tình nóng nảy, thấp thỏm lo âu và nguy cơ mắc các chứng bệnh về tim mạch hay hệ tuần hoàn máu. 
 
Giải pháp tốt nhất giúp giảm thiểu những bệnh trên là ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, ngủ sớm và uống nhiều nước.
 
3. Nốt ruồi xuất hiện ở mũi
 
Khi có nốt ruồi mọc ở sống mũi, đồng nghĩa với những triệu chứng như nóng trong, hệ tiêu hóa trục trặc…xuất hiện. Lúc này, bạn cần hạn chế đồ ăn lạnh hoặc cay nóng, tránh khiến tình trạng bệnh thêm nghiêm trọng.
 
Nếu là nốt ruồi xuất hiện ở cánh mũi lại liên quan đến chức năng của buồng trứng hoặc cơ quan sinh sản. Không nên kiêng khem quá mức và cần ra ngoài để hít thở không khí trong lành nhiều hơn thì sức khỏe mới đảm bảo.
 
4. Nốt ruồi mọc ở má

‘Bat benh’ qua nhung not ruoi moc bat thuong hinh anh
Ảnh minh họa

Trên má phải có nốt ruồi là tín hiệu cho thấy chức năng của phổi hoạt động bất thường và toàn bộ hệ hô hấp đang gặp “sự cố”. 
 
Nếu nốt ruồi mọc trên má trái lại phản ánh chức năng hoạt động của gan không bình thường. Cần có chế độ dinh dưỡng hợp lí, điều độ, giữ tâm trạng vui vẻ, hạn chế đến những địa điểm quá ồn ào náo nhiệt.
 
5. Xung quanh môi có nốt ruồi
 
Khi nốt ruồi này xuất hiện cũng là lúc triệu chứng như khó tiêu, táo bón có biểu hiện rõ ràng. Bạn nên ăn nhiều rau củ quả, chăm chỉ uống nước và điều chỉnh lại thói quen ăn uống.
 
6. Nốt ruồi mọc ở cằm

Tín hiệu này cho thấy bạn đang bị rối loạn nội tiết tố, cần phải cân bằng công việc và nghỉ ngơi, nên hạn chế đồ ăn lạnh.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ‘Bắt bệnh’ qua những nốt ruồi mọc bất thường

Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Phật viết, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này 1 lần gặp thoáng qua. Nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người để hiểu rõ chữ duyên
Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật viết, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này 1 lần gặp thoáng qua. Nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người để hiểu rõ hơn nỗi ấm lạnh của chữ duyên trong đời.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Bai phap Duyen Chi Ta Gap Mot Nguoi - chi loi duong yeu hinh anh
 
Phật dạy rằng, người với người gặp gỡ là nhờ duyên, xa nhau cũng vì duyên. Muốn cũng không cầu được, không muốn cũng không tránh được. Vì thế mà mới có "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ".

Trong đời người, dù chỉ lướt qua cũng mang đến cho ta bao điều đáng quý, không ai là vô nghĩa. Vì đâu ta gặp một người, vì đâu ta thương một người, vì đâu ta và người làm nhau hạnh phúc, làm nhau đau khổ? Ấy là vì đời ta có duyên với nhau.

Người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu; người đang chông chênh trước một cuộc tình, người đang say đắm trong tình yêu hạnh phúc, hãy nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người. Nhất định Phật sẽ chỉ đường dẫn lối cho bạn hiểu rõ chân tướng của chữ duyên.

Hiểu duyên thì sẽ thuận duyên, người đến mở rộng lòng, người đi vẫn hoan hỉ, sống an nhiên tự tại. 

   

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu

Thần khí con người ẩn dấu ở đâu.

Hoạt động của thần khí con người không thể nhìn thấy, nó ẩn giấu và không thể điều khiển được. Do đó cần tìm ở trong tâm, phải đoán từ hình thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hoạt động của thần khí con người không thể nhìn thấy, nó ẩn giấu và không thể điều khiển được. Do đó cần tìm ở trong tâm, phải đoán từ hình thể, như vậy mới lộ rõ ở giữa lông mày và mắt hoặc vận hành giữa ngũ tạng. 

than-khi-con-nguoi

Thường nói: Người thông minh thì thần khí của họ ở 2 mắt, nếu đức hạnh đều có đủ thì thần khí giấu trong tim. Cũng chính là nói thần khí hiển lộ ra qua hình thể, giống như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, ánh sáng của nó ẩn giấu trong mặt trời và mặt trăng. Mắt sáng thì thần trong, nếu mắt đục thì thần đục.

Ngũ tạng hiển lộ: Mắt, lưỡi, mũi, môi, tai
Ngũ quan ứng với gan là mắt, quản về gân mạch, móng tay, chân.
Ngũ quan ứng với tim là lưỡi, quản về khí huyết và lông tóc.
Ngũ quan ứng với phổi là mũi, quản về da và hô hấp.
Ngũ quan ứng với tỳ là miệng, chủ về cơ thịt.
Ngũ quan ứng với thận là tai, chủ về gân cốt và răng.

Cảnh giới của mộng là thần ở trong tim, nó vận động ở trong phạm vi ngũ tạng, Lục phủ và tai, mắt. Sự vật ở trong mộng thường là do suy nghĩ quá nhiều hoặc gặp việc khó giải quyết. Do đó, các sự vật gặp trong giấc mộng thường xảy ra bên cạnh mình mà không vượt quá bản thân mình.

Chính vì vậy thiền sư Bạch Nhãn nói: mộng có ngũ cảnh. Một là cảnh hư, hai là cảnh thực, ba là cảnh quá khứ, bốn là cảnh hiện tại, năm là cảnh tương lai. Thường thì thần tình xao động sẽ sinh ra mộng cảnh. Thần yên ổn thì không có mộng cảnh. Có thể nói mộng cảnh là do động và tĩnh của con người sinh ra.

Liên quan đến hình mạo thanh tú của con người, hoặc ngạo nghễ, hoặc trắng sáng, hoặc chắc chắn, lông mày mắt nhô cao, mắt phát ra ánh sáng đều là do thần khí ở trong biểu hiện ra bên ngoài.

Thần thanh và hòa, sáng trong là tướng phú quý. Thần đục, nhu nhược, khiếp sợ là tướng bần cùng. Người chân thật và điềm tĩnh thường có thần khí bình hòa.

Trong Ngọc quản chiếu thần cục nói: Người vui vẻ và yên tĩnh thì thần sẽ yên ổn. Người nông nổi và vội vàng thì thần không yên. Do đó người quân tử biết tu dưỡng bản tính của họ, thay đổi thần khí nóng vội. Khí không nóng vội thì hình yên, do đó sẽ không có người có hình thể yên mà thần khí không đủ.

Lại nói: Khí thực chất là chỉ sự biến hoá của âm dương. Không thể phân biệt nóng lạnh của con người thì rất khó luận đoán. Chỉ là có sự biến hoá của khí, thần sinh ra theo khí, nhưng hàm nghĩa của nó không giống nhau.

Khí biến hoá mà có hình, thần cũng chính là sản sinh ra từ trong hình thể. Khí biến hoá được sinh ra, thần thì không. Khí biến hoá mà mất đi, thần thì vẫn tồn tại. Người đắc đạo thì không nhiễm bụi trần, không bị các sự việc làm lay động là người biết thần. Biết thần có chức năng giống như tạo hoá, do đó họ mới là thánh nhân, chí nhân, thần nhân. Do đó, hình của con người là có thể nhìn thấy nhưng thần lại giấu trong nội tâm, hiển lộ ra giữa lông mày và mắt nhưng không mất đi bản chất nguyên thủy của nó.

Hình thế của con người thì hình “cổ” là tốt nhất”, “thanh” là hơi kém, hình “tàng” lại kém hơn, sau đó là đến hình “mị”. Nếu hình thần lưu tán, hỗn đục thì thần bị u mê, đến bước này thì không còn là phú quý. Nếu sừng sững uy nghiêm là “cổ”. Thần trong sáng đáng yêu là “thanh”. Thần tính lơ đãng, nhìn khó phân biệt là “mị”.

Người thông minh có thể sẽ thành thần tiên. Người hình “mị” tuy quý nhưng phần lớn là kẻ nịnh bợ người khác, cũng không đáng để nói đến. Như sáng mà không sáng, đẹp mà không đẹp là lưu tán. Như say mà không say, như ngủ mà không phải ngủ là hỗn đục.

Con người mất đi tinh linh, không coi trọng thần, coi vạn vật là như nhau thì mãi mãi không hiểu được đạo lý trong đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thần khí con người ẩn dấu ở đâu.

Đầu năm bài trí bàn thờ Thần Tài - Ông Địa đúng cách sẽ tài lộc đến nhà

Hướng dẫn bài trí bàn thờ Thần Tài - Ông Địa theo phong tục cổ truyền để đón tài lộc đầu năm mới, sửa soạn chu đáo ngày Tết cầu một năm làm ăn phát đạt
Đầu năm bài trí bàn thờ Thần Tài - Ông Địa đúng cách sẽ tài lộc đến nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta thường thấy bàn thờ Thần Tài và Ông Địa xuất hiện phổ biến trong bất cứ đâu tại Việt Nam như các cửa hàng kinh doanh, các công ty – xí nghiệp hoặc các hộ gia đình. Việc thờ cúng đó có nguồn gốc thế nào và cách thờ cúng ra sao cho đúng ? Dưới đây là 1 số hiểu biết cơ bản để các bạn tham khảo và dùng khi hữu sự.

Thần Tài – Ông Địa là một cặp 2 ông thần được thờ trong một cái tủ thờ, đặt ở dưới đất. Tủ thường làm bằng gỗ và có khi được Tủ thờ Thần Tài – Ông Địa đều đặt hướng thẳng ra phía cửa nhà, thường ở vị trí có vách dựa vào (để tạo sự vững chắc cho tủ thờ cũng như cho sự kinh doanh và cuộc sống của bạn).

Người ta không chỉ cúng 2 ông vào ngày Tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán, kinh doanh thì người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho các vị thần này chu đáo hàng ngày thì mới được các Thần phù hộ làm ăn thuận lợi “tiền vào như nước”. Sáng sớm khi mở cửa bán hàng hoặc kinh doanh, người ta thường thắp hương cầu khẩn Thần Tài “phù hộ” cho họ mua may bán đắt.

Thần Tài – Ông Địa là một cặp thờ tuy về hình chỉ có 1 ông Địa và 1 Thần tài, nhưng Mỗi một vị như vậy là đại diện cho 5 người.

Về Thần Tài có : Hắc Thần Tài, Thanh Thần Tài, Bạch Thần Tài , Xích Thần Tài Và Hoàng Thần tài là vị chủ chốt.

Còn ông Địa cũng có 5 ông : Đông phương Thanh Đế, Tây phương Bạch Đế, Nam phương Xích Đế, Bắc phương Hắc Đế và Trung ương Huỳnh Đế. Về hình thức bên ngoài thì Ông Địa thường bụng phệ, người trắng nõn, để ngực trần, đầu quấn khăn, tay cầm quạt và hay có con cọp đi theo.

Cần phân biệt Ông Địa của Việt Nam và Phật Di Lặc. Phật Di Lặc mang bao bố hay cười tươi, có đồng tử đi theo. Hình ảnh Ông Địa còn khá quen thuộc trong đội múa lân, Ông Địa thường có vai trò cản trở Lân trong việc nhặt tiền thưởng hay quà cúng của gia chủ. Thần Tài thường tay cầm cục vàng (kim ngân lượng) hoặc bạc, đội mũ mão, trang phục nghiêm chỉnh hơn Ông Địa.

Nếu như Thần Tài người ta cúng hoa quả thì trái lại Thổ Địa lại cúng chuối xiêm, thuốc lá hay cúng ly cà phê. Thông tường Thần Tài người Hoa kính trọng và khấn vái nhiều, thì trái lại người Việt luôn luôn khấn vái Ông Địa.

Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về hoặc bàn thờ cũ hay bị hư cũng được thay thế bàn thờ mới. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và bàn thờ Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.

Nhìn vào cấu trúc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa đúng cách, từ ngoài nhìn vào ta thấy dán trên vách 1 tấm Bài vị là 1 tấm màu đỏ được viết bằng mực nhũ kim với nội dung “Ngũ phương Ngũ thổ Long thần, Tiền hậu địa Chúa Tài thần”. Bên trái là ông Thần tài, bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy, 3 hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải chọn ngày và theo một số thủ tục nhất định.

Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, nguời ta dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang, mọi chuyện trở nên trục trặc liền. Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả ”, lọ hoa bên tay phải – thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền…. đĩa trái cây bên tay trái – nên sắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng, các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập, tượng trưng cho ngũ phương, và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển. Cúng 5 chén nước chứ không phải 3 chén cũng vì tượng trưng cho 5 ông Thần tài và 5 ông Địa đã nói ở trên.

Ông Cóc (hình tượng rất đặc trưng văn hóa Việt) để bên trái, lưu ý là sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào trong với mong muốn tiền của không bị trôi đi. Ngoài cùng trên mặt đất, các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước (làm Minh Đường Tụ Thủy) – một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi. Trong miền Nam khi cúng Thần Tài – Ông Địa, thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng tỏi giúp cho ông Địa có phương tiện để bài trừ ”các đạo chích vong binh” ám muội vì người âm cũng có người tốt kẻ xấu như thường giống người dương mình vậy. Ngoài ra, họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác, phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa, Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó (vì người luyện Bùa, Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ, Tỏi, nén, Kiệu).

Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa, người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự (tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần). Mục đích là để có sự quản lý, không cho các vị Thần làm điều sai trái.

Thổ Công hay Thổ Địa là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam cai quản một vùng đất đai. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Thông thường, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai như : xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt…… thì người Việt đều phải cúng vị thần này. Với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các vị thần Tài. Do ngày xưa, nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu ngày xưa nên thần Đất cũng là 1 thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh : Thổ sinh Kim (đất sinh vàng bạc)…

Có lẽ vì lý do đó mà đến tận bây giờ, Thần Tài và Ông Địa (Thổ Địa) vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty lớn – nhỏ, cửa hàng bán lẻ, tư gia . Người Hoa sang VN làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Ông Địa – Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Theo tín ngưỡng dân gian, Ông Địa – Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều phải có bàn thờ Ông Địa – Thần Tài.Ông Địa – Thần tài được người Hoa truyền cho dân Việt.

Thờ cúng Thần Tài – Ông Địa có 4 đặc tính lưu ý như sau đây:

  • Tuy thờ cúng, bàn thờ để dưới đất, nhưng các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ, sáng sủa. Vì vậy, trong quá trình thờ cúng, ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước sạch. Khi trời mưa to, các bạn bê Thần Tài, Ông Địa, Ông Cóc cho vào một cái thau sạch và để tắm mưa ngoài trời độ 15phút. Sau đó mang vào lau khô, xịt nước thơm và thắp hương xin. Nhiều lần thấy rất Linh diệu
  •  Khi cúng Thần Tài – Ông Địa, người ta thường cúng nhiều thứ, nhưng có lẽ các vị này thích nhất là đồ ngọt. Thịt quay, bánh hỏi, chuối, bưởi…. Nếu ở Sài Gòn, nên mua tiền giấy cúng riêng Thần Tài – Ông Địa, người ta làm sẵn cả một bộ, trong đó có tiền Quý Nhân (Âm và Dương – Tức là những tờ giấy gập đôi màu đỏ có đục những hình Thần Tài khắp bề mặt).
  •  Cách thắp nhang : Khi mới lập bàn thờ, ta nên thắp nhang liên tục trong 100 ngày để bàn thờ tụ Khí. Tuyệt đối không vì sợ tốn điện mà tắt đèn trên bàn thờ, vì những ngọn đèn đó giống như những ngọn Hải Đăng dẫn đường cho các vị giáng xuống trần. Trong 100 ngày đó mỗi sáng chỉ cần thay nước và thắp một nén nhang. Những lúc cần cầu xin điều gì thì thắp 3 nén cắm theo hàng ngang. Những ngày rằm, mùng một, lễ, tết thắp 5 nén theo hình chữ thập. Nên chọn loại nhang cuốn tàn (giữ được tàn), sau một thời gian sẽ có bát nhang rất đẹp và tụ Khí rất tốt. Chỉ đến ngày 23 tháng Chạp mới rút chân nhang (khi bát nhang quá đầy chân nhang) và đem hóa cùng tiền giấy. Khi hóa xong nhớ đổ một chút rượu vào đám tro.
  •  Gia chủ lưu ý không nên để hoa, lá héo úa trên bàn thờ vì khi đó dẫn đến làm ăn khó khăn, tiền tài suy giảm.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đầu năm bài trí bàn thờ Thần Tài - Ông Địa đúng cách sẽ tài lộc đến nhà

Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Người cầm tinh con Trâu trông có vẻ hiền hòa, chậm chạp, nhưng khi tức giận hay tâm trạng không tốt thì lại rất khó lường.
Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuoi-suu-5749-1432636523.jpg tuoi-ho-9857-1432636523.jpg tuoi-rong-1543-1432636523.jpg tuoi-ran-4937-1432636523.jpg tuoi-ngua-5945-1432636523.jpg
1. Tuổi Sửu 2. Tuổi Dần 3. Tuổi Thìn 4. Tuổi Tỵ 5. Tuổi Ngọ

Tuệ Anh (theo Diyixz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp bị chê tính xấu, khó chiều

Cách treo rèm cửa theo phong thủy để may mắn hơn –

Những chiếc rèm cửa không chỉ có mục đích che nắng, gió mà màu sắc và chất liệu rèm còn có thể mang lại vượng khí cho ngôi nhà của bạn. Hãy treo rèm cửa theo phong thủy để may mắn hơn. Treo rèm theo nguyên tắc chung như sau: - Kéo rèm mở cả ngày để đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chiếc rèm cửa không chỉ có mục đích che nắng, gió mà màu sắc và chất liệu rèm còn có thể mang lại vượng khí cho ngôi nhà của bạn. Hãy treo rèm cửa theo phong thủy để may mắn hơn.

782

Treo rèm theo nguyên tắc chung như sau:

– Kéo rèm mở cả ngày để đón ánh sáng mặt trời vào nhà và thu hút năng lượng dương tích cực.

– Giữ cho rèm đóng vào ban đêm. Tương tự, cửa sổ phơi ra ngoài bóng đêm bị coi là xấu về mặt phong thủy.

– Thanh treo và vòng treo rèm nên dùng chất liệu tự nhiên. Tốt nhất là làm bằng gỗ. Tránh làm bằng chất liệu nhựa.

– Rèm phải đóng, mở dễ dàng.

– Rèm vắt sang hai bên mà quá mềm bị coi là không tốt về phong thủy.

– Giữ rèm cửa sạch sẽ để thu hút khí trong lành.

– Treo rèm cửa phù hợp với từng mùa để cải thiện tâm trạng của người sống trong nhà. Sử dụng chất liệu vải nặng, màu ấm cho mùa đông và chất liệu nhẹ, màu sáng hơn cho mùa hè.

Chọn sắc xanh lá cây cho mùa xuân; đỏ, vàng và hồng cho mùa hè; trắng, xám và màu của kim loại cho mùa thu; xanh da trời cho mùa đông.

– Có thể sử dụng màu rèm để hỗ trợ cho tông màu chủ đạo của ngôi nhà hoặc căn phòng nhằm kích hoạt năng lượng từng không gian.

Ví dụ, có thể sử dụng rèm màu hồng hoặc xanh lá cây trong phòng ngủ để thu hút tình yêu. Nhà bếp và nơi vui chơi nên dùng rèm màu vàng hoặc cam nhằm tạo ra sự tươi mới và tái tạo năng lượng. Màu xanh nhạt nên dùng cho rèm phòng khách. Rèm màu hồng thích hợp cho phòng thiền.

Ngoài ra hình dáng rèm, màu sắc rèm được chọn theo hướng cũng là một nguyên tắc giúp thông khí giữa các phòng trong nhà, trong nhà và ngoài nhà.

– Sử dụng rèm cửa màu trắng hoặc xám cho cửa mở ở hướng Tây và Tây Bắc.

– Hướng Tây thuộc hành Kim, chọn rèm có dạng bèo hay thắt nơ sẽ tạo độ vòng, điều này càng tăng thêm vượng khí cho căn phòng.

– Trường hợp cửa chính mở về phía Đông hay Đông Nam, nên chọn loại rèm có tông màu xanh hoặc nâu và để buông rủ tự nhiên.

– Nếu cửa chính hoặc cửa sổ trông về hướng Nam, Tây Nam hay Đông Nam, nên chọn rèm cửa có gam màu đỏ hoặc cam. Rèm được buông theo dạng khối vuông vức nhưng mềm mại, không nên nhún bèo theo hình bán nguyệt.

– Trường hợp cửa mở ra hướng Bắc, nên trang trí rèm màu xanh, hướng này là hướng hành Thủy. Những kiểu rèm treo ở đây nên có những nếp gấp li, gợi hình ảnh sông nước, sẽ càng làm tăng khí tốt cho căn nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo rèm cửa theo phong thủy để may mắn hơn –

Chọn giờ đẹp để sinh mổ thì lá số tử vi có đúng không

Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số tử vi sinh non phải dè dặt.
Chọn giờ đẹp để sinh mổ thì lá số tử vi có đúng không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện về người phụ nữ chế tạo lá số tử vi để chọn giờ đẹp sinh mổ

Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.

Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.

Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.

Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.

Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.

Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.

Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:

- Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn.
- Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân.
- Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng.
- Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.


Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ 8g30 – 9g30 ngày 16 tháng 5 âm lịch (Giáp Dần). Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.

Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…

Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.

Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.

Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.

Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.

Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%...3 lá số sai 50%... 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.

Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn giờ đẹp để sinh mổ thì lá số tử vi có đúng không

Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

Khi lựa chọn căn nhà theo phong thủy, yêu cầu trước mặt căn nhà phải rộng rãi để tiếp nhận sinh khí từ bốn phương tám hướng, cũng có nghĩa là chào đón khách hàng từ khắp nơi đến ký hợp đồng. Đối với cửa tiệm có mặt tiền chật hẹp hoặc bị cửa hàng khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chắn mất, có bốn cách cải thiện như sau:

– Cố gắng dẹp bỏ vật cản trước cửa hàng để mặt tiền hiện ra.

– Đối với mặt tiền chật hẹp không thể sửa chữa được thì nâng cao mặt tiền lên để cho khách hàng từ xa cũng có thể nhìn thấy cửa hàng.

– Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến, biển quảng cáo để tuyên truyền, quảng cáo cố gắng làm cho khách hàng biết được địa chỉ cửa hàng, hàng hóa kinh doanh và đặc điểm dịch vụ của cửa hàng.

– Tích cực tham gia những hoạt động từ thiện để quảng bá danh tiếng của cửa hàng.

Năm 2004 quẻ Cấn bát vận bắt đầu chuyển động, quẻ Cấn tượng trưng cho núi cao. Bát vận chuyển động, núi cao cũng chuyển động, các cao nhân sống trong núi cũng thay đổi tâm lý, cùng xuống núi mưu cầu công danh. Điều này có nghĩa là ngũ thuật: sơn, y, mệnh, bặc, tướng của các sơn nhân nêu lên chắc chắn sẽ tung hoành thiên hạ trong năm bát vận (2004 – 2023).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

Nguyên tắc lựa chọn cửa hàng nơi trung tâm thương mại (Phần 2) –

4. Thanh long Bạch hổ cát Toà nhà lý tưởng nhất là ở bên trái và bên phải đều có toà nhà lớn, nhưng những tòa nhà này cần phải thấp hơn và nhỏ hơn toa nhà phía đang sau, nếu không thì vẫn chưa phải là thế cục phong thủy lý tưởng. Phía bên trái của to

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

4. Thanh long Bạch hổ cát

Toà nhà lý tưởng nhất là ở bên trái và bên phải đều có toà nhà lớn, nhưng những tòa nhà này cần phải thấp hơn và nhỏ hơn toa nhà phía đang sau, nếu không thì vẫn chưa phải là thế cục phong thủy lý tưởng. Phía bên trái của toà nhà gọi là phương Thanh long, bên phải gọi là phương Bạch hổ, trong phong thủy, tốt nhất là tay long mạnh hơn tay hổ.

Centrepoint

Long mạnh hơn hổ, có 4 loại dưới đây:

Long nghênh hổ phục – Tòa nhà phía bên trái hơi cao, mà toà nhà phía bên phải lại hơi thấp.

Long trường hổ đoản – Toà nhà phía bên trái dài rộng hơn, toà nhà phía bên phải vừa ngắn lại vừa hẹp.

Long cận hổ viễn – Toà nhà phía bên trái gần mình hơn, mà toà nhà bên phải xa mình hơn.

Long thịnh hổ thoái – Toà nhà bên phía trái rất nhiều mà bên phải rất ít.

5. Nhận khí từ con đường dẫn đến

Khi lựa chọn toà nhà thương mại, có một nguyên tắc chung đó là: Toà nhà khi mở cửa giữa là cát. Nhưng rất nhiều cửa ra vào toà nhà phía trước là bên phải hoặc phía trước là bên trái, hơn nữa cửa chính hướng ra đường lớn, nhưng toà nhà này, cuối cùng lấy gì làm cát? Về vấn đề này, có bốn nguyên tắc sau đây:

Cửa ra vào toà nhà phía trung tâm trước (chu khuyết môn), không cần biết phương hướng của xe cộ, lấy làm cát luận. Tốt nhất là trước cửa ra vào, có một bãi trống hoặc bể nước hoặc công viên sẽ thượng cát chi luận, chủ vượng tài.

Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại theo hướng từ bên phải sang bên trái (đi lại theo hướng Bạch hổ đến Thanh long), thì phía trước toà nhà dựa vào cửa bên trái (Thanh long môn) làm cát.

Phía trước toà nhà, xe cộ đi lại từ phía bên trái sang phải (từ hướng Thanh long sang Bạch hổ) thì cửa phía trước gần cửa bên phải (Bạch hổ môn) làm cốt.

Phía trước cửa vào toà nhà, lại không có đường cái, toàn là bãi phẳng, mỏ cửa trước ở giữa, và mờ bên trái của toà nhà làm cát.

6. Phía sau lưng có tựa

Lựa chọn toà nhà, yêu cầu đằng sau có núi, là núi tựa. Phía sau có núi tựa, có không ít những điểm tốt:

Người chủ có quyển lực dễ dàng.

Người khác dễ tiếp nhận ý kiến của bạn.

Dễ được sự ủng hộ, đề bạt của cấp trên.

Trong thành phố khó có thể tìm được núi thật tự nhiên, thường lấy những toà nhà cao làm núi, hay nói rằng khi chọn mua nhà cần có những toà nhà khác làm cột trụ đằng sau cho toà nhà này, nếu đằng sau không có tòa nhà lớn, điều này hình thành nên căn nhà cô lập, không tốt.

7. Nhất tiễn xuyên tâm sát

Cửa hàng ở vị trí đầu dường, đây được gọi là lộ xung hung. Cửa chính đối thẳng với đường cái lớn thành một đường thẳng, thực chất mà nói, những người lái xe cộ đi lại đểu nhìn thang vào cửa chính của toà nhà bạn, đến cửa mới chuyên hướng ngoặt bên phải hoặc trái, tạo thành tiềm ý thức lâu dài có thể xảy ra tai nạn không cố ý, điều này có ảnh hưởng không tốt đến vận đạo.

Nếu mở cửa hàng, mặt cửa hàng ngay trước đường đi, chể để cũng không tiện, con đường ngang người đi phía đối diện cũng không tiện lợi, cho nên có thể xảy ra tình hình lạc khuyết là đương nhiên.

Ngoài ra, nhà ở mà đường xông thẳng vào nhà, cũng dễ hình thành tính cách nông nổi, có một số chuyên gia phong thủy gọi cách cục này là một loại nhất tiễn xuyên tâm hung bên ngoài


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc lựa chọn cửa hàng nơi trung tâm thương mại (Phần 2) –

Phong thủy cần nắm vững tránh uế khí xộc thẳng vào nhà

Nhà vệ sinh là một nơi chứa nhiều nguồn năng lượng tiêu cực ảnh hưởng đến phong thủy của tất cả mọi người trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy cho nhà ở hay việc sắp xếp đồ đạc cho gia đình hay bàn làm việc là một điều quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống, đặc biệt là những người dân phố thị. Làm thế nào cho các vật dụng, đồ đạc, hướng nhà … trở nên hợp phong thủy, từ đó giúp cho công việc, kinh doanh , làm ăn buôn bán được thuận lợi hơn.

 Phong thủy cần nắm vững tránh uế khí xộc thẳng vào nhà - 1

Xã hội ngày càng phát triển, vấn đề phong thủy không chỉ còn áp dụng trong khuôn viên phòng khách hay phòng ngủ mà còn được đưa vào nhà vệ sinh. Tuy nhiên, nếu gia chủ quá kiêng kỵ các vấn đề liên quan đến phong thủy mà không ưu tiên đến chính phụ, không quan niệm “đa cát thắng thiểu hung”(nhiều cái tốt thắng ít cái xấu) thì sẽ rất dễ bị rối khi làm nhà.

Bản chất của không gian nhà vệ sinh vốn là không sạch sẽ, vì vậy nếu đặt ở hướng lành sẽ ảnh hưởng không tốt tới các sao lành, vận may của đất ở. Ngược lại, công trình phụ đặt đè lên hướng dữ, lấy độc trị độc sẽ biến dữ thành lành. 

Vị trí khu phụ (nhà tắm, toilet) trong nhà và vị trí xí bệt (nơi đại tiện) trong khu phụ nên đặt ở các cung Hoạ Hại, Tuyệt Mệnh, Lục Sát, Ngũ Quỷ. 

 Phong thủy cần nắm vững tránh uế khí xộc thẳng vào nhà - 2

Trong trường hợp nhà đã xây, không thay đổi được vị trí nhà vệ sinh, có thể thay đổi vị trí của xí bệt tránh khỏi các hướng xấu kể trên theo phong thủy phòng tắm. Dưới đây là một cẩm nang ngắn giúp bạn có thể xây một phòng tắm hay toilet hợp phong thuỷ hơn, tránh những buồn phiền mệt mỏi, mang lại cuộc sống vui vẻ như ý:

- Không nên đặt khu phụ ở trung tâm căn nhà

- Không nên cải tạo khu phụ thành phòng ngủ

- Vị trí đặt khu phụ nên ở chỗ khuất, tránh nhìn thẳng từ cửa vào

- Luôn duy trì khu phụ sạch sẽ và có không khí lưu thông

- Khu phụ không nên đặt gần khu vực thờ cúng

- Khu phụ tránh đặt gần bếp, vì Thủy khắc Hỏa

- Hướng bồn cầu không được cùng hướng nhà (cửa chính)

- Nếu nhà có hành lang dài, tuyệt đối không để khu phụ ở cuối hành lang mà nên để ở hai bên

- Không nên để khu phụ ở trong phòng ngủ, hay thẳng trên đầu phòng ngủ

- Nền khu phụ nên thấp hơn nền phòng ngủ, nếu không sẽ khiến phòng ngủ ẩm thấp, sinh các bệnh nội tiết

- Khu phụ không được làm hai cửa, nếu không tài lộc vào sẽ chảy đi hết

- Khu phụ không nên quá bé, gây tù hãm, thiếu sinh khí, cũng không nên quá to, tạo cảm giác bất an. 

Lưu ý cuối cùng là khu phụ gồm nhà vệ sinh hay phong thủy phòng tắm nên toạ hung, hướng cát, nghĩa là đặt ở cung xấu và hướng về hướng tốt. Điều này sẽ mang lại vượng phúc cho gia đình. 

Theo Hương Ngàn (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cần nắm vững tránh uế khí xộc thẳng vào nhà

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd