Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Dựa trên bát tự mệnh lý cùng đưa ra một số kiến giải về tính cách của người sinh ngày Ất Mộc.
Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng thuộc ngũ hành Mộc nhưng người sinh ngày Giáp Mộc có ý thức tự chủ cao, độc lập; ngược lại người sinh ngày Ất Mộc thì ôn hòa nhã nhặn, không thích tâng bốc bất cứ chuyện gì lên.

Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay At Moc hinh anh
 

1. Tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

  Những người sinh ngày Ất ví dụ như Ất Sửu, Ất Hợi, Ất Dậu, Ất Tị là thuộc nhóm những người sinh ngày Ất Mộc. Ất Mộc là thiên can thứ hai trong số 10 thiên can, thuần âm Mộc. Ưu điểm trong tính cách của người này là ôn hòa yên tĩnh, ngoài nhu trong cương, linh hoạt co dãn, nhẫn nhục chịu được vất vả. Nhược điểm là đa sầu đa cảm, vô tình bạc nghĩa, tính toán chi li.   Ất Mộc là hoa tươi, cỏ mềm làm người ta vui tai vui mắt, tính cách nhỏ bé mềm mại, yêu kiều nhu thuận. Sinh lực mạnh mẽ, thích nhất là dựa vào người khác mà trưởng thành, có tính ỷ lại mạnh và nhẫn nại cao. Xem thêm bài viết: Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận.   Tuy rằng bản thân thiếu quyết đoán nhưng lại rất linh động, không cố chấp, lấy phương thức hài hòa nhất để giải quyết vấn đề. Đồng thời mượn sức lực, quyền thế của người khác, lấy tiến làm lùi, tự tìm đến cách có lợi nhất cho mình. Bất luật cuộc sống khó khăn tới mức nào cũng đều vượt qua nghịch cảnh mà tiến về phía trước.   Người sinh ngày Ất Mộc tinh thần tự chủ tự cường không quá mạnh, lúc phát sinh vấn đề phần nhiều có thái độ yên lặng, bình tĩnh, tìm phương án thích hợp nhất mới tiến hành. Nhưng vì quá coi trọng hòa khí nên thường thành đối tượng ba phải, bị hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng.   Theo tử vi, Ất Mộc giỏi tùy cơ ứng biến, giỏi lợi dụng hoàn cảnh và người khác để phát triển bản thân nhưng lòng đố kị mạnh, lúc giao du thường tính toán chi li. Mở miệng ra là nói tiền quá thô tục, quan điểm rất khí khái nhưng nội tâm lại coi trọng tiền tài. Vì tính cách khó từ chối người khác nên miễn cưỡng đáp ứng rồi sau đó hối hận, dù cho mượn món tiền nhỏ hay lớn đều như vậy.   Người sinh ngày Ất Mộc ôn nhu đôn hậu, thích hợp với những ngành nghề mềm mại. Tốt nhất là làm những việc có tính chất phụ trợ như thư ký, trợ lý là tốt nhất. Ất Mộc là cây cỏ nhỏ, có nhiều tình thú, có thiên phú, phần lớn theo đuổi nghệ thuật, âm nhạc, hội họa,  
Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay At Moc hinh anh 2
 
Người này không chủ động giao lưu bạn bè mà thường rất lặng lẽ, bề ngoài hiền lành nhưng lời nói cử chỉ toát ra sự bất khuất cứng cỏi khiến người khác cảm thấy thú vị. Ất Mộc không hề dễ bắt nạt, cũng không thích bắt nạt người khác, quật cường mà không có tính công kích.   Bề ngoài thành thục, bẩm sinh tự yêu mình lại thêm chút tự ti nên chắc chắn không có chuyện chủ động theo đuổi người khác phái. Bản tính thông minh, coi trọng nội hàm, sâu lo trong lòng, ra ngoài thì vui vẻ nhưng về nhà lại cô độc nặng nề.   Người này thể chất kém nhưng lại giống như cành liễu, mềm mại mà dẻo dai khó bẻ, thân thể gặp tình huống bất lợi sẽ tùy biến, không miễn cưỡng chính mình nên khả năng bị bệnh nặng nguy cấp không nhiều. Nhược điểm cơ thể chủ yếu ở gan và họng.
Tham khảo thêm bài viết: Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi khuyết Mộc
 

2. Đặc trưng của người sinh ngày Ất Mộc

  Nội tâm nhiều dục vọng, không cam chịu ở bên dưới người khác nhưng bề ngoài thì lại không dễ dàng hiển hiện ra.   Thích yên lặng tiến hành mọi việc, chưa thành công thì không rêu rao, thành công rồi nhất định phải gõ trống khua chiêng ăn mừng.   Mưu lược cao, gánh được trọng trách, không thích ràng buộc, chuyên làm công tác tham mưu, tư vấn, thích hợp là người hỗ trợ, làm việc hậu trường cho lãnh đạo.   Đến chậm đi cũng chậm, lấy thận trọng làm đầu.   Bình tĩnh, nội tâm, nhỏ bé mềm mại, nhẫn nại, biết tiến biết lùi, linh động.   Tâm tư nhiều, tạp nham, không chuyên nhất, điển hình của người có một muốn hai, có hai muốn ba, bốn, năm, vì thế mà dễ gặp thất bại, chỉ có chuyên tâm làm việc, không tham thứ không phải của mình thì cơ hội thành công mới nhiều.   Ôn hòa, nhẹ dạ, dễ bì lừa mất tiền bạc.   Cảm giác tinh tế, có năng lực thẩm mỹ, có thiên phú về văn học, nghệ thuật,
Tại sao ngũ hành Mộc hợp với ngũ hành Hỏa và ngũ hành Thủy? Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Người mệnh Mộc hợp cây gì để phúc lộc đầy nhà?

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ hợp nhau không? –

Người tuổi Ngọ rất dễ mất kiên nhẫn và không chịu ổn định cuộc sống riêng, điều này khiến tuổi Tỵ lo lắng và bất an. Theo con giáp thì hai tuổi này không hợp nhau, bởi tính cách họ khá khác biệt. Nếu như tuổi Ngựa lúc nào cũng tràn trề sinh lực, lúc
Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ hợp nhau không? –

Chọn điện thoại di động theo phong thủy cho 12 con giáp

Theo các chuyên gia mệnh lý, Chọn điện thoại di động theo phong thủy phù hợp với con giáp của bản thân sẽ mang lại vận khí tốt cho chủ nhân sở hữu nó.
Chọn điện thoại di động theo phong thủy cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các chuyên gia mệnh lý, dựa vào nguyên tắc "tương sinh, tương khắc" có thể phân chia phong thủy điện thoại theo 3 yếu tố: màu sắc, số điện thoại và hình dạng. Chọn điện thoại di động theo phong thủy phù hợp với con giáp của bản thân sẽ mang lại vận khí tốt cho chủ nhân sở hữu nó.

(Ảnh minh họa)

1. Người tuổi Tý


Nên chọn điện thoại màu trắng. Ngoài ra, Thủy với Thủy trong ngũ hành có thể sinh vượng khí. Màu đen cũng là màu đại diện cho hành Thủy. Do vậy, chọn điện thoại màu này cũng tốt cho chủ nhân tuổi Tý.

Tam hợp của người tuổi Tý là tuổi Thân. Vì vậy nên chọn dây đeo điện thoại có liên quan đến con khỉ.

Số khai vận tốt nhất là: 4, 9, 1, 6. Số kỵ: 0, 5.

2. Người tuổi Sửu


Nên chọn điện thoại hình vuông, màu vàng, cà phê, trắng, kim, bạc. Kỵ màu xanh lá cây. Dây đeo điện thoại có thạch anh màu vàng.

Số khai vận: 0, 5. Số kỵ: 3, 8.

3. Người tuổi Dần


Nên chọn điện thoại hình chữ nhật, màu xanh lá cây kết hợp dây đeo có thạch anh. Kỵ điện thoại màu trắng.

Số khai vận: 2, 7. Số kỵ: 4, 9.

4. Người tuổi Mão


Phù hợp với điện thoại hình chữ nhật, màu xanh lam. Dây đeo nên chọn màu xanh lá cây.

Số khai vận: 1, 6, 3, 8. Số kỵ: 4, 9.

5. Người tuổi Thìn


Sẽ hợp với điện thoại hình vuông, màu trắng, kim hoặc bạc. Nếu chọn màu xanh lam hay lá cây thì vận may sẽ dần dần xa rời chủ nhân.

Số khai vận: 4, 9. Số kỵ: 3, 8.

6. Người tuổi Tỵ


Nên dùng điện thoại hình vuông kết hợp các phụ kiện: dây đeo, túi đựng màu vàng để tăng cơ hội may mắn. Kỵ màu đen.

Số khai vận: 0, 5. Số kỵ: 1, 6.

7. Người tuổi Ngọ


Người tuổi Ngọ muốn thu hút vận tốt thì nên sử dụng điện thoại màu đỏ, cam, tím hồng, xanh lá cây. Kỵ màu đen.

Số khai vận: 2, 7. Số kỵ: 1, 6.

8. Người tuổi Mùi


Dùng điện thoại cùng các vật trang trí kèm theo màu đỏ. Màu này sẽ tác động mạnh mẽ đến vận thế. Kỵ màu trắng.

Số khai vận: 7. Số kỵ: 4, 9.

9. Người tuổi Thân


Muốn tăng vượng khí thì nên dùng điện thoại màu trắng, kim, bạc.

Số khai vận: 4, 9.

10. Người tuổi Dậu


Hợp với điện thoại màu vàng, trắng, bạc, kim. Kỵ màu đỏ.

Số khai vận: 0, 5, 4, 9. Số kỵ: 2, 7.

11. Người tuổi Tuất


Người tuổi Tuất nên dùng điện thoại màu đỏ, vàng. Kỵ màu đen.

Số khai vận: 2, 7. Số kỵ: 1.

12. Người tuổi Hợi


Nên dùng điện thoại và các phụ kiện kèm theo màu đen. Kỵ màu vàng, vì màu vàng đại diện cho Thổ. Theo ngũ hành, Thổ khắc Thủy có thể sinh sát khí.

Số khai vận: 1, 6. Số kỵ: 0, 5.

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Chọn điện thoại hợp mệnh tăng thêm may mắn Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc

(Theo Phong thủy sức khỏe kiện toàn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn điện thoại di động theo phong thủy cho 12 con giáp

Thuật quan sát người P1

1.Bát quái tướng mặt Theo quan sát thựctế,tướng mặt của một người chia làm 8 khu vực.Đó là bát quái tướng mặt. Sách "Tướng gia bí quyết"nói: "Ngũ hình không trung chính thì cuộc đời nghèo khổ.Bát quái đầy đặnthì tài lộc đầy đủ".
Thuật quan sát người P1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách "Thuần dương tướng pháp" nói: "Tam đình bát quái đòi hỏi sự tương xứng".Cái gọi là bát quái tức là tám bộ vị trên gương mặt. Bộ vị thứ nhất là tai phải.Tai phải thuộc phương đông.Phương đông Giáp,Ất,Dần,Mão đều thuộc mộc,cho nên tai phải gọi là "mộc tinh",cũng gọi là "cung Chấn". Bộ vị thứ hai là góc trán bên phải.Góc phải trán thuộc phương đông nam,trong bát quái gọi là"quẻ tốn".Do đó nói chung các nhà tướng học đều gọi là "ngôi tốn". Bộ vị thứ ba là chính giữa trán.Chính giữa trán thuộc phương nam.Phương nam  Bính,Đinh,Tỵ,Ngọ đều thuộc hỏa,cho nên giữa trán gọi là "hỏa tinh",cũng gọi là "cung Ly". Bộ vị thứ tư là góc trán bên trái.Góc trán bên trái thuộc phương tây nam,trong bat quái gọi là "cung Khôn".Do đó các nhà tướng học đều gọi là "ngôi Khôn". Bộ vị thứ năm là tai trái.Tai trái thuộc phương tây.Phương tây  Canh,tân,Thân,Dậu đều thuộc kim,cho nên tai trái gọi là "kim tinh",cũng gọi là "cung Đoài". Bộ vị thứ sáu là má trái.Má trái thuộc phương tây bắc,trong bát quái gọi là "cung Càn".Do đó các nhà tướng học gọi là " ngôi Càn". Bộ vị thứ bảy là cằm.Cằm thuộc phương bắc.Phương bắc Nhâm,Quí,Hợi,Tý đều thuộc thủy,cho nên miệng và cằm đều gọi là "thủy tinh",cũng gọi là "cung Khảm". Bộ vị thứ tám là má phải.Má phải thuộc phương đông bắc,trong bát quái gọi là "quẻ Cấn".Do đó các nhà tướng học đều gọi là "ngôi Cấn". Tám bộ vị này yêu cầu phải cao,đứng,đầy đặn,dầy dặn,có thịt.Kỵ nhất là lép,phẳng,lồi lõm và mỏng. Nhà tướng học Ngụy Càn Sơ đời Thanh trong quyển 24 của bộ sách "Tướng học vấn đáp" có một đoạn vấn đáp về bát quái tướng mặt.Có thể tóm tắt như sau:

Hỏi: Vì sao người ta lại chia tướng mặt thành bát quái? Đáp: Đó là để thuận tiện quan sát,các nhà tướng học đã chia mặt thành các bộ vị.Ví dụ: Hai tai là để xem vận khí thời niên thiếu.Con trai,tai trái quản từ 1 đến 7 tuổi.Tai phải quản từ 8 đến 14 tuổi.Con gái thì ngược lại,tai phải quản từ 1 đến 7 tuổi,tai trái quản từ 8 đến 14 tuổi. Chia tướng mặt thành tám khu vực cũng giống như hai tai là để quan sát cho thuận tiện mà thôi.Đã đành chia tướng mặt thành tám khu vực thì phải đặt tên cho nó để mọi người có chuẩn tắc chung.Vì là tám khu vực cho nên dùng tên của tám quẻ thuần trong Kinh dịch để đặt tên cho nó.Điều đó không có nghĩa là trên mặt quả thực có tám quẻ.

Hỏi: Vì sao tai phải gọi là cung Chấn,còn trán gọi là cung Ly,tai trái gọi là cung Đoài...Đó có phải là thiên nhiên sắp xếp rồi không? Đáp: Các ngôi quẻ trên tướng mặt theo tôi không có một sự sắp xếp thiên nhiên nào cả.Đó là một số bậc tiền bối trong giới tướng học căn cứ kinh nghiệm người xưa và bản thân mình đặt ra mà thôi.Chúng ta biết rằng từ rất xa xưa,các bậc tiền bối của giới tướng học đã chia mặt thành bốn phương vị: đông,tây,nam,bắc.Cũng từ rất xa xưa người ta đã chia tướng mặt thành ngũ tinh: kim,mộc,thủy,hỏa,thổ.Hai cách chia này đều lấy tai phải làm phương đông.Phương đống Giáp,Ất,Dần,Mão đều thuộc mộc cho nên gọi là mộc tinh.Vì ngôi quẻ của các quẻ dịch lấy Chấn thuộc phương đông,cho nên các bậc tiền bối của giới tướng học lấy tai phải phối với quẻ Chấn. Cũng theo đạo lý đó,trán là phương nam.Phương nam Bính,Đinh,Tỵ,Ngọ đều thuộc hỏa,cho nên gọi là hỏa tinh.Vì ngôi quẻ của quẻ dịch lấy Ly ở phương nam cho nên các nhà tướng học lấy trán phối với quẻ Ly...

2. Các phương pháp quan sát tướng mạo a. Phương pháp kiểm chứng Đây là phương pháp phổ biến của người xưa quen dùng.Do điều kiện tri thức và khoa học thời bấy giờ phát triển còn hạn chế,nên cổ nhân chủ yếu dựa vào sự quan sát tỉ mỉ bằng đôi mắt trên hình thể của nhiều người,từ đó rút ra một số qui luật nhất định về tướng mạo.Những qui luật đó sẽ được kiểm chứng trong thực tế cuộc sống rồi đúc kết thành những kinh ngiệm.Đồng thời,qua việc kiểm chứng sẽ loại bỏ dần dần những kết luận không chính xác. Ví dụ như sách xưa kết luận "Nhân trung sâu và dài là người trường thọ" và giải thich như sau: Nhân trung cũng giống như mạch máu trong người,mạch máu lưu thông dễ dàng thì cơ thể mới khỏe mạnh,Nhân trung sâu và dài thì máu dễ lưu thông,còn như Nhân trung ngắn và nông cũng giống như mạch máu bị tắc nghẽn,máu huyết khó lưu thông khiến cơ thể vì thế mà bệnh tật thì khó mà sống thọ cho được. Hiển nhiên là cách quan sát tướng mạo dựa theo những kinh nghiệm đúc kết từ phương pháp quan sát và kiểm chứng của người xưa không phải lúc nào cũng hoàn toàn thuyết phục.Nhưng cho đến bây giờ,cũng không thể phủ nhận một số kiểm chứng là rất chính xác.

b. Phương pháp phân tích Người xưa phân tích cung mệnh,vận khí từng năm tháng của con người cùng với việc quan sát tỉ mỉ hình dáng cơ thể cũng như tính cách riêng từng người để đoán trước tương lai vận số.
c. Phương pháp biện chứng
Đây là phương pháp hay,linh hoạt và khá khoa học trong thuật xem tướng truyền thống của Trung Quốc bằng cách phân tích các mặt đối lập giữa cái tĩnh và cái động,giữa cái bất biến và cái thường biến thể hiện qua tướng mạo và tâm tánh mà suy đoán ra tính cách vận số của con người.Cách phân tích này loại bỏ quan niệm "Tướng mạo là do trời sinh và vận số cũng theo đó mà không thể thay đổi". - Phương pháp biện chứng chỉ ra rằng: Bề ngoài con người thể hiện cho cái tĩnh nhưng tinh thần khí sắc cũng như tâm hồn thái độ lại luôn ở trạng thái động.Nói một cách khác,hình thể bên ngoài do tướng mạo trời sinh là cái bất biến nhưng chỉ là thứ yếu,còn cái tâm trong sáng mới là chủ yếu để quyết định tính cách và vận số tốt xấu trong cuộc sống riêng của từng người.Chính vì vậy mà sách "Tâm tính biên" có câu: "Tâm là cái gốc của bề ngoài,vén tâm ra sẽ thấy thiện ác.Tâm của mỗi người thể hiện qua việc làm,nhìn vào việc làm mà biết được họa phúc của người đó".
d. Phương pháp điểm diện
Đây cũng là phương pháp  thường áp dụng trong cách nghiên cứu tướng mạo truyền thống của Trung Quốc.Điểm có nghiã là bộ phận,là đặc trưng riêng.Còn Diện tức là những nét chung tổng quát. Phương pháp điểm diện bắt đầu từ việc quan sát hình thể tổng quát tướng mạo của một người,để đưa ra nhận xét ban đầu ứng với qui luật đã rút ra từ  đa số người.Rồi kết hợp đi sâu vào phân tích đặc trưng của riêng cá nhân đó để đưa ra kết luận cuối cùng nhằm suy đoán vận số và tính cách của người cần quan sát.
e. Phương pháp hình thức
Là phương pháp nghiên cứu có từ thời nhà Đường - Trung Quốc.Các tiêu chuẩn trong phương pháp này được tiến hành theo các bước tuần tự như sau:

  • Quan sát ngoại hình để biết con người đó thuộc dạng tướng người nào,tướng mạo là thông thường hay có dị thường hay không?
  • Quan sát kết cấu xương cốt thể hiện qua dáng người xem có phù hợp với nguyên lý âm dương hay không?
  • Quan sát Tứ độc - Lục phủ - Tam đình - Ngũ nhạc.
  • Quan sát thanh âm,cách nói chuyện,tướng đi,dáng ngồi.
  • Quan sát tinh thần.
f. Phương pháp nghiên cứu theo tinh thần - khí phách Được phổ biến và áp dụng từ thời nhà Thanh - Trung Quốc,bao gồm quan sát tướng mạo dựa theo các đặc điểm sau:
  • Quan sát mắt mũi
  • Quan sát thanh âm,cách nói chuyện
  • Quan sát tinh thần khí sắc
  • Quan sát cử chỉ động tác
  • Quan sát đôi tay
  • Quan sát đôi chân
g. Phương pháp nghiên cứu theo thời gian 1. Nghiên cứu theo độ tuổi
  • Từ 1 đến 7 tuổi: Quan sát Thiên thương và tai trái
  • Từ 8 đến 14 tuổi: Quan sát Địa khố và tai phải 
  • Năm 15 tuổi: Quan sát đỉnh trán và đỉnh đầu
  • Năm 16 tuổi: Quan sát tai phải và Thiêng trung
  • Năm 17 tuổi: Quan sát cặp mắt và Nhật giác
  • Năm 18 tuổi: Quan sát tai và Nguyệt giác
  • Năm 19 tuổi: Quan sát chân mày và Thiên đình
  • Từ năm 20 đến 21 tuổi: Quan sát sống mũi,Thiên tướng,tả hữu Phụ giác
  • Năm 22 tuổi: Quan sát tai trái và Tư không
  • Năm 23,24 tuổi: Quan sát thần sắc của cặp mắt
  • Năm 25 tuổi: Quan sát Sơn căn và chân mày
  • Năm 26,27 tuổi: Quan sát tai và mắt
  • Năm 28 tuổi: Quan sát Thiên thương và Ấn đường
  • Năm 29,30 tuổi: Quan sát mũi miệng với tả hữu Sơn lâm
  • Năm 31,32 tuổi: Quan sát tai,mắt,Lăng vân,Tử khỉ
  • Năm 33,34 tuổi: Quan sát Pháp lệnh,lông mày,Phồn hà,Thái hà,trán.
2. Nghiên cứu theo chu kỳ 9 năm Dựa vào 9 bộ phận trên cơ thể đoán biết vận hạn của tuổi tác theo chu kỳ 9 năm.
  • Chân mày: Cho biết vận hạn ứng với năm 1,10,19,28,37,46,55 tuổi
  • Mũi: Cho biết vận hạn ứng với năm 2,11,20,29,38,47,56 tuổi
  • Miệng: Cho biết vận hạn ứng với năm 3,12,21,30,39,48,57 tuổi
  • Tai trái: Cho biết vận hạn ứng với năm 4,13,22,31,40,49,58 tuổi
  • Mắt trái: Cho biết vận hạn ứng với năm 5,14,23,32,41,50,59 tuổi
  • Trán: Cho biết vận hạn ứng với năm 6,15,24,33,42,51,60 tuổi
  • Chân mày phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 7,16,25,34,43,52,61 tuổi
  • Mắt phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 8,17,26,35,44,53,62 tuổi
  • Tai phải: Cho biết vận hạn ứng với năm 9,18,27,36,45,54,63 tuổi
3. Nghiên cứu theo chu kỳ 20 năm -  Phương pháp dựa vào quan sát Tam đình:
  • 20 năm đầu cuộc đời thể hiện qua trán
  • 20 năm tiếp theo thể hiện qua mũi
  • Cằm cho biết hậu vận của người đó từ năm 41 tuổi trở đi 
-  Phương pháp dựa vào quan sát tai và mũi (Nếu người được xem tướng là nữ thì thứ tự của 2 tai đổi lại)
  • Tai trái cho biết 20 năm đầu
  • Mũi cho biết 20 năm tiếp theo
  • Tai phải cho biết 20 năm kế tiếp.
3. 39 tướng mạo tiêu biểu
theo cách xem tướng của người xưa
Ngày xưa,cổ nhân đã suy đoán tính cách và vận số dựa trên sự quan sát nghiên cứu tướng mạo con người rồi đặt tên theo 39 loại chim thú và gọi là "Muông thú tượng hình" để mọi người dễ nhận ra đặc thù của từng tướng mạo. 1. Tướng Rồng: Đây là tướng tốt nhất theo quan niệm của người xưa,thể hiện qua thân hình cao lớn,tướng đi vững chắc thanh thoát,sắc mặt hồng hào,ánh mắt uy nghiêm mà thuần hậu,giọng nói lớn mà ôn hòa,lông mày dài và rậm,giải quyết công việc rất dứt khoát và hợp đạo lý.Người có tướng này là chân mạng Đế vương hoặc là người nắm giữ chức quyền cao trọng. 2. Tướng Phượng: Thân hình dong dỏng cao.Khuôn mặt "Mắt phượng mày ngài" với đôi mắt thon dài,chân mày nhỏ đẹp,thần sắc uy nghi mạnh mẽ,giọng nói trong trẻo rõ ràng.Đây là tướng quý,gắn liền với sự nghiệp thành đạt vinh hiển. 3. Tướng chim Ưng: Thân hình cao to,chân bước vững vàng,tiếng nói vang khỏe,lông mày rậm,ánh mắt rất sáng và sắc bén.Đây là tướng người phù hợp với binh nghiệp nhưng tính cách có phần hung dữ và tàn bạo,hậu vận không được tốt. 4. Tướng Kỳ Lân: Thân hình vừa phải.Ngực rộng rắn chắc hơi ưỡn ra phía trước,trán cao mắt sáng,chân mày đen rậm.Nếu có thêm giọng nói to rõ mà ôn hòa kết hợp với tướng đi vững chắc thì đây có thể làm nên sự nghiệp công danh,vinh hiển tột bực. 5. Tướng Cọp: Thân hình cao to,vai rộng nở ngang,lưng to,chân tay mạnh mẽ.Mắt lớn,miệng rộng,môi dày,tiếng nói ầm vang như trống,ánh mắt đầy uy lực.Người có tướng này tuy sức khỏe dồi dào nhưng trí não lại phát triển không  cân bằng,không thông minh lanh lợi,chỉ phù hợp với đường binh nghiệp hữu dũng vô mưu. 6. Tướng Beo: Khuôn mặt dài nhưng mũi ngắn.Răng nhỏ và khít,đặc biệt là Chuẩn đầu nhô cao.Người tướng Beo tuy không có sức khỏe và uy lực như Cọp và Sư Tử  nhưng lại có phần khéo lèo và uyển chuyển hơn.Đặc biệt thành công trong giao tiếp xã hội,đôi khi có phần thủ đoạn tinh ranh và mưu mẹo.Gia đình thường không êm ấm hạnh phúc vì rất độc đoán lấn át vợ con. 7. TướngSư Tử: Hình dáng bề ngoài cũng có nét tương tự như tướng Cọp,nhưng trán đặc biệt cao và gồ lên biểu hiện cho người cơ trí thông minh,văn võ song toàn. 8. Tướng Voi: Rất dễ nhận thấy ở thân hình to lớn nhưng nặng nề chậm chạp,dáng ngồi nghiêm chỉnh vững chắc như  hòn núi nhỏ,mũi thấp,môi dày.Tuy không thông minh lanh lợi nhưng cá tính hiền hậu,suy nghĩ chín chắn,làm việc siêng năng nên cuộc sống no đủ,hậu vận giàu sang. 9. Tướng Tê Giác: Thân hình to lớn,trán cao rộng,lông mày đen rậm,đầu tròn,mắt nhỏ hơi lồi,hai tai nhỏ nhưng dày.Đây là tướng người sức khỏe tốt,ít bệnh tật,sống thọ,cuộc sống an khang sung túc. 10. Tướng Gấu: Thân hình to lớn,râu tóc rậm rạp,tay chân to lớn,mũi to,hơi thở gấp gáp nặng nề.Người có tướng này đa phần tính tình nóng nảy hung bạo,có thể đạt được danh lợi nhưng không được sự yêu mến của mọi người xung quanh. 11. Tướng Khỉ: Thân hình nhỏ nhắn hoặc vừa phải,trán nhô cao về phía trước,lưỡng quyền nổi cao,hai mắt tròn đen.Đây là tướng người đặc biệt lanh lợi,làm việc tính toán rất giỏi nên thường giàu sang phú quý nhưng có phần hơi háo sắc. 12. Tướng Vượn: Bề ngoài cũng giống như tướng Khỉ nhưng tay chân dài hơn.Đây cũng là tướng người đặc biệt lanh lợi,giỏi tính toán làm ăn nhưng không ẩn chứa gian xảo hay mưu mô.Cũng có tâm háo sắc nhưng kín đáo và biết kiềm chế hơn tướng Khỉ. 13. Tướng Đười ươi: Biểu hiện rõ ở thân hình cao to nhưng chúi về phía trước,mắt tròn lông mày rậm,miệng rộng môi vểnh,lưỡng quyền cao nhọn,lông tóc thô cứng.Đây là tướng người nóng nảy nhưng thẳng thắn tâm tính tốt. 14. Tướng Trâu: Thân hình to lớn,đầu và cổ to,nói năng đi đứng chậm chạp,sức khỏe tốt,cần cù chăm chỉ mà được giàu sang phú quý. 15. Tướng Chó: Biểu  hiện qua hình dáng chân dài tay ngắn,đầu lớn mặt thon,tai nhọn.Tính tình trung thành nhưng thẳng thắn,có phần hơi nóng nảy.Thích ăn uống,sức khỏe tốt. 16. Tướng Chó Sói: Tướng người có trán rộng mắt to,lưỡng quyền cao đầy,lỗ tai nhọn nhưng dày,miệng to răng khít nhưng khi cười để lộ hai răng nanh có vẻ to hơn người bình thường,lông mày đều đặn cân xứng.Đây là tướng người thông minh sắc sảo có thể giành được địa vị cao nhưng tâm tánh có phần tàn nhẫn nên làm mọi người sợ nhiều hơn là kính phục. 17. Tướng Chồn: Thân hình vừa phải,sắc da hồng hào,tướng đi nhanh nhẹn.Người tướng này có năng khiếu về nghệ thuật,chuộng kiểu cách lễ nghi,nhưng tâm cơ gian xảo,háo sắc,có tính lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm. 18. Tướng Thỏ: Đầu nhỏ trán thấp,tai to tròn dài,mũi nhỏ hồng hào,chân ngắn hơn thân người.Người có tướng này là người khôn ngoan lanh lợi nhưng trung hậu và khoan dung,thường làm nên sự nghiệp cao sang,nếu không cũng được mọi người yêu mến và nhàn nhã suốt đời. 19. Tướng Hoẵng: Khuôn mặt dài và hẹp,mũi nhỏ và nhọn,mắt tuy lớn nhưng bị lồng mày rậm che khuất một phần,tai dài vểnh ra hai phía.Người tướng này rất nhút nhát,ngại giao tiếp,lòng luôn nghi kỵ và lo sợ điều bất ổn nên không làm nên nghiệp lớn mà chỉ có cuộc sống bình thường. 20. Tướng Lừa: Mặt dài tai dài,dáng đi chậm chạp.Người có tướng này không có sự nghiệp lớn,chỉ nhờ vào tính cần cù chịu khó mà cuộc sống no đủ qua ngày. 21. Tướng Ngựa: Biểu hiện rõ ở khuôn mặt rất dài và hẹp dần ở phía dưới.Miệng rộng răng to lưng dài.Người có tướng này có tính nhẫn nại cần cù,khoan dung độ lượng,hậu vận tốt. 22. Tướng Nai: Khuôn mặt hơi dài và hẹp dần về phía dưới.Ánh mắt hiền lành có phần lơ đãng,miệng nhỏ,tướng đi nhanh nhẹn.Người có tướng này tâm tánh hiền hậu có phần nhút nhát,không thích tranh giành bon chen nhưng lại được hưởng phước an nhàn no đủ. 23. Tướng Dê: Đầu vuông,trán dài nhưng thấp,thân hình có vẻ hơi chúi về phía trước.Tướng người Dê có tâm tánh hiền lành trung thực,nếu là phụ nữ thì có tánh tình hời hợt,xu hướng thiên về tình cảm và nhục dục. 24. Tướng Mèo: Thân hình thon nhỏ,lưng dài bụng nhỏ,mắt tròn to sáng,tai nhỏ mỏng nhọn.Người có tướng Mèo tâm tánh hiền lành,đôi lúc lại rất thông minh và khéo léo,chú trọng bề ngoài và yêu thích sạch sẽ. 25. Tướng Chuột: Biểu hiện qua thân hình nhỏ nhắn,mắt nhỏ hay liếc ngang liếc dọc,răng nhọn,miệng chu ra phía trước.Người có tướng này thì đầu óc lanh lợi xoay chuyển đối phó nhanh với mọi tình huống nhưng chỉ thông minh khôn ngoan trong việc nhỏ nhặt.Người tướng Chuột chú trọng vật chất,không nghĩ đến lợi ích lâu dài về sau nên chỉ thành công trước mắt,hơn nữa vì tâm tánh có phần dối trá nên không được cấp trên trọng dụng cất nhắc nên không có sự nghiệp lâu dài vững chắc về sau. 26. Tướng Heo: Thân hình to lớn phục phịch,cổ nọng nhiều ngấn mỡ,chân ngắn tay ngắn.Người tướng này thường ham mê vật chất,thích ăn uống,nói chuyện ồn ào,trí óc thấp kém.Tuy có phúc lộc no đủ nhàn nhã nhưng không có công danh sự nghiệp to lớn vì giao tiếp xã hội kém và có phần thô lỗ. 27. Tướng Gà: Thân hình nhỏ,mắt miệng và khuôn mặt nhỏ.Đây là người biết giữ chữ tín,có chí cầu tiến nên hậu vận rất tốt. 28. Tướng Vịt: Thân hình mập mạp,chân và bước chân ngắn nên đi đứng có phần chậm chạp.Người tướng này thường trí óc ít thông minh và lanh lợi,cuộc sống chỉ vừa đủ chứ không giàu sang vinh hiển. 29. Tướng Ngỗng: Mắt nhỏ,ánh mắt không sắc sảo.Miệng nhỏ,mũi ngắn,cổ cao,bước đi chậm có phần đủng đỉnh.Người có tướng này tuy không đạt thành tựu lớn nhưng vẫn có cuộc sống an nhàn no đủ. 30. Tướng Hạc: Thân hình thanh mảnh.Khuôn mặt dài,cổ cao.Người tướng này có tánh tình trầm tĩnh,ghét ồn ào bon chen,thích sự thanh cao,đặc biệt yêu thích và có thiên phú về văn chương nghệ thuật. 31. Tướng Công: Thân hình cao,khuôn mặt nhỏ,tính tình trầm tĩnh và bảo thủ,thích danh vọng và rất chú trọng bề ngoài. 32. Tướng Chim Yến: Thân hình nhỏ nhắn,mắt tròn,ánh mắt sáng.Người tướng này có nhiều tài năng nhưng vận số thăng trầm nhiều,thành đạt muộn. 33. Tướng Chim Sẻ: Thân hình nhỏ bé,mắt tròn,ánh mắt sắc sảo và thường liếc nhìn xung quanh.Người tướng này thường vất vả,không có sự nghiệp. 34. Tướng Chim Thước: Thân hình vừa phải,khuôn mặt và đôi mắt nhỏ,dáng đi nhanh nhẹn.Đây là người có tính tình vui vẻ,làm việc siêng năng,sức khỏe tốt.Tuy không thể đạt tới mức giàu sang vinh hiển nhưng cuộc sống được nhiều người yêu mến,an nhàn no đủ suốt đời. 35. Tướng Uyên Ương: Thân hình vừa phải,mắt tròn đẹp,khuôn mặt dễ nhìn,giọng nói trong trẻo ngọt ngào.Nếu là nữ thì thích hợp làm những công việc nghệ thuật như diễn viên hay nghệ sĩ múa.Người có tướng này đạt được chút công danh trong xã hội nhưng sự nghiệp lại không lâu bền và thiên về nhục dục. 36. Tướng Cò: Thân hình cao ốm,mũi dài và nhỏ.Tuy có năng khiếu đặc biệt về nghệ thuật nhưng tánh tình thích cô độc trầm lặng,ghét ồn ào,thờ ơ lạnh nhạt trong giao tiếp xã hội và không có chí cầu tiến nên không đạt được công danh sự nghiệp trong cuộc sống. 37. Tướng Rắn: Thân hình cao gầy,tướng đi uyển chuyển có cảm giác như đang uốn lượn,đầu dài mặt ngắn,miệng môi đều mỏng,mũi dài lưỡi dài và hay liếm môi,lông mày răng mắt đều nhỏ,ánh mắt thao láo và lạnh lẽo.Đây là tướng người nhỏ nhen thù dai,có nhiều mưu mô xảo trá,khi tranh chấp quyền lợi thì có những thủ đoạn độc ác tàn nhẫn nhưng trong giao tiếp làm ăn lại rất khéo léo và đạt nhiều danh vọng. 38. Tướng Rùa: Thân hình thấp nhỏ,đầu thon nhỏ,chân tay ngằn,cổ ngắn,mắt tròn và sáng.Lưng gồ lên và hơi cong.Đây là tướng người phú quý và trường thọ. 39. Tướng Cá: Thân hình thon nhỏ,cặp mắt tròn nhỏ và hơi lồi,lông mày thưa,cổ ngắn môi dày.Khi ngủ đôi mắt vẫn mở hé mà không khép kín được.Người có tướng này thì đa nghi,tâm tánh nhút nhát,đôi khi sống ảo tưởng và hậu vận không tốt. 4. 7 tướng mạo đặc biệt
đại phú đại quý trong thuật xem tướng
1. Tướng Ngũ Trường: Là tướng mạo của người có Đầu - Mặt -Tay - Chân và Thân người đều dài. 2. Tướng Ngũ Đoản: Là tướng mạo của người có Đầu - Mặt - Tay - Chân và Thân người đều ngắn. 3. Tướng Ngũ Lộ: Là tướng mạo bao gồm Mắt lồi - Mũi hếch - Tai vểnh - Miệng vẩu và Hầu lộ. 4. Tướng Ngũ Hợp: Bao gồm:
  • Thiên Địa Tương Hợp: Là xương cốt ngay ngắn không khuyết tật.
  • Thiên Quan Tương Hợp: Là sự hài hòa của dáng người kết hợp với giọng nói và ánh mắt.
  • Thiên Tâm Tương Hợp: Là thần sắc thanh khiết,tâm trí linh hoạt minh mẫn nhanh nhẹn.
  • Thiên Cơ Tương Hợp: Là người có kiến thức sâu rộng,quyết đoán nhưng độ lượng.
  • Thiên Luân Tương Hợp: Là người khiêm nhường,biết giữ uy tín và nhân nghĩa.
5. Tướng Ngũ Tú: Bao gồm:
  • Cốt tú: Là hàm răng chắc khỏe,đều đặn.
  • Nhục tú: Là sắc mặt hồng hào tươi tắn.
  • Huyết tú: Là lông mày thanh nhã.
  • Khí tú: Là tiếng nói trong trẻo âm vang.
  • Chất tú: Là ánh mắt sáng,tia mắt long lanh,thần khí êm dịu.
6. Tướng Lục Đại: Tướng Lục Đại bao gồm Đầu - Mặt -Tai - Mũi - Miệng và Bụng dưới đều to lớn. 7. Tướng Lục Tiểu: Tướng Lục Tiểu bao gồm Đầu - Mặt - Tai - Mũi - Miệng và Bụng dưới đều nhỏ. 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuật quan sát người P1

Đặc điểm tướng mặt nổi bật của các mạnh thường quân

Những người có đặc điểm tướng mặt này đều nhân hậu, bao dung và thích làm việc thiện. Họ là những “mạnh thường quân” tốt bụng.
Đặc điểm tướng mặt nổi bật của các mạnh thường quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người có đặc điểm tướng mặt này đều nhân hậu, bao dung và thích làm việc thiện. Họ là những “mạnh thường quân” tốt bụng mà không bao giờ đòi hỏi sự báo đáp.
 

1. Mắt rùa, chân mày lượn vòng
 
Trong Nhân tướng học, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, có thể nhìn thấy lương tâm thiện ác, thái độ chân thành của một con người. Mắt rùa có đặc điểm là dạng mắt tròn nhưng thanh thú, ánh nhìn ấm áp, tập trung, không tản mác. 
 
Người có kiểu mắt rùa thường được hưởng phúc, sống thọ, sức khỏe dồi dào, ít bệnh tật. Nếu cộng thêm đặc điểm chân mày lượn vòng là người có tấm lòng lương thiện, hay giúp đỡ mọi người xung quanh mà không đòi hỏi sự báo đáp. Tuy nhiên, cũng vì quá thương người khác nên dễ bị lợi dụng hoặc lừa đảo.

Dac diem tuong mat noi bat cua cac manh thuong quan hinh anh
Ảnh minh họa

2. Đầu mũi tròn, hai má đầy đặn, lông mày có sợ dài khác biệt
 
Sách Nhân diện học viết “đầu mũi tròn đầy thì tâm không độc”. Người có tướng mặt này có tấm lòng bao dung và hướng thiện.
 
Nếu hai má đầy đặn thì có lòng trắc ẩn, giúp người một cách nhiệt tình và chân thành. Người có tướng mặt này mà hai chân mày lại mọc ra một hai sợi dài khác biệt thì đây đích thực là một mạnh thường quân được nhiều người nể trọng và ngưỡng mộ.
 
3. Tai Phật và lỗ tai rộng

Đặc điểm của tai Phật là vành tai rõ ràng, hai dái tai dày, to và dài. Người có tai Phật thường được hưởng nhiều phúc lộc, tín ngưỡng mạnh, có đức hiếu sinh và tấm lòng từ bi độ lượng. Nếu lỗ tai rộng thì cũng có nghĩa là “tản tài”, hễ có người cần giúp đỡ là sẵn sàng cứu trợ, không màng danh lợi.
 
4. Tai hưu
 
Tai hưu có đặc trưng là nhìn như cánh sen, hồng hào sáng sủa; tai rộng, có vành tai mà không có loa tai. Người có tai hưu đa phần thông minh, lương thiện, coi trọng bạn bè và tình cảm, coi nhẹ vật chất tiền bạc.
 
Khi ai đó gặp khó khăn về tài chính hoặc tinh thần, người này sẵn sàng giúp đỡ. Ngoài ra, khi điều kiện vật chất đầy đủ, người này chuyên làm việc thiện, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn.
 
5. Đỉnh đầu nhọn và lồi
 
Trên đỉnh đầu có xương Thiên dương, nếu xương này nhọn và lồi ra là người có tướng phúc thọ, thích làm việc thiện, quang minh lỗi lạc, được nhiều người kính trọng. Đây là một trong những đặc điểm tướng mặt mạnh thường quân thường thấy.
 
Theo Thuật xem tướng mặt và tướng bàn tay    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm tướng mặt nổi bật của các mạnh thường quân

Xem tướng ba ngón chính – tam chủ |

Tướng pháp cho rằng trong bàn tay có các ngón là phần thứ hai sau chỉ lòng bàn tay và cổ tay. Như vậy ba phần cơ bản của một bàn tay gồm: Lòng bàn tay, các ngón tay và cổ tay. Ở phần trên đã nói rõ tướng mạo và các đường chỉ tay của lòng bày tay. Các
Xem tướng ba ngón chính – tam chủ |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ba ngón chính – tam chủ |

Sao Vũ Khúc tổng luận các đặc tính và cách cục

Sao Vũ Khúc là ngôi sao thứ 6 trong chòm sao Bắc Đẩu, chủ về vượng tiền tài, có khả năng quản lý tiền bạc. Lúc đắc vận thì công danh tiền tài rất sáng láng, lúc thất vận thì cô quả một mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vũ Khúc tổng luận

Như chúng ta đã biết, Vũ Khúc là sao thứ 6 của Bắc Đẩu, thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Vũ Khúc là sao tiền tài. Nó khác với Thái Âm, Thái Âm thiên về "tính"; còn Vũ Khúc thì thiên về "chất". Cho nên Thái Âm chủ về kế hoạch, khá trừu tượng, còn Vũ Khúc thì chủ về hành động, rất cụ thể. Vì vậy, so sánh hai sao, Thái Âm thể hiện một cách nhu hòa, Vũ Khúc thế hiện một cách cứng rắn.

Thường thì sao có tính cứng rắn nhất định sẽ bất lợi về lục thân, cứng rắn ắt đồng thời mang "tính cô độc và hình khắc". Cho nên luận đoán cát hung của Vũ Khúc trong mệnh bàn, thường sẽ vì cung viên khác nhau mà có cách đánh giá khác nhau. Ở cung tài bạch, cung sự nghiệp, thậm chí ở cung phúc đức, đều không kị sự cứng rắn của Vũ Khúc. Nhưng ở cung mệnh, cung phụ mẫu, cung huynh đệ, cung phu thê, cung tử nữ, và cung giao hữu, sẽ ngại tính "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc.

sao vũ khúc tổng luận đặc tính và cách cục

Đặc biệt là cung phu thê, nếu có tính chất "cô độc và hình khắc", đời người dễ có nhiều khiếm khuyết đáng tiếc. Trong xã hội cổ đại phái nữ không có sự nghiệp riêng, sau khi lây chồng thì lấy sự nghiệp của chồng làm sự nghiệp của mình, do đó rất ngại Vũ Khúc tọa cung phu thê, cổ nhân gọi là "Quả Tú". Còn đối với nam mệnh, bất quá chi ngại "vợ đoạt quyền chồng" mà thôi.

Kình Dương, Đà La rất dễ làm mạnh thêm tính cứng rắn, "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc. Vì vậy Vũ Khúc không nên bị chúng hội chiếu. Lúc Vũ Khúc Hóa Kị, hoặc Vũ Khúc đồng độ với sao có Hóa Kị, rât sợ Kình Dương và Đà La giáp cung. Kình Dương và Đà La giáp Hóa Kị của Vũ Khúc, là kết câu khá xấu trong Đẩu Số.

Nhưng khi Vũ Khúc tọa cung tài bạch và cung sự nghiệp, Vũ Khúc lại không sợ Kình Dương, Đà La. Bởi vì tính cứng rắn sẽ được thúc đẩy rất tốt khiến Vũ Khúc tích cực tiến thủ, nhưng phát triển tới đỉnh sẽ dễ thành "không từ thủ đoạn", câu "Vũ Khúc hội Kình Dương, Đà La, chủ về gian trá ", chính là nói cho tính chất này. Nhưng trong trường hợp này Kình Dương, Đà La chẳng đại biểu cho sự tiến thủ thất bại của Vũ Khúc.

Dù là Vũ Khúc Hóa Kị, có Kình Dương, Đà La đến giáp cung, cũng không nhất định là đại biểu cho sự nghiệp thất bại, nhưng có thể vì vậy mà tích cực tiến thủ quá đáng, không tự lượng sức, đầu tư quá lớn, dẫn đến không thể tiếp tục, như tục ngữ nói "mười cái hủ mà chỉ có chín cái nắp", vì vậy mà dẫn đến trở ngại và kinh tế khó khăn mà thôi.

Thứ mà Vũ Khúc sợ thực sự là, có Hỏa Tinh và Linh Tinh đồng độ hoặc hội chiếu, chủ về có tranh chấp không lành mạnh, bị bóc lột, giành giật, xâm phạm lợi ích, trộm cắp. Cổ nhân nói "Vũ Khúc có Tinh, Linh Tinh đồng cung, vì tiền tài mà bị cướp ", tức là lí lẽ này. Nói "bị cướp", không nhất định là cướp bóc, mà chỉ là tranh chấp, giành giật.

Cổ nhân còn nói: "Vũ Khúc, Kinh Dương, Đà La ngại Hỏa tú, mất mạng vì tiền." Đây là nói vế tình hình có Hỏa Tinh đổng độ, và có Kinh Dương, Đà La hội chiếu. Kình Dương, Đà La chẳng phải loại sao tốt lành gì, nhưng đến mức "mất mạng vì tiền tài", chủ yếu còn là vì Hỏa Tinh đồng độ (thực ra Linh Tinh đồng độ cũng vậy).

Có các sao nào có thế điều hòa tính cứng rắn "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc không?

Trước tiên phải kể đến Văn Xương, Văn Khúc. Các sao này nếu thành đôi mà bay vào cung độ Vũ Khúc tọa thủ (đặc biệt là cung Vũ Khúc độc tọa), sẽ khiến Vũ Khúc trở nên khá nhu hòa, nhưng đồng thời cũng sẽ khiến Vũ Khúc biến thành do dự, thiếu quyết đoán.

Kế đến là Thiên Phủ. Thiên Phủ có tính "kho chứa", lại thuộc dương thổ, do đó có thể thu liễm tính cứng rắn của Vũ Khúc (giống như Gia Cát Lượng thu phục Trương Phi), đồng thời giảm thiểu tính "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc. Cho nên các cung viên lục thần, trong các tinh hệ Vũ Khúc, rất ưa "Vũ Khúc, Thiên Phù". Cổ nhân thậm chí đã nói: "Vũ Khúc, Thiên Phủ đổng cung ở Tí hay Ngọ, chủ về sống thọ", tức là lí lẽ này.

Tiếp đến nữa, có thể điều hòa tính cứng rắn và "hình khắc" của Vũ Khúc là Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc. Vũ Khúc rất ưa Vũ Khúc Hóa Lộc, kế đến là Tham Lang Hóa Lộc và Liêm Trinh Hóa Lộc, sau đó là Phá Quân Hóa Lộc. Vũ Khúc Hóa Lộc là có nhiều cơ duyên phát đạt; haị sao Tham Lang và Liêm Trinh mà Hóa Lộc thì chủ về có tiền mà chẳng hao tổn tinh thần quá nhiều; Phá Quân Hóa Lộc thì lao tâm lao lực.

Vũ Khúc quản tiền bạc, được sao lộc là "đồng khí", còn là "gặp sao lộc thì bị kềm chê, vì vậy biến đổi tính cứng rắn của nó.

Về phương diện tổ hợp tinh hệ, Vũ Khúc tổ hợp thành tinh hệ đồng độ với năm sao Thiên Phủ, Tham Lang, Thiên Tướng, Thất Sát, Phá Quân; trong đó "Vũ Khúc, Thiên Phủ" ắt sẽ đối cung với Thất Sát; Vũ Khúc, Thất Sát" ắt sẽ đối cung với Thiên Phủ; "Vũ Khúc, Thiên Tướng" ắt sẽ đối cung với Phá Quân; "Vũ Khúc, Phá Quân" ắt sẽ đối cung với Thiên Tướng; "Vũ Khúc, Tham Lang" đối cung sẽ không có chính diệu, nhưng khi Vũ Khúc độc tọa, ắt sẽ đối nhau với Tham Lang.

Do đó có thể nói, "Vũ Khúc, Thiên Phủ, Thất Sát" ở các cung Tí Ngọ, Mão, Dậu là một hệ thống; "Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Tướng" ở các cung Dần, Thân, Tị, Hợi cũng là một hệ thống; "Vũ Khúc Tham Lang" ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thành một hệ thống.

Trong ba hệ thống, hệ thống "Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Tướng" mang tính "cứng rắn, cô độc và hình khắc" nhất; bởi vì Vũ Khúc không ưa Phá Quân, gặp Phá Quân càng biến tính cứng rắn của Vũ Khúc thành "nóng nảy, quyết đoán", thường dễ vì thiếu suy nghĩ hoặc không có kế hoạch dài lâu, hay vì xung động nhất thời mà dẫn đến thất bại. Cổ nhân nói: "Vũ Khúc, Phá Quân khó quý hiển " tức là nói lí lẽ này.

Vũ Khúc ưa hội hợp với Lộc Tồn, không ưa Lộc Tồn đồng độ. Bởi vì khi Lộc Tồn đồng độ, ắt sẽ có Kình Dương, Đà La đến giáp cung. Ở cung mệnh, chủ về tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến bản thân ở cung tài bạch và cung sự nghiệp thì chủ về bị trở ngại; ở cung độ lục thân thì chủ về duyên phận mong manh.

Vũ Khúc ưa Hóa Lộc, chủ về có thể phát giàu có; cũng ưa Hóa Quyền, chủ về có tiền bạc để sử dụng, hoặc chủ về một mình phụ trách công việc; Hóa Khoa thì hơi kém, bất quá chỉ chủ về có tiếng tăm mà thôi. Hóa Kị thì "cô độc và hình khắc", túng thiếu gây trở ngại, phá tán, thất bại.

Lúc luận đoán đại hạn và lưu niên, tứ hóa của Vũ Khúc thường ảnh hưởng rất lớn đến toàn cục, nhất là Hóa Kị. Cần phải quan sát kĩ xem cung nào bị Hóa Kị đến để làm trọng điểm cho việc luận đoán.

2. Vũ Khúc biệt luận

- Tài tinh Vũ Khúc cũng có nhiều khuyết điểm

Trong Tử Vi Đẩu Số có ba chính diệu được coi là "tài tinh" (sao tiền tài), gồm: Vũ Khúc, Thiên Phủ và Thái Âm. Nhưng ba sao đều có đặc tính khác nhau. Trong ba sao tiền tài này, Vũ Khúc hơi có tính chất "cô độc và hình khắc", rất có ảnh hưởng đối với hôn nhân. Thông thường, nữ mệnh không ưa Vũ Khúc, bởi vì cổ thư nói: "Vũ Khúc là sao cô quả", do đó chủ về bất lợi đối với chồng, hình khắc hay sinh li.

Nếu nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của Vũ Khúc, thực ra có lúc tình huống chưa chắc đã nghiêm trọng như vậy. Bởi vì tính chất "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc hoàn toàn là vì tính cương nghị của nó. Trước kia phụ nữ không có sự nghiệp riêng, chỉ có thể mang tính cách cương nghị ra phát huy trong gia đình, khiến người chồng cảm thấy thiếu sự ấm áp trong gia đình. Phụ nữ thời hiện đại có thể có sự nghiệp riêng, giả dụ như có thể phát huy đặc tính của Vũ Khúc trong sự nghiệp, không ở nhà suốt ngày đối mặt với chồng, thì không đến nỗi không thể phát huy tính dịu dàng của phái nữ, sẽ khiến gia đình tràn đầy hòa khí.

Nhưng dù là vậy, tình hình vợ chồng gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều là không tránh được. Đây là nhược điểm của Vũ Khúc trong nữ mệnh.

Một đặc tính khác của Vũ Khúc là, rất sợ "Hóa Kị", chủ về tình cảm vợ chồng xảy ra sự thay đổi, hoặc chủ về tiền ra như nước chảy, thậm chí sẽ mắc nợ. Người sinh năm Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu rơi vào cung mệnh, cung điền trạch, cung phu thê, cung tài bạch, cung sự nghiệp đều có chỗ không hay. Nhưng nếu các sao phối hợp tốt, thì chỉ không thích hợp tự kinh doanh làm ăn mà thôi. Vương Đình Chi từng gặp một vị bác sĩ ngoại khoa, Vũ Khúc Hóa Kị  ở  cung sự nghiệp, nhưng vẫn giàu có.

Ngoại trừ Hóa Kị, Vũ Khúc còn kị gặp Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cổ nhân có thuyết "Vũ Khúc, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung, vì tiền mà bị cướp". Nói "vì tiền mà bị cướp", có lúc không nhất đinh là bị cướp đoạt thực sự, nhiều khi là tiền bạc tổn thất một cách vô vị mà thôi.

Cho nên nếu Vũ Khúc và Hỏa Tinh tọa mệnh, có lúc sẽ bị phá tài, phép hóa giải là giao quyền tài chính cho ngưòi phối ngẫu. Nhưng nếu cung phu thê cũng không được tốt, thế thì khá phiền phức rồi.

Vũ Khúc vốn là sao tiền tài, nhưng lại có không ít khuyết điểm, đủ thây sao tiền tài có lúc chưa chắc là chuyện tốt.

- Vũ Khúc quan hệ mật thiết với "Sát, Phá, Lang"

Vũ Khúc phối hợp với các sao khác, tổng cộng có 6 tinh huống như dưới đây. 

  1. Ở cung Tí, cung Ngọ, Vũ Khúc đồng cung với Thiên Phủ.
  2. Ở cung Sửu, cung Mùi, Vũ Khúc và Tham Lang đồng cung.
  3. Ở cung Dần, cung Thân, Vũ Khúc và Thiên Tướng đồng cung.
  4. Ở cung Mão, cung Dậu, Vũ Khúc và Thâ't Sát đồng cung.
  5. Ở cung Thìn, cung Tuất, Vũ Khúc độc tọa, nhưng đối cung là Tham Lang.
  6. Ở cung Tị, cung Hợi, Vũ Khúc và Phá Quân đồng cung.

Các tổ hợp trên cho thấy, Vũ Khúc có quan hệ rất mật thiết với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang. "Sát, Phá, Lang" không phải là tổ hợp "hiền hòa", chúng cũng gây ảnh hưởng đến tính chất của Vũ Khúc.

Nếu cung phu thê là Vũ Khúc và Thiên Phủ, cung mệnh ắt sẽ là Tham Lang; nếu phu thê là Vũ Khúc và Thiên Tướng, cung mệnh ắt sẽ là Thất Sát; điều này còn cho thấy Vũ Khúc bất kể như thế nào, đều không thoát khỏi ảnh hưởng của "Sát, Phá, Lang", còn có quan hệ mật thiết với Thất Sát và Tham Lang. Cổ nhân không thích nữ mệnh gặp Vũ Khúc ở cung mệnh hoặc cung phu thê, cũng có nguyên nhân của nó, đó là vì không ưa mối quan hệ của nó với "Sát, Phá, Lang".

Nếu chiếu theo thuyết của cổ nhân, Vũ Khúc chỉ có một tổ hợp khá tốt, đó là "Vũ Khúc gặp Tham Lang, Thất Sát và Liêm Trinh, nên đi kinh doanh làm ăn". Then chốt của tổ hợp này là Liêm Trinh, khiến cho tính chất của toàn bộ các sao thay đổi.

Vũ Khúc phối hợp các sao khác khó mà đòi tốt, vì vậy càng không nên gặp tứ sát Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dưong và Đà La. Thuyết của cổ nhân là "Vũ Khúc, Hỏa Tinh, Linh Tinh đổng cung, vì tiền mà bị cướp"; "Vũ Khúc gặp Kinh Dương, Đà La, chủ về cô độc và hình khắc"; "Vũ Khúc, Kình Dương, Đà La kiêm Hỏa Tinh, thì vì tiền mà mất mạng"; "Vũ Khúc gặp tứ sát tinh xung phá, chủ về cô độc, nghèo nàn, phá tướng, thậm chí yểu mạng".

- "Vũ Khúc, Thiên Phủ" đồng cung, phải xem sao phụ tá

Vũ Khúc thủ mệnh ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ắt sẽ đồng cung với Thiên Phủ, Thiên Phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, mà còn có tính chất "kho chứa", phối hợp với Vũ Khúc, là Vũ Khúc được làm sao tiền tài, cho nên phối hợp đặc cách.

Trong Tử Vi Đẩu Số có một nguyên tắc đặc biệt, bạn đọc không thể không biết, đó là các chủ tinh đều ưa có tá diệu ủng hộ. Chủ tinh trong Đẩu SÔ; Bắc Đẩu là Tử Vi, Trung Thiên là Thái Dương, Nam Đẩu tức là Thiên Phủ. Hiện Thiên phủ và Vũ Khúc đồng cung, đương nhiên cũng thích có tá diệu ủng hộ. Nói "tá diệu" tức là Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; Thiên Khôi, Thiên Việt.

Cổ nhân nói: "Vũ Khúc và Thiên Phủ đồng cung, gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, chủ về thi cử đỗ đạt cao"; "Vũ Khúc và Thiên Phủ đồng cung với Tả phụ, hội hợp Hữu Bật đầy tớ nhiều như mây"; "Vũ Khúc và Thiên Phủ đổng cung, được Thiên Khôi, Thiên Việt vây chiếu, tựa như là quan thuế." Các thuyết này đều rất có lí lẽ, đó là do ảnh hưởng của chủ tinh Nam Đẩu gặp tá diệu.

Cho nên nếu nhìn từ mặt tốt, "kho chứa" của Thiên Phú ắt sẽ nhờ gặp "sao tiền tài" Vũ Khúc mới khởi sắc. Nhưng giả dụ không gặp tá diệu, mà lại gặp lục sát Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, thì tính chất sẽ thay đổi rất lớn.

Thiên Phủ gặp sát tinh, gọi là "kho lộ"; Vũ Khúc gặp sát tinh, khiến tính chất "cô khắc hình kị" phát huy; do đó chủ về suy nghĩ nông cạn, tự tư, ích ki, công phu hàm dưỡng không đủ, thậm chí còn gian trá; người có tính cách như vậy, lập thân xử thế đương nhiên dễ sống cô lập.

Cổ nhân còn nói: "Vũ Khúc và Thiên Phủ đồng cung ở Tí hoặc Ngọ, có tứ sát đổng độ ắt sẽ vì tiền mà bị cướp", thuyết nàỵ cũng rất có lí lẽ, bởi vì người sống cô lập mà "kho lộ", không giữ phẩm cách, lại suy nghĩ nông cạn thiển cận, đương nhiên dễ bị cướp. Nói "bị cướp", thực ra cũng bao gốm tranh chấp trong sự nghiệp, có tính chất "bị đoạt tiền" ở bên trong.

Chỗ để phân biệt là hội hợp với sát tinh nào; gặp Kình Dương là điềm ứng bị cướp rất nặng, gặp Đà La thì chỉ bị người ta đoạt tiền trong lúc tranh chấp. 

Nhưng Hỏa Tinh thường thường lại có thể kiềm chế tính xấu của Kình Dương, do đó đã gặp Kình Dương mà còn gặp Hỏa Tinh cùng ở một cung, thif điềm ứng với tiền mà bị cướp có thể giảm đi nhiều.

- "Vũ Khúc, Tham Lang" thủ mệnh, cách cục cao hay thấp?

Vũ Khúc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, nhất định sẽ đồng cung với Tham Lang, đây là phối hợp có tính chất rất phức tạp. Cổ nhân nói: "Vũ Khúc, Tham Lang ở cung Mộ, ba mươi tuổi mới phát phúc", nếu mệnh cục kết cấu như trên, nhất định phải trải qua gian nan trước, sau trung niên mới từ từ bước vào hoàn cảnh thuận lợi.

Cổ nhân còn nói: "Vũ Khúc, Tham Lang đồng cung, chủ về nịnh nọt, gian tham." Đây là vì cổ nhân cho rằng Vũ Khúc có lối suy nghĩ nông cạn mà phối hợp với Tham Lang có tính phong hoa tuyết nguyệt, không những dễ khiến mệnh tạo thành xảo trá, mà còn dễ thành a dua nịnh nọt.

Nhưng thuyết này chỉ nhấn mạnh mặt xấu. Thực ra nếu nhìn từ mặt tốt, Tham Lang có tính chất khéo ăn khéo ở, Vũ Khúc cũng có khí cương chính. Cho nên người có "Vũ Khúc, Tham Lang" thủ mệnh, nếu được giáo dục tốt, và có hun đúc tu dưỡng phẩm đức, thì cũng rất có thể thành một người giỏi tự lập, còn cực kì lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy hơi keo kiệt, bủn xin, nhưng cũng có thể coi đó là đức tính cần kiệm, chẳng xấu tệ như cổ nhân đã nói.

Tham Lang ở Mộ Khố (tức Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), rất ưa gặp Hỏa Tinh, đây gọi là cách "Hỏa Tham"; kế đến là ưa gặp Linh Tinh, gọi là "Linh Tham cách", chủ về có quyền uy. Cho nên cổ nhân cũng nói: "Vũ Khúc, Tham Lang thủ cung mệnh, có Hỏa Tinh, Linh Tinh đổng độ, chủ về uy trấn biên cương." Tức là mệnh võ tướng, nhưng cũng khó tránh gian khổ.

Ờ xã hội hiện đại, không dễ làm võ tướng, nhưng đương nhiên cũng chủ về có quyền uy. Nếu gặp thêm Kình Dương hoặc Đà La, thì lại Tất dễ biến thành người trong hắc đạo (xã hội đen).

"Vũ Khúc, Tham Lang" thủ cung mệnh, gặp Hóa Kị, còn gặp thêm một trong tứ sát tinh, cổ nhân gọi là "người trong giới có tay nghề", chủ về tay nghề tình xảo. Vương Đình Chi nói ông đã gặp hai người thuộc cách cục này, một người làm thợ kim hoàn, một người là bác sĩ ngoại khoa, cách cục chính thì tương đổng, nhưng hậu thiên có biến hóa lớn như vậy, đủ thấy người có mệnh cách này, vấn đề tu dưỡng hậu thiên và gia cảnh xuất thân là cực kì quan trọng.

Người sinh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, mệnh bàn tương đồng, nhưng sẽ có mệnh vận và tao ngộ khác nhau. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số không chủ trương túc mệnh, chi cho rằng các sao phối hợp, có thể sản sinh một khuynh hướng nhất định mà thôi. Do đó bác sĩ ngoại khoa và thợ kim hoàn có thể có cùng một mệnh cục.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Vũ Khúc tổng luận các đặc tính và cách cục

Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Qua câu chuyện, ta thấy con người trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.
Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhờ cả một đời hành thiện, cứu giúp người khốn khó mà ba mẹ tôi, gia đình tôi đã tích được đại đức, sống cuộc sống hạnh phúc, bình an …

Tháng 11/2014, tôi trở về quê nhà, nghe chị gái kể chuyện về “con trâu trắng chuyển sinh” mà bản thân chị đích thân trải nghiệm.

Những năm đầu thập niên 50, nhà tôi ngụ ở một vùng núi ở đông bắc, ba mẹ tôi là những người thuần phác, thiện lương, sống bằng nghề làm rẫy. Quanh năm suốt tháng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, cuộc sống mỗi hộ thời bấy giờ đều rất túng quẫn. Nói một cách tương đối thì nhà tôi cũng có cuộc sống khá tốt. Những năm đó, mọi người trong thành thị đều đến nông thôn cày đất trồng trọt, mong sao có được một bữa cơm no, bụng không bị đói là tốt lắm rồi. Lúc này có một người đàn ông họ Bạch đến làng, dựng một căn nhà đơn giản ở ngay hốc núi, mỗi ngày đều khai hoang, trồng trọt. Về sau, căn nhà đã đổ sập xuống, không thể ở tiếp được nữa, ông liền đến ở nhờ nhà của con gái nuôi trong làng, chẳng được bao lâu, người con gái nuôi đó cũng đuổi ông ra khỏi nhà.

Ông cụ lúc này đã 73 tuổi rồi, không làm việc được nữa, lại không có tiền. Đến giữa trưa những người qua đường không quen biết đều bảo ông đến nhà ăn cơm rồi hãy đi tiếp, buổi tối có những người qua đường cũng bảo ông đến nhà ở tạm một đêm, hôm sau hãy đi tiếp. Mọi người trong làng đều biết ba mẹ tôi tốt bụng, luôn đối xử tốt vơi mọi người. Ông cụ liền đến nhà tôi cầu xin ba mẹ, muốn được ở nhà chúng tôi qua hết mùa đông này, sang năm sẽ nghĩ cách khác. Ba mẹ thấy ông cụ thật sự rất đáng thương, liền đồng ý với lời thỉnh cầu của ông.

Tuy ông cụ không phải họ hàng thân thích gì với nhà chúng tôi, nhưng chúng tôi sống chung với nhau cảm thấy rất vui vẻ, một nhà bảy người đều một tay ba mẹ chăm lo. Nhưng những ngày tháng tươi đẹp không được bao lâu. Ông cụ đổ bệnh, không còn đứng dậy được nữa. Ba mẹ tận sức chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của ông. Ông vô cùng cảm động, nói rằng mình đã gặp được người tốt, còn nói nếu như bệnh khỏi rồi, sang năm sẽ hồi báo mọi người, nếu như chết đi, kiếp sau nhất định sẽ trả.

Ông cụ nhờ ba tôi viết một lá thư cho em trai của ông. Ba vẫn khuyên ông cụ đừng nên suy nghĩ nhiều quá, nhất định sẽ sớm khỏi lại thôi, hết năm rồi sẽ tránh được cái rủi của tuổi 73 thôi. Từng ngày từng ngày trôi qua như vậy, không ngờ rằng vào một buổi của mùa đông năm ấy, ông cụ không còn tỉnh lại nữa, không sống qua được mùa đông này.

Một thời gian sau khi ông cụ mất, em trai của ông đã đến nhà chúng tôi để đón ông đi, nhưng không ngờ đã đến quá muộn rồi, ông ấy nói: “Anh đi sớm quá, cảm ơn gia đình các vị đã chăm sóc cho người anh của tôi, kiếp sau anh tôi sẽ chuyền sinh thành một con trâu trắng để báo đáp đại ân đại đức của mọi người, cô bé này có thể gặp được (ám chỉ chị gái tôi, chị tôi lúc đó vào khoảng 8, 9 tuổi)”. Ba mẹ tôi nghe vậy, nhưng cũng không để trong tâm.

Những năm đó chỉ có trâu đen, trâu nước, trâu vàng, chứ chẳng có ai từng nghe là có trâu trắng bao giờ. Mấy năm sau, nhà chị gái tôi có nuôi mấy con trâu, một con trâu mẹ trong đó quả thật đã đẻ ra một con trâu trắng, con trâu trắng vừa mới sinh ra, lông trên người còn chưa khô hẳn, đi đường vẫn còn chưa vững, vậy mà nó đã đứng dậy đi lên đường núi nhắm thẳng hướng con mương mà đi, dọc đường đã băng qua bảy, tám ngôi mộ đều không dừng lại, cho đến khi đứng trước ngôi mộ của ông Bạch. Khi ấy, nó không hề nhúc nhích mà đứng ở đó một hồi rất lâu. Dọc đường chị kể lại rằng chị cũng không hề ngăn nó lại, trâu mẹ cuối cùng cũng đến nơi đó. Trâu con vẫn không muốn rời đi, chị không có cách nào, đợi đến khi thằng cháu làm việc từ ngoài đồng về mới đi lên đỉnh ngôi mộ ôm chú trâu con này về nhà.

trâu con
Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả

Dần dần, con trâu trắng này cũng đã lớn lên thành một con trâu mẹ, trong tất cả bầy trâu, nó là xuất sắc nhất, vừa lớn, vừa khỏe, lại đẻ được tốt, mỗi năm đều đẻ được một chú trâu con, mà năm nào cũng đều có thể bán được giá rất cao. Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả.

Ba mẹ tôi lần lượt qua đời trong khoảng năm năm trở lại đây, khi mất đều là hưởng thọ 91 tuổi. Mọi người đều nói ba mẹ trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Hình dáng lông mày 'bắt thóp' cá tính teen

Dù lông mày để tự nhiên hay đã cắt tỉa, chúng đều nói lên phần nào tính cách, con người của chủ nhân.
Hình dáng lông mày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

long-may-1-3612-1406045502.jpg long-may-2-2386-1406045502.jpg long-may-3-3469-1406045502.jpg long-may-4-3626-1406045502.jpg
1. Cong tự nhiên 2. Ngang 3. Tạo góc nhọn 4. Cao
long-may-5-6115-1406045502.jpg long-may-6-6251-1406045502.jpg long-may-7-9976-1406045502.jpg long-may-8-4823-1406045503.jpg
5. Thấp 6. Rậm 7. Mảnh 8. Rậm, ngang

Mr.Bull

hoangtu-1405014312-1405014335-7409-3066-

Chọn hoàng tử Disney 'lộ' mẫu người bạn yêu

Nếu được chọn một chàng hoàng tử trong những bộ phim hoạt hình Disney làm người yêu, bạn sẽ chọn ai?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng lông mày 'bắt thóp' cá tính teen

Phong thủy tình yêu lý giải đàn ông trăng hoa

Phong thủy tình yêu: Phụ nữ không những khóa chặt trái tim đàn ông bằng đường dạ dày mà có thể áp dụng thuật phong thủy nhà cửa để giữ trọn trái tim chàng.
Phong thủy tình yêu lý giải đàn ông trăng hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Phong thủy hiện hữu ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi sự vật. Phụ nữ không những khóa chặt trái tim đàn ông bằng đường dạ dày mà có thể áp dụng thuật phong thủy nhà cửa để giữ trọn trái tim chàng.


Ngoài bản tính, thói trăng hoa của đàn ông ngày càng mạnh dần khi sống trong môi trường phạm phong thủy. Cụ thể như sau:

1. Nhà cửa trang trí quá rối ren, cầu kỳ

Nếu ngày nào cũng phải sống trong không gian được trang trí quá rườm rà, rối ren, cầu kì với nhiều chi tiết hỗn loạn, đèn sáng lập lòe như một vũ trường, quán bar, người đàn ông sẽ khó tránh những suy nghĩ vẩn vơ, ngoài luồng, khó mà thủy chung với nửa kia.

Cách hóa giải: Nếu đã lỡ trang trí nhà cửa như trên, bạn có thể khắc phục bằng cách bỏ bớt các chi tiết cầu kỳ, giữ lại những gì càng đơn giản càng tốt. Đồng thời, có thể đặt gương long phượng để trấn sát khí, củng cố và duy trì mối quan hệ vợ chồng.

Phong thuy tinh yeu ly giai dan ong trang hoa hinh anh
 
2. Vị trí phòng ngủ sát ngay đường đi


Phòng ngủ ở dưới tầng một hay bị bố trí sát với đường đi, đặc biệt là làn đường dành cho xe chạy. Điều này sẽ tạo cho người đàn ông cảm giác chưa hoàn thành việc gì đó, dù không muốn đi ra ngoài nhưng nhìn thấy xe cộ tấp nập, ồn ào nên trong lòng ngứa ngáy. Lúc này người vợ cũng khó mà ngăn cản nổi anh ta. Phong thủy tình yêu rất kiêng kị điều này.

Phong thuy tinh yeu ly giai dan ong trang hoa hinh anh 2
 
3. Nhà vệ sinh có 2 cửa

Các nhà vệ sinh thông thường chỉ có một cửa, nhưng cũng có trường hợp một số người thiết kế 2 cửa để thuận tiện trong việc đi lại. Đây là cách làm phản phong thủy bởi 2 cửa gây cảm giác không an toàn, thiếu sự riêng tư, trong lòng bất an, ngay cả việc đi vệ sinh cũng không an tâm chứ chưa nói tới làm những việc khác.

Ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không?
– “Ví tiền đi liền khúc ruột”, ai ai cũng có nhưng chưa chắc mọi người đã biết sử dụng đúng phong thủy để hút thêm nhiều tài nhiều lộc.
Ở trong ngôi nhà có phòng vệ sinh kiểu này, đàn ông sẽ khó kiềm chế bản thân, suốt ngày chìm đắm trong tâm lí ngờ vực, thiếu sự tin tưởng đối phương. Do đó, việc ra ngoài tìm “nguồn vui mới” là điều khó tránh.

► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm

Ngọc Điệp

Xem thêm video: Không phải ai cũng biết về vật khí phong thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tình yêu lý giải đàn ông trăng hoa

Quẻ Quan Âm: Lưu Bị Chiêu Thân

Quẻ Quan Âm thứ 53 nói về điển cố Lưu Bị chiêu thân, cưới được em gái Tôn Quyền, quẻ thuộc cung Tý, là quẻ trung bình, mọi việc nên nghe theo người tài
Quẻ Quan Âm: Lưu Bị Chiêu Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 53 được xây dựng trên điển cố: Lưu Bị Chiêu Thân – hay Lưu bị làm rể.

Đây là quẻ Trung bình, thuộc cung Tý. Quẻ nói về việc nên thuận theo lẽ thường mà làm, bản thân có hy vọng thì mới có thành công. Những việc có người tài chỉ đường dẫn lỗi thì hãy làm y như thế thì sẽ có được kết quả tốt đẹp, tự nhiên sẽ được thông lợi, trôi chảy.

Điển cố quẻ Quan Âm: Lưu Bị Chiêu Thân

Sau khi Lưu Bị mượn đất Kinh Châu, không có ý định quay về Đông Ngô. Lúc này vì Cam phu nhân vừa mắc bệnh qua đời, Tôn Quyền nghe được thông tin này, liền muốn thông qua phương thức thông hôn chính trị để cùng chống Tào. Chu Du lại vạch ra mỹ nhân kế, để cải trang thành em gái Tôn Quyền kén rể, âm mưu nhân cơ hội Lưu Bị qua sông, bắt Lưu Bị làm con tin, để chiếm lại Kinh Châu. Nhưng mưu kế này bị Gia Cát Lượng biết được, ông liền tương kế tựu kế, sai Triệu Tử Long cùng Lưu Bị qua sông, đến chùa Cam Lộ ở núi Bắc cố, Trấn Giang đón dâu, lại trao cho kế sách đựng trong túi gấm, dùng mưu dụ Kiều Quốc Lão đến, sắp xếp cho mẹ của Tôn Quyền là Ngô Quốc Thái đến lầu Đa cảnh ở chùa Cam Lộ gặp Lưu Bị. Ngô Quốc Thái thấy Lưu Bị “mặt vuông tai to, tay vượn dài quá đầu gối”, đúng là tướng mạo của bậc thiên tử, nên rất vui mừng, liền hứa gả con gái là Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị.

Như vậy, việc thông hôn giữa hai họ Tôn Lưu từ giả đã trở thành thật, cuối cùng mưu kế của Chu Du thành xôi hỏng bỏng không, không những là không thu hồi được Kinh Châu, mà ngược lại còn mất em gái của Tôn Quyền làm phu nhân cho Lưu Bị, khiến cho Đông Ngô “đã thiệt phu nhân lại mất quân”.

Năm 211, Lưu Bị đích thân dẫn đại quân theo hướng tây tiến đến ích Châu, hai vợ chồng từ đây mỗi người một nơi, vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa. Lúc này, Tôn Quyền nghe tin Lưu Bị đi về phía tây, bèn sai người đi thuyền đến đón Tôn Thượng Hương, lại muốn Tôn Thượng Hương đưa A Đẩu (con trai Lưu Bị) trở về Đông Ngô, mục đích của Tôn Quyền là muốn dùng con trai duy nhất của Lưu Bị làm con tin, để lấy lại vùng đất phía nam cho Đông Ngô. Sau đó Trương Phi, Triệu Vân đẫ “dẫn quân vượt sông, đưa Lưu Thiền về”, đến chỗ Tôn Thượng Hương cướp lại A Đẩu. Từ đó, việc thông hôn giữa hai họ Tôn Lưu đã tan vỡ.

Sau khi Tôn Thượng Hương trở về đất Ngô và ở lại đây, vừa phải chịu cuộc sống lặng lẽ cô đơn, lại phải hứng chịu áp lực tinh thần rất lớn. Trong con mắt của người Đông Ngô, bà vẫn là phu nhân của Lưu Bị, thủ lĩnh tối cao của quân địch; còn trong lòng người Thục Hán, bà là người câu kết với Đông Ngô, từng cướp A Đấu làm con tin. Vì thế, sau khi Lưu Bị xưng đế ờ Thục Hán, cũng không phong cho bà tước hiệu gì. Tuy bà đường đường là con gái của Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên, là em gái của Ngô Đại Đế Tôn quyền, là vợ của Thục Tiên Chủ Lưu Bị, nhưng vẫn chỉ là vật hy sinh cho cuộc đấu tranh chính trị đầy nghiệt ngã.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lưu Bị Chiêu Thân

Lợi và hại về phong thủy của các loại hình nhà ở (Phần 1) –

Thời xưa, nhà ở kiểu tứ hợp viện rất thường hay gặp, hình dáng của nó không phải vuông mà là hình chữ nhật, rất ít thấy có nhà hình dạng khác. Hiện nay đã khác, các nhà thiết kế kiến trúc thường đưa tiền đề không vi phạm chức năng thực dụng, theo đuổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i sự thay đổi và mỹ quan, từ đó đã thiết kế ra các loại hình dạng nhà khác nhau, ngoại trừ nhà hình chữ nhật, hình vuông ra còn có các loại nhà hình răng cửa, hình uốn khúc, hình hẹp dài, hình tam giác.

Có những nhà được thiết kế với hình dáng lập dị, kỳ quái, đối với nhà ở hình dạng không theo quy tắc, có người chấp nhận, có người lo lắng phải chịu ảnh hưởng không tốt. Dưới đây, từ góc độ phong thuỷ học chúng tôi đưa ra một số vấn đề lợi hại của hình dạng nhà để mọi người cùng thảo luận.

1299986009-huong-nha-tot-trong-phong-thuy-2

1. Nhà hình vuông – Tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng.

Nhà hình vuông là chỉ những ngôi nhà có chiều rộng và chiều dài cơ bản bằng nhau. Từ xưa đến nay, nhà ở hình vuông đường như đã trở thành một “định thức”, không ai muôn thay đối nó.Mọi người cho rằng, nhà ở vuông vắn, tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng mang khí thế ngay thẳng, không thiên không lệch phù hợp với quan niệm “trời tròn đất vuông, là loại hình dạng không thể thay thế. Nhưng hiện nay một số nhà thiết kế không đồng tình với quan điếm này, cho rằng hình dạng nhà quá vuông vắn thể hiện sự khô cứng. Nhận thức này quá thiên về mỹ quan. Trên thực tế, dù nhìn từ góc độ phong thuỷ học hay góc độ thực dụng, thì hình dạng nhà loại này không có gì có thể bắt bẻ được.

2. Nhà hình chữ nhật – Đầy đủ khí ngũ hành.

Nhà ở hình chữ nhật là chỉ kiểu nhà có kích thước dài rộng không bằng nhau, có người cho rằng tỉ lệ chiều dài và chiều rộng phải được tính toán thật tỉ mỉ, có vậy mới là hình dạng tiêu chuẩn. Nhà ở hình chữ nhật loại này hiện nay rất thường gặp, cũng giống với nhà ở hình vuông, nhà ở hình chữ nhật có ngụ ý mang lại nhiều may mắn tốt lành, không gian hình chữ nhật “hướng bát quái hoàn chính, khí ngũ hành đầy đủ”, là kiểu nhà lý tưởng nên ưu tiên chọn đầu tiên, về phương diện thiết kế nội thất, nhà ở hình chữ nhật dễ phân chia thành các không gian nhỏ hợp lý làm cho nhà có bố cục tăng phong tụ khí, mỗi thành viên trong nhà đều có thể tìm cho mình một không gian thích hợp.

3. Nhà hình hẹp dài – Âm dương không cân bằng.

Nếu là nhà ở hình chữ nhật cố nhiên là tốt, nhưng nhà ở hình hẹp dài là nhà có tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng chênh lệch nhau quá lớn. Hình hẹp dài nói ở đây là muốn nói kích thước chiều dài lớn hơn rất nhiều lần chiều rộng. Loại nhà này hiện nay không phải là ít gặp trong những kiến trúc hiện đại, nhất là các khu biệt thự, rất nhiều nhà được thiết kế thành hình hẹp dài. Nhà ở loại này dù dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây hay dài theo chiều Đồng Tây, ngắn theo chiều Nam Bắc đều biểu hiện không cân bằng âm dương.

Nói một cách tương đối thì nhà dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây tốt hơn đôi chút. Nếu như diện tích kiến trúc nhà ở vượt quá 200m2, hình nhà loại này khá dễ thiết kế, có thể phân chia không gian trong nhà tương đối tốt. Nếu diện tích nhà ở dưới 150m2, thì rất khó bảo đảm các không gian bên trong nhà đều vuông vắn, thường là có sự méo mó. Cho nên, khi chọn nhà ở phải thận trọng xem xét đến hình dạng của nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi và hại về phong thủy của các loại hình nhà ở (Phần 1) –

Luận về sao Vũ Khúc

Trong Tử Vi Đẩu Số có ba sao thuộc về tiền bạc (tài tinh) là: Vũ Khúc, Thái Âm, và Thiên Phủ cùng tác dụng nhưng tính chất lại không giống n...
Luận về sao Vũ Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử Vi Đẩu Số có ba sao thuộc về tiền bạc (tài tinh) là: Vũ Khúc, Thái Âm, và Thiên Phủ cùng tác dụng nhưng tính chất lại không giống nhau.
"Vũ Khúc qua hành động tìm tiềnThái Âm ý thức tìm tiền sắc bénThiên Phủ là năng lực lý tài"

Muốn phấn đấu kiếm tiền phải quả cảm quyết đoán
“Chư tinh vấn đáp” viết: “Vũ Khúc là người tính cương, quyết đoán, lúc mừng lúc giận, khi hiền khi tàn bạo, lúc gây phúc, lúc tạo tai ương”. Rồi viết tiếp:”Vũ Khúc quả quyết, tâm vô độc”. Nói chung hễ đã Vũ Khúc ở Mệnh không thể bao giờ là con người nhu nhược nếu vào nam mạng, không thể là con người thùy mị hiền lành nếu vào nữ mạng.
Thời xưa xã hội không chấp nhận đàn bà con gái cương trực quả quyết như kinh thi có câu: “Nam tử cương cường, nữ tử nhu” trừ trường hợp người đàn bà ấy phải đứng mũi chịu sào nắm quyền sinh sống của gia đình, hoặc đoạt quyền chồng. Đứng mũi chịu sào tất là quả phụ phải ly khắc, đoạt quyền chồng thì cô đơn.
Cổ nhân đặt tên sao Vũ Khúc là quả tú (Vũ Khúc chi tinh vi quả tú)
"Vũ Khúc vi quả tú tinhGái kia gặp phải cướp tranh quyền chồng"
Vũ Khúc âm kim hóa khi là “tài” còn có tên khác “tướng tinh” và thuộc bắc đẩu hệ. Âm kim nội liễm (ẩn vào trong) nên tịch mịch, cô đơn. Vũ Khúc tính quật cường, cố chấp, thường tự biến thành một địch thủ không dễ chấp nhận thua cuộc hay chịu thất bại, sức tranh đấu bền bỉ dai dẳng. Người Vũ Khúc thủ Mệnh tiếng nói sắc nhọn, rõ ràng. Thời xưa cầm gươm đao trước trận tiền, làm đồ tể, đúc tiền đều thuộc cái nghề của Vũ Khúc cả. Cho nên cổ nhân luận sao Vũ Khúc mới nói: “Vũ Khúc miếu địa với Xương Khúc đi chung thì xuất tướng nhập tướng, vào võ nghiệp thắng lợi, đóng hãm địa là con người nghề nghiệp khéo, giỏi”.
Ngày nay mấy chữ “sảo nghệ chi nhân” khả dĩ suy diễn rộng rãi hơn như làm thợ máy, thợ kim hoàn…Đắc địa không phải cứ xuất tướng nhập tướng mà là tay cự phách trong ngành tài chính kim dung cũng vậy.
Thế đứng của Vũ Khúc gồm có:
"Nếu ở Thìn Tuất thì đơn thủỞ Tỵ Hợi cùng Phá QuânỞ Sửu Mùi cùng Tham LangỞ Mão Dậu cùng Thất SátỞ Dần Thân cùng Thiên TướngỞ Tí Ngọ cùng Thiên Phủ"
Nói đến cách Tham Vũ, ở Sửu Mùi Tham Vũ đồng hành, ở Thìn Tuất Tham Vũ thủ chiếu. Vũ Khúc ở Thìn Tuất độc tọa gặp thêm Hỏa Tinh hay Linh Tinh là cách bạo phát. Cách này nên buôn bán kinh doanh, Nếu biết tiến thoái không thất thời thì không bị bạo hại.
Cách Vũ Khúc thủ Mệnh tại Thìn hay Tuất cần phụ tinh Hóa Quyền hơn Hóa Lộc, cần Linh Hỏa hơn Lộc Tồn. Vũ Khúc Hỏa Linh tự nó đã có thể tạo dựng bạo phát. Tại sao cần Hóa Quyền? Vũ Khúc vốn là tài tinh, gặp được Hóa Quyền thì vừa có tiền vừa có thế mới phát mạnh.
Đến như Vũ Khúc, Tham Lang đóng cung Sửu Mùi cũng là cách bạo phát. Chỉ khác một điểm, không phát sớm trước tuổi 32, lúc trẻ bôn ba lận đận. Vũ Tham đồng hành bất phát thiếu niên. Cổ nhân còn gọi cách Vũ Tham đồng hành bằng bốn chữ “Y cẩm hoàn lương” (áo gấm về làng) nghĩa là đã từng có thời gian lưu lạc giang hồ lúc còn trẻ tuổi, sau thành công về thăm quê cũ. Vũ Tham đóng cùng, dù sinh từ gia đình phú quí cũng không được hưởng phúc lộc mẹ cha dễ trở nên thân phận quốc biến giao vong.
Vũ Khúc ở Tỵ hay Hợi có Phá Quân kèm bên, cực thông tuệ bất kể trai hay gái, cái thông tuệ thăng trầm không biểu diễn được nhưng quyết liệt không nhượng bộ hay lui bước. Nếu có mềm dẻo chỉ để đạt được mưu tính nào đó.
Vũ Phá đồng cung gặp Kình Đà, Linh Hỏa học nghệ cho tinh sẽ gây tiếng tăm qua nghề nghiệp. Vào kinh doanh thương mại kém hay, cũng đứng ngồi vào cái ghế văn chức suốt đời lụi đụi thôi.
Vũ Phá đồng cung gặp Xương Khúc như con dao phay trên lãnh vực nào thấy đều đắc lực, thêm Khoa Quyền Lộc càng tốt hơn
Một điều cần chú ý:”Vũ Khúc Phá Quân đóng ở Tài Bạch không mấy tốt vì tiền tài khó tụ bền. Căn cứ vào câu phú:”Vũ Khúc Phá Quân đồng ư Tài Bạch, tài đáo thủ nhi thành công” (Vũ Khúc Phá Quân ở Tài Bạch tiền vào tay rồi lại hết)
"Vũ Khúc Văn Khúc rất hayHội Khoa Quyền Lộc là tay anh hùng"
Vũ Khúc hội Kình Dương không nên gặp luôn cả sao Kiếp Sát. Vì phú có câu: Vũ Khúc Kiếp Sát hội Kình Dương nhân tài trì đao (Vũ Khúc hội Kình Dương lại cả sao Kiếp Sát nữa, nam mệnh dễ đi vào con đường cướp trộm). Nhân tài trì dao nghĩa là vì tiền mà cầm dao. Vũ Khúc Kiếp Sát kiêm Dương Đà Hỏa tú tang mệnh nhân tài (Vũ Khúc Kiếp Sát gặp Kình Đà, Hỏa tinh có thể mất mạng vì tiền (bị cướp)). Hỏa Linh phải đồng cung với Vũ Sát mới kể.
Vũ Khúc thủ Mệnh đứng bên Thiên Phủ là một cách kết cấu khác hẳn. Vũ Khúc là tài tinh, Thiên Phủ là tài tinh. Vũ Khúc phải phấn đấu để có tiền, Thiên Phủ vận dụng năng lực để quản thủ tiền. Nếu được các sao tốt phù trì cách này là cách làm giàu, buôn bán kinh doanh rất hợp.
Phú Tử Vi viết:”Thiên Phủ Vũ Khúc đóng Tài Bạch, Điền Trạch lại thêm Quyền Lộc hẳn sẽ thành phú ông”. Phù trì là Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu, nhưng trường hợp gặp Lộc Tồn lại thành trọc phú, tham lam biển lận và keo kiệt.
Cách Vũ Khúc Thiên Phủ hội Thiên Khôi Thiên Việt thì nên học ngành tài chính làm công chức thuế vụ, làm ngân hàng, không thể tự mình đứng ra kinh thương. Về câu phú: Vũ Khúc Thất Sát ư Mão địa, mộc yểm lôi kinh chỉ vào cách Vũ Khúc Thất Sát ở Mão, mộc yểm lôi kinh ý chỉ tai nạn. Ở Mão hay xảy ra bị thương nơi đầu vì tường đổ, cây gẫy, sét đánh. Ở Dậu hay xảy ra té ngã, xe cộ và thú vật cắn. Vũ Khúc Thất Sát Mão hay Dậu mà thấy Thiên Hình Song Hao hay Sát Kị cũng là số bị cướp trộm, kể cả luôn vào vận hạn.
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư đưa ra câu: Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà là thế nào? Theo nghĩa thì Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, gặp Vũ ở vận hạn chết sông nước hoặc tự trầm hoặc tai nạn. Nói đầu hà (đâm đầu xuống sông) thì hơi quá, bất quá chỉ là những chuyện hung hiểm trên mọi hình thức do Văn Xương Đà La gây nên.
Về cách Vũ Sát, phú nôm của Tử Vi Khoa có câu:
"Vũ Quyền Thất Sát ở cùngThai Tọa Khôi Việt ba phương chiếu vềẤy là phát võ uy nghi"
Luận sang cách Vũ Khúc Thiên Tướng.Thân với Dần là hai nơi Thiên Mã trú đóng. Vũ Khúc Thiên Tướng ham hoạt động ít chịu nhàn tản, nhiều sáng tạo lực rất sung sức để san bằng khó khăn. Xa quê hương bản quán dễ phát triển với đầu óc kinh doanh tài giỏi.
"Vũ Tướng Lộc Mã giao trì phát tài ư viễn quận":
Vũ Tướng Lộc Mã an bàiBuôn xa hoạch phát mấy người dám đương
Vũ Khúc Thiên Tướng lại thường lận đận công danh khó mà theo đuổi chức cao bổng hậu. Phải tránh không gặp Tuần Triệt thì Thiên Tướng với Thiên Mã mới không bị bẻ gãy khả năng phấn đấu.
Vũ Khúc không hợp với Hóa Kị. Hai sao này đi đôi trên tính tình khó chịu không hòa đồng được với người chung quanh. Vũ Khúc Hóa Kị vào Mệnh cung gây ra những căn bệnh kéo dài khó khỏi.
Theo quan niệm cổ nhân sao Vũ Khúc trên căn bản không tốt cho nữ mệnh thường khắc phu và ưa đoạt quyền chồng. Vũ Khúc Hóa Kị lại còn Hỏa Tinh nữa thì khắc sát tới mấy lần.
Còn những câu phú khác về Vũ Khúc:
- Thân cư Vũ Khúc, hắc tử trung tang(Vũ Khúc đóng Thân trong mình có nhiều nốt ruồi. Câu này không lấy gì làm đúng lắm)
- Vũ Xương Tỵ Hợi đinh - Lục Giáp súy biên đình(Vũ Khúc đóng Tỵ hay Hợi mà gặp Văn Xương, người tuổi Giáp phát về nghiệp võ. Vì Vũ Khúc đóng cùng với Phá Quân ở hai cung trên, tuổi Giáp hội tụ được Khoa Quyền Lộc lại có nhị hợp Lộc Tồn nếu đóng Hợi)
- Vũ Tham Thìn Tuất, Mậu Canh dương nữ vô hạnh hữu tài; Kiếp Không hung kiến phùng Hà, Nhẫn vận lâm mệnh vị nan toàn(Vũ Tham thủ Mệnh đóng hai cung Thìn Tuất, số gái tuổi Canh Mậu tài giỏi mà vô hạnh, vận trình gặp hạn Không Kiếp đi cùng với Lưu Hà, Kình Dương tính mạng nguy)
- Vũ Khúc, Tham Lang, Hóa Kị kỹ nghệ chi nhân(Vũ Tham mà gặp Hóa Kị ở Mệnh vào nghề xuất sắc như một kỹ sư giỏi, thợ khéo)
- Vũ Phá Tỵ Hợi đãng tử vô lương(Vũ Phá đóng Tỵ Hợi ích kỉ và lắm thủ đoạn, không thích sống với khuôn thể nền nếp)
- Vũ Khúc lâm Cô Thần Hàn Nguyên tần tần khử quỉ(Vũ Khúc gặp Cô Thần như Hàn Nguyên xưa giỏi về đạo pháp trừ ma quỉ)
- Vũ Khúc Khôi Việt miếu vượng, tài chức chi quan(Vũ Khúc miếu vượng gặp Thiên Khôi, Thiên Việt giỏi về công việc tài chánh)
- Sao Vũ Tướng ở đầu cung ấyNghề bách công ai thấy cũng dùng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Vũ Khúc

Chùa Sủi - Gia Lâm - Hà Nội

Chùa Sủi có tên gọi khác là Đại Dương Sùng Phúc tự. Làng Phú Thị trước kia có tên là “làng Sủi” nên chùa được nhân dân nơi đây thường gọi là chùa Sủi
Chùa Sủi - Gia Lâm - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Sủi có tên gọi khác là Đại Dương Sùng Phúc tự. Làng Phú Thị trước kia có tên là “làng Sủi” nên chùa được nhân dân nơi đây thường gọi là chùa Sủi. Thời Lý – Trần, các vua thường qua đây ngủ đêm để ngóng mộng, chờ thông điệp của thánh thần. Hiện tại ở chùa còn 1 chiếc khánh đá hơn nghìn năm tuổi. Chùa vừa được trùng tu lại năm 2006, nằm trong cụm đình – chùa – đền (thờ Ỷ Lan nguyên phi) tọa lạc tại làng Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Chùa Sủi được xây dựng từ rất sớm (không rõ cụ thể năm nào). Năm 1066, Nguyên phi Ỷ Lan về đây cầu tự sinh thái tử Càn Đức, rồi cho xây dựng lại và hoàn thành vào năm 1115.

Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thông xuống phía Nam, phía sau có hình chim Huyền vũ, có thôn gồm muôn nhà trấn bên ngoài, bên trái có hình rồng xanh trùng trùng hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới. Chùa xây theo kiểu chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung và hai dãy hành lang (mỗi bên 7 gian), đầu hai hành lang giáp với tiền đường là 2 lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.

Chùa có số lượng tượng lớn và có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn. Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18.

Khánh đá lớn có từ năm Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía Tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) thời Tây Sơn.

Từ 1992 đến 2005, Đại đức Thích Thanh Phương – trụ trì chùa đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức đại trùng tu toàn bộ ngôi chùa và đền gồm: Đại điện, Tổ đường, Niệm Phật Đường và các công trình khác theo lối kiến trúc cổ truyền, hiện chùa còn lưu giữ một số cổ vật như; cổ chuông, khánh, ván, kinh. . . Chùa Sủi được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật ngày 21 tháng 1 năm 1989.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Sủi - Gia Lâm - Hà Nội

Sự thật xung quanh việc mơ thấy ngôi nhà

Căn nhà là nơi lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất của gia đình mỗi người. Mơ thấy nhà thường là điềm lành, báo hiệu những tin tốt đẹp mà có thể bạn sẽ được đón
Sự thật xung quanh việc mơ thấy ngôi nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  nhận.


► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Ngoi nha
Ảnh minh họa
Mơ thấy một căn nhà cũ thường là điềm báo có sự hội ngộ với người thân xa cách lâu ngày. Mơ thấy một căn nhà mới là điềm báo tài chính vững vàng, cuộc sống ổn định.   Mơ thấy mình đang mua hay bán một căn nhà thường là điềm tốt lành. Điều này cho biết rằng bạn sẽ có một mối tình, tuy ngắn ngủi nhưng rất đậm đà thắm thiết. Giấc mơ này còn cho biết bạn sắp thoát khỏi một nhiệm vụ hay trách nhiệm nào đó.   Trong giấc mơ thấy một căn nhà đang bị phá hủy hay căn nhà này đang bỏ trống là điềm báo có thể bạn đang luyến tiếc về một mối quan hệ bị đổ vỡ, tình duyên đã lỡ làng hoặc một việc nào đó mới xảy ra trong cuộc sống của bạn.   Mơ thấy dọn về nhà mới, hoặc mơ thấy nhà đất được thay đổi, thường là điềm may mắn. Mơ thấy vợ chồng nắm tay nhau vào nhà, thường là điềm vợ có thai.   Mơ thấy mình chuyển nhà ở là điềm báo bạn sắp được thăng chức, hoặc có bệnh sẽ mau khỏi.   Mơ thấy bạn tự xây nhà mới là điềm tốt lành có thể bạn sắp thu  được một khoản tiền lớn. Giấc mơ này cũng có thể là điềm  báo sự nghiệp thành công, hoặc buôn bán gặp nhiều thuận lợi.   Mơ thấy mình cất nhà gần đình, chùa, nhà thờ... thường là điềm được che chở.

Theo Giải mã giấc mơ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật xung quanh việc mơ thấy ngôi nhà

Xem cách bài trì bàn thờ Thần Tài và đặt hướng đúng rước lộc vào nhà

Đầu năm đón tài lộc nhờ cách bài trí bàn thờ Thần Tài, cách đặt và hướng bàn thờ đúng theo phong tục cổ truyền sẽ mang lại may mắn và tài lộc trong năm
Xem cách bài trì bàn thờ Thần Tài và đặt hướng đúng rước lộc vào nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tín ngưỡng dân gian, thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là những gia đình buôn bán, kinh doanh đều có bàn thờ thần tài, để cầu xin thần tài cho mua may bán đắt, đem lại nhiều tiền bạc sung túc.

Người đời quý trọng tiền bạc nên tôn sùng thần tài. Những nhà kinh doanh đều lập bàn thờ thần tài, đặc biệt, bàn thờ thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên nền nhà.

Nguyên tắc đặt bàn thờ thần tài là phải ỏ vị trí phải quan sát hết được hết sự vào ra của khách. Bàn thờ thần tài quan trọng phải tiếp âm, ở dưới đất, bàn thờ thần tài phải được đặt ỏ tầng một. Nhưng dù đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ cũng phải quang đãng, sạch sẽ. Thường nên để sẵn một lọ nước hoa, vào ngày mùng một hay rằm hàng tháng thì lại xức vào bàn thờ cho thơm.

Hướng bàn thờ thần tài

Về hướng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc người ở mệnh nào thì hợp trạch mệnh đó, đặt theo hướng tốt của chủ nhà, có thể đặt theo cách hướng lấy dòng khí bên ngoài khi vào nhà. Bạn có thể dùng phương pháp điểm Thần sát để tính, chọn lấy các cung Thiên lộc, Quý nhân để đặt vị trí bàn thờ.

Thiên lộc: Lộc là phương Lâm quan của Tuế can, tính của Ngũ hành, Lâm quan tới cát. Lâm quan là thời đang lên, là đúng sinh thành, ỏ tại lộc mà chưa tới vượng, bỏi đã ở vượng thì thành thái quá, có thể chuyển thành hung bại.

Lộc là cách có Lộc ra chính môn. Nhà có cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, điền trang vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng, kinh doanh giỏi, làm ăn phát đạt. Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa sinh vượng lộc, tránh không vong tử, tuyệt. Nếu mộ, không vong, tử, tuyệt thì khí tán, không tụ, là vô dụng. Có lộc cũng như không.

Tài sản dù có như nước, rồi cũng tiêu tan hết, gọi là lộc tuyệt. Nếu gặp Thai khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch. Trong gia đình hay sinh cãi vã, mất đoàn kết, gia đạo chẳng yên. Lộc cung là cát cung, vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra, còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thò, giường ngủ. Tất cả được Lộc đều tốt. Tuy nhiên Lộc phải ỏ đúng cung tài, là “lộc cư lộc”, mới thật là đắc cách, mới thật sự là đại cát.

Quý Nhân là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà cổ thể trấn được phi phù.

Nhà có chính môn ra Quý là cát khánh, gia đạo bình an, hòa thuận, hỷ khí đầy nhà, luôn gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ, là thần giải tai ách, nên nhà ra Quý nhân là gặp vỉệc có người giúp đỡ, gặp ách có người giải cứu, gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh, công danh thành đạt, dễ thăng quan, tiến chức, học hành thi cử đều tốt đẹp.

Quý nhân gặp sinh, vượng, thường sinh người hiếu lễ, khôi ngô, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hòa, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ không vong, tử, tuyệt thì nguồn phúc giảm đỉ nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cững khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cậo, thị phi. Lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà suốt đời vất vả, không nên người. Quý nhân ra thai khí, nam, nữ tuy thông minh, tuấn tú, nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thì dâm đãng, gia đạo chẳng yên, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà xảy ra nhiều điều không như ý.

Quý nhân là cát khí rất tôn quý, nên ra vào cung nào cũng Tất tốt, ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giưòng ngủ đều tốt. Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung Quý nhân là đại cát khánh, như vậy sẽ được âm linh phù trợ. Không được để phòng tắm, nhà vệ sinh vào cung Quý nhân, vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên, nữ nhân cộ thể bị thiếu máu, động thai, sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm, cuốỉ cùng phải tự vẫn. Tài sân tiêu tan, yêu ma hoành hành, gia đình có ngưòi bị cướp bóc, chém giết thảm khốc, bệnh tật đau khổ triền miên. Nếu đặt phòng vệ sinh vào cung Quý nhân thì hung hiểm.

Sơ đồ bài trí bàn thờ Thần Tài, bao gồm tượng Thần Tài, bài vị, tượng thần Thổ Địa, lọ đựng hương thắp, bát hương đặt chính giữa, lọ cắm hoa, địa gạo muối, nước và rượu, ngoài ra có ông Cóc ngậm tiền quay mặt vào trong nhà nữa:

THẦN TÀI

 

BÀI VỊ

 

THẦN THỔ ĐỊA

     

LỌ ĐỰNG HƯƠNG THẮP

 

BÁT HƯƠNG

 

LỌ CẮM HOA

     

ĐĨA ĐỰNG GẠO MUỐI, NƯỚC, RƯỢU

 

CÓC BA CHÂN

 

ĐĨA ĐỰNG ĐỒ CÚNG KHÁC

Lọ đựng hương thắp và lọ cắm hoa: Lọ để hương thắp và lọ cắm hoa thường làm bằng sứ, nhưng có gia đình làm bằng chất liệu đá xanh. Hoa dùng để thờ nên dùng hoa tươi, không nên dùng hoa khô. Trong lọ hương thắp, có thể cắm các cành lộc đi lễ chùa, đền.

Bát hương: Bát hương thường làm bằng ba chất liệu cơ bản, bằng sứ, kim loại, đá (ngọc). Khi bôc bát hương, phụ nữ phải sạch sẽ, không bị kinh nguyệt, nam giới không được uống rượu, ăn thịt chó, quan hệ với người khác giới, nếu không sẽ mất đi sự linh nghiệm nhất định. Cốt bát hương gồm có giấy bát hương ghi rõ địa chỉ, thần tài, bọc lấy phần cốt bên trong gồm vàng bạc, vụn đá đỏ. Tro phủ lên trên cốt phải được giữ sạch sẽ không được ẩm mốc, đế ở nơi khô thoáng. Sau khi bốc xong nên nhờ các bậc đức minh sư khai quang hoặc mang lên chùa để trên ban đức ông khoảng 1 tuần thì mới mang về nhà. Không được dùíig khăn ướt để lau bàn thờ, vì bàn thờ mệnh Hỏa, mà Thủy khắc Hỏa, không tốt.

Đĩa đựng ba chén gạo muối, nước rượu: Dùng để mới khi thắp hương khấn vái thần tài. Khi cúng xong hương đã tàn có thể dùng muối gạo vãi ra tứ phía có nghĩa phân phát cho chúng sinh, còn nước đổ đi, rượu có I thể tưới lên tiền vàng đã hóa xong. Chú ý không được đổ nước lên vàng mã đã hóa. Có nơi dùng ba lọ đựng gạo, muôi, nước chỉ đổ đi khi làm lễ tất niên, thức cúng thì thay bằng 5 chén đựng nước (rượu) tượng trưng cho Ngũ hành.

Đĩa đựng đồ cúng khác: Yêu cầu chuyên dụng làm đồ cúng, không vì tiện dụng nhất thời mà đem ra sử dụng trong khi ăn cơm, sau lại rửa sạch để làm đồ cúng. Điều đó khiến cho thức ăn cúng không còn trai tịnh. Không nên giết mổ các loài động vật vào mùng 1 và ngày rằm, nếu bất khả kháng thì ra chợ mua đồ đã mổ sẵn. Có thể dùng 5 hoặc 7 loại quả để thay thế. Hoa quả mua về phải rửa sạch, để khô nước mới bày lên bàn thờ.

Cóc ba chân: Theo truyền thuyết Trung Quốc, cóc ba chân còn có tên gọi là Thiềm Thừ, vốn là một con yêu tinh được tiên ông Lưu Hải thu phục. Sau đó, nó theo tiên ông tu hành không làm hại người, học được phép thuật hành thiện, thường nhả tiền giúp đỡ mọi người trong nhân gian. Vì vậy nó được mọi người tôn sùng, coi là một con vật phong thủy về tài lộc, cát tường.

Cóc ban chân ngậm đồng tiền cổ (tốt nhất là loại Càn Long thông bảo, hoặc ít nhất đồng tiền đó đã xuất hiện trên 100 năm) đang quay đầu vào nhà, khi nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy trên đầu con cóc có hình lưõng nghi, tức là hình tròn, bên trong vòng tròn có hình tượng như hai con cá quay đầu lại với nhau, giống như hình ở trung tâm của gương Bát quái.

Trên lưng cóc có những nốt sần đặc biệt, người ta gọi là chòm sao Đại hùng, bên cạnh lưng cóc có mang theo hai xâu tiền cổ và 3 chân cóc đạp lên hai lớp tiền cổ, chỉ có 3 chân, chứ không phải là 4 chân như cóc bình thường, chân thứ ba của nó mọc từ hậu môn.

Cóc ba chân được làm từ rất nhiều chất liệu như đồng, đá, bằng ngọc. Bằng đá, ngọc là tốt nhất vì các chất liệu này thuộc hành Thổ mà ở Bát vận thì Thổ vượng tướng.

Cóc ba chân chỉ có thể đặt ở bàn thò thần tài, không nên đặt trong phòng tắm, phòng vệ sinh, điều đó dẫn đến hệ quả cóc hấp thụ khí xấu trở thành hung vật có hại đến phong thủy.

Cách sử dụng cóc ba chân theo thời gian. Buổi sáng trưóc giờ đi làm bạn có thể quay đầu cóc ra ngoài, sau giờ đi làm về nhà bạn quay đầu cóc vào trong bàn thờ vì nó chỉ ăn tiền nhưng không bài tiết. Tốì về đến nhá là nhả tiền đã nuốt ra cho thân chủ.

Những điều nên và không nên ở phương tài vị

– Phương tài vị tối kỵ nước. Vì nơi đây là cát thần tọa vị, nay ta đem nước đến là “cát thần lạc thủy”, tốt lại thành xấu.

– Phương tài vị nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng dương, thích hợp với dương khí. Sinh khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đốì không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn.

– Phương tài vị phía sau nên có tường che chắn, không thê trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục tàng phong tụ khí, tài vận mới tụ được.

– Phương tài vị tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ… sẽ làm tổn hại tài khí nơi đó.

– Phương tài vị nên bày cây xanh là tốt, phải nhố là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi, tốt nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn, không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên chọn các loại cây lá to, dày, lá xanh mãi như cây Vạn niên thanh.

– Phương tài vị tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tôn hại đến tài vận.

– Phương tài vị tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của tài vị hay nói cách khác lạ được thấm nhuần nguồn tài khí nơi đó, sẽ giúp ích cho tài vận người trong nhà.

– Phương tài vị không nên để tối tăm, vì u tối thì sinh khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưởng đến tài vận.

– Phương tài vị là nơi cát thần tọa vị nên kỵ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bặm nơi đây

– Phương tài vị nên đặt vật hay biểu tượng cát tường. Bởi phương này là nơi vượng khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm một biểu tượng cát khánh thì tốt càng thêm tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem cách bài trì bàn thờ Thần Tài và đặt hướng đúng rước lộc vào nhà

Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Quan lại, những người giàu có ngày xưa thường sở hữu khối tài sản khổng lồ, một kho báu giá trị vô cùng lớn. Để bảo vệ của cải khỏi sự nhòm ngó của những tay
Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trộm và tai mắt người xung quanh, họ thường chọn một nơi kín đáo để giấu chúng. Họ chọn một mảnh đất tốt, chôn của cùng với một “trinh nữ” làm thần giữ cửa với mong muốn kho báu đó bất khả xâm phạm. 


Với những quy tắc tâm linh kì dị cùng giá trị tại sản cực lớn chôn theo nên những người làm lễ đặc biệt cẩn trọng trong khâu lựa chọn thần giữ cửa và quá trình chuẩn bị cho buổi lễ. Gia chủ mời một thầy phù thủy cao tay, am tường thiên văn, địa lý, lịch pháp, kinh dịch, thậm chí phải giỏi cả nghề thuốc để chủ trì buổi lễ. Đặc biệt, đây phải là người mà gia chủ tuyệt đối tin tưởng giao phó cho bí mật lớn này. Theo sự chỉ dẫn của thầy phù thủy, gia chủ tìm một mảnh đất tốt, hợp tuổi, nhiều linh khí và phải có vận chuẩn. Kế đến là chọn một cô gái còn trinh làm vật tế, chôn theo cùng để làm thần giữ của.
 
Buỗi lễ chôn của thường diễn ra ban đêm, lấy bóng trăng làm dấu đưa đường vừa tránh tai mắt người đời, vừa thuận lợi cho con cháu đời sau đến lấy kho báu ông cha. Bởi giấu của vào thời điểm nào trong năm thì khi lấy cũng phải đúng thời điểm đó. Chôn ngày 14 thì phải lấy ngày 14, lệch đi một ngày, một giờ thì bóng cây, bóng núi đã dịch chuyển sang địa điểm khác.
 
Của chôn đi phải có thần canh giữ để bảo vệ, nên sau đó tiến hành xây hầm mộ cho thần. Của và thần không nhất thiết phải nằm cùng một chỗ, chỉ cần của nằm trong phạm vi ảnh hưởng của thần là được. “Đất có thổ công, sông có hà bá”, khi động thổ thì biện lễ xin phép thổ công, để thần chứng cho mà đồng ý, không thì xây không thành. Cách thức xây dựng hầm mộ phụ thuộc vào nguồn gốc, truyền thống cũng như trình độ của thầy phù thủy. Nhưng mục đích chung vẫn chỉ có một là ngăn chặn những kẻ bên ngoài hóa giải lời nguyền.
 
Những cô gái được chọn làm thần giữ của rất trẻ, từ 13 đến 18 tuổi, có khi chỉ 9, 10 tuổi; đều còn trinh trắng để đảm bảo sự tinh khiết của thần. Những người giàu có thường mua các cô từ khi còn nhỏ rồi nuôi đến lớn hoặc giả cưới những cô gái nghèo khó về làm vợ lẽ, nhưng thực chất là để làm thần giữ của. Cô gái càng xinh đẹp càng tốt, bởi theo quan niệm, càng đẹp thì chết oan càng ấm ức, bùa càng linh nghiệm. Cô gái được chọn được chăm sóc đặc biệt ở một nơi riêng, tuyệt đối không tiếp xúc với đàn ông. Trước khi đưa đi làm lễ, họ được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, ăn đồ chay tịnh.   Đến ngày đã chọn, để tránh cô gái chống cự, họ cho uống một loại thuốc gây tê khiến dù vẫn tỉnh táo nhưng không cử động, nói năng được. Cô gái bất động được đưa lên kiệu, khiêng đến căn hầm đã xây dựng sẵn. Lễ bắt đầu, người ta đặt cô nằm trong quan tài, miệng ngậm sâm, phù thủy làm phép để cô sống được đúng 100 ngày mà không cần ăn uống. 
 
Cô gái trẻ trung, xinh đẹp phải sống mòn mỏi trong cảnh chờ chết, rất oan ức, tuyệt vọng, hận thù nên khi chết thành thần giữ của. Chỉ những ai biết thần chú, được thần giữ của cho phép mới được vào. Bất kỳ ai cố tình xâm phạm đều mất mạng hoặc tâm thần điên loạn. Nếu vì lý do gì mà lấy được của cải trong kho thì thần cũng sẽ đeo bám, hành hạ đến khi trả lại thì thôi.

Ky bi phep dung trinh nu lam than giu cua hinh anh
Những cô gái trinh trắng chết oan trở thành thần canh giữ kho báu

Ở Việt Nam có nhiều câu chuyện ly kì mà người ta thường truyền tai nhau về những kho báu có thần giữ của là gái trinh. Nhiều người dân xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội kể dưới chân ngôi miếu nằm trên bốn tảng đá trắng ở đỉnh núi Bạch Tuyết có đến hàng tấn vàng bạc châu báu được chứa đầy trong một cái hầm đá rộng bằng gian nhà. Kho báu đó do người Tàu để lại từ hàng ngàn năm trước, nhưng không ai có thể đột nhập để lấy đi bất cứ cái gì vì nó đã được yểm bùa bằng “linh hồn trinh nữ” 13 tuổi và một con rùa ngay cửa hầm. Có người bạo gan hám của, thuê thợ thuyền đào bới, truy tìm, lúc đào thấy một con rùa đang nằm với hàng tấn vàng bạc chói lóa, sáng lòa dưới hố nhưng mang lên chỉ toàn bùn đen đất đỏ. Từ đó, gia đình mấy anh thợ khoán vì cách này hay cách khác đều suy kiệt, đau ốm liên miên. Cũng có người kể lại từng thấy trăn rắn, gà vàng, cóc bạc chui ra từ kẽ đá dưới chân ngôi miếu vào những hôm trời nổi gió, mưa dông.
 
Hay như quá trình tháo dỡ ngôi nhà cổ gần 100 tuổi của cụ Nghị Dong ở làng Si, thị trấn Nam Sách, tỉnh Hải Dương để xây dựng công trình của huyện cũng gặp nhiều chuyện kì quái. Vị cán bộ huyện kí quyết định tháo dỡ ngôi nhà chết bất đắc kì tử, máy xúc thi công chết máy rồi gãy răng ở gầu xúc dù nền đất rất mềm. Khi nhồi cọc bê tông, công nhân phát hiện ra 3 cái chum đựng xác người, máy xúc vào đào nhưng gầu xúc cứ chạm đất là khựng lại. Chủ công trình mời thầy cúng về làm lễ thì thầy cho hay, dưới mảnh đất này có 8 cái chum đựng 8 xác trinh nữ theo trận đồ bát quái để “yểm” long mạch. Vì động vào đất của thần nên thần “vật”, gây cản trở. 
 
Những câu chuyện trên truyền đi khiến người ta tin rằng việc dùng trinh nữ làm bùa chú là có thật và linh thật. Nhưng đó mãi chỉ là những câu chuyện đồn thổi, kể cho nhau nghe, còn thực hư thế nào thì chẳng có ai dám khẳng định. Những điều mà người ta cho là “mắt thấy tai nghe” cũng chỉ qua lời kể của đôi ba người, không rõ đúng sai. Vì thế, dùng trinh nữ làm thần giữ của dẫu có cũng là chuyện của những thế kỉ trước, khi còn mê tín lạc hậu, giờ kể cho nhau nghe như câu chuyện tâm linh rùng rợn mà thôi.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Tùng phương vị đàm hỏa tai vấn đề (Dựa phương vị luận vấn đề hỏa hoạn)

Một bài dịch hay của dịch giả VDTT. Bài dịch về phương pháp luận hỏa tai của tác giả Tử Vân.
Tùng phương vị đàm hỏa tai vấn đề (Dựa phương vị luận vấn đề hỏa hoạn)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tùng phương vị đàm hỏa tai vấn đề (Dựa phương vị luận vấn đề hỏa hoạn)

Trang 282-295, Đẩu số luận điền trạch, nxb Thời Báo, Đài Bắc, Đài Loan, 1993

Nguyên tác: Tử Vân

Phỏng dịch: VDTT

Chú thích khởi đầu của dịch giả: Vì trọng tâm của bài này là hai sao Hỏa Linh độc giả cần nắm vững cách an Hỏa Linh thông dụng ở Đài Loan. Bắt đầu bằng bài thiệu “Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương, Thân Tí Thìn nhân Dần Tuất trường, Tị Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị, Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất đương” (tức là y hệt cách khởi của sách Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, Vân Đằng Thái Thứ Lang), kế đó bất luận nam nữ bắt đầu bằng giờ Tí ở cung khởi, cứ mỗi giờ chuyển một cung theo chiều thuận (tức là không phân biệt âm dương nam nữ như sách TVĐSTB).

Nhà bị cháy tuy nói là đặc biệt, nhưng trên lá số Tử Vi có dấu tích có thể dò ra được. Phàm những sự việc có dấu tích ta đều nên nghiên cứu cả, đừng bỏ qua.

Người viết trong khi thu thập kinh nghiệm đã tìm ra một phương pháp dò dấu tích trong các trường hợp này; nhưng phương pháp này đòi hỏi nắm vững lý ngũ hành sinh khắc chế hóa; bằng như không phân định rõ ngũ hành thì khó mà tìm ra cái lý ở bên trong được.

Hai lá số sau đây rất bình thường, nhưng có thể dùng để luận phương pháp. Độc giả nuốt chậm nhai kỹ thì có thể xác định được nguyên do.

Đầu năm Nhâm Thân 1992 một lần gặp cậu Hoàng. Cậu hỏi: “Nhà cháy có thể dùng lá số xem ra không?”

Tôi đáp: “Cháy nhà liên hệ đến tọa hướng của nhà. Lá số chính xác, tọa hướng rõ ràng thì có thể đoán được.”

Hỏa tai và phương vị

Cậu Hoàng bèn đưa ra một lá số, bảo tôi: “Bà này năm Canh Thân 1980 cháy nhà, dù chỉ là nhà thuê và không ai bị phỏng, nhưng coi như toàn thể vật dụng trong nhà phải bỏ hết, tổn thất chẳng ít. Việc này tôi đã hỏi nhiều cao nhân, (nhưng họ) nếu không giải theo kiểu chẳng thể phân định đúng sai thì lại bảo lá số sai, vì (theo lá số thì) hạn Bính Tuất không thể nào có chuyện hỏa tai xảy ra được.”

(Dịch giả chú: Nữ mệnh Canh Dần 1950, tháng 9AL giờ Tuất, ngày không đề nhưng mệnh cư Tí hỏa lục cục có Vũ Phủ, Tử độc thủ ở Thìn thì chỉ có thể là 4, 18, hoặc 23).

Tôi nhìn kỹ lá số rồi nói: “Nếu năm Canh Thân 1980 cháy nhà thì nhà này có thể tọa bắc triều nam.”

Cậu Hoàng lục trí nhớ rồi đáp: “Đúng là tọa bắc triều nam không sai. Tại sao tọa bắc triều nam lại sinh hỏa hoạn?”

Đáp (Tử Vân): Bắc là Tí, triều nam tức là hướng về Ngọ. Phương vị như vậy có các đặc điểm:

Một: Vũ Quyền Phủ là cung có cách to Tử Phủ Tướng lộc quyền. Chỗ ở chẳng phải nhỏ thấp.

Hoàng: Tòa nhà này có 7 tầng, hiển nhiên không phải loại nhỏ thấp.

Tử Vân: Hai là Hỏa Linh phân ra Hợi Sửu khiến Vũ ở Tí có mối nguy của hỏa khắc kim. Ba là Hỏa Linh thành đôi nên giáp cung nào thì cung ấy phải dùng lý sinh khắc mà tính. Giả như Hợi Sửu có song Lộc giáp Tí thì Hỏa Linh là hỏa sinh Phủ thổ. Đằng này Hợi có Đồng hóa Kị dẫn động khiến Hỏa Linh giáp khắc cung Tí. (Dịch giả chú: Vì Hỏa Linh đã thành đôi giáp cung Tí nên chỉ cần một sao bị Kị thôi vẫn dẫn động được tính hung của cặp này, mà không cần song Kị giáp).

Hoàng: Vậy làm sao đoán ra là bị cháy nhà.

Tử Vân: Năm Canh Thân bà này 31 tuổi. Đại hạn Bính Tuất khiến Liêm hóa Kị chiếu Tí. Liêm thuộc hỏa, hóa Kị thành “tà hỏa”, cho nên hóa Kị rồi thì Liêm làm hại Vũ Khúc kim. Vũ ở Tí bị Hỏa Linh giáp chế làm hại, càng hung.

Hoàng: Theo lý của thầy thì Tí là phương vị của nhà, trong có Vũ Phủ. Còn can Mậu bên trong có kể không? (Dịch giả chú: Cách xem ở Đài Loan, Hồng Kông mỗi cung đều có một can. Cách tính là cho 12 cung đại biểu 12 tháng. Như trong trường hợp này, sinh năm Canh Thân thì tháng 11 là tháng Mậu Tí, nên cung Tí là cung Mậu Tí. Thành thử can trong cung Tí là Mậu).

Tử Vân: Khi luận đoán về căn hộ này thì phương vị của Tí là trọng điểm (cũng là cung mệnh), do đó thiên can Mậu có tác dụng. Nhưng tác dụng tứ hóa của nó chỉ cho những việc liên quan đến phòng ốc thôi, bằng không tứ hóa bay đầy trời. (Dịch giả chú: Đây ông Tử Vân nói đến một vấn đề to lớn của làng Tử Vi Đài Loan do phái trọng tứ hóa bành trướng quá độ mà ra. Có quá nhiều cách định tứ hóa, nào là theo năm sinh, theo đại hạn, lưu niên, nguyệt hạn, nhật hạn, cung can v.v… nên nếu không có hệ thống suy luận để giới hạn phạm vi của tứ hóa thì nhìn đâu cũng thấy tứ hóa, gọi là “tứ hóa bay đầy trời”.)

Hoàng: Nếu dùng Can Mậu của Tí thì Cơ hóa Kị ở Mão. Cơ Kị này có tác dụng xấu gì cho cung mệnh ở Tí hay không?

Tử Vân: Mệnh bị Kỵ sát giáp chế tương khắc. Mão là điền của Tí. Cơ hóa Kỵ thì Hợi Mão sinh ra tác dụng thủy hỏa tương khắc (dịch giả chú: Can cung Tí khiến Cơ hóa Kị, kích động Đồng Kị nguyên thủy ở tam hợp, Đồng bị Kị kích khởi thành tà thủy, nên gặp Hỏa thành thủy hỏa tương khắc). Cho nên người nữ này trong vận Bính Tuất mướn căn hộ tọa bắc hướng nam đó tựa như ở cạnh hỏa diệm sơn, nhằm lúc là bị hủy diệt.

Hoàng: Nếu như ông nói thì Sửu có Linh hội họp Kình Đà Không Kiếp thành ngũ sát. Hợi song Kị và Hỏa Đà. Mão Kị sát giao gia, Kiếp Hỏa, Kình Hỏa, Cơ Kị; cũng là những cung rất xấu.

Tử Vân: Luận về căn hộ ở Tí, tôi cho rằng ba cung Hợi Sửu Mão đều có tương quan. Ba cung này đặc biệt xấu, tạo thành cục diện tinh đẩu khắc chiến, chính là lý do tạo ra hỏa hoạn.

Hoàng: Năm Canh Thân Đồng hóa Kị, lưu Đà ở Mùi, lưu Kình ở Dậu; hình như chẳng tác động gì đến cung Tí…

Đáp: Ai bảo không có tác dụng?

Một: Năm Canh Thân thuộc đại hạn Bính Tuất khiến Liêm hóa Kị. Lưu Lộc Tồn ở Thân khiến Thân bị Kình Đà song giáp Kị. Loại Kình Đà song giáp Kị này khiến tính tà hỏa phát sinh càng mạnh. (Dịch giả chú: Liêm thuộc hỏa, hóa Kị thành “tà hỏa”) nên Vũ Kim ở Tí cũng bị tà hỏa xung kích.

Hai: Vừa nhấn mạnh ba cung Hợi Sửu Mão. Cũng năm Canh Thân Hợi có Đồng hóa Kị, Sửu Mão bị song Đà song Kình xung; nên trong năm Canh Thân ba cung Hợi Sửu Mão cùng bị tác dụng tai hại rất cường liệt. Cung Tí bị Hỏa Linh giáp chế, lại có Đồng tiên thiên Kị ở Hợi kích động tính xung khắc của cặp Hỏa Linh. Đại hạn Bính khiến Liêm hóa Kị thêm một lần nữa tương khắc. Đến năm Canh thêm Kình Đà một lần nữa áp chế Liêm Trinh hóa Kị, dẫn động cái nguy ở cung Tí; thành thử hỏa hoạn khó mà tránh được.

Hoàng: Bà này ở lầu 7, dưới lầu có nhà hàng. Hỏa hoạn do nhà hàng sơ xuất sinh ra, hậu quả là toàn thể khu lầu này cháy rụi. Cứ theo ông luận thì phương vị tối trọng yếu, nhưng tòa nhà lầu này 7 tầng, vì tầng dưới sinh hỏa hoạn mà cháy thiêu rụi cả; vậy có lý chăng?

Tử Vân: Phương vị là cái đại thái cực hay đại vũ trụ. Tầng lầu là tiểu thái cực trong đại thái cực hoặc tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ. Đại thái cực phát sinh vấn đề tất nhiên tiểu thái cực bị ảnh hưởng, nên vấn đề phương vị hết sức trọng yếu.

Luận xong số nữ mệnh Canh Dần bị cháy nhà anh Hoàng lại đưa ra một lá số khác, cũng cháy nhà. Lần này là nam mệnh sinh năm Mậu Tí 1948 (dịch giả chú: Nam Mậu Tí, tháng 10AL giờ Ngọ, ngày không đề nhưng mệnh cư Tị thổ ngũ cục có Cơ độc thủ; Tử Vi cư Ngọ thì chỉ có thể là 1, 13, 25, 29).

Hoàng: Vị này năm Mậu Thìn 1988 nhà cháy, mọi thứ bị thiêu rụi, may mà không ai bị thương hại.

Số này tôi cũng đã hỏi nhiều tiền bối cao nhân nhưng chưa một vị nào cho tôi lý lẽ đủ thuyết phục. Càng “ly phổ” (“xa sách”, thành ngữ, ý nói sai lầm) là có một vị cao nhân nói có thể cho biết tại sao người này bị cháy nhà năm Mậu Thìn, nhưng phải trả một số tiền học phí khá lớn, bằng không sẽ không giải thích. Có thật người này (dgc: tức chủ nhân lá số) năm ấy phải có chuyện không may đó chăng?

Đáp: Nếu đúng như vị cao nhân ấy nói, anh có thể nghĩ ra, những người sinh ra cùng lúc ấy, vì lá số y hệt nên đều cháy nhà cả, có đáng tin không?

Hoàng: Đương nhiên không tin. Chỉ là lúc ấy không tiện hỏi thẳng vị tiền bối ấy. Vậy chuyện hỏa hoạn năm ấy làm sao xem ra?

Đáp: Như cũ, phải truy từ phương vị. Sinh hỏa hoạn tất nhiên phải ở vị trí không tốt.

Hoàng: Nhà này cũng tọa bắc triều nam, tức ở phương Tí chầu về phương Ngọ. Phương vị này dù có Kình Đà Hỏa Linh tứ sát nhưng không có Kị dẫn động vì sao phát sinh hỏa hoạn?

Tôi xem kỹ lá số rồi luận:

(Tử Vân): Nếu phương vị như thế, Tí cũng là phương bốn bề mai phục, nguy hiểm trùng trùng.

-Năm Mậu Thìn 41 tuổi (1988), đại hạn Canh Thân khiến Đồng hóa Kị ở Sửu.

-Cung Tí chứa can Giáp. Giáp khiến Nhật hóa Kị ở Mão, chính là cung điền của Tí.

Như thế Thìn Linh Đà bị Nhật Kị (Mão) và Cơ Kị (Tị), thành song Kị giáp sát. Thân chứa Phá thủy, với Hỏa Linh là ngũ hành tương khắc, hành hạn Canh Đồng hóa Kị, từ Sửu chiếu nhập Mùi (VCD). Dậu cũng vô chính diệu bị Nhật Kị (do Giáp của Tí dẫn động) chiếu vào. Thành thử Thân bị song Kị giáp Phá Hỏa, thành thủy hỏa khắc chiến.

Kình ở Ngọ vì Đồng Kị nhập Mùi thành ra song Kị giáp Kình (Kị kia là Cơ ở Tị). Vậy là Ngọ cũng bị song Kị giáp sát.

Thìn, Thân Linh Hỏa bị song Kị giáp biến thành tà hỏa, chỉ cần thời gian đến khi bị dẫn động thì hung tính phát sinh. Xảo hợp là cặp Hỏa Linh này trên lá số ở phương vị tam hợp, nên khi bị dẫn động tất gây hại cho Tí.

Thìn, Ngọ, Thân, ba phương của Tí đều hung; chẳng phải Tí là phương cực hung sao?

Họa ứng ngũ hành thuộc thủy nếu không phải thủy tai (dgc: như chết đuối) thì chắc là nhà dột, ẩm. Họa ứng ngũ hành thuộc hỏa thì tự nhiên phải là hỏa hoạn rồi.

Cho nên năm Mậu Thìn (chính là tam hợp với cung Tí), Tị bị hai cặp Kình Đà giáp chế thêm Thiên Cơ tái hóa Kị cuối cùng dẫn động, các cung Thìn Ngọ và Thân vì bị sát tinh xung kích mà khiến hung tượng là lửa cháy lên thành hỏa hoạn.

Hoàng: Tôi cho là Hỏa Tinh và Linh Tinh hội Tham Lang có tác dụng của các cách tốt “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, chẳng ngờ những sao này đánh ngược trở thành sát thủ, khiến nhà ấy cháy rụi.

Đáp: Tất cả mọi sát tinh đều có thể hung có thể tốt. Nhưng Phá Hỏa bản vốn tương khắc, bị song Kị giáp thì tính tương khắc thể hiện thế nào, ta có thể tưởng tượng ra được.

Còn Linh Tinh cũng vì song Kị giáp chế thành tà hỏa, thêm có Đà đồng cung tương khắc (Đà thuộc Kim) càng hung. Thìn Thân tam hợp cho nên ta có thủy hỏa khắc chiến và kim hỏa giao chiến trợ nghịch. Trong tình huống đó, chuyện hỏa tai khó mà tránh được.

Hoàng: Kình Đà là sát tinh đối với hỏa tai không có tác dụng sao?

Đáp: Kình Đà khi là sát tinh sức tàn phá rất ghê gớm. Năm Mậu Thìn Cơ hóa Kị, hai cung Ngọ Thìn có Kình, Đà nhập, khiến đám cháy này một khi phát sinh thì không thể cứu chữa được nữa.

Từ hai lá số cháy nhà tựa hồ có thể quy nạp các điểm chung:

Một: Tượng hung của phương vị đối với phòng ốc là điều kiện tiên quyết.

Hai: Phương vị bị Hỏa Linh giáp hoặc có Hỏa Linh hội họp (dgc: Bằng phép suy diễn có thể thấy “Hỏa Linh hội họp” không có nghĩa phải có đủ cặp Hỏa Linh, chỉ cần một trong hai sao hội họp là thành tín hiệu; nhưng giáp thì phải đủ cặp, mỗi sao ở một bên, theo cách an Hỏa Linh của Đài Loan chỉ có ba tuổi Dần Ngọ Tuất là có thể vào cách này thôi).

Ba: Cung chứa Hỏa Linh bị song Kị giáp chế khiến hai sao này lộ tính “tà hỏa”, ứng hỏa hoạn.

Bốn: Năm bị hỏa hoạn phải có Kị dẫn động khiến phương vị ứng với chỗ cháy bị Kị sát giao xung.

Tôi không rõ chọn phương tốt có thể làm người ta thăng quan phát tài hay không. Nhưng tôi đã xem qua chẳng ít số bị trộm, bị cháy nhà tựa hồ đều thấy ứng với phương vị.

Bởi vậy khi các học viên yêu cầu tôi đưa vấn đề phương vị ra thảo luận thì tôi đưa các lá số thuộc loại hai vấn đề này ra.

Còn có thăng quan phát tài hay không tôi cho rằng chính bản thân mình phải tự cầu tiến mới được./

HẾT


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tùng phương vị đàm hỏa tai vấn đề (Dựa phương vị luận vấn đề hỏa hoạn)

10 điều tâm niệm khi giải đoán số tử vi

LÊ TRUNG HƯNG Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sang giá nhất của cụ Thiên Lương. Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
10 điều tâm niệm khi giải đoán số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật

Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :

- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên

Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :

- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng

Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.

II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi

Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :

1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.

Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :

a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.

Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.

III- Sao Thiên Mã

Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :

a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.

b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.

c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.

d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.

IV- Vòng Tràng Sinh

Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :

a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.

b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)

c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)

V- Vòng Lộc Tồn

Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :

a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.

Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )

VI- Vòng Thái Tuế

Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :

- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy

Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.

Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :

- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.

- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;

- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.

Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.

VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT

Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.

Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.

VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan

Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :

a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.

b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.

c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.

IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân

Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.

Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)


X- Nhóm hung tinh chiến lược

Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.

a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.

b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.

c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "

XI- Bộ sao phò trợ

Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.

XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật

Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).

XIII- TỔNG LUẬN

Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.

Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái " áo bí " của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều tâm niệm khi giải đoán số tử vi

Cách xua đuổi khí xấu trước khi chuyển đến nhà mới

Xua đuổi khí xấu ở nhà mới, mang theo của cải may mắn... sẽ khởi tạo sự phấn khởi cho những người sống trong nhà. Bài viết dưới đây sẽ cho bạn thêm những kinh nghiệm về phong thủy khi chuyển tới nhà mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như chúng ta thường thấy, ngôi nhà bỏ trống, lâu không có người ở khi chúng ta bước vào luôn có cảm giác lạnh lẽo, u ám cho dù là ngôi nhà đó có ở giữa đô thị, nằm trong khu phố sầm uất nhiều người qua lại. Vì vậy, trước khi chuyển đến ở cũng cần thực hiện một vài mẹo nhỏ để xua đi khí xấu quanh ngôi nhà.

Dọn nhà sạch sẽ

Cũng giống như con người, mỗi ngôi nhà đều có những kỉ niệm. Nguồn năng lượng của tất cả các sự kiện xảy ra trong không gian đó đều sẽ vẫn lưu lại trong một thời gian nhất định. Đa phần những nguồn năng lượng đó đều không tốt vì nó có tính ảm ảnh và tù đọng, vì vậy bạn nên loại bỏ một cách triệt để.

Cách tốt nhất để thực hiện công việc này là cần phải làm sạch, dọn dẹp ngôi nhà mới đó trước khi bạn chuyển đến. Để ngôi nhà trống hoàn toàn trong một khoảng thời gian ngắn, có thể là một ngày hoặc vài tiếng đồng hồ để các nguồn năng lượng mới có thể tràn vào nhà, thanh lọc và thay thế cho các nguồn khí tích tụ lâu ngày.

Đốt nến

Tiếp đó, để xua hết những khí xấu, ẩm mốc của căn nhà cũ, bạn nên làm là đốt một vài ngọn nến, chú ý nên đặt nến ở góc Đông Nam. Đương nhiên, khi ấy phải khép kín cửa, tránh gió lùa để dễ dàng theo dõi hướng cháy cửa lửa. Nếu nhà để quá lâu, độ ẩm cao và nhiều nấm mốc, khí xấu, độc hại thì ánh lửa sẽ lập lòe chứ không cháy đứng ngọn. Đốt nến sẽ giúp xác định tình trạng của ngôi nhà cũng như kiểm soát được khí lưu trong nhà.

Dùng hương liệu xông nhà

Nhà ở lâu ngày có ẩm mốc, hôi hám, nhiều thứ tích tụ cho nên để giúp loại bỏ điều này bạn có thể dùng các loại hương liệu, bột thơm như bột trầm hương, nhang, các loại rễ cây có mùi thơm để xông nhà. Dùng một chiếc ấm đất, đốt các loại nguyên liệu trên trong đó rồi đem xông toàn bộ ngôi nhà theo hướng từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài, chú ý đến các góc tường nơi ẩm thẩm, tối tăm, nhiều bụi bặm và côn trùng. Khi xông nên mở các cửa ra để khí được thông thoáng, khí xấu bay ra khỏi căn nhà, bật điện để tăng thêm năng lượng…

Treo chuông gió

Chuông gió được coi là một giải pháp hữu hiệu trong phong thủy, được dùng để khắc chế những nguồn năng lượng không tốt, xua tan khí xấu, đồng thời giúp lưu chuyển những luồng khí lợi cho ngôi nhà .Tuy nhỏ bé nhưng tác dụng của chuông gió là vô cùng đặc biệt. Chúng có tác dụng tiêu tán, hóa giải hung khí án ngữ hoặc chiếu đến vị trí nào đó trong không gian. Sử dụng chuông gió để biến hung thành cát. Đem sự an lành và may mắn đối với căn nhà mới. Có thể treo, đặt ở cửa chính hoặc cửa sổ, nên đặt chỗ có gió thì càng tốt vì âm thanh chuông gió phát ra sẽ có tác dụng hóa giải khí xấu rất hiệu quả.

 

Trấn nhà

Công việc trấn nhà được coi là  cách để xua tà khí xấu, cầu mong tiền bạc đầy đủ. Thông thường người ta trấn nhà từ khi còn đang xây nhà, gia chủ dùng tiền xu chôn ở  4 góc nhà vừa để trấn nhà và ngụ ý tiền vào tứ phương. Tuy nhiên, việc này còn được thực hiện khi gia chủ làm trước lúc lát gạch cho sàn nhà. Đấy là đối với gia chủ tự xây nhà, còn nếu nhà có sẵn thì có thể thực hiện theo cách là bỏ đồng xu vào túi và treo ở góc nhà hoặc  cửa cũng là cách làm ý nghĩa.

Một không gian trống hoàn toàn sẽ là một nền tảng phong thuỷ tốt nhất. Sau khi đã xua đuổi khí xấu, bạn có thể chuyển đến ở, nghiên cứu để sắp xếp đồ đạc, bố trí để dẫn các nguồn năng lượng tốt theo đường mình muốn. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý một số vấn đề sau.

Điều đầu tiên quan trọng hơn tất cả chính là chọn ngày lành tháng tốt để chuyển nhà. Ngày này phải được tính dựa theo 2 yếu tố chính là lịch âm và ngày tháng năm sinh của người trụ cột gia đình để lấy kết quả tốt nhất. Việc chuyển tới nhà mới phải thực hiện chính xác theo ngày giờ đã chọn sẵn và chỉ duy nhất người trong nhà mới được có mặt vào thời điểm này. Tránh mời thêm bạn bè, khách khứa vì đây không phải là tiệc tân gia

Vào ngày chuyển nhà, luôn luôn nói những điều tốt đẹp, an lành và tuyệt đối tránh nói đến bất kỳ điều gì không hay, tiêu cực. Tránh cãi vã, tranh luận, gây gổ, mắng mỏ trẻ nhỏ....bởi vì toàn bộ những hành động này tượng trưng cho sự bất hạnh và mối bất hòa trong gia đình. Cũng không nên ngủ trưa trong ngôi nhà mới của bạn vào đúng ngày chuyển nhà vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.

Đặt 1 túi vải nhỏ màu đỏ dưới đáy thùng gạo hoặc đồ trữ gạo. Đổ gạo vào túi đến khi đầy tràn miệng, hành động này có ý nghĩa gia đình luôn đầy đủ, sung túc. Bên cạnh đó, không được bước vào nhà mới với hai bàn tay trắng. Bạn có thể mang theo thứ gì đó có giá trị như vàng, trang sức, sổ tiết kiệm và bất cứ thứ gì tượng trưng cho sự may mắn.

Và điều quan trọng, vào ngày đầu tiên, bạn bắt buộc phải "nổi lửa" và nấu một thứ gì đó mang tính tượng trưng, chẳng hạn như đun nước pha trà,...

Mộc Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xua đuổi khí xấu trước khi chuyển đến nhà mới

Người tuổi Tý mệnh gì theo mệnh nạp âm

Người tuổi Tý tính cách thường hoạt bát, nhanh nhẹn. Song theo mệnh nạp âm thì tuổi Tý mệnh gì? Cung mệnh đó sẽ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời người tuổi Tý?
Người tuổi Tý mệnh gì theo mệnh nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tý tính cách thường hoạt bát, nhanh nhẹn. Song theo mệnh nạp âm thì người tuổi Tý mệnh gì? Cung mệnh đó sẽ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời người tuổi Tý? Cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này nhé.  

1. Người tuổi Tý mệnh gì?


tuoi ty menh gi
 
Theo tử vi, nạp âm ngũ hành là sự kết hợp giữa Thiên Can và Địa Chi, thường gọi là mạng hay mệnh. Theo năm sinh, ta có thể xác định mệnh nạp âm của riêng từng người. Để biết người tuổi Tý mệnh gì, có thể tra cứu như sau:   Người tuổi Tý sinh năm 1912, 1972 là năm Nhâm Tý, mệnh Tang Đố Mộc. Người tuổi Tý sinh năm 1924, 1984 là năm Giáp Tý, mệnh Hải Trung Kim. Người tuổi Tý sinh năm 1936, 1996 là năm Bính Tý, mệnh Giản Hạ Thủy. Người tuổi Tý sinh năm 1948, 2008 là năm Mậu Tý, mệnh Tích Lịch Hỏa. Người tuổi Tý sinh năm 1960, 2020 là năm Canh Tý, mệnh Bích Thượng Thổ.

Bạn cũng có thể tham khảo Tử vi trọn đời của người tuổi Tý trên Lịch ngày tốt nhé.
 

2. Vận mệnh của người sinh năm Tý

  Biết được người tuổi Tý mệnh gì là có thể từ mệnh nạp âm đó để khái quát sơ lược về vận mệnh cuộc đời theo từng mệnh nạp âm.  

Tuổi Tý mệnh Tang Đố Mộc (1912, 1972)

  Tang Đố Mộc tức Gỗ cây dâu. Người sinh năm Nhâm Tý mệnh Tang Đố Mộc là chuột ở hang trên núi.   Người tuổi Tý mệnh này có tài kinh doanh, thích những thứ đẹp đẽ hào nhoáng, rất dễ thay đổi ý kiến, không có lập trường kiên định. Tiền vận phải chịu nhiều vất vả, bôn ba xuôi ngược khắp nơi song khó có được thành tựu, nhất là nếu theo lĩnh vực đầu tư sẽ gặp rất nhiều thất bại và trở ngại, thậm chí đến cả gia sản tổ tiên để lại cũng theo đó mà tiêu tan.    Từ trung vận trở đi, người này chăm chỉ làm ăn, thay đổi thái độ sống, lại được quý nhân tương trợ nên có thể thay đổi vận mệnh, kinh doanh làm ăn phát đạt, tiền bạc thu về nhiều không kể xiết, tự mình gây dựng nên cơ nghiệp.  

Tuổi Tý mệnh Hải Trung Kim (1924, 1984)

  Hải Trung Kim tức Vàng trong Biển, người tuổi Tý mệnh Hải Trung Kim là chuột ở điền trang, nông trại. 


tuoi ty menh hai trung kim
 
  Người tuổi Tý mệnh Hải Trung Kim tính cách hào sảng, phóng khoáng, dũng khí có thừa, song lại thường vì hư danh, muốn lập công mà hành sự lỗ mãng, thiếu suy nghĩ kĩ càng. Điều này khiến cho họ dễ gặp phải nhiều điều trắc trở, làm việc đến giữa chừng lại bị ngáng đường, nhẹ thì khó khăn, nặng thì tán gia bại sản.    Sinh năm Tý mệnh Hải Trung Kim, hậu vận có thể xoay chuyển tình thế, gặt hái được thành công vang dội, nếu biết làm việc nghiêm túc, tích lũy của cải thì có thể hưởng phúc lâu bền.  

Tuổi Tý mệnh Giản Hạ Thủy (1936, 1996)

  Giản Hạ Thủy tức Nước dưới khe, người tuổi Tý mệnh Giản Hạ Thủy là chuột ở hốc ruộng, hang núi.    Người này có bề ngoài hòa nhã, thân thiện với tất cả mọi người nhưng tâm cơ thâm sâu, tính cách thất thường không ổn định. Khi mới quen biết, họ thường được cho là người tốt, nhưng lâu dần sẽ bị mọi người phát hiện ra tính giả tạo. Người tuổi Tý mệnh Giản Hạ Thủy có năng lực, có thể làm việc vô cùng hiệu quả. Nếu bản thân chịu khó nỗ lực, chăm chỉ làm việc thì có thể giành được những thành công ngoài mong đợi.  

Tuổi Tý mệnh Tích Lịch Hỏa (1948, 2008)

  Tích Lịch Hỏa tức Lửa sấm sét, người tuổi Tý mệnh Tích Lịch Hỏa là chuột trong nhà trong kho.


tuoi ty menh tich lich hoa
 
  Người sinh năm Mậu Tý tính cách mạnh mẽ, cương liệt, đã quyết định chuyện gì là không ai có thể thay đổi được. Tuy nhiên, sự nóng nảy khiến họ có phần thiếu cẩn trọng, làm việc không suy xét kĩ càng, nhìn trước ngó sau nên bị coi là “hữu dũng vô mưu”. Tính cách như vậy nên họ khó có thể tìm được bạn đồng hành hay người hợp tác làm ăn như ý.

Mời bạn đọc thêm: Tuổi Tý hợp làm ăn với tuổi nào?
  Người tuổi Tý mệnh Tích Lịch Hỏa ưa làm việc độc lập, chỉ nghe theo ý mình nên rất dễ xảy ra tranh chấp với người khác. Nếu có thể sửa đổi điểm này, kiểm soát bản thân tốt hơn thì sẽ dần có được khả năng giao tiếp tốt với mọi người, tăng thêm cơ hội phát triển sự nghiệp, nắm bắt thời cơ tiến bước và gặt hái được những thành quả đáng tự hào.  

Tuổi Tý mệnh Bích Thượng Thổ (1960, 2020)

  Bích Thượng Thổ tức Đất trên vách. Người tuổi Tý mệnh Bích Thượng Thổ là chuột trên xà nhà kho.    Người sinh năm Canh Tý mệnh Bích Thượng Thổ là người theo chủ nghĩa cá nhân, lợi kỉ. Tuy họ có tinh thần làm việc nghiêm túc, chăm chỉ cần cù, thậm chí là bán mạng vì công việc nhưng lại thường vì mục đích cá nhân mà không từ bất cứ thủ đoạn nào. Họ không quan tâm đến những người xung quanh, sẵn sàng đẩy ngã người khác để tiến lên phía trước, do đó dễ bị mọi người cô lập, tự hủy hoại cuộc đời mình. Nếu có thể khắc phục khuyết điểm này thì có thể trở thành người lãnh đạo xuất sắc, dù là trong chính trường hay thương trường.     Trên đây là một vài thông tin giải đáp cho câu hỏi Người tuổi Tý mạng gì, hy vọng có thể giúp ích cho các bạn độc giả phần nào để hiểu rõ hơn về vận mệnh cuộc đời.   Thiên Thiên

Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tý Xem hướng nhà theo tuổi: Người tuổi Tý nên và không nên làm nhà hướng nào? Tuổi Tý cung Bảo Bình: hiểu biết rộng và phóng khoáng Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Tý mệnh gì theo mệnh nạp âm

Tính cách của người thuộc nhóm máu A

Ưu điểm nổi bật của những người thuộc nhóm máu A là đức hy sinh, luôn đặt lợi ích chung lên hàng đầu. Đây cũng là người sống hòa đồng, cởi mở và có khả năng
Tính cách của người thuộc nhóm máu A

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm nổi bật của những người thuộc nhóm máu A là đức hy sinh, luôn đặt lợi ích chung lên hàng đầu. Đây cũng là người sống hòa đồng, cởi mở và có khả năng thích ứng cao với hoàn cảnh.

 

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Người thuộc nhóm máu A khá thông minh và ham hiểu biết. Trong công việc hay học tập, họ luôn tỏ ra xuất sắc. Chính điều này khiến họ dễ trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người.

Tuy nhiên cũng có một số người thuộc nhóm máu A lại sống hướng nội, thiếu quyết đoán và mạnh mẽ. Họ dễ xúc động khi xem một bộ phim hay đọc một cuốn tiểu thuyết tình cảm. Cũng chính vì vậy mà trong cuộc sống, khi gặp khó khăn hoặc thất bại họ dễ rơi vào trạng thái bi quan.

(Theo Giải mã số mệnh con người qua nhóm máu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách của người thuộc nhóm máu A

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Vì sao nên đặt một bát nước muối phong thủy đúng ngày mùng 1 Tết

Nếu đến thăm nhà mà thấy gia chủ đặt bát nước muối phong thủytrong phòng, bạn không nên ngạc nhiên mà cũng đừng xê dịch vì nó ảnh hưởng đến phong thủy ngôi nhà
Vì sao nên đặt một bát nước muối phong thủy đúng ngày mùng 1 Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đến thăm nhà mà thấy gia chủ đặt bát nước muối trong phòng, bạn không nên ngạc nhiên mà cũng đừng xê dịch vì nó ảnh hưởng đến phong thủy ngôi nhà.


10 việc mang lại vận xui nếu phạm phải trong ngày mùng 1 Sự thật về kiêng mây mưa vào ngày rằm và mùng 1? Xông đất đầu năm phải thận trọng điều này mới có may mắn cả năm 2017

Từ ngàn xưa, muối là một tài sản quý giá và thường được sử dụng trong các nghi lễ tẩy rửa khác nhau. Theo quan niệm của người xưa, muối mặn có thể xua đuổi tà ma, đem lại nhiều may mắn trong gia đình. Người Việt Nam thường có câu nói: "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi" để chứng minh tác dụng thu hút sự giàu có, sức khỏe và may mắn của muối trong phong thủy.

 

Chuẩn bị bát nước muối phong thủy vào ngày đầu năm


Khi năm mới chính thức là lúc các gia đình đổ bỏ hết tà khí của quá khứ để hướng tới hiện tại và tương lai. Trong ngày mùng 1 Tết, gia chủ có thể rắc muối biển ở từng phòng và trước cửa nhà để xua tà khí, đón vận may. Ngoài ra, cầm một nắm muối và ném qua vai trái của mình. Bạn nên nhớ là vai trái, đừng nhầm lẫn vì ném qua vai phải còn mang lại gấp đôi xui xẻo.
 
Vi sao nen dat mot bat nuoc muoi phong thuy dung ngay mung 1 Tet hinh anh
 
Sau khi cả người và nhà đều được thanh lọc sạch sẽ, là lúc chuẩn bị bát nước muối phong thủy để xua tà khí cho suốt cả một năm sau đó.    Đầu tiên, cho muối vào đầy 3/4 bát hoặc ly thủy tinh rồi đặt 6 đồng xu xếp theo hình vòng tròn vào bát. Bạn chú ý đặt mặt dương của xu ngửa lên trên. Cho nước từ từ vào và đặt bát lên một miếng vải lót.   Đặt bát nước muối ở vị trí thích hợp. Trong suốt một năm sau, gia chủ không được che miệng bát và để yên tại cùng một vị trí, không xê dịch hay động chạm. Nếu bị dịch chuyển, năng lượng tiêu cực đã tích tụ sẽ bị tan vỡ. Cho đến tận ngày cuối năm, bạn hãy đổ bát nước muối đựng xu đó đi.
Vi sao nen dat mot bat nuoc muoi phong thuy dung ngay mung 1 Tet hinh anh 2
 

Vị trí đặt bát muối phong thủy

  Trong phong thủy, tinh thể muối khi kết hợp với nước được coi là phương pháp hóa giải mạnh mẽ các nguồn năng lượng xấu trong phong thủy. Các đồng tiền xu kim loại giúp kích thích các phản ứng hóa học, làm sạch và thoa dịu năng lượng tiêu cực được đem vào nhà bởi sự chuyển động hàng năm của cửu cung phi tinh.
Vi sao nen dat mot bat nuoc muoi phong thuy dung ngay mung 1 Tet hinh anh 3
 
Mỗi năm, 9 ngôi sao sẽ chuyển hướng. Căn cứ vào những hướng di chuyển của 9 ngôi sao, gia chủ có cách bố trí phong thủy hợp lý để tăng tài vận, sức khỏe, tình duyên và sự nghiệp. Bát nước muối phong thủy thường được đặt ở những góc sao xấu là Nhị Hắc và Ngũ Hoàng để hóa giải vận hạn.  

- Nhị Hắc

  Nhị Hắc là hung tinh chủ về bệnh tật, đau ốm, sức khỏe yếu kém. Trong năm Đinh Dậu, Nhị Hắc bay vào phương Tây Bắc, có thể gây bệnh tật, phá tài hay hạn lao ngục. Gia chủ dễ mắc các chứng bệnh về dạ dày, đường ruột, trúng gió, đột quỵ, phong hàn…  

- Ngũ Hoàng

  Ngũ Hoàng là đại hung tinh gây bất lợi sức khỏe, tai nạn. Trong phong thủy cửu cung phi tinh năm 2017, Ngũ Hoàng Đại Sát bay vào hướng chính Nam. Do đây là sao hung hãn nhất, vì thế không nên gây động, phải để tĩnh. Bởi động sẽ làm gia tăng tính hung của nó, sẽ không lường trước được hậu quả.    Do vậy, trong năm 2017, gia chủ nên đặt bát nước muối ở góc Tây Bắc hoặc chính Nam trong nhà, đặc biệt khi 2 sao xấu này rơi vào vị trí phòng ngủ, phòng khách, bếp, phòng ăn,...
 

Dọn dẹp bát nước muối phong thủy vào ngày cuối năm

Vi sao nen dat mot bat nuoc muoi phong thuy dung ngay mung 1 Tet hinh anh 4
 
Có một vấn đề gia chủ cần lưu ý là không bao giờ sử dụng lại bất cứ phần nào của bát nước muối, gồm cả chai lọ, đồng xu,...Tất cả các vật liệu hấp thụ các chi năng lượng tiêu cực và bạn cần phải vứt bỏ nó ra khỏi nhà một khi các ngôi sao bay đã chuyển vị trí.
  Để làm điều này, bạn chỉ cần để chúng trong một túi nhựa, buộc chặt và ném nó vào thùng rác bên ngoài nhà. Đừng bao giờ đem chôn ở nơi gần nhà vì điều này sẽ gieo năng lượng tiêu cực vào khu đất quanh nhà bạn.

► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

ST
Có nên thắp hương liên tục ngày Tết? 90% bạn không biết gà cúng đêm Giao thừa và cúng gia tiên nên quay đầu gà vào trong hay ra ngoài Tết Đinh Dậu: Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao nên đặt một bát nước muối phong thủy đúng ngày mùng 1 Tết

Cách hóa giải nhà ở ngã ba –

Áp dụng một vài giải pháp phong thủy đơn giản có thể thay đổi năng lượng của một ngôi nhà nằm ở vị trí ngã ba đường. Nếu ngôi nhà của bạn nằm tại vị trí ngã ba đường, bạn có thể từng nghe thấy rằng đây là điều không tốt theo phong thủy. Mặc dù, nó là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Áp dụng một vài giải pháp phong thủy đơn giản có thể thay đổi năng lượng của một ngôi nhà nằm ở vị trí ngã ba đường.

Nếu ngôi nhà của bạn nằm tại vị trí ngã ba đường, bạn có thể từng nghe thấy rằng đây là điều không tốt theo phong thủy. Mặc dù, nó là một trường hợp rất chung chung vì mỗi ngôi nhà là duy nhất. Có một vài lý do tại sao thậm chí những ngôi nhà có dòng chảy năng lượng, hoặc thiết kế phong thủy nội thất tốt vẫn khó có thể thu hút nguồn khí vì nằm tại vị trí ngã ba.

Đơn giản mà nói, những vấn đề sau chỉ ra lý do vì sao một ngôi nhà tại vị trí ngã ba cần sự giúp đỡ trong việc cải thiện phong thủy của nó:

– Một ngã ba tạo nên sự tái chế, hoặc qua lại liên tục của cùng một năng lượng giữa ba ngôi nhà hoặc nhiều hơn.

– Chất lượng của năng lượng tại vị trí ngã ba thường là hỗn loạn và không ngưng nghỉ, hoặc thấp và trì trệ, tùy thuộc vào các chi tiết cụ thể của ngã ba và phong thủy ngoại thất của ngôi nhà được xây dựng tại đó.

– Lượng năng lượng thường là sẽ cần thiết, hoặc cần có cho một ngôi nhà thì giờ đây phải chia sẻ cho nhiều ngôi nhà. Nói cách khác, những ngôi nhà tại vị trí ngã ba đang phải đấu tranh để có nhiều khí hoặc năng lượng phong thủy hơn.

nhangaba1

Khám phá những giải pháp phong thủy chính cho một ngôi nhà ở vị trí ngã ba: 

– Phong thủy cảnh quan thông minh luôn luôn được khuyến khích để thu hút cũng như giữ lại một năng lượng có chất lượng tốt hơn. Ví dụ, một ngôi nhà có sự ủng hộ tốt, mạnh mẽ sẽ luôn luôn thu hút và lưu giữ nhiều năng lượng hơn một ngôi nhà không hề có sự ủng hộ.

Một hàng cây cao phía sau nhà có thể là một giải pháp đơn giản. Ý tưởng phong thủy cảnh quan tương tự áp dụng cho phía trước của ngôi nhà, nhưng theo một cách khác biệt. Nếu bạn cố gắng tạo ra một đường cong sinh động tới cửa chính với sự kết hợp của màu xanh lá cây tươi tốt và những hòn đá đẹp mắt thì nó sẽ thu hút một năng lượng có chất lượng tốt hơn nhiều so với một đường thẳng đơn điệu.

nhangaba2

– Một tính năng nước bên ngoài (tốt nhất là nước có chuyển động) được khuyến khích trong phong thủy để làm mới và nâng cao năng lượng của một ngã ba. Một đài phun nước phong thủy ngoài trời dù tinh vi hay đơn giản, nó đủ khả năng để bạn quyết định điều gì sẽ tốt nhất cho ngôi nhà và túi tiền của bạn. Có một số yếu tố để cân nhắc khi làm việc với một tính năng nước theo phong thủy, chẳng hạn như đối diện với hướng nhà cũng như hướng của dòng nước chảy.

– Một yếu tố trang trí vườn chuyển động, ví dụ như một chiếc chong chóng, hoặc tác phẩm điêu khắc… đều là giải pháp phong thủy tuyệt vời để làm mới và nâng cao năng lượng. Làm việc với các yếu tố phong thủy này cần quan tâm đến hướng của ngôi nhà.

Ví dụ, một tác phẩm điêu khắc bằng kim loại là rất tuyệt vời cho các khu vực ở hướng Tây, Tây Bắc và Bắc. Trong khi đó, cần tránh xa các hướng Đông, Đông Nam và Tây Nam.

nhangaba3

– Cửa chính của một ngôi nhà ở vị trí ngã ba cần có cả sự bảo vệ và tăng cường. Bạn luôn luôn có thể tăng cường cửa chính bằng màu sắc phong thủy phù hợp. Ví dụ, với một cánh cửa chính hướng Nam, bạn chắc chắn có thể sử dụng màu đỏ rực rỡ để tạo ra năng lượng tốt đẹp.

Như bất kỳ khuyến khích phong thủy tổng quát nào, tốt nhất nên ghi nhớ rằng mỗi ngôi nhà là duy nhất. Do đó, để nói rằng một ngôi nhà tại vị trí ngã ba có phong thủy xấu không hoàn toàn chính xác. Hàng loạt các yếu tố xung quanh khác nhau như độ dài của con đường tới vị trí ngã ba, ngôi nhà nằm tại vị trí nào của ngã ba cũng như mối quan hệ giữa những ngôi nhà tại vị trí ngã ba phải được xem xét đến.

Một khu vườn phong thủy hình tròn nhỏ hoặc một tính năng nước đặt ở vị trí trung tâm của ngã ba sẽ tạo ra năng lượng tốt hơn rất nhiều.

nhangaba4

Một ngôi nhà tại vị trí ngã ba cần được quan tâm chăm sóc cẩn thận hơn, nhưng không cần quá lo lắng về việc phong thủy của nó là xấu vì luôn luôn có các biện pháp để cải thiện tình trạng này.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà ở ngã ba –

Chọn tên hay cho bé trai

Ngay từ khi bé yêu còn trong bụng mẹ, các bậc phụ huynh đã tìm cho con một cái tên thật hay và ý nghĩa. Dưới đây là một số tên gọi hay cho bé trai của bạn.
Chọn tên hay cho bé trai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


An
An Bang, Anh Phúc, An Quốc, An Hòa, An Khang, An Dân, An Ninh, An Bình, An Thuận, An Hồng.

Anh
Anh Tài, Anh Đạt, Anh Phát, Anh Quang, Anh Hào, Anh Hoa, Anh Kiệt, Anh Vũ, Anh Tông, Anh Nghị, Anh Huân, Anh Diệu

Cảnh
Cảnh Quốc, Cảnh Luân, Cảnh Vũ, Cảnh Nghiệp, Cảnh Nghệ, Cảnh Nghĩa, Cảnh Vĩ

Cao
Cao Nhã, Cao Dương, Cao Nghĩa

Chí
Chí Thành, Chí Dũng, Chí Minh, Chí Quốc, CHí Cường, Chí Văn, Chí Hành, Chí Học, Chí Nghiệp, Chí Nghĩa

Chính
Chính Thành, Chính Đức, Chính Hào, Chính Bình, Chính Thanh, Chính Văn, Chính Tường, Chính Nhã, Chính Ngôn, Chính Dương, Chính Nghiệp,
  Cương
Cương Hào, Cương Hoạt, Cương Chiêu, Cương Trì, Cương Đạt, Cương Phi, Cương Phong, Cương Kiệt, Cương Minh, Cương Viễn

Dương
Dương Bá, Dương Thành, Dương Đức, Dương Hoa, Dương Huy, Dương Bình, Dương Thu, Dương Văn, Dương Vân, Dương Diễm, Dương Húc

Chon ten hay cho be trai hinh anh
Đặt tên hay và ý nghĩa cho con ngay từ khi con yêu còn trong bụng mẹ
 
Đức
Đức Hải, Đức Hoa, Đức Hậu, Đức Huy, Đức Dung, Đức Thọ, Đức Thủy, Đức Nghiệp, Đức Nghĩa, Đức Nguyên, Đức Minh, Đức Trạch (Trạch – cái đầm, hồ), Đức Vũ (Vũ – mái hiên, tòa nhà), Đức Hưu (Hưu – hỗ trợ, giúp đỡ).

Gia
Gia Đức, Gia Phúc, Gia Thiện, Gia Mộc, Gia Niên, Gia Bình, Gia Khánh, Gia Thắng, Gia Thạch, Gia Thụ, Gia Hy, Gia Hứa, Gia Ngôn, Gia Ngọc, Gia Vân, Gia Khánh, Gia Chí, Gia Huân

Hòa
Hòa Lượng, Hòa An, Hòa Phong, Hòa Quang, Hòa Bình, Hòa Thuận, Hòa Thông, Hòa Đồng, Hòa Nhã, Hòa Nghi, Hòa Ngọc, Họa Nhuận, Hòa Chính, Hòa Chí, Hòa Hợp

Hồng (theo nghĩa to lớn)
Hồng Bảo, Hồng Bá, Hồng Tài, Hồng Đạt, Hồng Đức, Hồng Phi, Hồng Phong, Hồng Quang, Hồng Văn, Hồng Hy, Hồng Ngôn, Hồng Lôi, Hồng Vân, Hồng Chí, Hồng Hiên

Hưng
Hưng An, Hưng Bang, Hưng Đức, Hưng Phát, Hưng Quốc, Hưng Bình, Hưng Khánh, Hưng Thành, Hưng Kiệt

Học
Học Hải, Học Lâm, Học Dân, Học Danh, Học Văn, Học Nghĩa

Khải
Khải An, Khải Định, Khải Phong, Khải Ca, Khải Cảnh, Khải Khang, Khải Thành, Khải Đức, Khải Kiện, Khải Thắng, Khải BÌnh, Khải Thuận, Khải Tề

tên hay cho con trai
 
Lập
Lập Thành, Lập Huy, Lập Quân, Lập Tài

Lương
Lương Thọ, Lương Cát, Lương Tuấn, Lương Minh, Lương Bình, Lương Toàn

Mậu (tươi đẹp, tươi tốt)
Mậu Tài, Mậu Đức, Mậu Học

Mẫn
Mẫn (nhanh nhẹn, sáng suốt)
Mẫn Tài, Mẫn Đạt, Mẫn Học,  Mẫn Tri, Mẫn Thành, Mẫu Đức, Mẫn Huy, Mẫu Kiệt, Mẫn Tuấn

Kiến
Kiến An, Kiến Bản, Kiến Hoa, Kiến Đức, Kiến Minh, Kiến Thụ, Kiến Đồng, Kiến Nghiệp, Kiến Nguyên, Kiến Chương, Kiến  Trung, Kiến Minh

Nhuệ
Nhuệ Phong, Nhuệ Tiến, Nhuệ Lập, Nhuệ Tinh, Nhuệ Lợi, Nhuệ Tư, Nhuệ Chí, Nhuệ Tài, Nhuệ Thành, Nhuệ Đức, Nhuệ Quảng, Nhuệ Minh, Nhuệ Thức

Ngọc
Ngọc Thành, Ngọc Long, Ngọc Sơn, Ngọc Thạch, Ngọc Thư, Ngọc Thụ, Ngọc Vũ

Phi
Phi Bạch, Phi Quang, Phi Hồng, Phi Hổ, Phi Long, Phi Loan, Phi Trường, Phi Tinh, Phi Anh, Phi Vũ

Quang
Quang Hoa, Quang Huy, Quang Lâm, Quang Minh, Quang Hy, Quang Dự (Dự - khen ngợi)

Tân
Tân Bạch, Tân Hồng, Bân Bính (Bân – mộc mạc; Bính – sáng tỏ), Tân Hải (Tân - bến nước)

Tài
Tài Thiện, Tài Anh, Tài Tuấn

Thành
 Thành Hòa, Thành Cung, Thành Hoa, Thành Long, Thành Nhân, Thành Song, Thành Văn, Thành Châu

Thừa
Thừa An (Thừa – đón nhận, nhận lấy); Thừa Đức, Thừa Ân, Thừa Phúc, Thừa Cơ, Thừa Bình, Thừa Vọng, Thừa Nghiệp, Thừa Vận, Thừa Chí

Tuấn
Tuấn Tài, Tuấn Trì, Tuấn Đạt, Tuấn Mỹ, Tuấn Lực, Tuấn Danh, Tuấn Minh, Tuấn Dân, Tuấn Mỹ, Tuấn Kiệt, Tuấn Hào, Tuấn Phong, Tuấn Phát, Tuấn Nhân, Tuấn Hùng, Tuấn Anh, Tuấn Ngữ, Tuấn Hy

Vĩnh
Vĩnh Xuân, Vĩnh An, Vĩnh Phong, Vĩnh Trường, Vĩnh Phúc, Vĩnh Niên, Vĩnh Khang, Vĩnh Niên, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thọ, Vĩnh Tân, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trinh

Theo Qiming

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tên hay cho bé trai

Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang... 1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 3. Dái tai phẳng là
Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd