Mơ thấy chó con –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
ể “trả lời” câu hỏi này, trong bài tường thuật 07/02/2013 từ Hồng Kông nhân dịp năm rồng sắp qua, năm rắn sắp đến, AFP tóm lược dự báo của một số chiêm tinh gia Trung hoa về tương lai trong năm Quý Tỵ. Theo hãng tin có tiếng nghiêm túc này thì “giới chiêm tinh Á châu tiên đoán con rắn năm nay là con rắn độc, hành thủy, sẽ mang lại những tai họa lớn và chuyển đổi quan trọng.
Trong quá khứ, năm Tỵ 2001 nổ ra vụ Al Qaida khủng bố tòa tháp đôi New York, năm Tỵ 1989 xảy ra phong trào Dân chủ Thiên An Môn và cuộc đàn áo đẫm máu đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 6, năm rắn 1941 không quân Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. Một chiêm tinh gia họ Châu dự báo vào tháng 5, xác xuất Nhật Trung đụng độ tại biển Hoa Đông rất cao.
Trên các mạng xã hội tại Việt Nam cũng có nhiều dự báo và ước vọng trong năm Quý Tỵ. Tại Pháp, nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Nguyễn Dư không tin vào bình luận của giới chiêm tinh nhưng quan tâm nhiều hơn về giai thoại “rắn” trong dân gian, trong thi ca.
Trong bài “Rồng rắn lên mây”, giáo sư Nguyễn Dư đưa đến độc giả những nghi vấn rất lý thú về bài thơ “Rắn đầu biếng học”, về những giai thoại trong vụ án “Lệ Chi Viên”…về một số “chi tiết” đáng ngờ của các nhà nghiên cứu Tây phương về Nguyễn Trãi.
Theo tác giả, dân gian Việt Nam hay Trung Hoa thì con rắn được xem là biểu tượng của cái “xấu” nhưng dù có “độc” đến đâu vẫn không đáng sợ bằng chế độ chính trị hà khắc (Liễu Tôn Nguyên). Trước thềm năm Quý Tỵ, xin gởi đến quý thính giả bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Dư sau đây.
***
Bài viết tham khảo : Rồng rắn lên mây của giáo sư Nguyễn Dư
Nước ta nhiều núi rừng, sông lạch. Lắm thuồng luồng, rắn rết. Rắn bò vào điện thờ, chui vào sách vở, nấp trong quán ăn. Trẻ con mới tập tễnh cắp sách đến trường đã phải rùng mình làm quen với họ hàng nhà rắn :
Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay Châu, Lỗ, xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
(Rắn đầu biếng học, Quốc văn giáo khoa thư)
Rắn đầu biếng học, có bản chép là Trách mình biếng học, tục truyền là của Lê Quý Đôn. Bài thơ ghép được nhiều tên rắn như vậy thì ngoài thần đồng Lê Quý Đôn ra ai mà làm được, phải vậy không thưa các cụ? Lãng Nhân (Giai thoại làng Nho), Bùi Hạnh Cẩn (Lê Quý Đôn), Tạ Quang Phát (Vân đài loại ngữ) và nhiều học giả khác kể rằng :
Năm lên tám, một hôm Lê Quý Đôn bị bố mắng là đồ rắn đầu rắn cổ (hay rắn đầu biếng học), bèn xuất khẩu « phun » ra bài thơ!
Rằng hay thì thật là hay, nhưng nghe không ổn, hôm nay xin bàn! Bàn về Rắn và Rắn. Rắn luồn lách và rắn cứng đờ. Rắn (con rắn) thì cả nước ta ai cũng biết. Tất cả các tự điển tiếng Việt từ xưa đến nay đều có từ Rắn này. Khỏi cần bàn thêm.
Rắn (cứng) mới… có vấn đề. Từ điển Alexandre de Rhodes (1651) có từ Rắn (cứng). Có cả Rắn gan và Rắn mày rắn mặt. Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của không có Rắn (cứng). Chỉ có Cứng (cứng lòng, cứng cổ, cứng đầu). Tự điển Génibrel (1898) có Rắn (raide), Rắn mắt (têtu) và Rắn gan, rắn dạ (audacieux).
Việt Nam tự điển (1931) của hội Khai Trí Tiến Đức không có Rắn (cứng) nhưng lại có Dắn (cứng, trái với nát). Ngược lại, Cứng nghĩa là Dắn (không bẻ được, trái với mềm). Tìm trong tất cả các tự điển xưa không đâu có rắn đầu và rắn đầu rắn cổ.
Thực tế thì người miền Bắc thường mắng con là đồ Cứng đầu cứng cổ hay Rắn mày rắn mặt. Người đàng ngoài không nói rắn đầu hay rắn đầu rắn cổ. Khuyên con chăm học chứ không khuyên siêng học. Đọc truyện Đông Chu liệt quốc, kính phục cụ Phan Chu Trinh. Châu, Lỗ hơi xa lạ với họ.
Lê Quý Đôn sinh năm 1726 tại Diên Hà (Thái Bình). Mười bốn tuổi mới rời quê, theo cha lên kinh đô Thăng Long… Rắn đầu biếng học và Châu, Lỗ xin siêng học, chắc chắn không phải là khẩu khí của cậu bé Lê Quý Đôn.
Bố Lê Quý Đôn mắng con rắn đầu rắn cổ (Lãng Nhân, Bùi Hạnh Cẩn) là… mắng bậy!
Rắn của Quốc văn giáo khoa thư bò lung tung như vậy nhưng vẫn còn kỉ luật hơn rắn của nhà nho rất nhiều.
Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (thế kỉ 18) có truyện Quan Phục Hầu Nguyễn Trãi :
« Quốc triều Quan Phục hầu Ức Trai tiên sinh người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc. Trong khi Thái Tổ Cao Hoàng Đế bình định thiên hạ, các hiệu lệnh văn thư đều do tay ông thảo cả. Trong bài Bình Ngô đại cáo của ông có câu rằng :
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm.
Nghĩa là : Đến nỗi đứa trẻ con giảo quyệt như Tuyên Đức nhàm võ không chán.
Ông làm câu ấy, là vì ông oán ghét người Minh nhiễu hại nước ta, nên xỉ vả thẳng đến vua của họ. Người Trung Quốc xem bài Bình Ngô đại cáo phê rằng : « Người nào làm bài này, con cháu sẽ không được toàn vẹn ». Về sau vì việc Thị Lộ ông bị giết chết. Người ta cho lời phê của người Trung Quốc là linh nghiệm.
Ông lấy Nguyễn Thị Lộ làm vợ lẽ. Tục truyền Thị Lộ là yêu tinh rắn hoá thành (…). Sau ông vì nàng mà bị tội » (1).
Vũ Phương Đề là người đầu tiên đem « sấm » Tàu và « yêu tinh rắn » vào thêu dệt cái chết của Nguyễn Trãi. Vũ Phương Đề đã mở đường cho phong trào viết… « lẫn lộn thực hư ». Cái chết bi đát của Nguyễn Trãi, một sự kiện lịch sử có thật, bắt đầu được tô vẽ, thêm bớt.
Đầu thế kỷ 19, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án soạn sách Tang thương ngẫu lục, chép truyện Ông Lê Trãi. Thực thực hư hư. Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi được thần báo mộng, được Tiên Dung mách bảo vào Lam Sơn phò Lê Lợi ...
Trước khi hiển đạt, Nguyễn Trãi mở trường dạy học ở làng Nhị Khê. Một hôm ông sai học trò dọn sạch một cái gò để dựng nhà học. Đêm hôm ấy ông nằm mộng thấy một người đàn bà đến xin ông cho ngừng chặt phá, làm cỏ trong 3 ngày để mẹ con bà kịp rời đi nơi khác. Tỉnh dậy, ông ra thăm thì thấy học trò đã làm cỏ xong cái gò. Chúng khoe có đánh cụt đuôi một con rắn và bắt được hai quả trứng.
« Ông cầm hai quả trứng về nuôi giữ. Đêm hôm ấy giong đèn đọc sách, ông thấy một con rắn trắng leo trên xà nhà, rỏ giọt máu xuống sách, ướt chữ « đại » (là đời), vết máu thấm xuống ba tờ giấy. Ông tự hiểu mà rằng :
- Nó sẽ báo oán ta đến ba đời sau.
Trứng rắn nở ra được hai con, một dài một ngắn, ông sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở làng bên, nay những rắn ấy làm thần sông.
Khi ông hiển đạt, thường mỗi ngày ở triều đình về, qua phố hàng Chiếu, gặp một người con gái nhan sắc rất đẹp. Hai bên dùng thơ đùa cợt, rồi ông yêu mến, lấy về làm thiếp. Trong năm Thiệu Bình, người ấy thường đi lại vào trong cung cấm, vua Thái Tông cho làm chức Nữ học sĩ. Đến khi vua thăng hà, Triều đình đem nàng ra tra hỏi. Nàng nói là do ông xúi. Vì thế nên ông phải tội. Khi bị hành hình người con gái ấy hoá làm con rắn, bò xuống mặt nước mất.
Ông có một người thiếp chạy trốn xuống vùng Sơn Nam, ẩn ở nhà người, rồi sinh ra được một người con trai là Anh Võ (…). Nhớn lên, Anh Võ làm quan ở Đài sảnh, rồi phụng mệnh đi sứ Tàu. Khi qua hồ Động Đình, thấy trên mặt nước xuất hiện một con rắn, rồi sóng gió nổi lên dữ dội, ông khấn xin cho đi xong việc nước, sóng gió mới im. Sau khi đi chầu vua Tàu về, đến hồ Động Đình, thuyền bị úp sấp mà chết đuối, được truy tặng Thái Sư Sùng Quốc Công » (2).
Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được dàn dựng công phu, có nhiều tình tiết hấp dẫn. Truyện được nhiều tác giả đời sau, trong đó có cả người Pháp, tiếp tục thêm mắm thêm muối, « xào xáo » lại.
Năm 1886, Landes kể truyện Ông Nguyễn Trại (Nguyễn Trãi được Tây gọi là Nguyễn Trại). Xin tạm dịch : « Nguyễn Trại là ông tổ thứ nhất của Gia Long. Ông làm quan kiểm lâm thời Lê. Một hôm ông dẫn lính vào rừng đốn cây, gặp một tổ rắn, đến đêm nằm mộng thấy một người đàn bà (…).
Sau khi bọn lính giết con rắn cái, trên đường về ông gặp một cô bé rất xinh đang đứng khóc. Cô bé lúc này đã bị hồn con rắn cái yêu tinh kia nhập vào. Nguyễn Trại động lòng mang cô bé về nuôi. Lớn lên cô được tuyển vào cung vua.
Có lần Hoàng thái hậu bị đau mắt, không lang y nào chữa nổi. Cô gái xin chữa. Cô chỉ liếm nhẹ vào mí mắt, Hoàng thái hậu bèn khỏi.
Một hôm nhà vua bị đau lưỡi, cho vời cô gái vào chữa. Cô gái xin nhà vua lè lưỡi cho cô xem. Vua lè lưỡi. Cô gái bỗng nhe răng cắn lưỡi vua. Vua chết tức khắc. Đình thần ra lệnh giết cô gái. Nguyễn Trại và người lính hầu của ông bị xử tội phải chôn sống.
Vợ người lính biết tin, lên đường đi thăm chồng. Nhưng, lúc bà đến được cửa ngục thì chồng đã bị hành quyết. Nguyễn Trại nói với vợ người lính : « Chồng nàng chết vì ta. Ta bị oan, cũng sẽ chết. Chuyện đã rồi ! Nàng hãy chìa tay ra để ta lưu dấu tích lại cho hậu thế ». Người đàn bà chìa tay ra, Nguyễn Trại liền nhổ nước bọt vào lòng bàn tay.
Trở về nhà, người đàn bà mang thai. Bà sinh được một đứa con trai nối dõi dòng họ Nguyễn Trại ». Landes chú thích : Có người kể rằng Nguyễn Trại từ chối những lời dụ dỗ của con yêu tinh nhập vào cô bé. Thậm chí ông còn đánh cô bé. Con yêu tinh trả thù bằng cách nhập vào con gái của ông. Lớn lên, con gái của Nguyễn Trại được tuyển vào cung vua, trở thành hoàng hậu. Về sau, hoàng hậu phạm tội giết vua. Dòng họ Nguyễn Trại bị giết hết. Lúc sắp chết Nguyễn Trại được vợ một người lính xin được tiếp tục lưu truyền dòng dõi của ông » (3).
Năm 1898, Nordemann kể Sự tích ông Nguyễn Trãi bằng chữ quốc ngữ. Nordemann cũng nói tên Trại bị trại thành Trãi !
« Đời vua Thái Tổ, nhà Hậu Lê, ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, có một người tên là Nguyễn Trại (tục gọi là Nguyễn Trãi)… Nguyễn Trại nằm mộng thấy một người đàn bà xin cứu cho « mười ba mẹ con tôi ». Sau đó, người nhà dọn vườn chém con rắn chửa mười hai trứng v.v.
Truyện của Nordemann đại khái cũng giống truyện của Landes. Nhưng Nordemann đưa ra một chi tiết cần được kiểm chứng : « Nghe có người nói rằng ông Nguyễn Hữu Độ, làm kinh lược Bắc Kỳ, tước là Vĩnh Lại Quận Công, mới mất năm Đồng Khánh thứ ba, cũng là dòng dõi ông (Nguyễn Trại) ấy » (4).
Năm 1908, Dumoutier lại đưa thêm vài điều mới vào truyện Vua Lê Lợi và con rắn hồ Động Đình. Xin dịch tóm tắt :
« Ông Phi Khanh dọn vườn sửa soạn đất làm nhà. Ông nằm mộng thấy một người đàn bà xin ông tha chết cho ba mẹ con v.v. Phi Khanh đọc sách, bị con rắn trên xà ngang nhỏ một giọt máu xuống sách, thấm ướt 3 tờ giấy…
Con trai Nguyễn Trãi tên là Nguyen Dam được vua Lê Thánh Tôn cử đi sứ sang Tàu. Thuyền đang đi trong hồ Động Đình thì một con rắn rất lớn nổi lên vùng vẫy gây sóng gió. Nguyen Dam xin được đi bình yên, lúc trở về sẽ nộp mình.
Đi sứ xong, lúc trở về Nguyen Dam lại gặp rắn. Ông viết 2 bức thư gửi vua Tàu và vua ta để giãi bày hoàn cảnh, rồi nhảy xuống sông. Con rắn cắn ông, lôi xuống đáy hồ. Vua Tàu được tin, bèn sai phù thuỷ dùng bùa bắt con rắn. Mổ bụng moi xác Nguyen Dam, đem chôn cất. Thân rắn bị chặt làm 3 đoạn, vứt xuống hồ. Trong hồ bèn nổi lên 3 hòn đảo. Vua Tàu phong Nguyen Dam làm thần hồ Động Đình » (5).
Dumoutier mời Bố của Nguyễn Trãi nhập cuộc. Nguyen Dam (không biết tên Việt là gì) có liên hệ gì với Anh Võ (hay Anh Vũ) không ?
Ba tác giả Pháp đưa ra nhiều tên mới lạ, không hiểu nhằm mục đích gì ?
Tại sao Nguyễn Trãi bị đổi thành Nguyễn Trại ?
Trường hợp dấu ngã đổi thành dấu nặng chúng ta còn thấy trong một văn bản khác. Địa danh Vỹ Dã, Tổng Dã Lê, xã Dã Lê thượng, Dã Lê hạ của thời Lê Quý Đôn (6) đã trở thành thôn Vỹ Dạ, làng Dạ Lê không biết từ lúc nào.
Rất có thể mấy ông Tây đã được mấy ông thông ngôn trọ trẹ chữ quốc ngữ « gà » cho chăng ?
Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được Phan Kế Bính đổi tên thành Nguyễn Trãi, đưa vào sách Nam Hải dị nhân.
Phan Kế Bính cho biết « vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất… » (7).
Ngô Sĩ Liên chép là vua về đến Lệ chi viên (vườn Vải). Phan Kế Bính chép là trại Tiêu viên (vườn Chuối). Bao giờ thì đến lượt vườn Chà Là, vườn Sa Bô Chê ?
Nguyễn Đổng Chi đổi hẳn tên truyện thành Rắn báo oán. Ông ngờ rằng Rắn báo oán của ta chịu ảnh hưởng truyện Phương Chính Học và truyện Ngô Trân của Tàu.
« (Rắn báo oán) là câu chuyện do tầng lớp nho sĩ gần gũi giai cấp thống trị bịa đặt ra nhằm huyền thoại hoá tấn thảm kịch của người anh hùng Nguyễn Trãi, xoá mờ sự thật về tấn thảm kịch ấy, hòng gỡ tội cho những kẻ đã gây ra cái chết oan khốc của ông và cả họ ông » (8).
Thưa cụ Nguyễn Trãi, vàng thau lẫn lộn của thời xưa chưa phiền bằng « vàng ta pha vàng tây » của đời sau đâu ạ! Cụ sống khôn thác thiêng, xin cụ… xí xoá cho !
Thuở bé tôi thích nghe chuyện thần thánh, ma quỷ. Cho đến ngày bị thầy mắng Nói có sách, mách có chứng, bị cụ Mạnh bắt gặm cục xương Tận tín thư bất như vô thư mới tỉnh người. Từ đó hết thích truyện « vớ vẩn ».
Dân ta có truyền thống kính trọng các vị anh hùng dân tộc. Thần thánh, ma quỷ chỉ nên kính nhi viễn chi, xin các sử gia đừng nhập nhằng đưa vào sử.
Vẽ rắn thêm chân nên giao cho nghệ nhân dân gian, những người như Thạch Sanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ, kết nghĩa với Lý Thông. Trong vùng có con yêu tinh :
Nó là rắn lớn hiện hình,
Nhờ hơi nhật nguyệt thành tinh hại người
Nhà vua treo giải thưởng tìm người giết con Xà tinh. Thạch Sanh vác búa đi giết được Xà tinh. Nhưng bị Lý Thông lập mưu cướp công. Một hôm, công chúa bị Mãng Xà Vương « tam đầu cửu vĩ (ba đầu chín đuôi) ai nào chẳng ghê » hoá thành Đại Bàng bắt mang về hang. Thạch Sanh giết Mãng Xà vương, cứu được công chúa. Nhưng lại bị Lý Thông cướp công, lấp cửa nhốt dưới hang (…). Thạch Sanh còn gặp nhiều lận đận. Còn phải giết Trăn Tinh, đánh hồ tinh. Cuối cùng, Lý Thông cũng bị trừng trị. Thạch Sanh dẹp được giặc, được vua gả công chúa, truyền ngôi.
Xà của Tàu là rắn của ta. Mãng là con trăn, một giống rắn lớn. Trăn tinh không biết có họ hàng gì với Chằn tinh không ? Chằn cũng là yêu quái (Huỳnh Tịnh Của). Bên cạnh mấy con rắn có chân làm trò mua vui, vô thưởng vô phạt, ta còn có mấy con rắn giúp các ông đồng bà cốt, pháp sư phù thuỷ kiếm ra tiền.
« Phụ thần Bạch Xà thì dùng một con rắn bằng rơm rồi phù phép vào con rắn để con rắn bò quanh nhà diệt tà ma. Con rắn thường bò được là nhờ trong ruột có bộ phận cử động bằng máy, nhưng những người quá tin cho là thầy phù thuỷ cao tay có phép lạ » (9)
« Tại các điện thờ chư vị, nhất là điện thờ các ông Hoàng, bà Chúa Thượng Ngàn, ta thường thấy ở hai bên hàng sà kèo có cặp rắn trắng rất lớn mào đỏ, mà các đệ tử gọi là ngựa ngài, tức là cặp rắn là cặp ngựa để ngài cưỡi.
Các đệ tử con hương thường thuật lại tại các đền thờ ông Hoàng bà Chúa ở đường rừng, hay có những cặp rắn có mào thật bò ra quấn lấy kèo lấy cột ở trong đền, khác hẳn với các đền, điện miền xuôi, cặp rắn chỉ là đồ mã ».
« Nói về rắn, phải kể tới loại rắn biển, tức là con đẻn cũng được dân ta ở ven miền duyên hải kính sợ tôn thờ và gọi bằng Ông (...). Cũng là đẻn, phải kể đến bà Lạch tức là bà Chằng lạch và bà Mộc, được gọi là Mộc trụ thần xà » (10).
« Đẻn là loại rắn biển có nhiều sắc, nó cắn nhằm ai thì bắt ngủ mê mà chết. Đẻn cườm là đẻn có hoa lúm đúm, chính là đẻn độc hơn.
Thành ngữ Xông khói đẻn nghĩa là đốt đẻn khô làm cho chủ nhà mắc khói nó mà ngủ mê, ấy là nghề kẻ trộm ». (Huỳnh Tịnh Của).
Có âm thì phải có dương. Có bà thì phải có ông.
« Cấu trúc không gian trong các điện thờ Mẫu, vị trí chư vị thần thánh được bài trí sắp xếp theo ba tầng : tầng trên không, tầng ngang trên ban, bệ thờ và tầng trệt. Đây là một điều rất riêng vì không có tôn giáo tín ngưỡng nào bài trí như vậy. Ở tầng không là sự hiện diện của đôi mãng xà (còn gọi là Ông Lốt) tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh. Một con màu trắng, một con màu sẫm quấn trên xà ngang phía trái, bên trên ban thờ » (11).
Quan lớn tuần Tranh là ai ?
« Ở huyện Vĩnh Lại (Hải Dương), về đời Trần có hai vợ chồng nghèo, không con cái. Một hôm người chồng làm vườn bắt được hai quả trứng. Trứng nở ra hai con rắn. Người vợ muốn giết. Người chồng bảo để nuôi. Rắn một ngày một lớn. Vợ chồng phải đem ném xuống sông. Nước sông bỗng xoáy lại thành vực.
Một hôm có nàng công chúa qua sông, bị nước xoáy không đi được. Người vợ ném cơm xuống sông, khấn vái. Sông lặng sóng ngay. Dân sở tại lập miếu thờ thần Thuồng Luồng của sông. Đến đời Trần Minh Tôn, có vợ quan phủ Ninh Giang Trịnh Thường Quân là Dương Thị bị mất tích. Thường Quân phải nhờ Bạch Long Hầu dắt xuống Thuỷ Cung tìm vợ. Vợ chồng gặp lại nhau. Dương Thị kể cho chồng nghe chuyện bị hoàng tử thứ năm của Thuỷ Thần Long Vương bắt về làm vợ. Thường Quân đem chuyện khiếu nại với Thuỷ Thần. Thuỷ Thần xử cho vợ chồng Trịnh Thường Quân được đoàn tụ. Phạt hoàng tử thứ năm, đày ra sông Tranh cho được đới công chuộc tội.
Thuỷ thần vừa tuyên án xong thì trên trần gian miếu thần Thuồng Luồng bị đổ nát. Người ta thấy một con rắn dài hơn mười trượng, vảy biếc mào đỏ nổi trên mặt nước đi về phía sông Tranh, hơn trăm rắn nhỏ theo sau. Hoàng tử thứ năm hiển linh tại sông Tranh. Dân gian lập đền thờ, gọi là đền thờ Quan lớn tuần Tranh. Hàng năm mở hội. Các bà các cô lên đồng, hầu bóng rất đông » (12).
Ông Lốt là… cái gì ?
Lốt nghĩa rộng là vị thần đội lốt rắn thường gọi là ông Lốt. Nghĩa bóng là mượn bóng mượn tiếng đi doạ nạt lừa đảo. Thí dụ : đội lốt sư đi khuyến giáo. (Từ điển Khai Trí Tiến Đức).
Lốt là con rắn huyền thoại, một loài rắn nước mà người ta thường mô tả là có 3 cái đầu người và 9 tấm vẩy ở cuối đuôi. Nó dùng để cho thuỷ thần cưỡi, theo đạo đồng cốt (Nordemann).
Ông Lốt là « ngựa » của ông Hoàng ba, hoàng tử thứ năm, quan lớn tuần Tranh. Lốt sống dưới Thuỷ phủ. Lốt cũng có ba đầu chín đuôi, giống Mãng Xà Vương của truyện Thạch Sanh.
Nhìn sang vườn nhà hàng xóm cũng thấy rắn. Rắn thật !
Liễu Tôn Nguyên kể truyện người bắt rắn :
« Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.
Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.
Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ Tương nói :
- Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần suýt chết.
Người ấy nói, vẻ mặt rất buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng :
- Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không ? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào ?
Người họ Tương vừa khóc, vừa nói :
- Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề này thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào chạc tuổi ông tôi mười nhà không còn một. Những người vào chạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào chạc tuổi tôi mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả…
Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng, cuối xóm vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.
Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng nói : « Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ » ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi ! cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân ! » (13).
Kinh Thi có câu : « Duy huỷ duy xà nữ tử chi tường ; duy hùng duy bi nam tử chi tường » (Mộng thấy rắn là điềm sinh con gái, mộng thấy gấu là điềm sinh con trai).
Điềm lành hùng huỷ hiện thân
Kể đã ba đời sinh được phu nhân (Thiên Nam ngữ lục) (14).
Tục truyền là bà ngoại Khổng Tử một hôm nằm mộng thấy một con rắn be bé xinh xinh bò vào giường, chui xuống dưới chăn. Mẹ Khổng Tử nằm mộng thấy một con gấu trúc to tướng vén màn leo vào giường. Người Tàu cho rằng đó là điềm thánh nhân sắp ra đời !
Nói chung, loài người không thích rắn. Thậm chí sợ rắn.
Sợ từ ngày bà E-Và bị Rắn dụ dỗ ăn trái cấm. Bà mời ông A-Dong cùng ăn. Thượng đế hay tin bèn nổi giận, đuổi ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng. Phạt ông bà và con cháu đời sau phải sống… như chúng ta bây giờ !
Rắn trở thành kẻ thù của loài người từ ngày đó.
Người phương Tây gọi những kẻ hay nói xấu, chụp mũ người khác là bọn rắn độc (langue de serpent, langue de vipère). Cứu giúp kẻ vô ơn, sẵn sàng quay lại hại chính mình là ấp rắn trong ngực (Réchauffer un serpent dans son sein). Ta gọi bọn khua môi múa mép là nói rắn trong lỗ bò ra. Dân ta căm thù, nguyền rủa bọn cõng rắn về cắn gà nhà. Nói đúng hơn là bọn bắt rắn về cắn gà nhà (Léopold Cadière).
Tuy nhiên, rắn phương Tây cũng có khi được cưng. Ngày nay chúng ta thấy nhan nhản rắn trên bảng hiệu của bác sĩ, tiệm thuốc tây. Ồ, lạ nhỉ ? Vì sao vậy ?
Thần thoại Hi Lạp suy tôn Asclépios là ông thần đứng đầu ngành y. Ông có tài chữa lành cho người mù, người tàn tật. Ông cải tử hoàn sinh cho Glaucos, Tyndare, Hippolyte. Tâm nguyện của Asclépios là cứu nhân độ thế… hoàn toàn miễn phí.
Không ngờ, việc làm của Asclépios đã gây bất mãn cho vị thần cai quản Địa ngục Hadès. Hadès lo ngại… thiếu dân để hành hạ. Hadès khiếu nại với Zeus. Zeus mủi lòng trước cảnh đất rộng người thưa của Địa ngục, bèn tung sét đánh chết Asclépios.
Sinh thời, Asclépios rất thích rắn vì rắn là con vật biết thay da đổi thịt, biết đổi mới hàng năm. Rắn lột xác giống như bệnh tật được chữa khỏi, sức khoẻ được phục hồi.
Lúc đi hành nghề, Asclépios bao giờ cũng mang theo chiếc gậy có chạm trổ một con rắn. Vì vậy mà các bác sĩ, dược sĩ đã chọn Rắn quấn gậy làm biểu tượng của ngành nghề và mời rắn bò lên bảng hiệu.
Rắn của người lớn rắc rối quá.
Rốt cuộc chỉ có Rồng rắn của trẻ con là dễ thương nhất !
Lũ trẻ thật là… rắn gan (de Rhodes, Génibrel). Dám để cho rắn chơi trèo với rồng. Chúng mày cho dân đen được dòm mặt vua à? Không coi tôn ti trật tự ra cái quái gì.
Trò chơi Rồng rắn chia làm hai phe. Ít đứa chơi (chuyện khó tin!) thì chọn một đứa làm thầy thuốc, đám còn lại ôm nhau làm rồng rắn. Thầy thuốc phải đuổi bắt cái đuôi rồng rắn. Nếu có nhiều đứa chơi thì chia làm hai phe, mỗi phe là một rồng rắn. Đứa đứng đầu vừa phải bảo vệ, che chắn cho cái đuôi khỏi bị đối phương bắt, vừa phải tìm cách bắt cái đuôi của đối phương. Vào trò, rồng rắn uốn éo hát :
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh
- Thầy thuốc có nhà không?
- Thầy thuốc không có nhà
(…)
- Xin khúc đuôi
- Tha hồ mà đuổi.
Thế là tha hồ đuổi bắt nhau. Vui nhộn, ồn ào. Người lớn bực mình thì mặc kệ người lớn !
Gần đây bên Âu Tây nảy sinh mốt chơi rắn cảnh. Đẹp… dễ sợ ! Nhưng chưa đáng sợ bằng mốt ẩm thực đầy « tâm huyết » của đại gia nước ta. Hôm nay mời ông món lạ. Ít hiệu có.
Khách chuyện trò mới hết nửa đĩa lạc rang thì từ nhà bếp một « thích khách » mặt lạnh như tiền bước ra. Tay cầm dao, nách kẹp chiếc gậy nhỏ. Một thằng tiểu đồng xách giỏ rắn theo sau. Thầy trò đến trước mặt khách ẩm thực chờ lệnh. Ông khách quen của hiệu liếc nhìn giỏ rắn rồi hất hàm, chỉ tay. « Thích khách » liền thò chiếc gậy gắn móc sắt vào giỏ, khoắng một vòng, lôi con rắn được chọn ra ngoài. Tay còn lại múa một đường, cổ rắn bị kẹp chặt. Dao loè sáng. Tiết rắn phọt ra. Tiểu đồng nhanh tay giơ tách hứng. Không một giọt rơi xuống mặt bàn. Thêm một đường dao. Tim rắn bị móc ra, thả vào tách. Tiểu đồng mở chai Quốc Lủi, rót đầy tách, đặt trước mặt khách.
Khách mỉm cười, gật đầu ra hiệu cho « thích khách » biểu diễn thêm một lần nữa…
Tâm, huyết đã sẵn sàng. Hồ trường ! Hồ trường ! Ta biết rót về đâu ?(Nguyễn Bá Trác). Rót vào họng chứ còn rót vào đâu nữa? Định rót vào túi à? Lộc trời cho, ta cứ nốc. Làng Lệ Mật « có hàng trăm hộ nuôi rắn, hàng chục nhà hàng đặc sản rắn và có nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật về rắn được tổ chức rầm rộ hàng năm. Lệ Mật được đánh giá là trung tâm giao dịch về rắn của toàn miền Bắc, đồng thời là làng rắn nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới » (15). Lại thêm một thành tích nổi… da gà!
Rắn được giới ẩm thực khen là loài có tâm, huyết. Bổ thận, cường dương. Bảy món khề khà. Ngộ độc, chết có người chôn, lo gì !
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết Con Rắn 2013)
1- Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, bản dịch của Đoàn Thăng, Văn Học, 2001, tr. 275.
2- Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, 1962, Đại Nam tái bản, tr. 112-128.
3- A. Landes, Contes et Légendes annamites, Imprimerie Coloniale, 1886, tr. 63.
4- Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (1898), Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích bổ sung, Hội Nhà Văn, 2006, tr. 26-28.
5- Gustave Dumoutier, Essais sur les Tonkinois, IDEO, 1908, tr. 300-304.
6- Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch của nhóm Đỗ Mộng Khương, Đào Duy Anh
hiệu đính, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 79.
7- Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân liệt truyện (1912), Mặc Lâm tái bản, 1969, tr.33-39.
8- Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, Khoa Học Xã Hội, 1975,
tr. 451-461.
9- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nam Chi tùng thư, 1965, Xuân Thu
tái bản, tr. 211.
10- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, tr. 260 -261.
11- Bùi Xuân Mỹ, Tục thờ cúng của người Việt, Văn Hoá Thông Tin, 2001, tr. 181.
12- Nguyên Tử Năng, Thần thoại Việt Nam, 1966, Zieleks tái bản 1980, tr. 96-104.
13- Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân, Cổ học tinh hoa, quyển 2, Thọ Xuân, 1962,
tr. 133-135.
14- Đinh Gia Khánh chủ biên, Điển cố văn học, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 193.
15- Quốc Văn, Làng nghề Hà Nội, Thanh Niên, 2010, tr. 127.
P/S: việc hóa giải cho những bạn đã nên duyên vợ chồng thì có thể hóa giải bằng đường con cái, BOI.VN không đi sâu vào vấn đề này
Tuổi Bính Tý nam mạng đại kỵ kết hôn với nữ tuổi dưới đây:
1. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Đinh Sửu, Chồng vợ đồng 1 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
2. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Kỷ Mẹo(hay còn gọi là Kỷ Mão), Chồng lớn hơn vợ 3 tuổi ở đời với nhau phạm (Tuyệt Mạng)
3. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Quí Mùi, Chồng lớn hơn vợ 7 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
4. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Kỷ Sửu, Chồng lớn hơn vợ 13 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
5. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Tân Mẹo , Chồng lớn hơn vợ 15 tuổi ở đời với nhau phạm (Tuyệt Mạng)
6. Chồng tuổi Bính Tý vợ tuổi Tân Mùi, Vợ lớn hơn chồng 5 tuổi, ở đời với nhau phạm (Biệt Ly)
Tuổi Bính Tý nam mạng kỵ cưới vợ năm 17, 21, 23, 29, 33, 35, 41 tuổi. Gái tuổi này kỵ có chồng năm 15, 21, 26, 27, 33, 38, 39 tuổi.
Những năm tuổi trên đây kỵ kết hôn, luận việc hôn nhân không thành.
Tuổi này trai hay gái sinh nhằm tháng 1, tháng 7 Âm Lịch hay xảy việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày chót khó nên đôi.
XIN LƯU Ý
Tuổi Bính Tý nam mạng muốn biết mình sinh vào tháng nào thì tốt? Trai tuổi Bính Tý sanh tháng 1, 8, 2, 4, 9, 3 và tháng 12 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ.
Gái tuổi Ất Hợi sanh tháng 1, 4, 2 và tháng 5 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng.Còn sanh nhằm tháng 3 và tháng 6 số khắc con, khó sanh và khó nuôi.
Tuổi Bính Tý nên kết hôn với những tuổi dưới đây:
1. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI BÍNH TÝ(Chồng vợ đồng một tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý, vợ chồng làm ăn thường gặp cảnh tốn hao, phải trải qua nhiều phen thành bại rồi lâu sau mới dễ làm ăn, hào tài trung bình, hào con đa số, vật dụng trong nhà đủ dùng.
Tánh người vợ chân hay đi, lời nói hay thắc mắc, bản thân có tiểu tật, tánh lạt long, tay làm có tài cũng hay hao phá tài, số vợ chồng cũng thế, tánh tình vợ chồng cũng có phần hạp.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài hay luân chuyển.
2. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU DẦN
(Chồng lớn hơn vợ 2 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng có chút ít quyền tước để làm ăn, cầu lo hay nói việc chi đều thông suốt, hào tài ấm no, hào con trung bình, vật dụng trong nhà sắp đặt đủ no.
Tánh người vợ thông minh và kỹ lưỡng ăn nói với đời lanh lẹ, bản thân hay có tiểu bệnh, ý tình vợ chồng c ũng đặng hòa hạp, chung ở đặng c ảnh ấm êm.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng trung bình, không chi đáng kỵ
3. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU DẦN
(Chồng lớn hơn vợ 4 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, phải chịu cảnh thiếu nghèo, làm có tiền hay khiến điều hao tốn, hào tài đủ no, hào con đông đủ, vật dụng trong nhà khiếm dụng.
Tánh người vợ hay lo tính, khó tánh, có duyên vui vẻ, bản thân hay có bệnh nhỏ, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung sống với nhau cần năng chung đặng ấm no.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên bền chí và kiên cố.
4. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi TÂN TỴ
(Chồng lớn hơn vợ 5 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng như có phước hưởng giàu, còn thiểu phước thì đặng khá, trong ngoài sắp đặt đều yên thuận, hào tài tương vượng, hào con thiểu số, có số nuôi
con nuôi, vật dụng trong nhà sắp đặt có thứ tự.
Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, ý tình vợ chồng hòa hạp, ở với nhau làm ăn đặng tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, không chi đáng kỵ
5. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM NGỌ
(Chồng lớn hơn vợ 6 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, sống trong cảnh thiếu nghèo một thời gian, qua hạn làm ăn mớitốt, hào tài đủ dùng, hào con rất ít, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ rộng rãi, ưa trồng tỉa, trong mình có tiểu tật, số khó giữ tiền tài, số vợ chồng cũng thế, tánh ình vợ chồng hay xung khắc, tâm ý bất đồng, nên kiên nhẫn làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về tánh ý nên nhẫn nại, về hào
tài hay luân chuyển.
6. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi GIÁP THÂN
(Chồng lớn hơn vợ 8 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng làm ăn đặng thông suốt, ra đường ăn nói hay cầu lo việc chi thường có quí nhân giúp đỡ, hào tài ấm no, hào con thiểu số, có số nuôi con nuôi, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ lanh lẹ, chân hay đi, bản thân có tiểu tật, tay làm có tài cũng hay hao tài, số vợ chồng cũng thế, ý tình vợ chồng hòa thuận, chung sống làm ăn đặng ấm no.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng trung bình, nên kiên cố và chung
lo.
7. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi ẤT DẬU
(Chồng lớn hơn vợ 9 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ chồng đặng có danh giá hoặc có chức phận thêm tốt, nhiều người hay mến thương, hào tài ấm no, hào con đủ dùng, vật dụng trong nhà khiếm dụng.
Tánh người vợ hay rầu lo, không đặng vui vẻ cho lắm, tánh lanh lẹ, chân hay đi, trong mình có tiểu bệnh, tánh tình vợ chồng cũng có phần hòa hạp, nên thương lẫn chung lo làm ăn đặng.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, nên vui vẻ và chung lo với nhau.
Tinh duyên người tuổi Bính Tý với vợ lệch hơn 10 tuổi:
1. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi
(Chồng lớn h ơn vợ 10 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no qua ngày, hào con đa số.
Tánh người vợ hay đi nhiều, tánh sáng, hay lo tính, lời nói ít thua ai, tay làm có tài cũng hay hao tài, ý tình vợ chồng ít đặng hòa hạp, chung sống với nhau khá kiên cố mới đủ no.
2. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi ĐINH HỢI
(Chồng lớn hơn vợ 11 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con đa số.
Tánh người vợ có duyên, vui vẻ, hay hòa thuận với đời, bản thân có bệnh nhỏ, có số tạo giữ tiền, ở với nhau vợ chồng h òa thu ận, nên chung lo làm ăn tốt.
3. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI M ẬU T Ý
(Chồng lớn hơn vợ 14 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài ấm no, hào con đa số.
Tánh người vợ tánh sáng, vui vẻ có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, miệng hay rầy nói, ý tình vợ chồng hòa hạp, việc làm ăn đặng ấm êm.
4. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM THÌN
(Chồng lớn hơn vợ 16 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no qua ngày, hào con trung bình.
Tánh người vợ hay giao thiệp, tánh sáng, lanh lẹ, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa thuận, khá cần năng mới đủ no.
5. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI QU Í T Ỵ
(Chồng l ớn h ơn vợ 17 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số.
Tánh người vợ tánh sáng, vui vẻ, có duyên, hay giao thiệp, hay có tiểu bệnh, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung sống đồng lo làm ăn đặng nên.
6. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI GIÁP NGỌ
(Chồng lớn hơn vợ 18 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài bình thường, hào con trung bình.
Tánh người vợ chân hay đi nhiều, bôn ba, tánh sáng, lanh lẹ, lời nói hay thắc mắc, ý tình vợ chồng hay xung khắc, khá nhẫn nại làm ăn mới tốt.
7. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổI ẤT H ỢI
(Vợ lớn hơn chồng 1 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ chồng làm ăn buổi đầu bình thường đến sau mới tốt, trong ngoài sắp đặt yên thuận, hào tài ấm no, hào con thiểu số, vật dụng trong nhà sắp đặt đều đủ.
Tánh người vợ hiền, có duyên, tánh sáng, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, miệng hay rầy nói, tánh tình vợ chồng cũng đặng hòa hạp, ở với nhau làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, không chi đáng kỵ
8. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi GIÁP TUẤT
(Vợ lớn hơn chồng 2 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, thường gặp cảnh thiếu nghèo, qua hạn mới đậu t ài, hào tài đủ dùng, hào con trung bình, vật dụng trong nhà thường dùng.
Tánh người vợ có duyên, vui vẻ, hay giao thiệp tình bạn, lòng hay lo tính, trong mình hay có bệnh nhỏ, ý tình vợ chồng hòa hạp, chung sống với nhau cần năng làm ăn đặng nên.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên cố làm ăn
đặng.
9. Chổng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi QUÍ D ẬU
(Vợ lớn hơn chồng 3 tuổi)
Lời giải: Chồng tuổi này gặp người vợ tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ chồng đặng nhi ều người mến thương, có chức phận thêm tốt, hào tài trung bình, hào con đa số, vật dụng trong nhà sắp đặt v ẻ vang.
Tánh người vợ thông minh, có duyên, vui vẻ, có số tạo giữ tiền tài, tánh tình vợ chồng không đặng hòa hạp cho lắm, nên thương lẫn nhau làm ăn tốt.
Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, v ề tánh ý nên nhẫn nại.
ĐOÁN PHỤ THÊM
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi NHÂM THÂN
(Vợ lớn hơn chồng 4 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài đủ dùng, hào con đông đủ.
Tánh người vợ lời tiếng nóng nảy, chân hay đi, hay giao thiệp, tánh lanh lẹ, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa hạp, việc làm ăn nên kiên cố mới đặng ấm no.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi CANH NGỌ
(Vợ lớn hơn chồng 6 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số.
Tánh người vợ ở với nhau làm ăn bôn ba, tánh cộc, chân hay đi, hay giao thiệp, hay lo tính, ý tình vợ chồng hay xung khắc, khá kiên nhẫn làm ăn mới đặng.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi KỶ TỴ
(Vợ lớn hơn chồng 7 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no, hào con thiểu số.
Tánh người vợ tánh hiền, thông minh, và kỹ lưỡng, chân hay đi, bản thân có tiểu tật, tánh tình vợ chồng hòa hạp, chung ở với nhau làm ăn mớinên nhà.
Chồng tuổi BÍNH TÝ vợ tuổi MẬU THÌN
(Vợ lớn hơn chồng 8 tuổi)
Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài đủ no qua ng ày, hào con đa số.
Tánh người vợ can đảm, tánh cộc, chân hay đi nhiều, tay làm có tài cũng hay hao tài, ở với nhau vợ chồng hòa hạp, phải cần năng chung lo làm ăn mới đủ no.
Cũng giống như bất kỳ đồ vật nào khác, việc sắp xếp bàn trang điểm trong không gian phòng ngủ có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn đến phong thủy của không gian đặc biệt này. Do đó, để thu hút được vận may, đồng thời tránh sự xung khắc với các trang thiết bị nội thất khác trong phòng, bạn cần lưu tâm đến các yếu tố Phong thủy khi bố trí bàn trang điểm.
Bàn trang điểm luôn có gương đi kèm do đó gương soi không nên đặt ở vị trí đối diện và xung khắc với cửa ra vào. Nếu phạm phải điều này, khi bước chân vào phòng ngủ mọi người rất dễ bị sự phản chiếu hình ảnh trong gương làm giật mình, hoảng hốt…
Trong không gian phòng ngủ, điều tối kỵ bạn cũng nên chú ý là không nên để gương của bàn trang điểm chiếu thẳng vào đầu giường vì theo phong thủy, phòng ngủ, nhất là giường ngủ là nơi yên tĩnh, không nên để bất cứ luồng sáng nào chiếu trực tiếp lên, sẽ khiến người ngủ trên giường bị ác mộng hoặc tinh thần bị “tán” không tốt cho sức khỏe.
Về hướng, bàn trang điểm trong không gian phòng ngủ nếu được đặt theo hướng Đông Nam sẽ có tác dụng giúp gia chủ làm ăn phát đạt. Bàn trang điểm hướng Bắc sẽ khiến đường công danh, học hành thuận lợi, còn hướng Đông giúp cải thiện sức khỏe.
Không nên đặt bàn trang điểm theo hướng Nam vì nó sẽ khiến gương trên bàn tương tác với lửa, mà gương được xem như một yếu tố của nước, vì vậy nước sẽ kỵ với lửa.
Trên thị trường trang thiết bị nội thất hiện nay, bàn phấn, bàn trang điểm rất đa dạng và phong phú về chủng loại và hình dáng. Tùy vào nhu cầu, sở thích, bạn có thể lựa chọn được những loại phù hợp với căn phòng của mình.
Bàn trang điểm hiện nay thường đồng bộ với các đồ nội thất khác trong phòng ngủ như giường ngủ, tủ, táp đầu giường… tạo sự nhất quán và hiện đại cho không gian căn phòng. Với những căn phòng nhỏ, hạn chế về diện tích, bạn có thể lựa chọn những loại bàn trang điểm nhỏ gọn, có ghế ngồi thu gọn trong gầm bàn hoặc loại bàn trang điểm tích hợp các chức năng khác như bàn uống nước nhỏ, bàn làm việc… rất tiện dụng.
Để tốt về mặt phong thủy, nên chọn kiểu bàn thiết kế cho hai cánh cửa ở hai bên. Khi ngồi trang điểm thì mở hai cánh cửa ra, nếu không sử dụng thì đóng cánh cửa đó lại. Sử dụng kiểu bàn này, bất luận đặt ở vị trí nào cũng không sợ bị xung với cửa hoặc chiếu vào đầu giường.
Trải qua bao nhiêu năm, những phong tục cổ truyền của người Việt vẫn giữ được những nét bản sắc dân tộc.
Thăm mộ tổ tiên
Từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp, con cái trong gia đình tề tựu đông đủ cùng nhau đi thăm, quét dọn mồ mả tổ tiên và đem theo hương đèn hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.
Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết đến xuân sang, nhà nhà đều dọn dẹp, sửa sang và trang hoàng nhà cửa thật đẹp theo đúng không khí của ngày Tết. Tất cả các đồ dùng trong gia đình, từ ghế ngồi, bàn thờ...đều được lau chùi sạch sẽ theo đúng nghĩa năm mới cái gì cũng phải mới. Trên tường treo những câu đối hoặc tranh tết. Trong nhà đặt các lọ hoa với đủ màu sắc tươi mới như cúc vàng, hoa hồng...hoặc những cây quất với những trái quất vàng ươm làm rực lên một góc không gian.
Nói đến tết không thể không nhắc đến hoa đào - loài hoa chỉ có vào mỗi dịp tết đến xuân sang ở miền Bắc, với người miền Nam thì có mai vàng.
Bên cạnh đó còn có mâm ngũ quả được bày lên trên bàn thờ. Các loại trái cây được bày lên thể hiện mong muốn của gia chủ cho một năm mới với những điều tốt lành.
Phong tục cúng ông Táo
Hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp, người Việt Nam lại có tục cúng ông Táo. Ông Táo hay còn gọi là Thần Bếp, có trách nhiệm theo dõi mọi việc xảy ra trong gia đình rồi trình bào cho Trời. Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nào cũng thu dọn nhà cửa, bếp sạch sẽ rồi làm lễ cúng tiễn ông Táo lên trời, nhờ ông báo cáo những điều tốt đẹp để một năm mới bình an và may mắn.
Theo lệ, lễ cúng ông Táo được đặt trong bếp và phải có cá chép vì tục truyền rằng ông Táo cưỡi cá chép để lên trời.
Lễ rước vong linh Ông Bà
Là lễ mời ông bà về ăn Tết với con cháu.Chiều ngày 30 tháng Chạp, trên bàn thờ tổ tiên được bày 1 mâm cỗ bao gồm trái cây và thức ăn. Người gia trưởng thắp hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau đó mọi người trong gia tộc đều chắp tay cung kính thỉnh vong linh ông bà về ăn Tết.
Chợ tết
Chợ ngày tết có không khí khác hẳn những phiên chợ ngày thường trong năm. Ảnh minh họa. |
Chợ ngày tết có không khí khác hẳn những phiên chợ ngày thường trong năm. Theo thói quen, người đi chợ sắm tết thường mua rất nhiều đồ. Tuy nhiên, những đồ này không phải là để dự trữ trong những ngày tết mà là theo thói quen, người Việt Nam thường quan niệm, cả năm mới có một ngày tết nên mua sắm cũng nhiều hơn ngày thường. Đặc biệt, những món ngon độc lạ mà ngày thường không có thì được bày bán trong những phiên chợ tết. Người người đi chợ sắm tết tạo nên không khí ngày tết ấm cúng, sôi nổi.
Tục xông nhà
Theo phong tục, cứ đến đêm giao thừa mọi người thường ở trong nhà không đi đến nhà khác để đợi có người đến xông nhà, rồi mọi người mới được đi chúc tết nhà khác. Người ta tin rằng, người xông nhà đầu năm sẽ ảnh hưởng đến tương lai của chủ nhà trong cả năm mới. Tuổi tác người xông nhà cũng khá quan trọng, vì thế trước tết chủ nhà thường chọn người quen biết, hợp tuổi để đến xông nhà cho nhà mình.
Hái lộc đầu xuân
Trong đêm giao thừa, mọi người thường đi lễ chùa để cầu một năm mới tốt lành, sức khỏe tốt trong một năm mới. Sau đó người ta sẽ ngắt một cành lộc ở một cành cây nào đó. Nếu ngắt được cành lá tươi tốt thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên, ngày nay người ta ít làm tục này.
Phong tục chúc tết, mừng tuổi
Chúc tết hay mừng tuổi là những phong tục từ lâu đời để mong muốn những điều tốt lành nhất sẽ đến với mọi người trong gia đình. Theo lệ, thường thì vào mùng 1 con cái chúc tết ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con cháu bằng một phong lì xì có tiền đi kèm với lời chúc hay ăn, chóng lớn. Tiền lì xì thường là những tờ tiền còn mới, vì người ta quan niệm rằng, năm mới cái gì cũng phải mới mẻ thì một năm sẽ gặp được nhiều điều may mắn đến.
Mừng tuổi là những phong tục từ lâu đời để mong muốn những điều tốt lành nhất sẽ đến với mọi người trong gia đình. Ảnh minh họa. |
Trong những ngày đầu năm, thường thì từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 3, mọi người còn đến chúc tết anh chị em, bà con họ hàng, bạn bè để chúc những điều tốt đẹp nhất cho một năm mới đến. Khi chủ nhà được chúc tết thường tiếp đãi người đến chúc tết ăn uống để thể hiện thành ý và tình thân với nhau.
Phong tục xuất hành
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm mới. Người ta tin rằng hướng đi này sẽ có ảnh hưởng tới tương lai của mỗi người trong năm sắp tới. Cho nên, theo tuổi tác của mình, mỗi người xem sách lịch do những nhà bói toán viết ra để chọn hướng đi và giờ bắt đầu cho thích hợp. Ngày nay phong tục này không còn được nhiều người tin và làm theo.
Trong 3 ngày đầu năm người ta thường thận trọng lời ăn tiếng nói và hành động vì tin rằng có thể đem lại hên xui cho cả năm. Thí dụ như không quét rác, nhất là quét xác pháo ra khỏi nhà vì bị xem là quét tiền ra cửa. Không tặng thuốc men hay dao nhọn vì bị xem là dấu hiệu của bệnh hoạn và xung khắc. Không khóc lóc than thở hay đập vỡ chén dĩa vì đó là dấu hiệu của sự đổ vở trong gia đình. Không mặc đồ trắng hay đen vì bị xem là dấu hiệu của sự tang tóc.
HUYỀN NA (TỔNG HỢP)
Thông thường, công việc làm ăn của nhà hàng, quán bar được phản ánh ban đầu qua việc quan sát quầy thu ngân. Vì thế, quầy phải được đặt tại vị trí tụ tài, nơi tĩnh, không động, không bị xung.
Quầy thu ngân là nơi thu tiền về cho nhà hàng nên theo phong thủy, cần đặt ở bên cửa Bạch Hổ, là bên tĩnh.
Bên Bạch Hổ là bên phải khi theo hướng từ trong nhà hàng đi ra. Quầy ở bên tay phải thì sẽ nắm giữ được tiền. Không nên thiết kế quầy bên cửa Thanh Long, tức bên trái vì mang tính lưu động.
Thực ra, thiết kế như vậy cũng là dựa trên sự phù hợp với thói quen đi lại. Bởi, khi bước vào nhà hàng, khách thường có thói quen đi bên phải. Vì vậy, cửa Thanh Long phù hợp với lối đi vào của hầu hết mọi người. Tương tự, khi từ trong nhà hàng ra, theo thói quen, khách sẽ đi bên cửa Bạch Hổ.
Để đảm bảo các yếu tố về mặt phong thủy, khi thiết kế quầy thu ngân bạn cần chú ý:
– Phía sau quầy thu ngân phải có tường ngăn, không để có lối đi lại.
– Nếu nhà hàng, quán bar thiết kế tường bằng kính thì nên dùng rèm cửa hoặc tấm trang trí che khuất mặt kính.
– Độ cao của quầy nên ở tầm trung bình; nếu cao quá sẽ làm cho nhân viên thu ngân có cảm giác quá tầm với; nếu thấp quá sẽ tạo cảm giác không an toàn. Độ cao phù hợp từ 110 – 120cm hoặc 107cm, 108cm hoặc chọn độ cao 126cm.
– Bên trong quầy thu ngân không được để các thiết bị điện như: lò điện, bình đun cà phê…
– Két để tiền và vật có giá trị phải đặt nơi kín đáo để tránh bị lộ tài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Ảnh minh họa |
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương |
Voi rước Hai Bà Trưng |
Diễn lại hoạt cảnh |
1. Mùa xuân
ít thì cây khô héo, Thủy - Hỏa hài hoà là tốt nhất. Nếu Thổ nhiều thì Mộc sẽ hao tổn sức lực, nếu Thổ mỏng thì tiền tài dồi dào. Nếu gặp Kim nhiều thì gặp Hỏa vẫn không tổn thương, nếu Mộc mạnh thì có gặp Kim cũng vẫn phát triển.
(Ảnh minh họa) |
2. Mùa hạ
Mộc của tháng mùa hạ cành lá khô héo, cần nước làm cho ẩm ướt, kỵ lửa nóng, làm cháy cây. Hợp với Thổ mỏng; Thổ dày sẽ thành tai họa. Nếu Kim nhiều cũng là điều xấu, nhiều qúa sẽ bị khắc chế. Cây cối mọc nhiều sẽ tạo thành rừng, hoa ra tầng tầng lớp lớp nhưng không kết quả.
3. Mùa thu
Mộc của tháng mùa thu, hình dạng dần úa tàn. Đầu mùa thu, khí nóng của Hỏa vẫn còn, đất cần nước để cây tiếp tục sống. Giữa thu, quả đã chín, cần dao (Kim) để cắt tỉa. Sau tiết Sương giáng thì không cần nhiều nước, nước nhiều cây sẽ bị trôi. Trước tiết Hàn lộ lại cần được lửa sưởi ấm, lửa nóng sẽ giúp cây rắn chắc. Cây cối nhiều sẽ cho nhiều gỗ, nhưng đất dày thì không có khả năng tự lập.
4. Mùa đông
Mộc của tháng mùa đông thì vẫn còn co quắp, ẩn náu trong đất. Cần đất nhiều để nuôi dưỡng, sợ Thủy mạnh sẽ mất đi hình dạng. Kim dù nhiều, bị khắc chế nên không gây hại, gặp Hỏa nhiều sẽ được ấm áp. Khi quay về mệnh số, bệnh của cây làm sao có thể được phù trợ?
(Theo Ngũ hành và tứ thời ngũ phương)
Cuộc đời: Tuổi Canh Thân (mệnh Mộc, sinh năm 1980) có bản mệnh tốt, số tài lộc, được quý nhân giúp đỡ, cuộc sống gặp nhiều may mắn, con cháu được hưởng phúc đức. Tuổi trẻ vất vả, về già sung sướng, an nhàn.
Tính cách: Là người lương thiện, cứng rắn, coi trọng danh tiếng nên thường thiếu trách nhiệm với gia đình.
Tuổi Canh Thân thông minh, đa tài, không ngại khó nhưng lại thiếu ý chí, kiên nhẫn nên thường không đạt được thành công lớn trong công việc.
Tình duyên: Tuổi này tình duyên lận đận, thường gặp phải chuyện đổ vỡ, buồn lòng.
Tuổi Canh Thân không nên kết hôn với các tuổi: Giáp Tý, Kỷ Tỵ, Mậu Ngọ, Đinh Tỵ sẽ không phải chịu cảnh xa vắng triền miên.
Công danh sự nghiệp: Tuổi này sự nghiệp phát triển mạnh mẽ, từ 35 tuổi trở đi sẽ có triển vọng tốt đẹp, nếu đi xa sẽ có công danh.
Để công việc thành công, tốt đẹp, tuổi Canh Thân nên hợp tác với các tuổi: Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Mùi.
Tiền bạc: Tuổi này tiền bạc trung bình, trung vận làm ăn thuận lợi, từ 45 tuổi sẽ phát tài rồi lại thất bại.
(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)
► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác |
Tuổi Tỵ |
Tuổi Dần |
Tuổi Dậu |
Tuổi Thân |
Tuổi Sửu |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
► ## cung cấp công cụ xem thước lỗ ban xây dựng chuẩn xác |
1. Giúp tinh thần thoải mái, ức chế sự tức giận
Rèm cửa sổ, bên cạnh việc che nắng, bảo đảm sự riêng tư của ngôi nhà, còn có tác dụng giải phóng năng lượng hỏa. Đặc biệt là đối với người mệnh hỏa, rèm cửa càng cần thiết hơn. Tuy nhiên đối với những người mệnh khuyết hỏa, cần thêm năng lượng hỏa, cần tiếp xúc nhiều hơn với ánh sáng mặt trời thì không nên sử dụng rèm cửa dày.
2. Giải quyết tứ phương sát khí
Khi sử dụng rèm cửa cũng cần chú ý đến vật liệu, kiểu dáng, màu sắc. Theo quan điểm của phong thủy, chất liệu sợi nhân tạo là nguyên tố lửa trong ngũ hành. Theo nguyên lý Hỏa khắc Kim, rèm cửa làm từ sợi nhân tạo có thể ngăn chặn sát khí đến từ hướng Bắc và Tây Bắc.
Rèm Roman (rèm xếp nhiều lớp) đại diện cho Thổ trong ngũ hành, có thể ngăn sát khí Thủy từ phương Bắc tới. Rèm dạng sóng, đại diện cho Thủy, có thể ngăn sát khí Hỏa từ phương Nam tới. Loại rèm lá ngang màu trắng làm từ nhôm, đại diện Kim trong ngũ hành, nếu treo ở cửa sổ phía Đông và Đông Nam cũng có thể chống lại sát khí Mộc.
3. Tăng cường vận khí
Khi xây nhà, nhiều người thích trong nhà có cửa ban công thật lớn, sáng sủa và thoáng mát, để có thể nhìn được hết khung cảnh bên ngoài. Thật ra, điều này không phù hợp với phong thủy bởi may mắn của căn phòng có thể sẽ bị thoát ra ngoài nhiều.
Bình thường, trong phong thủy các kiểu ban công đều có tác dụng thụ khí. Bởi vậy cửa ban công nên treo rèm và rèm treo nên thường xuyên được kéo ra treo lên. Như vậy vừa có thể ngăn chặn khí không tốt từ bên ngoài vào, vừa giữ lại được cát khí trong phòng, có lợi nhất đối với gia chủ, với tài vận.
Kunie (theo lnka)
Nếu em bé sinh năm Rắn, trước hết các bậc cha mẹ cần tìm hiểu đặc tính của con Rắn thì mới có thể hiểu được những điều tốt xấu trong tên họ.
Rắn thích sống nơi hang hốc, đầu có mào nên có thể đội mũ, khoác áo quần màu sắc, có thể nắm giữ quyền lực. Rắn có thể ăn thịt và ăn no. Rắn thích rừng cây. Rắn kết hợp với Trâu, Gà thành tam hợp, phối hợp với Ngựa, Dê thành tam hội cũng rất tốt. Tên đặt cho bé sinh năm Rắn mà phù hợp với các điều kiện sau thì mới là tên đẹp:
1. Nên có các bộ hoặc chữ như Khẩu (口), Mịch (冖), Miên (宀), Hộ (戶), Quảng (广), Môn (門). Vì Rắn thích sống nơi hang động, là chốn nương thân, có thể nghỉ ngơi, ngủ đông, được coi là căn nhà ấm áp.
2. Nên có bộ thủ Mộc (木) vì Rắn thích bò lên cây, có ý lên cao, có khả năng biến thành Rồng khi gặp thời, như là được đề bạt, thăng cấp lại được người đời tôn sùng.
3. Nên có các bộ hoặc chữ như Sam (彡), Hệ (系), Y (衣), Thị (示), Thái (采), Cân (巾), Sơ (疋), Kỷ (几) là những vật tượng trưng để chuyển hóa thành Rồng, tăng thêm sự cao quý, có ý lên cao, được người người tôn sùng.
4. Nên có các chữ hoặc bộ chữ có hình dạng con Rắn như Xước (辶, 辵), Dẫn (廴), Cung (弓), Kỷ (几), Tị (巳), Trùng (虫), Ấp (邑) là vật đồng loại, có cảm giác được gia tộc bảo vệ, quý nhân trong đời rất nhiều.
5. Nên có các bộ chữ Tâm (忄, 心), Nhục (月, 肉) vì Rắn ăn thịt, mà Tâm là loại thịt thượng đẳng, hàm ý cuộc đời được nhiều no ấm.
6. Nên có các chữ mang hình chữ Long như Thìn (辰), Bối (貝), Dân (民), Lộc (鹿)… ám chỉ Rắn nhỏ biến thành Rồng lớn, có khí phách đảm đương việc lớn, dễ được cấp trên đề bạt.
7. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Dậu (酉), Vũ (羽), Kê (雞), Sửu (丑), Sinh (生), Ngưu (牛) vì địa chi Tị-Dậu-Sửu là tam hợp, mang hàm ý trong cuộc đời có nhiều quý nhân phù trợ.
8. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Mã (馬), Ngọ (午), Dương (羊), Mùi (未) vì địa chi Tị Ngọ Mùi là tam hội, có sức mạnh tương trợ.
Ngoài ra, cũng cần tìm hiểu Rắn không thích gì thì mới hiểu được tên họ tốt xấu ra sao. Người cầm tinh con Rắn không nên đặt các tên có chữ Nhân (亻,人) vì người gặp rắn hay sợ hãi, bất an. Rắn cũng không ăn ngũ cốc, hoa màu. Rắn đi với Hổ thì thành tương hại, đi với Lợn thành lục xung. Rắn gặp mặt trời thì sợ nóng quá. Nếu tên có chữ biểu thị vũ khí cũng không nên, vì sẽ gây sát thương. Nếu tên đặt mà phạm phải các yếu tố trên thì sẽ coi là phá cách, không có lợi cho số mệnh.
1. Cần tránh có bộ chữ Thảo (艸) vì tục ngữ có câu “đánh rắn động cỏ”. Rắn có thể chui rúc trong bụi cỏ, tuy có không gian để hoạt động nhưng dễ bị người ta phát hiện, dễ phải chịu mưa dập gió vùi, vô cùng vất vả.
2. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Thủy (水), Tí (子) vì địa chi Rắn thuộc hành Hỏa, nếu gặp các chữ có hành Thủy thì sẽ phạm vào thủy hỏa tương khắc, cuộc đời hay bị giày vò.
3. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Hợi (亥), Thỉ (豕) vì địa chi Rắn và Lợn đối xung, cuộc đời hay gặp những kẻ không ưa. Trong thực tế thì lợn vớ phải rắn thì nhai rau ráu.
4. Cần tránh dùng các chữ hoặc bộ thủ như Hổ (虎), Cấn (艮), Dần (寅), Thân (申), Viên (袁) vì Dần-Tị-Thân là tương hình hại, trong cuộc đời gặp toàn những kẻ không ưa.
5. Cần tránh bộ thủ Nhật (日) vì Rắn là động vật máu lạnh, sợ mặt trời quá nóng. Phần lớn Rắn đều thích sống trong hang động, bóng râm, rất ít khi lộ mình dưới ánh nắng mặt trời. Cho nên nếu rắn gặp mặt trời cũng tựa như là gặp ai cũng bị người ta ghét.
6. Cần tránh bộ chữ Nhân (亻,人), vì Rắn không thích chạm trán với người, người cũng là kẻ thù số một của Rắn. Loài người còn coi Rắn là biểu tượng của tà ác, nhìn thấy là đánh đuổi, cũng hàm ý rằng có rất nhiều tiểu nhân.
7. Cần tránh các chữ biểu thị ngũ cốc, hoa màu, đồ chay như Đậu (豆), Mễ (米), Hòa (禾) vì rắn là động vật ăn thịt, thích các món thịt như ếch, nhái…Đặc biệt là kỵ chữ Đậu (豆), nếu phạm phải thì ám chỉ người đó có nội tâm không chịu thua, tính khí ngang tàng, lại có cảm giác mất mát vì tuy là có đồ ăn nhưng lại không phải là thứ mình thích ăn hoặc không ăn được.
8. Cần tránh các bộ chữ hoặc chữ như Nghệ (乂), Nhập (入), Nhi (ㄦ), Bát (八) vì các nét này tựa như vẽ rắn thêm chân, làm ra những động tác thừa, tạo cảm giác làm việc rề rề, làm nhiều công ít.
Cần lưu ý thêm là, các chữ và bộ chữ nói trên chỉ có ý nghĩa tham khảo nhất định. Để chọn được tên hay tên đẹp còn cần phải xem xét nhiều yếu tố khác nữa như âm dương, ngũ hành, âm vận…chứ không đơn giản chỉ vận dụng yếu tố con giáp vào đặt tên, đổi tên.
– Nằm mơ thấy tấu nhạc thì khóc than.
– Nằm mơ thấy đánh trống: có tin xa đến.
– Nằm mơ thấy múa: có chuyên kinh sợ.
– Nằm mơ thấy ca hát: có chuyện cãi cọ
– Nằm mơ thấy có người đánh đàn cầm đàn sắt: rất vui.
– Nằm mơ thấy thổi sáo: đại cát.
Theo quan điểm trong thuyết Ngũ hành, tùy thuộc vào mệnh, tuổi của gia chủ sẽ có những hướng mở cổng phù hợp, đồng thời tránh được những hướng không phù hợp.
Nếu trước nhà có bãi đất rộng gọi là minh đường thì nên mở cổng ở giữa.
“Cửa, phòng chính, bếp” và lục sự “cửa, lối đi, bếp, giếng, hố, nhà vệ sinh” trong “Dương trạch tam yếu” đều coi cổng là yếu tố đầu tiên, cổng là lối vào của sinh khí, là bộ mặt của ngôi nhà, đồng thời cũng là tấm bình phong phân chia không gian trong và ngoài.
Người xưa có câu: “Đóng cổng là núi sâu”. Cổng là nơi để nội khí và ngoại khí lưu động. Vì nội khí và ngoại khí không thể lưu động qua bức tường nhà kiên cố, mà lưu động qua cổng lại dễ hơn rất nhiều, cổng bên ngoài ảnh hưởng đến ngoại khí, còn cổng bên trong thì ảnh hưởng đến nội khí.
Hướng cổng kỵ theo Ngũ hành. Người mệnh Hỏa không nên mở cổng hướng Bắc. Theo phong thủy, hướng Bắc thuộc hành Thủy, Thủy khắc Hỏa, gây nhiều bất lợi cho người trong nhà.
Người mệnh Kim không nên mở cổng hướng Nam. Vì phong thủy quan niệm hướng Nam thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim, gây nhiều bất lợi cho người trong nhà.
Người mệnh Thủy không nên mở cổng hướng Đông Bắc, Tây Nam vì hai hướng này thuộc Thổ. Thổ khắc Thủy cũng rất xấu nếu mở 2 hướng này.
Người mệnh Mộc không nên mở cổng về phía Tây Bắc, Tây. Hai hướng này thuộc Kim, Kim khắc Mộc cũng rất xấu nếu mở 2 hướng này.
Người mệnh Thổ không nên mở cổng hướng Đông Nam, Đông. Hai hướng này thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ cũng không nên.
Theo quan niệm của bát quái, cổng nên mở để đón dòng nước đến bởi nước được coi như tài vận đến.
Vì thế, bạn hãy xem xét hình dáng đường xung quanh nhà. Nếu đường bên trái nhà dài hơn đường bên phải thìphong thuy mở cổng bên phải, “Bạch Hổ nghênh thủy” sẽ gặp nhiều tài lộc.
Nếu đường bên phải nhà dài hơn đường bên trái thì bên phải là hướng thủy đến, bên trái là hướng thủy đi, nên mở cổng bên trái, “Thanh long nghênh thủy” sẽ giúp ngôi nhà có nhiều vận khí tốt.
Nếu trước nhà có bãi đất rộng gọi là minh đường thì bạn nên mở cổng ở giữa. Nếu phía trước không có minh đường thì mở cổng bên trái, vì bên trái là vị trí của Thanh long, Thanh long là cát. Còn bên phải là Bạch hổ, Bạch hổ thường ở vị trí hung, do đó cho rằng mở cổng bên phải là không tốt.
Mở cổng Bắc là cổng Huyền vũ lại càng không tốt, ở nước ngoài gọi đó là cửa quỷ, nghĩa là “thua trận”, do vậy khi mở cửa Bắc phải hết sức cẩn thận, tuy nhiên cũng tuỳ theo tình hình thực tế mà luận bàn.
Có nhiều người quan niệm chỉ cần chọn hướng nhà còn hướng cửa thì không quan trọng. Đây là quan niệm không đúng. Bởi vì trong phong thủy mỗi chi tiết của ngôi nhà đều mang một yếu tố riêng của nó.
Cách bố trí cổng của ngôi nhà cũng rất quan trọng vì nó giúp che chắn bảo vệ ngôi nhà với các trường khí xấu bên ngoài. Hướng cổng cũng cần bố trí đúng hướng của gia chủ. Việc bố trí cổng tránh ngã ba đường, tránh dẫn lỗi trục xung với cửa chính.
Việc chọn hình dáng, màu sắc và vật liệu làm cổng cũng cần xem xét sao cho hợp với ngũ hành, cung mệnh của gia chủ.
Sau đây xin nói qua về Đông tứ trạch và Tây tứ trạch để mọi người tham khảo:
1. Chấn trạch toạ phía Đông, cổng phía Tây.
2. Tốn trạch toạ phía Đông Nam, cổng phía Tây Bắc.
3. Ly trạch toạ phía Nam, cổng phía Bắc.
4. Khôn trạch toạ phía Tây Nam, cổng phía Đông Bắc.
5. Đoài trạch toạ phía Tây, cổng phía Đông.
6. Càn trạch toạ phía Tây Bắc, cổng phía Đông Nam.
7. Khảm trạch toạ phía Bắc, cổng phía Nam.
8. Cấn trạch toạ phía Đông Bắc, cổng phía Tây Nam. Trong đó, Chấn, Ly, Tốn, Khảm là Đông tứ trạch. Càn, Đoài, cấn, Khôn là Tây tứ trạch.
phong thuy, xem phong thuy, phong thuy van menh
Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy
1. – Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Rồi Thích tử Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ?
– Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahànàma, là người nam cư sĩ thuần thành
– Này Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ thuần thành
– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành tựu lòng tin cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu lòng tin; thành tựu giữ giới cho mình, không có khích lệ người khác thành tựu giữ giới, thành tựu bố thí cho mình, không khích lệ người khác thành tựu bố thí;
Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành vì tự lợi, không phải vì lợi tha.
– Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thuần thành vì tự lợi và lợi tha.
(Kinh Tăng Chi Bộ III, chương 8, phẩm Gia chủ)
Thông thường, người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, thọ trì năm giới cấm được chư Tăng khuyến khích tu học, tụng niệm, làm việc thiện và tham gia các Phật sự nói chung. Những pháp tu ấy được xem như phận sự căn bản của người Phật tử. Tuy vậy, đi sâu vào chi tiết, cụ thể về phận sự của người cư sĩ, Đức Thế Tôn đã khái quát thành bốn pháp tu: 1-Quy y Tam bảo, 2-Thọ trì năm giới, 3-Tự lợi, 4-Lợi tha.
Khi một người đối trước Tam bảo, tự mình ba lần nói lời phát nguyện trọn đời quy y Phật – quy y Pháp – quy y Tăng, sẽ chính thức trở thành Phật tử. Điều cần lưu ý ở đây là tự mình phát nguyện quy y trực tiếp với Tam bảo (không vắng mặt), không bị ai ép buộc, phải đủ nhận thức để tự giác phát nguyện (không quá nhỏ dại) thì pháp quy y mới thành tựu.
Sau khi quy y, dù không bắt buộc thọ hết cùng lúc cả năm giới cấm, nhưng Thế Tôn luôn khuyến khích các cư sĩ phát tâm thọ trì đầy đủ. Bởi năm giới là chuẩn mực đạo đức căn bản mà người cư sĩ phải thành tựu, trước để xây dựng hạnh phúc và an lạc trong đời sống thế tục hiện tại, sau làm nền tảng để thăng hoa tâm linh và thành tựu các quả vị.
Để tiến xa hơn, người cư sĩ phát tâm tu tập về lòng tin, giữ giới, bố thí, yết kiến các Tỷ-kheo, nghe pháp, thọ trì những pháp đã nghe, suy nghĩ đến nghĩa lý các pháp đã thọ trì, và quan trọng nhất là thực hành các pháp đã nghe hiểu ấy trong đời sống hàng ngày. Đây gọi là tự lợi.
Tuy vậy, tự lợi và lợi tha phải song hành mới viên mãn hạnh nguyện của người cư sĩ. Do đó, vừa tu tập vừa khích lệ những người khác tu tập như mình (hoằng pháp) là pháp tu quan trọng mà hàng cư sĩ luôn phấn đấu để thành tựu.
Trong bối cảnh các thế lực ngoại đạo đang nỗ lực cải đạo, các tà sư tà giáo (điển hình như Thanh Hải, Duy Tuệ…) núp bóng Phật giáo để phá hoại Chánh pháp ngày càng gia tăng, thiết nghĩ người cư sĩ thuần thành Phật tử chân chính cần phát huy tu tập theo lời Thế Tôn đã dạy để tự hoàn thiện mình và góp phần xiển dương Chánh pháp.
Ngũ hành không những có quan hệ tương sinh hay tương khắc đơn thuần mà ngay trong mỗi mối quan hệ đó cũng có những trường hợp cụ thể, có sự khống chế lẫn nhau. Ví dụ đối với quan hệ tương sinh, nếu một trong hai hành quá mạnh hay quá yếu đều bất lợi. Đó chính là lý do mà thuật phong thủy luôn coi trọng sự hài hòa, cân bằng ngũ hành. Dưới đây là điều nên và kỵ của ngũ hành sinh khắc, chế hóa.
Biểu đồ ngũ hành tương sinh và tương khắc |
1. Hành Kim
- Kim gặp Hỏa mạnh sẽ trở thành vũ khí có ích.
- Kim có thể sinh Thủy, nhưng Thủy vượng thì Kim chìm (Kim tuy cứng nhưng cũng có thể bị Thủy làm cùn đi).
- Kim có thể khắc Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị mẻ; Mộc yếu gặp Kim vượng thì sẽ bị Kim chặt đứt.
- Kim nhờ Thổ mà sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp; Thổ có thể sinh Kim nhưng Kim nhiều thì Thổ biến thành ít.
2. Hành Hỏa
- Hỏa vượng gặp Thủy thì trở thành ứng cứu cho nhau, tạo sự cân bằng.
- Hỏa có thể sinh Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Hỏa dập tắt.
- Hỏa có thể khắc Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa tắt; Kim yếu gặp Hỏa tất sẽ nóng chảy.
- Hỏa nhờ Mộc sinh, Mộc nhiều thì Hỏa mạnh, tuy Mộc có thể sinh Hỏa nhưng Hỏa nhiều thì Mộc bị đốt cháy.
3. Hành Thủy
- Thủy mạnh gặp Thổ sẽ thành ao hồ.
- Thủy có thể sinh Mộc nhưng Mộc nhiều thì Thủy co lại; Thủy mạnh khi gặp Mộc thì Thủy yếu đi.
- Thủy có thể khắc Hỏa nhưng Hỏa nhiều thì Thủy yếu đi; Hỏa yếu gặp Thủy tất bị dập tắt.
- Thủy nhờ Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy đục; Kim có thể sinh Thủy nhưng khi Thủy nhiều thì Kim lại bị chìm xuống.
4. Hành Thổ
- Thổ mạnh gặp Mộc thì việc tốt đẹp.
- Thổ có thể sinh Kim nhưng Kim nhiều thì Thổ trở thành ít; Thổ mạnh gặp Kim thì sẽ bị chống chế.
- Thổ có thể khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi; Thủy yếu mà gặp Thổ tất sẽ bị chặn lại.
- Thổ nhờ Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ bị đốt cháy; Hỏa có thể sinh Thổ nhưng nếu Thổ nhiều thì Hỏa bị tàn lụi.
5. Hành Mộc
- Mộc mạnh gặp Kim sẽ trở nên tốt đẹp.
- Mộc sinh Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Mộc bị đốt cháy; Mộc mạnh gặp Hỏa thì Mộc trở thành yếu.
- Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị lấn át; Thổ yếu gặp Mộc thì sẽ trở thành khô cằn, nứt nẻ.
- Mộc nhờ Thủy sinh nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt; Thủy có thể sinh Mộc nhưng Mộc nhiều thì Thủy bị co lại.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
hân trong tương lai. Chính vì lẽ đó mà nghề bói toán vẫn tiếp tục phát triển song hành cùng lịch sử nhân loại. Cùng ## tìm hiểu kiến thức tử vi và điểm lại những phương pháp bói thông dụng ở phương Tây và mặt tối của thuật “mê tín dị đoan” này.
1. Bói qua tiếng cười
Nhiều thầy bói trên thế giới tuyên bố rằng, họ chỉ cần nghe được tiếng cười cũng đoán được vận hạn của một người. Bởi họ cho rằng, tiếng cười phản ánh rõ nét tâm tính, nhân cách con người trong cuộc sống hàng ngày.
Theo ## thì có bao nhiêu cách cười thì có bấy nhiêu cá tính. Nụ cười thường điểm cho vẻ mặt thêm rạng rỡ, đẹp xinh, diễn tả nỗi vui mừng trước một sự việc.
Tuy nhiên, tùy vào từng cá tính mỗi người mà người đó nở nụ cười. Có người luôn giữ nụ cười tươi tắn hồn nhiên, nhưng có người dù vui đến mấy cũng chỉ nhếch mép cười gượng, hay cười ngượng ngùng e ấp.
Dựa vào đó mà các thầy bói sẽ “phán” bí ẩn con người thực sự bên trong chủ nhân của nụ cười đó. Đó sẽ là một người niềm nở, tươi vui hay luôn lạnh lùng xa cách, báo hiệu cho mọi người về cuộc sống nội tâm, buồn u uất.
2. Bói qua các con số
Cách này được các nhà bói toán ở Phương Đông gọi là thuật dự đoán “Thần số học”. Họ mô tả rằng, đây là hệ thống học thuật hoàn chỉnh lấy 12 chữ số nguyên thủy nhất làm công cụ tính toán vận số để tiến hành dự đoán.
Những thầy bói này lý giải chữ số mà chúng ta vận dụng tuân thủ nghiêm khắc sự tương khắc của Âm Dương Ngũ Hành, bao quát vạn vật trong thế giới tự nhiên, đại diện cho cát – hung, họa – phúc của con người. Bản thân chữ số đều có năng lượng, mang thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành nhất định.
Các con số đứng riêng rẽ hình thành nên những ý nghĩa khác nhau, bao hàm sự tốt, xấu, may mắn hay tai họa. Khi kết hợp với nhau nó cũng hình thành một ý nghĩa khác, bao hàm sự tốt xấu.
Nhưng lúc này, ý nghĩa của từng con số không còn cứng nhắc mà mang sắc thái bổ trợ lẫn nhau, hình thành nên tính chất tốt xấu cho cả dãy số. Chỉ cần bốc một con số, người thầy bói sẽ cho bạn biết điềm phúc, họa trên các lĩnh vực tiền bạc, tình cảm, sự nghiệp…
Ngoài ra, các nhà bói toán phương Tây cũng nghĩ ra một phương pháp khá thú vị được gọi là Numerology, dựa theo nhân sinh quan của một tam giác 3 cạnh, 9 con số.
Mỗi chữ cái trong một tên lại hàm nghĩa một con số. Và khi cộng tất cả lại nhiều lần ta sẽ có một con số chính xác cho bản thân đại diện cho tính cách trong quá khứ và tương lai.
3. Bói qua giấc mơ
Bói qua giấc mơ là phương pháp phổ biến nhất trên hành tinh mà tới nay, ở nhiều nước phương Tây có hẳn một loạt các công ty mở ra để giúp lý giải ý nghĩa của các giấc mơ.
Những người tin rằng, các giấc mơ ẩn chứa nhiều hình ảnh trượng trưng và là cửa sổ đi đến trạng thái tiềm thức của chúng ta. Những cảm xúc xuất hiện trong giấc mơ có thể phản ánh đặc điểm cá nhân của người mơ cũng như chỉ ra tình huống họ gặp phải trong cuộc sống.
Thông qua giấc mơ, con người có thể cảm thấy bất an, hoang tưởng, yêu, đố kỵ, hốt hoảng… biểu hiện cho trạng thái thần kinh hiện tại của người đó.
Nếu giấc mơ lặp lại nhiều về việc bạn đứng trên ban công, nó có nghĩa rằng, bạn sẽ có được những khoản thu tài chính lớn trong tương lai, hay mơ bị đuổi đánh có nghĩa là cuộc sống đang gặp nhiều rắc rối, bế tắc.
4. Giải mã sự thật đằng sau những quân bài, con số…
Một người thầy bói thực ra còn có nhiều kỹ năng khác để dự đoán tương lai hay quá khứ của một người. Qua cách đi lại, ăn nói của khách hàng, họ ít nhiều đoán được tính cách của người đó. Chính tính cách của một người sẽ cho thấy quá khứ và quyết định tương lai họ như thế nào chứ không phải chỉ dựa vào xem tay, bói quân bài, con số…
Nhiều thầy bói rất thích dự đoán việc xấu xảy ra trong tương lai cho khách hàng của mình. Lý do là bởi bộ não con người thường ghi nhớ rất lâu những điều không hay, chi tiết rùng rợn, đáng sợ, ma mị.
Khi nhận những thông tin không tốt như vậy, khách hàng rất dễ bị ám ảnh. Họ suy nghĩ về nó nhiều hơn và thường có khả năng gặp thất bại theo đúng cách như vậy.
Đó được gọi là hiện tượng tự kỷ ám thị. Nếu một người liên tục tự lừa dối mình bằng quan điểm sai lầm thì đến lúc nào đó, họ sẽ chấp nhận nó như là sự thật hiển nhiên.
Lúc này, họ sẽ trở thành đúng như những gì họ nghĩ bởi đã để suy nghĩ đó chi phối hoàn toàn tâm trí. Những thông tin sai lệch ấy sẽ kích thích ở các vùng não, phát triển một ổ ức chế bền vững.
Chúng gồm những tế bào thần kinh đang hoạt động nhưng bị gián đoạn một thời gian khá lâu. Các tế bào đó giờ thôi không nhận các tín hiệu tới và trả lời chúng nữa, dần tạo ra các suy nghĩ tiêu cực hơn.
## thấy rằng một số người không có lý trí vững vàng và thiếu niềm tin ở cuộc sống sẽ cần bám víu vào một “ánh sáng hy vọng” từ “thế lực tâm linh”. Yếu đuối về lý trí, tâm lý hoang mang sẽ đưa đẩy họ tới gặp thầy bói. Và điều dễ hiểu, hiện tượng tự kỷ ám thị xảy ra dễ dàng hơn với nhóm người này.
Do vậy, khi tự nhận thấy bản thân mình không đủ tỉnh táo và chưa mạnh lý trí, bạn không nên đi xem bói. Nếu tìm hiểu về bản chất của một số kiểu bói toán, bạn sẽ thấy rằng: bói toán không phải là để biết được trước tương lai, mà bói toán chính là để mỗi người hiểu rõ về bản thân, tính cách của mình, từ đó sẽ tự lựa chọn và quyết định được tương lai.
Thêm vào đó, nếu để ý, mỗi thầy bói lại có dự đoán tương lai khác nhau dù cho cùng 1 khách hàng, những thông tin không trùng khớp đủ để ta đặt ra câu hỏi: “Đây thực sự là một môn khoa học hay chỉ là những suy nghĩ do những người bói toán bịa ra”.
Nhiều người quá tin vào bói toán không nhận ra rằng, nếu thầy bói nói đúng, họ đã trả lời được một câu hỏi vô cùng khó của triết học “nếu biết trước được vận mệnh và thay đổi tương lai thì đó đâu phải là vận mệnh của bạn”.
Vận mệnh nằm trong mỗi bản thân và do chính tích cách, công việc của mỗi người tạo ra. Còn nếu thật sự bạn muốn biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai thì hãy tin rằng, không có gì là tuyệt đối.
Tướng đàn ông không tốt bạn nên tránh lấy làm chồng
Cằm của con trai mà vuông vắn nhẵn nhụi là chuyện tốt. Nhưng nếu có cằm như thế và yếu hầu nhô ra, môi hồng răng trắng, thì xác suất anh ta ngoại tình sẽ cao.
Da dẻ trắng bệch
Những gã đàn ông da dẻ trắng bệch là những người có tính cách mềm yếu, thiếu quyết đoán. Vì là những kẻ nói giỏi hơn làm nên họ sẽ dễ dàng bị nhiễm các thói hư tật xấu bên ngoài, nếu lao vào các tệ nạn xã hội mà khó dứt ra. Những người đàn ông như vậy chỉ có thể đem lại cho bạn cảm giác bị phản bội, sự thất vọng lẫn cả sự tổn thương. Bạn đừng dễ dàng tin vào những lời đường mật của họ nhé!
Mắt to không có thần sắc
Trong 5 ngũ quan của con người, mắt là quan trọng nhất. Nếu một chàng trai có đôi mắt chuyển động không ngừng; trong khi nói chuyện không nhìn thẳng vào bạn mà ánh mắt đung đưa, láo liên khắp nơi, thì thường sẽ là người lăng nhăng.
Nếu anh ta có một đôi mắt to nhưng lại không có thần sắc, hoặc là mắt một bên to một bên nhỏ, những người có tướng mạo như vậy thường sẽ không có trách nhiệm, tính cách mềm yếu, không quyết đoán.
Hơn nữa, những chàng trai như vậy thường được rất nhiều các cô gái thích, bạn sẽ không bao giờ xua đuổi được những cô tình địch chủ động biểu đạt tình cảm với anh ấy. Những cô gái thích những chàng trai dịu dàng đa tình thế này cần quan sát cẩn thận và suy nghĩ kỹ càng.
Lông mày
Những chàng trai có lông mày lộn xộn, không có đường nét rõ ràng, thường là người có đầu óc đơn giản, không thích nghĩ quá phức tạp. Từ góc độ tướng mạo mà nói, những người có lông mày rải rác, lộn xộn thường có những hành vi phóng đãng.
Mũi nhỏ
Trong nhân tướng học, chiếc mũi được xem như là nơi chứa đựng tiền tài, phú quý. Nếu anh chàng mà có mũi nhỏ cho thấy đường tài lộc, công danh của họ cũng hạn hẹp. Mũi không nên gãy, bởi đó là điển hình của người đàn ông sẽ sống dựa vào vợ. Nếu bạn không giàu có thì tốt nhất nên tránh xa những chàng trai như thế này. Mũi không được có vết sẹo, vết thương. Nếu nơi cất giữ tiền tài có vết nứt thì tất nhiên tiền tài cũng sẽ bị rò rỉ.
Môi
Môi lệch thì lòng cũng sẽ không ngay thẳng. Lời dỗ dành của những chàng trai có môi bị lệch cũng không thể tin tưởng được. Môi dưới dày, có nốt ruồi là người vô cùng coi trọng chuyện dục vọng, xác thịt, hay nói dối và dễ bắt cá 2 tay.
Răng
Răng ít thường là người nhát gan, bụng dạ hẹp hòi, hay so đo tính toán, hay đề phòng và để tâm chuyện vụn vặt. Nếu mở miệng mà thấy để hở lợi, hở đường tơ lợi thì thu nhập của họ không được ổn định. Khi nam nữ chung sống với nhau, nếu không cãi nhau thì vẫn tốt đẹp, nhưng một khi trở mặt thì sẽ xảy ra tranh chấp, không kiêng nể lời lẽ, dễ làm tổn thương người mình yêu.
Cằm
Cằm của con trai mà vuông vắn nhẵn nhụi là chuyện tốt. Nhưng nếu có cằm như thế và yếu hầu nhô ra, môi hồng răng trắng, thì xác suất anh ta ngoại tình sẽ cao.
Còn con trai mà có cằm nhọn, ít thịt, thường là người không có chí lớn, làm việc gì cũng chần chừ, do dự, sự nghiệp không được phát triển lắm.
► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Nốt ruồi tài lộc là gì? Ở những vị trí nào trên cơ thể của bạn có nốt ruồi tài lộc. Cùng Phong thủy số tìm hiểu về các nốt ruồi này nhé.
Nhiều người thắc mắc muốn biết nốt ruồi tài lộc có đặc điểm gì? Tại sao lại gọi là nốt ruồi tài lộc. Nốt ruồi tài lộc là những nốt ruồi mang ý nghĩa rằng chủ nhân này sẽ sống rất thọ, càng sống lâu lại càng hưởng được nhiều phúc lộc từ con cháu. Những người như vậy thường hay làm việc thiện giúp đời, có kiến thức cao, cuộc đời an nhàn tự tại. Những người này đều có lộc về đường con cái, con cái luôn hiếu thảo, hòa thuận. Nốt ruồi tài lộc, phân tích theo ngữ nghĩa của nó là nốt ruồi vừa có tài ( tài trong tiền tài, tài năng, tài chính) và vừa có lộc về đường phúc đức, lộc về con cháu,...
Nốt ruồi mọc ở vị trí xương bả vai. Đây được gọi là nốt ruồi “ Điền trạch đa tiến”. Những người có nốt ruồi này thường được thừa hưởng nhiều tài sản từ tổ tiên. Và họ cũng biết duy trì và phát triển khối tài sản nó.
Đó chính là ba nốt ruồi nốt tiếp nhau ở vị trí cổ và bả vai. Chủ nhân của người có tướng nốt ruồi này thường là người thông minh, dũng cảm, hành hiệp trượng nghĩa, luôn được mọi người yêu mến, tôn trọng.
Ý chỉ những người có nốt ruồi này thường sống thọ, có tuổi thọ cao hơn người, xưa nay hiếm thấy. Nốt ruồi trường thọ nằm ở vị trí dưới rốn. Những người này lúc trẻ có kiến thức uyên thâm, cuộc sống an nhàn tự tại, càng về sau càng có nhiều phúc đức.
Nốt ruồi này ở vị trí ở phần cuối cùng của xương sống, hay còn gọi là phần xương cụt. Những người như vậy thường là người đa tài, học hành tốt, văn võ song toàn, có con mắt nhạy bén. Họ là những người đa tài, đa trí luôn gặt hái được thành công trong cuộc sống và sự nghiệp, luôn cầu được ước thấy.
Nốt ruồi phúc đức nằm ở vị trí chính giữa cột sống. Những người có nốt ruồi ở vị trí này thường có cuộc sống sung túc, giàu có từ nhỏ, gia đình có tiềm lực tài chính lớn mạnh.
Trên đây là định nghĩa về nốt ruồi tài lộc cũng như những vị trí nốt ruồi tài lộc trên cơ thể của phụ nữ và đàn ông. Để xem thêm những bài viết hữu ích khác bạn có thể xem thêm:
+ Nốt ruồi sát phu là gì, nằm ở đâu trên cơ thể?
+ Ý nghĩa của nốt ruồi dưới cằm
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh của bạn
: Nốt ruồi bên hông trái, phải
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
=> Xem ngày tốt mua nhà chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |