Dự báo tình duyên, quan hệ xã giao và sức khỏe 12 con giáp năm 2017
Tuổi Tý |
Tuổi Mão |
Tuổi Ngọ |
Tuổi Dậu |
Tuổi Sửu |
Tuổi Thìn |
Tuổi Mùi |
Tuổi Tuất |
Tuổi Dần |
Tuổi Tỵ |
Tuổi Thân |
Tuổi Hợi |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
Tuổi Tý |
Tuổi Mão |
Tuổi Ngọ |
Tuổi Dậu |
Tuổi Sửu |
Tuổi Thìn |
Tuổi Mùi |
Tuổi Tuất |
Tuổi Dần |
Tuổi Tỵ |
Tuổi Thân |
Tuổi Hợi |
Thời rất xa xưa, khi loài người chưa tìm ra lửa để nấu nướng thức ăn, để soi sáng chỗ ở của mình trong đêm dài tối tăm thì ánh trăng quý lắm. Người cổ xưa thấy trăng đi lại trong vòng 29 ngày, khi tròn khi khuyết, nhưng rất đểu đặn, như một người bạn trung thành không bao giờ lỗi hẹn và lấy đó làm đơn vị chính để đo thời gian. Cuốn lịch cổ nhất của loài người tính theo tuần trăng là âm lịch Ba-bi-lon (Trung Đông) sáng chế cách đây 7- 8 nghìn năm.
Âm lịch Trung Quốc có từ cách đây 42 thế kỷ, mỗi năm 12 tháng, trọn 354 hoặc 355 ngày. Lịch cổ Hy Lạp cũng là âm lịch, mỗi năm có 354 hoặc 355 ngày. Nhưng nếu số ngày trong mỗi năm chỉ có thế thôi thì chỉ năm trước năm sau là thời tiết không đúng với lịch nữa rồi, qua 3 năm thời tiết chênh lệch với lịch hàng tháng, qua 6-7 năm thì lịch là mùa hè mà trời vẫn đang xuân. Tuy nhiên cũng phải qua vài trăm năm liên tục nghiên cứu những sai lệch kỳ quặc ấy, các nhà thiên văn xưa kia mới tìm được cách làm cho âm lịch tương đối khớp với thời tiết: trong 3 năm phải có một năm thêm một tháng-(năm nhuận), 5 năm có 2 năm nhuận, 19 năm có 7 năm nhuận. Gọi là âm lịch, thực ra lịch này không còn hoàn toàn là âm lịch nữa, mà đã phối hợp âm lịch với dương lịch, vì tháng thì tính theo trăng, còn năm thì bám theo thời tiết, mà thời tiết thay đổi từng mùa xuân, hạ, thu, đông nối nhau là do quả đất vận chuyển quanh mặt trời, lúc gần lúc xa, theo một quỹ đạo hình bầu dục.
Chỉ có lịch Hồi giáo mới thuần túy là âm lịch, cứ theo tuần trăng mà tính một năm 12 tháng, trọn năm 354 ngày. Cho nên nếu một người Hồi giáo khoe là 102 tuổi rồi thì đúng ra chỉ là 96 năm.
Người Ai Cập sáng chế ra dương lịch từ cách đây hơn 6.000 năm. Bấy giờ, người ta tính năm theo chu kỳ nước lũ của con sông Nin, con sông quyết định vận mệnh của nhân dân AI Cập. Nhưng những người làm lịch chỉ tính mỗi năm có 365 ngày, mà thực ra năm dương lịch là 365 ngày và 2,422/10.000 giây (tức là gần 1 phần 4 ngày). Cho nên, theo lịch này thì cứ 4 năm thiếu mất một ngày: qua 1.000 năm, lịch và thời tiết sai nhau 250 ngày: qua một chu kỳ 1.460 năm, lịch và thời tiết mới gặp nhau, rồi lại dần dần sai lệch mãi cho đến hết chu kỳ khác. Tính hỗn độn này ở Ai Cập kéo dài hơn 4.000 năm. Mãi đến năm 240 trước Công nguyên (cách đây 2.211 năm) người ta mới sửa lại lịch, cứ 4 năm có một năm nhuận 366 ngày (thêm một ngày).
Người La Mã làm dương lịch từ cách đây khoảng 3.500 năm, buổi đầu cũng giống lịch Ai Cập, mỗi năm 365 ngày. Năm 46 trước Công nguyên, hoàng đế La Mã ià Giuyn Xê-da nhờ nhà thiên văn Hy Lạp Xi-xô-gien nghiên cứu sửa đổi lịch. Xi-xô- gien quy định mỗi năm 12 tháng, gồm 7 tháng 31 ngày, 4 tháng 30 ngày, riêng tháng 2 có 28 ngày, cộng lạí là 365 ngày và cứ 4 năm thì có 1 năm nhuận, tháng hai 29 ngày. Lịch này gọi là lịch Xê-da.
Nhưng rồi người ta lại phát hiện ra cái sai khá to cũa lịch Xê-da. Bởi vì, trung bình mỗi năm lịch Xê-da so với thời gian quả đất đi một vòng quanh mặt trời thì dài hơn 78/10.000 ngày, tức là 11 phút 14 giây. Mỗi năm sai lệch như vậy có là bao đâu? Qua 100 năm chỉ thừa 3/4 ngày. Ấy thế mà đến năm 1582, tức là qua 17 thế kỷ dùng lịch Xê-da, người ta phải sửa đổi lịch này và quyết định rút bớt đi 10 ngày cho hợp với thời tiết. Năm 1582 như vậy chỉ còn 355 ngày thôi.
Người đứng đầu việc sửa đổi lịch Xê-da là Giáo hoàng Gơ-rê-goa 13. Một hội đồng các nhà bác học đã nghiên cứu sửa lịch Xê-da như sau: Cứ 4 năm có một năm nhuận nhưng trong 400 năm thì phải bớt đi 3 năm nhuận. Lịch sửa đổi gọi là lịch Gơ-rê-goa. Từ khi lịch này ra đời (1582) đến nay, hơn 400 năm đã bỏ 3 năm nhuận: 1700, 1800, 1900. Đó là những năm mà hai con số sau cùng là 00, nhưng hai con số đầu (17, 18, 19) thì không chia hết cho 4. Như vậy trong vòng 400 năm tới thì năm 2000 là năm nhuận còn ba năm 2100, 2200, 2300 không nhuận. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới dùng lịch Gơ-rê-goa. Nhưng phức tạp, La Mã và Tây Ban Nha dùng lịch Gd-rê-goa trước tiên, sau ngày 4/10/1582 theo lịch Xê-da tiếp ngay đến ngày 15/10/1582. Hai tháng sau, Pháp và Hà Lan sửa đổi lịch. Đến 1584 thì Đức và Thụy Sĩ bắt đầu dùng lịch mới. Nước Anh dùng lịch cũ mãi đến năm 1752 mới thôi. Khi đổi lịch mới phải bớt đi 11 ngày, quần chúng biểu tình khắp đường phố đòi "trả lại chúng tôi 11 ngày". Nước Nga dùng lịch cũ mãi đến ngày 26 tháng 1 năm 1918 chính quyển Xô viết mới quyết định dùng lịch Gơ-rê-goa, cùng chung một quyển lịch với đại đa số nhân dân thế giới. Cho nên, năm 1917 theo lịch Xê-da thì Cách mạng Vô sản nổ ra ngày 25/10. Từ năm sau 1918, theo lịch mới kỷ niệm Cách mạng vĩ đại thành công vào ngày 7/11.
Lịch Gơ-rê-goa chúng ta đang dùng cũng còn một tí sal lệch. So với 100 lần trái đất đi vòng quanh mặt trời thì 100 năm lịch thừa mất 3/100 ngày. Có nghĩa là 100 thế kỷ tới sẽ sai lệch 3 ngày, phải sửa lại, Nhưng đó là việc của hàng trăm thế hệ sau. Còn ngay bây giờ thì đã có nhiều nhà khoa học thế giới nêu vấn đề bỏ lịch Gơ-rê-goa mà thay bằng một thứ lịch mới, gồm các tháng, các quý có số ngày làm việc, ngày nghĩ đều nhau, cho hợp với kế hoạch sản xuất đại công nghiệp
Nữ Kỷ Mão sinh năm 1999, tuổi con Mèo, cung Cấn thuộc Tây Tứ mệnh, mạng Thành đầu Thổ ( đất trên tường)
Nữ mệnh Thổ thì hợp với màu sắc:
Màu sắc hợp: màu đỏ, hồng, cam thuộc hành Hỏa (Hỏa sinh Thổ)
Màu sắc tương sinh: Màu nâu, vàng đất thuộc mệnh Thổ
Màu sắc kị: trắng, xám, ghi thuộc hành Kim (mệnh cung bị sinh xuất, làm giảm năng lượng)
Tuổi Kỷ Mão được sống một đời có phần sung túc về tiền bạc, tình cảm dồi dào, có đủ khả năng tự tạo dựng được một cuộc sống hoàn toàn êm đẹp cho cuộc đời. Cuộc sống không đến nỗi phải có nhiều cực khổ về thể xác, có thể còn lên cao về đường tài lộc nữa, vào khoảng 34 tuổi trở đi thì đường tài lộc có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Tóm lại: Tuổi Kỷ Mão được sung sướng về phần thể xác, cuộc đời có đủ khả năng tạo ra tiền bạc để đảm bảo sự sống.
Vấn đề tình duyên cũng có nhiều đổ vỡ buổi đầu, nhưng sao được tươi vui hạnh phúc. Về tình duyên tuổi Kỷ Mão sẽ có 3 giai đoạn như sau:
Nếu bạn sinh vào những tháng sao đây thì cuộc đời của bạn có 3 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc, đó là khi bạn sinh vào những tháng 4 và 9 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 2, 5, 8, 10 và 12 âm lịch thì cuộc đời bạn sẽ có 2 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Còn nếu bạn sinh vào những tháng 3, 6, 7 và 11 âm lịch thì cuộc đời của bạn sẽ được hưởng hoàn toàn hạnh phúc, cuộc đời chỉ có một làn thay đổi tình duyên. Trên đây là những diễn biến về tình duyên và hạnh phúc của bạn.
Phần gia đạo công danh lúc đầu có nhiều bê bối, những vào trung vận và hậu vận thì được êm ấm vẹn toàn. Công danh nếu có cũng chỉ vào mức trung bình chứ không lên cao được.
Phần sự nghiệp có cơ hội được tạo nên nhanh chóng và phải qua 30 tuổi thì mới vững chắc được. Tiền bạc có khá dư giả và khoagr 34 tuổi trở lên thì được lên cao.
Trong việc xây dựng hôn nhân và gia đình hạnh phúc thì bạn nên lựa chọn những tuổi hợp với mình để kết hôn, tạo cho cuộc sống thêm phần hạnh phúc, sung túc về tài lộc, có cơ hội tạo cho cuộc đời sang giàu. Những tuổi hợp với tuổi Kỷ Mão là: Tân Tị (2001), Nhâm Ngọ (2002), Giáp Thân (2004), Đinh Hợi (2007), Mậu Dần (1998).
Nếu bạn kết hôn với tuổi Tân Tị và Nhâm Ngọ thì cuộc đời có thể tạo dựng được cuộc sống giàu sang.
Nếu bạn kết hôn với tuổi Giáp Thân và Đinh Hợi thì có phần thuận lợi về đường công danh lẫn đường tài lộc.
Nếu tuổi Kỷ Mão kết hôn với tuổi Mậu Dần thì rất tốt đẹp về đường tình duyên và có cơ hội là giàu mau lẹ, vì những tuổi trên hợp với đường tình duyên và hợp với cả đường tài lộc.
Những năm mà tuổi Kỷ Mão không nên kết hôn đó là những tuổi 16, 17, 23, 28, 28, 29, 35 và 40 tuổi. Nếu kết hôn vào những năm bạn ở độ tuổi này thì việc hôn nhân sẽ không thành, nếu thành thì sẽ gặp cảnh xa vắng triền mien hay ít ra cũng có nhiều việc lo buồn về chồng con.
Nếu sinh vào những tháng 1, 2, 4, và 5 âm lịch thì cuộc đời của bạn có thể sẽ thay đổi về lương duyên hoặc có nhiều đời chồng.
Từ năm 18 đến 25 tuổi:
Năm 18 tuổi, có nhiều trở ngại trong sự làm ăn, nhất là tháng thứ 6 trở đi, tháng 10 kỵ đi xa. Năm 19 tuổi, năm này là năm tốt cho tuổi, tài lộc điều hòa, việc làm ăn phát triển mạnh, tháng 4 và tháng 5 nên đi xa, làm ăn thì đại lợi. Năm 20 tuổi, năm này khó thoát qua việc hoa tài tốn của, nên cẩn thận xe cộ vào tháng 9. Những tháng khác bình thường.
Vào năm 21 tuổi, nhiều trở ngại và có thể gặp nhiệu sự khó khăn trong việc làm ăn, nên đừng có quá vội vàng mà thất bại. Năm 22 tuổi, cuộc sống tốt đẹp năm nay tạo được nhiều cơ hội để phát triển nghề nghiệp và việc làm ăn. Năm 23 tuổi thì kị vào những tháng 3, 6, 9 vào ba tháng này hao tài hay bệnh hoạn. Năm 24 tuổi thì việc làm ăn gặp nhiều may mắn và thâu đoạt nhiều kết quả về tài lộc khả quan. Năm 25 tuổi đầy nhựa sống, làm ăn phát triển mạnh mẽ, có thể tạo lập sự nghiệp vào năm này.
Từ năm 26 đến năm 30 tuổi:
Năm 26 tuổi thì nữ mệnh Kỷ Mão thành công hoàn toàn về mặt tình cảm tài lộc, có thể xuất phát tiền bạc thu nhiều lợi lộc. Năm 27 tuổi, cuộc sống khá tốt đẹp, gia đình hạnh phúc yên vui, có thể tạo lấy nhiều tài lộc. Năm 28 tuổi, công danh hay việc làm ăn đều phát triển lên cao, cuộc sống sung túc và vui tươi hoàn toàn. Vào năm 29 và 30 tuổi, gặp được nhiều điều may mắn, vào năm 29 tuổi gặp vận may, năm 30 tuổi có đủ cơ hội tạo nên sự nghiệp lớn.
Từ năm 31 đến năm 35 tuổi.
Năm 31 tuổi, năm nay là năm xấu, việc làm ăn bị ngưng trệ, có hao tài tốn của vào những tháng cuối năm, nên đề phòng mất cắp hay trộm đạo. Năm 32 tuổi, năm này trung bình, toàn năm không có việc gì quan trọng xảy ra trong cuộc đời. Năm 33 tuổi, năm này xấu vào những tháng 1, 4, 7, 10 trong những tháng trên không nên phung phí tiền bạc hay hùn hạp làm ăn bất lợi. Vào năm 34 tuổi thì gặp nhiều điều may mắn cho cả sự nghiệp lẫn tài lộc, năm nay làm việc gì cũng thắng lợi. Năm 35 tuổi, năm này trọn vẹn, việc làm ăn hay trong gia đình đều có nhiều sự tốt đẹp cho bạn, có thể gặp đại kỵ vào tháng 8 nên cẩn thận.
Từ 36 đến 40 tuổi:
Vào năm 36 tuổi, cuộc sống khá tốt, nên đi xa, xuất hành hay góp vốn làm ăn. Năm 37 tuổi thì đẹp đẽ cho vấn đề tình cảm gia đình. Năm 38 tuổi gia đình đầy đủ, con cái thuận hòa, tình cảm tốt đẹp. 39 tuổi, cuộc sống được vẹn toàn. NNawm 40 tuổi, là năm an nhàn nhất của cuộc đời bạn, năm nay có nhiều thắng lợi vẻ vang.
Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:
Vào năm 41 tuổi có hao tài, bệnh hoạn. Năm 42 tuổi, tình cảm gia đình vượng phát. Năm 43 tuổi, không được tốt đẹp lắm cho cuộc sống, nên cẩn thận đề phòng ốm đau, bệnh tật trong gia đình. Năm 44 tuổi, sẽ có nhiều điều tốt về tình cảm và cả tài lộc. Năm 45 tuổi, có cơ hội phát triển mạnh mẽ về cuộc sống.
Từ năm 45 đến năm 50 tuổi:
Năm 46 tuổi không được tốt đẹp cho lắm. Vào năm 47 tuồi thì tài lộc khá sôn sẻ, cuộc sống ổn định hơn. Năm 48 tuổi, năm này không nên có những giao dịch lớn về tiền bạc lẫn tình cảm. Năm 49 tuổi là năm xấu, gặp vào tháng 10 và tháng 11 là đại kỵ. Năm 50 tuổi thì năm này đáng lo, bổn mạng suy yếu, có thể gặp cảnh buồn bực trong năm.
Xem thêm: Tử vi của nữ mệnh sinh năm 2000 tuổi gì? Mệnh gì?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
CHUNG: Theo Tử vi 2016, bản mệnh Dần bước vào năm 2016 cần chuẩn bị tâm lí đón tiếp một vận trình vất vả, khó khăn nhất vì rơi vào cục diện Dần Thân tương xung, trong đó vận Phạm Thái Tuế của bản mệnh ảnh hưởng cực lớn. Tuy vậy, vận mệnh tốt đẹp hay không phụ thuộc khá nhiều vào cá tính, sự quyết tâm của từng người bởi có lúc trong năm xung Thái Tuế lại thúc đẩy vận khí cho một số người. Bất luận vận trình của bản mệnh ra sao, có thể tận dụng hỉ sự để đuổi tà. Nếu trong năm nay bạn có 3 việc lớn như thành thân, thêm con cháu hoặc khởi nghiệp thì có thể giảm bớt hung vận từ Thái Tuế. Ngoài ra, trong năm nay có cát tinh đi vào cung mệnh, nếu cố gắng hết sức cũng gặt hái được thành công. Đây có thể coi là một năm lao động cật lực của bản mệnh.
1. Phong tục phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới đem mai táng
Theo sách tâm linh Việt Nam ghi lại về hủ tục của người Mông ở tỉnh Sơn La thì khi một người trong gia đình mất đi, người thân của họ hàng ngày vẫn coi như họ còn sống nên các lối sinh hoạt như thường ngày vẫn được thực hiện. Theo quan niệm tâm linh Việt Nam đó, mọi người vẫn đút cơm và nước vào miệng cho người chết. Sau nhiều ngày, khi thức ăn bắt đầu lên men, thậm chí có nhiều ruồi nhặng bâu đen quanh mặt người đã khuất, họ vẫn tiếp tục duy trì công việc đút cơm như thế. Thêm vào đó, hàng ngày theo phong thủy, những người sống còn khiêng người đã mất ra sân và đặt ngửa lên tấm ván đã được gia đình chuẩn bị sẵn, theo quan niệm của họ là để người chết được "ngắm" nhìn mặt trời. Dù cho có mưa to hay nắng cháy thì cũng phải đợi khi mặt trời mọc mới được khiêng người chết vào nhà. Hủ tục tâm linh rùng rợn đó của người Mông đã tồn tại hàng thế kỷ trên bản Lung Tang, thuộc xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
Phong tục tâm linh kỳ lạ này tùy vào việc người chết có bao nhiêu người con, khi đó người nhà sẽ đem “phơi nắng” người chết từng đó ngày. Sau khi xem tử vi có những người được đưa ra một hai ngày, nhưng cũng có những người được đưa ra phơi nắng hàng tuần trời, kể cả khi chân tay, đầu, tóc… rời ra thì họ cũng vẫn phải “cúng” cho đúng ngày, đúng tục.
Thời gian gần đây phong tục tâm linh Việt Nam này đã ít xuất hiện hơn, người Mông không còn còn phơi xác của người chết hàng chục ngày như xưa kia nữa, nhưng phong tục này vẫn còn được duy trì. Theo đó, tùy theo việc có số con, cháu đông hay ít kết hợp với xem tử vi trọn đời mà người sống sẽ giữ, hoặc phơi xác người đã khuất từ 1-3 ngày rồi sẽ mang đi mai táng.
2. Ám ảnh hủ tục “ma trùng”
Ở hai thôn thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế là Xuân Thiên Thượng và Xuân Thiên Hạ, xã Vinh Xuân người dân bao đời nay còn lưu truyền những chuyện tâm linh Việt Nam rùng rợn, và một trong những hủ tục rùng rợn đó gọi là tục "ma trùng". Theo hủ tục tâm linh này, thì khi không may trong họ tộc có một người mất, mà lại trùng với thời điểm người thân đột nhiên sinh ra bệnh nặng, thì con cháu trong gia đình của người bệnh sẽ chuẩn bị xăng dầu, cùng với cuốc xẻng đi xới tung mộ của người đã khuất để yểm bùa chú. Và phải qua 49 ngày hoặc tròn một năm thì người đã khuất mới có thể bình thản nghỉ ngơi, người sống không còn đổ oan cho người đã khuất được nữa.
Phong (峰): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ đỉnh núi cao lớn và nhọn; còn có hàm nghĩa chỉ cảnh giới tối cao. Dùng làm tên người biểu đạt hy vọng bé yêu sau này trở thành nhân tài tuấn kiệt.
Đại (岱): Ngũ hành thuộc Thổ; là tên gọi khác của núi Thái Sơn, tượng trưng cho sự vững bền, vững như Thái Sơn.
Ý (懿): Ngũ hành thuộc Thổ; Chỉ sự thiện lương, kiệt xuất, hòa nhã.
Kính (敬): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ người có đạo đức, nhân từ.
Viễn (远): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ cự ly xa.
Văn (文): Ngũ hành thuộc Thủy; chỉ văn minh, văn hóa; dùng làm thên người chỉ sự thông minh; là tên thường dùng khi chọn theo hành Thủy.
Giang (江): Ngũ hành thuộc Thủy; nghĩa là sông.
Lan (澜): Ngũ hành thuộc Thủy; nghĩa là sóng lớn.
Thông (聪): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người chỉ sự thông tuệ, nhanh nhẹn trong tư duy.
Duệ(睿): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người chỉ sự thông tuệ, sáng suốt.
Huệ (惠): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người có ý nghĩa nhân ái, khoan dung.
Hàm (涵): Ngũ hành thuộc Thủy, chỉ sự bao dung.
Trí (智): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự thông minh, trí tuệ, kiến thức.
Chữ Minh chỉ sự sáng rõ, thanh sạch |
Minh (明): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự sáng rõ, thanh sạch.
Ngữ (语): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự đám luận, biện luận.
Mẫn (敏): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng chỉ sự linh hoạt, nhanh chóng, thông minh, trí tuệ
Đạt (达): Ngũ hành thuộc Hỏa; Nghĩa cơ bản chỉ sự đạt đến còn có nghĩa chỉ sự đắc chí, hiển quý.
Chương (章): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ nhân tài.
Phi (飞): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự hy vọng về tài năng, phát triển thành công.
Đằng (腾): Ngũ hành thuộc Hỏa; chỉ sự bay nhảy, lên cao.
Vân (云): Ngũ hành thuộc Hỏa; chỉ đám mây.
Tài (才): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ tài năng.
Hiền (贤): Ngũ hành thuộc Mộc; ý chỉ người có tài có đức.
Cung (恭): Ngũ hành thuộc Mộc; Chỉ sự cung kính, có lễ độ.
Gia (嘉): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ sự tốt đẹp, hạnh phúc.
Tinh (精): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ sự tinh tế, chuyên tâm, thông minh, thanh sạch.
Thư (书) Ngũ hành thuộc Kim; Dùng làm tên người chỉ sách bút, ghi chép.
Theo Qiming
Bình uống nước khiến cuộc sống của chúng ta trở nên tiện lợi hơn, nên dù trong gia đình, văn phòng hay nơi công cộng đều không thể thiếu. Tuy nhiên, không nên coi thường vật nhỏ này.
Phong thủy phòng khách nên đặt bình uống nước ở đâu để vượng tài?
Để giữ cả nhà sạch sẽ, gọn gàng, một số gia đình đặt bình uống nước ở phòng bếp. Điều này là không nên, nên đặt bình uống nước cách xa nơi có lửa.
Tốt nhất là nên đặt bình uống nước ở một góc yên tĩnh trong phòng khách, như vậy tiện cho việc uống nước lúc nghỉ ngơi hoặc pha trà cho khách. Nên tránh nơi hỗn loạn, ô uế và nơi nhiều người qua lại như cửa ra vào, thùng rác hoặc điều hòa, bởi vì như vậy rất bất lợi cho tài vận.
Nếu chỉ đơn thuần xét về phương vị, thì phù hợp nhất là đặt bình uống nước ở phía Bắc, có thể nâng cao thời vận. Ngoài ra, một số phương vị khác, như phía Tây Nam có lợi cho thời vận của phụ nữ, phía Đông nam có thể nâng cao phong vận, phía Đông có lợi cho nam giới. Duy chỉ có phía Nam, lúc tốt lúc xấu, không phù hợp đặt bình uống nước.
Cấm kỵ khi đặt bình uống nước
Bình uống nước đặt không đúng vị trí có thể dẫn tới Ngũ hành tương khắc
- Bình uống nước không nên đặt ở cửa phòng khách
Từ góc độ vệ sinh, cửa ra vào người qua người lại đông đúc, không tránh khỏi bụi bặm, vi trùng và mầm bệnh. Xét về góc độ phong thủy, nước là tài, nước đặt ở cửa, dễ xung tài vận.
Bình uống nước có thể đặt ở hướng song song với cửa ra vào, tức Minh Đường vị, hoặc bên cạnh ghế sofa.
- Bình uống nước không nên đặt ở vị trí tài trong phòng khách
Thông thường, vị trí tài là đường góc đối diện cửa ra vào. Chỗ này có thể đặt một số cây xanh hoặc vật trang trí khác, nhưng không nên đặt các vật chứa nước như bình cá, bình uống nước... Nước có thể tụ tài, nhưng đặt nước ở vị trí tài có thể hóa tài, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe của người trong gia đình.
- Bình uống nước không nên đặt quá gần máy lạnh, điều hòa, quạt gió...
Máy lạnh, điều hóa, quạt gió... đều có khí lưu rất mạnh tản ra ngoài, sẽ gây ảnh hưởng tới nước của máy uống nước, khiến tài vận không ổn định, cho nên cách xa thì tốt hơn.
- Bình uống nước không nên đặt trong phòng ngủ
Để việc uống nước dễ dàng hơn, nhiều bạn đặt bình uống nước trong phòng ngủ, tuy nhiên điều này không hề hợp lý.
Đầu tiên, phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi, đồ điện đặt càng ít càng tốt, như vậy mới có thể giảm thiểu ảnh hưởng không tốt của tia bức xạ của điện tới con người.
Tiếp đó, bình uống nước có hai thuộc tính Ngũ hành quan trọng là nước và lửa. Trong ngũ hành, hai nguyên tố này có tác dụng rõ rệt trong phong thủy, ảnh hưởng rất lớn tới con người.
- Bình uống nước không nên đặt trong phòng bếp
Phòng bếp vốn dĩ là nơi nước lửa đầy đủ, hơn nữa diện tích nhỏ, bình uống nước để ở đó, không cẩn thận sẽ dễ tới hiện tượng xung với bàn bếp. Ngũ hành tương khắc, khó tránh ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe và vận thế của mọi người trong gia đình.
1. Tháng Giêng (Dần) - Óc quan sát và khả năng thực hành rất tốt, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ.
- Giỏi nắm bắt thời cơ, tài vận tốt đẹp.
- Mưu sự cẩn trọng. Mọi sự nhắm trúng mới hành động, quyết không hành sự mù quáng.
- Quan hệ gia đình xã hội nói chung hòa thuận, tốt đẹp, được cấp trên nâng đỡ cất nhắc, đề bạt.
2. Tháng Hai (Mão) - Có óc thẩm mỹ hoặc nghệ thuật.
- Cá tính hiền, trầm lắng, cẩn trọng, lương thiện, bình tĩnh.
- Suy nghĩ kỹ càng, tỉ mỉ, nhanh nhạy, quan hệ con người tốt, đầy sáng tạo.
- Bề ngoài dễ bị đánh giá nhàn tản.
- Giỏi kiếm tiền và quản lý tài chính. Về già an vui.
- Thường phải ly hương mưu sinh lập nghiệp. Lục thân khiếm hòa, không đằm thắm.
3. Tháng Ba (Thìn) - Rất nhẫn nại trong bất cứ việc gì.
- Bất luận nam, nữ đều khá sành điệu trong ẩm thực nhưng chưa hẳn đã mập.
-Tâm hồn trong sáng, ham học hỏi, giỏi nhẫn nhịn.
- Khi còn trẻ không có gì nổi trội. Ngoài 40 tuổi, đa số phát tài, phát lộc dần dần giàu có. Cuối đời dư dả, phú quý.
4. Tháng Tư (Tỵ) - Đặc điểm nổi bật nhất là con người của công việc, vùi đầu vào công việc, đâu vào đó.
- Năng động, hiếu động, nóng nảy. Thường nóng - lạnh thất thường.
- Luôn phấn chấn, ít ca thán.
- Thích chơi với người ngoài hơn người thân.
- Tự lực, tự cường, tự thân lập nghiệp, thành công ở tuổi trung niên.
5. Tháng Năm (Ngọ) - Chuyên tâm với nghề nghiệp, vững bước tiến lên.
- Thiện ác phân minh. Thông minh, nho nhã.
- Dám nhận thiếu sốt, sai lầm của mình. Biết sai là sửa. Đôn hậu, thiện tâm, hiếu thảo.
- Công bằng, chính trực, được mọi người tin tưởng quý mến. Luôn được quý nhân hỗ trợ.
- Hôn nhân thường không thuận, qua vài cầu vẫn không ổn.
6. Tháng Sáu (Mùi) - Thông minh, nhạy bén, ham hiểu biết, thích giao tiếp.
- Cảm thụ về tình cảm rất nhanh nhạy.
- Làm việc tích cực, chủ động, ít sợ khó khăn, trở ngại, quyết chí vươn lên. Tự thân lập nghiệp, đi trên đôi chân của mình.
- Dễ trở nên bất mãn với hiện trạng. Khát khao làm nhà cách tân, đổi mới.
- Suốt đời cơm áo đầy đủ, sung túc.
7. Tháng Bảy (Thân) - Thông minh, nhanh nhạy, nhân hậu, lương thiên, hành thiện tích đức.
- Đầy tính sáng tạo, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ.
- Năng lực học tập tốt, là người chủ nghĩa hòa bình điển hình, không muốn gây gỗ với ai.
- Làm việc nhanh chóng, không rề rà.
- Suy nghĩ chu đáo.
- Nếu được bồi dưỡng, đào tạo tốt sẽ có triển vọng là nhà hoạch định chiến lược có tài.
- Cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ cho đến cuối đời.
8. Tháng Tám (Dậu) - Đầy cảm tính và khá tùy hứng.
- Rất lãng mạn.
- Theo đuổi cái hoàn thiện, hoàn mỹ. Là người điển hình của chủ nghĩa lý tưởng, cái gì cũng lý tưởng hóa có khi là ảo tưởng.
- Mua sắm theo ý thích, theo cảm hứng, bất chấp giá cả và việc sử dụng, phá tiền.
- Nhanh nhạy, biết nắm bắt thời cơ, năng động, có tài lẻ. Đa năng, đa tài, đa nghệ.
- Không giỏi xử lý mối quan hệ gia đình, thường bất hòa, đôi khi gây cấn, căng thẳng.
9. Tháng Chín (Tuất) - Trung thành tuyệt đối.
- Tích cực chủ động, hiếu động và rất đáng tin cậy.
- Trong chuyện yêu đương lại vội vàng, hấp tấp, nóng vội, chưa hiểu rõ đối tượng đã tỏ tình ý. Yêu vội cưới gấp nên dễ đổ vỡ.
- Quan vận và tài vận không mấy tốt đẹp.
10. Tháng Mười (Hợi) - Theo đuổi chủ nghĩa cầu toàn. Bao dung, độ lượng, tâm hồn rộng mở.
- Ham và giỏi suy nghĩ, óc tưởng tượng phong phú nhưng năng lực thực hành lại yếu. Xử lý công việc có tình lý.
- Quan hệ xã hội chan hòa nhưng vẫn giữ khoảng cách nào đó nhất định.
- Thích ẩn mình thế giới riêng tư của mình, tránh xa cõi trần, cô liêu trong sự ồn ào.
11. Tháng Mười Một (Tí) - Tài trí, nhanh nhạy. Công danh khá thuận.
- Khả năng diễn đạt tốt, có sức thuyết phục.
- Tính nóng nảy, có vẻ đùa giỡn, chọc ghẹo với quyền lực nên dễ vướng thị phi chốn quan trường.
- Nếu Tôi cường, cách cục đẹp sẽ có triển vọng là quân sư có tài.
- Nếu Can Thổ nhiều thì cá tính nóng vội, dễ làm người khác phật ý.
12. Tháng Mười Hai (Sửu) - Đa số đều có tính cách tích cực tiến công, phấn đấu ít mệt mỏi. Có thiện tâm, vui vẻ, được mến mộ.
- Thường thiếu tin tưởng vào người khác, cái gì cũng phải để mắt vào nên bận rộn, vất vả.
- Hay gặp rắc rối hoặc bị liên lụy bởi người thân, bạn bè nên cuộc sống ít thanh thản.
- Không đọng tài, tiền bạc hay bị hao tán.
Dự đoán tương lai theo tháng sinh khá chính xác bởi tháng sinh là một trong Bát tự và một trong Tứ trụ, đặc biệt quan trọng trong vận mệnh của một người.
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Xem hướng nhà theo tuổi không chỉ tùy thuộc vào từng con giáp mà còn dựa vào mệnh cụ thể từng năm, của từng giới tính. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn cụ thể xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dậu, mời bạn đọc đón xem.
Vì thế, khi thiết kế bếp, cần theo nguyên tắc “nhất vị, nhị hướng”, “toạ hung, hướng cát”, tức là đặt bếp ở vị trí (cung) xấu, hướng về cung tốt. Ý nghĩa là đốt khí xấu, đón khí tốt (có ý kiến cho rằng, toạ ở đây không phải là vị trí, mà là hướng lưng bếp).
Nếu nhà có phòng bếp riêng thì phòng bếp đặt ở cung tốt so với tổng thể ngôi nhà, còn bếp đặt tại cung xấu trong phòng bếp. Phòng bếp thường được xem cho người chồng (chủ nhà), còn bếp được xem cho người vợ (vì bếp đại diện cho người vợ – người nấu ăn chính).
Những người thuộc Tây tứ mệnh (Càn, Khôn, Cấn, Đoài) nên đặt bếp tại cung Khảm (phương Bắc), Ly (Nam), Chấn (Đông), Tốn (Đông Nam); mặt bếp hướng về Càn (Tây Bắc), Khôn (Tây Nam), Cấn (Đông Bắc), Đoài (Tây). Những người thuộc Đông tứ mệnh (Khảm, Ly, Chấn, Tốn) thì đặt bếp ngược lại với người thuộc Tây tứ mệnh.
Trường hợp bếp đặt vào cung tốt thì cũng không nên lo lắng, bởi có quan điểm cho rằng, thực phẩm được nấu nướng trên bếp, nếu nơi đó không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cả nhà, nhất là khi bếp được hướng tốt. Đặc biệt, theo Dương trạch tam yếu, vị trí bếp dù không đặt theo nguyên tắc trên, nhưng hợp với cửa chính, thì vẫn tốt. Ví dụ, người thuộc Đông tứ mệnh đặt bếp tại phương Bắc (Khảm) là xấu, nhưng cửa nhà Đông Nam (Tốn) thì đây lại là sự kết hợp tốt. Bởi lẽ, Khảm là thuỷ, Tốn là mộc, là thuỷ sinh mộc.
Các kiểu kết hợp bếp – cửa nhà tốt thường là: mộc – hoả, hoả – thổ, thổ – kim, kim – thuỷ, thuỷ – mộc. Cần nhớ, Cấn và Khôn có ngũ hành thuộc thổ; Càn và Đoài hành kim; Khảm hành thuỷ; Chấn và Tốn hành Mộc; Ly hành hỏa.
* Hướng bếp không nên ngược với hướng nhà (ví dụ, nhà toạ Bắc hướng Nam thì bếp không nên toạ Nam hướng Bắc).
* Bếp không nên đối diện với cửa bếp, cửa nhà, thậm chí mở cửa không nên nhìn thấy bếp (vì sẽ tạo luồng khí mạnh, khó tích trữ tiền của và người trong gia đình có khuynh hướng ăn uống không điều độ). Hoá giải bằng cách đóng cửa, đặt bình phong, quầy bar hoặc treo màn sáo, chuông gió.
* Bếp không nên đối diện với cửa phòng WC hoặc gần phòng WC hoặc tầng trên là WC (ảnh hưởng đến sức khoẻ).
* Bếp không nên đặt gần hoặc đối diện tủ lạnh, máy giặt, chậu rửa. Bởi lẽ, thủy hoả tương xung, nhưng khoảng cách từ 70 cm trở lên được chấp nhận; nếu gần hơn thì có thể đặt vật mang hành mộc hoặc sơn màu xanh lá cây ở giữa để thuỷ nuôi dưỡng mộc, rồi mộc làm vượng cho hành hoả của bếp.
* Tránh vòi nước chĩa vào bếp hoặc đường ống nước chạy phía dưới bếp.
* Tránh đặt bếp dưới dầm, xà (tủ bếp phía trên bếp cũng không tốt, nhưng nhà bếp hiện đại khó tránh khỏi, vì sử dụng tiện lợi), bởi áp lực từ dầm, xà sẽ đè nén sinh khí từ bên ngoài vào bếp và sinh khí trong bếp, ảnh hưởng đến vấn đề tiền bạc. Hoá giải bằng cách sử dụng trần giả.
* Bếp không nên đặt giữa phòng, giữa nhà, vì bếp kị trống trải, dễ bị gió tạt (bếp cần có chỗ dựa phía sau). Đồng thời, hoả đặt tại trung cung trở nên rất mạnh, không tốt cho sức khoẻ. Bếp cũng không nên đặt cạnh phòng ngủ, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, nếu bếp đối diện phòng ngủ còn ảnh hưởng đến tính khí và tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, tránh đặt bếp cạnh cửa sổ (kị nắng gió), cửa sau (dễ bị thất thoát tiền bạc). Hoá giải bằng bình phong, chuông gió.
* Tránh các vật nhọn, góc nhọn (các tia xấu, khí xấu) chiếu vào bếp.
* Không nên có hai chiếc bếp hoặc gương/đồ sáng bóng phản chiếu bếp (việc này giúp tăng của cải, nhưng chồng có thể có ngoại tình!).
* Không nên đặt bếp ở phía Tây Bắc (Tây Bắc đại diện cho chủ nam, mà bếp là nơi cực hoả, không tốt cho sức khoẻ).
* Ống thông hơi nên đặt tại cung xấu. Giữa ống thông hơi và bếp không nên có cửa sổ (dễ thất thoát tiền bạc).
* Hũ gạo:
Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.
Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị “thổ” đương vượng là có lý, vì rằng:
(1) Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.
(2) Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất,
Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.
Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt chỗ kín đáo, nên đặt nó ở trong chum chôn dưới đất.
12 64 Chọn vị trí thùng đựng gạo và tủ lạnh trong nhà bếp theo phong thủy
* Tủ lạnh
Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình, nay xin nói về những điều cấm kỵ khi đặt tủ lạnh.
Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?
Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!
Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:
(1) Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.
(2) Tủ lạnh là may móc nó vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, kích động nó đi gây rối vì thế đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. trong phong thủy học có nói rằng: “Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động” cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.
Hai sao này được an căn cứ vào Xương Khúc, Ân Quang được an căn cứ vào vị trí Văn Xương, Thiên Quí được an căn cứ vào vị trí của Văn Khúc. Hai sao này xung chiếu với nhau ở Thìn Tuất, đồng cung với nhau ở Sửu Mùi, tam hợp chiếu với nhau ở Mão Dậu Tỵ Hợi, và đứng riêng lẻ với nhau không thành bộ ở Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Thổ là Sửu Mùi mới có cách giáp Quang giáp Quí. Sách vở chỉ nói Ân Quang Thiên Quí miếu địa tại hai cung Sửu Mùi nhưng theo kinh nghiệm thì tại Tứ Mộ hai sao này rất mạnh mẽ và có tác dụng cứu giải ngay cả các hung tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp đóng đồng cung. Nếu không gặp hung thì sao này lại chủ về may mắn. Có người còn cho rằng hai sao này vượng ở Sửu Mùi, đắc tại Mão Dậu.
Tọa thủ tại tất cả các cung đều mang lại sự tốt lành, phúc thọ cho cung đó.
Tọa thủ tại Thân Mệnh thì:
Tâm hồn phúc thiện, ăn hiền ở lành, có thiện tâm, nhân hậu, hay giúp người. Thông minh, ôn hòa, vui vẻ. Trọng ân nghĩa. Đối xử có tình có nghĩa, có trước có sau, không lọc lừa bội phản. Cư xử tình nghĩa đối với bạn bè người dưới quyền, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng. Thường được người ưa quí chuộng cho dù không làm lớn.
Tại Sửu Mùi thì đắc cách nhất, chủ về đại khoa, gặp cát tinh thì học giỏi, công danh hiển đạt. Hưởng ân huệ trời ban, hay gặp may mắn, gặp khó khăn thì có người giúp đỡ. Thông thường có tín ngưỡng hoặc tin vào đấng thiêng liêng.
Có người cho rằng Ân Quang thì hưởng về mặt vật chất, Thiên Quí hưởng về mặt tinh thần. Ân Quang tại Mệnh thì dễ làm thầy giáo, thầy lang, Thiên Quí tại Mệnh thì làm công chức. Kết hợp vói các sao Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa rất hợp cách và tăng thêm sự tốt đẹp sáng sủa cho các sao này. Nếu Xương Khúc là bộ sao phù trì mạnh mẽ cho Nhật Nguyệt thì Quang Quí cũng phù trì cho Nhật Nguyệt hợp hơn các sao khác.
Các bộ sao kết hợp
Quang Quí, Thai Cáo: gọi là tứ vinh (vinh hiển): dễ hiển đạt.
Thai Phụ, Quang Quí thì sớm có công danh, trai thì hiển đạt, gái thì lấy chồng làm lớn.
Quang Quí, Thiên Phúc, Quyền, Lộc: làm lớn.
Quang, Quí, Hỉ Sửu Mùi: công thành danh toại, được người giúp.
Quang, Quí, Tả Hữu, Thanh Long, Khôi Việt, Hoa Cái, Hồng Loan: thượng cách, chức vị lớn.
Quang, Quí gặp Tứ Sát: phúc lộc kém đi.
Quí Ân Thanh Việt Cái Hồng. Trai cận cửu trùng, nữ tác cung phi.
Phối
Lấy vợ chồng quí. Vợ chồng ân ái hòa thuận.
Tử Tức
Thương con. Con sang quí. Có con hiếu đễ với cha mẹ và được cha mẹ thương yêu. Có thể lập con nuôi dể làm phúc.
Bào
Đối xử với anh chị em có tình nghĩa. Anh chị em hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau, nhất là khi đồng cung và không gặp hung tinh hoặc Tuế Đà Kỵ. Có khả năng có anh chị em kết nghĩa, chị em nuôi.
Tài Bạch
Nghèo túng thì có người giúp đỡ, thường gặp may mắn về tiền bạc. Có thể được hưởng di sản. Hay giúp đỡ người nghèo.
Phụ Mẫu
Đối xử tốt với cha mẹ. Được cha mẹ thương yêu. Có bố mẹ nuôi hoặc đỡ đầu.
Thiên Di
Ra xã hội hay gặp hên may, được người giúp đỡ. Có bạn hữu tốt. Giải rất nhiều tai họa.
Điền
Có khả năng hưởng thừa tự của người trong họ hoặc có người hiến nhà hiến đất cho ở, giúp đỡ về chỗ ở.
Quan Lộc
Được người trên giúp đỡ che chở. Hay giúp đỡ đồng nghiệp, lấy chí thành mà đãi người. Gặp may mắn trong quan trường nghề nghiệp.
Quang Quí Cơ Lương ờ Thin Tuất: đại quí, làm nên
Quang Quí, Khôi Việt ờ Sửu Mùi: đại quí, làm nên
Quang Quí Thiên Tướng: đại quí, làm nên to
Quang Quí Tả Hữu, Thiên Lương cư Ngọ: văn võ toàn tài (Thiên Lương tại chỗ khác cũng tốt).
Nô
Đối xử có nghĩa với bạn bè, được người dưới quyền phò tá, có tôi tớ đắc lực trung thành. Có bạn bè tốt, quí mến, giúp đỡ tận tình.
Tật Ách
Đau ốm gặp thầy giỏi, thuốc hay. Ít bệnh tật tai họa.
Phúc Đức
Được thần linh che chở. Thọ, giòng họ đoàn kết, giúp đỡ nhau. Có người để mả cho, khi chết được người hiến đất.
Hạn
Giải rất lớn tai họa xảy ra. Mưu cầu công danh có lợi, thi đỗ, nhất là tại Sửu Mùi. Quí Ân Sửu Mùi hạn cầu. Đường mây gặp bước cao sâu cửu trùng.
Giải họa của Quang Quí
Quang Quí giải họa rất mạnh mẽ khi thủ tại cung đó và đi đủ bộ, nhất là tại Thìn Tuất Sửu Mùi càng mạnh mẽ. Đơn thủ hoặc có cả bộ chiếu không sao thủ thì hiệu lực yếu đi nhiều. Còn cách giáp Quang giáp Quí thì hầu như không có tác động giải họa mấy khi trong cung có hung tinh hãm địa thủ. Không Kiếp có tác dụng giải họa gây ra bơi các sát tinh hạng nặng như Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Riêu, nhưng không có hiệu lực mấy khi giải cách hai đời chồng hoặc vợ gây ra do các yếu tố không phải do hung tinh tác họa như cách Tả Hữu tại Phu Thê thì không giải hết được và vẫn có khả năng hai đời. Quang Quí cũng không giải mạnh được chuyện thị phi do Tuế Đà Kỵ gây ra. Tại vị trí Sửu Mùi thì nó có khả năng giải được hung tinh tọa thủ tại cung nhị hợp là Tí và Ngọ. Tại Thìn Tuất gặp Không hay Kiếp đồng cung hoặc hợp chiếu thì Quang Quí tại đây giải hầu hết tai họa, không phải lo ngại về tai họa vì tai họa không đáng kể. Trường hợp này có Kình Đà hãm địa cùng chiếu về cũng không sao. Nếu có Không Hoặc Kiếp mà thêm Hinh Riêu cả bộ thì cũng giảm rất nhiều tai họa nhưng cũng không hết. Quang Quí tam hợp thủ tại cung thì Không Kiếp hãm địa cả bộ chiếu thủ cũng không đáng ngại vì tai họa không đáng kể. Quang Quí thủ có đủ bộ giải được cả bộ Kình Đà hãm chiếu về, hoặc Kình hoặc Đà hãm tọa thủ, giải đươc Kình Dương hãm địa tại Tí Ngọ Mão Dậu.
Ân Quang-Thiên Quí đồng cung giải được Hình Riêu Không Kiếp đủ bộ thủ chiếu.
Quang Quí đơn thủ không giải họa mạnh được, không giải được Kình cư Ngọ có Hình Riêu tam hợp. Quang Quí đồng cung, vừa nhị hợp vừa giáp thì giải họa rất nhiều cho cung này, giải được Không hoặc Kiếp tọa thủ. Quang Quí đơn thủ gặp Không, Kiếp hãm đồng cung thì giải nhiều nhưng không hết tai họa .
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Cuộc đời: sung túc, gia đình vui vẻ, làm ăn phát đạt, về già an nhàn, hưng vượng, phú quý.
Tính cách: Là người hiền lành, ôn hòa, giàu nghị lực nên được mọi người quý mến, đồng nghiệp tin tưởng hợp tác.
Tình duyên: Đây là tuổi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống lẫn tình duyên, có số hưởng hôn nhân hạnh phúc.
Tuy nhiên nam sinh vào các tháng: 5, 6, 9; nữ sinh vào tháng 1 thì ít may mắn hơn.
Để vợ chồng hòa thuận, cuộc sống sung túc, tốt đẹp, nam Tân Hợi không nên kết hôn với các tuổi: Bính Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn. Nữ Tân Hợi tránh kết hôn với tuổi: Bính Thìn, Canh Tuất, Mậu Thìn, Giáp Thìn.
Công danh sự nghiệp: Tuổi Tân Hợi biết nắm thời cơ nên từ tiền vận đã làm nên danh phận, trung niên sự nghiệp ổn định, vững chắc, từ 37 tuổi trở đi mọi thứ phát triển tốt đẹp.
Để đạt được thành công trong công việc, tuổi này nên kết hợp làm ăn với các tuổi: Tân Hợi, Nhâm Tý, Ất Mão, Đinh Tỵ.
Tiền bạc: Tuổi Tân Hợi kiếm được nhiều tiền nhưng tiêu pha cũng nhiều, trung niên tiền bạc ổn định, dư dả, về già có quý nhân giúp đỡ, được hưởng vinh hoa, phú quý.
(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)
Hành: ThủyLoại: Bại TinhĐặc Tính: Phiền não, ưu tư, bi quan, phá tán, xui xẻoTên gọi tắt thường gặp: Hư
Phụ Tinh. Một trong sao bộ đôi Thiên Khốc và Thiên Hư. Gọi tắt là Khốc Hư. Một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Ý Nghĩa Thiên Hư Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Thiên Hư là sao ưu tư, âu sầu, cho nên thủ Mệnh thì da xanh, mắt có quầng đen, diện mạo buồn tẻ, mặt thiếu khí sắc, mắt kém thần, hay trông xuống, không trông xa.
Tính Tình
Là bại tinh và là sao âu sầu, Thiên Hư có nghĩa:
Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh bằng trí tuệ.
Mục Lục
Đại Thế Chí Bồ Tát là tên phiên phiên âm từ tiếng Phạn Mahastamaprapta, dịch ý là Đại Thế Chí hoặc Đại Tinh Tiến, gọi tắt là Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra còn những tên khác như Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Vô Biên Quang Bồ Tát. Mỗi cái tên, danh xưng đều có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với đạo hạnh và chức trách mà Ngài mang.
Cái tên Đại Thế Chí xuất phát từ việc Ngài dùng ánh sáng trí tuệ chiếp khắp muôn nơi để chúng sinh mười phương thoát khỏi đau khổ, đạt thành tựu Bồ Đề, có đạo hạnh chuyên tu. Đắc Đại Thế Bồ Tát có nghiêng về diễn tả đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, dùng hạnh nguyện của mình để điều phục và tiếp độ chúng sinh trong thế giới Ta bà.
Đại Tin Tấn hay Đại Tinh Tiến tức là vị Bồ Tát có sức tinh tiến vĩ đại, vô biên, càng ngày càng tiến lên để hóa giải mọi phiền não và giáo hóa chúng sinh, không mệt mỏi, không lùi bước, không ngại chướng khổ. Vô Biên Quang là vị Bồ Tát có ánh sáng vô biên, tỏa khắp pháp giới để chúng sinh hữu duyên thấy được ánh sáng quang minh tinh diệu vô lượng của Ngài khắp mười phương.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh có ghi, Đại Thế Chí Bồ Tát lấy ánh sáng trí tuệ làm ngọn đèn soi đường cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi ác, đạt được sức mạnh vô biên, hướng tới thân tâm an lạc. Khi Ngài di chuyên, thập phương mười hướng như đang xảy ra một cơ địa chấn, trí tuệ quét sạch u mê nên có tên gọi Đại Thế Chí.
Ngài là một trong Tây Phương Tam Thánh, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát theo hầu Phật A Di Đà, một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ Tát. Đại Thế Chí bên phải, Quan Thế Âm bên trái, một bên đại diện cho tinh thần đại trí, một bên biểu thị cho tinh thần đại bi. Người tu hành muốn tu tập viên mãn, đạt thành tựu Phật giáo thì phải có cả hai yếu tố là tấm lòng và trí tuệ.
Từ bi bên trái, trí tuệ bên phải, trí tuệ dẫn đường cho từ bi để từ bi đi đúng hướng, từ bi thấm nhuần trí tuệ để trí tuệ không cứng nhắc, không trên đời mà giúp đời, cứu đời thoát khỏi u tối. Đó chính là ý nghĩa cao nhất, sự hòa hợp tốt đẹp nhất của Phật giáo. Là Phật tử, là những người hướng Phật nhất định phải hiểu được đạo lý này, đồng thời trang bị cho mình hai hạnh này, có như vậy thờ Phật mới chân chính, kính Phật mới chuyên tu.
Trí của Thế Chí Bồ tát là trí của ánh sáng và niềm tin, quyết tâm giáo hóa chúng sinh tránh khỏi đường mê lối lạc. Ngài là vị Bồ Tát Đẳng Giác hầu cận Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ giúp Phật hóa, tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới, giáo hóa Thánh chúng tại Cực Lạc, chờ tới khi công quả viên mãn sẽ bổ xứ thành Phật.
Đây là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh khắp cõi, tuy đã thành Phật trong kiếp quá khứ nhưng kiếp này thừa nguyện tái lai vì lòng thương chúng sinh, hiện thân làm Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trợ duyên cho Phật A Di Đà giáo hóa và tiếp dẫn chúng sinh thoát khỏi bể khổ.
Bồ Tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết Bàn, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai thì Đại Thế Chí sẽ thay Ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới Tây Phương, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.
Đại hùng đại lực đại từ bi của Thế Chí Bồ Tát chính là tinh thần và trí tuệ cao nhất để Ngài hoàn thành nguyện cũng như trọng trách mà Phật đạo giao phó. Sức mạnh ấy thể hiện ở các phương diện dưới đây:
Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Đại Thế Chí Bồ Tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật. Nhân lành mà Ngài gặt hái được là dùng tâm niệm Phật, vô sinh pháp nhẫn, vì thế Ngài quyết dùng đại hùng đại lực đại bi mà mình có để tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sinh tịnh độ.
Khi niệm Phật, n hất định phải chuyên tâm, người lâm chung muốn vãng sinh thì độ niệm phải có tâm chuyên nhất. Nếu trong lòng tưởng nhớ đến Phật, thấy đường Phật hướng thì Phật cách không ca, không cần phương pháp tu nào khác mà thành được Phật. Nói cách khác, “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam ma địa, đó là bậc nhất”. Đây là điểu quan trọng nhất là người tu niệm Phật cần phải nhớ khi hành trì.
Theo phong thủy và tâm linh, Bồ Tát Đại Thế Chí là Phật bản mệnh của người tuổi Ngọ.
Trong Tây Phương Tam Thánh, Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải Đức Phật A Di Đà, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân là hai cư sĩ có cách ăn mặc tương tự nhau. Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Xem thêm bài viết Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng?
Trên chóp mũ của Bồ Tát có hình ngôi chùa, đại diện cho trí tuệ. Thân tỏa ra màu vàng tím lấp lánh, soi chiếu thập phương để chúng sinh hữu duyên đều có thể tận mắt nhìn thấy ánh sáng của Phật pháp và tịnh diệu. Vì thế mà Bồ Tát Đại Thế Chí cũng được gọi là Bồ Tát Vô Lượng Quang.
Thiên quan của Ngài có 500 bảo hoa, trên mỗi bảo hoa có 500 bảo đài, mỗi bảo đài hiện lên quốc độ tịnh diệu của chư Phật thập phương. Tóc búi hình hoa sen đỏ, trên có bảo bình, trong bảo bình chứa ánh sáng trí tuệ - nguồn lực để độ hóa chúng sinh.
Cũng có hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân là tướng người cư sỹ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu với chúng sanh ra khỏi mê lầm tội lỗi.
Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại Thế Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu. Dùng trí của mình để độ kiếp lầm than, theo đúng tinh thần của Phật giáo.
Tại sao Bồ Tát lại hiện thân cư sĩ? Điều này cho thấy hạnh nguyện của Ngài gần gũi với chúng sinh, muốn chúng sinh nghe pháp, thấu hiểu pháp thì cần phải cảm thông cho chúng sinh. Chỉ khi gần gũi và trở thành bạn lành của chúng sinh thì mới có thể làm được điều này. Bồ Tát là vị cư sĩ giản dị, dễ dàng đi khắp nhân gian để tiếp xúc với mọi người.
Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế tạp, hướng về tịnh độ.
Ngày 13/7 âm lịch là ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát, tức ngày Bồ Tát đản sinh. Ngày này chúng Phật tử và những người hướng Phật cùng làm lễ kính ngưỡng công đức, hạnh nguyện của người. Không chỉ cúng dường, tụng niệm mà còn hướng về Phật pháp, học hỏi Phật pháp, noi gương Ngài ứng dụng vào đời sống để đạt tới lý tưởng tu hành của bản thân.
Ngoài ra, tích cực hành thiện, tổ chức phóng sinh, bố thí, gieo thêm căn lành, hạnh lành cho cuộc đời. Mỗi việc tốt là ngọn nguồn của một cây thiện, đâm ra trái ngọt quả lành mà con người cần phải nhân rộng, đẩy lùi xấu xa ác nghiệt, coi như hoàn thành ý nguyện của Bồ Tát Thế Chí.
Xem thêm bài viết Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật
Dưới đây là lời Bồ Tát Thế Chí nguyện hứa trước Đức Phật khi quyết đi theo con đường tiến tu, học đạo, hướng Phật và tu đạo Bồ Tát.
“Bạch Đức Thế Tôn! nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là:
Ba nghiệp thân
Bốn nghiệp miệng
Và ba nghiệp ý
Tôi xin tiếp tục tu đạo Bồ Tát, làm việc Phật sự, khuyên bảo chúng sinh, mang lại lợi ích cho chúng sinh để mau chóng hoàn thành những hạnh nguyện tôi đã thề. Đến chừng nào Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà độ hóa chúng sinh”.
Thế Chí Bồ Tát là vị Bồ Tát có trí tuệ và tinh thần từ bi, cứu độ chúng sinh vô biên, vô điều kiện, muốn gặp Phật phải có Phật trong tâm, muốn được Phật độ chứng phải thành tâm tụng niệm. Muốn thỉnh nguyện tới Ngài thì hướng về Phật pháp, chuyên tâm tu dưỡng và cúng dường, làm lễ công quả.
Thế gian còn lao khổ, Thế Chí còn miệt mài cứu độ chúng sinh tiến tới cõi Niết Bàn. Cách thỉnh nguyện tốt nhất, hiệu quả nhất chính là học tập đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, không chỉ giữ lập trường tu hành, trọn vẹn tinh thần hoằng pháp mà còn đẩy lui phiền não khổ sở. Chẳng những để bản thân giác ngộ mà còn giác ngộ những người xung quanh để cuộc sống ngày càng tốt đẹp, ngày càng an lạc.
Chăm làm việc thiện, thiện giả thiện báo, phóng sinh cứu độ, giữ tâm chân thành, bố thí hoạn nạn, đường tới thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát ở ngay phía trước.
Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật Văn Thù Bồ Tát - bậc Đại Trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh
Tâm Lan
Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương.
Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến. Tháng 7/219, Quan Vũ khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo.
Ông vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ, giành được thế thắng áp đảo trước Tào Ngụy.
Tào Tháo vừa chống trả với Quan Vũ, vừa sai người "hứa cắt đất Giang Nam phong cho Tôn Quyền", đề nghị Đông Ngô tập kích hậu phương Kinh Châu của Quan Vũ, giúp Ngụy giảm bớt gánh nặng.
Lời đề nghị của Tào Tháo vừa đúng với ý định chiếm lại Kinh Châu từ tay Lưu Bị, điều mà Tôn Quyền mưu tính đã lâu.
Chiến dịch "chấn động thiên hạ" của Lữ Mông
Đại đô đốc Đông Ngô Lữ Mông khi tới Lục Khẩu thì phát hiện Quan Vân Trường mặc dù đem quân chinh phạt Phàn Thành, nhưng vẫn để lại lực lượng phòng thủ hùng hậu, khiến quân Ngô khó đạt được bước đột phá đáng kể.
Lữ Mông bèn "tương kế tựu kế", bàn với Tôn Quyền đưa một nhân vật "không có tiếng tăm" lên thay mình, nhằm làm Quan Vũ lơi lỏng giới bị.
Người được Lữ Mông giới thiệu là Lục Tốn "tài cán hơn người, mà danh tiếng chưa vang xa, không khiến (Quan) Vũ cố kỵ".
Khi Lục Tốn vừa tới Lục Khẩu (Hồ Bắc) liền gửi thư "ca ngợi" Quan Công - "Trận Phàn Thành khiến Vu Cấm đầu hàng, mọi người gần xa đều bái phục Quan tướng quân, có thể nói là lưu danh muôn đời.
Dù là Tấn Văn Công hay Hàn Tín năm xưa cũng khó lòng so sánh với tướng quân.
Nhưng Tào Tháo mười phần lợi hại, nhất định không cam chịu thất bại mà sẽ tăng binh ứng chiến. Mong tướng quân không nên khinh địch.
Tốn chỉ là kẻ thư sinh, không có bản lĩnh nắm giữ trọng trách (ở Kinh Châu), cũng may gặp được 'láng giềng tốt' như Quan tướng quân, chỉ có vài ý kiến nhỏ, xin tướng quân chỉ giáo".
Trúng phải "công tâm kế" của Lục Tốn, Quan Vũ bắt đầu rút dần quân đội từ miền Đông để điều lên chiến trường Phàn Thành.
Lữ Mông sau khi nhận được tin tức thì lập tức tới Tầm Dương. Nhằm che mắt quân đội Kinh Châu mà Quan Vũ bố trí bên sông, ông cho hóa trang thuyền chiến thành thuyền buôn, bộ đội tinh nhuệ đều mặc áo trắng đóng giả làm thương nhân.
Toàn bộ quân đội của Lữ Mông đã vượt qua phòng tuyến tuần tra của Quan Vũ mà không gây ra bất kỳ sự chú ý nào.
Đây chính là chiến dịch "bạch y độ giang" kinh điển đã ghi danh Lữ Mông vào sử sách.
"Bạch y độ giang" là chiến thắng chấn động Trung Nguyên của Lữ Mông.
Trong khi đó, Quan Công ở tiền tuyến miền Bắc không hề hay biết về động thái quân sự cực lớn này. Quân Lữ Mông Tây tiến theo sông Trường Giang đến tận thành Kinh Châu.
Lực lượng Thục Hán tại Kinh Châu lúc này do Mi Phương thủ Giang Lăng, Phó Sĩ Nhân thủ thành Công An. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Quan Vân Trường và 2 tướng này đều rất tệ hại; ông từng phê bình và đe dọa sẽ trừng phạt Mi, Phó khi trở về.
Sự rạn nứt trong nội bộ quân Kinh Châu nghiêm trọng đến mức ngay khi quân Lữ Mông áp thành, Mi Phương và Phó Sĩ Nhân đều không đánh mà lập tức treo cờ trắng đầu hàng.
Lữ Mông và Lục Tốn thừa thắng tấn công chiếm nhiều cứ điểm quan trọng như Nghi Đô, Tỷ Quy... sau đó đưa quân về thủ tại Di Lăng, đề phòng Lưu Bị phát binh cứu Quan Vũ.
Khi Quan Vũ còn chưa kịp trở tay, hai đại tướng Đông Ngô đã gần như quét sạch thế lực Thục Hán ra khỏi miền Nam Kinh Châu, "cờ hiệu trên các thành trì đã đổi màu trong chớp mắt".
Ngay từ thời kỳ trù bị của chiến dịch này, Lữ Mông đã quán triệt mục đích "triệt tiêu quân đội của Quan Vũ".
Khi tới Kinh Châu, ông không tơ hào chút báu vật nào trong phủ Quan Vũ, mà đem xung công tất cả. Ông cũng thực thi hàng loạt chiến thuật tâm lý: úy lạo người dân, phát tiền cho người nghèo, cho phép gửi thư cho người thân ở tiền tuyến...
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đoạt được Kinh Châu, Lữ Mông đã tạo được tín nhiệm lớn tại Kinh Châu, khiến Quan Vũ không chỉ bị mất hậu phương, mà ngay cả tiền tuyến cũng dao động nghiêm trọng.
Cái chết của Quan Vân Trường
Để đảm bảo chiến dịch "hất cẳng Lưu Bị" thành công tuyệt đối, Tôn Quyền đích thân tới Công An chỉ huy cuộc "đi săn" Quan Vân Trường, đồng thời gửi thư "hy vọng Tào Công bảo mật, tránh Quan Vũ kịp có phòng bị".
Lúc này, Tào Tháo đã phái Từ Hoảng tiếp viện Phàn Thành. Đứng trước "điều kiện bảo mật" của Tôn Quyền, đa phần thuộc hạ của Tào chủ trương giữ bí mật, giúp Quyền tập kích thành công.
Nhưng quan Tư không Đổng Chiêu hiến kế - "Chúng ta vờ đáp ứng Tôn Quyền, mặt khác lộ tin cho Quan Vũ và Tào Nhân.
Như vậy, Quan Vũ sẽ bỏ vây về tính sổ với Tôn Quyền, chúng ta thì ngư ông đắc lợi. Nếu giúp Tôn Quyền bảo mật, ngộ nhỡ thành không giữ được, quân ta thiệt lớn".
Tào Tháo nghe theo Chiêu, bèn lệnh Từ Hoảng phóng tiễn đem theo "tin mật" vào Phàn Thành và doanh trại của Quan Vũ, đủ thấy Tào - Tôn dù mới bước đầu "bắt tay", song 2 bên không hề ngần ngại tìm cách lợi dụng đối phương.
Vụ "lộ mật" của Tào Tháo khiến "gió đổi chiều" ở Phàn Thành. Tinh thần quân đội Tào Nhân lên cao, trong khi nước lũ rút đi giúp thành trì kiên cố trở lại.
Trong khi Quan Công còn bất ngờ trước diễn biến mới, thì hung tin Kinh Châu thất thủ ập đến, buộc quân đội của ông phải triệt thoái khỏi chiến trường miền Bắc.
Quan Vũ và Từ Hoảng đều là người quận Hà Đông, từ nhỏ đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt. Tuy nhiên, trong chiến dịch Phàn Thành, Từ Hoảng quyết thắng Quan Vũ.
Hoảng dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng.
Ông phải hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui, quân Thục Hán bị rơi xuống sông Hán Thủy, tổn thất vô số.
Quan Vũ chạy về nửa đường mới biết Giang Lăng và Công An đã mất nên đành chạy về Mạch Thành.
"Gió đổi chiều" tại Phàn Thành - Tương Dương và Kinh Châu khi Tào Tháo - Tôn Quyền bắt tay đánh bại Quan Vũ, buộc ông chạy về Mạch Thành những ngày cuối đời.
Ông gửi thư cầu cứu Lưu Phong, Mạnh Đạt ở Thượng Dung, song 2 tướng này "quan hệ bình thường" với Quan Vũ nên không phát binh cứu ông.
Đến Mạch Thành, Quan Vân Trường lại biết tin Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô.
Tháng 12/219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông.
Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng theo đường núi để phá vây để về Ích châu hoặc Hán Trung.
Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường. Ông bị bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt được mang về.
Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền đều từng trải qua thất bại, nhưng lực lượng của họ không sụp đổ hoàn toàn mà vẫn có khả năng vãn hồi, điều quan trọng nhất chính là nhờ thế lực ủng hộ họ đủ lớn.
Nhưng đối với Quan Công, thời điểm ông chiến bại, những mâu thuẫn trong nội bộ thế lực của ông cũng bùng phát và quật ngã ông hoàn toàn, khiến Quan Vân Trường không còn cơ hội "trở mình".
Cùng tháng 12/219, Tôn Quyền chém đầu cha con Quan Vũ.
Triệt hạ Quan Vũ và đoạt lại Kinh Châu là dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của Tôn Quyền.
Lữ Mông qua đời
"Bạch y độ giang" là một trong những chiến dịch quân sự kinh điển thời Tam Quốc, đồng thời cũng là chiến công huy hoàng nhất của Lữ Mông.
Sau đại thắng này, Đông Ngô hoàn toàn đoạt lại Kinh Châu mà Lưu Bị đã "mượn" 10 năm trời, lãnh thổ mở rộng về phía Đông Tam Hiệp, phía Nam Trường Giang.
Thế nhưng, trong khi Lữ Mông còn chưa kịp nhận phong thưởng thì ông đã bệnh mất. Đại quyền quân sự vùng thượng lưu Trường Giang được trao về tay Lục Tốn.
Người này thích theo đuổi danh lợi trong suốt cuộc đời và có khát vọng chiếm hữu mạnh mẽ. Họ không muốn về đích sau mọi người trong bất kỳ việc gì. Vì ý thức về bản thân quá mạnh mẽ, thậm chí đôi lúc trở nên tự tư nên họ thường không cảm nhận được rằng mình đang làm những việc không hợp lý. Cá tính này cũng khiến họ không thích hợp tác với mọi người mà chỉ muốn tự mình hành động trong mọi việc. Người này có ưu điểm là rất tự tin. Tuy nhiên, họ dễ cảm thấy nhàm chán với các công việc ít có sự đổi mới.
Nếu được sao tốt tương trợ, họ dễ có được quyền lực và được hưởng vinh hoa phú quý trong đời. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ khó có cơ hội thành công trong sự nghiệp, hoặc tuy có quyền mà lại phụ thuộc nhiều vào người khác.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Tràng sinh (Thủy)
***
1. Ý nghĩa tướng mạo:
2. Ý nghĩa tính tình, phúc thọ:
3. Ý nghĩa của tràng sinh và một số sao khác:
- Tràng Sinh, Tử, Phủ: người bao dung, quảng đại, dễ tha thứ, không câu chấp. Nếu có quan chức lớn thì ân đức rộng.
- Tràng Sinh, Thiên Mã: được vận hội may về nhiều mặt; công danh tiến đạt, tài lộc gia tăng, công việc thành tựu. Nếu đồng cung thì càng đẹp. Tuy nhiên, riêng ở Hợi, vốn bất lợi cho Mã nên vất vả, trắc trở, không lợi về danh, tài, quan.
- Tràng Sinh, Đế Vượng: mập mạp, phong túc
4. Ý nghĩa của tràng sinh ở các cung:
Chỉ trừ phi ở cung Tật gặp nhiều sao xấu thì bệnh tật nhiều và lâu khỏi, ở các cung khác, Tràng Sinh đem lại phúc thọ, tài lộc.
Tại Bào thì anh em đông, sung túc. Tại Tử thì đông con. Tại Tài thì dồi dào tiền bạc. Tại Phúc thì thọ. Tại Hạn thì gặp vận may. Tùy ý nghĩa sao đi kèm, Tràng Sinh làm tăng thêm cái hay của cát tinh hoặc cái dở của sao xấu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
GS Hoàng Quân
DẪN NHẬP: Trong các sách Tử-Vi thường thấy nói đến cách của bậc Công-khanh, Hầu-bá, Tá-cửu-trùng, Tướng-tướng chi tài v.v.... Những chức- tước này là gì? Ngày nay tương đương với chức-vị nào? Người nghiên-cứu Tử-Vi đã không biết chức vị xưa thì làm sao có thể đoán chức-vị đời nay? Trong Ðông-A Di-Sự, Chiêu-Minh-Ðại-Vương Trần-Quang-Khải đã để công nghiên-cứu viết ra một chương nói về quan chế đời Tống so với quan chế đời Trần hầu giúp cho việc nghiên-cứu chính xác.
Học giới Từ-Vi đời nay dầu có học thuộc làu cả chương sách của Chiêu-Minh-Vương cũng không thể biết rõ chắc chắn phẩm trật một lá số đạt tới, vì tổ chức chính quyền hai thời khác nhau quá xa. Ðọc câu phú:
“Cự Cơ đồng cung: Công Khanh chi vị.
Tham Linh tịnh thủ: Tướng Tướng chi danh.”
(Triệu-thị minh-thuyết Tử-Vi kinh)
Câu dưới, Tướng Tướng chi danh có thể hiểu đại khái rằng đó là sô Xuất Tướng Nhập Tướng, trước làm tướng võ, sau làm tướng văn (Thủ Tướng). Còn Công Khanh là gì? Tra tự-điển: thấy nói đó là Tam-công và Cửu-khanh. Có người biết quan chế đời Thanh, đời Nguyễn vội cho Công Khanh là thế này thế kia... thì chắc là sai. Vì những quan tước nói đến trong Tử-Vi là quan chế đời Tống. Muốn biết những chức-vị đó là gì phải xét đến sự tương đương giữa quan chế đời Tống và tổ chức Chính-quyền Việt-Nam đời nay.
Chúng tôi tra xét chính sử Trung-Hoa các đời tìm hiểu quan chế, so sánh phẩm trật của từng loại người mà trong Tử-Vi đề cập tới như:
- Hầu, Bá, Tá-cửu-trùng.
- Tam-công, Cửu-khanh.
- Tam-thai, Bát-tọa.
- Tướng, Tướng chi-tài.
- Trấn-ngự biên-cương..
Ðể sau đó có thể biết những số ngày nay đạt tới đâu so với số cổ.
NHỮNG CÁCH LÀM TỚI CÔNG-KHANH
I – Phú đoán nói đến công-khanh
Trong các bài phú đoán Tử-Vi, một số câu nói đến các bậc của công-khanh như:
- Tử-Vi cư Ngọ.
- Khoa minh Lộc ám.
- Minh Lộc ám Lộc.
- Cự, Cơ đồng cung..
Có thực cứ có cách trên là làm đến bậc công-khanh không? Công-khanh là gì? Ðời nay có các cách trên thì làm đến đâu?
II – Công-khanh trong Khoa Thiên-văn và Quan-thuế
Công-khanh là tiếng tắt để gọi Tam-công và Cửu-Khanh trong quan chế cổ Trung-Hoa và Việt-Nam. Nguồn gốc Tam-công, Cửu-khanh ở Thiên-văn. Cổ nhân đã nhân sự tuần hành của tinh-hà có ảnh-hưởng vào đời sống, bởi ảnh-hưởng Thiên-Nhân Tương-Dữ; nên đã lấy chòm sao Tam-công, Cửu-khanh mà đặt ra các chức-vị để ứng mệnh trời cai trị ngươì cho thuận lẽ biến dịch vũ-trụ.
A – TAM CÔNG
Chiêu-minh-vương giảng rằng: “Trong Thiên-văn, Tam-công là tên sao. Tấu-Thư, Thiên-Văn-Chí chép rằng: Ba sao Tiêu-Nam trong chòm sao Bắc-Ðẩu, sao Khôi đệ nhất, phía Tây ba sao nữa, đều gọi là Tam-công. Trên trời, các sao này chủ về dụng đức cải hóa thế-gian, hòa hợp chính sự, dùng hòa Âm-Dương. Lại nói: Ðông Bắc 3 sao gọi là Tam-công, chủ nhữn đại thần ngồi ở Triều-đình.
Về quan chế, đời Chu gọi là Thái-Sư, Thái-Phó, Thái-Bảo là Tam-Công. Ðời Hán lấy Ðại-Tư-Mã, Ðại-Tư-Ðồ, Ðại-Tư-Không là Tam-Công hay Tam-Tư (Riêng đời Ðông-Hán đổi Ðại-Tư-Mã ra Thái-Úy). Ðời Tống theo như đời Tây-Hán. Quyền hạn, nhiệm-vụ của Tam-Công đời Tống ấn định như sau:
- Ðại-Tư-Mã: Chức quan tổng chỉ huy binh mã. Tương đương với Tổng-trưởng Quốc-Phòng, Tổng Tham-Mưu Trưởng ngày nay.
- Ðại-Tư-Ðồ: Chúc quan coi về lễ giáo học hành. Tương đương với Tổng-Trưởng Văn-Hóa Giáo-Dục và Thanh-Niên ngày nay.
- Ðại-Tư-Không: Chức quan coi về việc đất cát dân chúng. Tương đương ngày nay là Tổng-trưởng Giao-Thông Công-Chánh, Cải-Cách Ðiền-Ðịa, Xây-Dựng Nông-Thôn.v.v...
Những chức-vị trong Tử-Vi mà một cách làm tới Tam-Công, ngày nay chia ra làm hai bậc: thượng đảng, trung đẳng.
BẬC I. Thượng Ðẳng
Tổng-trưởng, Tổng-Tham-Mưu Trưởng. Phụ-tá Tổng-Thống, Ðổng-lý văn-phòng, Phó Tổng-Thống, Chủ-tịch Thượng-Viện, Chủ-tịch Hạ-Viện, Chủ-tịch Tối Cao Pháp-Viện, Quốc-Vụ Khanh.
BẬC II. Trung Ðẳng
Thứ-trưởng, Ðổng-lý văn-phòng các bộ. Thẩm-Phán, Tối Cao Pháp-Viện, Chủ-tịch Ủy Ban Thượng-Viện, Chủ-tịch Ủy Ban Hạ-Viện.
B. CỬU-KHANH
Tức chín Khanh, Chiêu-Minh-Vương giảng rằng: Trong thiên-văn, Cửu-Khanh là tên chín ngôi sao.
Tấu-Thư, Thiên-Văn-Chí chép rằng chòm sao Cửu-Khanh triều hội trong cung Thái-vi. Sách Khảo-Công-Ký ghi thêm: Ngoài có Cửu-thất (bảy ngôi nhà) trong có Cửu-Khanh chầu. Ðời Chu chia nước thành 9 châu, có 9 chức Khanh-Sĩ cai trị. Ðó là: Mông-tể, Tư-đồ, Tông-bá, Tư-mã, Tư-khấu, Tư-không, Thiếu-sư, Thiếu-phó và Thiếu-bảo.
- Ðời Tấn, Cửu-khanh là: Thái-thường, Lang-trung-lịnh, Vệ-úy, Thái-bộc, Ðình-úy, Ðiển-khách, Tông-chính, Trị-mê, Nội-sử, Tiểu-phủ.
- Ðời Hán là: Thái-thường, Quang-lộc-huân, Vệ-úy, Thái-bộc, Ðình-uý, Hồng-lô, Tông-chính, Ðại-tư-nông và Thiếu-phủ.
Ðời Tống, Cửu-khanh giống đời Hán. Ðời Bắc Tề giống đời Hán nhưng đổi Ðình-úy ra Ðại-lý, Thiến-phủ ra Ðại-phủ.
Ðời Minh Cửu-khanh là Lục-bộ Thượng-Thư, Ðô-sát-viện, Ðô-ngự-sử, Thông-chính, Tư-sử, Ðại-lý, Tự-khanh.
Ðời Thanh, Cử-khanh là Ðô-sát-viện, Ðại-lý-tự, Thái-thường-tự, Quang-ộc-tự, Hồng-lô-tự, Thái-bộc-tự, Thông-chính-tư, Tôn-nhân-phủ và Loan-nghi-vệ.
Xét kỹ quan chế đời Tống cũng như các đời khác, Cửu-khanh nhỏ hơn Tam-công, nhưng là những chức quan tại Triều-đình, chứ không phải chức quan tại địa-phương. Xét kỷ tương đương với ngày nay là:
BẬC 3. Thứ-Ðẳng
Tổng-thư-ký các bộ, Phụ-tá chuyên môn các Bộ, Tổng Giám-đốc, Tổng Cục-Trưởng.
BẬC 4. Hạ-Ðẳng
Giám-đốc, Thẩm-phán, Biện-lý các tòa án. Cục-trưởng, Phó-Tỉnh Trưởng hành chánh.v.v.
III. Những cách Công-Khanh trong Tử-Vi
Cách Khoa minh lộc ám
1) Định nghĩa
Gọi là Khoa minh lộc ám khi Hóa Khoa thủ mệnh, nhị hợp có Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc thủ mệnh, nhị hợp có Hóa Khoa.
Tỷ dụ: tuổi Nhâm, Thái Dương, Thiên Lương ở Mão với Hóa Lộc. Liêm Trinh, Thiên Phủ ở Tuất với Hóa Khoa. Mệnh lập tại Mão hay Tuất đều được cách Khoa minh lộc ám
2) Phân tích cách Khoa minh lộc ám
Hi di tiên sinh phú đoán: “Khoa minh lộc ám vì chí công khanh”
(Triệu thị minh thuyết Tử vi kính)
Nghĩa là người có cách Khoa minh lộc ám làm tới Công khanh, lại nói:
Khoa minh lộc ám
Tuần triệt võ xâm
Bất kiến sát tinh
Nhị hội Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc
Vị động công khanh chi quý.
(Tử vi tinh nghĩa)
Nghĩa là người có cách Khoa minh lộc ám, không bị Tuần, Triệt, sát tinh nhập cung mà hội được Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quyền, Lộc (Lộc Tồn) làm tới bậc công khanh.
Chữ nhập cung ở đây phải hiểu là Mệnh, Tài, Di, Quan và cung nhị hợp. Xét về xuất xứ câu trên Hi di tiên sinh phát biểu sau khi được xem số cho khai quốc công thần nhà Tống. Câu dưới viết trong sách Tử vi tinh nghĩa. Câu trên là lời đáp lại Tống thái tổ hỏi về bậc công khanh tại triều bấy giờ có cách gì giống nhau, chỉ dùng đoán cho các vị công khanh thôi. Vì không có cách Khoa minh lộc ám, thuộc loại thượng đẳng thì làm sao có thể đứng tại triều đình được. Còn câu dưới dùng để đoán cho mọi loại người.
3) Các cách Khoa minh lộc ám
Sách Đông A di sự viết: “Không phải tuổi nào cũng được hưởng cách Khoa minh lộc ám”.
Trong 10 hàng Can, thì các tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, Canh: không được hưởng cách này. Tuổi ất, Nhâm, Quý, mỗi tuổi có 4 cách. Tuổi Bính, Mậu, Tân có 24 cách. Tổng cộng 84 cách. Mỗi cách tùy theo giờ sinh, tháng sinh, lại có một loại người, tức là một cách sinh ra 12 loại người. Tùy vào 6 Giáp chủ (tục gọi là con nhà Giáp). Tuần thay đổi có thêm 6 loại người nữa. Thành ra cách Khoa minh lộc ám có 1728 loại người.
Sau đây là các cách Khoa minh lộc ám:
a) Tuổi ất, 4 cách:
- Thiên Cơ, Hóa Lộc tại Ngọ, Tử Vi, Phá Quân, Hóa Khoa tại Mùi. Mệnh lập tại Mùi hay Ngọ.
- Thiên Cơ, Hóa Lộc tại Tý, Tử Vi, Phá Quân, Hóa Khoa tại Sửu. Mệnh lập tại Tý hay Sửu.
b) Tuổi Nhâm, 4 cách:
- Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Lộc tại Mão. Liêm Trinh, Thiên Phủ, Hóa Khoa tại Tuất. Mệnh tại Tuất hay Mão.
- Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Lộc tại Dậu nhị hợp với Liêm Trinh, Thiên Phủ, Hóa Khoa tại Thìn. Mệnh tại Thìn hay Dậu.
c) Tuổi Quý, 4 cách:
- Thiên Cơ, Thái âm, Hóa Khoa tại Thân, nhị hợp với Phá Quân, Vũ Khúc, Hóa Lộc tại Tỵ. Mệnh lập tại Thân hay Tỵ.
- Thiên Cơ, Hóa Khoa tại Dần nhị hợp với Vũ Khúc, Phá Quân, Hóa Lộc tại Hợi. Mệnh lập tại Dần hay Hợi.
d) Tuổi Bính, 24 cách:
Vì Khoa đi với Xương, nên cứ mỗi vị trí của Xương nhị hợp với Thiên Đồng đi với Hóa Lộc lại hợp thành 2 cách. Với 12 cách vị trí của Xương, có 24 cách Khoa minh lộc ám cho tuổi Bính.
e) Tuổi Mậu, 24 cách:
Vì Khoa đi với Tham, nên cứ mỗi vị trí của Tả nhị hợp với Tham đi với Hóa Lộc lập thành 2 cách. Với 12 vị trí của Tả, có 24 cách Khoa minh lộc ám cho tuổi Mậu.
f) Tuổi Tân, 24 cách:
Vì Khoa đi với Khúc, nên cứ mỗi vị trí của Văn Khúc nhị hợp với Cự Môn đi với Hóa Lộc lập thành 2 cách. Với 12 vị trí của Khúc, có 24 cách Khoa minh lộc ám cho tuổi Tân.
4) Thứ bậc của cách Khoa minh lộc ám
Trong 84 cách, phân thành 2880 loại người. Triệu thị đưa ra trường hợp kinh nghiệm mấy trăm năm của triều Tống, nghiên cứu số các quan:
- Muốn được tới công khanh, bộ sao thủ Mệnh không được bình hòa hay hãm địa. Hung sát tinh không nhập cung (Mệnh, Tài, Quan, Di) và cung nhị hợp của Mệnh.
+ Nếu được trọn bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quyền, Lộc Tồn, thêm Khôi, Việt, Hồng… càng hay. Đó là bậc 1 thượng đẳng. Chỉ có thể bớt đi 2 hoặc 3 sao, nhưng không được bớt Quyền.
+ Nếu được nửa bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, thêm Quyền, Lộc Tồn.́ Đó là bậc 2, trung đẳng.
+ Được 2 trong 3 bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt trở lên. Thêm Quyền hoặc Lộc Tồn. Đó là bậc 3 thứ đẳng.
+ Được 1 trong 3 bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt trở lên. Hoặc 3 trong 6 cát tinh trên, thêm Quyền hoặc Lộc Tồn. Đó là bậc 4 hạ đẳng.
5) Các cách Khoa minh lộc ám khác
Tuy nhiên Triệu thị không khẳng định rằng cứ phải được như trên mới làm đến công khanh, phải căn cứ vào số cát tinh nhiều hung tinh ít mà luận đoán. Toàn hung tinh, Tuần Triệt là số của tiểu lại (thư ký, giáo chức tiểu học, y tá…)
6) Kết luận
Khoa minh lộc ám là một trong những cách khó đoán nhất. Vì biến thành 84 cách khác nhau thành 2880 loại người. Căn bản của nó là người có học, nếu Khoa thủ Mệnh, nhất sinh phong lưu nếu Lộc thủ Mệnh. Giới hạn của nó là Tam công và sĩ thứ ở ẩn hoặc phong lưu sung túc.
Điểm lại kinh nghiệm qua các thời:
Đời Tống (Bộ Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh).
- 2 Vua sáng nghiệp.
- 6 Vương.
- 5 Tể tướng.
- 25 Hầu.
- 18 Tam công.
- 21 Vị đại tướng quân.
- 112 Cửu khanh.
Đời Trần (Đông A di sự)
- 1 Vua sáng nghiệp.
- 4 Vương.
- 2 Tể tướng.
- 7 Hầu.
- 5 Đại tướng quân.
- 18 Tam công.
- 28 Cửu khanh.
Các nhân vật từ 1950 đến giờ chúng tôi sưu tầm được:
- 1 Thủ tướng.
- 5 Bộ trưởng.
- 2 Tướng.
- 4 Tổng giám đốc, Tổng cục trưởng.
- 20 Bác sĩ, Luật sư, Thẩm phán, Giáo sư đại học.
Cách Tử vi cư ngọ
1) Định nghĩa
Tử vi cư ngọ là cách mà người có Tử vi thủ mệnh tại cung Ngọ.
Đây là một cách dễ thấy và dễ đoán nhất. Người có cách Tử vi cư ngọ là được cách Tử Phủ Vũ Tướng.
- Quan, Tuất cung, có Liêm, Phủ, Liêm phát trước, Phủ phát sau, nên thường là Võ trước sau là Văn.
Cung Thiên Di: Tham Lang.
Cung Tài Bạch: Vũ, Tướng.
Nếu Kiếp, Không nhập cung Quan, Mệnh thì cách bị phá mất, vì Tử, Phủ tối kỵ Kiếp Không.
2) Phân tích cách Tử vi cư ngọ
Phú đoán:
“Tử vi cư ngọ, vô sát tẩu, vị chí công khanh”
(Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh)
Nghĩa là người có cách Tử vi cư ngọ, không bị hung sát tinh nhập cung làm tới công khanh. Lại nói:
“Tử vi cư ngọ, vô hình kỵ, Giáp, Đinh, Kỷ, chí công khanh”
(Tử vi tinh nghĩa)
Nghĩa là người có cách Tử vi cư ngọ, tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, không bị Thiên Hình, Hóa Kỵ nhập cung làm tới công khanh.
Hai câu phú trên đây đều do Hi di tiên sinh mà ra. Xét kỹ ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Người mới học Tử vi, hoặc người không sáng suốt là bị sai lầm, vì không hiểu rõ ý nghĩa sự xuất xứ của nó. Rồi cứ cãi rằng Tử vi cư ngọ là làm tới công khanh là tai hại.
Vương An Thạch giải rằng:
Hi di tiên sinh từ Hoa Sơn về kinh. Giảng khoa Tử vi cho Thái tổ nhà ta. Ngài xem số cho các vị khai quốc công thần, thấy số đông có cách Tử vi cư ngọ là ở bậc công khanh. Khi Thái tổ hỏi:
- Những vị công khanh này có gì giống nhau chăng? Đáp: Tử vi cư ngọ vô sát tẩu.
Xét cách Tử vi cư ngọ có nhiều bậc cao tới Đế vương tháp là phường đạo tặc. Nhưng những vị đã ngồi trong sân rồng, đều ở thượng cách Tử vi cư ngọ cả. Sau này truyền cho đệ tử, tiên sinh chép trong Tử vi tinh nghĩa: phải tuổi Giáp, Đinh, Kỷ mà không bị Hình, Kỵ mới tới công khanh. Cũng cùng một ý nghĩa, có khác là nói trong hai hoàn cảnh khác nhau mà thôi.
3) Các cách Tử vi cư ngọ
Tại sao phải tuổi Giáp, Đinh, Kỷ mới tốt?
a) Tuổi Giáp:
Lộc Tồn cư Tài, cùng Hóa Khoa.
Hóa Lộc cư Quan.
Hóa Quyền cư Phúc.
Hóa Kỵ đi theo Thái Dương tại cung Tử.
b) Tuổi Kỷ:
Lộc Tồn thủ Mệnh
Hóa Lộc cư Tài.
Hóa Quyền cư Di.
Hóa Khoa cư Tử.
Hóa Kỵ đi theo Văn Khúc.
c) Tuổi Đinh:
Lộc Tồn thủ Mệnh.
Hóa Lộc cư Nô.
Hóa Quyền, Kỵ cư Tật.
Hóa Khoa cư Huynh đệ.
Trong ba tuổi thì tuổi Kỷ tốt hơn vì có đủ Quyền, song Lộc, Khôi. Nhưng không có Khoa. Xấu nhất tuổi Kỷ Sửu, Kỷ Dậu, Kỷ Tỵ vì Mệnh, Tài, Quan bị Tuần. Tuổi Giáp thiếu Quyền, nhưng được Khoa. Xấu nhất tuổi Giáp Thân, Giáp Thìn, Giáp Tý vì Mệnh, Tài, Quan bị Tuần. Tuổi Đinh chỉ được Lộc Tồn tại Mệnh mà thôi.
d) Không có hình:
Không được sinh tháng chẵn, vì sinh tháng chẵn bị:
- Sinh tháng2, Hình ở Quan, Không ở Tài, Kiếp ở Phúc.
- Sinh tháng 4, Hình ở Di, Không ở Di, Kiếp ở Quan.
- Sinh tháng 6, Hình ở Tài, Không ở Quan, Kiếp ở Di.
- Sinh tháng 8, Không ở Phúc, Kiếp ở Tài.
- Sinh tháng 10, Hình ở Mệnh, với Không, Kiếp ở Thê (Mệnh Không, Thân Kiếp)
- Sinh tháng 12, Không ở Thê, Kiếp ở Mệnh (Mệnh Kiếp, Thân Không).
e) Không có Kỵ:
Tuổi Giáp, Đinh, không bao giờ bị Hóa Kỵ nhập cung, vì ở cung khác rồi. Chỉ có tuổi Kỷ, Văn Khúc đi với Hóa Kỵ, nên phải tránh sao Văn Khúc nhập cung.
- Sinh tháng giêng, Kỵ ở Di.
- Sinh tháng 3, Kỵ ở Tài.
- Sinh tháng 7, Kỵ ở Mệnh.
- Sinh tháng 11, Kỵ ở Quan.
4) Thứ bậc cách Tử vi cư ngọ:
Bộ Đông A di sự đã chia thành bậc các cách sau đây:
Tử vi cư ngọ, của ba tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, mỗi tuổi tủy theo tháng sinh tùy theo con nhà giáp chủ… Mỗi hàng Can có 12 loại người khác nhau tùy theo Tuần đóng, mỗi loại người trên lại có 6 loại khác nhau nữa. Tổng cộng có tới 216 loại người. Các tuổi hàng Can khác cũng có những loại người được số tốt.
a) Bậc 1, thượng đẳng:
- Tuổi Kỷ, sinh tháng 9, trừ Kỷ Sửu, Dậu, Tỵ, bị Tuần.
- Tuổi Giáp sinh tháng 9, 11, trừ Giáp Thân, Thìn, Tý, bị Tuần.
Bậc 2, trung đẳng:
- Tuổi Kỷ, sinh tháng 1,3,5,11.
- Tuổi Giáp, sinh tháng 1,3,5,7.
- Tuổi Đinh sinh tháng 9,11.
c) Bậc 3, thứ đẳng:
- Tuổi Kỷ, sinh tháng 2,6,8.
- Tuổi Giáp, sinh tháng 2,6.
d) Bậc 4, hạ đẳng:
- Tuổi Kỷ, sinh tháng 4,8,10,12.
- Tuổi Giáp, sinh tháng 4,8,10,12.
- Tuổi Đinh, sinh tháng 1,3,5,7.
5) Tử vi cư ngọ các tuổi khác:
- Không thể đạt tới tam công nhưng tới cửu khanh.
- Cần tránh Tuần, Triệt ở Mệnh, Tài, Quan.
- Không bị Hình, Kỵ, Kiếp, Không nhập cung.
- Được một hoặc nhiều trong tam Hóa, Tả Hữu, Xương Khúc.
Các tuổi sau đây có cách Tử vi cư ngọ cũng đắc cửu khanh:
Bậc 3, thứ đẳng:
- Tuổi Bính, khi Mệnh sinh tháng 9. 11, vì thêm Tả, Hữu, Khoa, Xương hoặc Khúc.
- Tuổi Tân, sinh tháng 11, Tả Hữu, Khúc, Khoa, Việt.
- Tuổi Nhâm, Quyền ở Mệnh. Khoa ở Quan, Kỵ ở Tài. Sinh tháng 9,11 được Tả Hữu, Xương hoặc Khúc. Sinh tháng 1,7 được Xương, Khúc và Tả hoặc Hữu.
Bậc 4, hạ đẳng:
- Tuổi mậu có Quyền ở Di, nhưng bị Triệt Kình ở Mệnh. Sinh tháng 9,11, được Tả Khoa Hữu, và Xương hoặc Khúc. Sinh tháng 1, giờ Thân, tháng 3 giờ Tuất hoặc tháng 5 giờ Tý. Kình ở Mệnh hơi xấu.
- Tuổi Tân sinh tháng 7 được Tả Khúc Khoa Khôi.
- Tuổi Nhâm sinh tháng 7, được Xương Tả, thêm Quyền ở Mệnh, Khoa ở Quan.
6) Kết luận:
Tử vi cư ngọ là một cách dễ đoán nhất. Người có cách này tướng mạo đôn hậu. Tính tình hào sảng liêm khiết. Khảo trong lịch sử thấy cách này thường là Tể tướng nhiều nhất. Vì bản chất trung hậu, ít khôn ngoan sắc sảo. Chỉ có 4 vị vua sáng nghiệp ở cách này. Cách làm lớn nhất vẫn là cách Nhật, Nguyệt tịnh minh hợp chiếu ngộ Tả Hữu hoặc Nhật Nguyệt đồng lâm ngộ Tả Hữu. Cách này thường là vua sáng nghiệp, quân sư, vì thông minh, đa tài đa năng.
Những lá số có cách Tử vi cư Ngọ lấy làm kinh nghiệm.
Đời Tống (Bộ Triệu thi minh thuyết Tử vi kinh)
- 2 Vua sáng nghiệp.
- 6 Vương.
- 11 Tể tướng.
- 14 Hầu.
- 32 Tam công.
- 2 Đại tướng.
- 41 Cửu khanh.
Đời Trần (Bộ Đông A di sự)
- 2 Vua sáng nghiệp.
- 4 Vương.
- 5 Tể tướng.
- 3 Hầu.
- 11 Tam công.
- 1 Đại tướng
- 32 Cửu khanh.
Chúng tôi sưu tầm được từ 1950 đến giờ:
- 1 Thủ tướng.
- 2 Phó thủ tướng.
- 5 Bộ trưởng.
- 12 Tổng giám đốc, Tổng cục trưởng.
- 10 Tỉnh trưởng.
- 14 Giám đốc, Cục trưởng.
- 21 Bác sĩ, Thẩm phán, Giáo sư đại học.
Trang 57-61 KHHB 75-3b-Diễm Chi
g những trường hợp như vậy, việc chuyển đổi hướng khí nhờ hướng của ban thờ là giải pháp phong thuỷ dễ dàng áp dụng để xứ lý tối ưu nhất.
Những ngôi nhà rộng rãi có điều kiện dành một phòng làm phòng thờ cần áp dụng theo phép phong thủy:
1. Phòng thờ đặt ở nơi cao nhất, yên tĩnh nhất, trang nghiêm nhất trong ngôi nhà hay căn hộ
Trang trí phòng thờ ngoài một số đồ phong thủy cần thiết làm tăng sự tôn kính và tâm thức tâm linh của gia đình không treo tranh ảnh hay đồng hồ.
2. Ánh sáng phòng thờ nên mờ ảo bằng các bóng đèn đó với số công suất thâp để thắp sáng liên tục.
Không dùng các bóng đèn dài ne-ông bật sáng liên tục làm mất khung cảnh thâm nghiêm nơi thờ cúng; là tăng khí dương không phù hợp với nơi cần khí âm nhiều.
3. Đồ thờ cũng cần lưu tâm với các thứ thông dụng theo phong tục như:
Bát nhang, lư hương, mâm bồng, cây nến (bộ tam sự) bài vị hoặc ảnh người quá cố, bức đại tự, câu đối, hoành phi. Không để các thứ lung tung trên bàn thờ ngoài sách kinh, chuông mõ nếu cần.
Không có nhiều thứ hung khí tạo nên tâm lý sợ sệt khi vào một mình.
4. Phòng thờ tuy u tịch nhưng luôn gây tâm lý được phù hộ che chở, mỗi khi bước vào trong lòng thấy yên bình, tâm tịnh, được tháo gỡ các âu lo qua lời kêu cầu tụng niệm ông bà tổ tiên.
Ảnh minh họa |
Các nhà phong thủy học cho rằng, điểm huyệt thì phải xét tinh thô, hướng bối, can chi, chủ khách. Xung quanh thấy sa thủy phải hữu tình, thủy phải bao, thế phải tụ, sơn giao thủy hội, tiểu minh đường phân hợp rõ ràng. Nếu sai sót nhỏ thì họa mấy đời.
Mậu Hy Ung trong “Táng kinh dực” nói: “Huyệt có huyệt chân, huyệt bệnh. Huyệt bệnh giống như người tàn tật, tuy có hình cốt nhưng thần khí thương tổn, bại khuyết. Huyệt này không thể táng”.
Huyệt bệnh được phân thành những loại sau
- Huyệt quán đỉnh: đỉnh huyệt lõm, khuyết, méo, vênh…
- Huyệt triết bí: tay huyệt bị gãy, cụt…
- Huyệt phá diện: mặt huyệt nham nhở, méo mó…
- Huyệt trụy túc: chân huyệt lõm, khuyết…
- Huyệt bắng diện: mặt huyệt giống như mặt người cáu giận.
- Huyệt bão đỗ: bụng huyệt to phình, phệ…
- Huyệt lâm đầu: nước xối vào đầu huyệt do thế thấp.
- Huyệt cát cước: huyệt bị cưa chân
- Huyệt lậu tai: hai má huyệt lõm, khuyết, chảy…
- Huyệt hổ tôn: Bạch Hổ sa như con hổ ngồi rình thây mộ, vẻ hung ác.
- Huyệt long cư: gò Thanh Long như con rồng ác nhìn vào huyệt mộ (không có ý triều thuận).
- Huyệt Huyền Vũ cự thi: núi Huyền Vũ sau mộ đầu không cúi, chống lại mộ.
- Huyệt Huyền Vũ nhô đầu: nhìn vào huyệt mộ như đang rình thây ma trong đó.
- Huyệt Chu Tước đằng khứ: gò Chu Tước có hình thế như muốn bay đi.
- Huyệt Chu Tước bi khấp: nước trước mộ chảy có tiếng như than khóc.
- Huyệt tiền hoa hậu giả: mặt trước vẻ hoa hòe hoa sói, mặt sau mộ hình ác, lõm, khuyết, lở, phá…
- Huyệt tả hữu quy lạc: gò Long Hổ đều bị quỵ ngã.
Những huyệt bệnh đều có hình đầu long không rõ, gò Long Hổ lõm khuyết, núi bị phá, đất đá ngổn ngang, các núi lạ ở thế bức bách; mạch khí đứt ngang, phân mạch ngưng tụ không rõ... Minh đường chật hẹp, chúng thủy xung huyệt. Những loại hình đó đều kị, sát.
Khi đặt mộ ở loại hình trên đều bị tam hại: gió, kiến, mối và nước. Nếu an táng tại đây, chẳng những xương cốt bị mục nát mà con cháu gia chủ nghèo khó, bệnh tật thậm chí tan cửa nát nhà, mất người.
Theo Bí ẩn thời vận
Đường chỉ tay vận tài lộc càng dài thì khả năng kiếm tiền càng tốt |
► Tự xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân |
Trong sách “Tam yếu dương trạch” có nói, 3 nơi quan trọng nhất trong nhà đó là cửa, phòng khách và phòng bếp. Phong thủy phòng bếp tốt đồng nghĩa với việc nguồn lương thực thực phẩm dồi dào, phong phú và còn có khả năng mang lại hạnh phúc, những tình cảm ấm áp cho gia đình. Ngược lại, phong thủy phòng bếp không tốt sẽ khiến cho gia đình lâm vào cảnh thiếu ăn triền miên, đồng thời các thành viên trong gia đình cũng sẽ mắc các bệnh về đường tiêu hóa.
Bất kể là nhà ở, công ty, hay phòng ngủ, phòng bếp, phòng vệ sinh thì đều chịu ảnh hưởng của phương vị. Theo phong thủy, bếp thuộc ngũ hành Hỏa, chính vì vậy không nên đặt bếp ở phương vị Tây hoặc Bắc vì phương Tây là ngũ hành Kim, dễ dàng hình thành Hỏa – Kim tương khắc, phương Bắc lại đại diện cho ngũ hành Thủy, Thủy – Hỏa tương khắc cũng làm cho vận khí lưu thông không tốt.
Tương truyền Táo quân là vị thần cai quản bếp núc chính vì vậy rất nhiều nhà có tục lệ thờ Táo quân, thế nhưng việc thờ cũng cần phải đảm bảo vấn đề về phong thủy, ví dụ như: Bếp và vòi nước không nên để cùng một hướng, bếp không nằm dưới xà ngang.
Một số điều cấm kỵ nhất định phải lưu ý:
1. Không đặt bếp ở vị trí giữa phòng, xung quanh trống trải, người nhà sẽ dễ gặp phải những rủi ro, tai ương.
2. Không đặt bếp đối diện với cửa, điều này sẽ khiến cho mối quan hệ giữa các thành viên không được tốt, xuất hiện nhiều mâu thuẫn, nóng tĩnh, dễ xảy ra tranh cãi và hao tài tốn của.
3. Tránh việc để khoảng không phía sau bếp, bếp cần đặt dựa vào tường, điều này sẽ mang lại một sức khỏe ổn định cho gia đình.
4.Cấm kỵ việc đặt bếp tựa vào nhà vệ sinh, dễ xảy ra xung khắc Thủy – Hỏa. Hơn nữa, khí xấu từ nhà vệ sinh cũng sẽ ảnh hưởng tới sinh khí của phòng bếp.
5. Bếp cũng kỵ đối diện với phòng ngủ. Nếu phạm phải sức khỏe của gia chủ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng.
6. Bếp cũng kỵ việc đặt gần nguồn ngước hoặc gần tủ lạnh, nước lửa gần nhau thường nguy hiểm do Thủy – Hỏa tương khắc, nếu phạm phải vận trình cũng tương đối bất lợi.
7. Bếp cũng không nên đặt gần cửa sổ, bụi ngoài cửa sổ sẽ bay vào, không được vệ sinh cho lắm.
8. Bếp cũng không nên đối diện với bài vị, điều này vô cùng bất kính, ảnh hưởng không tốt tới gia trạch.
Bác Vật Vựng Biên ghi rằng: Thủy của Bính Tí, Đinh Sửu thì vượng ở Tí, suy ở Sửu. Vượng rồi Suy ngay tất nhiên không thể thành sông ngòi, cho nên gọi bằng Giàn Hạ Thủy.
Giản Hạ Thủy là dòng nước lạch suối, không rõ nguồn gốc và cũng không có hướng nhất định để chảy đi, lòng lạch lòng suối lúc nông lúc sâu.
Cổ nhân có câu: "Dục tấn dục thoái sơn khê thủy, Dục phản dục phúc tiểu nhân tâm" Nghĩa là lúc tiến lúc lui như nước lạch, lúc phản phúc lúc lật như lòng tiểu nhân.
Số ai có Phục Binh hay Phá Quân Địa Kiếp hoặc Tử Phá hoặc Linh Hỏa hãm địa mà thêm nạp âm Giản Hạ Thủy nữa thì cái lòng phản phúc lật lọng càng ghê gớm. Đứng ngôi chủ như vậy bộ hạ hãy lo giữ đầu, đứng vai thần tử mà như vậy kẻ đứng chủ chỉ việc chờ ngày bị phản.
Tâm chất thâm hiểm, tình ý nhỏ nhen nhưng rất thực tế và sắc bén. Trường hợp số bình thường ắt nhu nhược bất quyết mà thêm Giản Hạ Thủy nạp âm nữa thì hoàn toàn vô tích sự, lúng túng, hoảng loạn trước công việc.
Giữa Bính Tí và Đinh Sửu thì Bính Tí nguy hiểm hơn Đinh Sửu thổ khắc thủy khiến cho nhuệ khí bị tước giảm.
- Hồ lô có thể được làm bằng từ quả bầu hoặc được làm bằng đồng, bằng đồng có loại hồ lô bát tiên.
- Hồ lô có tác dụng chế sát bằng việc hút “sát khí” kỳ diệu của quả hồ lô, bởi quả hồ lô sẽ có quỹ đạo hút khí theo hình chữ S, quả hồ lô sẽ hút và phá hủy “tà khí”. Chính vì thế mà khi ta cho rượu vào quả hồ lô và đạy lắp vào thì rượu sẽ ngon hơn, nhanh ngẫu hơn.
- Trong trường hợp ban thờ hay giường ngủ, bàn học, bàn làm việc bị dầm nhà đè lên, “tà khí” từ dầm nhà sẽ bay xuống. Ta treo 2 quả hồ lô tại thành giường, đặt trên ban thờ, đặt trên bàn làm việc hoặc bàn học để hút khí thu sát.
- Có thể treo 3 quả hồ lô tại cung thiên y hoặc cung sinh khí, diên niên sẽ làm cho người trong nhà khỏe mạnh, tinh thần thoải mái, nhất là trong nhà có người mắc bệnh lâu dài.
- Quả hồ lô có thể treo ở trên cửa mà nơi đó gió thổi mạnh để hút bớt “sát khí”.
Lưu ý: Các linh vật phong thủy cần được khai quang cẩn thận, đặt đúng vị trí và xem ngày giờ đặt. Có như vậy mới có tác dụng phát huy hết công năng sử dụng của các linh vật phong thủy đồng thời tránh được phản tác dụng khi đặt sai vị trí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Những trò chơi may rủi luôn thu hút được sự chú ý của nhiều người. Khi tham gia các chương trình quay số trúng thưởng, rút thăm bốc quà,...ai cũng mong muốn nhận được phần quà yêu thích. Tất nhiên, để giành được chiến thắng thì hầu hết đều dựa vào vận may của bạn.
Vận may của mỗi người được cho là bị ảnh hưởng nhiều bởi các cung hoàng đạo trong năm. Khi được những ngôi sao chiếu mệnh tốt thì họ sẽ được hưởng may mắn, nếu gặp Hung tinh thì nhiều xui xẻo.
Trong năm 2016, có những con giáp không nên thử các trò chơi may mắn để tránh phải hi vọng nhiều rồi lại thất vọng thật nhiều.
1. Tuổi Tỵ
Trong năm nay, người tuổi Tỵ gặp hạn về tiền bạc. Chưa nói đến việc có thêm tài lộc mà còn phải đề phòng mất mát tiền bạc. Nhiều khả năng là bạn cho vay và tiền một đi không trở lại. Do đó, cần lên kế hoạch tài chính cụ thể và có kế hoạch dự phòng cho những tình huống xấu.
2. Tuổi Chuột
Trong năm nay, người tuổi Chuột có được cơ hội đầu tư tốt nhờ lời khuyên của bạn bè và người thân. Họ có thể đạt được thêm một khoản thu phụ nhất định. Tuy nhiên, năm nay người tuổi Chuột không thích hợp các loại đầu tư mạo hiểm, đầu tư rủi ro cao vì những đồng tiền có được do may mắn sẽ rơi vào tình trạng 'của thiên trả địa'.
3. Tuổi Hợi
Tài lộc của người tuổi Hợi năm nay không tốt nên cần tiết kiệm tiền bạc đề phòng lúc nguy khốn. Vào các tháng 1, 3, 4 và 12 Âm lịch cần quản lý kĩ tiền bạc và không cho bất kì ai vay tiền. Trong năm nay, chỉ cần hơi sơ sẩy là người tuổi Hợi có thể bị lừa mất rất nhiều tiền nên không trông mong gì vào việc tiền từ trên trời rơi xuống.
4. Tuổi Gà
Theo tử vi, tài lộc trong năm 2016 của người tuổi Dậu dao động khá mạnh, có thể gặp nợ nần chồng chất. Trong năm nay, người tuổi Dậu nên an ổn kiếm những đồng tiền sạch và tích cóp. Bạn cũng nên có sao tiêu vậy chứ không nên vay mượn tiền từ người khác.
► Xem tử vi hàng tháng để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |